CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: St 18,1-15; Cl 1,24-28; Lc 10,38-42
——-
DẪN NHẬP
Lời Chúa: “Chỉ có một sự cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (Lc 10,42).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đòan phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa nhật 16 thường niên hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ đón tiếp Chúa Giêsu của hai chị em cô Maria và Mácta. Chúa Giêsu đã điều chỉnh thái độ của Mácta và đề cao thái độ lắng nghe Lời Chúa của Maria:
Một điều cần thiết mà thôi,
Ma - ri đã chọn suốt đời còn nguyên.
Lắng nghe Lời Chúa loan truyền,
Rồi đem áp dụng làm nền đối nhân.
Yêu người như Chúa hiến thân.
Hy sinh giúp đỡ thông phần khổ đau.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin giúp chúng ta ý thức rằng: Thánh lễ là lúc chúng ta là những Maria ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe Lời Người. Xin cho chúng ta đến với Chúa như một người con để lắng nghe và đón nhận Lời Chúa như Maria. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đã đến viếng thăm trần gian và ở lại với chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã được chị em Mácta và Maria đón rước vào nhà. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa ban Thánh Thần để hiệp nhất chúng con nên một trong gia đình Thiên Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Trong đời sống xã hội loài người, xem ra ai cũng muốn được người ta tôn trọng và đón tiếp mình cách tử tế. Sự tôn trọng và lòng hiếu khách được xem là tài sản tinh thần và là sản phẩm văn hoá của mọi dân tộc, mọi quốc gia trên trái đất. Sự thân thiện và lòng hiếu khách là một đức tính tốt. Người hiếu khách là người có tinh thần lắng nghe và bác ái như hình ảnh các bài đọc phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn diễn tả cho chúng ta.
Thưa anh chị em, bài đọc 1 hôm nay trích từ sách Sáng thế diễn tả lòng hiếu khách của Abraham. Ông đã biểu lộ khéo léo tiếp đón các vị khách lạ: ông vừa lắng nghe, vừa lo chăm sóc nhu cầu ăn uống cho 3 người khách lạ. Không ngờ 3 vị khách này lại là sứ giả của Thiên Chúa và ông đã được báo tin vui là phần thưởng dành cho thái độ hiếu khách ấy: “Ðộ này sang năm, khi Ta trở lại thăm ông, thì cả hai vẫn còn mạnh khoẻ, và Sara bạn ông sẽ được một con trai”. Như thế, mọi người khách đến với ta đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Sự ân cần và quí mến khách cũng là một cách tỏ lòng quí mến Chúa. Lòng hiếu khách ấy cũng được biểu lộ qua thái độ tiếp đón ân cần, quí mến của chị em Mácta và Maria. Cả hai cô đều vui mừng vì có Chúa đến viếng thăm. Thật là hạnh phúc cho gia đình chị em Mácta và Maria nay thật ấm áp vui tươi vì có Chúa hiện diện. Mỗi người trong hai chị em có một lối tiếp khách riêng. Mácta lăng xăng lo tiếp đón Chúa Giêsu. Lòng nhiệt thành này bày tỏ sự kính trọng của Mácta đối với Chúa Giêsu, cũng như nguyện vọng muốn dành cho Người một sự tiếp đón xứng đáng, một mình thôi chưa đủ, bà còn muốn lôi kéo em là Maria vào mối bận tâm của bà. Bà muốn Chúa Giêsu cũng chia sẻ quan điểm: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với”. Chúa Giêsu đánh giá cao sự hy sinh, phục vụ bận rộn của Mácta với lòng biết ơn nên Người không thể lên ánh Mácta và sự tiếp đón nồng hậu của bà. Đây là biểu hiện lòng kính trọng và quí khách của Mácta. Nhưng đối với Chúa Giêsu, có một nấc thang giá trị. Việc nghe Lời Chúa là điều cần thiết hơn hết, như thái độ của Maria ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”. Chúa đã đánh giá cao thái độ và cử chỉ của Maria. Đó là chọn chỗ nhất trong đời sống của mình, lắng nghe và chọn Chúa làm lẽ sống, làm gia nghiệp và là trọng tâm của đời mình.
Có câu chuyện kể rằng, tại bệnh viện một bé gái được đưa vào phẫu thuật. Bác sĩ nói: “Cháu ạ, trước khi giải phẫu, ta phải làm cho cháu ngủ đã! Cô bé dịu dàng đáp: Ồ, nếu bác làm cho cháu ngủ, xin để cháu cầu nguyện đã. Rồi em ngồi dậy sốt sắng cầu nguyện. Bây giờ cháu đi ngủ được rồi.” Sau đó, chính bác sĩ giải phẫu cũng âm thầm cầu nguyện, lần đầu tiên sau 30 năm khô khan. Ai biết sức mạnh nào nơi cô bé đã khơi dậy niềm tin nơi người lớn tuổi hơn mình ?
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Có lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện chúng ta mới biết được ý muốn của Chúa mà phục vụ đúng lúc, đúng yêu cầu. Có lắng nghe Lời Chúa chúng ta mới khám phá ra giá trị của đau khổ: chính nhờ đau khổ mà Chúa Giêsu đã cứu rỗi loài người, và cũng nhờ đau khổ mà mỗi người chúng ta có thể “bổ khuyết’ cuộc thương khó của Chúa Kitô để mọi người đón nhận Tin mừng cứu độ. Thực ra, cuộc khổ nạn của Chúa Kitô đã quá đủ để cứu rỗi loài người, nhưng Tin mừng cứu độ đó cần phải được rao giảng. Có lắng nghe Lời Chúa, người giao giảng và kẻ được giao giảng mới khám phá ra “mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở nay được tỏ bày”. Lắng nghe và rao giảng Lời Chúa là hai mặt của cùng một thái độ sống khi muốn tỏ bày lòng hiếu khách.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta đến với Chúa như một người con thảo, một người bạn thân tình tìm gặp Chúa, lắng nghe Lời Chúa, và đón nhận Lời Chúa như cô Maria, để hạt giống Lời Chúa sinh hoa kết quả dồi dào trong cuộc sống của chúng ta. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
1. Gặp Chúa – Gặp tha nhân (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Chỉ một việc cần (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Hiện tượng “Thánh soi” (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Đón Người vào nhà (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
5. Matta và Maria (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
6. Mácta và Maria (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
7. Hai khuôn mặt của một sứ vụ (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
8. Lời Chúa (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
9. Lắng nghe, đón nhận, và thi hành Thánh ý Chúa (Lm.Giuse Lê Danh Tường)
10. Thiên Chúa đến và ở lại với chúng ta (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
11. Quà tặng vô giá (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
12. Đón Chúa viếng thăm và phục vụ Chúa (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
13. Lòng hiếu khách (JM. Lam Thy, ĐVD)
14. Maria đã chọn phần tốt nhất! (P.Trần Đình Phan Tiến)
15. Maria đã chọn phần tốt nhất. (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
16. Lựa chọn phần tốt nhất (Lm. Trần Bình Trọng)
17. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 16 Thường niên_C (Lm. Inhaxiio Hồ Thông)
18. Đảm đang (Trầm Thiên Thu)
19. Chúa Nhật 16 Thường niên_C (Lm. Antôn)
1. Phục vụ trong trật tự (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
2. Bệnh trầm cảm thời đại (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
3. Chọn phần tốt nhất (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
4. Phần tốt nhất (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Tinh thần phục vụ (Trầm Thiên Thu)
6. Làm việc và cầu nguyện (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
7. Chọn phần tốt nhất là chiêm ngắm thập giá (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
8. Em con đã chọn phần tốt nhất (Fx. Đỗ Công Minh)
9. Những mẫu gương sáng ngời (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
10. Lắng nghe và đón nhận Lời Chúa là người khôn ngoan (Vinc. Ngọc Biển)
11. Gia đình chị em Maria (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
12. Phục vụ và lắng nghe Chúa (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
13. Để cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
14. Đón tiếp nồng hậu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
15. Phục vụ chu đáo (AM. Trần Bình An)
16. Hai cách đón tiếp chung một tâm hồn (Lm. Uyen Nguyen)
17. Hãy là Mattha và Maria (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)
18. Chọn điều Chúa muốn (Dã Quỳ)
19. Sự cần duy nhất: Lời Chúa (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
20. Sống với Chúa (Lm. Giuse Nguyễn)
21. Chúa Nhật 16 Thường niên_C (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
22. Chỉ một chuyện cần mà thôi (Lm. Đan Vinh)
.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Thiên Chúa là Đấng vô hình. Để gặp gỡ Ngài, chúng ta phải có đức tin. Nói cách khác, chỉ có đức tin mới giúp chúng ta gặp gỡ Chúa, để rồi giữa cuộc sống trần gian, chúng ta vẫn “như thấy Đấng vô hình” (x. Dt 11,27). Cuộc gặp gỡ thiêng liêng này giúp ta cảm nhận sự hiện diện của Chúa, tâm sự với Ngài để giãi bày những nỗi niềm buồn vui của cuộc sống. Đức tin cũng giúp chúng ta gặp gỡ Chúa nơi tha nhân, tức là qua những con người cụ thể, chúng ta được gặp gỡ Đấng tối cao.
Ông Abraham là người kính sợ Chúa. Ông đã nghe lời Chúa gọi bỏ quê hương xứ sở đến một nơi Chúa sẽ chỉ cho, tức là ông chưa biết đó là nơi nào. Sự dứt khoát lên đường của Abraham được coi như mẫu mực của lòng tin và lòng phó thác cho mọi thế hệ sau này. Một buổi trưa nọ, vào lúc thời tiết nóng bức, Đức Chúa đã đến và gặp gỡ ông, dưới hình thức “ba người đàn ông”. Tác giả ghi lại sự mến khách, lòng nhiệt thành và hy sinh của ông cùng với vợ mình là bà Sara trong việc tiếp đón và phục vụ vị khách đến đột xuất. Lòng mến khách của ông đã được đáp đền. Vị khách hứa vào năm sau bà Sara sẽ có con trai. Qua sự tiếp đón niềm nở của Abraham và vợ ông, ông bà đã được gặp Chúa và được ngài ban cho điều đang mong đợi, đó là có được một mụn con vào lúc tuổi đã xế chiều.
Một cuộc đón tiếp khác được nhắc tới trong Tin Mừng hôm nay, đó là cuộc đón tiếp của hai chị em ở Bêtania dành cho Chúa Giêsu. Đây là gia đình Đức Giêsu lui tới thường xuyên, giống như những gia đình giáo dân đạo đức quảng đại hiện nay. Hai người phụ nữ với hai công việc khác nhau: một người lo dọn bữa, một người lắng nghe Chúa nói. Câu nói của Matta không thể hiện sự ghen tỵ cho bằng mối tương quan thân thiết giữa gia đình này với Đức Giêsu. Qua câu nói này, Matta có vẻ như gợi ý để được Chúa quan tâm, cũng là cách nói lên tình quý mến trân trọng. Để trả lời cho thắc mắc của Matta, Chúa Giêsu đã đánh giá việc lắng nghe Lời Chúa chiếm phần ưu tiên. Câu trả lời xem ra khó hiểu, vì nếu không có sự lo toan bận rộn của Matta, thì việc đón tiếp cũng sẽ trở nên buồn tẻ. Chuẩn bị bữa ăn để đón khách là việc ông Abraham và bà Sara đã làm để thể hiện lòng mến khách. Nay bà Matta cũng đang làm như thế và cũng xuất phát từ lòng mến khách. Khi tuyên bố: “Maria đã chọn phần tốt nhất”, thực ra Chúa Giêsu không phê phán hay coi thường việc dọn bữa. Người vừa coi trọng người chuẩn bị bàn ăn để đón tiếp Người, vừa khen ngợi tâm tình lắng nghe Lời Chúa của bà Maria. Khi khẳng định việc lắng nghe Lời Chúa của Maria là “phần tốt nhất”, Chúa muốn nhắc lại điều Người đã nói trước đó, trong trình thuật về việc Người chịu cám dỗ trong hoang địa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Qua đó, Người cũng muốn nhắc chúng ta: việc lắng nghe Lời Chúa phải dành phần ưu tiên trong cuộc đời.
Trong Cựu ước, Thiên Chúa viếng thăm con người dưới hình thức “ba người đàn ông”, tức là những con người bằng xương bằng thịt. Thời Tân ước, Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể đã đích thân đến để gặp gỡ con người. Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện giữa chúng ta, khác với thời Cựu ước và thời Tân ước, mà đó là sự hiện diện huyền nhiệm thiêng liêng. Thánh Phaolô khẳng định: Thiên Chúa muốn cho mọi người nhận ra chân lý cao siêu này, đó là Đức Kitô đang hiện diện giữa chúng ta. Đây là một “mầu nhiệm được ẩn giấu từ thời xa xưa và nay được tỏ hiện”. Người là niềm hy vọng và là vinh quang của chúng ta. Rao giảng Đức Kitô là sứ mạng Chúa Cha đã trao phó cho chúng ta, nhằm mục đích dẫn đưa con người đạt tới sự hoàn thiện trong Đức Kitô (Bài đọc II). Như thế, mỗi người được mời gọi đón nhận Chúa Giêsu, không phải như một con người trần thế, mà là Thiên Chúa vô hình đang hiện diện trong cuộc đời, nơi tha nhân, nhất là nơi những người cùng khổ bần hàn. Chính khi đón tiếp và cứu giúp những người bất hạnh mà chúng ta được đón tiếp Chúa (x. Mt 25).
Dưới đây là một trong những gợi ý suy tư và cầu nguyện của Cộng đoàn Taizé cho năm 2019: “Sự hiếu khách của Thiên Chúa đối với chúng ta là một lời mời gọi. Chúng ta có thể đón nhận người khác, không phải như cách chúng ta muốn họ là ai, mà là đón nhận chính con người thật của họ được không? Chúng ta có thể để chính bản thân mình được họ chào đón theo cách của họ, mà không phải cách của ta hay không? Chúng ta hãy trở nên những người nồng hậu, dành thời gian để lắng nghe ai đó, mời gọi họ một bữa tối, tiếp cận những người nghèo khổ, nói những lời nói tử tế với người mình gặp mặt…”.
“Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13, 2). Quả vậy, đón tiếp tha nhân là cơ hội tốt để đón tiếp Chúa. Gặp gỡ tha nhân sẽ giúp chúng ta gặp gỡ Đức Kitô, Đấng đang sống và đang hoạt động giữa chúng ta.
.
Lm. Jos.DĐH.
Có những quan niệm sòng phẳng: rượu ngon phải có bạn hiền, vì nếu “lai rai” một mình, họ sẽ gọi là đang uống rượu phạt. Có những ý tưởng nói rằng, người sành điệu phải là người biết ăn xài, biết chi tiêu, nếu không, có lắm tiền nhiều của vẫn bị xếp loại “quê mùa” mà thôi. Và cũng vì quan tâm đến cụm từ “đẳng cấp”, biết bao người trẻ chủ trương: ăn ngon mặc đẹp ; học không chơi phí đời tuổi trẻ, chơi không học bán rẻ tương lai. Chỉ có một việc cần, đó là sống đúng, sống đẹp, dù vị thế giầu nghèo, hoàn cảnh sung túc hay cô đơn lẻ bĩng, thiên thời có thuận, hay gia cảnh đềy khổ đau, người ta vẫn thể hiện được phong cách thư thái của người quân tử: chết trong hơn sống đục.
Bậc cha mẹ mơ ước con cháu chăm ngoan, nên người hữu ích, thầy cô hạnh phúc vì trò hiểu bài, xã hội lớn mạnh nhờ mỗi người công dân biết đồng lòng đồng ý, cùng xây dựng quê hương đất nước. Giáo hội tồn tại không phải nhờ một số đối tượng tài giỏi, nhưng nhờ ý thức có Đức Giêsu hiện diện, đó phải là điều cần thiết hơn cả. Cha ông chúng ta để lại kinh nghiệm cho hậu thế: khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ, kiêu căng một chút đã là thừa. Người trẻ có câu đầy khúc triết: thức đêm mới biết đêm dài, yêu người mới biết những ngày chờ trông. Suy nghĩ tích cực của chị Mácta phục vụ Thầy Giêsu bao nhiêu cũng không cân xứng, và chị muốn mong em chị hiểu và cùng giúp chị phục vụ Thầy chu đáo hơn. Tấm lòng yêu mến của người em Maria đã để lại bận tâm cho người chị: sao em vô tình đến độ chỉ biết đến mình, quên cả việc bổn phận: dù em khôn lớn cũng là em chị, dù chị thấp bé cũng là chị em.
“Chỉ có một việc cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị ai lấy mất”. Câu trả lời đó đã trở thành câu tâm niệm cho Mácta, cho muôn muôn thế hệ đang “lăn tăn” muốn biết đâu là việc chính, điểm phụ, khi tin và sống giáo huấn của Đức Giêsu ! Người ta dùng chìa khoá để mở cửa, mở két sắt, và không ai lại đưa chìa khoá cho kẻ trộm, kẻ xấu. Chị Mácta sẽ không than phiền với kẻ xa lạ, do đó chị không hoang mang về tinh thần phục vụ và tấm lòng yêu mến mà chị em họ đã và đang dành trọn vẹn cho Thầy Giêsu. Chọn điều tốt nhất là gì ? Như chị em Mácta, chẳng ai muốn chọn vẻ đẹp hào nhoáng bên ngoài, cũng không phải chọn người lắm tiền nhiều của, mà là chọn Đấng yêu thương mình, Đấng, chúng ta gọi là Thầy là Chúa.
Chỉ có một việc cần, đó là hãy chọn phần tốt nhất, chọn Đức Giêsu đang hiện diện sống động trong cuộc đời của mình, Đấng sẽ giúp chúng ta biết yêu, biết nhận ra thánh ý Chúa, và biết quên mình phục vụ vì Chúa, vì tha nhân. Chỉ có một chuyện cần là tin Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa Cha, hãy tìm gặp Chúa, nghe Chúa và thực hành lời Chúa theo như “nén bạc” mà mỗi người đang có. Chỉ có một việc cần là tín thác vào tình yêu Chúa, Ngài không hứa sẽ cho chúng ta cuộc sống an toàn và không phải đau khổ ở đời này, nhưng Ngài hứa sẽ nâng đỡ bổ sức cho tất cả những ai đang hiệp thông, sống đức ái Kitô. Chỉ có một việc cần là nhận ra mình là ai, hãy để tình yêu Đức Kitô biến đổi, cho dẫu cuộc đời đầy gian nan bất trắc, vì Chúa thấu biết chúng ta tội lỗi, bất xứng !
Xưa và nay, tất cả những ai theo Đức Giêsu, đi con đường của Ngài đều phải từ bỏ cái tôi ích kỷ của mình, phải đối nghịch với thế gian, phải mang vác thập giá đi trọn hành trình đời người, dù sức lực chúng ta giới hạn. Dù là linh mục tu sĩ, là một tín hữu bình thường, chúng ta vẫn được ơn ban để hiểu: đau đớn đã là điều đáng sợ rồi, nhưng khiếp sợ hơn, là mang vác khổ đau thập giá trên đường đời mà bên cạnh không có người thân nào ! Đời người chớ trêu, đứng núi này trông núi kia, thực ra, không phải tất cả các vết thương đều chảy máu, cũng không phải khi vết thương rỉ máu mới đau. Đức Giêsu đã đi trọn hành trình đời người, Ngài thấu biết tâm tư và cảm thông với nỗi thống khổ của kiếp người, hãy tin vào tình yêu của Ngài.
Đức Giêsu năm xưa hiện diện tại gia đình chị em Mácta không phải để được phục vụ, không có ý dò xét đúng sai, hẳn cũng không có ý khen chê cách tiếp đón của Maria và Mácta. Ngài đã mang tới một sứ điệp: chỉ có một việc cần mà thôi, hãy tin Chúa, hãy trân trọng giá trị thông hiệp bên tình yêu Chúa và anh chị em của mình. Chúa không nói chỉ cần ngồi bên bàn thờ gia đình cầu nguyện, nhưng hãy chọn phần tốt nhất, nghĩa là lao động, cầu nguyện, mỗi người hãy làm, hãy sống tận lực, tận tâm, với nén bạc được giao phó. Chỉ có một việc cần, đó là có Chúa, có tình yêu và sức mạnh của Chúa trong hành trình đời người, chúng ta sẽ được biến đổi và sống trọn vẹn thánh ý của Chúa. Amen.
.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Chuyện lạ ở đời là chẳng ai thích người khác săm soi chuyện của mình, nhưng đáng tiếc là họ lại thích săm soi chuyện người khác dẫn đến biết bao điều thị phi. Đây là loại người thích “sống hộ” cuộc sống người khác, nghĩa là không lo cho tròn việc của mình mà chỉ dành thời gian săm soi để rồi bình phẩm, phán xét những người xung quanh mình.
Mỗi người chúng ta ít nhiều cũng từng là đề tài của người khác khi mà họ sống hộ cho chúng ta. Tôi nhớ khi đó tôi đã 23-24 tuổi rồi mà vẫn chưa một mảnh tình vắt vai, bà hàng xóm nhìn tôi chép miệng than thở “hai mấy tuổi đời rồi mà chưa có nọ kia gì hả cháu?”, và không lâu sau, hầu như các mẹ trong xóm gặp tôi đều nói câu tương tự khiến chẳng muốn trả lời ai!
Năm 2019 là thời đại của mạng xã hội, của Facebook. Người người nhà nhà đều sử dụng Facebook, già trẻ lớn bé dường như đều có tài khoản Facebook. Tuy nhiên, thay vì là nơi để trò chuyện, kết bạn, chia sẻ buồn vui như mục đích ban đầu, thì Facebook giờ đây chẳng khác nào cái “chợ” thị phi để người Việt săm soi, bới móc, bình phẩm cuộc sống người khác. Họ vào facebook để săn tin, để “rình” xem có gì hay, có gì lạ để mà nhảy vào bình luận, phán xét, có khi chửi rủa chẳng tiếc lời. . . Theo tôi thì lực lượng này rất đông và hung hãn!!!
Chúng ta chỉ cần đăng một thứ gì đó mà họ cho là không đúng, không ổn thì chắc chắn chúng ta sẽ nhận một cơn mưa lời chê bai, trách móc, thậm chí “một xe gạch đủ để xây nhà” như cư dân mạng thường hay bảo. Thí dụ, một bác sĩ gác chân lên ghế khi khám bệnh liền bị các thánh soi và chửi đến nỗi phải nghỉ việc, hoặc một người mẫu ngủ trên máy bay vô tình gác chân trên ghế cũng bị ném gạch dư để xây nhà . . .!
Lời Chúa hôm nay cho ta thấy một câu chuyện rất đời thường. Khi Matta tất bật nấu nướng đãi khách, còn Maria lại ngồi hàn huyên với Chúa. Xem ra Matta không để mắt rời xa Maria. Bà vừa làm vừa liếc, vừa săm soi và xem ra chẳng vừa lòng cô em chút nào. Khi sự chịu đựng đã không còn, bà liền lên tiếng trách móc cả cô em và cả vị khách đáng quý. “Thầy coi , em con để một mình con hầu hạ Thầy?”, nhưng Chúa Giê-su đã nhắc nhở Matta: “Matta, Matta con lo lắng bối rối về nhiều chuyện quá”. Con hãy làm tốt việc của con đừng quan tâm việc của Maria. Maria cũng đang làm việc, và “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.
Mỗi người đều có những việc cần làm, và họ nghĩ việc này quan trọng hơn. Thế nên, chúng ta đừng bao giờ lấy suy nghĩ của mình để áp đặt người khác và nhất là đòi người khác phải sống theo ý mình.
Những người thích soi mói chuỵện người khác người ta gọi đó là “thánh soi”. Có những chuyện rất riêng của người này người khác nhưng rồi người ta cứ thoải mái soi để đưa lên mạng bình luận, câu “like”. Đời tư của mỗi cá nhân cần và cất cần được tôn trọng và bảo vệ nhưng dường như các “thánh soi” lại rất thích tìm kiếm chuyện người khác, việc người đời để mổ xẻ và kết án.
Đây là việc lỗi công bằng và bác ái với tha nhân. Lỗi công bằng vì những lời ném đá của chúng ta đã gây nên tổn thương tâm lý và có khi tổn thất cả danh dự và tiền bạc của người bị hại. Lỗi bác ái vì chúng ta đã thiếu yêu thương khi toa rập với nhau ném đá anh em.
Thích soi mói chuyện người khác còn làm cho mình trở thành thù nghịch vô cớ với anh em, khi mà họ chẳng làm gì tới mình, họ chỉ lo chuyện của họ mà cũng bị ta kết án tẩy chay.
Ước gì chúng ta đừng săm soi chuyện người khác mà chỉ biết làm tốt bổn phận của mình và dành thời giờ cho Chúa thì Chúa sẽ chúc phúc cho chúng ta. Amen
.
Bông hồng nhỏ
Người Việt Nam có câu nói sau để tỏ lòng hiếu khách mỗi khi có dịp tiếp khách: “Khách đến nhà không gà thì vịt”. Khách đến nhà chơi, chủ nhà nào cũng muốn tiếp đón khách thật tử tế. Đáng quý hơn là ở tấm lòng mừng vui của chủ nhà dành cho vị khách của mình. Ngày xưa, Nguyễn Khuyến đã chẳng có gà để thết đãi bạn tri kỷ, cũng chẳng có một mớ rau ngon nhưng ông tỏ tấm lòng mình với bạn: “Bạn đến chơi đây, ta với ta”.
Hôm nay, Chúa Giêsu vào một làng kia và ghé thăm gia đình chị em cô Mácta. Hẳn là các cô rất đỗi vui mừng khi được Thầy Giêsu viếng thăm. Cô Mácta đã ra đón Người vào nhà mình. Càng yêu quý ai bao nhiêu, người ta càng muốn bày tỏ tình yêu thương, sự quý mến dành cho người ấy. Hai chị em Mácta đều muốn dành tình yêu thương đối với Thầy Giêsu, mỗi người mỗi cách. Cô Mácta tất bật lo việc phục vụ. Cô tỏ ra là một người phụ nữ rất đảm đang và khéo léo. Còn cô em Maria thì cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy (x. Lc 10, 38-40). Cô say sưa nghe lời Thầy dạy và dường như quên cả những gì đang diễn ra xung quanh. Ở dưới bếp, cô Mácta đã thấm mệt và nhận ra mình cần sự giúp đỡ của em, cô tiến lại thưa với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10, 40b). Thầy Giêsu đáp: “Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 41- 42). Dường như Thầy Giêsu đã không thông cảm với nỗi mệt nhọc của cô Mácta. Nghe Thầy Giêsu trả lời, cô Mácta đã cảm thấy như thế nào? Tổn thương hay trân trọng lời dạy của Thầy? Một tâm hồn nhạy cảm trước lời dạy của Thầy sẽ đọc ra được tình thương chân thành của Thầy dành cho mình. Thầy rất thương cô và Thầy không muốn nhìn thấy cô phải vất vả, mệt nhọc. Tình thương yêu là điều đáng trân quý, điều quan trọng là ta dùng cách thức nào để bày tỏ tình thương ấy. Đã bao giờ ta trải qua kinh nghiệm rằng sự hiện diện với người ta thương quan trọng hơn là làm cho họ một điều gì đó?
Đâu là thái độ ta cần phải có khi đón Chúa vào nhà mình? Phải chăng là mau mắn phục vụ như cô Mácta hay đơn giản chỉ là ở bên để lắng nghe lời Thầy dạy như cô Maria? Phục vụ là một điều tốt nhưng quan trọng hơn là ta phải luôn ý thức ta đang phục vụ vì ai và vì điều gì. Đó là động lực để ta dấn thân cách quảng đại và vui tươi. Phục vụ là một hành trình quên đi chính mình để yêu thương người khác và nó cũng là một cách đào luyện tình yêu của ta thêm tinh tuyền hơn. Nếu ta cầu nguyện vì muốn tỏ ra là một người thánh thiện và yêu mến Chúa vì chính mình thì điều đó chẳng đẹp lòng Chúa. Ở lại bên Chúa vì yêu Chúa, phục vụ anh chị em vì yêu Chúa và yêu thương họ cách chân thành, đó mới là thái độ ta cần phải có. Bình an đích thực là hoa quả ta nhận được từ những chọn lựa trong Chúa.
Lạy Chúa Giêsu! Đã bao lần con tự hỏi: đâu là phần tốt nhất mà Chúa muốn con chọn? Ở lại bên Chúa hay mau mắn phục vụ anh chị em mình? Xin Chúa thanh luyện trái tim con, uốn nắn trí tuệ và soi sáng cho con để mỗi ngày, con biết chọn điều đẹp lòng Chúa và rảo bước trên con đường của Đức Ái. Amen.
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Có hai thành phần trong Lời Chúa, đó là lắng nghe và thực hành. Hoạt động của Matta và Maria là hai yếu tố cần thiết, nhưng có sự càn thiết hơn trước khi hành động là lắng nghe.
Trong Thiền luận, với phương pháp chỉ thẳng, phát biểu về chân lý thiền là chân lý thực hiện, nghĩa là sống thực chứ không chỉ dừng ở suy tưởng. Trong đời sống, thường người ta sống cái thực tại đã được định hình từ trong nội tâm, tiềm thức. Người ta không sống vì những lý luận, những lý thuyết, đơn giản người ta sống theo những chuẩn mực đã được đào luyện trước thành thói quen, tuỳ độ sâu rộng.
Chúa khen Maria chọn phần tốt nhất, còn Matta chọn phần khác, không phải xấu mà là thiếu. Theo nguyên tắc chú tâm của việc làm mới quyết định: Nghe để tâm nghe, chỉ một việc, không sao nhãng chuyện khác. Chuẩn bị bữa ăn, để tâm nấu ăn, không sao nhãng việc nấu ăn.
Có người sánh ví, cuộc sống và thời gian như bút vẽ trên bức tranh thuỷ mặc. Một nét bút buông xuống trong khoảng thời gian trên bức tranh để vẽ lên, nét mực không còn tẩy xoá. Nó là vĩnh viễn, cái gì đã sống thì đã là quá khứ. Một nét tẩy trên bức tranh thuỷ mặc là bộc lộ một bức tranh bị lỗi, bị tước bỏ khỏi sự hoàn hảo của bức tranh.
Cái gì đã qua là đã qua, không thể sửa đổi. Từ một thực tế đó, nghe lại lời khen của Chúa đối với Maria, mới hiểu điều cơ bản của hành động cần dựa trên nền tảng “nghe và hiểu”. Tập chú vào điều nghe nên gọi là “lắng”, lắng nghe tiếng gió nhẹ thì thầm, lắng nghe mặt nước lay động nhẹ trên mặt hồ. Lắng nghe Chúa Thánh Thần nói trong gió nhẹ, trong làn sương mỏng buổi sớm, tiếng gợn nhẹ mặt hồ nước, lắng trong tâm để thấm vào sâu tận tâm can, trở thành máu thịt.
Chúa Giêsu khen Maria, như để mời gọi người nghe Chúa, cần để tâm thật tịnh, lắng thật sâu, có thể chạm tới tận nguồn sống. Để rồi như Matta nấu ăn, như thể nghe tiếng xèo của dầu chiên, nghe tiếng xôi của nồi nấu, nghe mùi thơm của cơm, tận cùng sâu lắng của nguồn thực phẩm thơm ngon đang tuôn trào nguồn nuôi dưỡng. Thết đãi Chúa với hết linh hồn, hết trí khôn, hết lòng, hết sức. Đó là cội nguồn sự sống đang dạt dào thể hiện đời sống bằng hành động “sống đúng là đang sống”.
Trong cuộc sống hôm nay, con người bị trộn lẫn nhiều thứ, chịu chi phối nhiều mặt, làm mất đi ý nghĩa đời sống. Cần trở lại với điều cơ bản nhất, ý thức mình đang sống, sống sự sống dồi dào, từ việc tập lắng nghe và hành động hết lòng và hết sức.
Dòng chảy cuộc sống vẫn đang chảy. Xin Chúa dạy chúng con biết lắng nghe, biết thẩm thấu tận sâu thẳm và để được kín múc tận nguồn sống, để sống đời sống một cách phong phú nhất với điều Chúa ban tặng.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đọc trang Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, chắc chắn mỗi người chúng ta đều có nhiều suy nghĩ. Thực tế, đoạn Phúc Âm này gợi cho chúng ta nhiều ấn tượng về hai chị em Mácta và Maria. Bởi vì mỗi người một cung cách, mỗi người một nét, một vẻ, nhưng hai chị em bổ túc cho nhau, làm nên một vẻ đẹp, một bản hòa âm nhạc tuyệt diệu. Mácta hăng say bếp núc, phục vụ Chúa và các môn đệ của Người một bữa ăn ngon. Maria ngồi dưới chân Chúa, lắng nghe lời của Người giảng dạy. Mácta và Maria đã nêu cho mỗi người chúng ta bài học “ Phục vụ để yêu thương “ và “Lắng nghe để yêu thương “.
Vâng, nếu đem so sánh hai thái độ và khi nghe Mácta nhắc khéo Chúa, xin để Maria giúp con với vì con phải tất bật, lo lắng làm cơm để thết đãi Chúa và các môn đệ của Người, chắc có người sẽ nghiêng bênh vực Mácta vì cô đang vất vả, có khi phải đổ mồ hôi để lo phục vụ Chúa và các môn đệ. Maria vẫn lắng đọng, ngồi chăm chú lắng nghe Chúa, làm cho Mácta khó chịu. Nhưng Chúa đã trả lời Mácta :” Mácta! Mácta ơi! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi “ ( Lc 10,41-42 ). Việc Mácta nói lên với Chúa cho thấy cô đang phục vụ mà Chúa và Maria cứ ngồi nói chuyện. Tuy nhiên Chúa Giêsu cho Mácta cũng như mọi người biết rằng :” Mácta thết đãi là phục vụ “, nhưng “ Maria đang lắng nghe cũng là một cách thết đãi và phục vụ “.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều đổi thay, khoa học kỹ thuật lên cao tới tột đỉnh.Con người tất bật tìm kiếm lợi nhuận. Người ta đua tranh quảng cáo để tìm những mối lợi cho các mặt hàng mình đang thụ đắc .Phải chăng đang có nhiều Mácta hơn là Maria ? Tuy vậy, mình Mácta chưa đủ mà cần cả Maria nữa! Bởi vì, con người sau những phút náo động, ồn ào, huyên náo vẫn cần những lúc lắng đọng tâm hồn, thảnh thơi, nghỉ ngơi để nghe con tim thỏ thẻ. Thường trong lúc ồn ào nhất người ta vẫn cần những phút im lặng. Sự thành công của con người không phải lúc nào củng huyên náo. Tại sao các Dòng tu, các Tu hội lại luôn có những giờ kinh nguyện được qui định rõ ràng. Đời sống hoạt động và chiêm niệm luôn cần có sự cân đối để bổ túc cho nhau. Tâm niệm của một số Đan viện là “ Làm việc và Cầu nguyện “. Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta đã bầy cho chúng ta bí quyết thành công của Mẹ là cầu nguyện. Do đó, mẫu gương của Mácta và Maria luôn được Hội Thánh nêu cao ! Chúa muốn mỗi người chúng ta phải biết quân bình đời sống, quân bình công việc. Làm nhiều mệt mỏi rồi trách Chúa như thế chúng ta chưa thực hành ý Chúa. Cầu nguyện, lắng nghe nhưng cũng không phải cứ ngồi đó rồi chờ Chúa ban, Chúa tặng mà không chịu làm việc như thế cũng chưa làm đẹp ý Chúa.
Vâng, cả Mácta và Maria đều cần thiết trong đời sống vì cả hai thái độ, hai cách biểu lộ đều đẹp miễn con người biết làm cho nó cân đối : Lao động và Cầu nguyện. Mácta cũng là thái độ của mỗi người chúng ta khi chúng ta tưởng rằng phục vụ Chúa, nhưng kỳ thực chúng ta muốn mình thành công và muốn mọi người ca tụng, khen ngợi cá nhân mình. Làm sao chúng ta làm đẹp lòng Chúa, làm theo ý Chúa và yêu Chúa cách chân thành, trong suốt như Maria ?
Chúng ta đang sống trong Giáo Hội do Chúa thiết lập. Chúa muốn chúng ta tìm ý Chúa chứ không phải tìm ý riêng mình. Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã chỉ cho ta hiểu :” Chúng ta tìm ý Chúa hơn là tìm công việc của Chúa “ .
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy các môn đệ và nhân loại cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, xin cho chúng con biết tìm ý của Chúa Cha và chỉ muốn cho Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CẦU NGUYỆN :
1.Mácta có thái độ nào khi phục vụ Chúa ?
2.Maria đã làm gì khi Mácta tát bật phục vụ ?
3.Cầu nguyện có cần để gặp Chúa không ?
4.Đời sống hoạt động và đời sống chiêm niệm khác nhau thế nào ?
Hai đời sống này có cần bổ túc cho nhau không ?
.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Cầu nguyện và hoạt động là hai bổn phận chính yếu của người Kitô hữu, là hai nhịp sống của một sứ vụ Tông Đồ. Tin Mừng của Chúa Nhật XVI giới thiệu với chúng ta hai khuôn mặt nổi bật đại diện cho hai khuynh hướng này. Maria đại diện cho cầu nguyện, chiêm niệm, và lắng nghe Lời Chúa, còn Mácta đại diện cho hoạt động và phục vụ. Cả hai không tách biệt, cũng không loại trừ lẫn nhau, nhưng là bổ túc và thăng tiến cho nhau.
1- Maria, người của cầu nguyện
Thánh Luca kể cho chúng ta câu chuyện thật dễ thương về việc đón tiếp Chúa Giêsu tại nhà hai chị em Mácta và Maria. Mácta thì tất bật bếp núc, còn Maria thì chỉ lo ngồi tiếp chuyện với Chúa. Mỗi người một cách thế để thể hiện lòng hiếu khách, mỗi người có một thái độ để bày tỏ tình yêu mến với Chúa. Thánh Luca tường thuật: “Maria ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Người dạy.”
Ở đây, chúng ta để ý tới từ ngữ: “Ngồi dưới chân Chúa” và “nghe lời Chúa.” Ngồi dưới chân Chúa có nghĩa là ở với Chúa, ở bên Chúa, đối thoại với Chúa, sống thân tình và mật thiết trong sự hiện diện của Chúa. Và việc ở bên Chúa như thế là để nghe Lời Chúa, nghe Chúa nói với mình và nhất là tìm ý Chúa muốn.
