THỨ 6 TUẦN V PHỤC SINH
Thánh Philipphê và Thánh Giacôbê, Tông đồ
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. (Ga, 14,6-14)
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người”.
Philipphê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”.
Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha?’ Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho”.
SUY NIỆM 1:
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội kính nhớ hai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ trong khung cảnh của mùa Phục sinh. Chúng ta cùng khám phá lại xem các ngài đã tin, đã gắn bó và rao giảng về Chúa Kitô phục sinh như thế nào để mà học đòi bắt chước.
Cũng như nhiều tông đồ khác, khi thấy Thầy mình bắt đầu bước vào con đường thập giá, cũng là lúc hai vị tông đồ quyết định chọn phương án “Đào vi là thượng sách”, chẳng còn thấy bóng dáng đâu.
Thế nhưng, tác giả sách Công vụ tông đồ cho biết, kể từ sau khi gặp được Đấng phục sinh, thì Thánh Philipphê đã biến đổi hoàn toàn. Nếu trước kia ngài nhát đảm thế nào thì bây giờ ngài lại can đảm đến bất ngờ.
Nếu trước đây Thánh nhân đã ngờ vực và đòi Chúa Giêsu tỏ cho mình thấy Chúa Cha, thì giờ đây ngài đã nhiệt thành rao giảng về Đức Kitô phục sinh chính là Con Thiên Chúa tại khắp miền Samari và các vùng lân cận (x.Cv 8, 5-8).
Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm”. Thánh Philipphê đã làm được nhiều phép lạ và chữa lành cho nhiều bệnh nhân, bởi ngài đã một lòng tin tưởng vào Chúa Kitô.
Thánh Giacôbê cũng thế, kể từ lần được Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với mình, chắc chắn ngài đã nhận ra mình đã sai lầm khi bỏ Thầy để chạy thoát thân. Thánh nhân muốn bù đắp cho sự nông cạn đó, để rồi từ đây, ngài cảm thấy mình cần phải nhiệt thành hơn để loan báo tin mừng Chúa sống lại.
Thánh Giacôbê được chọn làm giám mục đầu tiên tại Giêrusalem, và ngài đã có công rất lớn trong việc bảo vệ giáo lý của Chúa Giêsu.
Điều đáng nói hơn hết là, cả hai thánh Philipphê và Giacôbê đều sẵn sàng chết cho Chúa Giêsu, vì các ngài tin rằng mai sau sẽ được sống lại như Người.
Điểm lại đôi nét trong cuộc đời của hai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ sau khi gặp được Chúa phục sinh, ít là chúng ta rút ra được hai bài học cho chính mình
Bài học thứ nhất, hãy thay đổi bản thân mình ngày một nên giống Chúa hơn. Mỗi người hãy xin Chúa Giêsu phục sinh biến đổi con người cũ của mình, từ suy nghĩ, từ lời ăn tiếng nói, đến cả cách sống… để chứng minh cho Chúa thấy và cho người khác thấy: tôi đang thật sự tin tưởng vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, và tôi muốn được nên giống Ngài.
Bài học thứ hai, hãy giúp cho người khác biết Chúa Giêsu chính là đường là sự thật và là sự sống. Nếu quanh ta có ai đó đang lầm đường lạc lối thì hãy giúp họ nhận ra Chúa Giêsu chính là con đường dẫn đến nguồn chân thiện mỹ. Nếu có ai đó quanh ta đang trở thành nô lệ của sự giả dối thì hãy giúp họ gặp được Chúa Giêsu là Đấng chân thật để họ được giải phóng. Và nếu có ai đó quanh ta đang sợ hãi khi đối diện với cái chết thì hãy giúp họ tin rằng Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống.
Ước gì gương đức tin của hai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ, và phần thưởng Nước Trời mà các ngài nhận được sẽ là nguồn cảm hứng và động lực giúp mỗi người gắn bó đời mình với Chúa Giêsu phục sinh mật thiết hơn. Đặc biệt, sẵn sàng để Chúa biến đổi bản thân, và nhiệt thành làm chứng cho Ngài. Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM 2: ƠN GỌI CỦA CÁC NGÀI
Chúa kêu gọi ai, tuyển chọn, cất nhắc người nào là do tình thương nhưng không của Ngài.Trường hợp của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và tất cả hai Ngài, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Philípphê ở Betsaiđê cùng quê với thánh Phêrô và Anrê, một làng quê trên bờ biển Tibêriát. Thánh Philípphê đã theo thánh Gioan tiền hô và sau này trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Philípphê đã bảo cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và dẫn Nathan đến gặp Chúa Giêsu. Tin Mừng đã thuật lại những sự liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và thánh Philípphê. Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều, Ngài đã thử hỏi xem Philíphê có tìm đâu ra thức ăn cho số đông người ăn hay không ? Chính Philíphê trong bữa tiệc ly đã xin Chúa cho thấy Cha của Ngài:” Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Và như thế là chúng con mãn nguyện rồi”. Chúa Giêsu trả lời:” Anh Philípphê. Ai xem thấy Thầy là thấy Cha của Thầy”( Ga 14, 6-9 ).Thánh Philípphê cũng được số đông lương dân xúm lại hỏi han Ngài, xin Ngài cho họ xem Đấng Cứu Thế. Sau khi Chúa về trời, được Chúa Thánh Thần tác động, đổi mới, thánh Philípphê đã rao giảng, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho toàn thể dân thành Sitti . Rồi Thánh Nhân đến rao giảng cho dân Hiêrapoli, xứ Rigie và cũng như Thầy mình, Ngài được phúc tử đạo, bị đóng đinh vì danh Chúa Kitô. Xác thánh nhân được dân chúng mai táng ở Rigie, sau đó được cải táng về Roma, chôn cất cạnh thánh Giacôbê. Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu. Sở dĩ gọi Ngài là Giacôbê hậu để dễ phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh nhân trở thành giám mục tiên khởi cai quản thành Giêrusalem. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã hiện ra với Ngài và chính Ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong Tân Ước. Thánh nhân luôn trung thành với đức tin, bảo vệ Giáo Hội và vững tay chèo vững tay lái trên ngai giám mục. Vì ghen tương, đố kỵ, thánh nhân bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng, ngạo mạn tố cáo và kết án. Thánh nhân bị bọn chúng bắt, đưa lên nóc nhà thờ, xô Ngài xuống đất và ném đá Ngài cho đến chết. Trước khi lià cõi đời, thánh nhân đã quì gối cầu nguyện, xin Chúa tha thứ cho những kẻ thù hãm hại mình.