Chính vì thế, cầu nguyện có nghĩa là ở với Chúa, nghe Chúa nói, chứ không phải chỉ để xin xỏ điều nọ điều kia. Và theo cách của Maria, cầu nguyện trước hết không phải là lôi kéo Thiên Chúa xuống với những nhu cầu, ý muốn và tính toán của mình, mà trái lại là để Thiên Chúa nâng ta lên với thế giới của Người, để nhận biết thánh ý Chúa, để có những tầm nhìn, tâm tư và lối hành xử giống Người.
2- Mácta, người của phục vụ
Nếu Maria đại diện cho việc cầu nguyện, thì Mácta là hình ảnh của hoạt động và phục vụ. Chỉ có cầu nguyện thôi chưa đủ, chúng ta còn phải biết phục vụ trong tinh thần cầu nguyện.
Hình ảnh một Mácta trong Tin Mừng lo lắng bận rộn với việc bếp núc nói lên lòng hiếu khách, lòng nhiệt thành của Mácta đối với Chúa Giêsu. Việc làm của Mácta là tốt, cần thiết và đáng trân trọng. Vì “khách đến nhà không gà thì vịt,” phải có gì ăn chứ! Như người Pháp nói rằng: “Chính bữa ăn làm cho người ta trở nên gần gũi với nhau” (on se tache par le repas). Hay như người Việt Nam ta vẫn thường nói: “Khách đến nhà, không gà thì vịt.”
Hiểu như thế thì không cho phép chúng ta nói rằng: Chúa Giêsu coi thường việc phục vụ của Mácta. Người không bao giờ đánh giá thấp việc phục vụ như đã có lần Chúa nói: “Ta đến để phục vụ.” Và nhiều lần Chúa cũng đón nhận sự đón tiếp của những người khác mời Chúa tới nhà dùng bữa. Vì đối với Chúa, phục vụ là một điều cao quý và ý nghĩa, phục vụ là một niềm vui.
3- Maria đã chọn phần tốt nhất
Nhưng giữa cầu nguyện và hoạt động, việc nào cần ưu tiên trước? Chúng ta tìm thấy lời giải đáp cho câu hỏi này ở cuối bài Tin Mừng, khi Chúa nói với Mácta: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất.”
Ở đây Chúa nhắc nhở Mácta và tất cả chúng ta: Cầu nguyện và hoạt động là cần thiết, nhưng việc cầu nguyện chiếm chỗ đầu hết, trước hết. Cầu nguyện trước khi hoạt động, trước khi phục vụ.
Các Tông Đồ trước khi đi loan báo Tin Mừng đã sống bên Chúa, để có những kinh nghiệm cá nhân với Chúa rồi từ đó mới có thể rao giảng về Chúa. Điều Chúa nhắc bảo giúp chúng ta tránh một nguy cơ rất dễ xảy ra trong đời sống của chúng ta hôm nay. Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có một phân biệt rất tinh tế, đó là: “Con chọn Chúa hay công việc của Chúa.” Nhiều khi chúng ta làm những công việc của Thiên Chúa nhưng lại quên chính Thiên Chúa. Cha Antony de Mello ví von điều đó giống như cô gái bán nước bên dòng sông mà quên đi chính dòng sông. Phải cầu nguyện trước khi hoạt động và hoạt động trong cầu nguyện. Như thế công việc của chúng ta mới đẹp ý Chúa, mới có thể đưa tới sự thành công. Mẹ Têrêxa Calcutta là mẫu gương cho chúng ta về điều đó. Mẹ cầu nguyện hàng giờ trước Thánh Thể trước khi đi phục vụ người nghèo.
Thành thử ra, điểm then chốt của câu chuyện hôm nay không phải là mời gọi chúng ta chọn Maria hoặc chọn Mácta. Người môn đệ đích thực của Chúa Kitô cần cả hai thái độ của Maria và Mácta. Nhưng trong hai thái độ sống đó, chúng ta được mời gọi dành ưu tiên trước hết cho việc cầu nguyện, cho việc ở lại với Chúa, biết Chúa, sống tương quan mật thiết, hiệp thông với Chúa; rồi từ đó dẫn chúng ta tới việc phục vụ Chúa và tha nhân, việc phục vụ này như là hậu quả của việc cầu nguyện. Amen!
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Phúc ai được Chúa ghé thăm,
Gia đình êm ấm, tháng năm mong chờ.
Mar-tha đón Chúa đơn sơ,
Nấu ăn bận rộn, chẳng nhờ được ai.
Ma-ri-a mải ngồi dai,
Kề bên chân Chúa, mở khai tâm hồn.
Lắng nghe Lời Chúa học khôn,
Mải mê hầu chuyện, kính tôn vua trời.
Mar-tha kêu cứu đôi lời,
Xin Thầy nhắc bảo, kêu mời giúp cho.
Chúa rằng mọi việc đừng lo,
Của ăn đích thực, là kho ân tình.
Lặng ngồi nghe Chúa một mình,
Ma-ry hiếu thấu, tâm tình tri ân.
Chúa thương chỉ dậy ân cần,
Tình yêu cao quý, tinh thần phó dâng.
Chọn phần tốt nhất xin vâng,
Cậy nhờ ơn Chúa, đỡ nâng suốt đời.
Chúa ban ân huệ cao vời,
Thực hành lời Chúa, tuyệt vời biết bao.
Chúa Giêsu đến thăm gia đình Martha và Maria. Thật vui khi được Chúa ghé thăm. Chị thì lo việc bếp núc và người em thì lo ngồi hầu chuyện với Chúa. Mỗi người một bổn phận và một cách tỏ lòng hiếu khách. Chúa Giêsu lại có cơ hội dạy cho chúng ta một bài học. Mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, Chúa Giêsu luôn dậy chúng ta những bài học liên quan đến sự khao khát Nước Trời.
Chúa đến nhà, Martha quá vui, bà tất bật lo cơm nước tiếp đãi Chúa. Đây là việc rất tốt. Bà Martha quá bận bịu và bà cũng hơi ganh tị với Maria, nên bà nhờ Chúa nhắc khéo, bà nói: Lạy Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Lời trách cứ rất dễ thương. Chúa Giêsu lại không bênh đỡ Martha mà Chúa lấy dịp này đưa ra một lời khuyên. Chỉ có một sự cần, Maria đã chọn phần tốt nhất. Phần đó chính là ở bên Chúa và lắng nghe lời Chúa.
Có Chúa, chúng ta sẽ có tất cả. Mấy khi chúng ta được ở bên Chúa thực sự. Có khi nào chúng ta đến gần bên Chúa trong Nhà Tạm để tâm sự với Chúa không? Bao lâu chúng ta qùy trước Chúa Giêsu Thánh Thể mỗi ngày, mỗi tháng hay mỗi năm? Chúng ta thường đến với Chúa như là khách vãng lai, mau mau thi hành xong bổn phận buộc giữ ngày Chúa Nhật là chúng ta ra về ngay. Nhiều khi chúng ta không biết Nhà Tạm ở nơi đâu để kính viếng.
Maria đã chọn phần tốt nhất. Maria đã chăm chú lắng nghe lời Chúa dậy. Chúng ta nghe lời Chúa hàng tuần nhưng mấy khi chúng ta thực sự lắng nghe. Chúng ta đến nhà thờ để nói cho Chúa nghe nhiều hơn là lắng nghe tiếng Chúa. Chúng ta đâu cho Chúa cơ hội nói truyện riêng với chúng ta. Chúng ta lo đọc kinh, hát xướng và tham dự thánh lễ chung và kết thúc ra về. Chúng ta nghĩ rằng đó là đã xong bổn phận kính thờ Thiên Chúa.
Truyện kể: Có một ông phú hộ đón Chúa vào nhà. Ông dành cho Chúa một phòng tiện nghi. Trao chìa khóa phòng. Đêm thứ nhất, phú hộ nghe có tiếng đập cửa, ông bước xuống, thấy ba anh qủy muốn vào. Ông đã xua đuổi chúng đi. Đêm thứ hai cũng thế, mấy anh qủy lại đến quấy rầy, ông nghĩ tại sao Chúa không giúp ông? Ông đã dành cho Chúa một phòng ngủ mà. Sao Chúa làm ngơ. Ngày hôm sau, ông quyết định gặp Chúa và trình bày sự việc. Chúa nói: Ông đón tôi vào nhà và trao cho tôi một phòng, còn các phòng khác khóa cửa. Tôi đâu có quyền trong nhà. Ông nói: Lậy Chúa, xin tha cho con, giờ đây con trao cho Chúa tất cả. Đây là chìa khóa căn nhà. Đêm kế, lại có tiếng đập cửa. Chúa và ông xuống, qủy nhìn thấy Chúa và nói: Xin lỗi, chúng tôi đến nhầm nhà.
Hãy lắng động tâm hồn tìm về bên Chúa. Ngài sẽ nâng đỡ bổ sức cho chúng ta. Về bên Chúa là về với nguồn suối mát và chỗ nghỉ ngơi. Lạy Chúa xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn đón Chúa vào nhà chúng con. Xin Chúa ở lại với chúng con vì trời đã tối rồi.
.
LẮNG NGHE, ĐÓN NHẬN, VÀ THI HÀNH THÁNH Ý CHÚA
Lm. Giuse Lê Danh Tường
Các bài đọc hôm nay làm nổi bật thái độ của con người trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Lòng mến khách và sự ưu ái được bộc lộ trong khung cảnh gia đình ấm cúng. Nhưng đâu là thái độ mà Thiên Chúa muốn ở nơi mỗi chúng ta khi chúng ta tiếp rước Chúa vào nhà mình, vào tâm hồn mình?
Trong bài đọc 1 trích từ sách Sáng Thế (St 18, 1-10a), vợ chồng ông Abraham và bà Sara đã đón ba vị khách vào nhà mình. Trong truyền thống của Giáo hội, hình ảnh ba vị khách trong câu chuyện này được miêu tả là hình ảnh của một Thiên Chúa Ba Ngôi Vị. Ông bà Abraham và Sara đã đón Chúa vào nhà mình. Ông bà đã tiếp đãi khách thật chu đáo, thịnh soạn, và cũng rất lễ phép. Truyền thống văn hóa Á Đông được hiện lên rõ nét ở đây: đàn ông tiếp khách còn phụ nữ thì ở trong nhà lo nấu nướng. Nhưng tất cả đó chỉ là khung cảnh của câu chuyện.
Cốt lõi của cuộc gặp gỡ là câu nói tiết lộ thánh ý của Thiên Chúa cho ông bà nghe: bằng rầy sang năm ông bà sẽ có con. Bà Sara đã cười thầm. Mà làm sao không buồn cười được khi hai ông bà già đã ngoài 80 mà được bảo là sẽ có con. Nhưng đấy là thánh ý Thiên Chúa. Đôi khi người ta nhận thấy Ý Chúa thật ngọt ngào; đôi khi Ý Chúa là chén đắng phải uống; và đôi khi Ý Chúa thật buồn cười vì nó chẳng theo cái lý sự ở đời này.
Cái cười của bà Sara đã bị phát giác. Bà thì biện minh theo lý lẽ thường tình: đến ham muốn còn chẳng còn thì nói chi đến có con. Nhưng vị khách lại khẳng định với ông bà theo lý khác: Đối với Thiên Chúa thì có gì khó đâu.
Câu chuyện trong bài Tin Mừng đưa ta đến với ý muốn của Thiên Chúa nơi chính mỗi người chúng ta. Gia đình chị em Mattha và Maria đã đón Chúa Giêsu vào nhà mình. Mattha thì lo thu xếp nhà cửa, nấu nướng đồ ăn để thiết đãi khách quý cho phải phép theo lẽ thường tình. Maria thì ngồi dưới chân Chúa Giêsu để nghe Ngài nói. Xung đột đã xảy ra. Mattha đã gián tiếp trách em mình khi nói với Chúa Giêsu: “Xin Thầy bảo em con giúp con với” (Lc 10,40).
Hình ảnh Maria ngồi dưới chân Chúa để nghe Ngài giảng nói lên nhiều điều. Tư thế ngồi nghe như vậy nói lên tư cách người môn đệ. Mặc dù với Do Thái giáo thời đó, chỉ người nam mới có tư cách đón nhận giáo huấn như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu đã đón nhận cả Maria. Điều đó nói lên sự bình đẳng và rộng khắp của sứ điệp Lời Chúa. Càng mạnh hơn khi nhìn vào Bài đọc 1 ta chỉ thấy người nam mới được tiếp đãi trực tiếp và trò chuyện với khách, còn ở đây chị em Mattha và Maria đã đứng ở vị thế của người nam. Vượt qua rào cản của văn hóa như vậy đủ để cho chúng ta thấy được sự tự do của Lời Chúa. Thánh ý Thiên Chúa không bị gò bó, lệ thuộc vào bất cứ một khuôn phép hay thể chế nào của con con người. Lời Chúa luôn là đèn soi dẫn cho tất cả mọi người nhận ra và tiến về miền Chân Lý.
Câu trả lời của Chúa Giêsu với Mattha: “Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (Lc 10,42). Ắt hẳn Chúa không có ý khinh chê công việc phục vụ mà Mattha đang làm. Bởi chính Ngài đã nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ” (Mt 22,28). Thế nhưng trong cuộc đời hiến thân phục vụ đến hy sinh cả mạng sống ấy, Giesu luôn tâm niệm một điều: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34 ). Ngài luôn lắng nghe Chúa Cha và thực thi theo thánh ý Chúa Cha.
Điều Chúa muốn nói với Mattha hôm nay cũng chính là nói với mỗi người chúng ta: dù có làm việc gì thì đừng quên điều tối quan trọng là tìm biết thánh ý Thiên Chúa. Chúng ta không làm việc theo chỉ dẫn của loài người nhưng là theo chỉ dẫn của Thiên Chúa. Đón Chúa vào nhà không phải để có cơ hội để phục vụ Chúa, mà là để có cơ hội lắng nghe thánh ý Chúa.
Chúng ta dễ dàng sửa soạn lễ vật, trang hoàng bàn thờ để tiến dâng lễ tế. Nhưng để có một khoảng thời gian thinh lặng lắng nghe Lời Chúa lại là chuyện khó, và càng khó hơn khi quyết định thực thi theo thánh ý của Chúa.
Đôi khi ta thấy Lời Chúa thật nhẹ nhàng, êm ái, và dễ thực hiện; đôi khi ta thấy Lời Chúa khô khan và thật khó thực hiện; hay như bà Sara, thấy Lời Chúa thật buồn cười, vô lý. Nhưng chỉ những ai thi hành thánh ý Chúa mới thấy được sự kỳ diệu trong lối dẫn dắt của Ngài. Chỉ khi đi vào con đường theo thánh ý Chúa ta mới cảm nhận được lòng yêu thương và tận tình của Thiên Chúa dành cho ta.
Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho con, để con biết lắng nghe Lời Chúa, biết đón nhận Lời Chúa, và biết thực thi theo Lời Chúa chỉ dẫn trong chính cuộc đời con.
.
THIÊN CHÚA ĐẾN VÀ Ở LẠI VỚI CHÚNG TA
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (St 18:1-10a; Cl 1:24-28; Lc 10:38-42)
Phụng vụ Lời Chúa tuần trước đã trình bày Chúa Giê-su, Lề Luật được kiện toàn của Thiên Chúa, đã đến ở giữa chúng ta để làm mẫu gương về sự hoàn thiện. Đón nhận Chúa Giê-su là đón nhận Lề Luật Thiên Chúa và sống theo gương Người là cách chúng ta trở nên hoàn thiện. Lời Chúa hôm nay tiếp tục khai triển đề tài này, đặc biệt qua câu chuyện Chúa đến thăm chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a tại nhà các cô. Để giúp chúng ta biết quý trọng sự viếng thăm của Chúa, Phụng vụ Lời Chúa lấy lại câu chuyện Đức Chúa ghé thăm ông Áp-ra-ham đang ngồi ở cửa lều tại cụm sồi Mam-rê. Tiếp đến là suy niệm của thánh Phao-lô về mầu nhiệm Chúa Ki-tô: “Chính Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang”.
Trước hết là sự kiện Thiên Chúa ghé thăm ông Áp-ra-ham. Từ sau khi được Thiên Chúa kêu gọi đi tới nơi Người chỉ định, ông Áp-ra-ham mỗi ngày một phát huy đức tin của ông vào Người. Mối tương quan giữa ông với Thiên Chúa đã thêm thắm thiết. Một ngày kia, Thiên Chúa đã giả dạng ba người khách lạ đến gặp ông. Chính vì sự gần gũi với Thiên Chúa nên ông đã không ngần ngại thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài”. Chúa không từ chối lời mời, vào trong lều của ông và để cho ông phục vụ Người. Ông đã tiếp đón Người với tất cả lòng hiếu khách: ông bảo Xa-ra vợ ông lấy tinh bột mà làm bánh, chính tay ông bắt một con bê béo giao cho đầy tớ làm thịt, ông mời Người dùng thịt bê, sữa chua và sữa tươi, còn ông thì đứng hầu dưới gốc cây. Cách tiếp đón của ông đủ cho ta thấy ông trân trọng việc Đức Chúa viếng thăm là dường nào. Đổi lại, Thiên Chúa đã trọng thưởng ông vì việc tiếp đãi nồng hậu ấy, đó là lời Người hứa: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai”. Chúa đến với chúng ta qua lời của Người. Vậy chúng ta đã đón nhận thế nào?
Nhiều câu chuyện Cựu Ước đã kể lại Thiên Chúa đến thăm cá nhân hoặc cộng đồng. Tuy nhiên tột đỉnh của việc Thiên Chúa viếng thăm nhân loại vẫn là thực tại Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi, hay “Đức Ki-tô đang ở giữa anh em”, như thánh Phao-lô khẳng định. Đối với ngài, sự kiện Thiên Chúa đến ở với chúng ta qua Đức Ki-tô là một “mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại”. Mầu nhiệm ấy được tỏ ra cho dân thánh khi Ngôi Hai xuống thế làm người phàm. Sau đó, trước khi về trời, Chúa Giê-su đã sai các môn đệ Người đi rao giảng mầu nhiệm ấy cho muôn dân, “để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô”. Mục đích cuối cùng của việc Chúa Ki-tô đến sống giữa nhân loại là để “ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang”. Đúng vậy, tội nguyên tổ và tội riêng chúng ta đã làm ta xa dần Thiên Chúa và trở thành kẻ thù của Người. Giờ đây chính Chúa Ki-tô đến dẫn chúng ta trở về nhà Cha để chung hưởng vinh quang Thiên Chúa. Riêng với thánh Phao-lô, ngài ý thức sứ mệnh của ngài là rao giảng cho dân ngoại mầu nhiệm “phong phú và hiển hách” này. Nhìn vào những nỗ lực của Phao-lô rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, chúng ta phải khâm phục lòng nhiệt thành vì Đức Ki-tô đã thúc bách ngài, bởi ngài xác tín vào kế hoạch Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc tiếp đón Thiên Chúa của hai chị em cô Mác-ta. Ngày xưa ông Áp-ra-ham tiếp đón Đức Chúa như một vị khách ghé thăm ông tại lều ở cụm sồi Mam-rê. Hôm nay chị em Mác-ta và Ma-ri-a tiếp đón Con Thiên Chúa đến nhà các cô. Chúa Giê-su được tiếp đãi nồng hậu qua thức ăn ngon do cô Mác-ta nấu nướng. Dĩ nhiên thái độ tất bật lo thức ăn thức uống của cô Mác-ta cũng làm cho Chúa cảm động chứ, nhưng qua lời Chúa nhắc nhở về “một chuyện cần thiết” khi tiếp đón Chúa, thì “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy” vẫn là “phần tốt nhất”! Lời nhắc nhở này chắc chắn làm chúng ta suy nghĩ nhiều về cách sống đức tin của mình. Thứ nhất là thái độ của chúng ta khi lắng nghe Lời Chúa. Cách Chúa đến với ta rõ ràng nhất, đó là qua Lời Người. Chúng ta không được diễm phúc như ông Áp-ra-ham hoặc chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a, nhưng chúng ta lại có lợi thế là lúc nào cũng có thể đón nhận Lời Chúa: trong Thánh lễ, khi đọc và suy niệm Kinh Thánh lúc cầu nguyện riêng, khi nghe giảng dạy và chia sẻ Lời Chúa, tham dự những buổi cầu nguyện nhóm… Thứ hai, hình ảnh cô Mác-ta và Ma-ri-a cũng làm chúng ta nghĩ đến việc đi dự Thánh lễ Chúa Nhật. Nhiều người đi lễ chỉ để “giữ ngày Chúa Nhật”, chứ không phải đi tiếp đón Chúa. Rất nhiều người chỉ lo mặc áo này áo nọ, đeo bông tai nào, xách cái ví nào…, nghĩa là “tất bật” đủ thứ, còn chuyện cần thiết hoặc chọn phần tốt nhất là chuẩn bị tâm hồn thì lại không mấy quan tâm. Dù có phải để ý chuẩn bị bề ngoài thì ít ra chúng ta cũng phải có chút lòng yêu mến của cô Mác-ta đối với Chúa chứ! Nhưng lòng yêu mến ấy chúng ta chẳng có hoặc quá yếu ớt. Chẳng lẽ chúng ta lạnh lùng, không một chút tình cảm dành cho Chúa hay sao?
Mục đích cuộc sống chúng ta là phụng sự Thiên Chúa và phục vụ anh chị em. Để đạt mục đích này, ta cần giữ quân bình giữa hoạt động và cầu nguyện. Quan trọng hơn nữa, đó là duy trì được tính cách hỗ tương: cầu nguyện là động lực để hoạt động và hoạt động để biểu lộ cầu nguyện.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Chúa Giê-su đến thăm nhà, cô Mác-ta đã dành cho Ngài một cuộc tiếp đón nồng hậu. Cô “tất bật lo việc phục vụ” Chúa thật chu đáo. Cô “băn khoăn lo lắng nhiều chuyện…” để cho Chúa được vui lòng. Thế mà chẳng được Chúa khen, lại còn bị trách: “Sao con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!” Thế có oan không chứ?
Thật ra, Chúa Giê-su không có ý trách Mác-ta về việc phục vụ hầu hạ tận tình của cô. Chúa chỉ muốn lưu ý Mác-ta rằng: Điều cần thiết hơn cả là lắng nghe, là đón nhận lời Ngài. Cô Maria đã khôn ngoan chọn làm việc nầy (tức lắng nghe Lời Chúa) và Chúa Giê-su cho đó là chọn phần tốt nhất.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đến nhà chúng ta và trao gởi cho chúng ta những tâm tình, những lời châu ngọc, những giáo huấn khôn ngoan… như Ngài đã trao ban cho cô Maria hôm xưa. Tất cả được gói ghém trong cuốn Tin mừng.
Để có thể trao tặng cho chúng ta cuốn Tin mừng như chúng ta hiện có, Chúa Giê-su đã phải ‘biên soạn’ rất công phu. Ngài đã mất đến ba mươi ba năm mới hoàn thành kiệt tác vĩ đại nầy.
Thật ra, Chúa Giê-su không viết Tin mừng nhưng Ngài đã dệt nên Tin mừng bằng ba mươi ba năm cuộc sống.
Tin mừng của Chúa Giê-su được dệt bằng chính cuộc sống dương gian của Ngài, kể từ lúc đầu thai trong lòng Trinh nữ Maria, được sinh ra trong chuồng bò, trốn lánh sang Ai Cập, trở về sống đời niên thiếu ở Na-da-rét, rồi lớn lên trong phấn đấu nhọc nhằn, đổ mồ hôi lao động đổi lấy áo cơm…
Tin mừng của Chúa Giê-su Ki-tô được tiếp tục dệt bằng ba năm thao thức rao giảng trên các nẻo đường Do-Thái, dệt bằng lòng yêu thương người tội lỗi, bằng lòng thương xót các bệnh nhân và người đau khổ, dệt bằng lòng thứ tha vô hạn, bằng tình yêu không biên giới…
Tin mừng Chúa Giê-su được đan dệt bằng nước mắt và mồ hôi máu cùng nỗi buồn sầu quá đỗi trong vườn Cây Dầu, bằng roi đòn tươm máu, bằng vác thập giá đau thương, bằng những giọt máu cuối cùng chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên thập giá…
Tin mừng Chúa Giê-su được thành hình như thế đó, không phải bằng chữ viết mà bằng cả cuộc đời, một đời sống cho tình yêu, chết cho tình yêu, yêu cho đến cùng…
Để trao tặng cho chúng ta một cuốn Tin mừng, Chúa Giê-su đã phải trả giá như vậy đó! Vậy thì kiệt tác nầy quý giá biết bao!
Tin mừng Chúa Giê-su cũng là kho tàng khôn ngoan siêu đẳng của Thiên Chúa, được Chúa Giê-su đem từ trời xuống ban tặng cho thế gian để nhờ Tin mừng của Ngài, loài người học biết sự khôn ngoan của Thiên Chúa, được sống trong bình an và được vui hưởng hạnh phúc muôn đời trên thiên quốc.
So với sự khôn ngoan được Chúa Giê-su bày tỏ trong Tin mừng, thì sự khôn ngoan của thế gian nầy chỉ là rơm rạ, cỏ rác!
Tóm lại, Tin mừng là kho tàng cao quý hơn hết mọi kho tàng, là nguồn mạch khôn ngoan trổi vượt khôn ngoan thế gian, là nguồn phát sinh hạnh phúc và sự sống, là con đường đưa tới sự sống đời đời. Đây là một công trình vĩ đại được hình thành suốt ba mươi ba năm dương thế của Thiên Chúa Ngôi Hai với sự chỉ đạo của Chúa Cha và sự cộng tác của Chúa Thánh Thần.
Công trình vĩ đại nầy, quà tặng vô giá nầy, kho tàng quý báu nầy được Thiên Chúa trân trọng trao vào tay chúng ta. Vậy mà có người không muốn nhận, hoặc thờ ơ, hờ hững với tặng phẩm cao quý nầy. Làm như thế là xúc phạm đến Đấng đã trao ban.
Có lẽ cũng như Mác-ta ngày xưa, chúng ta “lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá” nên chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ tới Tin mừng; cõi lòng chúng ta đầy ắp những tham vọng trần thế, những ham muốn phàm trần nên không còn chỗ cho Tin mừng của Chúa bén rễ. Đáng tiếc thay!
Lạy Chúa Giê-su,
Hôm xưa, khi Chúa đang giảng giữa đám đông, một phụ nữ thán phục Ngài quá đỗi nên cất tiếng ca tụng rằng: “Phúc thay người Mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” Bấy giờ Chúa đáp: “Đúng hơn phải nói rằng: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11, 27-28).
Xin giúp chúng con luôn luôn trân trọng đón nhận quà tặng vô giá Chúa ban là Tin mừng sự sống để suy gẫm ngày đêm và đem ra thực hành, nhờ đó, mai sau đáng được Chúa liệt vào hàng ngũ những người được hưởng phúc muôn đời.
.
ĐÓN CHÚA VIẾNG THĂM VÀ PHỤC VỤ CHÚA
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Giống như người Việt Nam, người Do Thái rất có lòng hiếu khách. Ở những vùng quê, mỗi khi gia đình có khách giống như ngày hội cho gia đình và cho xóm giềng. Có dịp về thăm quê miền Bắc, chúng ta cũng cảm nhận được sự hiếu khách của người miền quê Việt Nam. Dù quen thân hoặc chỉ quen sơ sơ, người miền quê thể hiện tấm lòng của mình bằng việc làm thịt gà, vịt và mời khách ở lại ăn cơm. Gia đình nào thường xuyên có khách từ xa về thăm, gia đình đó được xóm giềng nhìn với vẻ tôn trọng, nhất là khi những vị khách là những người nổi tiếng hay có địa vị xã hội, thì việc tiếp đón còn là niềm tự hào cho gia đình.
Hôm nay Lời Chúa kể về những gia đình đã niềm nở đón tiếp Chúa như thượng khách của gia đình. Khi đến thăm gia đình nào, Chúa không bao giờ để cho gia đình đó phải thất vọng, nhưng Ngài luôn ban phúc lành xuống trên gia đình đó. Bài đọc một kể lại câu chuyện của Abraham, trong một buổi trưa hè nóng bức, ông ra ngồi hóng gió tại cửa lều dưới gốc cây sồi Mambre thì thấy có ba người khách lạ. Mặc dù chưa biết là ai, nhưng khi vừa thấy các vị khách ông đã chạy ra đón và sụp lạy các Ngài. Ông lên tiếng mời các vị khách: “Nếu đẹp lòng các Ngài, xin dừng chân ở lại thăm chúng tôi”.Sau đó ông tất bật bắt con bê non làm thịt, sai vợ lấy bột làm bánh, lấy nước cho khách rửa chân, lấy sữa tươi cho khách uống. Còn ông đứng hầu các vị khách trong khi họ dùng bữa. Các vị khách đó chính là sứ thần của Thiên Chúa. Các Ngài đã thấy được lòng hiếu khách và sự quảng đại của Abraham nên đã chúc lành cho ông và gia đình.
Trước khi chia tay, ba vị khách còn để lại cho Abraham một lời hứa: Sang năm khi trở lai thăm ông, Sara vợ ông sẽ có một con trai. Lời hứa này quả là niềm hy vọng lớn lao cho Abraham, vì ông bà dã cao niên mà chưa có con nối dõi. Lời hứa này đã chạm đến sự khao khát sâu thẳm trong tâm hồn ông bà. Điều này cho thấy Thiên Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn và khát vọng con người, ai đón Chúa vào tâm hồn và gia đình, Chúa sẽ giải gỡ những khó khăn của gia đình và sẽ đáp lại những khát vọng sâu thẳm trong tâm hồn mỗi người.
Bài Tin Mừng kể lại cuộc đón tiếp Chúa Giêsu của chị em cô Matta và Maria. Tin Mừng cho biết, gia đình Matta là nơi Chúa Giêsu thường ghé thăm, Lazarô được coi như một người bạn của Chúa. Nếu như khi Abraham đón tiếp ba vị khách lạ, ông đã đứng hầu trong khi ba vị đó dùng bữa, thì trong cuộc đón tiếp này, Chúa Giêsu lại quan tâm đến thái độ của cô Maria đó là: ngồi bên chân Chúa để nghe lời Người dạy. Tin Mừng nhắc đến sự hiếu khách của gia đình khi kể lại: Có những lần nghe tin Chúa Giêsu đến, thì Matta đã ra tận đầu làng để đón Chúa; lần này cô Matta cũng ra đón Người vào nhà mình. Khi Chúa Giêsu vào nhà, hai chị em cô có hai thái độ khác nhau: Cô Matta lo chuẩn bị cơm nước và thức ăn để đãi Chúa, còn cô Maria thì ngồi bên chân Chúa. Chúa Giêsu rất trân trọng sự đón tiếp của gia đình.
Cô Matta phục vụ cho những nhu cầu ăn uống là điều cần thiết, nhưng cô lại tỏ ra khó chịu khi thấy cô Maria chỉ ngồi nghe Chúa. Cô lên tiếng như trách Chúa: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo em con giúp con một tay”.Chúa Giêsu không chê bỏ sự hiếu khách và tinh thần phục vụ của Matta, nhưng Chúa chỉ cho thấy đâu là việc cần thiết và quan trọng nhất: “Matta! Con lo lắng về nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.Qua câu trả lời này, Chúa cho thấy thái độ cần thiết nhất vẫn phải là thái độ lắng nghe Lời Chúa. Khi Chúa vào nhà, cô Maria không ngồi đồng bàn để tiếp chuyện Chúa, nhưng cô lại ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người giảng. Ngồi dưới chân là thái độ của một môn đệ khiêm tốn trước thầy của mình, ngồi dưới chân Chúa và lắng nghe là thái độ đón nhận, là vị trí của người môn đệ thân tín. Như vậy khi nhắc cô Matta, Chúa cũng muốn nhắc cho mỗi chúng ta phải biết biến mình trở thành những môn đệ của Chúa và phải là những môn đệ sẵn sàng lắng nghe và suy gẫm, để cho Lời Chúa đi vào trong tâm hồn và biến đổi cuộc đời. Hơn nữa phải đặt mình dưới chân Chúa, nghĩa là có một tương quan riêng tư thân thiết với Chúa. Tương quan thân thiết này là phần tốt nhất và không ai có thể lấy mất được như thánh Phaolô đã chia sẻ: “Không ai có thể tách chúng tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng tôi”.
Thánh Phaolô trong thư Côlôsê đã cho thấy, một khi đón Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta sẽ có niềm vui và bình an cùng sức mạnh giúp vượt qua thử thách. Mời Chúa vào tâm hồn, có Chúa hiện diện trong gia đình không có nghĩa là Chúa miễn trừ cho chúng ta khỏi những khó khăn, thử thách, nhưng trái lại, dù có khó khăn xảy đến Chúa luôn ở bên nâng đỡ, giải gỡ và trợ giúp chúng ta. Vì thế thánh Phaolô mới có thể nói: “Tôi vui mừng vì được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh”.
Cũng theo thánh Phaolô, sự phục vụ mà Thiên Chúa muốn không dừng lại ở những việc tông đồ, bác ái, cho dù đó là điều cần thiết. Nhưng tất cả sự phục vụ của các tín hữu đều nhắm trước tiên đến việc xây dựng sự hiệp thông hiệp nhất trong Hội Thánh. Vì thế, tất cả các hoạt động tông đồ dù có hiệu quả đến đâu mà không xây dựng được sự hiệp thông hiệp nhất thì cũng trở thành vô giá trị. Đàng khác, điều quan trọng hơn nữa đó là các hoạt động phục vụ trong Hội Thánh phải ưu tiên cho việc phục vụ Lời Chúa, đem Lời Chúa đến cho nhân loại, vì phần rỗi của mọi người: “Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em, đó là tôi phải rao giảng Lời của Người cho trọn vẹn”.
Hình ảnh cô Matta lo việc cơm nước, cô Maria ngồi bên chân Chúa còn muốn nói đến hai nếp sống đạo: Đó là đời sống cầu nguyện và hoạt động tông đồ. Đã có nhiều khi Giáo Hội và nhiều người nhắm đến những hoạt động tông đồ đến độ xem nhẹ đời sống cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa. Việc hoạt động tông đồ một khi mất đi động lực và giá trị đạo đức bên trong sẽ khiến cho các hoạt động mất đi chiều sâu và sức sống, biến các hoạt động tông đồ trở thành công tác xã hội. Đàng khác có nhiều người, nhiều nhóm rất hăng say hoạt động tông đồ bác ái, đi phục vụ bác ái rất nhiều nơi mà lại không quan tâm đến việc tốt nhất đó là lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Không có đời sống gắn bó cách mật thiết riêng tư với Chúa, việc bác ái phục vụ như thế chỉ còn là những hình thức bên ngoài.
Lời Chúa hôm nay là lời cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân cần xem xét lại và điều chỉnh các hoạt động tông đồ và đời sống của mỗi người cho đúng hướng. Có thể các linh mục, tu sĩ đang bị cuốn hút vào các hoạt động tông đồ và bác ái phục vụ đến độ để cho đời sống đạo của mình mất thăng bằng, thiếu vắng Chúa. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh báo các linh mục tu sĩ đừng biến hoạt động phục vụ bác ái của mình thành công tác xã hội, cũng đừng biến mình chỉ còn là chuyên viên từ thiện xã hội. Các linh mục tu sĩ được mời gọi trở về bên chân Chúa như cô Maria để khiêm tốn lắng nghe sự hướng dẫn dạy bảo của Chúa và lấy Chúa làm động lực cho mọi hoạt động của mình.
Các tín hữu ngày nay bị cuốn hút vào công việc và sức lôi cuốn của vật chất, khiến cho nhiều người ngại ngùng không muốn mời Chúa vào trong tâm hồn và gia đình. Họ lấy lý do bận rộn, vất vả với cơm áo để bỏ qua việc tiếp đón và phục vụ Chúa; Các bạn trẻ lấy lý do học hành, đi làm để từ chối gặp Chúa. Có rất nhiều người siêng đến nhà thờ, nhưng không muốn phục vụ, không làm việc tông đồ. Nhiều tín hữu đã đánh mất ý thức làm việc tông đồ, xây dựng cộng đoàn Giáo Hội, họ sống cách hờ hững với cộng đoàn giáo xứ và với các anh chị em khác. Cả hai thái độ đó đều khiến cho đời sống đức tin mất cân bằng.
Giờ kinh sớm tối mỗi ngày là lúc thuận tiện nhất để gia đình cùng nhau ngồi bên chân Chúa, lắng nghe tiếng Chúa nói và cùng nhau tâm sự kể chuyện gia đình mình cho Chúa nghe. Chắc chắn, Chúa không bao giờ vô tâm hoặc vô cảm trước những hoàn cảnh và những câu chuyện đang xảy ra trong gia đình. Chúa sẽ là người bạn thân với các gia đình, Chúa sẽ can thiệp đúng lúc để trợ giúp và an ủi gia đình chúng ta.
Xin cho chúng ta dù đang vất vả bận rộn với cuộc sống vẫn biết tìm cho mình những thời giờ ở bên Chúa để được nghe Chúa hướng dẫn và sống thân tình như những môn đệ của Chúa. Amen.
.
JM. Lam Thy
Suy niệm Lời Chúa hôm nay thấy có 2 cách nhìn sự việc gần như mâu thuẫn với nhau, đó là ở bài đọc 1 (St 18, 1-10a) thái độ tận tình phục vụ của Ap-ra-ham thì được khen ngợi và thưởng công; nhưng ở bài Tin Mừng (Lc 10, 38-42) Mác-ta cũng “tất bật lo việc phục vụ” nhưng lại bị chê là “băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá”; trong khi cô em là Ma-ri-a “cứ ngồi bên chân Chúa” thì lại được khen là người “biết chọn phần tốt nhất”. Thử tìm hiểu xem vì sao lại có chuyện đó:
Ap-ra-ham hôm ấy đang ngồi nghỉ trưa ở cửa lều, thấy ba người khách đang tiến về phía lều của ông. Ông liền bỏ lều chạy ra đón khách và sấp mình chào hỏi. Rồi không kịp để cho khách trả lời và muốn cho khách thấy lòng thành của mình mà không thể từ chối được, Ap-ra-ham nói một hơi: “xin ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi…”. Dĩ nhiên là khách chấp nhận. Ap-ra-ham còn thành khẩn hơn nữa, ông bảo bà Xa-ra nhào bột làm bánh. Ông chạy ra chuồng, chính tay lựa con bê non béo tốt, trao cho đầy tớ làm thịt. Và ông chạy đi lấy sữa và nhũ men. Ông mời khách ngồi và khúm núm đứng hầu bàn, hầu chuyện khách. Ông không nghĩ gì đến mình, chỉ biết có khách và chỉ biết hồn nhiên thành khẩn phục vụ.