CHÚA TRAO MŨ TRIỀU THIÊN CHO CÁC NGÀI và GIÁO HỘI TÔN PHONG CÁC NGÀI:
Như Thầy của mình, các môn đệ đã liều mình, hy sinh mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Các Ngài nhất nhất chết cho tình yêu. Đúng như Chúa Giêsu đã nói:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Như Chúa Giêsu các Ngài đều nhất loạt cầu nguyện cho kẻ thù làm hại các Ngài:” Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”( Lc 23, 34 ). Các Ngài đã cảm nghiệm sâu sắc thế nào là tình yêu đến tự Thiên Chúa như Henri J.M Nouwen đã viết:” Khi tình yêu đến từ Thiên Chúa, thì tình yêu đó bền bỉ“.
Lạy Chúa, hằng năm Chúa cho chúng con được hân hoan mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê. Xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Philípphê và Giacôbê, tông đồ).
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
SUY NIỆM 3:
Khi ấy, đến giờ lìa bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.
• Trong giờ phút chia tay với các môn đệ để trở về với Cha, Đức Giêsu đã mạc khải cho các ông con đường đích thực để dẫn họ đến với Cha. Con đường đó chính là Ngài. Đức Giêsu trở thành con đường, làm cầu nối trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Không những thế, Ngài còn là Sự Thật và là Sự Sống. Nơi Ngài, con người kín múc được mọi sự.
• Đức Giêsu xác định rõ chỉ nơi Ngài, con người mới có thể đến được với Thiên Chúa Cha. Bởi vì Ngài từ Cha mà đến, Ngài biết rõ nơi đó và Ngài cũng muốn con người sống nơi đó. Nơi Đức Giêsu, ơn cứu độ được ban cho con người và nhất là ban cho những ai tin và đón nhận Ngài.
→ Con người khát khao tìm kiếm Thiên Chúa, họ lần mò trong đêm tối đức tin, họ khao khát Sự Thật và Sự Sống đời đời nhưng họ cứ loay hoay với những chuyện của họ, với những quan tâm vô bổ làm họ lạc mất phương hướng. Đức Giêsu chỉ dẫn rất dễ thương và tận tình. Tôi cần Đức Giêsu dẫn tôi đến với Cha như thế nào? Tôi cần có thái độ như thế nào?
→ Lạy Chúa, xin dẫn con về lối bước của Ngài.
Br. Vincent SJ
SUY NIỆM 4: THẤY THẦY LÀ THẤY CHA
Được sống với Thầy, được nghe những bài giảng của Thầy về Chúa Cha, Philipphê nhận ra Chúa Cha là Đấng cao cả nhưng cũng rất tốt lành, là nguồn hạnh phúc, cho nên ông và các tông đồ khác đã ước ao được thấy Chúa Cha: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện ! Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng khao khát tìm kiếm chân lý của Philipphê và các Tông đồ.
Ước nguyện ấy lại được Chúa Giêsu đáp ứng một cách dễ dàng không ngờ : ai Thấy Thầy là thấy Cha! Một ước vọng có vẻ cao sang nhưng lại được được đáp ứng quá nhanh chóng đến độ bất ngờ như thế, thực sự là một Tin vui hạnh phúc cho loài người chúng ta trên hành trình tìm kiếm chân lý, nhưng nhiều khi cũng vì quá dễ dàng, nên chân lý vĩ đại này lại thường bị bỏ quên. Người ta thích đi con đường dài và hiểm trở (để quan trọng hóa vấn đề) hơn là chọn con đường có vẻ quá đơn giản như thế. Người ta đi tìm Chúa nơi nao trong khi Chúa ở rất gần, ở bên cạnh, ở trong lòng ta thì lại không biết, không thấy ! Người ta thích suy tư lý luận dài dòng phức tạp nhưng lại quên rằng Thiên Chúa của chúng ta và đường lối của Ngài lại rất đơn sơ.
Có lẽ Philipphê và Giacôbê cùng các Tông đồ sau khi được Chúa dạy dỗ bài học hôm nay, đã ý thức để sống thân mật với Chúa hơn, lãnh nhận chân lý với niềm tin yêu, và sau này các Ngài đã đổ máu đào để làm chứng cho chân lý ấy.
Đối với chúng ta hôm nay, chúng ta có khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm hạnh phúc đích thực không? Có người vất vả đi tìm hạnh phúc tạm bợ, giả tạo nơi tiền bạc, danh vọng, lạc thú…; có người đi tìm ở triết thuyết này, đạo pháp kia; có người biết là phải đi tìm Chúa nhưng không biết tìm ở đâu! Thì đây, Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời đễ dàng đến bất ngờ : Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Thì ra gặp Chúa Giêsu là gặp Chúa Cha nguồn Sự thật, thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha nguồn sự sống, yêu mến Chúa Giêsu là yêu mến chính Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Mà làm thế nào để tìm biết Chúa Giêsu?
Nếu anh biết Thầy, anh cũng sẽ biết Cha. Khổ nỗi, cho đến hôm nay nhiều người trong chúng ta vẫn chưa biết Chúa Giêsu, mặc dù ta mang danh là Kitô hữu, ta vẫn nghe Kinh Thánh mỗi ngày, vẫn rước Chúa mỗi ngày! Nếu một người lương dân hỏi: Chúa Kitô là ai? Có lẽ phần đông chúng ta cũng gặp khó khăn trong câu trả lời đấy! Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại cách sống đạo của chính mình, kẻo chúng ta cũng bị trách như Chúa Giêsu trách Philipphê: Thầy ở với anh bấy lâu mà anh không biết thầy ư? Phải chăng chúng ta cần tiếp cận Kinh Thánh một cách ý thức hơn, dành thời giờ học hỏi Kinh Thánh nhiều hơn, để biết đọc, biết suy, biết cảm nếm, để chúng ta có thể gặp được Đức Kitô Phục sinh đang sống động trong từng trang, từng Lời Kinh Thánh và để chính Đức Kitô sống động trong cuộc sống thường ngày của ta.
Nhiều anh chị em sau khi tham gia những khóa học Kinh thánh đã phải thốt lên : bây giờ tôi mới biết Đức Kitô là ai, bây giờ tôi mới cảm nghiệm tình Chúa yêu tôi như thế nào! Trước đó họ vẫn đọc Kinh Thánh chứ, vẫn nghe Kinh Thánh, vẫn học giáo lý, vẫn nghe giảng dậy hàng ngày, nhưng có lẽ những hiểu biết, Đức Tin, lòng yêu mến có được chỉ là vay mượn, không đích thật là của mình, cho nên nó hời hợt, không có chiều sâu và dễ bị nghiêng ngả chao đảo khi gặp thử thách đau khổ. Chỉ khi nào chính mình khám phá, trải nghiệm thì Đức Tin vào Đức Ki tô mới kiên vững, tình mến vào Chúa Kitô mới nồng nàn, và như thế chúng ta sẽ gặp được Chúa Cha là nguồn chân lý, bình an và hạnh phúc, và khi đó, chúng ta có thể làm được những điều như Chúa Giêsu đã làm, đó là làm nhân chứng cho Tin Vui phục sinh ở mọi nơi, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa con, để nhân loại được hạnh phúc trong Tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Nguyện xin hai thánh Tông đồ Philipphe và Giacôbê cầu thay nguyện giúp để chúng con noi gương các Ngài, khao khát tìm Chúa, siêng năng học hỏi Kinh Thánh, rước Thánh Thể một cách ý thức hơn để chúng con thực sự găp được Chúa, có được cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, từ đó chúng con trở thành nhân chứng sống động, dám sống và chết cho Tin mừng Phục sinh. Amen
Lm. Đaminh Trần Công Hiển
SUY NIỆM 5: HÃY LÀ TRUNG GIAN CỦA CHÚA
Hôm nay cùng với Giáo Hội ta mừng kính hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê. Hai vị thánh này xuất thân từ Bếtsaiđa, cùng quê với Phêrô và Anrê thuộc nhóm môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.
Nếu như Giacôbê tiền là anh của Gioan, là con của ông Dêbêđê, thì Giacôbê chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con của ông Anphê. Tiền và hậu chỉ sự phân biệt chứ không nói lên đặc tính gì quan trọng.
Còn thánh Philipphê là người đã giới thiệu ông Nathanaen cho Chúa Giêsu; đồng thời cũng là người giới thiệu nhóm người Hy Lạp khi họ xin được gặp Chúa Giêsu.
Hai vị thánh được Giáo Hội mừng kính hôm nay nếu chỉ dựa trên những gì Sách Thánh nói, thì không có gì nổi trội đặc biệt. Thế nhưng, họ đã được chọn làm Tông đồ của Chúa, chứng tỏ nơi tâm hồn các ông đã có sẵn lòng nhiệt thành và sự sốt sắng đáp trả khi được ơn kêu gọi. Với thánh Philipphê khi xin Chúa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”; và thánh Giacôbê, vị Tông đồ được sánh bước với Thầy và được thấy những việc Chúa làm. Như thế đủ thấy các ngài được chọn là để thấy, để nghe, để ra đi và để làm chứng cho chính Chúa.