Cứ theo thường tình mà xét, thì khi tiếp đãi khách – nhất là người khách đặc biệt ấy lại là Thiên Chúa – tổ phụ Ap-ra-ham hay Mác-ta đã làm đúng và chắc chắn sẽ được khách ban thưởng hoặc ít ra thì cũng tỏ lòng khen ngợi vì lòng hiếu khách của chủ nhà. Tổ phụ Ap-ra-ham đã được ban thưởng, nhưng Mác-ta thì lại bị nhắc nhở là lo lắng những chuyện không cần thiết. Mác-ta chỉ bị nhắc nhở thôi, chớ không bị khiển trách. Còn Ma-ri-a thì – với con mắt người đời – đã “lươi huyền”, né tránh công việc, để đến nỗi người chị (Mác-ta) phải nhờ chính vị khách hiện diện (Đức Giê-su Ki-tô) nhắc nhở bổn phận của mình. Ấy vậy mà Ma-ri-a lại được Chúa khen là khôn ngoan, biết chọn cho mình phần tốt nhất. Quả thực là câu chuỵên khác thường, nếu không muốn nói là nghịch lý.
Vấn đề đặt ra ở đây là vị khách tới thăm nhà chị em Mác-ta có một quan điểm khác hẳn người đời. Vị khách ấy là Thầy, là Chúa, đã không đòi môn đệ rửa chân cho mình, lại còn quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, không coi môn đệ là tôi tớ mà là bạn hữu. Vị khách ấy là Vua nhưng “đến không phải để được phục vu mà là phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Vị khách ấy là Thiên Chúa nhưng chỉ đến với những kẻ bé mọn, thấp hèn, những kẻ tội lỗi, bệnh tật, nghèo đói. Chung quy, vị khách ấy là Người cứu nhân độ thế, đem Lời Thiên Chúa đến rao giảng cho muôn dân để giải thoát họ khỏi vòng tội lỗi, đem lại sự sống vĩnh cửu cho họ. Tắt một lời, vị khách ấy chính là Lời Thiên Chúa (Ngôi Lời), chính là Thiên Chúa thật. Và vì thế nên “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (Ga 14, 23).
Đón tiếp vị khách ấy phải lăng xăng lo dọn dẹp nhà cửa, lo cơm nước cho chu đáo – như Mac-ta đã làm – là tốt, là đã hành xử đúng, nhưng như thế vẫn chưa đủ, vẫn chưa hiểu được ý nghĩa cuộc viếng thăm của vị khách đặc biệt ấy. Mục đích của vị khách có một không hai ấy, không phải đến để được đãi đằng cơm nuớc tiệc tùng, phục vụ cho đời sống vật chất. Vị khách ấy đến với mục đích là đem lại Lời Hằng Sống cho cuộc sống tinh thần, cho đời sống vĩnh cửu mai sau của chị em Mac-ta (chính vị khách ấy đã làm phép lạ cho em của Mac-ta là La-da-rô chết đã 4 ngày được sống lại – Ga 11, 1-45). Chính vì thế, nếu biết đón nhận, lắng nghe những Lời Hằng Sống từ vị khách đó, mới thực sự biết chọn cho mình phần tốt nhất. Ma-ri-a trong bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình.
Còn nếu chỉ biết vị khách ấy như là một người trần thế (cho dù có là vua quan sang trọng cỡ nào đi chăng nữa), thì sẽ cho những lời nói, cử chỉ, hành động của vị khách ấy là trái thường nghịch lý, là “chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 60), thậm chí còn cho đó là “người mất trí” (Mc 3, 21), là “người bị quỷ ám” (Mc 3, 22) nữa. Tuy nhiên, khi đã biết vị khách ấy là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, mà vẫn cố tình phủ nhận như đám người Pha-ri-sêu và kinh sư, thì chắc chắn sẽ nhận được lời khiển trách nặng nề: “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi. Vì thế, trong cuộc Phán Xét, Tia và Xi-đôn sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi. Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ!” (Lc 10, 13-15).
Hóa cho nên, không thể đem nhãn quan trần tục ra để nhìn và đánh giá hành động của Ma-ri-a, mà phải cầu xin Thánh Thần soi sáng để nhận chân được hành động khôn ngoan biết chọn cho mình phần tốt nhất. Vâng, hãy khôn ngoan chọn cho mình phần tốt nhất trước mặt Thiên Chúa, nhưng chớ có dựa vào sự khôn ngoan do mình tưởng là mình tự có (vì thực ra thì đó chỉ là sự khôn ngoan của thế gian); mà phải biết cậy dựa vào sự “khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa” như lời Thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô: “Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển.” (1Cr 2, 6-7). Thực sự, chỉ có như thế thì “đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1Cr 2, 5).
Tóm lại, người Ki-tô hữu cần phải hiểu Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện với nhân loại, đồng hành với người tín hữu trong cuộc sống hằng ngày qua những người khó nghèo, qua những người bệnh tật, vì chính Chúa đã đồng hóa với họ. Hãy biết lắng nghe Lời Chúa, đón tiếp Chúa qua anh chị em đồng loại. Hai mẫu gương phục vụ và đón tiếp của Ma-ri-a và Mac-ta phải giúp người Ki-tô hữu nhìn lại cách đón tiếp của mình đối với người khác. Cần phải phục vụ tha nhân bằng những hành động bác ái, yêu thương nhưng đồng thời cũng cần phải ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Lời Chúa dạy, và kín múc nơi Người nguồn sức mạnh, ân sủng để phục vụ anh em.
Người Ki-tô hữu hằng ngày đọc kinh, tham dự Thánh Lễ là phần tốt, nhưng chưa phải là “phần tốt nhất” khi chưa thực sự biết lắng nghe, cầu nguỵên và thực hành Lời Chúa trong đời sống đạo của mình. Ôi! Lạy Chúa! Con cũng như bao người khác, nếu có ý định chọn cho mình phần tốt nhất thì cũng chỉ là chọn những thứ thoả mãn được dục vọng nhất thời, chọn những thứ hào nhoáng phù phiếm nhưng rất hấp dẫn lôi cuốn con trong cuộc sống trần thế. Quả thực, nhiều lúc con cứ tưởng là mình khôn ngoan, mà xao lãng, mà quên đi Lời Chúa hằng răn dạy, nhắc nhở con. Cúi xin Chúa ban Thần Khí soi sáng cho con để con có thể học theo và làm được như hai chị em Mac-ta và Ma-ri-a.
Ôi! Lạy Chúa! “TK 1: Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài gọi con trong đêm tối. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên, Trả lời vừa khi con nghe Chúa. Xin cho con biết thân thưa: Lạy Ngài, Ngài muốn con làm chi? ÐK: Lời Ngài là sức sống của con, Lời Ngài là ánh sáng đời con, Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, Là đường để con hằng dõi bước. Lời Ngài đượm chất ngất niềm vui, Trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời, Lời Ngài hạnh phúc cho đời ai. TK 2. Xin cho con biết lắng nghe, Lời Ngài dạy con trong cuộc sống. Xin cho con biết lắng nghe, Lời Ngài từng theo bước đời con. Xin cho con biết sẵn sàng, Trở về và vâng nghe theo Chúa. Xin cho con biết sẵn sàng, Thực hành lời Chúa đã truyền ban.” (Nguyễn Duy – “Lắng nghe Lời Chúa” – TCCĐ). Amen.
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn, Tin Mừng không phải là câu chuyện đọc lên cho vui, mà là những Lời giáo huấn của Chúa Giêsu, Ngôi Lời đã Nhập Thể, để ở với nhân loại. Vì vậy,Lời Chúa luôn vĩnh hằng và vĩnh cửu vượt thời gian, bởi vì thời gian là hữu hạn còn Thiên Chúa vĩnh hằng, vì vậy được mệnh danh là “ LỜI HẰNG SỐNG”.
Vâng, con xin được mở đầu hơi quen thuộc,nhưng không dư thừa, vì điều nầy ai cũng biết, cũng có khi “ biết rồi khổ lắm nói mãi”. Nhưng, quả thật là như thế, chân lý của Lời Chúa, chính là “ LỜI HẰNG SỐNG”.
Tin Mừng hôm nay thật ngắn gọn, chỉ vỏn vẹn có 05 câu, nhưng câu cuối cùng là câu quan trọng nhất (c 42b). Vì là câu Chúa Giêsu khen người em của cô Matta,là cô Maria, (trùng tên với Đức Mẹ), điều gì mà Chúa Giêsu khen thì điều đó thật diễm phúc.
Như chúng ta biết, hai chị em nhà nầy ở trong một gia đình đạo đức, là em của Lazaro, người mà Chúa Giêsu đã cho phục sinh, gọi là gia đình Betania. Chúa Giêsu đến với gia đình nầy, vì Người là bạn của Lazaro, khi được Người đến thăm, họ rất vui vẻ tiếp đãi Người, một sự chân tình, hiếu khách thật chu đáo. Nhưng, như chúng ta thấy, hai chị em hai tính cách khác nhau, trong khi người chị đon đả, lo việc bếp núc, thì người em cứ ngồi bình thản nghe Chúa Giêsu giảng dạy, như không có chuyện gì quan trọng hơn.
Qua đó, chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã khen cô em khôn ngoan hơn, vì đã biết chọn phần tốt nhất, đó là việc lắng nghe Lời Chúa. Như vậy, thái độ của cô Maria là thái độ của người tông đồ, biết chọn giá trị tinh thần, hơn giá trị vật chất. Theo đó, cô Maria đã khôn ngoan biết dùng “ Lương thực vĩnh cửu” là lời Chúa, mà chính Chúa Giêsu là Người Chủ Tiệc, mà cô Marai là người được thiết đãi, như vậy, sự khôn ngoan của cô Maria là như vậy. Trong khi đó, cô Matta lăng xăng lo nấu những món ăn cho thực khách dùng.
Một nghĩa cử sống động, một hành động khôn ngoan của người tông đồ Maria là một “gương sáng” cho việc lắng nghe Lời Chúa.
Ý thứ hai : Tâm hồn đón nhận Lời Chúa của cô Maria như một lời tuyên xưng hùng hồn của Phê-rô về Thầy Chí Thánh của mình : “ Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Thì Chúa Giêsu bảo :” Không phải huyết nhục (tức thân xác)mạc khải cho anh, mà chính Cha Ta, Đấng ngự trên Trời đã cho anh biết điều ấy”.
Như vậy, cô Maria chưa tuyên xưng bằng miệng, nhưng cô đã tuyên xưng bằng hành động khôn ngoan,đến độ cũng như Phê-rô, cô đã được Chúa Giêsu khen. Rõ ràng, hành động khôn ngoan của cô Maria cũng chính là được Chúa Thánh Thần soi sáng, cô đã biết chọn phần tốt nhất.
Ngày nay, những thiếu nữ được ơn soi sáng , can đảm xin sống đời Thánh Hiến, hàng ngày được lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, họ chấp nhận gạt bỏ tất cả, khi họ chọn Chúa, mặc nhiên, họ sẽ được Chúa Giêsu khen như cô Maria, vì cô đã chọn phần tốt nhất. Vì , đó là “ LỜI HẰNG SỐNG”.
Những thành phần thiếu nữ sống đời Thánh Hiến là họ noi gương cô Maria,và để bước theo Chúa Giêsu trọn vẹn, vì đó là hành động khôn ngoan.
Thánh vịnh 14 hôm nay cho chúng biết người nhân đức sẽ được ở nơi nhà Chúa, tức là họ không theo thế gian, một thế gian tro mạt, mà họ sống theo Lời Chúa, thì linh hồn họ sẽ hằng sống theo Thiên Chúa.
Khởi đi từ Bài đọc I hôm nay trích sách Sáng Thế ( St 18, 1-10a), kể về Thiên Thần đến thăm ông ápraham, và ông đã tiếp đãi các ngài, kết quả một năm sau, ông sinh Isaac. Như vậy, tiếp đãi người của Thiên Chúa , mà con được kết quả hậu hỷ như vậy, huống chi là cô Matta tiếp đãi chính Chúa Giêsu, thì cô sẽ được phần thưởng dường nào, nhưng, cô Maria thì được chính Chúa Giêsu thiết đãi. Vì vậy, Chúa Giêsu khen cô khôn ngoan hơn, vì cô đã chọn phần tốt nhất.
Bài đọc II,( Cl 1, 24-28) thánh Phao-lô cho chúng ta biết sự phục vụ vất vả của ngài cho các giáo đoàn là để rao giảng Đức Kitô, hầu Người đang ở giữa chúng ta, chính là “ LỜI HẰNG SỐNG”.
Theo đó, hai cách phục vụ của hai chị em nhà Matta cho thấy đều vì phục vụ Chúa Giêsu, Đấng là Ki-tô đang ở giữa thế gian.Nhưng, người em phục vụ Người, bằng cách lắng nghe Lời Người, vì vậy, Người đã khen cô Maria.
Kết luận : Như vậy, phục vụ Thiên Chúa không phải mời Chúa đến nhà dùng bữa, mà là lắng nghe Lời Người và thực thi, và cô Maria đã làm điều đó. Vì ai nghe và thực hành Lời Chúa thì có phúc hơn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã khen cô Maria, vì đã chọn phần tốt nhất, vì cô đã lắng nghe Lời Chúa và thực thi. Xin cho những ai thành tâm tìm Chúa để lắng nghe Lời Người, thì họ cũng được Chúa khen như cô Maria, vì sự chọn lựa khôn ngoan. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời./. Amen.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn được người ta tôn trọng và đón tiếp, ai cũng ca tụng tính hiếu khách vì hiếu khách là một đức tính tốt, và người hiếu khách là người có tinh thần bác ái. Sách Sáng thế cho biết ông Abraham là một người hiếu khách, ông đã mời ba người khách lạ vào lều và hầu hạ họ như tôi tớ. Đáp lại tấm thịnh tình của ông, ba vị sứ giả của Thiên Chúa loan báo cho ông biết là ông sẽ có con trai trong tuổi già (Bài đọc 1). Martha và Maria cũng là người hiếu khách, hai chị em đã đón tiếp Đức Giêsu vào nhà và đã phục vụ Ngài một cách tận tình, tuy mỗi người có một cách phục vụ khác nhau (Tin mừng).
Trong cách tương giao, câu chuyện giữa chủ và khách là một cuộc đối thoại chứ không phải là độc thoại. Theo tâm lý chung, ai cũng thích nói, muốn bộc lộ hết tâm tư cho người kia, nhưng người sành tâm lý và được người ta ưa chuộng là người biết lắng nghe, tạo cơ hội cho người kia bộc bạch hết tâm tình của mình. Trong cuộc đón tiếp Đức Giêsu vào nhà, Martha chỉ bận rộn cho bữa ăn mà bỏ quên Ngài, còn Maria thì biết tạo cơ hội cho Ngài thổ lộ tâm tình và được hiểu biết những chân lý mà Ngài muốn mạc khải cho. Trong hai cách phục vụ thì Chúa thích lối phục vụ của Maria hơn, đó là biết lắng nghe :”Maria đã chọn phần tốt nhất”.
Trong cuộc sống Kitô hữu, nhất là trong cuộc sống tông đồ, sinh hoạt để làm sáng danh Chúa là một điều tốt, nhưng những sinh hoạt ấy chỉ đem lại lợi ích nếu nó được đan dệt bằng sự cầu nguyện, bằng suy niệm và bằng sự thinh lặng trong sự hiện diện của Chúa. Chúng ta đừng đặt câu hỏi : Chúa có nói với chúng ta không, mà phải hỏi ngược lại : chúng ta có thinh lặng và yên tĩnh đủ để nghe Ngài hay không ?
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : St 18,1-10a.
Bài đọc 1 hôm nay nói lên lòng hiếu khách của ông Abraham. Câu chuyện ấy như sau : Trong một bữa trưa nóng bức, Abraham đang ở trong lều thấy có ba người khách lạ đang đứng ở ngoài lều. Ông vội vàng mời ba người khách lạ vào nhà và tiếp đãi một cách rất nồng hậu : lấy nước cho họ rửa chân, lấy bột làm bánh, lấy con bê béo tốt làm thịt đãi khách. Ông không ngờ đây là ba vị sứ giả của Thiên Chúa.
Đáp lại lòng hiếu khác và quảng đại của Abraham, ba vị sứ giả đã loan báo cho ông : Thiên Chúa sẽ ban cho ông một đứa con trai đầu lòng mà ông hằng mơ ước, mặc dầu hai ông bà đều già quá tuổi sinh con.
+ Bài đọc 2 : Cl 1,24-28.
Mầu nhiệm được giữ kín nơi Thiên Chúa, nay được vén mở : đó là bản thân Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Là những người được hưởng nhờ mầu nhiệm này, chúng ta cũng phải chia sẻ cho người khác biết.
Thánh Phaolô đã hiểu được mầu nhiệm này, ngài cũng muốn chia sẻ cho người khác khi Ngài thi hành sứ mạng tông đồ. Vì thế, ngài vui sướng vì được chịu đau khổ, biến những đau khổ ấy thành niềm vui. Sở dĩ có được tinh thần ấy vì ngài ý thức rằng nhờ đó mà ngài được bổ khuyết nơi thân xác mình những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.
+ Bài Tin mừng : Lc 10,38-42.
Khi Đức Giêsu đến viếng thăm Martha và Maria, ta thấy mỗi người có một cung cách tiếp khách : Martha thì cho, còn Maria thì nhận . Martha thì bận rộn lo đủ mọi chuyện để dâng cho Đức Giêsu một bữa cơm ngon miệng. Cô bận rộn đến nỗi phải xin Ngài bảo em giúp mình một tay. Còn Maria thì không làm gì cả, cô chỉ cung kính lắng nghe những lời Ngài dạy.
Câu chuyện này dạy cho chúng ta một bài học : điều Thiên Chúa muốn, không phải là chúng ta làm cho Ngài điều này điều nọ mà là để Ngài giáo huấn chúng ta , để chúng ta được biến đổi nhờ những lời giáo huấn ấy. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi : biết lắng nghe Lời Chúa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Truyện mở đầu : Vị vua đến thăm.
Ngày xưa có một vị vua muốn tìm cách giúp cho dân nước ấm no và hạnh phúc. Vua dự tính đi thăm viếng dân làng và hỏi ý kiến họ về tình hình đất nước. Nhà vua gửi sứ giả đến trước gặp hai gia đình ngài muốn thăm viếng để hỏi họ về những niềm hy vọng và ước mơ cho quê hương xứ sở.
Ngày đầu tiên vua đến với gia đình thứ nhất. Vì muốn làm cho vua vui lòng bằng một bữa tiệc với những đồ ăn ngon quí giá chưa từng có, nên khi vua đến nơi, gia đình chủ nhà vẫn còn đang bận rộn vất vả dọn tiệc linh đình. Nhà vua và các quan cận thần phải ngồi ở sân trước nhà để chờ đợi họ sửa soạn bữa ăn. Bữa ăn rất ngon, nhưng khi dọn lên thì mọi người trong gia đình đã quá mỏi mệt, không còn thì giờ và hứng thú để nói chuyện với vua về những điều vua muốn biết. Vua ra về và không mấy hài lòng.
Ngày hôm sau, vua đến thăm nhà thứ hai. Cả nhà ra đón tiếp vua một cách niềm nở. Mặc dù họ chỉ chuẩn bị một bữa ăn rất đơn sơ đạm bạc, nhưng buổi tối hôm đó mọi người trong gia đình đều ngồi quây quần bên vua, chia sẻ cởi mở những uớc mơ và niềm hy vọng của gia đình và dân làng. Họ rất phấn khởi khi vua cho họ biết những dự tính muốn thực hiện cho đất nước. Mặc dù không ăn uống thịnh soạn như tối hôm trước, nhưng khi ra về vua rất hài lòng với buổi gặp gỡ đúng như ý ngài muốn.
Bài Tin mừng hôm nay (Lc 10, 38-42) cũng mang một nội dung như vậy : chị em Martha và Maria tiếp đón Đức Giêsu vào nhà mình, mỗi người có một cung cách tiếp đón. Vậy Đức Giêsu thích cách tiếp đón nào ? Của Martha hay của Maria ?
I. CÂU CHUYỆN NGƯỜI TIẾP ĐÃI KHÁCH.
Bài sách Sáng thế ghi lại việc ông Abraham tiếp đãi sứ giả của Thiên Chúa một cách nồng hậu. Abraham đang ngồi hóng mát trước cửa lều trong buổi trưa nóng bức. Ông thấy ba người khách lạ đi ngang qua. Ông vội chạy ra mời họ quá bộ vào nghỉ mát, bưng nước cho khách rửa chân, dẫn khách nằm nghỉ dưới bóng cây. Ông bắt con bê béo làm thịt. Bà nhồi bột làm bánh. Ông hầu hạ khách như mình là tôi tớ. Đáp lại lòng hiếu khách của ông, sứ giả nói với ông :”Sang năm vào độ này, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai”.
Trên đường tiến về Giêrusalem, Đức Giêsu ghé vào nhà chị em Martha , Maria và Lazarô ở làng Bêtania, cách Giêrusalem ba cây số. Martha đón rước Đức Giêsu vào nhà. Cô là chủ nhà và chưa có gia đình vì cô đón tiếp khách. Nếu có chồng thì chồng sẽ tiếp đón khách. Cách đón tiếp của Martha đã chứng tỏ rằng gia đình này đã từng quen biết Ngài và đã có nhiều lần Ngài đến nhà như người quen biết thân mật (Ga 11,1-14).
Hai chị em có hai tính tình khác nhau : Martha là một người hoạt động, còn Maria là một người trầm lặng. Cô Maria cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Ngài. Còn cô Martha thì lăng xăng lo lắng đón tiếp Chúa, một vị khách quí mà cô muốn bầy tỏ hết lòng kính trọng. Martha cảm thấy khó chịu vì cô em không giúp mình một tay, sợ trễ giờ, đến nỗi phải xin Chúa can thiệp, với một giọng trách móc:”Xin Thầy bảo em con giúp con với”.
Không biết câu trả lời của Đức Giês có làm cho Martha buồn không :”Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi : Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không ai lấy mất”(Lc 10,42).
II. CÂU CHUYỆN NGƯỜI PHỤC VỤ VÀ LẮNG NGHE.
Như vậy, Martha và Maria xuất hiện ở đây như hai hai môn đệ nhiệt thành đón tiếp Đức Giêsu Thầy mình, nhưng Maria chỉ lắng nghe Lời Thầy, còn Martha lo dành riêng cho Thầy một sự đón tiếp nồng hậu.
Martha là con người rất yêu mến Đức Giêsu, biết quan tâm tới sức khỏe của Ngài. Trên cuộc hành trình đi vào làng, Ngài mệt mỏi, đói bụng, phải được ăn uống bồi dưỡng để tiếp tục đi rao giảng Tin mừng. Sự lo lắng cho sức khỏe của người khác là nét tinh tế của người phụ nữ. Vì yêu Chúa nhiều, Martha mới lo lắng và lăng xăng như thế. Trong khi đó Ngài lại trách yêu Martha :”Martha, Martha, con lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá”(Lc 10,42). Nói như vậy, phải chăng là Ngài phê bình Martha chỉ đặt trọng tâm vào việc ăn uống ?
Căn cứ vào sự kiện Martha hối thúc nói với Maria giúp cô, một học giả Rachel Conrad Wehberg giải thích với một nét nhân từ hơn : Người ta phải suy luận rằng đây là công việc trong bếp hai người đã quen làm. Maria vẫn thường phụ giúp Martha. Nếu họ đã phân chia công tác: Martha nấu ăn, Maria tiếp khách, thì chẳng có vấn đề gì, vì mỗi người đều chấp nhận và kính trọng nhau. Nhưng ở đây, theo thói quen, cả hai chị em cùng làm công việc nấu nướng. Nếu cả hai cùng làm, sẽ mau có bữa ăn hơn, và cả hai chị em đều có cơ hội ngồi tâm sự với Chúa lâu giờ hơn. Do đó, Martha than phiền không phải vì bà chỉ bận tâm đến việc ăn uống, cũng không phải vì ghen tương, nhưng vì trái tim bà hối thúc muốn được cùng lắng nghe Lời Chúa, cùng ở bên Chúa với Maria. Đó là lý do Martha đã than phiền (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa lòng đời, năm C, tr 255-256).
Tuy nhiên, Đức Giêsu đang trong lúc bồn chồn lo lắng chuẩn bị cho cuộc tử nạn, Ngài muốn có người biết chia sẻ tâm tình hơn để làm vơi nỗi lòng mình, còn việc ăn uống lúc này thì chỉ là phụ thuộc, không cần thiết mấy. Maria đã đáp ứng đúng tâm trạng của Đức Giêsu.
Truyện : Thèm lòng chứ không thèm thịt.
Một người cha có thói quen, sau giờ làm việc, đi dạo chung với cô con gái. Ông cảm thấy rất hạnh phúc được chuyện trò với con. Thình lình, cô gái bắt đầu cáo lỗi vì không thể đi dạo hằng ngày với cha được. Người cha cảm thấy đau khổ nhưng không nói ra. Sau cùng vào ngày sinh nhật của ông, cô con gái mang đến tặng cha một cái áo len mà cô mới đan. Người cha đã nhận thấy rằng cô con gái đã đan áo len trong lúc ông đi dạo một mình. Ông nói với con :”Martha. Martha, Ba rất quí chiếc áo này. Nhưng Ba thích con đi dạo với Ba hơn. Một cái áo len Ba có thể mua ở bất cứ tiệm bán quần áo nào. Nhưng con gái cưng của Ba, Ba không thể mua được. Con làm ơn đừng bao giờ bỏ rơi Ba nữa nhé”.
Cả hai chị em đều có đức tính đáng khen, cả hai đều yêu kính Thầy và ước ao được làm vui lòng Thầy. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Martha đã làm quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon lành. Còn Maria thì trực giác hơn được điều Chúa muốn, nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Ngài dạy. Cô biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, cô phải để ý đến ý muốn của vị khách trước, phải lắng nghe người khác nói. Trong việc tiếp đãi Thầy, cô đã làm được việc lớn hơn chị cô.
Bà Carnegie viết rất nhiều sách học làm người nổi tiếng. Trong cuốn “Đắc nhân tâm”, bà viết :”Cách làm cho khách vui lòng nhấùt là lắng nghe khách nói, lắng nghe ước muốn, nguyện vọng, tâm tư của người khác. Như vậy, tỏ ra mình kính trọng, quan tâm đến người để hiểu biết, thông cảm, chia sẻ những tâm tình, những kiến thức, những yêu cầu thiết thực của người, quí hơn cả cơm ăn, áo mặc”.
Truyện : Tổng thống Abraham Lincoln chia sẻ.
Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới Bạch cung là Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu, Lincoln bắt tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã trút bỏ những nỗi suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại : “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn”. Lincoln chỉ cần một người bạn thân thiết biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.
Đức Giêsu trả lời cho Martha :”Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không ai lấy mất”. Câu trả lời của Đức Giêsu đã gây nên nhiều tranh luận và tùy cách hiểu mà dịch ra khác nhau.
Một cách theo như nghĩa trong truyện thì cô Martha lo lắng cho nhiều làm chi, một món ăn là đủ rồi.
Một cách khác theo như bản Phổ thông lấy theo nghĩa thiêng liêng. Đối nghịch với những bận rộn đón tiếp của cô Martha, chỉ có một sự cần thiết là lắng nghe Lời Chúa.
Ở đây thực ra không có ý so sánh những của đời này với của duy nhất trên trời, mà là lấy làm hơn thái độ của Maria chăm chú nghe Chúa, cô Martha chia trí lo lắng quá nhiều sự. Vì thế, Đức Giêsu đã tuyên bố Maria đã chọn phần nhất là nghe Lời Chúa.
III. CÂU CHUYỆN NGƯỜI TÔNG ĐỒ BIẾT LẮNG NGHE.
Ngày nay, trong Giáo hội, có phong trào tư tưởng cho rằng Giáo hội phải lăn xả vào công việc xã hội nhiều hơn, phải đi đến với người nghèo trước đã. Đạo có chiều dọc và chiều ngang. Hàng dọc hướng về Thiên Chúa, hàng ngang hướng về anh em. Tư tưởng dấn thân trước tiên cho kẻ khác được cổ võ mạnh. Môn Thần học Giải phóng muốn đặt lại căn bản Đức tin : Mến Chúa yêu người, nhưng cứu người trước đã. Từ ngữ “giải phóng” được đem thay thế từ ngữ “cứu rỗi” của Thần học, vì “nó minh bạch và sáng sủa hơn”(Seguido – Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm C, tr 99).
Tuy Đức Giêsu chấp nhận lòng hiếu khách của Martha với lòng biết ơn, và đánh giá đúng mức những cố gắng cô thực hiện để tiếp khách cho tốt đẹp, Nhưng dù sao Ngài cũng muốn cô khám phá một điều còn quan trọng hơn, một điều khẩn thiết bậc nhất và duy nhất, mà cô liều mình quên mất : đó là lắng nghe Lời Chúa. Và, vì đã bỏ tất cả để chỉ giữ “một chuyện cần thiết”, mà Maria, em cô, đã tỏ mình là một môn đệ gương mẫu hoàn hảo nhất.
Meynet chú giải thêm :”Martha đón tiếp Đức Giêsu vào nhà. Chúa vừa bước vào, thì cô đã bỏ Ngài đó, để lo trăm nghìn chuyện. Vịn cớ phục vụ Ngài, cô tất bật, cô lo lắng mọi sự chỉ trừ Chúa ra. Việc phục vụ của cô lấn lướt cả vị khách của cô. Cô lăng xăng, lo lắng, sợ rằng mình không tiếp đãi đúng mức với vị khách quí. Về phần Maria cô giữ một thái độ xứng hợp nhất, ngồi bên chân Đức Giêsu, trong tư thế của người môn đệ. Cô không làm gì, không nói gì, cô chỉ ngồi và nghe. Cô đã quên tất cả mọi sự, ngoài Chúa. Cô quên chính mình. Cô dành cả con mắt, lỗ tai để nhìn và nghe Lời Chúa. Cô cũng đón tiếp Đức Giêsu hơn ai hết, với phong cách tốt nhất. Nhìn cô, người ta dám nói rằng : chính cô được Ngài tiếp đón mới đúng (Fiches dominicales, năm C, tr 253-154).
Ngày nay, người đàn bà danh tiếng nhất thế giới là một nữ tu bác ái, một Martha thời đại : chân phước Têrêsa Calcutta. Bà đã hiểu và truyền lại cho con cái thiêng liêng của Bà tinh thần bài Tin mừng hôm nay. Cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa trước khi xuống “địa ngục Calcutta” để săn sóc kẻ nghèo hoặc đi vào trong các “nhà chết”.
Trong khi tiếp xúc với Chúa chúng ta phải biết trao đổi như người ta nói :”Có đi có lại mới toại lòng nhau”, nghĩa là phải biết nói và biết nghe, biết cho và biết nhận. Nhiều khi chúng ta rất hào phóng chỉ biết cho Chúa mà không biết nhận. Trong lúc Chúa muốn cho chúng ta tạo điều kiện để Chúa có cơ hội ban cho chúng ta nhiều ơn, để chúng ta tiếp nhận, nhưng tiếc thay, Ngài không có cơ hội.
Câu chuyện trong Tin mừng cho chúng ta thấy sự khác biệt chủ yếu giữa Martha và Maria. Martha không có khả năng nhận, trong khi Maria thì có. Maria cho Chúa món quà là một tâm trí mở rộng và một tâm hồn mẫn cảm. Còn Martha, trong lúc rất tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất nghèo khi nhận. Cả Chúa cũng không thể cho cô điều gì.
Đặt thái độ của Martha và Maria đối chọi nhau và nghĩ rằng chỉ có một phía đúng, là quá vội vàng. Maria lắng nghe Lời Chúa, còn Martha tất bật lo phục vụ Chúa. Mỗi cô mỗi cách, họ đều muốn giữ chân Chúa nghỉ lại, trên đường lên Giêrusalem. Cô này bằng cách phục vụ, thì làm tất cả những gì có thể làm cho Ngài; cô kia bằng cách lắng nghe lời Chúa, thì cố gắng ghi nhớ lời Ngài, lời của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống của người môn đệ, có lúc “tất bật”, và có lúc “lắng nghe”. Tuy nhiên, không thể có hoạt động tốt nếu không lắng nghe tốt. Maria đã thành công khi tạo cho mình một thái độ không thể thiếu của một môn đệ : là ngồi dưới chân Đức Giêsu, cô quên mọi sự khác, để toàn tâm chú ý vào Chúa và lời Ngài… Nhưng sau đó, có lẽ cô sẽ là một tông đồ hoạt động vì Thầy mình (Fiches dominicales).
Các triết gia Tây phương có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia Đông phương trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là :”Cầu nguyện và hoạt động”. Martha phải đi đôi vơiù Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện.
Graef nói một câu rất thâm thúy :”Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”.
Một nhà tâm lý trị liệu và nhà văn Mỹ, ông Thomas Moore nói :“Không còn nghi ngờ việc một số người có thể tiết kiệm chi phí và tránh cho mình sự phiền toái về tâm lý trị liệu chỉ vì họ đã dành mỗi ngày ít phút để nguyện ngắm. Hành động đơn giản này cung cấp cho họ điều họ thiếu trong cuộc sống – một thời gian bất động chủ yếu là để nuôi dưỡng linh hồn”.
Truyện : Bác học Ampère cầu nguyện
Frédéric Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quìø cầu nguyện cách sốt sắng ở dẫy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.
Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi :
– Anh bạn trẻ, anh cần gì đó ? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không ?
Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ :
– Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép giáo sư cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin !
Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn :
– Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm.
Chàng sinh viên liền hỏi :
– Thưa giáo sư, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không ?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh vên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời :
– Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi.
Đời sống Kitô hữu phải được đan dệt bằng hoạt động và cầu nguyện. Các tu sĩ sống đời chiêm niệm không phải chỉ có cầu nguyện mà còn phải làm việc; còn các tu sĩ sống đời hoạt động cũng phải cầu nguyện chứ không phải chỉ có hoạt động. Cha Don Marmion nói :”Sự cầu nguyện hỗ trợ cho công việc tông đồ là linh hồn của mọi sứ vụ truyền giáo”.
Người Kitô hữu sống ở trần gian, nhiều lúc phải tất bật với những công việc, nhưng không thể thiếu được sự cầu nguyện. Đối với nhiều người, cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh, nhưng đọc kinh chỉ là một trong những hình thức cầu nguyện. Cốt yếu của sự cầu nguyện là kết hợp với Chúa. Nhiều khi chúng ta không đọc kinh, chỉ thinh lặng trước sự hiện diện của Chúa cũng là một cách cầu nguyện rất hay. Thinh lặng cũng là một cách cầu nguyện.
Có lẽ kinh nguyện có lợi nhất là ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không làm gì cả. Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện của Đức Giêsu. Nếu chúng ta dành một số thời giờ cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Thiên Chúa, thì không phải là thời gian lãng phí mà là thời gian được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù trong một thời gian ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.
Với cái nhìn nông cạn, nhiều người cho là phần việc của Maria có vẻ dễ dàng vì chỉ có ngồi đó, còn phần việc của Martha thì khó khăn hơn. Nhưng nếu suy cho kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi, phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều trong hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc của mình và chú trọng hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn. Nhưng đó là linh đạo sinh lợi ích rất lớn lao.
Truyện : Dưới sự hiện diện của Thiên Chúa.
Tổng Giám mục Anthony Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin Ngài một lời khuyên khi ngài được truyền chức thánh là một bà cụ. Bà nói :
– Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu như không ngừng suốt bốn mươi năm, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Ngài hỏi :
– Con có để cho Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không ?
Bà nói :
– Ồ không ! Con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu nguyện sao ?
Ngài nói :
– Không. Cha không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế này : con hãy dành riêng mười lăm phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa.
Và bà đã làm như thế. Kết quả là gì ? Không lâu sau, bà trở lại và nói :
– Thật lạ lùng, khi con cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác, khi con nói với Người, con không thấy điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh ặng, yên tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm thấy được bao trùm trong sự hiện diện của Ngươiø.
(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 514-515)
Để kết thúc bài chia sẻ hôm nay, trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cần xác tín rằng:”Câu hỏi thường đặt ra không phải Thiên Chúa có nói với chúng ta hay không, nhưng là chúng ta có thinh lặng và yên tĩnh đủ để lắng nghe Ngài hay không”.
.
Lm Trần Bình Trọng
Phụng vụ lời Chúa hôm nay nói lên tinh thần hiếu khách. Lòng hiếu khách đã thúc đẩy tổ phụ Áp-ra-ham dọn bữa cơm thịnh soạn, với sự tiếp tay của bà xã ông và người đầy tớ, rồi ông đích thân tiếp đãi ba vị sứ giả của Thiên Chúa.
Lòng hiếu khách của ông Ápraham đã được khen thưởng, khi sứ giả của Thiên Chúa loan báo là sang năm bà Xa-ra sẽ sinh hạ cho ông một con trai, mà sau này ông đặt tên là I-xa-ác (St 18:10a).