Ta thấy con đường làm chứng cho Chúa chính là Con Đường Giêsu và Con Đường Giêsu đã được khẳng định rõ nét qua lời nói và hành động của Chúa trong những tháng năm trên trần thế. Người đời cho rằng của cải đời này là sự đảm bảo cho cuộc sống thì Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20). Con người cứ lo kiếm tìm danh lợi thú trần gian, Chúa Giêsu lại đến trần không một nơi gối đầu để phục vụ và hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Con người đối xử với nhau bội bạc, vô tình, tàn nhẫn; Chúa Giêsu đến với mọi người bằng tình yêu và chân thành: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Con người những tưởng đã tha thứ đủ khi tha đến bảy lần thì Chúa Giêsu dạy phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy. Con người vô ơn quên tình yêu Thiên Chúa, bất tuân lệnh Thiên Chúa; Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha và thực thi mọi phán quyết của Thiên Chúa: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 9).
Nhờ sự cảm nghiệm của bản thân mình về đức tin chúng ta sẽ cảm nghiệm thẩm sâu toàn diện Tin Mừng Thánh Gioan kết hợp với những khuynh hướng hiện đại cũa chúng ta. Các bạn trẻ chúng ta đã cảm nghiệm được những điều thích thú trong sách của Thánh Gioan, thì cần đào sâu những cuộc đàm thoại trong Tin Mừng của Thánh Gioan để khởi đi từ câu thứ nhất: “Hãy theo tôi mà Thánh Philíp chắc chắn đã thấm thía với tất cả ý nghĩa thâm sâu của câu đó, để rồi: “Thấy Thầy, là thấy Cha” “Thế là được mãn nguyện”.
Nhìn lại cuộc đời Thánh Philípphê, ta thấy Ngài được số đông lương dân xúm lại hỏi han Ngài, xin Ngài cho họ xem Đấng Cứu Thế. Sau khi Chúa về trời, được Chúa Thánh Thần tác động, đổi mới, thánh Philípphê đã rao giảng, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho toàn thể dân thành Sitti . Rồi Thánh Nhân đến rao giảng cho dân Hiêrapoli, xứ Rigie và cũng như Thầy mình, Ngài được phúc tử đạo, bị đóng đinh vì danh Chúa Kitô. Xác thánh nhân được dân chúng mai táng ở Rigie, sau đó được cải táng về Roma, chôn cất cạnh thánh Giacôbê.
Tên của Thánh Philip được ghi rất sớm trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài được kể là Tông Đồ thứ tư cùng với Thánh Gioan và hai Thánh Anrê và Phêrô dân thành Betsaida xứ Galilê (Ga 1, 43-44), Ngài giới thiệu mấy người Hy Lạp xin gặp Đức Giê-su (12, 21), trước khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu hỏi Ngài: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?… Ngài đáp: thực có mua đến 200 đồng bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút (6, 5-7) và ở bữa tiệc ly, Philíp nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (14, 8). Người ta cho rằng Philíp sống hiện thực, giống như những người tiến bộ khoa học thời chúng ta: ông sống theo kinh nghiệm nên đòi được xem, sờ, cảm thấy Chúa Cha, cùng với óc tính toán của ông: có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút!
Thánh Philipphê thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8). Ước muốn của Thánh Philipphê cũng chính là niềm khát khao của con người mọi thời vì: “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 62,1).
Thế cho nên ta thấy dọc dài thời gian, xuất hiện rất nhiều bậc hiền nhân đưa ra những phương cách, lời hay ý đẹp để giúp con người thấu đạt Thượng Đế. Nhưng không một ai đưa con người đến được với Thiên Chúa; ngoại trừ Chúa Giêsu – Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúa Giêsu xuất phát từ Thiên Chúa, là dung nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Chúa biết cách nói về Thiên Chúa, dạy cho con người chân lý yêu thương đích thực. Hơn hết, Chúa Giêsu chính là Con Đường để con người bước vào sự sống của Thiên Chúa.
Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu.Sở dĩ gọi Ngài là Giacôbê hậu để dễ phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh nhân trở thành giám mục tiên khởi cai quản thành Giêrusalem. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã hiện ra với Ngài và chính Ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong Tân Ước. Thánh nhân luôn trung thành với đức tin, bảo vệ Giáo Hội và vững tay chèo vững tay lái trên ngai giám mục. Vì ghen tương, đố kỵ, thánh nhân bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng, ngạo mạn tố cáo và kết án. Thánh nhân bị bọn chúng bắt, đưa lên nóc nhà thờ, xô Ngài xuống đất và ném đá Ngài cho đến chết. Trước khi lià cõi đời, thánh nhân đã quì gối cầu nguyện, xin Chúa tha thứ cho những kẻ thù hãm hại mình.
Chúa Giêsu là Đường Hoàn Hảo mà Chúa Cha gửi đến cho con người với tất cả lòng thương xót. Chúa đã chết trên thập giá để cứu độ con người: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,12). Và Chúa Giêsu đã Phục Sinh để minh chứng lời Chúa nói là chân thật: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24, 46-47).