Còn hai chị em Mácta và Maria cũng tỏ ra tinh thần hiếu khách theo cách thế của mỗi người. Mác-ta tỏ ra tinh thần hiếu khách bằng cách sửa sọan thiết đãi Chúa một bữa cơm tươm tất. Bà đã có thể liếc mắt lườm người em là Maria, không chịu giúp việc bếp núc. Rồi bà xin Chúa can thiệp: Sao Thầy không bảo em con giúp con một tay? (Lc 10: 40). Chị em bà đã phải quen biết Chúa trước đó nên bà Mác-ta mới có thể nói với Chúa một cách chân thành như vậy. Ở đây ta phải thông cảm với bà Mácta vì bà phải sửa sọan bữa ăn một mình mà thiếu dụng cụ nhà bếp tân thời như ngày nay. Tuy nhiên yếu điểm của bà ta là bà quá lo lắng về những việc dọn cơm nước, đến nỗi bà đánh thấp giá trị của việc lắng nghe lời Chúa của em mình là Maria. Ta cũng có thể phản ứng giống như bà Mác-ta. Khi bận rộn với công việc làm, ta ưa phê bình người chỉ nói và ưa chuyện vãn mà không làm. Còn khi không chịu làm việc phục vụ, ta có thể dùng ví dụ về bà Maria để biện minh cho tính biếng nhác của mình.
Tuy nhiên Chúa lại khen bà Maria đã biết lắng nghe lời Chúa, biết chọn phần tốt nhất (c. 42). Khi Chúa nói bà Maria đã chọn phần tốt nhất, thì theo kiểu so sánh, phải hiểu rằng bà Mácta chọn phần không tốt bằng mà thôi, chứ không phải là chọn phần không tốt. Việc Chúa sinh ra làm người cũng đòi hỏi Chúa cần ăn uống. Ðể có của ăn lại cần phải có người nấu nướng. Hôm nay bà Mác-ta đã dọn cơm nước cho Chúa. Chúa chỉ nhắc nhở bà Mácta: Con băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá (c. 41). Chắc Chúa đã phải biết tính nết của hai chị em rồi vì nhà ba chị em – gồm ông Ladarô – thường là nơi Chúa và các tông đồ lui tới nghỉ chân và ăn uống miễn phí mỗi khi Thày trò về Giêsusalem. Có thể ý Chúa muốn nói rằng bà chỉ cần làm một vài món là đủ rồi, để lần sau làm món khác cho thay đổi. Rồi có lẽ Chúa cũng muốn kể cho cả bà chị nghe về việc Chúa đi rao giảng và chữa lành, dân chúng phản ứng ra sao, có nhóm nào chống đối hay nhóm nào ủng hộ không?
Vậy làm thế nào để dung hoà vai trò của hai chị em Mácta và Maria trong đời sống người tín hữu? Ðể dung hoà, ta vừa phải làm việc vừa phải cầu nguyện. Khi mẹ Têrêsa thành Calcutta được hỏi làm sao bà có đủ nghị lực để tiếp tục việc phục vụ trẻ nghèo bên Ấn độ một cách liên tục và hăng say như vậy? Bà trả lời: Chúa Thánh thể là sức mạnh của bà, và bà cầu nguyện hàng giờ trước Mình Thánh Chúa. Một cách dung hoà tốt nhất là làm việc trong bầu khí cầu nguyện, làm việc dưới sự hiện diện của Chúa. Ngày nay người ta bị chi phối bởi nhiều tiếng động và chia trí. Vì vậy ta phải học để lắng nghe tiếng Chúa. Ta phải tìm những giờ phút yên lặng để cầu nguyện, tìm cơ hội để hồi tâm, để ở một mình với Chúa và đặt mình dưới sự hiện diện của Chúa.
Ðó là lý do tại sao hôm nay sau những ngày giờ bận rộn với công ăn việc làm – việc nhà cũng như việc sở – ta tụ họp nơi đây trong nhà Chúa để thờ phượng và cầu nguyện, để xa tránh bầu khí náo nhiệt của cuộc sống, để tìm hiểu xem những màu nhiệm khổ hình, tử nạn và phục sinh của Chúa có ảnh hưởng tới đời sống mỗi ngưòi như thế nào?
Ðây cũng là cơ hội để giúp ta nhận ra Chúa đang mời gọi ta làm gì để tiếp tục sống làm môn đệ. Chúa hiện diện giữa ta khi ta họp nhau cầu nguyện và thờ phượng. Ta cần chuẩn bị sao cho được sẵn sàng để mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và lắng nghe tiếng Chúa trong Thánh kinh, qua Giáo hội và các phép bí tích mà ta lãnh nhận. Hôm nay mỗi người nên tự hỏi: ta đã sửa soạn cho việc thờ phượng ngày Chúa nhật như thế nào? Làm sao ta có thể lắng nghe tiếng Chúa khi ta bận tâm lo nghĩ xem hôm nay sau lễ ta phải làm gì, đi tiệm ăn món gì, đi chợ mua những gì?
Ðể cho tâm hồn được lắng dịu hầu có thể đặt mình dưới sự hiện diện của Chúa, trước lễ ta cần sửa soạn tìm ra phương thế để nhắc nhở cho mình những gì cần làm hay cần mua sau lễ, rồi ghi những thứ cần mua hay cần làm vào miếng giấy để trong túi thay vì để trong đầu óc khi dự lễ. Ðể áp dụng thực hành, những người có con nhỏ nên ước lượng xem trước khi đi lễ cần bao nhiêu thời giờ để sửa soạn cho mình và cho con cái. Rồi cắt đặt từ tối hôm trước xem xe còn xăng nhớt không, ai đặt đồng hồ báo thức, sáng hôm sau ai đánh thức con cái dạy, ai tắm rửa cho con, ai thay quần áo, xỏ dày dép cho con. Con cái nhỏ cần ngủ cũng như cần ăn để khi đến nhà thờ con em khỏi quấy khóc làm chia trí cho người dự lễ. Ta không thể đợi tới nhà thờ mới cho con ăn uống, rồi còn thay tã cho con trong khu vực nhà thờ – trừ trường hợp khẩn thiết. Làm như vậy là mặc nhiên ghi vào ấn tượng con cháu ý tưởng coi thường nhà Chúa.
Trong tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới, Ðức Thánh cha Gioan Phaolo II nhắc lại: Chúa nhật là ngày của Chúa. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi một ngày. Chúa nhật còn là ngày Chúa phục sinh, ngày vui mừng. Ðức thánh Cha khẳng định lại: bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng vẫn là tội nặng. Thánh lễ Chúa nhật là trung tâm điểm đời sống người tín hữu. Nói như vậy có nghĩa là mỗi tuần ta đến nhà thờ ít là một lần để được tăng sức và bổ dưỡng bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa. Cuối tuần khi kiệt sức vì công việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bổ dưỡng. Chúa nhật còn là ngày của Giáo hội. Theo Ðức thánh Cha, Giáo hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, nghỉ ngơi hoặc làm việc từ thiện bác ái.
Lời cầu nguyện xin cho được biết chọn phần tốt hơn:
Lạy Chúa, Chúa là Ðấng khôn ngoan thượng trí.
Xin dạy con biết tìm lắng nghe lời Chúa.
Xin ban cho con ơn khôn ngoan
để con biết chọn phần tốt nhất
cho con và con cháu con sau này.
Xin đừng để con quá bận tâm về những chuyện phụ thuộc,
khiến con quên lãng phần thiết yếu cho tâm hồn con. Amen.
.
CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN_C
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng vụ Lời Chúa, Chúa Nhật XVI Thường Niên Năm C, đặc biệt Bài Đọc I và Tin Mừng, nêu bật quyền ưu tiên trong việc tiếp đón Chúa và lắng nghe Lời Ngài.
St 18: 1-10
Sách Sáng Thế tường thuật ba vị khách bí nhiệm viếng thăm ông Áp-ra-ham. Vị tổ phụ tiếp đãi Các Ngài một cách hậu hĩnh. Để đáp lại, Các Ngài đoan hứa với ông Áp-ra-ham rằng sang năm vào độ này bà Xa-ra, vợ ông, sẽ sinh hạ một quý tử.
Cl 1: 24-28
Thánh Phao-lô nêu lên cho các tín hữu Cô-lô-xê những đau khổ tù đày của ngài mà ngài dâng hiến cho họ để họ giữ trọn niềm tin vẹn toàn của mình. Bởi vì ơn cứu độ được thực hiện qua gian nan thử thách và được thành toàn chỉ trong và qua Chúa Ki-tô.
Lc 10: 38-42
Tin Mừng tường thuật tấm lòng hiếu khách mà hai chị em, cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, tiếp đón Chúa Giê-su. Việc đón tiếp phải ưu tiên dành cho việc lắng nghe Lời Chúa. Đó là chuyện cần thiết bậc nhất.
BÀI ĐỌC I (St 18: 1-10)
Chuyện tích nổi tiếng này thuộc chứng liệu Gia-vít (thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên, thời vua Sa-lô-mon). Theo chứng liệu này, Thiên Chúa, luôn luôn được gọi dưới danh xưng “Đức Chúa” (Gia-vê), rất thân cận với con người, nói chuyện với con người, hành xử như một con người. Các chuyện tích về vườn địa đàng, sự thử thách và sa ngã có cùng một tác giả.
Ngay từ dòng đầu tiên giới thiệu các chương 18 và 19 sách Sáng Thế, tác giả báo trước cho chúng ta rằng chính Đức Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham: “Một hôm, Đức Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham tại cụm sồi Mam-rê”; ấy vậy, trong câu chuyện, ông Áp-ra-ham đón tiếp không chỉ một mà đến ba vị khách. Xa hơn, tác giả xác định rằng hai trong ba vị khách này là hai sứ thần (19: 1). Quả thật, sự ngần ngại của bản văn giữa số ít và số nhiều gây bối rối cho độc giả. Vài Giáo Phụ đã giải thích ba vị khách này tượng trưng Ba Ngôi Thiên Chúa. Truyền thống Ki-tô giáo sau này sẽ theo cùng một giải thích này, bằng chứng rõ ràng nhất là tượng thánh về Ba Ngôi Thiên Chúa của tu sĩ Nga là André Roublev, được thực hiện ở Moscou vào năm 1425, bức tượng thánh này rất phong phú về biểu tượng.
Ông Áp-ra-ham đã dựng lều của mình tại cụm sồi Mam-rê, cách thành Khép-rôn khoảng ba cây số về hướng bắc đất Pa-lét-tin. Cụm sồi Mam-rê là nơi dân bản địa Ca-na-an cúng tế thần linh của mình, đến lượt mình, ông Áp-ra-ham xem cụm sồi này là thánh địa của mình khi dựng một bàn thờ để kính Đức Chúa tại đó (St 13: 18). Vì thế, đây là nơi thuận tiện cho cuộc Thần Hiển. Ngài hiện ra với ông trong khi ông Áp-ra-ham đang ngồi ở cửa lều, vào lúc trời nóng nực nhất trong ngày.
Khi ba vị khách vừa xuất hiện, tổ phụ Áp-ra-ham, mặc dầu cao tuổi, chạy ra đón họ. Ông ngỏ lời với họ lúc thì số ít lúc thì số nhiều; nhưng dường như ông phân biệt trong ba vị đó một nhân vật chính và phủ phục trước vị khách này. Đây không là cử chỉ thờ lạy, nhưng bày tỏ lòng tôn kính theo tập tục Đông Phương.
Sau đó, ông thể hiện lòng hiếu khách theo các nghi thức cổ truyền: nước để làm mát chân và tẩy bụi đường; một bữa ăn được chuẩn bị… Truyền thống Á-rập đã duy trì tập tục này, theo đó người ta đàm luận với nhau trong bữa ăn và tặng quà cho nhau.
“Ông Áp-ra-ham lật đật vào lều tìm bà Xa-ra”. Lúc đó bà Xa-ra hoặc ở trong một lều riêng hay ở trong cùng một lều có bức màn ngăn cách, nơi ở của người phụ nữ. Bữa ăn đã được chuẩn bị xong; các món ăn được dọn ra trước các vị khách. Theo phong tục tỏ lòng kính trọng khách thời đó, ông Áp-ra-ham không ngồi đồng bàn với khách, nhưng đứng hầu bên cạnh để đáp ứng nhu cầu của khách.
Đây là đoạn văn Cựu Ước duy nhất ở đó Đức Chúa chấp nhận dùng bữa ăn mà con người dọn ra. Chuyện kể thật sống động và ý nhị, có thể được sánh ví với nhiều chuyện tích khuyến thiện nêu bật tấm lòng hiếu khách. Nhưng câu chuyện này có một dáng vẻ đặc biệt. Ở Đông Phương, xưa và nay, người khách không bao giờ hỏi thăm vợ của gia chủ. Đó là điều cấm kỵ, bất lịch sự và không phải phép. Nhưng những nhân vật mà ông Áp-ra-ham đón tiếp không là những vị khách bình thường: họ chẳng những biết tên vợ của vị tổ phụ mà còn biết cả cảnh ngộ son sẻ của vợ ông. Chân tính mầu nhiệm của ba vị khách bắt đầu được vén mở. Để tri ân tấm lòng chân thành và hậu hĩnh đón tiếp của gia chủ, họ tặng cho gia chủ một món quà đẹp nhất, quá mức mong đợi: “Sang năm vào độ này, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai”.
Ở đây cũng vậy, chúng ta có ấn tượng là mình đang sống trong một câu chuyện thần tiên, ở đó một vị thần linh loan báo cho vua hay hoàng hậu việc chào đời của một hoàng tử hay cô công chúa. Tuy nhiên, phải vượt qua những điểm tương đồng của thể loại văn chương này. Trong những bản văn được biên soạn chín thế kỷ sau khi những biến cố đã xảy ra, chúng ta phải tính đến truyền thống chính truyền, tùy theo mức độ chúng lưu truyền đến chúng ta, đến nghệ thuật kể chuyện và ý định thần học của tác giả linh hứng. Ý định thần học này mới là điểm cốt lõi của chuyện tích này. Vì thế, không được tách riêng chương 18 và chương 19 ra khỏi mạch văn của sách Sáng Thế; hai chương này hình thành nên toàn bộ câu chuyện. Đức Chúa đã thân hành ngự xuống trần gian không chỉ để nói chuyện với ông Áp-ra-ham và lập lại lời hứa ban con trai trước đó với ông một cách chính xác hơn, nhưng còn để trừng phạt những thành phố tội lỗi: thành Xơ-đôm và thành Gô-mô-ra. Trước khi tấn thảm kịch này xảy ra, kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham đã trở nên sâu xa – đây là điểm nhắm của bản văn này; kinh nghiệm này sắp giúp cho vị tổ phụ có đủ bạo dạn để can thiệp vào công việc của Thiên Chúa, mà chúng ta sẽ đọc vào Chúa Nhật tới.
BÀI ĐỌC II (Cl 1: 24-28)
Chúng ta tiếp tục đọc Thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-lô-xê, đây là một trong những bức thư được viết khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma giữa năm 60-62. Cung giọng thật thống thiết.
Với nhiều cảm xúc, thánh Phao-lô ngỏ lời với các tín hữu Cô-lô-xê về niềm tin của họ có nguy cơ bị biến chất trước mối đe dọa của những giáo thuyết sai lạc. Những đau khổ tù đày cùng với tất cả mọi hoạt động truyền giáo đầy gian nan thử thách của thánh nhân được định vị vào trong cùng cung bậc với cuộc Khổ Nạn của Đức Ki-tô.
“Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân, cho đủ mức. Như thế là vì lợi ích cho thân thể Người, là Hội Thánh”. Thánh Phao-lô không muốn nói rằng những đau khổ sinh ơn cứu độ của Đức Ki-tô còn thiếu sót. Hy tế của Đức Ki-tô đã là hoàn hảo và hoàn toàn hữu hiệu. Đức Giê-su đã chịu đau khổ để khai sinh Nước Trời; nhưng vương quốc này phải được xây dựng và tăng trưởng không ngừng. Được kêu gọi loan báo Tin Mừng cho muôn dân, thánh nhân mang một nỗi ưu tư đặc biệt đến công việc này. Sứ vụ tông đồ đòi hỏi những nỗi nặng nhọc vất vả. Thánh nhân biết rõ điều này hơn ai hết.
Đây là câu chủ đạo tóm gọn lời loan báo Tin Mừng: mặc khải về sự hiện diện của Đức Ki-tô Phục Sinh, ở nơi Ngài Thiên Chúa đã tỏ mình ra một cách hữu hình. Thánh Phao-lô nhắc lại những khía cạnh cốt yếu giáo huấn của thánh nhân bằng ba động từ: “Chính Người là Đấng chúng tôi ‘loan báo’, khi ‘khuyên bảo’ mọi người và dạy dỗ mọi người, với tất cả sự khôn ngoan Thiên Chúa ban, để giúp mỗi người ‘nên hoàn thiện’ trong Đức Ki-tô, trước mặt Thiên Chúa”. Những lời này nhắm đến những giáo lý sai lạc mà những nhà giảng thuyết mạo danh ở Cô-lô-xê đề xướng: vài người đòi hỏi phải nên hoàn thiện bằng việc tuân giữ luật Mô-sê, còn những người khác thì nhấn mạnh hành động cứu độ đến từ các thiên thần. Thánh Phao-lô cải chính: sự hoàn thiện và ơn cứu độ chỉ được gặp thấy ở nơi Đức Ki-tô. Chỉ mình Ngài mới có thể “ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang”.
Trong đoạn trích thư này, chúng ta có một bức phác họa về thần học “Nhiệm Thể của Đức Ki-tô”, mà thánh Phao-lô sẽ khai triển trong Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô (cả hai bức thư được viết cùng một thời kỳ). Có một mối liên đới mật thiết giữa các chi thể và Đầu là Đức Ki-tô. Thần học về sự đau khổ được ghi khắc ở nơi sự liên đới này, sẽ được gọi “sự hiệp thông của các thánh”. Từ đó, niềm vui nội tại có thể được liên kết với sự đau khổ.
TIN MỪNG (Lc 10: 38-42)
Câu chuyện ngắn về hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, cả hai đều bày tỏ tấm lòng quý mến Chúa Giê-su bằng hai cách thế khác nhau. Câu chuyện này là một trong những hạt ngọc của Tin Mừng Lu-ca.
Thánh Gioan cho chúng ta biết cô Mác-ta và cô Ma-ri-a là hai người chị của anh La-da-rô. Thánh Gioan còn mô tả hai cách tiếp đón Chúa Giê-su của hai chị em tương tự như thánh Lu-ca: trong bữa ăn thiết đãi Đức Giê-su ở làng Bê-ta-ni-a, cô Mác-ta lo hầu bàn, còn cô Ma-ri-a ngồi bên chân Chúa Giê-su, lấy dầu thơm quý giá mà xức chân Ngài (Ga 12: 2-3). Thánh Gioan còn cho chúng ta thêm thông tin về gia đình ba chị em này: sau những lần thi hành sứ vụ tại Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su hay ghé thăm gia đình này, họ là những người bạn thân của Ngài ở làng Bê-ta-ni-a cách thành đô Giê-ru-sa-lem không xa: “Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô” (Ga 11: 5, 33; 12: 1-3).
Thánh Lu-ca không ghi rõ địa danh nơi câu chuyện này xảy ra. Về phương diện địa lý, câu chuyện này không thể xảy ra vào lúc khởi đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su được vì làng Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khoảng chừng 3 cây số. Nhưng ý định của tác giả thì rõ ràng, nhằm đưa ra một giáo huấn bổ túc cho dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành”. Ở dụ ngôn này, Chúa Giê-su mở rộng huấn lệnh “yêu người” khi đảo ngược câu hỏi của kinh sư, không phải “ai là người thân cận của tôi”, mà “tôi phải là người thân cận của bất kỳ ai cần đến sự cứu giúp của tôi”. Tại nhà cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, Chúa Giê-su muốn cho hiểu rằng “mến Chúa” phải đặt ưu tiên hàng đầu trong tất cả mối bận lòng của con người.
Trong câu chuyện này, chúng ta không thấy nói tới cha mẹ của họ, nếu có họ phải là gia chủ ra chào hỏi khách. Vì thế, chúng ta có thể hiểu hoàn cảnh của gia đình này, cha mẹ đã qua đời sớm, ba chị em đùm bọc nhau. Với tư cách là chị cả, cô Mác-ta quán xuyến mọi việc trong gia đình; vì thế trong việc đón tiếp Chúa Giê-su, cô bận rộn lo toan đủ mọi thứ hầu bày tỏ tấm lòng quý mến của cô đối với Chúa Giê-su, Ngài không chỉ là khách mời mà còn là một người bạn quý của gia đình.
Từ lúc Chúa Giê-su bước vào nhà, cô em là Ma-ri-a “cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”. Thái độ như vậy xem ra không phù hợp với phong tục tập quán vào thời đó cho lắm, vì phụ nữ không được phép dự phần vào giáo huấn của các kinh sư. Chúng ta chẳng có gì phải ngạc nhiên khi gặp thấy nét bút này của thánh Lu-ca, thánh ký rất quan tâm đến sự hiện diện của các người phụ nữ trong vòng thân cận với Chúa Giê-su trong công cuộc truyền giáo của Ngài bằng cách góp công góp của vào sứ vụ của Ngài (Lc 8: 1-3).
Cô Mác-ta tất bật lo việc phục vụ Chúa với một bữa ăn, còn cô Ma-ri-a thì ngồi bên chân Chúa mà lắng nghe lời Ngài. Vì thế, cô Mác-ta nóng ruột thưa với Chúa bằng giọng hờn trách: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo em con giúp một tay”. Cô tin rằng Chúa cũng đồng ý với cô; ấy vậy, Chúa Giê-su chẳng những trách khéo cô mà còn bênh vực cô Ma-ri-a nữa: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Cô Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
Với lối chú giải ẩn dụ đặc thù của mình, các Giáo Phụ đã đọc thấy nơi công việc phục vụ của cô Mác-ta và nơi việc lắng nghe lời Ngài của cô Ma-ri-a hai cách thế hiện diện không thể thiếu của Giáo Hội trong cuộc sống tại thế: đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động. Trong hai công việc đó, việc“Ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Ngài” phải là ưu tiên, bởi vì việc lắng nghe Lời Chúa khơi nguồn và định hướng cho mọi công việc phục vụ của Giáo Hội. Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca thường ghi nhận rằng ngay từ sáng sớm Chúa Giê-su một mình đi vào nơi thanh vắng để trò chuyện với Chúa Cha trước khi bắt đầu một ngày mới bận rộn với sứ vụ của mình.
Tuy nhiên, Đức Giê-su cũng đã không bao giờ coi thường công việc phục vụ. Khi các môn đệ tranh cãi với nhau xem ai trong nhóm họ là người lớn nhất, Chúa Giê-su căn dặn các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22: 24-27).
Điều Đức Giê-su quở trách cô Mác-ta không phải vì cô lo lắng phục vụ Ngài cho thật chu đáo và nồng hậu, nhưng vì cô để hết cả tâm trí vào việc phục vụ đến mức xao lãng một hình thức tiếp đón khác: ngồi hầu chuyện với khách mời của mình, đó mới là điều quan trọng bậc nhất trong trường hợp này, bởi vì lời mà cô Ma-ri-a lắng nghe chính là Lời Thiên Chúa. Việc lắng nghe Lời Chúa quan trọng đến mức mà chỉ một lúc sau đó chỉ một mình thánh Lu-ca ghi lại câu chuyện về một người phụ nữ trong đám đông ca ngợi công sinh thành của mẹ Ngài: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”, Chúa Giê-su trả lời cho người phụ nữ này và cho cả đám đông nữa: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”(Lc 11: 27-28). Phải đặt ưu tiên cho một chuyện cần thiết bậc nhất: lắng nghe Lời Chúa. Có lắng nghe Lời Chúa mới biết Chúa muốn chúng ta làm gì trong giây phút hiện tại và dấn thân phục vụ Ngài ở nơi anh chị em mà chúng ta găp gỡ trong cuộc sống hằng ngày.
.
Trầm Thiên Thu
Theo quan niệm xưa, đảm đang là khái niệm chỉ phẩm chất người phụ nữ giỏi giang trong công việc – thường liên quan việc nội trợ trong gia đình. Ngày nay, khái niệm đảm đang mang nghĩa rộng hơn, đó là khả năng quán xuyến công việc trong mọi lĩnh vực, bất kể nam hay nữ. Kinh Thánh cho biết: “Gia-róp-am là người có khả năng. Vua Sa-lô-môn thấy chàng trai ấy đảm đang công việc, thì đặt chàng phụ trách toàn thể dân công nhà Giu-se” (1 V 11:28).
Nói về gia đình, Kinh Thánh cho biết: “Có vợ đảm đang như được mang ngọc miện, có vợ hư hỏng như bị bệnh mục xương” (Cn 12:4). Người vợ đó trở thành cái phúc cho người chồng: “Phúc thay ai cưới được vợ hiền, tuổi thọ sẽ tăng lên gấp đôi. Vợ đảm đang khiến chồng được sung sướng, được an vui suốt cả cuộc đời” (Hc 26:1-2).
Sự đảm đang liên quan công việc, công việc liên quan sự phục vụ – điều cần thiết mà Chúa Giêsu rất trân trọng, và chính Ngài đã xác định: “Tôi đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Ngài đã nêu gương phục vụ qua việc rửa chân cho các môn đệ khi ăn mừng dạ tiệc Vượt Qua và cũng là Bữa Tiệc Ly.
Có nhiều cách và nhiều cấp độ đối với việc phục vụ: Tôi tớ phục vụ chủ nhân, người nhỏ phục vụ người lớn, con cái phục vụ cha mẹ, chủ nhà phục vụ khách, nhân viên phục vụ khách,… Đó là quy ước mặc định của xã hội, nhưng thực ra, mọi người đều phục vụ nhau, không nhiều thì ít, không kiểu này thì dạng nọ, dù là người lớn vẫn có lúc phục vụ người nhỏ hoặc người trên cũng có khi phục vụ người dưới. Tuy nhiên, dù phục vụ ở dạng nào, vấn đề quan trọng là PHONG CÁCH PHỤC VỤ, vì đôi khi người ta có thể kiêu ngạo hoặc tự tôn ngay khi tỏ vẻ phục vụ. Quả thật, phục vụ cũng có dạng giả dối. Thật nguy hiểm!
Sự phục vụ có liên quan sự cảm thông và tha thứ, cần biết chấp nhận để không đòi hỏi. Chuyện kể rằng…
Một buổi tối, hai mẹ con cùng đi ăn nhà hàng. Nhân viên phục vụ họ là một cô gái trẻ. Khi cô này bưng món cá hấp tới thì không may đĩa bị nghiêng, làm nước cá chảy xuống chiếc túi hàng hiệu mới mua của người mẹ. Bà liền đứng phắt dậy và nhìn nhân viên với ánh mắt đầy sự phẫn nộ.
Lúc đó, cô phục vụ hốt hoảng, bối rối, và ấp úng: “Cháu… cháu… vô cùng xin lỗi, cháu sẽ đi lấy khăn lau ngay”. Cô con gái liền đứng dậy, vỗ vai cô nhân viên phục vụ và nói: “Không sao đâu, chuyện nhỏ thôi, về nhà giặt là sạch thôi mà. Chị đừng lo, cứ đi làm việc của chị”. Giọng điệu dịu dàng, thái độ cảm thông, đầy thiện chí, giống như chính cô ấy là người phạm lỗi vậy.
Người mẹ vô cùng ngạc nhiên với cách hành xử khôn khéo của con gái. Dưới ánh đèn vàng trong nhà hàng, người mẹ thấy trong mắt của con gái mình có gì đó ươn ướt, long lanh,…
Ai cũng biết rằng phục vụ là bổn phận chung, không là trách nhiệm riêng ai. Đừng nghĩ người này phải thế nọ, người kia phải thế khác. Nhà văn Nam Cao nhận xét: “Kẻ mạnh phải là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai của mình”. Thật tuyệt vời! Đó là một cách yêu thương và nâng đỡ người khác, đồng thời cũng là một cách phục vụ. Còn chí sĩ Chu Văn An nhận định: “Người thức giả phải nói lên sự thật cốt sao cho dân được ấm no, thiên hạ được thái bình, triều đình được vững mạnh”. Đó lại là một dạng phục vụ khác, phục vụ vì hạnh phúc của cộng đồng. Mỗi người đều có phong cách độc đáo riêng. Muốn người khác đảm đang thì trước tiên mình phải đảm đang, muốn người khác phục vụ thì chính mình phải làm gương phục vụ trước!
Một hôm, Đức Chúa hiện ra với ông Ápraham tại cụm sồi Mamrê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Khi ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy họ, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!” (St 18:3-5). Rất chu đáo và tận tình. Thấy chủ nhà chân thành, khách vui vẻ để cho ông phục vụ: “Xin cứ làm như ông vừa nói!”. Biết cho là yêu thương, biết nhận cũng là yêu thương – không nỡ phụ lòng người cho.
Ngay lập tức, ông Ápraham vội vã vào lều tìm bà Sara và bảo: “Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi, rồi làm bánh” (St 18:6). Tổ phụ Ápraham vừa đảm đang vừa có tinh thần phục vụ. Người ta bảo “khách đến nhà không gà thì vịt”, thế nên ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này vội vã làm thịt. Rồi ông lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm mà đãi khách. Không chỉ vậy, ông còn đứng hầu dưới gốc cây khi khách dùng bữa. Cả ông và bà đều tận tình và khiêm nhường, phục vụ hết mình.
Biết lắng nghe thì dễ khiêm nhường phục vụ. Cả hai ông bà đã làm vui lòng Thiên Chúa, thế nên các vị khách hứa với ông Ápraham: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai” (St 18:10). Con cái là quà tặng vô giá từ Thiên Chúa – Đấng duy nhất làm chủ sự sống. Bất cứ ai được Thiên Chúa trao tặng phẩm nào thì cũng phải là người sống ngay thẳng, “đảm đang” với chính cuộc đời mình.
Người đó có lối sống hợp ý Chúa, tín thác và tận hiến cuộc đời cho Ngài – nghĩa là thuộc về Ngài. Nhưng ai là người thuộc về Ngài? Thánh Vịnh gia đặt vấn đề: “Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong nhà Chúa, được ở trên Núi Thánh của Ngài?” (Tv 15:1). Tác giả hỏi và cũng đưa ra câu trả lời: “Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã, coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời, lỡ thề mà bị thiệt cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay. Phàm ai làm những điều này không hề nao núng chuyển lay bao giờ” (Tv 15:2-5). Đó là một chuỗi các nhân đức cần thiết cho cuộc đời Kitô hữu.
Nếu nghiêm túc xét theo “luật nhân đức” này thì chúng ta vi phạm khá nhiều. Ôi, sao vậy? Bởi vì chúng ta thiếu ngay thẳng, lọc lừa nhau đủ kiểu, không hại người chuyện to thì cũng hại người chuyện nhỏ, làm người khác bẽ mặt một cách rất tinh vi, cho vay “cắt cổ”, đủ kiểu hối lộ, đủ trò tham nhũng, nói một đằng làm một nẻo, bất tín,… Cứ tự rờ gáy mà cũng thấy “nhột” ghê đi! Phạm luật như vậy thì không thể phục vụ tha nhân, không thể đảm đang đối với cuộc sống – đời thường và tâm linh.
Đối với Thiên Chúa, phục vụ là phần cài đặt mặc định trong mỗi con người; đối với chúng ta, phục vụ vì miễn cưỡng thì không đáng công, tự nguyện phục vụ mới đáng công. Theo “phong cách” nào thì tùy quyết định riêng của mỗi người.
Đảm đang không nhất thiết là phải bận rộn luôn tay hoặc lăng xăng như con quay, mà là biết chọn lựa việc nào cần làm trước, việc nào nên làm sau. Làm việc thì vất vả, không thể cứ tà tà, nhất là khi làm việc và phục vụ vì Đức Kitô.
Thánh Phaolô cho biết: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa” (Cl 1:24-26). Thánh nhân giải thích đơn giản mà rõ ràng, nhẹ nhàng mà thẳng thắn, và rất nghiêm túc. Thật thấm thía!
Như có ý giải thích thêm cho dễ hiểu, Thánh Phaolô nói: “Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô” (Cl 1:27-28). Nói với người khác về Chúa không phải để chứng tỏ “đẳng cấp” của mình để được thiên hạ “nể mặt” hoặc “ca tụng”, mà là phục vụ Chúa, phục vụ tha nhân và muốn cùng nhau nên thánh theo đúng Thánh Ý Chúa. Đó mới là phong cách phục vụ thánh thiện và tốt lành, là phong cách phục vụ mà Thiên Chúa mong muốn. Điều gì đẹp lòng Chúa thì có giá trị, không thì vô ích – mà có khi còn nguy hại.
Qua trình thuật Lc 10:38-42, Thánh sử Luca cho biết rằng khi Thầy trò Đức Giêsu vào một làng kia, có một phụ nữ tên là Mác-ta đón Ngài vào nhà. Cô này có người em gái tên là Maria. Cô em cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy. Còn cô chị thì tất bật lo việc phục vụ. Có lẽ cô chị thấy em gái “vô tâm vô tính” quá, mà cả Chúa Giêsu có vẻ cũng “vô tư” luôn, còn mình bận rộn làm bữa, luôn tay luôn chân như con thoi, cô chị có vẻ ấm ức nên tiến lại bên Chúa Giêsu mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10:40). Thật tội nghiệp cô nàng siêng năng, đảm đang lắm, đáng khen lắm!
Nhưng cuộc sống không chỉ như vậy, thế nên Chúa Giêsu ôn tồn: “Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10:41-42). Nhiêu khê thế sao? Không, mà có những cấp độ so sánh khác nhau: cần, cần hơn, cần nhất.
Cuộc sống phức tạp, không hề đơn giản – mặc dù có vẻ rất ư bình thường. Về con người, chúng ta thường thấy có hai dạng: Loại thứ nhất – lăng xăng và ồn ào, loại thứ nhì – điềm đạm và tĩnh lặng. Tất nhiên mỗi loại người đều có mặt tích cực riêng, không thể nói người này hơn và người kia kém. Công việc bừa bộn mà không có người chu đáo và năng động thì cũng khó, nhưng chỉ lo bề ngoài mà “quên” bề trong, chú ý “phần nổi” mà không để ý “phần chìm” thì cũng chẳng đâu vào đâu. Mỗi loại đều có đặc tính nhất định, không thể chê trách mặt này mà khen ngợi mặt kia. Cái gì cũng cần phải đúng nơi, đúng lúc. Cần cả ba yếu tố – thiên thời, địa lợi, và nhân hòa – kết hợp với nhau mới khả dĩ tạo nên sự thành công tốt đẹp.
Thật lòng mà nói, chúng ta phải công nhận rằng, trước khi động thái được thể hiện bên ngoài thì phải có nguồn gốc từ bên trong – nội tại và ngoại tại có liên đới với nhau. Nội tại vẫn có phần “nặng ký” hơn ngoại tại. Phần chìm của tảng băng trôi luôn lớn hơn phần nổi, nhưng không nhìn thấy. Thật vậy, một hành động phải được suy tính trước rồi mới được thực hiện, người ta phải ước muốn trước khi hành động. Ngay cả tội lỗi cũng vậy, người ta phải muốn trước, rồi đồng thuận, và sau đó mới thực hiện. Cái gì cũng có quy trình riêng của nó.
Đối với Mác-ta, Chúa Giêsu không chê sự phục vụ chu đáo của bà, mà Ngài chỉ khuyên “đừng lăng xăng quá”, đừng làm ra vẻ đảm đang, đừng tỏ ra mình “bận rộn” hơn người khác – ngụ ý kiêu ngạo và chê người khác, bởi vì điều gì thái quá cũng hóa bất cập. Ngay cả điều tốt “bất ngờ” cũng có thể bị nghi ngờ về “lòng từ bi” đó. Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành động. Chúa Giêsu khen Maria tức là Ngài đề cao việc cầu nguyện. Tại sao cần cầu nguyện? Cầu nguyện để lắng nghe tiếng Chúa, để nhận biết ý Chúa mà thực hiện đúng ý Ngài: Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời. Vả lại, cầu nguyện là sự sống tâm linh và là sức mạnh của tín nhân.
Phục vụ Chúa là thi hành Thánh Ý Ngài, đó cũng là cách chúng ta phục vụ tha nhân – đảm đang với mọi người và với chính mình. Phục vụ là quên mình, quên mình là hạ mình, hạ mình là chấp nhận mình “nhỏ” hơn, nhưng việc phục vụ phải thực hành với phong cách khiêm nhường và có “chất” yêu thương thì mới được Thiên Chúa chấp nhận.
Kinh Thánh xác định: “Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây” (Hc 35:16). Thánh Phanxicô Assisi cho biết điều kỳ lạ: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Lạ lùng lắm!
Lạy Thiên Chúa, Đấng minh xét nhân loại – chẳng thiên vị ai (Hc 35:12), xin cho chúng con biết thu mình nhỏ lại để Ngài nổi bật, biết đè bẹp “cái tôi” để vì công ích, biết phục vụ nhau mà không hề so đo. Xin giúp chúng con sống chân thành để người đời có thể nhận biết Chúa qua phong cách sống phục vụ của chúng con mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
.
Tgm. Ngô Quang Kiệt
Thoạt nghe bài Tin mừng hôm nay, có người đã trách móc: Sao Chúa quá mâu thuẫn. Mới tuần trước, Chúa kể truyện người xứ Samaria nhân hậu để dạy phải phục vụ. Vậy mà hôm nay, Chúa lại trách móc, tuy có nhẹ nhàng, nhưng vẫn đau đau, bà Martha đã lăng xăng phục vụ đón tiếp Chúa. Tại sao thế?
Nếu đọc kỹ bài tường thuật hôm nay cũng như toàn bộ Tin mừng, ta sẽ thấy phục vụ tuy được Chúa đề cao, nhưng vẫn phải nằm trong một trật tự toàn bộ của đời sống đạo.
Trật tự thứ nhất: Phục vụ phải biết quên mình.
Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến khoe khoang tự mãn. Ta hãy nhớ lại chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện. Ông Biệt phái đứng giữa đền thờ, lớn tiếng kể công: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,12). Thái độ khoe mình của ông không được Thiên Chúa chấp nhận vì ông phục vụ mà không biết quên mình.
Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến ganh ghét, dòm ngó, lườm nguýt, loại trừ người khác. Về điểm này, Đức cha Bùi Tuần có đưa ra một hình ảnh rất ý nhị. Trên bàn thờ có ngọn nến và bông hoa. Cả hai cùng phục vụ bàn thờ. Nhưng nếu ngọn nến đốt cháy bông hoa thì thật đau lòng. Phục vụ mà không quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau. Điều Chúa muốn là phục vụ quên mình. Phục vụ quên mình là phục vụ kín đáo: “Tay trái không biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Phục vụ quên mình chỉ cố ý làm vui lòng Chúa chứ không so sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục vụ quên mình sẽ rất khiêm tốn. “Sau khi đã làm tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
Trật tự thứ hai: Phục vụ phải biết lắng nghe.
Trước hết phải biết lắng nghe lòng mình xem có đức bác ái không. Nếu không có đức bác ái thì mọi việc phục vụ dù có lớn lao cũng trở thành vô ích như lời thánh Phao-lô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái, cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3).
Thứ đến phải biết lắng nghe đối tượng phục vụ. Một phục vụ tốt phải đúng lúc, đúng nơi, đúng cách, đúng nhu cầu. Nhưng trên hết phục vụ phải biết lắng nghe Lời Chúa. Việc phục vụ của ta chỉ tốt và có ý nghĩa khi ta làm đúng ý Chúa muốn. Muốn biết ý Chúa, phải lắng nghe tiếng Chúa trong Tin mừng, qua cầu nguyện và tiếp xúc tâm sự với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Lời Chúa là đèn soi bước chân ta, là ánh sáng hướng dẫn ta trong mọi hoạt động. Lắng nghe Lời Chúa làm cho hoạt động được vững vàng. Đó là xây nhà trên đá (cf. Lc 6, 47).
Trật tự cuối cùng: Phục vụ phải biết nghỉ ngơi.
Cuộc sống văn minh hiện đại ngày càng cuốn con người vào cơn lốc hoạt động đến ngộp thở. Người ta không còn thời giờ cho gia đình, cho bạn bè, và nhất là cho đời sống tâm linh. Tại các nước phương Tây, con người đang biến thành những cỗ máy làm việc, làm việc không ngừng. Đó là một đời sống mất quân bình, rất nguy hiểm.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: “Đừng quá băn khoăn lo lắng”. Hôm nay Chúa nhắc lại với bà Martha một lần nữa: “Đừng băn khoăn lo lắng quá”. Chúa không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê trách thái độ lăng xăng, lo lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết nghỉ ngơi, biết giữ bình an nội tâm trong một đời sống quân bình bằng cách biết cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi bên Chúa. Cầu nguyện tạo cho ta một khoảng không gian và thời gian, nhờ đó đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu nguyện bên Chúa mà sinh lực ta được phục hồi. Và ta có thể phục vụ tốt hơn.
Lời Chúa kêu gọi bà Martha, Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay: “Con đừng quá băn khoăn lo lắng cho cuộc sống. Hãy biết đến bên Cha mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ sức cho con. Hãy chọn lấy phần tốt nhất như Maria. Đó là một kho tàng bền vững mãi mãi”.
Xin cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, hãy đến bên Chúa nghỉ ngơi. Để nhờ Chúa hướng dẫn, việc phục vụ của chúng ta sẽ theo đúng ý Chúa muốn và để đời sống tâm linh ta được phát triển toàn diện trong một nếp sống quân bình. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có thể nói con người hôm nay đang rơi vào bệnh trầm cảm. Một căn bệnh khiến họ không thể tiếp xúc thân tình với nhau. Một căn bệnh khiến con người lạnh lùng cho dù sống bên nhau hay dù sống trong một căn nhà. Đây là căn bệnh mà chúng ta dễ thấy trong các sinh hoạt gia đình là: việc ai người ấy làm, phòng ai người ấy ở. Mỗi người đều có một không gian riêng, máy móc, điện thoại, vi tính riêng!
Con người hôm nay chú trọng tới bản thân, tới nhu cầu cá nhân đến mức độ thờ ơ với chính những người thân trong gia đình. Thậm chí vợ chồng chẳng có gì để nói với nhau. Con cái ngoài giờ ở nhà trường là thời gian ở nhà ôm điện thoại, Ipad, laptop, . . .; Cha mẹ chỉ lo bôn ba kiếm tiền nên về tới nhà cũng chỉ muốn nghỉ ngơi yên tĩnh cho riêng mình.
Xem ra thế giới càng văn minh, con người càng vội vã, bận rộn. Người ta có trăm ngàn công việc để quan tâm nên tình người bị xao nhãng. Người ta mải mê với công danh sự nghiệp mà quên đi tình người. Điều đáng sợ cho con người hôm nay là không còn thời giờ bên Chúa. Họ đi lễ vội vàng. Họ đến muộn nhưng về sớm. Họ đi lễ nhưng không gặp Chúa vì chỉ tranh thủ đi lễ cho xong. Họ có thể ngồi hàng giờ bên quán cafe tám chuyện với nhau nhưng lại không thể ngồi yên đến năm phút để tưởng nhớ đến Chúa. Họ bận rộn công việc làm ăn buôn bán mà quên rằng có một Đấng luôn chúc phúc cho việc làm ăn của mình. Họ quên sự hiện diện của Chúa. Họ quên cám ơn Chúa. Họ mải mê với công việc và vui chơi giải trí mà quên rằng cuộc đời của họ được như vậy là bởi ơn trời ban xuống.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy quảng đại dành thời giờ cho Chúa. Chúa vẫn viếng thăm chúng ta. Chúa vẫn đang lặng lẽ viếng thăm hồn ta. Hãy mở rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy ngồi lại bên Chúa để tạ ơn về những ơn lành Chúa ban, để thưa chuyện với Chúa về những khó khăn mà chúng ta đang trải qua.
Việc chúng ta dành thời giờ cho Chúa có ích cho chúng ta hơn là cho Chúa. Vì qua thời giờ bên Chúa ta kín múc được muôn vàn ơn thánh của Chúa. Ta cầu xin ơn trên ban xuống cho cuộc đời chúng ta. Ta phó dâng vào sự quan phòng của Chúa những ưu tư khó khăn trong cuộc đời chúng ta.
Đồng thời cũng hãy biết dành thời giờ cho nhau. Nếu không dành thời giờ cho nhau chúng ta có khác nào cái máy chỉ biết làm theo chương trình định sẵn. Một cái máy vô cảm, lạnh lùng đến đáng sợ! Một cái máy không có tình cảm sẽ làm cho cuộc sống tẻ nhạt vì thiếu tình yêu, thiếu sự quan tâm rồi dần dần tình người cũng nhạt phai
Hôm nay Chúa cũng nói với Matta như đang nói với chúng ta là đừng quá bôn ba lo lắng nhiều chuyện. Hãy dành thời giờ ngồi lại bên Chúa và bên nhau. Mâm cao cỗ đầy không bằng tình người tràn đầy. Đôi khi bữa cơm cũng mất ngon vì thiếu tình người. Con người cần cơm bánh nhưng cần hơn là sự quan tâm chăm sóc cho nhau. Tình thương không chỉ mang lại cho nhau hạnh phúc mà còn giúp nhau thăng tiến đi lên. Ngược lại, nếu không có tình thương con người sẽ rơi vào cô đơn, chán chường, trầm cảm và thất vọng . . .
Hãy chữa trị căn bệnh trầm cảm này bằng sự khiêm tốn để thấy rằng mình cần Chúa và cần anh em. Cần khiêm tốn để thấy rằng không có Chúa con người không thể làm được điều gì sẽ giúp ta siêng năng đến với Chúa. Cần khiêm tốn để thấy rằng “không ai là một hòn đảo” để biết sống liên đới với nhau trong sự quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ nhau.
Xin Chúa giúp chúng ta biết ưu tiên cho việc thờ phượng Chúa và biết dành thời giờ cho nhau. Ước gì chúng ta đừng phung phí thời giờ trong những giải trí vô bổ, những đam mê bất chính, nhưng hãy sống từng giây phút trong sự hiệp thông với Chúa và anh em. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đức Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận bị chính quyền cộng sản bắt khi ngài đang tiến hành những công việc của Giáo phận như mở Đại Chủng viện, các Dòng tu, các khoá huấn luyện… Ai sẽ là người kế nhiệm để lo những công việc mục vụ quan trọng này?. Ở trong tù, ngài lo lắng và ưu tư từ ngày này qua ngày khác. Rồi đến một ngày, ngài nhận ra rằng: “Tất cả những gì tôi đang lo lắng là việc của Chúa. Còn lúc này đây, Chúa muốn cho tôi tìm chính ý Chúa. Tôi đang làm việc cho Chúa thì tại sao lại lo lắng những công việc của Chúa. Nếu đã đạt được ý Chúa thì công việc của Chúa khắc có người lo”. Và từ lúc ấy, ngài tìm được bình an. Ngài chỉ tìm ý Chúa, còn công việc của Chúa thì người này lo, người khác lo và Chúa quan phòng luôn tiếp tục. Ngài nhận định: “Không phải Maria ngồi yên dưới chân Chúa vì làm biếng. Phúc Âm không phong thánh cho người làm biếng. Maria chọn phần tốt nhất: nghe Chúa nói, để Lời Chúa thấm tận tâm can, lay chuyển mình, làm việc trong mình. Có gì hoạt động bằng sự lột xác, sự biến đổi ấy?” (ĐHV 147).
Tin mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria đón tiếp Chúa Giêsu, mỗi người mỗi cách.
Maria ngồi bên chân Chúa với tâm thế lắng nghe. Cô không làm gì, không nói gì, chỉ ngồi nghe. Cô đón tiếp Chúa Giêsu với một phong cách tốt nhất.
Matta lo việc bếp núc, phục vụ ăn uống. Có lẽ Matta ganh tị với em nên khiếu nại với Chúa: “Thưa Thầy, em con để một mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Matta trách em, nhưng cũng là một cách kể công và khoe mình quan trọng và có thể coi đó như một lời trách khéo đối với Chúa Giêsu.
Nhưng Chúa nhẹ nhàng đáp lại: “Matta, Matta ơi, con lo lắng bận rộn nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất “. Chúa đã khen Maria biết chọn phần tốt nhất. Chọn phần tốt nhất không phải là chọn làm nhiều, nhưng là biết nghe, hiểu và làm theo ý Chúa. Việc lắng nghe để nhận ra thánh ý Chúa nhiều khi đòi hỏi người ta phải biết cầu nguyện, phải giữ một tâm hồn thanh tĩnh và phải biết tập trung cao độ để nhận ra được thánh ý Chúa.
Người ta thường giải thích câu nói của Chúa Giêsu như một sự đề cao chiêm niệm trên hoạt động. Matta tiêu biểu cho đời sống hoạt động, lo lắng về những nhu cầu vật chất. Maria tiêu biểu cho đời sống chiêm niệm, lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện. Trên thiên đàng người ta chỉ còn chiêm ngắm Thiên Chúa trong niềm hạnh phúc vĩnh cữu. Như thế, Maria đã đạt tới cùng đích của đời sống Kitô hữu. “Phần hơn” của cô là ở chỗ đó. Có Chúa rồi, “chiếm hữu” được Chúa rồi thì còn gì hơn nữa!
Chúa Giêsu đón nhận sự phục vụ ân cần của Matta và đưa ra bậc thang giá trị, cần “chọn phần tốt nhất”. Chọn Lời Chúa và lắng nghe. Đó chính là “phần tốt nhất” như lời Tv 119: “Lạy Chúa, con đã nói, phần của con là tuân giữ Lời Ngài ”. Lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên đá (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời giúp tâm hồn trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc của Đức Maria là “lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,27-28).
Đối với Chúa Giêsu, cả hai cách phục vụ của Matta và Maria đều cần thiết và bổ túc cho nhau. Ðiều Chúa muốn nhắc cho Matta là: việc cốt yếu đối với người môn đệ là “nghe Lời Chúa và đem ra thực hành”. Nhiều lần, Chúa nói về điều cốt yếu ấy: “Phúc cho ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 11,28); “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21; Mt 12, 46-50; Mc 3, 31-35). Điều cốt yếu ở đây không phải là ưu tiên về thời gian (làm cái này trước rồi làm cái kia sau) hay số lượng (làm “việc Chúa” nhiều, làm “việc đời” ít)… nhưng ưu tiên về giá trị. Khi làm việc gì, nếu mình tận tình làm việc cho đẹp lòng Chúa, như Chúa muốn, thì mình vẫn đang chọn phần tốt nhất như cô Maria bởi vì mình vẫn đang qui chiếu về Chúa, đang lắng nghe lời Chúa và thi hành thánh ý Chúa về đời mình. Thánh Phaolô dạy: “Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).
Hoạt động và cầu nguyện là nhịp sống đời Kitô hữu. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. Cầu nguyện làm nền tảng cho mọi hoạt động.Nhờ cầu nguyện nên việc phục vụ tha nhân được tốt hơn. Mẹ Têrêxa Calcutta và các Nữ tu dù bận rộn công việc hằng ngày vẫn luôn dành thời giờ tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể. Mẹ luôn là gương sáng cho các Nữ tu, cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày dành một giờ chầu Mình Thánh Chúa, sau đó mới đến các nơi nghèo nàn ở Calcutta để chăm sóc những người nghèo khổ hoặc đi vào trong các căn nhà tồi tàn giúp những người hấp hối được chết lành.
Tham dự Thánh lễ chính là lúc chúng ta như Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với Chúa, xin đừng dè sẻn cò kè thời giờ, đừng lật đật vội vã đến trễ về trước, xin đừng dự lễ kiểu “đạo gốc cây”, “đạo vòng vòng” ở ngoài sân nhà thờ. Xin đừng đến với Chúa chỉ vì bắt buộc, miễn cưỡng, sợ tội. Hãy đến với Chúa như một người con thảo, đến để gặp Chúa, lắng nghe Lời Chúa, đến là vì lòng yêu mến Chúa và muốn sống hiếu thảo với Ngài mà thôi.
Thánh lễ cũng chính là lúc Chúa đến thăm và ban ơn sủng cho chúng ta. Hãy quý trọng sự hiện diện của Chúa. Hãy tham dự tích cực, linh động, cầu nguyện sốt mến, thưa chuyện với Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể ban thêm cho chúng ta đức tin, tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ để chúng ta dấn thân phục vụ anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa. Amen. (Mana)
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khung cảnh gia đình
Hôm nay, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta chuyện gia đình của Matta và Maria. Hàng ngày gia đình của họ ra sao chúng ta không hay biết, chỉ khi cô chị Matta rước Chúa Giêsu vào nhà và tất bật làm cơm thiết đãi Chúa, còn cô em thì ngồi bên chân Chúa và nghe lời Người chúng ta mới có chuyện (x. Lc 10,38-42). Gia đình Matta và Maria còn có cậu em trai là Lazarô không thấy nói tới.
Chúng ta cùng tưởng tượng cảnh diễn ra trong nhà này : người chị chạy lên chạy xuống, còn người em ra như bị lôi cuốn vào việc chuyện trò với Khách. Một lúc sau, người chị Matta, chắc cảm thấy mệt nhọc, nên đã lên tiếng nói với vị Khách: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình, mà không quan tâm sao sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với?” (Lc 10,40). Xem ra cô chị Matta không những bất bình với cô em là Maria mà còn cả với Khách mời nữa.
Thái độ cần phải có
Chính câu nói này của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau. Có người cảm thấy tiếc cho Matta, vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu, khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu lại nói: “Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (Lc 10,41-42). Vậy là việc cô làm chưa phải là tốt nhất.
Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ hiếu khách của Matta khi Người nêu bật hành vi của Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người.” Tuy nhiên, khi phải chọn lựa thì Chúa Giêsu vẫn thích kẻ “nghe” lời Người hơn là loay hoay chuyện cơm nước…Người cũng cho biết đây là “phần tốt nhất.”
Hẳn Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Matta tất bật với việc tiếp đãi Khách, và một của Maria ngồi bên chân Khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên tâm sự. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Matta. Chúa không chê hoạt động, lại càng không trách sự tiếp đón quảng đại, Người chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria để nói lên thái độ cơ bản con người phải có đối với Thiên Chúa là lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa thì vững bền và mang lại ý nghĩa cho các hoạt động hằng ngày của chúng ta.
Gương của Matta và Maria
Matta và Maria trong Tin Mừng hôm nay nêu gương cho chúng ta và bảo chúng ta rằng nhân đức không chỉ có một mặt, vì trong việc tông đồ, người này làm việc tích cực, hết sức mình, người kia quan tâm đến việc rao giảng Lời Chúa. Nếu sự quan tâm này kết hợp sâu xa với đức tin, thì sẽ rất tốt cho công việc.
“Maria đã chọn phần tốt nhất”. Chúng ta cũng thế, chúng ta cần phải cố gắng, để có được điều mà không ai lấy mất được, nên cần phải lằng nghe. Lắng nghe ở đây không phải là đãng trí, nhưng là chú ý ; vì ngay cả hạt giống lời Chúa từ trời xuống cũng bị lấy mất, nếu hạt giống đó gieo bên vệ đường, không được gieo vào đất tốt, tức là nghe nhưng không được đón nhận (x. Lc 8, 5.12)
Lắng nghe lời Chúa như cô Maria là khôn ngoan, vì đây là việc làm cao cả và hoàn hảo nhất. Lo lắng phục vụ là cần thiết, nhưng làm sao để những lo lắng phục vụ không cản trở ta đón nhận Lời Chúa từ trời xuống. Hãy khoan đừng có chỉ chích phê bình hay kết án những sự nhàn rỗi, những người mà chúng ta sẽ thấy họ làm việc tất bật để có được sự khôn ngoan, như Salomon, một con người hiền hòa, đã nài xin Chúa gửi Đức khôn ngoan của Ngài tới cự ngụ nơi nhà ông, khi thưa : “Lạy Chúa, xin gửi Đức không ngoan Ngài tới, để phù trì và đồng lao cộng khổ với con ” (Kn 9, 10). Tuy nhiên đấy không phải là lời trách móc những việc Matta làm : Maria được Chúa Giêsu thích hơn vì Maria đã chọn phần tốt nhất. Người là Đấng giầu có, và Người trao ban cho cả Matta và Maria cách quảng đại ; Maria là người nữ khôn ngoan, vì cô biết nhận ra và chọn lựa điều quan trọng nhất.
Các Tông Đồ cũng cho rằng : “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải” (Tđcv 6,2). Khi đứng giữa hai điều, một là rao giảng Lời Chúa, hai là phục vụ, tất cả đều là việc khôn ngoan : Stêphanô cùng với Philipphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, đã chọn việc phục vụ, với tư cách là thầy phó tế, và các ngài đã hoàn thành cách thật khôn ngoan (Tđcv 6,5.8)… Như thế, Giáo hội là một thân thể, các bộ phận tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể : “Vậy mắt không có thể bảo tay: “Tao không cần đến mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày” (1 Cr 12, 21)… Nếu có một vài chi thể quan trọng nhất, thì các bộ phận khác cũng không kém phần quan trọng. Sự khôn ngoan ở trong đầu, còn hoạt động thể hiện nơi những bàn tay.
Lời Chúa trong cuộc đời
Con người đang đánh mất dần ý thức về sự thánh thiêng, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất. Người Kitô hữu phải lấy việc lắng nghe Lời Chúa là điều quan trọng nhất. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa, bằng cách suy niệm Kinh Thánh với đức tin, bằng cách tĩnh tâm cầu nguyện riêng cá nhân cũng như cộng đoàn, bằng việc im lặng mặc niệm trước Thánh Thể; từ Nhà Tạm, Chúa Kitô nói với chúng ta về tình yêu của Người. Ðặc biệt vào ngày Chúa Nhật, những người kitô được mời gọi đến gặp gỡ và lắng nghe Chúa. Ðiều này được thực hiện cách trọn vẹn, nhờ qua việc tham dự vào Thánh Lễ, trong đó Chúa Kitô dọn ra cho các tín hữu bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Bánh ban sự sống. Tuy nhiên, những giây phút cầu nguyện và suy tư, những giây phút nghỉ ngơi và sống tình huynh đệ, cũng có thể góp phần hữu ích vào việc thánh hóa ngày của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, xin Mẹ giúp chúng con gắn bó cùng Chúa cho đến trọn đời. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Nhà giáo dục William Arthur Ward (1921–1994, Hoa Kỳ) nhận định: “Chúng ta phải im lặng trước khi có thể lắng nghe. Chúng ta phải lắng nghe trước khi có thể học hỏi. Chúng ta phải học hỏi trước khi có thể chuẩn bị. Chúng ta phải chuẩn bị trước khi có thể phụng sự. Chúng ta phải phụng sự trước khi có thể dẫn đường”.
Phụng sự là phục vụ hết lòng: phụng sự Thiên Chúa, phụng sự nhân loại, phụng sự tổ quốc, phụng sự lý tưởng,… Đó là dạng phục vụ “cao cấp”. Có khiêm nhường thì mới khả dĩ phục vụ. Không hề đơn giản!
Johann Wolfgang von Goethe (1749–1832 – văn sĩ, khoa học gia, kịch tác gia, họa sĩ, người Đức) nói: “Đời tôi chẳng là gì nếu tôi không còn hữu ích cho người khác”. Sống hữu ích cho người khác là giúp đỡ người khác, nghĩa là phục vụ vậy.
Có nhiều dạng phục vụ, nhưng quan trọng là phong cách phục vụ. Miễn cưỡng hay tự nguyện? Tài năng là món quà đi kèm với bổn phận phụng sự thế giới, chứ không phải vinh danh chính mình, bởi vì tài năng không phải do chính mình tạo nên, mà do Thiên Chúa ban. Vả lại, nếu không có Thiên Chúa tác động, hướng dẫn và trợ giúp, chúng ta không thể làm được gì cả. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Trình thuật St 18:1-10 cho chúng ta biết tinh thần phục vụ của Tổ phụ Ápraham dành cho khách đến nhà.
Một hôm, Đức Chúa hiện ra với ông Ápraham tại cụm sồi Mamrê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, xin Ngài đừng đi qua màkhông ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!”. Khách trả lời: “Xin cứlàm như ông vừa nói!”.
Rửa chân là phong tục của người Do Thái khi họ đón tiếp khách tới nhà. Chúa Giêsu đã dùng phong tục này để dạy chúng ta bài học yêu thương và phục vụ trong khi dùng Bữa Tiệc Ly với các môn đệ. Rửa chân là điều bình thường nhưng lại không dễ thực hiện. Quả thật, nhưng gì xem chừng là đơn giản nhất thì lại phức tạp nhất. Chẳng hạn, những chuỗi DNA đơn giản mà lại khả dĩ tạo nên sự sống kỳ diệu, con người không thể làm được, có sẵn đó mà tìm hiểu cũng tốn công sức mới hiểu được phần nào mà thôi. Thế mà vẫn có những người không muốn tin vào Thiên Chúa!
Rồi ông Ápraham vội vã vào lều tìm bà Sara mà bảo bà lấy ba thúng tinh bột để làm bánh đãi khách. Còn ông đi bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ để làm thịt. Ông còn lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm mà đãi khách; rồi ông đứng hầu dưới gốc cây, đang khi khách dùng bữa. Phong cách phục vụ của ông Ápraham thật là chu đáo và khiêm nhường.
Vị khách hỏi ông: “Bà Sara vợ ông đâu?”. Ông nói rằng bà xã ở trong lều. Vị khách cho biết một điều quan trọng: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai”. Lạ thế nhỉ! Bởi vì lúc này cụ ông Ápraham đã 75 tuổi và cụ bà Sara đã 70 tuổi. Hai vợ chồng già còn son này cũng vẫn cầu xin như vậy từ lâu lắm rồi. Ôi, lời hứa kia là điều quá đỗi lạ lùng đối với phàm nhân, nhưng đối với Thiên Chúa thì chỉ là “chuyện nhỏ”.
Quả thật, “ai trông cậy Thiên Chúa sẽ không phải thất vọng” (Tv 22:6), bởi vì “Ngài luôn gần gũi những tấm lòng tan vỡ và cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 34:19). Vợ chồng ông Ápraham luôn tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa, và họ đã được mãn nguyện theo như niềm tin của họ.
Ai là người được vào ngụ trong nhà Chúa và được ở trên núi thánh của Ngài? Tác giả Thánh Vịnh cho biết rằng đó là “những người sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã” (Tv 15:2-3).
Những người ăn ngay nói thật thì không dám mon men tới đường lối xấu xa. Họ “coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời, lỡ thề mà bị thiệt thì cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay” (Tv 15:4-5a). Người Việt có câu nói hay: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Rất thực tế!
Đó là những con người của Chân Lý, của Công Lý, của Tám Mối Phúc – tức là những người luôn hết lòng phụng sư Thiên Chúa, và họ thực sự là con cái của Ngài. Chắc chắn rằng những ai sống và làm những điều tốt lành như vậy thì sẽ “không hề nao núng, chẳng hề chuyển lay bao giờ” (Tv 15:5b). Điều quan trọng và diễm phúc là họ đã có “thẻ xanh” và sẽ trở nên Công Dân của Nước Trời.
Với kinh nghiệm dày dạn của bản thân, Thánh Phaolô chân thành chia sẻ: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitôcòn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. Tôi đã trở nên người PHỤC VỤ Hội Thánh, theo KẾ HOẠCH Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa” (Cl 1:24-26). Phụng sự Thiên Chúa là thế đó. Phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ Giáo hội, phục vụ tha nhân.
Phục vụ để làm gì? Thánh Phaolô cho biết: “Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô”(Cl 1:27-28). Vâng, hoàn thiện để nên thánh. Nhưng nên thánh một mình là ích kỷ, không hợp ý Chúa. Ngài muốn chúng ta phải cùng dìu nhau lên Đỉnh Tình Yêu – cả Tabor và Can-vê. Như vậy mới có thể trở nên Công Dân của Nước Trời mai sau.
Ước gì mỗi chúng ta đều mạnh dạn và hãnh diện nói được như Thánh Phaolô: “Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Cl 1:29). Đó là phong cách phục vụ lẫn nhau, phục vụ vì Thiên Chúa, chứ không vì mục đích nào khác.
Trình thuật Lc 10:38-42 là câu chuyện về hai chị em Mácta và Maria. Hai con người, hai động thái, hai phong cách phục vụ. Cả hai người đều là phụ nữ, phải chăng Thiên Chúa đã tiền định tinh thần phục vụ nơi phụ nữ? Rất có thể, nhưng chúng ta lại có xu hướng coi thường phụ nữ, coi thường những người phục vụ. Nếu vậy thì trái ngược với phong cách của Thiên Chúa.
Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia (tức là làng Bêtania). Nhà này có ba chị em là cô Mácta, cô Maria và cậu Ladarô. Cô Mácta đón Ngài vào nhà. Sau đó, cô em Maria cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy. Không biết hôm nay cậu Ladarô đi đâu mà không thấy ra mặt. Cô Mácta tất bật lo việc phục vụ, nấu nướng. Cô làm một mình có lẽ cũng mệt, nên cô nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”. Nhưng Chúa đáp: “Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
Chắc hẳn Chúa Giêsu không có ý chê những người lo việc bếp núc, lo phục vụ ở “hậu trường”, mà Ngài chỉ nhắc khéo là “đừng thái quá”, cứ chú trọng cái phụ thuộc mà xao lãng điều chính yếu. Thế thôi!
Thật vậy, không có những người dựng cảnh sân khấu thì vở diễn không thể ra mắt công chúng, không có người lồng tiếng thì bộ phim không thể trình chiếu, không có người nấu nướng thì không thể có bữa tiệc ngon,… Nhiều dạng khác cũng vậy. Công việc phụ mà quan trọng. Đặc biệt về tâm linh, phục vụ là một ơn gọi. Bất cứ ai cũng có ơn gọi này.
Chúa Giêsu luôn đề cao tinh thần phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20:26; Mc 10:43). Và Ngài hứa: “Ai phục vụ Thầy thìhãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:26).
Tóm lại, Chúa Giêsu muốn mọi người phải sống “phục vụ chứ KHÔNG hưởng thụ” (Mt 20:28; Mc 10:45). Nhưng phải lưu ý đến tinh thần phục vụ: Phải tận tâm vì Chúa chứ không vì thứ gì khác! Vả lại, ID hoặc thẻ căn cước (Việt Nam gọi là “chứng minh nhân dân”) không thuộc về thế gian này, mà thuộc về “cõi trên”, tức là Thiên Đàng, Nước Trời. Thế gian này, cõi đời này chỉ là cõi tạm, là nơi quá độ, là “ngưỡng vượt qua” để vào cõi vĩnh hằng.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết áp dụng bài học về tinh thần phục vụ của Muối: sẵn sàng hòa tan vào mọi thứ để làm cho mọi thứ tốt hơn, Muối không còn là Muối nữa, rồi không ai có thể nhận ra Muối, và cũng chẳng ai còn nhớđến Muối, nhưng Muối vẫn chấp nhận. Con cầu xin nhân danh Thánh TửGiêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Con người là một huyền nhiệm, được Thiên Chúa dựng nên có hồn và xác. Con người phải làm việc để có của ăn nuôi thân xác, nhưng chúng ta cũng cần cầu nguyện để có lương thực nuôi linh hồn. ‘Làm việc và cầu nguyện’ (Orare et laborare) là châm ngôn sống của Thánh Biển Đức, đồng thời cũng là sứ điệp mà lời Chúa nhắn gửi chúng ta hôm nay, đặc biệt qua 2 hình ảnh Matta và Maria được phác vẽ trong Tin mừng.
Hai vị thánh với 2 dung mạo khác nhau.
Sự thánh thiện của Matta và Maria được biểu tỏ qua 2 dạng thức. Matta thì lăng xăng phục vụ Chúa qua những bận rộn bên ngoài, còn Maria thì ngồi thinh lặng bên chân Chúa để nghe những lời Ngài ngỏ trao. Chúa Giêsu nói: “Matta, con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. Không phải Chúa chê trách Matta về những bận rộn bên ngoài, nhưng Chúa mời gọi tất cả chúng ta phải quy hướng mọi việc trong cuộc sống về với Chúa để diễn bày tình yêu đối với Ngài. Những hoạt động để phục vụ thì rất tốt, nhưng nếu không khởi nguồn từ tình yêu quy hướng về Chúa, thì đó chỉ là những công việc từ thiện, thuần túy mang chiều kích xã hội bề ngoài mà thôi. Đức Thánh Cha Piô 12 gọi đó là lạc giáo (hérésie de l’action), một loại chủ nghĩa duy hoạt động, thiếu vắng chiều kích linh thánh bên trong. Mẹ Têrêsa Calcutta dạy các con cái mình mỗi ngày phải dành ít nhất một tiếng đồng hồ để nguyện ngắm, hầu kín múc sức mạnh nơi tình yêu Thiên Chúa trước khi bắt tay vào công việc dấn thân phục vụ người nghèo.
Sa mạc hóa tâm hồn: Thinh lặng để lắng nghe.
Hình ảnh của Maria được Chúa Giêsu đánh giá rất cao hôm nay. Maria đã rút lui vào trong cô tịch của sa mạc tâm hồn để nghe Chúa nói. Trong Thánh kinh, sa mạc là nơi Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người và cũng là nơi con người đến gặp gỡ Thiên Chúa. Trong sa mạc, Thiên Chúa ngỏ trao sứ mạng. Cũng trong sa mạc, con người được Thiên Chúa giáo dục và hướng dẫn. Đó là cách thế để chúng ta tìm lại cho mình sự bình an và sức mạnh vươn tới, giữa những bươn chải và chộn rộn của cuộc sống hằng ngày. Ngày xưa, Araham đã đi vào sa mạc Ả Rập để gặp Đức Chúa Giavê và đón nhận sứ mạng trở nên tổ phụ một dân tộc đông đúc. Môise cũng đi vào sa mạc Sua để được Chúa ban chỉ lệnh đưa dẫn đoàn dân ra khỏi Ai cập. Trước khi tiến vào đất hứa, dân Israel cũng phải kinh qua cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc để được Thiên Chúa sửa dậy. Giữa những lo toan của cuộc sống đời thường hôm nay, Chúa cũng muốn chúng ta biến tâm hồn mình thành sa mạc để trong tĩnh lặng, chúng ta nghe được tiếng Chúa và được nuôi dưỡng bằng chính lời hằng sống của Ngài. Trong tĩnh lặng giữa đêm khuya, Samuel đã nghe thấy tiếng Chúa đang gọi ông. Cũng giữa đêm trường vắng lặng, Thánh Giuse đã nghe tiếng Chúa mời gọi để đón nhận Maria về nhà và sau đó dẫn đưa gia đình Nazareth trốn sang Ai Cập. Sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống, đặc biệt những lo toan về tiền bạc, về chức quyền, là những tiếng động ầm ĩ cản che đôi tai của cõi lòng, khiến chúng ta không thể nào nghe được những điều Thiên Chúa đang nói với chúng ta.
Cầu nguyện trước hết là biết nghe tiếng Chúa.
Một nhà tu đức nọ đã phân định việc cầu nguyện gồm 4 cấp độ. Cấp độ sơ đẳng đầu tiên : Tôi nói Chúa nghe. Cấp độ cao hơn: Chúa nói tôi nghe. Cấp độ thứ 3: Không ai nói, cả 2 đều nghe. Và đỉnh cao của việc cầu nguyện là ở cấp độ sau cùng, chúng ta đến gặp Chúa, không ai nói, chẳng ai nghe, tất cả thinh lặng hoàn toàn để đi vào sự hiệp thông một cách trọn vẹn. Khi đến nhà thờ cầu nguyện, chúng ta vẫn thường đọc các câu kinh, lắm khi giống như một cái máy vô hồn, nhưng chúng ta dễ quên mất điều quan trọng là cần tập sống thinh lặng để nghe những điều Chúa muốn nói với chúng ta. Maria là hình mẫu tuyệt hảo về việc cầu nguyện. Cô đã gác lại nhưng chộn rộn vướng bận bên ngoài, không phải vì lười biếng hay thích đùn đẩy công việc cho người khác. Nhưng, lý do duy nhất như Chúa Giêsu đã nói, chính là : “Chỉ có một chuyện cần thiết hơn. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bao giờ bị lấy đi”. Ông Mahatma Gandhi đã từng bộc bạch : “Tôi không phải là một ẩn sỹ hay một khoa học gia nhưng tôi tự hào là một người biết cầu nguyện. Chính cầu nguyện đã cứu thoát đời tôi”.
Kết luận
Nơi các vị thánh lớn, chúng ta luôn thấy có sự kết hợp hài hòa giữa làm việc và cầu nguyện. DonBosco vẫn được mệnh danh là con người ‘chiêm niệm trong hoạt động’. Trở nên một nhà thần bí (mystic) không phải chỉ là suốt ngày ngồi đọc kinh hay ngất trí trong nhà thờ, nhưng quan trọng hơn cả là biết kín múc tình yêu từ nơi Thiên Chúa trong chiêm nghiệm và đem tình yêu ấy dàn trải trong mọi hoạt động tông đồ hằng ngày. Maria và Matta mà bài Tin mừng hôm nay nói tới đã trở nên mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta ngày hôm nay.
.
CHỌN PHẦN TỐT NHẤT LÀ CHIÊM NGẮM THẬP GIÁ
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Cô Mác-ta đón Thầy Giê-su như khách quí vào nhà mình, và cô tất bật phục vụ khách, một công việc cần thiết và bắt buộc đối với bất kì ai đón tiếp khách quí; thế nhưng không hiểu sao, Đức Giê-su lại dám khảng định là: việc cô đang nhiệt tâm chu toàn là điều không mấy cần thiết! Còn tác phong thụ động – mất thì giờ của cô em Ma-ri-a ngồi yên và lắng nghe, thì lại được Ngưởi đề cao và khen ngợi là: ‘đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi’.
Chúng ta vẫn thường nghĩ: Ki-tô hữu (hơn nữa tu sĩ và linh mục) là những người đón tiếp Đức Ki-tô vào đời mình; có thể chúng ta đã được dạy dỗ và huấn luyện rằng, phải sống làm sao cho Chúa – Vị Thượng Khách được hài lòng. Để được như thế ta phải cặn kẽ nắm giữ mọi điều răn và luật lệ, phải làm lành lánh dữ, phải lập nhiều công đức, phải làm nhiều việc thiện…; tóm lại, đời sống đạo của ta phải là một cuộc sống khá tất bật để lo sao hết lòng phụng sự Chúa (như vẫn quen nói thế!). Giáo lý, và có lẽ cả nền thần học nữa, đã không ngừng dạy điều đó, cũng như tất cả mọi người đều cho rằng: suy nghĩ trên là hoàn toàn chính xác.
Thế nhưng, chính câu trả lời của Đức Giê-su, khi đáp lại lời yêu cầu rất chính đáng của cô Mác-ta, buộc ta phải đặt lại vấn đề: lối suy nghĩ phổ thông kia có hoàn toàn ‘đúng’ hay không? “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”, và đó không phải là: tất bật phục vụ của Mác-ta, mà là: “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy” của Ma-ri-a. Điều này làm ta phải đặt câu hỏi: cụ thể điều gì mới là cần thiết nhất trong đời Ki-tô hữu? Có điều gì còn quan trọng và cao quí hơn cả giữ các điều răn, chu toàn lề luật, làm lành lánh dữ và thực thi công bằng bác ái không? Thinh lặng ngồi bên Chúa để lắng nghe Lời Yêu Thương của lòng nhân ái, yên lặng đứng bên Thập Giá (cùng với Mẹ Ma-ri-a) để chiêm ngắm Lời Cứu Độ của Giê-su, chẳng lẽ lại là điều quan trọng nhất hay sao; chẳng lẽ các Ki-tô hữu nhất thiết phải làm điều này hơn là điều kia, và ưu tiên đưa vào chương trình sống của mình hay sao? Nếu thật là như thế, thì lời Đức Giê-su nhắc nhở cô Mác-ta cũng sẽ phải áp dụng cho mọi Ki-tô hữu chúng ta trong việc giữ đạo (đăc biệt cho các linh mục và tu sĩ bề bộn trong công việc mục vụ tông đồ): “Mác-ta! Mác-ta ơi! Con băn khoan lo lắng nhiều chuyện quá!”