Nhìn lại cuộc đời của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê, ta thấy hai cuộc đời này nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và tất cả hai Ngài, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Philípphê ở Betsaiđê cùng quê với thánh Phêrô và Anrê, một làng quê trên bờ biển Tibêriát. Thánh Philípphê đã theo thánh Gioan tiền hô và sau này trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Philípphê đã bảo cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và dẫn Nathan đến gặp Chúa Giêsu. Tin Mừng đã thuật lại những sự liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và thánh Philípphê. Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều, Ngài đã thử hỏi xem Philíphê có tìm đâu ra thức ăn cho số đông người ăn hay không ? Chính Philíphê trong bữa tiệc ly đã xin Chúa cho thấy Cha của Ngài: ”Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Và như thế là chúng con mãn nguyện rồi”. Chúa Giêsu trả lời: “Anh Philípphê. Ai xem thấy Thầy là thấy Cha của Thầy” (Ga 14, 6-9 ).
Là những môn đệ Tin theo Chúa Giê-su và sau khi được mặc khải, thánh Philipphê đã tiếp tục sứ mệnh làm “trung gian” cho Thiên Chúa khi đem ông Nathanaen (Ga 1, 45-51) và những người Hy-lạp (Ga 12, 20-36) đến với Chúa Giê-su để được gặp và nghe lời Người giảng dạy. Thánh Philipphê còn cùng các môn đệ thực thi sứ vụ làm “trung gian” cho Thiên Chúa bằng cách đi khắp nơi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo và làm phép Rửa cho những người tin (Mc 16,15-16).
Nhân dịp mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê, ta xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng ta biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Philípphê và Giacôbê, tông đồ ). Và rồi mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay cũng được kêu mời làm “trung gian” cho Thiên Chúa. Qua Bí tích Thanh tẩy, mỗi Kitô hữu phải sống sao để nói với người khác rằng: “Ai thấy tôi là thấy Đức Kitô” và “ai thấy Đức Kitô là thấy Thiên Chúa Cha”.
Lm. Huệ Minh
SUY NIỆM 6:
Thánh Philipphê là người Bétxaiđa, cùng quê với Thánh Anrê và Thánh Phêrô (x. Ga 1,44). Trước khi theo Chúa Giêsu, Ngài là môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu cho ông Nathanael (x. Ga 1,45-46). Trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây? Philipphê trả lời: Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (x. Ga 6,5). Trong bài Tin mừng hôm nay ông đã mạnh dạn xin Chúa Giêsu “Cho thấy Chúa Cha” (x. Ga 14,8). Chúa Giêsu đã cho ông biết: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (x. Ga 14, 9). Sau ngày lễ Ngũ Tuần, Ngài đi truyền giáo tại Sitti, rồi giảng dạy ở Hiêrapoli, xứ Rigie và chịu đóng đinh vì danh Chúa tại đây.
Thánh Giacôbê, còn gọi là Giacôbê hậu, là anh em bà con với Chúa Giê-su (x. Mt 13,55 – Mc 6,3) và là con của ông Anphê (x. Mt 10,3 – Mc 3,18 – Lc 6,15 – Cv 1,13). Ngài được Chúa Kitô phục sinh hiện ra cách riêng (x. 1Cr 15,7). Ngài đã từng lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem (x. Cv 12,17 – 15,13 – 21,18) và giúp cho nhiều người Do thái đón nhận đức tin (x. Cv 15,13-31). Ngài có một địa vị quan trọng trong cộng đoàn sơ khai. Nhờ đâu, chúng ta khẳng định như vậy? Thứ nhất, khi Phêrô được thiên thần giải thoát khỏi ngục tù đã nói: “Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết” (x. Cv 12,17). Thứ hai, sau khi trở lại, Thánh Phaolô đã từng gặp Giacôbê, và lần cuối cùng gặp Giacôbê khi ông đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18). Thứ ba, Thánh Phaolô cũng nhắc đến Giacôbê trong thư Côlôsê: “Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hiệp thông” (x. Gl 2,9). Thánh Gia-cô-bê để lại một bức thư. Ngài chịu tử đạo năm 62.
Trên đây là một vài điểm quan trọng, liên quan đến cuộc đời của hai vị thánh mà Giáo hội cho chúng ta mừng kính hôm nay. Hai vị Thánh vinh dự được Chúa Giêsu trực tiếp chọn vào số các Tông đồ. Các Ngài được chính Chúa Giêsu huấn luyện trong suốt ba năm, được nghe những lời Giáo huấn của Chúa, được thấy những phép lạ Chúa làm. Đặc biệt, các Ngài được chứng kiến cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Thầy mình. Chính vì vậy, cũng như các Tông đồ khác, các Ngài đã dấn thân không mệt mỏi trong công cuộc rao giảng và làm chứng về những gì mắt thấy tai nghe. Các Ngài đã ý thức được trách nhiệm phải trao ban những gì mình đã lãnh nhận. Đó cũng là tâm tình của Thánh Phaolô nói với các tín hữu ở Côrintô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ I, Ngài nói: “Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi sau với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non” (1Cr 15, 3-8).
Vì đã lãnh nhận trách nhiệm làm Tông đồ, nên qua mọi thời đại, Giáo hội cũng tiếp tục dấn thân làm chứng cho Chúa bằng nhiều cách thế khác nhau. Thư chung của HĐVMVN năm 2003 diễn tả: “Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới”.
Sứ mạng của Giáo hội cũng là sứ mạng của mỗi người kitô hữu chúng ta. Cũng trong thư chung năm 2003, HĐGM Việt Nam mời gọi: “Sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam”.
Nhưng phải loan báo Tin mừng bằng cách nào?
Như Philipphê đã giới thiệu Chúa cho Nathanael, chúng ta cũng hãy giới thiệu Chúa cho những người xung quanh chúng ta. Nhưng để giới thiệu Chúa cho người khác thì chính chúng ta phải gặp gỡ Chúa trước, phải hiểu biết về Ngài, phải có niềm xác tín vào Ngài là Thiên Chúa: Gặp Chúa qua việc đọc và suy niệm Kinh Thánh; gặp Chúa qua việc lãnh nhận các Bí tích; gặp Chúa qua đời sống cầu nguyện…Để khi có người nghi ngờ về lời giới thiệu của chúng ta, chúng ta có thể nói với họ như Philípphê đã nói với Nathanael rằng: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1,46).
Như Philipphê dẫn người Hilạp đến gặp Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta cũng có trách nhiệm dẫn người khác đến gặp gỡ Chúa. Cha xứ dẫn đoàn chiên trong giáo xứ tới gặp Chúa. Thầy cô giáo lý viên dẫn dắt học sinh tới gặp Chúa qua các giờ giáo lý. Cha mẹ dẫn con cái của mình tới gặp Chúa. Người kitô hữu dẫn những người lương dân tới gặp Chúa…
“Đức Tin không có hành động quả là đức tin chết”(Gc 2,17), thánh Giacôbê đã nói như vậy. Vì vậy, mỗi người kitô hữu chúng ta không những rao giảng Tin mừng bằng lời nói mà còn bằng những hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Để nhân loại nhận ra Chúa qua chúng ta.
Trong một thánh lễ kính các tông đồ, tôi nhớ mang máng nội dung một bài hát như thế này: “Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta, Người đến với mọi người. Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta Người đến với mọi nơi”.
Ý nghĩa của lời hát trên nói lên tất cả sứ mạng của người làm Tông đồ. Thật vậy, người Tông đồ cần phải có Chúa Kitô trong mình mới có thể mang Chúa Kitô đến cho những khác. Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống như Đức Kitô đã sống để người khác thấy Chúa Kitô nơi người Tông đồ. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống bác ái yêu thương. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống công bằng, chân thật. Vì Chúa Giêsu từng nói: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”(Ga 14,6).
Cũng như Chúa Giêsu Kitô đã hoạ lại hình ảnh của Chúa Cha, để ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha (x. Ga 14, 9). Người Tông đồ cũng phải hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô nơi chính lời nói và việc làm của mình, để ai thấy người Tông đồ là thấy Chúa Giêsu Kitô.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, để tiếp tục công việc cứu độ thế gian, Chúa đã chọn Thánh Philipphê và thánh Giacôbê Tông đồ và hai thánh đã chu toàn xuất sắc bổn phận Chúa trao phó. Làm Tông đồ cũng là sứ mạng Chúa trao phó cho Giáo hội và mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con cố gắng chu toàn bổn phận ấy, để qua chúng con Chúa đến được với mọi người. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
SUY NIỆM 7:
Khao khát được biết Thiên Chúa Cha là khát vọng chính đáng của con người, và cùng đích của con người chính là được đời đời chiêm ngưỡng thánh nhan Cha. Chính vì thế mà sau khi Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa Cha, tông đồ Philípphê đã không ngần ngại thưa với Chúa Giêsu rằng: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con đã mãn nguyện”.
Thấy Thiên Chúa Cha ư? Con mắt phàm tục không thể nhìn thấy Thiên Chúa. Đó là điều được nói đến trong Cựu Ước, rằng không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống: Môsê phải che mặt khi đối diện, Êlia chỉ được nhìn thấy phía sau, các tổ phụ, thẩm phán và ngôn sứ chỉ được thấy Chúa qua các thiên sứ hoặc các biến cố như mây, lửa… Và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng phải nhờ Chúa Con mặc khải cho”. Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Như thế, chỉ có Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Thiên Chúa Cha. Câu trả lời cho Philípphê hôm nay chứng mình điều đó, đồng thời mạc khải chắc chắn về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi vừa hiện hữu tại thân vừa hiện hữu hướng về đến duy nhất, như Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha, Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”.
Trong lịch sử đã xảy ra nhiều lạc thuyết tìm cách tách rời tính duy nhất này và Giáo hội đã có nhiều công đồng để lên án và tuyên tín. Về sau này và càng gần đây xuất hiện nhiều cái gọi là mặc khải tư hay sứ điệp này nọ mà ông này bà kia tự xưng là “thị nhân” “con gái yêu” nói rằng được Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần hiện ra cho biết. Giáo hội luôn dè dặt và không ủng hộ những điều đại loại như thế, nhưng chính những thứ đó lại gây hoang mang cho nhiều người, thậm chí cả những anh chị em thuộc giới tu hành tin và phổ biến.
Điều đáng buồn là một số người những Giáo Huấn chính thức của Giáo hội được Chúa Kitô trao quyền bảo vệ đức tin thì không theo, lại chạy theo những thứ “chui cửa sau” mà không qua Giáo hội.
Chính vì thế, qua bài Tin Mừng hôm nay, xin hãy ý thức cho rằng:
- Không phàm nhân nào nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống.
- Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, trừ khi Chúa Con mặc khải cho.
- Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.
- Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Chúa Cha, nên tất cả mọi mặc khải khác đều phải quy về Chúa Giêsu và vâng phục Giáo hội.