Về phần mình, tôi không dám nghĩ như thế; tôi vẫn cố xua đuổi tư tưởng này ra khỏi đầu vì lẽ: nó như quá ngược ngạo với những gì thói thường người ta vẫn làm trong đời sống đạo. Ngay trong tư cách linh mục, từ lâu lắm rồi, tôi vẫn tâm niệm là: phải dạy cho các tín hữu sống sao cho xứng với ơn gọi của họ. Các bài giảng của tôi vẫn chủ yếu mang tính luân lý, chỉ dạy cho giáo dân biết sống sao cho phải đạo: phải làm lành lánh dữ, phải ra công làm nhiều việc thiện để làm cho Chúa được vui thỏa. Trong số các công tác mục vụ tôi thi hành trong đời linh mục thì, nỗ lực làm cho tín hữu biết chiêm ngắm Thập Giá có vẻ như đã bị tôi coi nhẹ, hoặc cho là chỉ thứ yếu! Sau khi được tôi dạy dỗ, không biết có bao nhiêu giáo dân nhận ra rằng: điều cần thiết nhất cho niềm tin của họ là lắng nghe Lời Cứu Độ, là chiêm ngắm Thập Giá, và trọn vẹn tín thác vào lòng Chúa xót thương. Ngay cả việc cử hành Thánh Lễ cũng thường bị tôi trình bày như, một chu toàn bổn phận phụng tự, mà Chúa – vị khách quí đang ngự đến đáng được tôn thờ và cung nghinh; thay vì là chiêm ngắm và đón nhận Thập Giá tình yêu; chẳng trách gì ngay cả các giáo dân của tôi được coi là đạo đức nhất cũng chỉ rất mực quan tâm tới việc phụng thờ Chúa và giúp đỡ đồng loại, thế còn chiêm ngắm lòng thương xót Chúa thì còn quá ít, quá xa lạ, hoặc không mấy được coi trọng đề cao.
Và tất cả các điều trên là hậu quả tất yếu của một quan niệm đã ăn rễ quá sâu nơi các Ki-tô hữu chúng ta, đó là: mối bận tâm lo lắng hàng đầu luôn phải là làm sao cho ‘danh Chúa được rạng rỡ vinh quang’. Với Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su muốn gửi tới mỗi chúng ta lời nhắn nhủ: còn có một điều cần thiết và phải được dành ưu tiên hơn nữa, trong lãnh vực giờ giấc cũng như lưu ý quan tâm, đó là lắng nghe và chiêm ngắm Lời Giê-su Thập Giá – Lời của lòng thương xót cứu độ.
Phải chăng khi đề cao vị trí trung tâm của Thánh Lễ, Giáo Hội không muốn điều gì hơn là: tạo cho các tín hữu dịp ‘thụ động’ ‘ngồi bên chân và lắng nghe’ Lời Tình Yêu Cứu Độ như cô Ma-ri-a ngày xưa?
Lạy Chúa từ nhân, xin hãy dạy cho con biết thụ động như Ma-ri-a là cứ ngồi bên chân Chúa, và cũng biết như chị, đón nhận và chăm chú nghe Lời Tình Yêu. Xin giúp con bớt tất bật với các việc phục vụ – mục vụ, để dành quan tâm nhiều hơn cho chiêm ngắm Thập Giá. Xin cho mỗi Thánh Lễ con cử hành trở thành một cuộc chiêm ngưỡng và đón nhận vô điều kiện tình yêu Chúa trao ban. Được như thế, con mới có thể hướng dẫn và giúp cho nhiều tín hữu chọn và làm được điều tốt nhất mà Chúa hằng mong đợi. A-men
.
Fx. Đỗ Công Minh
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một câu chuyện hết sức đời thường, ai cũng đã từng gặp trong cuộc sống, nhất là khi đón khách quý đến nhà. Chuyện kể lại việc Chúa Giêsu đến thăm nhà hai chị em Mattha và Maria, Mattha là chị. Đón khách, nhất là một vị khách quý như Thầy Giêsu, được mọi người thán phục, ngưỡng mộ trong cả vùng là điều vinh hạnh cho gia đình. Chính vì vậy, người chị cả phải dọn nhà cửa, dọn bữa ăn để mời khách, đó là điều đương nhiên. Còn cô em, Maria cũng vui mừng không kém, nhưng là em nên không lo lắng gì mấy đến việc cơm nước, bởi từ lâu nay trong nhà đã có bà chị lo cả. Maria nghe biết Thầy Giêsu rao giảng, nhưng chưa một lần được diện kiến Ngừơi, chưa bao giờ được thưa chuyện, trao đổi với Người một cách trực diện. Hôm nay quả là dịp may hiếm có, cô xoắn xít bên Người , “ngồi bên chân Chúa để mà nghe lời Người”.
Chị lo bếp núc, em lo tiếp khách, trò chuyện với khách, xem ra là chuyện bình thường trong mỗi gia đình. Thế nhưng chính vì muốn công việc đón tiếp Đức Kitô thật sự tươm tất, không để Người chê cười nếu chẳng may có điều gì không trọn hảo. Mattha đã lo lắng nhiều, đã chuẩn bị nhiều. Rồi trong sự đa đoan ấy, cô cần có em phụ giúp một tay, nên có lẽ hơi bực bội trong lòng. Đó là tâm lý bình thường của một con người, không có gì đáng trách. Nhưng cũng vì tâm lý cố hữu của một người phụ nữ khiến Matha lên tiếng, không phải chỉ là phiền trách em mình, mà lây sang cả vị khách quí. “Lạy Thầy , em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao ? “. Chính sự nôn nóng đã làm cho Mattha đánh mất đi thiện chí của mình. Cô quay sang đòi hỏi Chúa “ Xin Thầy bảo em con giúp con ( với chứ ! ). Đức Giêsu đã không phê phán Mattha, Người chỉ khéo léo nhắc cô đang trong tâm trạng bối rối “Mattha, Mattha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi : Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất “.
Chúa không cho rằng việc chuẩn bị về của ăn thức uống là không cần thiết, nhưng thông qua việc đến thăm hai chị em, Người muốn tỏ cho con người hiểu được sứ mạng của Người đến trần gian. Người là một vị Thiên sai mà có tiếng từ Trời vọng lên : “ Này là con ta yêu dấu , hãy vâng nghe lời Người” . Mattha nhìn Đức Giêsu như một vị khách quý, một người Thầy dạy trong dân. Còn Maria, cô nhận ra Thầy Giêsu là đấng được sai đến trong dân Israel để cứu độ con người . Cô đã tận dụng những giây phút quý giá bên Người để đón nhận Lời Người. Cả hai chị em đều chọn Chúa, đều muốn làm vui lòng Chúa. Nhưng với Mattha, cô muốn Chúa theo ý cô, cô muốn Chúa phải nhìn nhận thiện chí của cô là đang phục vụ Người. Còn Maria, cô muốn được lắng nghe Lời Chúa, muốn được trao trọn vẹn lòng mến đến Chúa, trao trọn cuộc đời cho Chúa mà không kể công sức mình. Chỉ xin Chúa thực hiện nơi cô bất cứ điều gì Người muốn, như Đức Maria thân mẫu Chúa từng thưa với sứ thần.
Ngày hôm nay, trước biết bao thần tượng ảo trên thế giới này khiến con người, nhất là các bạn trẻ, đang chạy theo. Xin cho con biết chọn lựa, biết nhận ra và xác tín rằng Đức Kitô là đối tượng lón nhất và duy nhất của cuộc đời con . Xin Chúa giúp con đừng mải mê, bối rối, lo lắng về nhiều chuyện mà quên đi việc cần làm là mỗi ngày dành ra ít phút, kề bên Chúa để được nghe Lời Người vọng lên trong tâm hồn con.
“ Xin cho con biết lắng nghe lời Ngài dạy con trong đêm tối. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên trả lời vừa khi con nghe Chúa. Xin cho con biết thân thưa: Lạy Ngài, Ngài muốn con làm chi? “ .
.
Lm. Phạm Thanh Liêm
Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay cho thấy những tấm gương sống Lời Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau: Abraham, Maria và Phaolô.
Chọn điều tốt nhất
Đức Giêsu trên đường rao giảng, ghé vào một gia đình rất quý mến Ngài. Đó là gia đình của Martha, Maria và Lazarô. Cô Martha lo làm đồ ăn đãi khách. Có lẽ có cả các tông đồ cùng ở với Đức Giêsu, vì thế Martha một mình làm bếp cho mười sáu người ăn. Với gia đình này, Đức Giêsu và các tông đồ là những vị khách quý, nên có thể đây là bữa tiệc. Biết bao việc phải làm, thế mà Maria vẫn ngồi bên chân Đức Giêsu và nghe Ngài giảng dạy. Chắc Martha đã ra hiệu hoặc nói với Maria giúp mình, nhưng Maria vẫn giữ lập trường: ngồi tiếp chuyện Đức Giêsu, ngồi nghe Ngài giảng dạy. Không thể chịu nổi nữa, Martha đã xin Đức Giêsu can thiệp: “em con để một mình con với bao nhiêu việc, xin thầy bảo nó giúp con một tay”.
Theo nhiều người, Martha hoàn toàn có lý. Cả Maria lẫn Đức Giêsu đều không được tế nhị lắm. Có lẽ Martha không chỉ trách Maria, mà trách cả Đức Giêsu như thể Đức Giêsu vô tình không để ý đến vất vả của Martha.
“Martha, chị lo lắng về nhiều chuyện quá. Chỉ cần một điều thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai cướp đi được”. Trên đời có nhiều điều có thể làm, phải chọn điều nào quan trọng và cần thiết để làm. Trong trường hợp này, không cần phải làm nhiều món để đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài. Không cần phải vất vả như vậy. Tại sao lại phải làm nhiều món, và điều đó lại là không quan trọng (đối với Đức Giêsu), để rồi phải càm ràm oán trách người khác. Maria đã chọn nghe Lời Chúa, và cũng sẵn sàng chấp nhận bị chị càm ràm, và cả người đời càm ràm chê trách, như thể là người lười, như thể là người không tế nhị và không biết giúp đỡ chị nữa.
Không có một bản lĩnh và một chọn lựa dứt khoát, không thể hành xử như Maria được. Trong cuộc sống, tôi đã chọn điều gì là quan trọng?
Niềm nở ân cần tiếp đón tha nhân
“Đang ngồi hóng mát, nhìn lên Abraham thấy “ba vị” đang đứng gần. Abraham chạy lại, cúi mình chào các vị, mời các vị khách rửa chân cho thoải mái trong một môi trường nóng bức, và dùng bữa”. Với Abraham, đây không phải là những người quen thường gặp, thế nhưng Abraham đã tiếp đón rất ân cần tử tế. Thái độ hiếu khách của Abraham đã làm tương quan giữa Abraham và khách trở nên rất tốt, đến độ các vị khách đã “tỏ mình” cho Abraham.
Thái độ hiếu khách của Abraham đặt vấn đề cho con người ngày nay. Thái độ sống của tôi đối với những người tôi gặp gỡ như thế nào? Abraham đã đón tiếp tha nhân, và cuộc đón tiếp này đã trở thành cuộc đón tiếp Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng đã đồng hoá mình với những người nghèo, đến độ ai đón tiếp người nghèo là đón tiếp Chúa, ai cho người nghèo ăn là cho Chúa ăn, ai đi thăm và giúp đỡ người nghèo là đi thăm và đón tiếp Chúa (Mt.25, 31tt). Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa.
Rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô
Cả cuộc sống của Phaolô sau khi trở lại, là rao giảng, phục vụ Tin Mừng. Ngài được gọi để được sai đi rao giảng, và Ngài đã thực hiện sứ mạng của Ngài trong mọi hoàn cảnh, bất chấp những khó khăn và nguy hiểm. Ngài rao giảng cả khi ở trong tù, cho cả người Do Thái lẫn người ngoại, cho người đời bình thường cũng như cho những người có địa vị và thế lực. Ngài vui ngay cả trong những khổ đau, và Ngài muốn “hoàn tất” những gì còn thiếu trong thân thể Giáo Hội. Với Phaolô, Ngài “học no học đói”, Ngài làm tất cả để Chúa được tôn vinh hơn.
Với Phaolô, Đức Giêsu là Tin Mừng. Đức Giêsu là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, nay được mặc khải cho con người. Đức Giêsu Kitô là tất cả đối với Phaolô, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả để được Đức Giêsu Kitô.
Phaolô trở thành con người tuyệt vời, nhờ thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ước gì mỗi người không mắc cỡ nhưng can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Tin Mừng. Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà mỗi người Kitô hữu trở thành người tuyệt vời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
.
LẮNG NGHE VÀ ĐÓN NHẬN LỜI CHÚA LÀ NGƯỜI KHÔN NGOAN
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong truyền thống Việt Nam, văn hoá ứng xử qua việc giao tiếp là quan trọng. Điều này đã được cha ông chúng ta rất đề cao. Qua việc đón tiếp khách, người ta đánh giá được sự hiếu khách hay thờ ơ của gia chủ; đồng thời nó cũng thể hiện sự văn minh và nền giáo dục của gia đình đó như thế nào!
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu ghé thăm gia đình của Martha. Nơi đây, Ngài nhận được sự đón tiếp nồng nhiệt của hai chị em trong gia đình này. Hai cách đón tiếp khác nhau, nhưng đều thể hiện sự kính trọng, yêu mến mà hai cô dành cho Đức Giêsu. Tuy nhiên, kết quả lại khác nhau, bởi vì hệ tại ở hành vi lựa chọn.
Kinh nghiệm trong cuộc sống cho chúng ta thấy: có rất nhiều điều cần phải “lựa” và “chọn”. Khi còn nhỏ, cha mẹ lựa chọn cho con cái trường nào tốt để gửi vào học; khi lớn lên một chút, ta lựa chọn bạn để chơi, lựa chọn thầy để học; lựa chọn nghề để mưu sinh, lựa chọn người yêu để cưới; lựa chọn một cung cách, một lập trường, một lý tưởng để sống… Nhưng có lẽ điều cần thiết nhất vẫn là lựa chọn một chân lý để làm chủ đạo cho cuộc đời.
Như vậy, có biết bao điều cần phải lựa chọn. Lựa chọn cái tốt, tốt vừa, tốt hơn, hay tốt nhất? Đây chính là điều đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ, đắn đo trước khi chọn.
Nếu lựa chọn trong đời thường là lọc ra những thứ không cần thiết và chọn cho mình những thứ cần dùng. Thì lựa chọn theo Kinh Thánh chính là lắng nghe tiếng Chúa và thực thi điều mình đã tiếp nhận.
Chọn lựa được coi là “đích đến” và “bánh lái” cho cuộc đời nếu lựa chọn đó là tốt, là đúng. Còn nếu lựa chọn sai thì sẽ bị tác hại khôn lường.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy: Martha lựa chọn phục vụ Đức Giêsu qua việc nấu nướng để thiết đãi Ngài một bữa ăn thịnh soạn. Còn Maria thì lựa chọn việc ngồi để lắng nghe Đức Giêsu dạy bảo. Hai thái độ đều tốt. Một bề ngoài. Một bề trong. Nhưng giá trị thì lại khác nhau. Bởi vì Maria đã chọn phần tốt nhất, còn Martha có thể đã chọn phần tốt hoặc tốt hơn chứ chưa phải là tốt nhất.
Thật vậy, lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành phải là điều quan trọng nhất, bởi vì: mọi sự sẽ qua đi, nhưng Lời Chúa vẫn luôn tồn tại.
Tác giả sách Isaia đã nhắc lại lời Đức Chúa phán với dân của Người như sau: “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi chan chứa như dòng sông, sự công chính của ngươi sẽ dạt dào như sóng biển, tên của ngươi sẽ chẳng bao giờ bị huỷ diệt, chẳng bao giờ bị xoá bỏ khỏi mắt Ta” (Is 48,18-19b).
Chính vì điều này mà cô Maria đã lựa chọn điều tốt nhất là được ở bên Đức Giêsu (x. Lc 10,42) và nghe lời Ngài dạy (x. Lc 10,39). Cô đã chọn cho mình phần phúc Nước Trời, bởi lẽ, Đức Giêsu chính là nội dung của Tin Mừng, là hiện thân của Nước Hằng Sống. Vì thế, có Đức Giêsu ở cùng là được cả Nước Trời. Nghe được Lời Ngài nói với mình và đem ra thực hành thì được ví như “… người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá ” (Mt 7, 25).
Bởi vì, Đức Giêsu là kho tàng quý giá mà Thiên Chúa Cha đã đem trồng vào trong mảnh vườn nhân loại. Sống trong Ngài là được trở nên nghĩa thiết với Ngài và được Ngài yêu thương, để Ngài ở đâu, chúng ta cũng sẽ được ở đó với Ngài. Cô Maria trong bài Tin Mừng hôm nay đã hội đủ các yêu tố trên, nên cô đáng được Đức Giêsu khen là người có phúc khi nói: “Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.
Giáo Hội được Đức Giêsu thiết lập để lưu truyền Lời Chúa cho con người. Lời đó là Lời Chân Lý, Lời Hằng Sống. Chính Lời Chúa đã nuôi sống Giáo Hội qua mọi thăng trầm của lịch sử. Vì thế, “Giáo Hội luôn tôn kính Lời Chúa như chính Thân Thể Ngài”.
Khi dành cho Lời Chúa một vị trí quan trọng và ngang hàng với chính Chúa như thế, Giáo Hội muốn xác tín niềm tin của mình vào sức mạnh vạn năng của Lời Chúa. Điều này đã được Công Đồng Vaticanô II khẳng định: “Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội” (x. DV., số 21).
Nhưng, tiếc thay, vì quen lối sống đạo xưa kia, nên chúng ta nhiều khi chỉ thuộc kinh mà không mấy coi trọng Lời Chúa! ngược lại, nhiều gia đình lại coi cuốn Lời Chúa như một vật trang trí hay kính trọng theo kiểu “kính nhi viễn chi”.
Khi nói như thế, chúng ta không có ý phủ nhận lối sống đạo bình dân của cha ông, vì trên thực tế, đời sống đạo truyền thống này đã sinh ra cho Giáo Hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, và hôm nay, chúng ta được kế thừa niềm tin cũng nhờ cung cách sống đạo bình dân đó.
Tuy nhiên, chúng ta quên mất rằng, mọi lời Giáo Huấn hay Truyền Thống của Giáo Hội cũng như mọi lời kinh từ bao thế hệ đều được bắt nguồn và suy tư từ Lời Chúa. Nếu chúng ta am tường và hiểu biết Lời Chúa càng nhiều, thì đời sống đạo của chúng ta càng sống động và sâu sắc. Chính thánh Giêrônimô đã nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Vì thế, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gợi lên cho chúng ta giá trị của Lời Chúa khi viết: “Đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để tìm hướng đi cho cuộc đời” (x. Thư Chung 1980, số 8).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm hình ảnh, thái độ của Maria, nhất là hãy cảm nghiệm lời chúc phúc của Đức Giêsu dành cho cô, từ đó, rút ra cho mình một thái độ tích cực với Lời Chúa như:
Chăm chỉ đọc, suy gẫm Lời Chúa cách yêu mến; đồng thời biết thinh lặng, nhạy bén để khám phá ra sứ điệp của Lời Chúa và đem ra thực hành. Đây chính là thái độ của người khôn ngoan khi xây dựng ngôi nhà cuộc đời mình trên nền tảng Lời Chúa. Để mưa xa, bão táp, phong ba có dồn dập tư bề, thì nhà ấy vẫn vững vàng.
Ngược lại, nếu chỉ đọc Lời Chúa cách hời hợp, qua lần chiếu lệ, thì Lời Chúa không những không tác sinh trong tâm hồn, mà nhiều khi lại còn bị chúng ta bóp méo và uốn nắn theo thiển ý của chính mình. Từ đó, sinh ra lối sống đạo hình thức, hời hợt bên ngoài hay chỉ là người mang danh và đeo cái mác Công Giáo, chứ thực ra không phải là người mang Đạo trong mình.
Ước gì Lời Chúa khen ngợi cô Maria khi xưa vì đã biết chọn phần tốt nhất cũng là lời tác phúc cho mỗi chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết chọn Chúa làm lý tưởng và lẽ sống cho cuộc đời. Xin cho chúng con biết yêu mến và lắng nghe Lời Chúa bằng thái độ của người môn đệ. Và, xin cho chúng con biết đem Lời Chúa ra để thực hành trong cuộc sống hiện tại. Amen.
.
Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Trong cuộc đời công khai giảng dạy, Chúa Giêsu được nhiều người thương mến và giúp đỡ. Trong số đó không thiếu những người phụ nữ đi theo Chúa, cách đặc biệt một gia đình mà Chúa thường đến thăm và quan tâm tận tình: gia đình của chị em bà Matta và Maria. Các Tin mừng ghi nhận ít là ba lần Chúa đến nhà chị em này (Ga 11, 1-45; 12, 1-11; Lc 10, 38-42).
Làng Bêtania
Nói đến gia đình Matta và Maria chúng ta không thể nào không nhắc đến một địa danh lịch sử, gắn liền với tên tuổi của hai Thánh nữ. Bêtania một làng nằm ở phía đông nam núi Cây dầu, thuộc vùng phụ cận Giêrusalem, trên đường nối liền với Giêricô. Nơi ở của Lazarô, Mátta và Maria (Ga 11,1). Là nơi Chúa cho Lazarô sống lại (Ga 11). Bêtania bây giờ là El-Azariyeh, “nhà của Lazarô”. Nhìn từ xa, làng Bêtania được mô tả như là “nơi tốt đẹp đáng ghi nhớ, nơi ẩn náu của sự bình yên, của nguồn yêu thương”. Bây giờ cũng chỉ là một làng nhỏ. Dân số hiện nay khoảng 5000 người. Bêtania ngày nay là vùng đất tự do, chẳng thuộc quản lý của Israel hay của Palestine. Từ Giêrusalem về Bêtania xe hơi chạy khỏang một giờ đồng hồ”.
Mátta và Maria
Câu chuyện Chúa Giêsu vào nhà Mátta và Maria nghỉ ngơi, khi cùng với các môn đệ đang trên đường rao giảng Tin mừng, cho chúng ta một nét đẹp trong chân dung của người Tông đồ phục vụ anh chị em mình. Trong khi cô em là Maria đang ngồi lắng nghe lời chúa, thì Mátta tất bật với công việc một người nội trợ thật tuyệt vời. Chúa Giêsu không có ý xem nhẹ, thái độ đón tiếp của bà. Bởi Chúa cũng cần lắm những cộng sự viên năng nổ, năng động như Mátta. Nếu làm một cuộc so sánh hai chị em thì chúng ta phải khẳng định rằng: Maria là người thiên về đời sống nội tâm, còn Mátta thì hướng đến sự chia sẻ và trao ban. Cả hai đều là những cách thế thể hiện một tình yêu đón nhận từ Thiên Chúa và tặng ban cho con người. Vả lại, Maria là người em nên có khi hơi ỷ lại một chút, công việc bếp núc cũng có phần nặng nhọc và cần đến sự khéo léo và tài tình, nên dành cho người chị thì có lẻ tốt hơn.
Một lần khác, khi ra chào đón Chúa Giêsu vào thăm trong hòan cảnh người em mới qua đời, Mátta bộc bạch cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11,21). Lazarô đã chết, thế nhưng Mátta vẫn tin rằng Chúa Giêsu là sự sống vĩnh cửu của con người. Nói cách khác Mátta tin nhận Thầy Giêsu là Đấng Thiên sai, Đấng Messia mà thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.
Lắng nghe và thực thi Lời Chúa dạy
Tin mừng dù ghi nhận sự khác biệt của hai chị em Maria và Mát-ta trong việc đón nhận lời Chúa, một bên là tĩnh lặng của tâm hồn, một bên là xao động của từng đường gân thớ thịt. Thế nhưng không ai có thể phủ nhận con tim của cả hai đang dạt dào tình yêu mến Thiên Chúa một cách vô bờ bến, trong con người của Mát-ta và Maria.
Kết hợp những nét đẹp rạng ngời của cả hai chị em, mỗi người sẽ thấy được việc lắng nghe và thực thi lời Chúa, chỉ là hai cách thế diễn tả của một tình yêu Giêsu.
.
Lm. Giuse Độ Đức Trí
Việt Nam từ trước tới nay vẫn được biết đến như một dân tộc có lòng hiếu khách. Ngày xưa ở vùng quê, các ngôi nhà hàng xóm thường không cần hàng rào, mọi người có thể đi tắt qua sân, ghé vào thăm nhau bất cứ lúc nào. Có dịp thăm các gia đình vùng quê, chúng ta sẽ thấy còn lại những nét đẹp của lòng hiếu khách. Mỗi khi có khách, dù lạ hay quen, người miền quê đều đón tiếp hết sức niềm nở ân cần. Tuy nhiên, cuộc sống kinh tế khá hơn, dường như đã làm phai mờ lòng hiếu khách nơi nhiều người. Các ngôi nhà liền sân được thay thế bằng tường cao rào kín, những cuộc viếng thăm của xóm giềng cũng ít đi. Người được thăm dường như cũng tỏ ra dè chừng, nghi ngờ khi có khách lạ đến nhà. Trong họ hàng ruột thịt, các cuộc thăm viếng dần được thay thế bởi những cú điện thoại, hoặc con cái có về thăm cha mẹ cũng hết sức vội vàng. Con người thời hiện đại có thể có rất nhiều giờ ăn nhậu với bạn, nhiều giờ cho đối tác, nhưng lại có ít giờ cho gia đình vợ con và nhất là cho cha mẹ.
Không chỉ trong tương quan xã hội và gia đình đang dần mất đi sự gặp gỡ, mà trong đời sống đức tin, con người cũng đánh mất hoặc xem thường việc gặp gỡ, tiếp xúc với Thiên Chúa.
Các bài đọc ngày Chúa nhật XVI hôm nay chỉ cho chúng ta những thái độ cần thiết phải có khi đón tiếp Chúa. Câu chuyện ông Apbraham trong bài đọc một cho chúng ta một khung cảnh gần gũi như một làng quê Việt Nam. Một buổi trưa hè nóng nực, Apbraham ra hóng mát tại gốc cây sồi ngay cửa lều thì thấy có ba vị khách lạ đi ngang qua. Vừa trông thấy, ông vội chạy ra đón khách và sụp xuống đất lạy. Ông đã thể hiện tấm lòng trọng kính đối với ba vị khách này. Ông còn nài nỉ : Nếu đẹp lòng quý Ngài, xin quý Ngài ghé thăm nhà tôi, rửa mặt, dùng bữa. Ông đã chuẩn bị bữa trưa cho ba vị khách, chính ông đứng hầu bàn trong khi các vị khách dùng bữa. Trước khi ra đi, ba vị khách đã để lại cho Apbraham một niềm vui và hy vọng khi hứa với ông : Bằng rầy sang năm, tôi trở lại, Sara vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai.
Ba vị khách chính là Thiên Chúa đã đến thăm Apbraham như thăm người bạn. Apbraham đã thể hiện thái độ trọng kính và hiếu khách đối với Thiên Chúa. Ông hết sức nhiệt tình quảng đại với Thiên Chúa và nài ép Chúa ở lại với gia đình ông. Đáp lại lòng hiếu khách của Apbraham, Thiên Chúa đã chạm đến nỗi khát khao sâu thẳm của Apbraham và Ngài đã lấp đầy khát khao ấy bằng lời hứa cho ông có được con trai nối dõi. Câu chuyện cũng cho thấy, Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người, Ngài sẽ trả lại cho con người gấp trăm gấp ngàn lần những gì con người dám quảng đại dành cho Chúa.
Tin Mừng Luca cũng thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu viếng thăm gia đình Matta, Maria và Lazarô. Các thành viên trong gia đình này đã đón tiếp Chúa như một vị ngôn sứ và như một người bạn, tức là vừa kính trọng vừa thân thiết. Đối với Chúa Giêsu, Ngài vẫn coi Lazarô như bạn thân, và gia đình Matta-Maria là điểm dừng chân của Chúa mỗi khi lên Giêrusalem. Với sự niềm nở, hiếu khách, khi nghe tin Chúa Giêsu còn ở đầu làng, Matta là chị, đã mau chóng chạy ra đón Chúa Giêsu vào nhà. Việc chạy ra tận đầu làng để đón Chúa thể hiện lòng yêu mến và sự khao khát được gặp Chúa.
Nhưng có chuyện đã xảy ra trong gia đình. Hai chị em Matta và Maria có hai hai cách thức và hai thái độ đón tiếp Chúa khác nhau. Cô Matta tất bật phục vụ, lo chuyện cơm nước, còn cô Maria lại ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người dạy. Có lúc, cô Matta đã sốt ruột, dường như trách Chúa : Sao Thầy không bảo em con giúp con một tay ? Chúa đã trả lời : Matta, con lo lắng nhiều việc quá, chỉ có một việc cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.
Hình ảnh Matta bận rộn và Maria chăm chú ngồi bên chân Chúa để nghe lời Người là hình ảnh hai nếp sống đạo trong Giáo hội, nếp sống hoạt động tông đồ phục vụ và nếp sống chiêm niệm suy gẫm lời Chúa. Chúa không chê, không loại trừ những hoạt động bên ngoài của cô Matta, cũng không từ chối việc cô tất bật phục vụ Chúa, nhưng Chúa muốn nhắc cho Matta một điều cần thiết nhất và quan trọng nhất, đó là việc cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa như Maria. Trong đời sống của mỗi tín hữu cũng như người tông đồ, các hoạt động bên ngoài, dù là những hoạt động công ích hoặc hoạt động vì Chúa, vì anh em, cũng dễ làm cho con người vơi cạn nguồn năng lượng. Đàng khác, các hoạt động tông đồ bác ái có nguy cơ trở thành việc làm không phải vì Chúa mà vì bản thân, trở nên trống rỗng, nếu không thường xuyên ngồi bên chân Chúa để được nghe, được tiếp thêm năng lượng và để điều chỉnh lại mục tiêu.
Một nguy cơ khác dễ xảy ra nơi những con người hoạt động tông đồ, làm việc cho Chúa đó là một thứ tự hào tự mãn về thành quả mình đạt được và trách cứ, phê bình người khác như cô Matta. Cô Matta không chỉ trách cô Maria đã không giúp gì được cho mình trong việc phục vụ, mà cô Matta còn thầm trách Chúa Giêsu đã không quan tâm tới cô, không công bằng với cô, vì cô vất vả phục vụ nhiều hơn cô em Maria. Cô muốn được Chúa chú ý đến mình nhiều hơn.
Chúa Giêsu đã điều chỉnh thái độ và suy nghĩ của Matta và chỉ cho Matta biết đâu là thứ tự ưu tiên mà người môn đệ của Chúa cần có : Chị lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một chuyện cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy đi. Việc phục vụ của Matta là tốt và là cần thiết nhưng chỉ như thế thôi chưa đủ. Chúa muốn người hoạt động tông đồ luôn phải giữ được thế cân bằng giữa việc phục vụ và cầu nguyện, hoạt động tay chân và việc lắng nghe, suy niệm Lời Chúa. Việc nghe và suy gẫm Lời Chúa sẽ trở thành nguồn năng lượng và là động lực cho hoạt động tông đồ. Chúa Giêsu còn khẳng định việc nghe và suy gẫm Lời Chúa là điều tốt nhất và là ưu tiên nhất trong đời sống của người tín hữu. Chọn lựa ngồi bên chân Chúa như cô Maria để lắng nghe Lời Chúa là chọn lựa khôn ngoan và là chọn lựa tốt nhất. Vì bất cứ ai ở gần bên Chúa, ngồi dưới chân Chúa trong tư thế và thái độ của một học trò ngoan ngoãn, sẽ đón nhận được sự dạy bảo của Chúa và không ai có thể lấy đi mối tương quan thân tình với Chúa.
Như đã chia sẻ ở trên, trong đời sống đức tin, nhiều người đã tỏ ra không quan tâm hoặc đánh mất việc đón tiếp Chúa và nghe Lời Chúa. Chúa vẫn đứng ở cửa nhà, Chúa đang gõ cửa tâm hồn, nhưng nhiều người đã cố tình bỏ qua tiếng mời gọi của Chúa, họ khóa chặt cửa lòng không muốn để Chúa bước vào tâm hồn mình. Trong cuộc sống, người ta không muốn cho khách vào nhà vì sợ phiền phức, sợ mất thời giờ, mất tài sản và cũng có thể vì căn nhà luộm thuộm, dơ bẩn nên không muốn khách bước vào. Cũng vậy, nhiều người không muốn đón Chúa vào tâm hồn vì sợ phiền phức, sợ phải gặp Chúa, sợ mất giờ, sợ Chúa chạm đến các chỗ lỉnh kỉnh trong tâm hồn.
Nhiều người ngày nay không khác gì cô Matta, để mình bận rộn vào quá nhiều việc : lo cho gia đình, cơm áo gạo tiền, công danh sự nghiệp, khiến họ không còn giờ cho Chúa và không còn giờ để ngồi lại lắng nhe Lời Chúa dạy bảo. Cũng có những Kitô hữu đang nhiệt thành với công việc tông đồ, nhưng đã đánh mất động lực và nguồn năng lượng, đánh mất thói quen thường xuyên ngồi bên chân Chúa để nghe và suy gẫm. Vì thế, công việc tông đồ của họ trở nên trống rỗng, việc bác ái từ thiện không còn là việc được thúc đẩy bởi lòng mến, nhưng bởi cái tôi và sự háo danh của mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta, đặc biệt là các bạn trẻ, biết chọn đâu là phần tốt nhất cho cuộc đời mình, chọn những gì là bền vững, không bị ai lấy đi như cô Maria đã chọn. Cuộc sống vội ngày nay khiến cho nhiều người trẻ chạy đua theo nhịp sống xã hội, khiến họ không còn giờ để dừng lại, cũng không còn giờ để ngồi lại bên chân Chúa để nghe Lời Ngài. Vì thế, nhiều người đã bị hổng chân, trở nên trống rỗng trong đời sống đức tin.
Xin Chúa cho mỗi người biết mở lòng ra để đón Chúa Thánh Thể vào tâm hồn mình mỗi ngày, Chúa sẽ trả lại cho chúng ta gấp trăm ngàn lần sự quảng đại của chúng ta như Chúa đã trả lại cho Apbraham. Chúa cũng sẽ chỉ cho chúng biết chọn lựa cách sống tốt nhất cho đời sống linh hồn và cả thể xác chúng ta. Amen.
.
ĐỂ CHO LỜI CHÚA SOI DẪN CUỘC ĐỜI
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Hôm ấy, Chúa Giê-su đến thăm gia đình Mác-ta. Mác-ta tất bật lo việc nấu nướng để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa sẽ rất hài lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu đáo và tận tình như thế.
Vậy mà Chúa Giê-su lại đề cao thái độ chăm chú lắng nghe của Maria hơn và trách Mác-ta: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc 10, 41-42)
Nhiều lần trong Tin mừng, Chúa Giê-su khẳng định với mọi người rằng lắng nghe và thi hành Lời Chúa là điều cần thiết và quan trọng nhất.
Lời Chúa là ánh sáng soi đường
Lắng nghe Lời Chúa là việc cần thiết nhất vì Lời Chúa là đèn soi cho loài người tiến bước trong đêm tối và vượt qua bao giông tố của cuộc đời. Thánh vịnh 119 viết: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119,105). Nhờ ngọn đèn nầy, người lầm lạc thấy được chân lý, người tội lỗi được hoán cải để sống đời thánh thiện, người thất vọng được tìm thấy niềm tin và hy vọng tràn trề…
Thiếu Lời Chúa, nhân loại như đang chìm trong tối tăm.
Một chiếc xe phải vượt qua nhiều đoạn đường đèo quanh co, cheo leo hiểm trở trong đêm tối mà không có đèn soi thì sẽ lao xuống vực. Đời người với bao nhiêu thăng trầm thách thức của cuộc sống khác gì chiếc xe vượt đèo kia, nếu không được ánh sáng của Lời Chúa soi dẫn, chắc chắn sẽ không thoát khỏi tai ương.
Lời Chúa mang lại giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề của cuộc sống
Trong thời kỳ đất nước Việt Nam chúng ta bị đặt dưới ách đô hộ của người Pháp thì tại Nam Á, nước Ấn-độ, một đất nước to lớn hơn nhiều, cũng bị đặt dưới ách thống trị của người Anh. Đế quốc Anh cũng hùng cường không thua kém gì đế quốc Pháp. Cả nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Ấn đều đứng lên để lật đổ chế độ thực dân và giành độc lập cho xứ sở mình.
Trong cuộc đấu tranh nầy, nhân dân Việt Nam phải dùng đến bạo lực, đến khí giới và đã trả giá cho nền độc lập bằng vô vàn sinh mạng và máu xương!
Trong khi đó, tại Ấn-độ, dưới tài lãnh đạo của thánh Gandhi, người dân Ấn đấu tranh bằng đường lối ôn hoà bất bạo động, họ làm theo lời dạy của Chúa Giê-su, đó là: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi… Ai vả má bên nầy thì hãy chìa má bên kia ra…” (Luca 6, 27-28).
Bằng đường lối bất bạo động học từ Tin mừng của Chúa Giê-su, Gandhi và nhân dân Ấn-độ đã lật đổ được đế quốc Anh, bẻ gãy ách thống trị của người Anh, giành lại độc lập cho quê hương xứ sở mà không cần đến khí giới.
Vài chục năm sau, tại Hoa-kỳ, mục sư Martin Luther King cũng đã dùng Lời Chúa soi sáng cho cuộc đấu tranh bất bạo động của mình và ông đã đạt được thắng lợi vẻ vang, buộc người da trắng nhìn nhận, tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của người da đen mà không cần đến khí giới.
Ngày 30 tháng 1 năm 1956, nhà riêng của mục sư King bị đánh bom. Một đám đông những người da đen ủng hộ ông tỏ ra giận dữ và tụ tập trên con đường trước ngôi nhà, tự vũ trang với dao, súng, gậy gộc, đá và chai lọ để trả thù cho ông. Bấy giờ mục sư King nói với họ: “Đừng hốt hoảng, đừng làm bất kỳ điều gì trong giận dữ! Ai có vũ khí, xin hãy đem về; ai không có vũ khí, xin đừng thủ đắc chúng. Chúng ta không thể giải quyết vấn nạn này bằng những vụ bạo động trả đũa… Chúng ta phải yêu thương những người anh em da trắng, bất kể họ đã làm gì đối với chúng ta. Chúng ta phải hành động để họ biết rằng chúng ta yêu họ. Lời dạy của Chúa Giê-su vẫn còn vang vọng đến hôm nay: “Hãy yêu thương kẻ thù, hãy chúc phúc cho kẻ rủa mình, và cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục mình” (Lc 6,27-28). Đó là điều chúng ta phải làm. Chúng ta phải lấy tình yêu để đáp trả lòng thù hận.”
Nhờ đấu tranh theo đường lối yêu thương và hoà dịu của Tin mừng, người da đen đã thành công rực rỡ: Chừng 45 năm sau ngày phát động đấu tranh bất bạo động (1963), một người da đen (Obama) đã được bầu làm tổng thống Hoa-kỳ.
Như thế, Lời Chúa đã thật sự đem lại những giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề trong xã hội và đời sống.
Lạy Chúa Giê-su,
Lời dạy của Chúa như ngọn hải đăng soi đường cho nhân loại giữa biển đời tăm tối; Lời Chúa như kim chỉ nam chỉ lối cho người lạc bước giữa rừng sâu.
Xin cho chúng con luôn quý trọng Lời Chúa và để cho Lời Chúa hướng dẫn mọi hoạt động hằng ngày của mình, nhờ đó, cuộc đời chúng con sẽ luôn được an vui hạnh phúc.
.
Lm. Jos. DĐH.
Cuộc sống văn minh hiện đại, nhiều người vẫn bày tỏ quan điểm thân thiện của mình, trước, trong, và sau lần gặp gỡ : vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi. Đối tác làm ăn, khẩu hiệu phục vụ, người ta có thể bằng nhiều chiêu rất bắt mắt và xuôi tai : khách hàng là thượng đế, thầy thuốc như mẹ hiền, chất lượng, đáng tin cậy… Mối quan hệ giữa người với người, bao giờ cũng có hai mặt lý và tình. Lý giúp ta sáng suốt lựa chọn suy nghĩ, hành động đúng, tình giúp ta giữ mối tương quan thân thiện, tốt đẹp hơn.
Cuộc tiếp đón nồng hậu cần phải chu đáo, trang trọng, đẹp cả hình thức lẫn nội dung ? Phong cách của người trẻ có phải họ luôn thích sôi động, phóng khoáng ? Đối với người lớn tuổi, họ thích trầm tư, thận trọng, theo chiều hướng ăn chắc mặc bền ? Cuộc tiếp đón khách quý mà Tin mừng chia sẻ hôm nay, có phải là “hụt hẫng” với Macta, và hạnh phúc “bất ngờ” đối với cô em Maria ? Thông thường cuộc thăm viếng bao giờ cũng nhằm xây dựng mối tương quan thân tình, chuyện ăn uống hẳn không phải là mục đích.
Đón tiếp khách nồng hậu, đâu phải cứ rượu thơm thịt béo là đạt chuẩn, nhưng còn là biết nghe và hiểu vị khách quý đang trải lòng như thế nào. Đức Giêsu không lý sự với Macta, không tình cảm ủy mị đến độ quên đi sự hiếu khách và tính chu đáo của các thành viên gia đình hôm đó. Tâm lý chung, khách viếng thăm vì tình vì nghĩa, đâu mấy ai vì mê ăn uống, mong được phục vụ. Phản ứng tự nhiên của chủ nhà, tử tế ân cần với khách, không thể thiếu việc ăn uống hàn huyên tâm sự.
Đức Giêsu không chê tấm lòng phục vụ của Macta, nhưng Ngài mời gọi mỗi người hãy chọn phần tốt nhất, vì có biết lắng nghe, mới hiểu và phụng sự đúng ý Chúa được. Thời đại văn minh, người ta chú ý đến tính chuyên môn, một nghề thì sống, đống nghề thì chết. Các bậc cha mẹ thường chú ý đến giáo viên giỏi, nhằm hướng dẫn từng bộ môn cho con mình học tốt hơn, dù mục đích là mong con cái nên người giỏi toàn diện. Cô Macta diễn tả lòng kính trọng khách quý bằng việc phục vụ ăn uống, cô Maria diễn tả lòng hiếu khách là lắng nghe Lời Chúa, tiếp chuyện bên Chúa. Đức Giêsu thấu biết tấm lòng yêu mến phục vụ của hai chị em Macta và Maria, do đó Ngài sẽ chúc phúc cho gia đình họ.
Ngày hôm nay, không khó để chúng ta phân biệt đâu là khách quý, và như thế nào là phục vụ khách ân cần hoặc nồng thắm nhất. Chúng ta cũng đủ hiểu, ưu tiên hàng đầu là biết lắng nghe và thực hành điều Chúa truyền dạy cách nghiêm túc. Chúa không cần chúng ta đặt lại quan niệm cách yêu mến của Macta và Maria ai tốt hơn. Ngài cũng không có ý nói chiêm niệm cầu nguyện là việc nên làm hơn là hoạt động phục vụ. Chúa cần có Macta, Chúa cũng cần có Maria, đón tiếp cách nồng hậu phải có tấm lòng tin yêu chân thành. Người biết lắng nghe Lời Chúa thì cũng phải biết thực hành Lời Chúa, mới đúng là người biết chọn phần tốt nhất : yêu mến phục vụ.
Người xưa có câu : em khôn cũng là em chị, chị dại cũng là chị em, phần nào cũng lý giải, không vì ganh tỵ mà Macta thưa với Đức Giêsu: “xin Thầy bảo em con giúp con một tay”. Chúng ta cũng nên hiểu theo ý tốt là Macta cũng khao khát được ngồi hầu chuyện với Chúa. Rất mong việc nấu bếp xong, để được nghe Lời Chúa, hầu biết yêu mến phục vụ cách tốt nhất. Để tiếp đón khách cho đúng, và biết làm hài lòng khách cho lịch sự văn minh, ai cũng cần phải được học tập, như câu tục ngữ : học ăn học nói, học gói học mở.
Khách đến nhà không trà thì nước, khách đến nhà là niềm vui và vinh dự cho gia đình, khách còn mang hình ảnh Thiên Chúa viếng thăm, chúc phúc cho gia đình. Chị em Macta theo khả năng riêng của mình, hẳn họ đều yêu mến và phục vụ Chúa cách tốt nhất. Chúa Giêsu ghi nhận tấm lòng hiếu khách của gia đình họ, chính vì yêu mến phục vụ, Macta đã hiểu Chúa không cần chị phải quá vất vả làm gì cho Chúa, nhưng mọi người hãy vui vì có sự hiện diện của Chúa. Nếu các em của Macta đã biết chọn phần tốt nhất, hẳn người chị phải vui mừng, vì biết rằng các em của chị đã trưởng thành, đang được chúc phúc.
Cổ nhân nói rằng : đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không chịu học. Chị em Macta đã chia sẻ kinh nghiệm về việc đón tiếp Chúa thế nào là chu đáo nồng hậu, Ngài cần chúng ta được niềm vui, chứ không phải lo cho Chúa được gì. Tiếp đón khách quý là tiếp đón mọi đối tượng không phân biệt giai cấp, giầu nghèo, tiếp đón ân cần như là tiếp đón Chúa hiện diện. Biết Chúa ghé thăm là diễm phúc, hãy chuẩn bị tâm hồn tốt nhất để lắng nghe, thưa chuyện, đó là điều cần thiết hơn. Lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, chính là người khôn ngoan, người có niềm vui vì đã biết yêu mến phục vụ theo tinh thần môn đệ của Đức Kitô. Amen.
.
AM. Trần Bình An
Sau một hành trình dài dằng dặc như địa ngục trong xe chở gia súc từ Singapore – nơi họ đã trải qua 8 tháng tù trước đó – Đại tá Philip Toosey (1904-1975) cùng với 690 tù nhân thuộc Lữ đoàn 135, quân đội Anh, đã đến trại giam Tamarkan, Thái Lan, nằm trong một khu rừng cách Bangkok 120 km về phía tây, gần sông Kwai Yai. Sang ngày hôm sau, số tù nhân tăng vọt lên 1.000. Các sĩ quan nhất trí bầu chọn Toosey làm sĩ quan cấp cao. Sự bình chọn này được Trung úy Nhật Kosakata, chỉ huy trại, công nhận.
Kosakata báo cho Toosey biết nhiệm vụ của các tù nhân là xây dựng 2 chiếc cầu bắc qua sông Kwai: một chiếc cầu gỗ dài 100m cho các phương tiện giao thông nhẹ; một chiếc cầu thép dài 300m, dựng trên 11 cột chống bêtông, với 2 km bờ đê hai bên, là đường ray trọng điểm dẫn đến phòng tuyến tiếp tế của Nhật. Thời gian hoàn thành là từ 9 tháng – 1 năm. Một ngày làm việc bắt đầu từ lúc trời vừa hửng sáng. Sau khi được phát cơm và canh, các tù nhân được điểm danh, chia thành từng nhóm, bước lên nhận cuốc, xẻng, điểm danh lần nữa, rồi tiến vào rừng. Nguyên tắc là công việc của ngày phải được hoàn thành, và không có nhóm nào được phép về trước. Tù nhân làm việc chân đất dưới ánh nắng mặt trời gay gắt từ 7h sáng đến 7-8h tối.
Cầu được xây toàn bằng sức lực con người. Tù nhân liên tục bị hành hạ và trừng phạt bởi những lỗi lầm nhỏ bé nhất, nhưng Toosey ra lệnh, rằng bất cứ hành động phi nhân tính nào của bọn lính gác, cũng cần phải được báo cáo lên ông ngay lập tức. Đến tháng 12/1942, chiếc cầu gỗ gần hoàn thành. Các tù nhân rất vui sướng khi thấy nước sông dâng lên cao bất ngờ và cuốn trôi chiếc cầu. Nhưng niềm vui ngắn ngủi tan biến ngay lập tức, bởi họ phải làm việc cực nhọc hơn để xây dựng lại nó, với chỉ tiêu hoàn thành là từ tháng 12 cho đến tháng 8. Toosey biết rằng, quân Nhật sẽ xây đường xe lửa bằng bất cứ giá nào vì vậy, ông nói với các tù nhân rằng, kỷ luật lao động là điều quan trọng.
Toosey từ chối học tiếng Nhật, để ông luôn luôn có thể nói câu: “Tôi không hiểu”.Ông may mắn có được sĩ quan phụ tá David Boyle, có thể nói được tiếng Nhật bồi và làm phiên dịch cho ông cho đến hết cuộc chiến. Dần dần, quân Nhật cũng hiểu ra, rằng nếu như ông nói không, thì có nghĩa là ông sẽ khăng khăng như vậy cho đến khi chúng bắn chết ông thì thôi.
Chẳng bao lâu, ông đã thuyết phục được chúng bàn giao lại cho ông những vấn đề về xử lý công cụ và phân công lao động. Các sĩ quan phụ trách công việc được giao nhiệm vụ làm giám sát công trình thay cho bọn lính canh. Và nếu như các kỹ sư Nhật bàn giao mục tiêu của ngày hôm sau cho ông, thì ông sẽ cùng mọi người nghĩ ra cách nào tốt nhất để hoàn thành công việc vào đầu giờ chiều, khiến nhiều tuần trôi qua, mà không có ai bị đánh đập cả.
Vệ sinh là nỗi ám ảnh của Toosey, vì rất nhiều căn bệnh của khí hậu nhiệt đới đi kèm với ruồi. Ông thường xuyên kiểm tra lều chòi, nhà bếp, bắt tù nhân phải cạo râu, cắt tóc, vì đấy là nơi trú ẩn của chấy rận. Những nỗ lực của ông đã được đền bù. Chỉ có 9 người chết trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 5.
Những phần cơm canh nghèo nàn được bổ sung bằng trứng, thịt, trái cây, bắp mua được từ các dân buôn địa phương, mỗi khi các nhóm làm việc được ra ngoài. Toosey cương quyết với yêu cầu 1/3 số tiền được trả cho các sĩ quan, phải được dùng để mua thực phẩm và thuốc men cho người bệnh. Ông đã thuyết phục tên chỉ huy trại cho phép mở một trang trại nuôi vịt và heo, sau khi biết được có một sĩ quan từng là nông dân chăn nuôi gia cầm.
Đích thân ông còn là người bắt mối liên lạc đầu tiên với một tổ chức bí mật, để cung cấp thuốc men và tiền bạc cho nhiều trại giam, cứu thoát mạng sống của hàng trăm người. Toosey rời trại giam Tamarkan vào năm 1943 và nó trở thành nhà tù nhốt các phạm nhân về sau này. Cuối cùng, các cây cầu đã bị phá hủy, không phải do lính biệt kích như trong phim mô tả, nhưng là do quân Anh, Mỹ ném bom. Đại tá Toosey được công nhận là người anh hùng, theo tiêu chí mà con người của thế giới ngày nay có thể làm được. Đó là hiểu biết những điều kiện cần thiết của hoàn cảnh để tồn tại! (Thuý Hân, theo Reader’s Digest)
Đại tá Philip Toosey đã công khai phục vụ chu đáo, giúp đỡ, chăm lo các bạn tù, nhưng vẫn bị Hollywood bôi nhọ qua bộ phim Cầu Sông Kwai (1957) của đạo diễn David Lean, với tài tử Alec Guinness đóng vai Đại tá Nicholson, hợp tác với quân Nhật, đày đoạ đồng hương. Trong Tin Mừng thánh Luca Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu ghé thăm nhà chị em Mácta, Maria và Lazarô, được phục vụ qua cung cách khác nhau của hai chị em.
Cô Mácta một mình bận rộn bếp núc, lo phục vụ chiêu đãi Đức Giêsu và các môn đệ. Trong khi đó, cô em Maria phục vụ đón tiếp. Thấy cô em cứ mải trò chuyện, Mácta bất bình, thưa cùng Người: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” Cô đâu biết rằng Maria cũng đang hết sức bận rộn phục vụ Lời Chúa, quan trọng, cao quý và cấp bách vô cùng. Vậy để việc phục vụ đúng đắn, hiệu quả, hữu ích cho tha nhân và nhất là để làm sáng danh Thiên Chúa, thì phải cần thiết nhờ Chúa, với Chúa và trong Chúa.
Nhờ Chúa
Cần luôn biết ơn, cảm tạ, ca ngợi Chúa. Rồi chăm chú lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu Thánh Ý Chúa trong từng phút giây hiện tại, cùng chân thành tâm sự với Người. Dốc hết tâm can, niềm vui lẫn nỗi buồn, thành công hay thất bại, bối rối ứng xử, chọn lựa theo Chúa hay theo thế tục. Nguyện xin Người chỉ bảo, hướng dẫn đi trong ánh sáng đường ngay nẻo chính, trong chân lý và sự thật. Đó chính là cầu nguyện, một bí quyết quan trọng, thiết yếu của người môn đệ, thực sự muốn phục vụ Chúa và tha nhân.
Khi được hỏi về bí quyết để can đảm dấn thân, tích cực phục vụ những người hấp hối, bệnh hoạn, phong hủi, Mẹ Têrêsa chỉ vắn tắt, đơn sơ trả lời: “Bí quyết của tôi rất đơn giản: cầu nguyện.”
Mẹ Têrêsa luôn cầu nguyện trước khi bắt tay phục vụ. Mỗi ngày nhà dòng Mẹ dành nguyên một giờ chầu Mình Thánh Chúa trước khi săn sóc những người nghèo khổ, hoặc đi vào trong các “nhà hấp hối,” giúp những người sắp chết được an nghỉ trong Chúa. Cầu nguyện để đón nhận sức sống, lòng can đảm, hy sinh, nghị lực chịu đựng, để dấn thân phục vụ. Mẹ Têrêsa đã trở nên thân tộc của Đức Giêsu khi thực hiện lời dạy: “Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
Với Chúa
Cùng với Chúa phục vụ quảng đại, cởi mở, thân thiết thắm tình huynh đệ, không phân biệt đối xử, chẳng kể giầu nghèo, sang hèn, thân hay sơ, thành viên hay cảm tình viên. Không cần biết đồng đạo hay khác đạo, chẳng quan tâm đồng bào hay ngoại kiều, chẳng hề chấp nhất phe ta hay phe địch.
Hơn nữa, cùng với Chúa đặc biệt quan tâm đến những thân phận thấp hèn, nghèo túng, cô quả, đau yếu, bênh hoạn, sống bên lề xã hội. “Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu!… Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9, 12-13)
Cụ thể hôm nay, Đức Giêsu ân cần an ủi, nhắc nhủ cô Mácta, khi thân thương hai lần xướng gọi tên cô: “Mác-ta! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!”Người mời gọi Mácta thoát ra khỏi thói đời, bận rộn, lo toan, quá quan tâm đến vật chất, đến lương thực mau hư nát, mà vô tình quên đi lương thực trường sinh là Lời Chúa, là Thánh Ý Chúa. “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi”.
Ngài muốn giải phóng Mácta khỏi thói đố kỵ, ganh tương, so bì, hơn thiệt, tự tôn, tự đại khi phục vụ. Thường con người hay có khuynh hướng kiêu căng, vị kỷ, dẫu đang phục vụ, cũng muốn được phục vụ lại chính mình, muốn được nhìn nhận công nhận công trạng, cống hiến. Chứ không muốn âm thầm cho đi, lặng lẽ khiêm tốn phục vụ, vì lo áo gấm đi đêm, liệu có ai hay biết chăng. Vì thế, Đức Giêsu đã phải tha thiết cảnh báo: “Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Ðấng ở trên trời…” (Mt 6, 1)
Trong Chúa
Phục vụ trong Chúa thì luôn sẵn sàng bỏ mình, vác thập giá mà theo Người. Ngay trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã quỳ xuống, cúi mình rửa chân cho 12 môn đệ, dẫu rằng Người biết các ông sẽ lìa bỏ Người chịu cô đơn chống chọi giữa bầy sói, thậm chí Người còn biết cả kẻ phản bội, chối Người và bán Người cho quân dữ. Nhưng Người vẫn không hề phân biệt đối xử, không giận dữ, cũng không hề chua chát than thở, hay trách móc, mà vẫn chu đáo, vui vẻ rửa chân cho tất cả. Một thái độ từ bỏ mình tuyệt đỉnh dành cho những ai muốn theo Người, noi theo đến muôn đời.
Hơn nữa, khi phục vụ mà chịu thử thách, chịu đau khổ, chịu hành hạ, xách nhiễu, thì càng được nhiều phúc lành, như đệ bát phúc xác nhận: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” (Mt 5, 11-12)
“Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến, đó là cách con phục vụ họ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô.” (Đường HY Vọng, số 611)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn kết hiệp với Lời Chúa, nguồn sống dồi dào sung mãn. Đồng thời xin cũng dạy chúng con luôn sống quảng đại, luôn biết cho đi, dấn thân phục vụ tha nhân, như Chúa luôn yêu thương trao ban. Nhất là xin dạy chúng con biết từ bỏ bản thân, để chấp nhận khổ giá khi theo Chúa.
Khấn xin Mẹ Maria an ủi, cầu bầu và dìu dắt chúng con luôn biết cân bằng đời sống cầu nguyện và đời sống phục vụ, để chúng con có thể kín múc nguồn lực dồi dào từ Đức Giêsu Kitô, cung ứng dư đầy cho các hoạt động phục vụ Nước Chúa. Amen.
.
HAI CÁCH ĐÓN TIẾP CHUNG MỘT TÂM HỒN
Lm Uyen Nguyen
Theo hướng Giêrusalem, ĐGS cùng các môn đệ lên đường, có nơi từ chối (N 13), có nơi đón tiếp.
Hôm nay có lẽ là ngày hạnh phúc, ĐGS và các môn đệ, khi vào một làng, được tiếp đón. Luca ghi nhận: ‘ĐGS vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Matta đón Người vào nhà mình’ (c.29).
Ở đây ĐGS thực thi điều Người truyền dạy cho các môn đệ khi sai các ông ra đi, ở lại với chủ nhà đón tiếp và ăn những gì mà người ta dọn cho: ‘Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó’ (CN 14).
Gia đình đón tiếp Chúa vào nhà, có hai chị em. Luca nhận ra hai cách tiếp đón khác nhau. Chị là Matta đi ngay xuống bếp lo bữa. Em là Maria ngồi bên chân ĐGS tâm tình và nghe Người nói. Câu chuyện được Luca tường thuật đầy gợi ý.
Hai hình thức đón tiếp của hai mẫu người chưa thực sự hoàn hảo.
Khi mời ĐGS vào nhà, Matta xuống ngay nhà sau tất bật lo bữa ăn mà quên đi tất cả, ngay các câu chào nói thông lệ nhất. Em là Maria thì mãi miết ngồi bên chân Chúa để nghe Người nói mà chẳng để tâm tiếp tay chị lo việc phục vụ. Matta khó chịu thái độ của em vì bao việc phải một mình đảm đang nên trở lên đến gần bên ĐGS thưa với Người: ‘Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay’ (c.40).
Bài học được trao cho Matta xứng đáng với sự lo lắng bên ngoài của chị, trong khi khen ngợi Maria. Chúa nói: ‘Matta, Matta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy mất’ (c.41).
Matta khi quá lo việc phục vụ bữa ăn, mà quên đi ‘Người Khách’ của mình cần gì, muốn gì? Điều này gợi nhớ đến câu chuyện mà ĐGS cùng các tông đồ đến bờ giếng Giacob. Chúa một mình ở lại gợi chuyện với người phụ nữ Samari, khi các tông đồ chia nhau vào làng mua sắm thức ăn, trở lại mời Chúa dùng bữa, Người bảo các ông ‘Thầy đã có của ăn’. Của ăn của Người ở đây, no đầy nhất là linh hồn những ‘con chiên lạc’, ‘chiên yếu đuối’. Người giúp cho người phụ nữ Samari tự nhận ra mình và chạy nhanh vào làng kêu gọi mọi người cùng ra xem kìa: ‘Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao’? (x. Ga.4,7tt).
Còn Maria, ngồi miệt mài bên chân Chúa, có phải là thái độ ‘ngoan hảo’? Maria tuy được khen ngợi thái độ lắng nghe Lời Chúa dạy dỗ, theo giáo huấn ở một nơi khác: ‘Ai là mẹ và anh em tôi nếu không phải là những người nghe tôi nói đây’ (x.Mt..12,4tt), nhưng vẫn có gì đó làm nên bất toàn. Điều này không giống với vị tiền hô của Chúa, Gioan Tẩy Giả (x. Lc. 3,1-9)! Tuy ngài vào sống trong hoang địa chay kiêng kham khổ, nhưng sau đó lại ra đi làm phép rửa, rao giảng kêu gọi mọi người sám hối đón Đấng cứu độ, nghỉa là có lúc sống giây phút chiêm niệm mà cũng có khi ra đi hoạt động trong tinh thần phục vụ. Maria thì chỉ có ngồi bên chân Chúa lặng lẽ ngắm nhìn tiếp nhận những gì Chúa ban qua Lời Người, thiếu hành động. Kết hợp chiêm niệm với hành động tương tác để đi đến thống nhất là phương thức tối ưu trong việc dựng xây đời đạo đức.
Lại nữa với Matta, thái độ lăng xăng bên ngoài không được coi là nặng ký hay đầy giá trị mà cần kết hiệp thế nào, dung hòa sao đạt được một tổng hợp toàn vẹn nơi một người có xác lẫn tâm hồn, nghĩa là có chiêm niệm để gặp gỡ Đấng tối cao, mà không quên bên cạnh còn có người thân cận. Cũng như Maria, có điều không thể chối bỏ, ĐGS thường dạy: đón tiếp tha nhân là đón tiếp Chúa, cho một người cần sự giúp đỡ là làm cho chính Chúa đấy sao? Bài giảng ‘ngày phán xét’ làm bằng chứng nặng ký gởi cho Maria suy gẫm (x. Mt.25,21tt)?
Khi tường thuật câu chuyên về gia đình có hai chị em, Luca muốn kết hợp hai CN 15 qua và 16 nay kết nối làm nên nỗi bật hai giới răn cao trọng nhất: mến Chúa trên hết còn phải yêu thân cận như chính mình.
Nhìn lại, với kitô hữu hôm nay, nhất là trong trào lưu ăn khách lan nhanh, hưởng thụ, khuynh hướng len cả vào tận bên trong các giáo đường, bên trong bao tâm hồn kitô hữu Việt Nam, không trừ ảnh hưởng sâu đậm nơi nhiều kitô hữu thế giới. Người ta cố làm các việc đạo đủ cho riêng mình để lên trời. Đọc kinh, dự lễ, rước lễ, lần chuỗi, dẫu có làm việc thiện, nhất nhất cho đúng luật sống đạo mà giới hạn chỉ cho riêng tư mà không hề bận tâm dành thoáng chút tâm thức nhớ đến ai đó trong quay quắt hụt hẫng niềm tin và lòng đạo ngay cả đang hiện diện bên cạnh mình.
Xin tri ân Thánh Luca, vì ngài đã hướng dẫn con sửa lại khiếm khuyết tâm lý đạo đức độc chiều: chỉ biết ‘TÔI YÊU’ Chúa, còn ai mặc!
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT, Chúa đã yêu Cha trên trời mà còn hi sinh cho người trần thế! Xin hãy dạy con sống thực tâm điều mà Luca gợi lại để truyền đạt luật từ trong Cựu Ước bất biến xuyên qua thời đại Tân Ước: Yêu Chúa và yêu thân cận như chính mình.
.
Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
Một vị vua quyết định đi thăm dân. Có một gia đình tiếp vua bằng một bữa tiệc sang trọng. Chủ nhà vất vả lo dọn tiệc. Đến khi thức ăn được dọn, mọi người quá mệt, không còn hứng thú để nghe và kể cho vua nghe những gì vua cần biết.
Đến thăm nhà thứ hai,vua được cả nhà niềm nở đón tiếp. Dù chỉ có bữa ăn đạm bạc, nhưng mọi người đều quay quần bên vua, nói cho vua nghe những ước mơ của gia đình, của dân làng. Khi ra về, vua hài lòng với buổi gặp gỡ đúng như ý muốn.
Tương tự, Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho thấy hai thái độ tiếp khách của hai chị em Mattha và Maria đối với Chúa Giêsu. Cả hai đều tiếp đón Chúa nồng hậu, rất quý khách, yêu mến khách. Hai thái độ tiếp khách ấy đều đáng trân trọng. Nhưng Chúa Giêsu lại đánh giá cao thái độ của cô em, tức cô Maria, khi nói với chị Mattha: “Con lo lắng nhiều việc quá. Chỉ có mỗi một việc cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.
Hai thái độ tiếp khách của hai chị em là gì? Chị Mattha đon đả chuẩn bị cơm nước, tiệc tùng đãi khách. Còn em gái Maria luôn ở bên khách, lắng nghe khách nói. Thánh Luca cho biết: “Cô Maria cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Chúa dạy”. Ngồi bên chân chứ không phải ngồi ngang hàng. Ngồi bên chân Chúa, đón nhận từng lời của Chúa, đó là “phần tốt nhất”, không còn gì tốt hơn, mà cô Maria đã chọn.
Tuy nhiên, tôi không nghĩ, vì lời nói này mà Chúa đánh giá thấp việc phục vụ của chị Mattha. Tin Mừng không cho thấy chỗ nào Chúa chê bai chị. Làm sao có thể chê bai được đối với một người quý khách đến nỗi trở nên bận rộn vì khách. Hơn nữa, làm sao có thể chê bai, khi đó là việc phục vụ tận tình, tận lực của một người. Đúng hơn, tôi nghĩ câu nói: “Con lo lắng về nhiều việc quá…”, là lời trách yêu, Chúa dành cho chị Mattha. Tôi lại càng khẳng định mạnh hơn, đó là lời trách yêu khi biết rằng, chính vì yêu Chúa nhiều, Mattha mới có thái độ tiếp đón nồng hậu đến vậy!
Nói gì thì nói, từ hai thái độ tiếp khách của Mattha, Maria, và thái độ đáp trả của Chúa Giêsu, bạn và tôi phải chân nhận rằng: điều Chúa muốn là ta hãy đề cao Lời của Người trên hết mọi sự, trước khi lo việc đời hãy lo việc đạo. Trước khi vất vả vì sự sống thân xác, vì miếng cơm manh áo, hãy vững tin vào Chúa, phó thác đời mình cho Chúa. Trước khi mưu cầu danh vọng, giàu sang, mạnh mẽ…, hãy hướng tới tương lai đích thực là sự sống vĩnh hằng nơi Thiên Chúa. Trước khi suy nghĩ, trước khi có bất cứ hành vi nào, hãy quy chiếu vào Lời Chúa mà tra vấn chính suy nghĩ và hành vi ấy của mình. Tắt một lời: Trên hết mọi sự, Lời Chúa phải là lẽ sống của người Kitô hữu.
Thái độ của hai chị em Mattha, Maria và thái độ đáp trả của Chúa Giêu còn dạy ta hãy quân bình đời sống thường nhật với trách nhiệm Kitô hữu. Vì sự quân bình ấy rất quan trọng, giúp ta sống ơn gọi nên thánh ở giữa đời. Một mặt, ta không thể không làm lụng vất vả tạo ra cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng cũng không vì thế, biến mình thành kẻ suốt ngày chỉ “cơm-áo-gạo-tiền”, quên mất Thiên Chúa, quên mất nghĩa vụ làm người con thảo hiếu với Cha trên trời. Vì sự sống thân xác không bao giờ là lý do cho phép ta vịn vào ngụy biện cho lối sống nguội đạo, lạnh nhạt đức tin. Mặt khác, ta cũng không được nại vào sự cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa, dạy hay học giáo lý… mà quyên bổn phận thánh hóa lao nhọc khi phải sống vất vả giữa đời.
Cuộc đời này cần có những Mattha và rất cần những Maria. Đúng hơn, chính bản thân bạn và tôi phải vừa là Mattha, nhưng cũng vừa là Maria. Nghĩa là biết quân bình giữa lao động và cầu nguyện.
Ngay cả khi vì cuộc sống, ta trở nên mỏi mệt nhất, chán chường nhất, nếu biết luôn gắn bó với Chúa bằng đời sống cầu nguyện, và có thói quen dâng lên chúa những tâm sự của riêng mình, chính lúc ấy, những giới hạn ấy của thân xác sẽ trở nên hoa trái cứu độ tuyệt vời.
Vì giá trị của lao nhọc trở nên lớn lao như thế trong đời sống cầu nguyện, bạn và tôi hãy cầu nguyện liên lỉ. Hãy ở bên Chúa không ngơi nghỉ bằng chính sự cầu nguyện, ngay cả khi ta đang làm việc lẫn lúc dành cho Người một thời gian thích hợp trong từng ngày sống như: khi đọc kinh, lần chuỗi, viếng Thánh Thể, cầu nguyện riêng hay chung trong gia đình, đọc và suy niệm Lời của Người, khi dâng thánh lễ, khi lãnh bí tích…
Biết làm việc và biết cầu nguyện, ta đã làm quân bình đời sống Kitô hữu của mình. Chính khi sống được như thế, chúng ta đang tiến lên trong ơn gọi nên thánh mà Chúa Kitô hằng mời gọi mình.
Mẹ Têrêsa thành Calcutta thích làm việc, và rất đam mê cầu nguyện. Khi còn sống, mỗi ngày, Mẹ phải giải quyết một số lượng công việc vô cùng lớn. Nhất là Mẹ quá bận rộn vì tha nhân và các việc bác ái, nhưng không bao giờ bỏ các giờ đọc kinh, cầu nguyện.
Ban sáng, Mẹ dậy sớm cầu nguyện một giờ đồng hồ. Trước khi làm việc gì, Mẹ đều bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Nhất là những công việc càng khó khăn bao nhiêu, càng vượt quá sức mà Mẹ phải giải quyết, Mẹ càng cầu nguyện nhiều hơn, sốt sắng hơn. Trong các công tác của mình, cũng như trong khi đang làm việc, Mẹ đều hiến dâng cho Thiên Chúa.
Nếu Mẹ Têrêsa không liên hệ chặt chẽ với Chúa như vậy, chắc chắn số lượng công việc quá lớn, sẽ làm Mẹ chán nản lắm, mệt mỏi lắm, do đó sự bực tưc, gắt gỏng cũng không phải là ít.
Ngược lại, chính nhờ sự cầu nguyện, Mẹ được nối kết với nguồn sức mạnh tối cao của Thiên Chúa. Vì thế, mọi người nhìn nhận rằng Mẹ trở nên hiền lành, nhân từ, khiêm nhu, rộng lượng, rất đáng yêu…
Bởi vậy, từ thái độ của hai chị em Mattha, Maria và thái độ đáp trả của Chúa Giêsu, đến gương của Mẹ Têrêsa, cho ta hiểu rằng, ơn cứu rỗi không tùy thuộc vào số lượng công việc đã làm, nhưng chỉ tìm thấy nó trong mối liên hệ và hiện diện giữa ta với Chúa cùng đồng loại quanh mình, khi làm việc và cầu nguyện mà thôi. Vì thế, bạn và tôi hãy sống như có Chúa đang hiện diện với mình trong công việc, trong sự cầu nguyện, và hãy sống như mình đang sống trong Chúa qua mỗi bước đi, nụ cười, lời nói, hành vi… thường nhật của mình.
Hãy là Mattha giữa đời thường và hãy là Maria khi mang lấy đời thường ấy đến với Chúa!
.
Dã Quỳ
Trong cuộc sống, để hiểu một người, nhất là người mình yêu thương, và làm theo ý muốn, ý thích của người đó quả là không dễ chút nào! Với con người đã khó, đối với Thiên Chúa lại càng khó hơn nhiều. Làm thế nào chúng ta có thể hiểu và biết ý muốn của Thiên Chúa được nếu như ta không lắng nghe. Có ở bên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và hiểu được thánh ý Chúa, chúng ta mới biết chọn điều Chúa muốn và hành động thế nào cho đúng, cho đẹp lòng Chúa. Vậy ta cùng ngồi xuống với chị Maria để học lắng nghe và rồi ta cũng biết chọn lựa điều Chúa muốn và là phần tốt nhất cho mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Trên đường lên Giêrusalem, Chúa bất ngờ dừng lại, ghé vào nhà chị em Matta. Đến mái nhà Bêtania, Chúa như cảm thấy thân thiện, hài lòng vì có những người bạn chân thành. Thế nên, ngay lập tức cô Matta nồng nhiệt chuẩn bị một bữa ăn xứng đáng để tiếp đãi người bạn của gia đình: “Cô Matta thì tất bật lo việc phục vụ.” Như một thói quen, cô hối hả làm việc… Trái lại, Maria em cô lại an nhiên tự tại ngồi bên chân Chúa để lắng nghe, sẻ chia tâm sự…”Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy.” Bữa ăn chưa có sẵn nên cô Matta cần làm xong và hẳn là cô chẳng hài lòng khi em cô không phụ giúp! Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nói với Matta “Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!” Và Người đánh giá cao thái độ của em cô.
Khi đón tiếp khách vào nhà, chúng ta thường bận rộn chú trọng đến những món ăn, những khung cảnh, nơi chốn để tiếp mà dường như ta hay quên đi chính vị khách và những tâm tình của khách. Cô Matta có biết Thầy Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để đi chịu chết hay chăng? Đã hai lần Thầy tiên báo về cuộc Thương Khó rồi! Cô có hiểu tâm trạng của Thầy bây giờ như thế nào không? Biết bao nhiêu lời vu khống và chống đối bủa vây, tâm hồn Thầy đang buồn sầu vì biết những gì sắp xảy ra! Bước vào mái nhà của cô, Chúa muốn tìm sự cảm thông, an ủi, lắng nghe và như được trở về chính mái ấm yêu thương của Người. Thế mà Matta cứ tất bật lo chuyện ăn uống! Cô lo lắng cho Chúa và cũng yêu Chúa nhưng theo ý riêng của cô. Cô chưa hiểu Chúa và làm theo điều Chúa muốn!
Điều Chúa muốn nơi Matta, Maria và tất cả chúng ta là trở thành môn đệ của Chúa. Và thái độ đầu tiên của người môn đệ là lắng nghe lời Chúa dạy, là biết dùng thời giờ để ở bên Chúa, nghe Chúa và nói với Chúa. Chúng ta có thể trở nên môn đệ của Chúa với khả năng lắng nghe và rao giảng Lời Chúa.Từ nay, cả những phụ nữ cũng có thể đạt được “Phần tốt nhất” chứ không chỉ lo việc bếp núc nấu ăn trong nhà theo truyền thống. Dẫu rằng chúng ta vẫn cần ăn và hôm ấy chắc chắn Chúa cũng dùng những món ngon mà cô Matta nấu. Nhưng Chúa muốn chúng ta xác định việc nào quan trọng hơn. Chúng ta chọn Chúa hay chọn công việc của Chúa? Yêu Chúa hay yêu công việc của Chúa ?
Chiêm niệm và hoạt động như hai mặt của đồng xu, được đan quyện vào nhau làm nên sứ mạng của người môn đệ Chúa Kitô “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng.“(Mc 3,14) Thế nhưng chúng ta hay bị cám dỗ lao theo sứ mạng rao giảng và hoạt động mà lãng quên đời sống cầu nguyện. Có những hoàn cảnh cần ta hành động, phục vụ nhưng dù thế, chúng ta cũng đừng bao giờ quên phần tốt nhất và quan trọng hơn là trở về bên Chúa, là cầu nguyện, lắng nghe để ta biết được thánh ý Chúa.
Nhiều khi chúng ta cho rằng lao động là cầu nguyện và rồi ta bỏ những giờ kinh nguyện tĩnh lặng bên Chúa mà chỉ lo hoạt động bên ngoài. Thật nguy hiểm với quan niệm này! Dẫu rằng trong khi lao động, ta vẫn có thể hướng lòng lên Chúa, kết hợp với Chúa, nhưng như thế chưa đủ để ta kín múc được nguồn năng lực và ân sủng từ Chúa. Những công việc, những tổ chức và hoạt động ta làm với ý hướng ban đầu rất tốt là theo ý Chúa, vinh danh Chúa, nhưng nhiều khi trong thực hiện, ta lại quên mất Chúa mà chỉ lo làm theo ý mình và làm vinh danh cá nhân mình. Nếu như đời sống của chúng ta luôn được cân bằng với hai chiều kích chiêm niệm và hoạt động, khi ấy chắc chắn ta sẽ yêu Chúa, tìm thực thi ý Chúa và ý thức việc ta làm là công việc phục vụ Chúa và Giáo Hội. Để rồi kết quả có thành công hay thất bại, ta vẫn bình an vì đã hết lòng chọn điều Chúa muốn và làm theo ý Chúa, ta sẽ không sợ nguy hiểm , không ngại rủi ro nhưng một lòng tín thác vào Chúa.