- Chúa Giêsu làm tất cả những gì mọi người cầu xin với Chúa Cha nhân danh Chúa Giêsu.
Đó là tất cả những gì được nói tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Đó là đức tin tông truyền của Giáo hội, vì thế không có con đường chui nào khác mà không qua Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất. Những linh đạo qua Đức Mẹ và các thánh đều quy hướng về Chúa Kitô. Mọi điều lớn lao mà các Kitô hữu làm được không phải do công của chính mình, mà là do niềm tin vào Đức Kitô.
Chúa Giêsu khẳng định Người là con đường duy nhất dẫn đến cùng Chúa Cha. Lời rao giảng của các tông đồ cũng luôn tuyên xưng như thế: “ngoài Chúa Giêsu ra, dưới gầm trời này không ai có thể đem lại ơn cứu độ”. “Thầy là đường”, chữ “Đường” ở đây không chỉ có nghĩa là Chúa Giêsu chỉ dùng giáo huấn mà dẫn ta đến sự sống, mà chính Người là con đường dẫn đến Chúa Cha nữa. Vì chính Người là mạc khải Chúa Cha (Ga 12,45) và bởi Chúa Cha mà đến rồi lại về với Chúa Cha (Ga 7,29-33). Chỉ trong Chúa Giêsu trung gian duy nhất, chúng ta mới thấy được Thiên Chúa như thế nào, và chỉ một mình Người đưa chúng ta đến với Thiên Chúa mà chúng ta không phải sợ hãi và xấu hổ.
Khi nghe Chúa Giêsu nói “Thầy là đường”, chúng ta cũng nhớ lại một chân lý bất biến là “qua thập giá vào vinh quang”. Đó là con đường duy nhất mà Chúa Giêsu đã đi, để tiêu diệt sự chết và đi vào cõi sống đời đời. Theo đạo chính là theo Con Đường mang tên Giêsu, là gắn bó sống chết với Giêsu, chia sẻ sứ mạng của Giêsu, Con Thiên Chúa làm người bằng xương bằng thịt. Vì thế, muốn đạt đến Nước Trời, Kitô hữu cũng phải bước theo con đường đó.
Phải qua Con Đường Giêsu chúng ta mới vào được thế giới của Thiên Chúa, bởi lẽ chỉ Đấng từ trời xuống mới có thể đưa chúng ta lên trời. Ngày nay người ta nói đến nhiều con đường khác để được cứu độ. Nhưng con đường nào cũng phải đi qua Con Đường Giêsu. Nơi Con Đường này chúng ta gặp được Sự Thật trọn vẹn về Thiên Chúa. Nơi đây chúng ta gặp được Sự Sống viên mãn của chính Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, với niềm khao khát như thánh Philípphê, xin cho chúng con được nhìn thấy Thiên Chúa Cha hiện hữu trong mọi nơi mọi lúc, đặc biệt trong mọi biến cố cuộc đời, để chúng con sống trọn niềm thảo hiếu với Người. Amen.
Hiền Lâm
SUY NIỆM 8: ĐƯỜNG CỨU ĐỘ
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố: “Thầy là đường là, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy…” (Ga14,6). Qua lời khẳng định này, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết ba danh xưng của Ngài: Chúa là con đường dẫn đến ơn cứu độ, Chúa là chân lý vẹn toàn, Chúa là sự sống viên mãn. Vâng chính Chúa là con đường dẫn đến ơn cứu độ, đồng thời cũng chính Ngài là Đấng ban ơn cứu độ.
Thực tế muốn đi đâu, chúng ta cần phải có một con đường và phải đi trên con đường đó. Ví dụ như đi từ nhà mình đến công ty, đến chợ, đến trường học hay đến ngôi nhà thờ này… chúng ta đều phải đi trên một con đường, và dù đó là đường hàng không, đường xe lửa, hay đi đường bộ gập ghềnh sỏi đá… nhưng nhất thiết chúng ta phải có con đường và không ngại đi trên con đường đó mới tới được đích.
Cũng vậy, muốn đến được Quê Trời, chúng ta cũng cần có một con đường và phải vững vàng đi trên một con đường đó: không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Con đường đó chính là Chúa Giêsu Kitô “đường sự thật và sự sống”, đường tình yêu cứu độ muôn loài. Chỉ con đường này mới chắc chắn dẫn đưa chúng ta tới sự sống đời đời. Tuy nhiên con đường Giêsu Kitô là con đường khó đi, con đường thập giá – hy sinh rồi mới đến phục sinh vinh hiển.
Thế nhưng, có nột sự thực đáng buồn đang diễn ra hàng ngày, như tác giả sách gương Chúa Giêsu nhận xét là: có nhiều người muốn được sự sống đời đời nhưng lại không muốn đi trên con đường của Chúa Kitô mà chọn đi con đường tiền bạc, đường danh vọng, đường tình dục, đường bạo lực…và cuối đường họ thấy thất vọng, vì đã đi trệch đường, vì không đạt được hạnh phúc thật…
Điều đó chứng tỏ rằng: chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới là con đường thật, đường sự sống, đường rộng mở tha thứ hết mọi người, đường yêu thương phục vụ hết mọi người. Đường Chúa Kitô chắc chắn đem đến ơn bình an và cứu độ cho mọi người. Vì thế, là Kitô hữu, chúng ta hãy đi trên con đường của Chúa Kitô, qua đời sống yêu thương, tha thứ, phục vụ hết thảy mọi người, kể cả những người muốn làm hại chúng ta…
Hơn ai hết, thánh Philipphê và thánh Giacôbê tông đồ mà chúng ta mừng kính đã đi trên con đường đó. Thánh philipphe là con người thực tiễn, ban đầu ông không đã không tin những tin đồn về đức giêsu khi ngài rao giảng tin mừng, nhưng chính chúa đã đến kêu gọi ông và ông đã bước đi theo chúa. Ông đã dẫn Nathanaen đến gặp Chúa. Trước khi chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi 5000 người, ngài hỏi các môn đệ: ta mua đâu ra bánh cho dân chúng đây? Ông liền tính toán theo kiểu khoa học rằng có mua đến 200 đồng thì cũng không đủ cho mỗi người một ít. Tin Mừng cũng cho hay chính thánh nhân đã được nhiều người lương dân xúm lại hỏi han và xin Ngài chỉ cho họ thấy Đấng Cứu Thế. Và sự kiện Tin Mừng hôm nay nêu lên nỗi khắc khoải của Philipphê muốn thấy Chúa Cha. Dù ở với Chúa suốt ba năm ròng nhưng philipphê vẫn chưa biết Chúa, vẫn khao khát tìm kiếm, khiến Chúa đã phải thốt lên: Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà Philipphê anh chưa biết Thầy ư? Nhưng cũng nhờ sự thực tiễn của ông mà chúng ta được Chúa tỏ lộ: Ai xem thấy Thầy là xem thấy Chúa Cha, Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy. thánh philipphê đã tin lời chúa nói, và nhiệt thành rao giảng tin mừng cho vùng Á Châu chúa ta, Ngài đã chịu tử đạo để làm chứng cho Đức Giêsu Kitô.
Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu. Ngài được gọi là Giacôbê hậu là để phân biệt với thánh Giacôbê, anh của thánh Gioan con ông Dêbêđê. Thánh Giacôbê hậu là Giám Mục đầu tiên tại Giêrusalem. Sau khi Chúa Phục Sinh, Ngài đã hiện ra với thánh nhân và chính thánh Giacôbê hậu đã viết một bức thư còn lưu lại trong phần Tân Ước. Thánh nhân luôn nhiệt thành loan báo Tin Mừng của Chúa và luôn trung thành với Giáo Lý đức tin. Thánh nhân bị nhóm Biệt Phái và những bọn người xấu vu khống, tố cáo, kết án, thánh Giacôbê hậu bị chúng xô từ nóc đền thờ xuống đất và chúng ném đá Ngài cho đến chết. Thánh nhân đã noi gương Chúa tha thứ cho những kẻ làm khổ, giết hại Ngài
Cuộc đời của hai thánh Philipphê và Giacôbê hậu đã hoàn toàn làm theo ý Chúa. Các Ngài đã đặt sinh mạng của các Ngài trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, hằng năm Chúa cho chúng con được hân hoan mừng lễ hai thánh tông đồ Philipphê và Giacôbê. Xin Chúa nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời.(Lời Nguyện Nhập Lễ, lễhai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ).
Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
SUY NIỆM 9: THẦY Ở TRONG CHA VÀ CHA Ở TRONG THẦY
Chúa Giêsu mạc khải về mối tương quan mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha. Ngài không làm bất cứ điều gì theo ý Ngài nhưng theo ý Chúa Cha. Do đó, khi nhìn thấy Ngài là nhìn thấy sự hiện diện của Chúa Cha ở trong Ngài. Ngài biết rõ Chúa Cha muốn gì và làm gì nên Ngài làm y chang như vậy. Ngài và Chúa Cha là một. Cụm từ “ở trong” diễn tả mối tương quan mật thiết đến độ hòa lẫn vào nhau, nhưng không đánh mất đi sự riêng biệt của ngôi vị Cha và Con. Sự “ở trong” sẽ làm cho cả hai hiểu thấu mọi sự và không có gì che giấu hoặc tách biệt. Tương quan “ở trong” này làm cho Chúa Cha và Chúa Giêsu hoàn toàn thuộc về nhau trọn vẹn.
Chúng ta cũng được mời gọi ở trong Chúa và xin Ngài ở trong chúng ta. Chính sự hiện diện của Chúa trong lòng mình mà chúng ta được biến đổi. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta ngại tương quan “ở trong” này vì còn yêu mình hơn yêu Chúa. Vì chưng, một khi để cho Chúa ở trong thì chúng ta sẽ không sống theo ý riêng mình nhưng làm mọi sự theo ý Chúa. Với nhiều đam mê và tham vọng trong lòng thì tương quan “ở trong” với Chúa là một thách đố mà chúng ta phải chiến đấu với chính mình.
Lạy Chúa, chúng con sẽ chẳng làm được gì và sẽ không bao giờ có được hạnh phúc viên mãn nếu không có Chúa ở cùng. Xin cho chúng con luôn biết rộng mở tâm trí mình để chào đón Chúa đến ở cùng, nhờ đó chúng con luôn có sự bình an và niềm vui trong mọi ngày sống của chúng con. Amen.
Lm. Laurenso Quốc Huy