Chỉ một lần ngồi bên chân Chúa, lắng nghe Lời Người dạy, đã làm cho cô Maria trở thành người biết chọn phần tốt nhất và trở nên tông đồ của Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Chắc chắn cô không chỉ nghe mà còn vâng giữ Lời Chúa, vì “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.”(Ga 14,23a) Khi chúng ta lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, ta sẽ được Chúa Cha thánh hiến (Ga 17,17) Chính ở bên chân Chúa mà ta biết được ý muốn của Chúa để vâng giữ. Và khi đó, ta đã làm cho lời hứa của Chúa được hiện thực “Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.“(Ga 14,23b) Nơi tâm hồn những ai lắng nghe Lời Chúa, chọn điều Chúa muốn và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ luôn hiện diện, yêu mến và chúc lành. Ước mong sao mỗi người Kitô hữu chúng ta luôn biết thao thức lắng nghe lời Chúa dạy và tìm hiểu điều Chúa muốn ta làm là gì, để rồi ta biết làm theo ý Chúa, biết phục vụ trong tình yêu với những khả năng Chúa ban để làm vinh danh Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thích những giờ nguyện cầu bên Chúa và xin hãy dạy chúng con biết chọn điều Chúa muốn, yêu điều Chúa yêu và hết lòng làm những việc tốt theo thánh ý Chúa. Amen.
.
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
“Chỉ có một sự cần mà thôi”. Chúa Giêsu quả quyết như thế. “Sự cần” ấy thể hiện qua hình ảnh Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu mà nghe lời Chúa.
Ngày nay, chúng ta cũng phải làm như Maria, thực hiện “Sự cần” ấy suốt đời mình. Đó chính là lắng nghe Lời Chúa, là uống lấy từng lời Chúa dạy, là nỗ lực làm cho Lời Chúa chi phối lẽ sống, là để cho Lời Chúa điều khiến mọi hành vi, mọi lời nói, mọi biểu cảm của mình.
Lời bài hát “Xin cho con biết lắng nghe…” là lời quen thuộc. Nội dung bài hát vừa là lời nài xin, nhưng cũng vừa thể hiện niềm ý thức của người tín hữu về sức mạnh cần thiết của Lời Chúa.
Vì ý thức ấy, ta xin Chúa cho mình biết lắng nghe Lời Chúa trong đêm tối, lắng nghe Lời Chúa giữa những lúc lẻ loi. Đêm tối hay lẻ loi có thể là những lúc đối mặt với thử thách, những lúc tâm trí ngậm ngùi vì đau khổ. Nhưng cũng có thể là những lúc ta cần khoảng không gian cô tịnh, khoảng vắng tách biệt mọi ồn ào, mọi lo nghĩ để lắng nghe Lời Chúa, để thẫm thấu Lời Chúa.
Nhưng đồng thời, ta cũng xin cho mình biết lắng nghe Lời Chúa giữa cuộc sống. Cuộc sống là những nụ cười hay tiếng khóc, là lúc thăng hay lúc trầm, là lúc khỏe mạnh hay yếu đau, lúc thành công hay thất bại, lúc bị phản bội hay được đón nhận, lúc nhận ra sự yêu đương hay lòng thù hận…
Nếu Chúa nói với ta trong tĩnh mịch, thì Người cũng không ngừng lên tiếng giữa những êm ả hay tất bật, giữa những ồn ào đầy bôn ba chật vật. Người vẫn lên tiếng bên ta trong mọi khoảnh khắc, mọi thời gian. Hiện diện của Chúa là hiện diện đầy. Người hiện diện bền bỉ, liên lỉ.
Như vậy Lời Chúa vang lên mọi nơi, mọi lúc. Ta lắng nghe Chúa là lắng nghe qua từng thời gian, từng biến cố, từng hoàn của mình, hay của bất cứ ai, bất cứ nơi nào mà ta có mặt hay tham dự vào. Ta xin Chúa hãy dạy ta, hãy làm cho ta được sống theo thánh ý Chúa, sống theo Lời của Chúa.
“Chỉ có một sự cần mà thôi”. Hãy xem đó là lời xác tín suốt cuộc đời làm người của ta. Bởi ai chăm chú lắng nghe Chúa, ai xác tín chỉ có Lời Chúa là “sự cần” duy nhất trong đời mình, người đó sẽ tìm thấy hạnh phúc, sẽ cảm nếm ngọt ngào, dù phải đi cùng những sóng gió, trắc trở. Dẫu phải trải qua gian nan, họ sẽ chiến thắng và gặt hái những hoa trái của ơn thánh, hoa trái của sự thánh thiện.
Sách Sáng thế ghi lại câu chuyện vợ chồng Tổ phụ Abraham – Sara, đã phải đau khổ nhiều vì mong mỏi, cả đến thèm khát một đứa con, nhưng nhiều chục năm qua, sự thèm khát ấy đã nên mỏi mòn, vô vọng.
Vậy mà một lần, Vợ chồng Tổ phụ đã đón nhận ba người khách lạ, chính là Thiên Chúa hiện thân. Khi vợ chồng Tổ phụ mở rộng cửa nhà, cũng chính là lúc ông bà mở toan cõi lòng đón tiếp và lắng nghe ba người khách lạ. Ông bà có ngờ đâu, mình đã đón tiếp và lắng nghe Thiên Chúa của mình.
Từ đây, ơn Chúa làm nên những hoa trái kỳ diệu trong cuộc đời ông bà. Không ai tưởng tượng nổi, từ lòng dạ son sẻ và từ niềm hy vọng đã héo hon, lại có thể sinh con. Biến cố ấy trở thành biến cố lớn của lịch sử cứu độ. Bởi Lời Thiên Chúa hứa về một dòng dõi “đông như sao trời, như cát biển” đã từ lâu lắm, nay thành hiện thực. Và việc cụ già sinh con, trở thành điều kỳ diệu. Đứa con của lời hứa ấy lại là bình minh cho một dân tộc vĩ đại sau này.
Mọi thứ trong cuộc đời (hoàn cảnh, sức khoẻ, gia đình, đất nước, sứ mệnh…) đều có thể thay đổi. Nhưng Lời Chúa muôn đời bền vững. “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mt 24,35). Chính Chúa Giêsu khẳng định như thế.
“Chỉ có một sự cần mà thôi”. Hãy như vợ chồng Tổ phụ Abraham, luôn sẵn sàng để Chúa nói, sẵng sàng lắng nghe tiếng Chúa. Bởi Lời Chúa dạy cũng chính là sự thể hiện Thánh ý Chúa định hướng cuộc đời ta, giúp ta sống, làm quân bình cho tinh thần, là la bàn định vị lối sống đạo đức, là niềm an ủi, là nguồn sống, niềm vui, bình an, hy vọng… trọn một đời Kitô hữu.
“Chỉ có một sự cần mà thôi”. “Sự cần” ấy đã là, đang là và sẽ là điểm cốt lõi xác nhận con người, con đường cuộc sống, niềm tin, giá trị, sứ mệnh… của người tín hữu.
Không ai có thể vẽ biểu đồ cuộc sống và niềm tin của chúng ta cho chúng ta, hoặc cho biết chính xác điều Thiên Chúa muốn ta làm và những quyết định ta cần phải thực hiện khi theo Người. Chỉ có Lời Chúa, chỉ có một sự cần mà thôi, sẽ là chìa khóa để mỗi người mở ra cánh cửa thiêng thánh ấy.
Vì thế, lắng nghe tiếng Chúa là cách thức thắp đèn sáng giúp bản thân nhận rõ hơn hướng đi mà Chúa đã định cho mình. Thánh Kinh luôn luôn khẳng định điều ấy khi cho biết:
“Lời Chúa hứa lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung… Muôn lạy Chúa, lời Ngài bền vững đến ngàn đời, trên cõi trời cao… Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi… Giải thích lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường” (Tv 119, 11.89.105.130).
“Hãy quay về nghe lời Ta sửa dạy. Này Ta luôn để thần khí Ta trên các ngươi, khiến các ngươi hiểu rõ lời Ta dạy bảo” (Cn 1, 23).
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4).
“Lời Chúa là Thần Khí và là Sự Sống… Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống… Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì cách ông thật là môn đệ tôi, các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 4, 24. 6,63. 8, 31-32).
“Có đức tin, là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô… Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được phép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó, chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 10, 17. 15, 4).
Nếu chúng ta không có hoàn cảnh để thỉnh thoảng, rút lui vào cuộc sống cô tịch, thì ít ra, những giờ phút đọc Lời Chúa trong gia đình, khi cử hành Lời Chúa trong thánh lễ, những giờ phút cầu nguyện…, phải trở thành thời gian hữu ích, thời gian bổ dưỡng tinh thần bằng chăm chú lắng nghe, chăm chú suy gẫm, hay cố bắt lấy một ý, một câu của Lời Chúa trong giờ cử hành ấy. Để rồi sau đó, trở về với cuộc sống, trong tâm tình thờ phượng, chúng ta chìm lắng trong Chúa, nghiền ngẫm trong Lời của Chúa.
Hoặc mỗi khi bị khủng hoảng, ta nhanh chóng quay về với Chúa Giêsu, Đá Tảng của mọi thời đại, đặt tâm tư của mình bên Chúa. Hãy để Chúa nói. Hãy thinh lặng hoàn toàn để nghe tiếng Chúa.
Hãy mở Kinh Thánh ra để suy niệm bất cứ một đoạn Lời Chúa nào. Hãy xin Chúa lên tiếng và sáng soi cho ta hiểu tiếng Chúa nơi bản văn Kinh Thánh ấy. Hãy luôn xác tín: “Chỉ có một sự cần mà thôi”. Đó là nghe và sống Lời Chúa.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Sách Samuel có kể câu chuyện vua Đavit và toàn thể Israel rước Hòm Bia Thiên Chúa về Giêrusalem. Đi tới sân lúa nhà ông Nakhon, bò bỗng trượt chân. Ông Utda giơ tay đỡ lấy Hòm Bia của Đức Chúa. Vì tội đó mà Đức Chúa phạt ông chết tại chỗ. Thấy vậy ông Đavit sợ quá, không muốn rước Hòm Bia Thiên Chúa về nữa, nên gởi ở nhà ông Ôvêt Êđôm, ở đó, Thiên Chúa ban phước lành cho ông và nhà ông. Người ta báo tin cho vua Đavit hay, thế là vua Đavit tổ chức rước Hòm Bia về thành của mình, để Thiên Chúa hiện diện với mình, để Thiên Chúa ban phước lành cho nhà mình; nói cách khác Đavit muốn được sống với Chúa, như Chúa đã từng sống với ông Ôvêt Êđôm.
Lời Chúa trong Chúa Nhật 16 TN C hôm nay cũng cho chúng ta thấy việc sống gắn bó với Chúa là điều tốt đẹp nhất.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Câu chuyện trong sách sáng thế này làm nổi bật lòng hiếu khách của tổ phụ Apraham. Chính nhờ lòng hiếu khách đó mà ông đã không ngờ rằng mình đón tiếp sứ giả của Thiên Chúa. Để đáp lại lòng hiếu khách của ông, Đức Chúa đã cho hai vợ chồng ông đứa con trai, mặc dù hai ông bà đã già nua. Phần thưởng lớn lao cho những người đón tiếp Chúa là những điều mình không thể ngờ được. Tuy nhiên điều mà Apraham làm không phải để được điều này điều nọ, nhưng chính là lòng tốt của ông muốn đón tiếp mọi người. Gương tổ phụ Apraham cho chúng ta nhớ đến phúc thứ bốn của kinh thương người có 14 bốn mối: Thứ bốn cho khách đỗ nhà. Sâu xa của việc đón tiếp người khác chính là được đón tiếp Chúa hiện thân qua từng con người mình gặp gỡ trong cuộc sống hằng ngày, vì: “Bất cứ điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”.
Thánh vịnh 14 thuộc thể loại giáo huấn, nhằm trả lời cho câu hỏi: “Ai được Chúa cho vào ngụ trong nhà Chúa?” Câu trả lời là những người tốt, những người biết sống theo lề luật, giới răn của Chúa. Hay nói ngắn gọn lại là những người muốn sống với Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay rất rõ ràng. CG đóng vai chính, bước vào nhà của hai chị em Matta và Maria. Ai cũng thương Chúa hết và mỗi người thể hiện qua một việc. Matta thì lăng xăng lo phục vụ Chúa về chuyện ăn uống, ngủ nghỉ. Maria thì lo phục vụ Chúa qua việc rửa chân cho khách theo phong tục của người Do Thái. Chính vì vậy mà cô có điều kiện để ngồi dưới chân Chúa, hỏi thăm Chúa điều này điều điều nọ, được nghe Chúa nói chuyện.
Chẳng có gì xảy ra nếu Matta không lên tiếng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo em con giúp con một tay”. Matta tưởng rằng việc phục vụ của mình là quan trọng nhất, nên bắt người ta cũng phải làm như mình vậy. Sâu xa của vấn đề là Matta muốn được chú ý, muốn được khen ngợi trong hành động phục vụ của mình. Thay vì kêu Maria “tiếp chị đi con!”, CG đã nói cho Matta biết điều nào là quan trọng nhất.
Mới đọc qua đoạn Tin Mừng này, chúng ta lầm tưởng CG đề cao lối sống chiêm niệm, cầu nguyện của Maria, đồng thời chê bai thái độ phục vụ của Matta. Ý của CG là dù chiêm niệm hay hoạt động đều phải sống với Chúa để nghe tiếng Chúa, để thực hành lời Chúa.
Như vậy phụng vụ lời Chúa ngày hôm nay cho chúng ta thấy những con người tiếp rước Chúa: Apraham, Matta, Maria. Điều Chúa muốn là không phải chúng ta làm gì cho Chúa, nhưng là biết sống với Chúa.
II. SỐNG VỚI CHÚA
Linh mục, nhạc sĩ Thái Nguyên viết bài hát mà nhiều người yêu thích: “Sống với Chúa, qua từng giây phút trong cuộc đời, trong niềm vui nỗi buồn mọi nơi, trong tình yêu khi đầy khi vơi”. Từng giây phút trong cuộc đời, cả khi chúng ta làm việc, nghỉ ngơi, cầu nguyện… mọi tâm trạng trong cuộc sống, khi buồn, khi vui… mọi hoàn cảnh trên đường đời, khi thành công, khi thất bại… chúng ta đều được mời gọi sống với Chúa.
Mỗi người một ơn gọi khác nhau. Điều đó được thể hiện qua sự phong phú của các dòng tu. Có dòng chiêm niệm, suốt ngày chỉ đọc kinh cầu nguyện. Có dòng hoạt động, ưu tiên cho việc bác ái, phục vụ… Mỗi người một hoàn cảnh khác nhau. Ví dụ tôi ở nơi thanh vắng, trên núi đồi, trong rừng vắng, ở nơi ít người… Hoặc có người ở phố thị ồn ào, náo động… Mỗi người một tâm tính khác nhau. Có người thích nhìn cảnh hoàng hôn, có người thích cảnh xe cộ, người người qua lại… Tất cả những ơn gọi, những hoàn cảnh, những tâm tính đó đều được mời gọi sống với Chúa. Tựu trung lại có hai hình thức trong cuộc sống, đó là hoạt động và chiêm niệm
Trong hoạt động chúng ta được mời gọi sống gắn bó với Chúa, kẻo những hoạt động của chúng ta chỉ là những thứ ồn ào, không giá trị gì cả. Chúng ta buôn bán suốt ngày, nhưng hãy ý thức trong công việc làm ăn mình thể hiện tư cách là người con cái Chúa đê làm ăn buôn bán cho thành thật. Chúng ta lái xe suốt ngày, nhưng chúng ta có ý thức trên mỗi bước đường chúng ta đi có bàn tay Chúa nâng đỡ hay không? Chúng ta làm ở công ty, xí nghiệp 8 tiếng mỗi ngày, nhưng chúng ta có ý thức để dâng lên Chúa từng hành động, từng công việc của mình không? Nói tóm lại trong mọi hoạt động, dù làm gì, ở đâu, chúng ta đều được mời gọi sống với Chúa.
Một người công giáo nọ nhờ là thương binh, nên sau một thời gian làm trong xí nghiệp, ông được đề bạt giữ chức giám đốc. Người ta thấy ông giám đốc thương binh này sáng sáng đạp xe đến nhà thờ dự lễ, rồi uống cà phê mới đến chỗ làm; chiều chiều sau khi tan sở ông ghé ngang đài Đức Mẹ lần chuỗi, tối tối ông quy tụ gia đình con cái lại để đọc kinh tối gia đình. Trong công ty ông có vài người công giáo, ông gặp riêng họ và dặn dò: “Tụi mày là người công giáo, nên tụi mày phải gương mẫu hơn những người khác. Đứa nào mà lấy lý do bận đi làm, bỏ ngày Chúa Nhật là tao đuổi việc luôn”. Đấy, trong hoạt động người ta vẫn gắn bó với Chúa được!
Tuy nhiên trong chiêm niệm người ta sẽ dễ gắn bó với Chúa hơn, đó là điều không thể nào chối cãi được. Nghĩa là khi người ta để lòng mình không bị những ồn áo náo động bên ngoài lôi kéo, lúc đó người ta sẽ được quy hướng về Đấng là trung tâm cuộc đời người ta.
Chúng ta dễ dàng bắt gặp những người cố thoát ra khỏi những ồn ào, náo động của cuộc sống để tìm về với Chúa trong chiêm niệm. Ví dụ những cuộc tĩnh tâm hằng tháng, hằng năm. Ví dụ sau một tuần làm việc, người ta tổ chức đi hành hương. Sau một năm mệt mỏi người ta đi du lịch, nghỉ ngơi. Hoặc khi gặp những khó khăn, những bất trắc, người ta rời khỏi hoàn cảnh của mình để tìm đến nguồn an ủi của Chúa… Trong chiêm niệm người ta dễ gắn bó với Chúa hơn.
Như một vườn hoa muôn màu muôn sắc, mỗi một sắc hoa đều tô điểm cho đời, mỗi một hương hoa đều cho đời thi vị,… thì việc hoạt động và chiêm niệm như những bông hoa trong vườn hoa của Giáo Hội, miễn là làm sao chúng ta biết gắn bó với Chúa để Chúa muốn chúng ta hoạt động như thế nào, Chúa muốn chúng ta chiêm niệm ra làm sao. Đó là sự thánh thiện của những vị thánh. Đó là sự thánh thiện mà Chúa muốn những người con cái Chúa: Sống với Chúa.
“Xin cho con được sống với Chúa, để đời con luôn thắm tươi, đem niềm vui phúc ân cho người. Xin cho con được sống với Chúa, để đời con luôn tươi mới, mang an bình hạnh phúc mọi nơi”
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta không bao giờ biết khi nào Chúa sẽ thăm viếng chúng ta. Có khi Chúa thăm viếng chúng ta qua những tư tưởng tốt lành hay sự nhận biết rõ ràng chúng ta không cô đơn. Có khi Chúa đến qua những giây phút chúng ta cảm thấy bình an trong tâm hồn, hay qua những người tốt lành thánh thiện, hay trong những người cần đến chúng ta. Và dĩ nhiên Chúa đến khi cuộc sống trần thế của chúng ta chấm dứt.
Trong bài đọc 1 hôm nay, Chúa đến với ông A-bra-ham qua 3 người khách lạ, và đã được ông thiết đãi một cách thân mật và ân cần. Thật tình lúc đầu A-braham đã không biết mình đang tiếp đón chính Thiên Chúa. Nhưng sau khi nhận biết Chúa đến viếng thăm ông để ban cho ông và người vợ là Sa-ra một ơn sủng mà ông bà hằng cầu mong là một đứa con trai. Qua ân sủng đặc biệt này, A-braham nhận ra vai trò trở ngược, ông chỉ là tạo vật, được Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình đến thăm viếng, và ban cho ông bà một ân sủng đặc biệt là đứa con trai nối dõng tông đường. Bài đọc một hướng dẫn chúng ta đón nhận bài Tin mừng qua câu truyện Chúa Giê-su được hai chị em Mát-ta và Maria tiếp đón vào nhà mình, và được Chúa ban cho lời sự sống.
Cách đây không bao lâu tôi gặp lại một người bạn cũ lâu năm, và sau khi thăm hỏi, chúng tôi nói chuyện với nhau một lúc thật lâu. Anh là một người Công giáo và tuy đã biết, nhưng rất ngạc nhiên tôi trở thành linh mục. Sau đó chúng tôi nói chuyện với nhau về cầu nguyện. Tôi chia sẻ với anh về một cách cầu nguyện của tôi mà tôi cảm thấy thích hợp và hiệu nghiệm từ khi là linh mục đến nay. Ngoài việc đọc kinh thần vụ, khi cầu nguyện, tôi nói với anh, tôi luôn hình dung có Chúa hiện diện ngồi cùng bàn, bên cạnh, trước mắt, hay cùng đi bộ và cùng trò truyện. Tôi nói với Chúa tất cả những gì trong tâm tư như tôi đang thật sự nhìn thấy Ngài trước mắt. Và tôi tin một cách vững chắc Chúa luôn luôn hiện diện mọi lúc trong cuộc sống. Qua sự biểu lộ trên gương mặt, tôi biết đây là lần đầu tiên anh nghe được cách cầu nguyện này, lần đâu tiên ý tưởng này xuất hiện trong đầu của anh. Anh nói với tôi “Tôi không biết phải nói gì nếu Chúa Giê-su đến nhà tôi, muốn thăm tôi trong chốc lát.” Tôi nói với anh “Anh chỉ cần nói với Chúa những gì trong đầu óc của anh thôi, nói với Chúa như nói với một người bạn hiền, hay một người bạn tốt.” Và tôi đề nghị với anh cố gắng dành 10 phút trong ngày và thử cầu nguyện như vậy một thời gian. Từ đó tới nay, tôi chưa nghe anh cho biết phương cách đó có thích hợp với anh không, nhưng tôi tự hỏi và muốn biết có bao nhiêu người cảm thấy thoải mái và tự nhiên cầu nguyện bằng cách này.
Dĩ nhiên, như ông bà anh chị em biết, có nhiều cách cầu nguyện như đọc và suy gẫm Kinh thánh, lần chuỗi, đọc kinh, đọc sách các thánh, đọc Thánh vịnh, hay cầu nguyện trước Thánh Thể. Tuy nhiên cách cầu nguyện ngoại lệ, không theo cách thức nào chỉ ngồi tâm sự và trao đổi những suy nghĩ, những ưu tư, lo lắng với Chúa, hay cảm tạ, tri ân Ngài, hay chỉ ngồi im lặng lắng nghe trong sự hiện diện của Chúa, là một ơn sủng rất to lớn cho chính tôi. Và tôi thú nhận tôi thực hành phương cách cầu nguyện này mọi ngày, dù muốn hay không, và đó cũng là lời khuyên của các bậc thánh nhân, những người viết sách đạo đức và tinh thần, và luôn luôn là một sự tốt đẹp. Và đó cũng là lời Chúa Giê-su nói với Mát-ta liên quan đến việc bà Maria làm, ngồi dưới chân Chúa và lắng nghe lời Ngài trong bài Tin mừng hôm nay “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất.”
Ông bà anh chị em thân mến. Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, một nhà thông luật đến hỏi Chúa Giê-su “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Và để trả lời, Chúa đã kể cho ông nghe câu truyện người Samarita nhân hậu bày tỏ tình yêu thương một cách quảng đại với tha nhân. Và có thể, chủ đích của thánh Lu-ca cho chúng ta nghe câu truyện hai chị em Mát-ta và Maria là để chúng ta hiểu sâu sa hơn về câu trả lời của Chúa Giê-su. Cuộc sống của người Ki-tô hữu tin theo và yêu mến Chúa là làm những việc tốt lành và trở nên người tốt lành, nhưng cũng còn có một điều quan trọng khác là sự liên hệ mật thiết với Chúa. “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi,” đây là câu trả lời hoàn toàn cho câu hỏi “Thưa Thày, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Yêu mến Chúa là kết hợp mật thiết với Chúa để được sự sống đời đời.
Như chúng ta biết rõ ràng, hai chị em Mát-ta và Maria có một sự liên hệ rất thắm thiết với Chúa, và mặc dầu thánh Lu-ca không cho chúng ta biết, nhưng chúng ta biết hai chị em sống trong thành phố Bét-tha-ni, cách thành phố Giê-re-sa-lem vào khoảng dặm. Nhà của hai chị em là nơi Chúa hằng đến thăm viếng mỗi khi mệt nhọc trong khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng, và cũng thường ngụ lại mỗi khi Chúa lên Giê-ru-sa-lem trong những dịp lễ lớn đông người. Chúng ta có thể hình dung Chúa nở một nụ cười và nói “Mát-ta, Mát-ta.” Một lời đáp trả thật thân thương. Và trong lời nói với bà “có một sự cần mà thôi” Chúa không ý ám chỉ những nhu cầu cần thiết cho đời sống như ăn và uống là không quan trọng. Nhưng có một sự cần thiết hơn những công việc mà Mát-ta thật sự đang phục vụ cho những người khách được thoải mái, là sự quá lo lắng về nhiều thứ, lấy mất thời giờ quí báu để lắng nghe lời Chúa và để tâm sự với Chúa. Mát-ta đang làm những việc rất tốt lành, nhưng đây là thời điểm phải chậm lại để lắng nghe lời sự sống. Và chúng ta cũng nhận thấy một điều khó có thể tưởng tượng là Maria, một người mà Tin mừng thánh Gioan cho chúng ta biết rất yêu mến Chúa, cố tình trốn tránh bổn phận công việc phục vụ Chúa và dồn hết mọi công việc cho chị Mát-ta. Và tôi nghĩ rằng Mát-ta biết và hình dung ra còn có một sự kiện quan trọng hơn phải đến và sẽ đến sau tất cả những công việc phải làm để phục vụ cho khách, và đó chắc chắn là điều mà Chúa Giê-su muốn ám chỉ.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu truyện hai chị em Mát-ta và Maria có nhiều điều quan trọng muốn chỉ dạy chúng ta liên quan đến đời sống Ki-tô hữu chúng ta hôm nay. Chúng ta muốn làm những điều tốt lành, nhưng một điều tốt lành chúng ta phải làm là phải cố gắng làm cho cuộc sống chúng ta chậm lại, để có thời giờ cầu nguyện, lắng nghe lời của Chúa, lời ban sự sống và những ơn lành hồn xác cho chúng ta, và đó cũng là việc chúng ta đang làm trong thánh đường hôm nay. Vì vậy, chúng ta cùng dâng lời cảm tạ Chúa đã dẫn và sẽ đến thăm viếng chúng ta trong Thánh lễ này. Xin Chúa giúp chúng ta biết trân quí sự thăm viếng của Chúa, để được Chúa ban ơn, thêm sức.
.
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
(38) Trong khi Thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mácta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria. (39) Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. (40) Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” (41) Chúa đáp: “Mácta ! Mácta ơi ! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều việc quá ! (42) Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
– C 38-39: + Trong khi Thầy trò đi đường vào làng kia: Đức Giêsu vào làng Bêtania, cách Thủ đô Giêrusalem 3 cây số. + Có một người phụ nữ tên là Mácta: Đây là chị cả trong một gia đình có ba chị em. Mácta chưa lập gia đình, vì nếu đã có chồng thì người chồng đã đứng ra tiếp đón Đức Giêsu. Là chị cả nên Mácta phải đảm đương mọi việc. Bà lo dọn bữa ăn phục vụ Đức Giêsu và các môn đệ. + Đón Người vào nhà: Người Do thái vốn hiếu khách. Đức Giêsu không những là khách mà còn là bạn thân của gia đình (x. Ga 11,5). Thái độ tiếp đón này trái với thái độ dân làng Samari trước đó đã từ chối không đón tiếp Người (x. Lc 9,53). Trong thời điểm những ngày cuối đời, việc đón tiếp Đức Giêsu của Mácta còn là hành động can đảm. Vì khi ấy Người đang bị các đầu mục Do thái theo dõi, và ai đón tiếp Người sẽ bị coi là đồng đảng và có thể bị khai trừ ra khỏi hội đường nữa (x. Ga 9,22 ; 12,10.42). + Người em gái tên là Maria: Đây là Maria làng Bêtania, khác với Maria làng Mácđala (x. Lc 8,2), cũng không phải là Maria thân mẫu Giacôbê và Giôsép (x. Mt 27,56), không phải Maria mẹ của Gioan (x. Cv 12,12). Cô Maria là em của Mácta, là chị của Ladarô. Chính cô đã hy sinh bình dầu đắt tiền để xức chân Đức Giêsu (x Ga 12,3). Cần phân biệt cô Maria này với người phụ nữ tội lỗi cũng xức dầu thơm trên chân Đức Giêsu (x Lc 7,38). Cả 3 chị em nhà này đều được Đức Giêsu yêu mến (x. Ga 11,5). + Ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Người dạy: Trong Luca, ngồi dưới chân là thái độ của người môn đệ (x. Lc 8,35 ; Cv 22,3)
– C 40-42: + Em con để mình con phục vụ…: Mácta luôn tỏ ra quí mến Đức Giêsu và quan tâm phục vụ Người (x. Ga 12,2). Cô không hài lòng khi thấy cô em Maria nhàn nhã ngồi bên và lắng nghe lời Thầy đang khi cô phải vất vả lo dọn bữa ăn cho Người. Do đó cô đã yêu cầu Đức Giêsu cho Maria xuống bếp giúp cô một tay. + Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi: Chuyện cần thiết duy nhất này là gì ? Đó là điều cô em Maria đang làm: “Ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”. Đức Giêsu không đánh giá thấp việc nội trợ bếp núc của Mácta. Nhưng việc tìm biết thánh ý Thiên Chúa lại là điều duy nhất cần thiết. Hơn nữa, Lời Chúa là của ăn tinh thần nên có giá trị cao hơn của ăn vật chất như Người đã nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4) và “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1) GƯƠNG CẦU NGUYỆN CỦA MỘT NHÀ BÁC HỌC.
PHÊĐÊRIC ÔDANAM (Federic Ozanam), một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19, khi đang là sinh viên đại học đã trải qua một cơn khủng hoảng về đức tin. Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh vào một ngôi thánh đường ở Pari. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện ở hàng ghế đầu gần gian cung thánh. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra đó không ai khác hơn là nhà bác học ĂMPE (Ampère), giáo sư của anh, một nhân vật nổi tiếng lúc bấy giờ. Anh đứng lặng lẽ một hồi để quan sát nhà bác học khi ấy đang cầu nguyện rất sốt sắng. Sau đó, anh theo gót thầy trở về phòng làm việc của ông. Thấy chàng sinh viên đứng thập thò ngòai cửa, nhà bác học liền mở lời hỏi: “Này anh bạn trẻ, anh cần gì đó ? Tôi có thể giúp gì được cho anh đây ?” Chàng thanh niên nhỏ nhẹ thưa: “Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm. Hôm nay con xin hỏi thầy một vấn đề về đức tin !” Nhà bác học mỉm cười khiêm tốn đáp: “Anh lầm rồi. Đức tin là môn yếu nhất của tôi đấy. Nhưng nếu giúp được anh điều gì thì tôi cũng sẵn sàng”. Chàng sinh viên liền hỏi: “Thưa giáo sư, người ta có thể vừa là một nhà bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu đạo đức siêng năng cầu nguyện hay không?” Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh học trò. Sau một lát im lặng, ông trả lời bằng một giọng run run đầy cảm xúc: “Con ơi ! Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi !”.
2) GƯƠNG CẦU NGUYỆN CỦA MỘT VỊ TỔNG THỐNG :
Trong tác phẩm SỐNG HẠNH PHÚC của Tổng Gíam Mục Fulton J. Sheen có một nhân chứng đương thời với Tổng thống Hoa Kỳ Ápbraham Lanhcôn, kể lại rằng ông ta đã có thời gian ba tuần lễ sống chung với A. Lincoln ngay sau khi trận đánh Bull Rull kết thúc :
“Đêm ấy tôi không ngủ được. Tôi bèn thử dợt lại những gì sẽ phải nói trước công chúng sáng hôm sau. Đã quá nửa đêm, đúng ra là gần hừng đông. Và tôi nghe có tiếng thầm thì trong phòng Tổng Thống ngủ. Cửa phòng hé mở. Theo bản năng. Tôi bước lại gần và thấy một cảnh không thể nào quên được. Tôi thấy Tổng Thống quì bên một cuốn Kinh Thánh đang mở. Ánh sáng trong phòng chỉ vừa đủ. Ngài quay lưng về phía tôi. Tôi đứng lặng một lúc, quá đỗi bàng hoàng và kinh ngạc. Rồi tôi nghe Tổng Thống cầu nguyện :
“Lạy Chúa, Chúa đã nghe lời cầu khấn của Salômon trong đêm khuya, để xin cho được ơn khôn ngoan. Xin Chúa nhậm lời con đây, con không thể dẫn dắt dân tộc này nếu Chúa không ra tay giúp đỡ con. Con là kẻ nghèo hèn và tội lỗi. Lạy Chúa, Chúa đã nhậm lời cầu xin của Salômon, xin hãy nghe lời con nài van mà cứu lấy đất nước này!”
3) TẦM QUAN TRỌNG CỦA CẦU NGUYỆN KHI GẶP GIAN NGUY :
Trong cuộc khảo thí tại trường sĩ quan trẻ, vị Thiếu tá giám khảo hỏi một chuẩn uý :
– Trong một cuộc hành quân, đơn vị do anh chỉ huy rơi vào tình huống này: Phía trước và hai bên đơn vị của anh bị quân đich vây chặt, chúng chặn cả lối rút lui của anh, có nghĩa là đơn vị anh bị bao vây gọn, lúc đó anh sẽ xử trí như thế nào?
Mọi con mắt của Ban Giám Khảo đổ dồn về phía anh sĩ quan trẻ, anh suy nghĩ một lát rồi đứng nghiêm trả lời :
– Thưa Thiếu tá và Ban Giám Khảo, tôi sẽ hạ lệnh: CẦU NGUYỆN.
Tất cả Ban Giám Khảo nhìn nhau bỡ ngỡ, không ai nghĩ tới câu trả lời như thế. Viên Thiếu tá vỗ vai anh sĩ quan trẻ và nói:
– Anh hãy nhớ xử lý đúng như lời anh vừa nói nhé !
1) CHỈ CÓ MỘT CHUYỆN CẦN THIẾT MÀ THÔI :
Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem chịu khổ nạn, Đức Giêsu đã ghé làng Bêtania và vào trọ trong nhà người bạn thân là anh Lagiarô (x Lc 13,22). Chính trong ngôi nhà này Đức Giêsu đã cho thấy tầm quan trọng của sự cầu nguyện là ngồi bên chân Chúa và tâm sự với Người.
– “Thầy không để ý tới sao ?”: Mácta đã tỏ thái độ không hài lòng trước sự thờ ơ của Đức Giêsu và của cô em Maria khi cô này để mặc cô phải phục vụ bữa ăn một mình. Cô nhờ Đức Giêsu nhắc cho Maria hãy giúp đỡ cô. Trong câu trả lời, Đức Giêsu cho biết đâu là thái độ Người muốn (c 41). Đức Giêsu không bác bỏ việc vất vả làm bữa phục vụ Người của Mácta, nhưng Người muốn cô nhận ra đâu mới là việc tốt nhất và cần thiết nhất để có Nước Thiên Chúa làm phần sản nghiệp của mình. Khi nhận xét về thái độ của Mácta, Đức Giêsu dùng từ “nhiều chuyện”, nghĩa là quá lo lắng về việc phục vụ bữa ăn cho Người.
– “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi” : Đức Giêsu không chê trách thái độ phục vụ của cô chị Mácta, vì đó là dấu cho thấy lòng mến mà cô đã dành cho Người. Tuy nhiên, qua thái độ của cô em Maria, Đức Giêsu nhìn thấy một tâm tình cao đẹp hơn. Đó là lắng nghe lời Người, đặt Người làm trung tâm cuộc đời của mình. Ở đây, Đức Giêsu muốn dùng Maria làm mẫu gương cho các tín hữu chúng ta hôm nay. Tuy đang sống giữa trần gian, phải tất bật lo tìm kiếm cái ăn cái mặc giống như cô Mácta, nhưng chúng ta cũng phải biết dành thời giờ để cầu nguyện, bằng việc lắng nghe lời Chúa và tâm sự với Người như cô Maria đã làm.
2) ĐỨC GIÊSU NÊU GƯƠNG CẦU NGUYỆN :
Sách Tin Mừng đã ghi nhận gương cầu nguyện của Đức Giêsu như sau :
– Sau khi chịu phép rửa tại sông Giođan, Đức Giêsu đã khởi đầu cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng kéo dài 3 năm bằng cách lên núi ăn chay và cầu nguyện suốt 40 ngày đêm (x. Mt 4,2b), để cầu xin Chúa Cha chúc lành cho công việc Người sắp thực hiện.
– Người cũng dạy môn đệ tránh phô trương, nhưng cầu nguyện nơi kín đáo (x. Mt 5,4-6).
– Lời cầu nguyện của các tín hữu phải vắn gọn như kinh Lạy Cha (x. Mt 4,7-14).
– Đức Giêsu đã nêu gương cầu nguyện với Chúa Cha trước khi làm phép lạ nhân bánh ra nhiều như Tin Mừng Mátthêu viết: “Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông” (Mt 14,19).
– Đức Giêsu khuyên các môn đệ hiệp thông cầu nguyện : “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp nhau lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,19-20).
– Trước cuộc tử nạn, Đức Giêsu cũng cầu nguyện với Chúa Cha (x. Mt 26,36-46).
– Tin Mừng Gioan đã ghi lại lời cầu nguyện của Đức Giêsu dài 26 câu trong đoạn 17.
– Trên thánh giá trước khi tắt thở, Đức Giêsu đã dâng lên Chúa Cha lời nguyện cuối cùng: “Thế là đã hoàn tất ! Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19,30)…
3) VỀ SỰ CẦU NGUYỆN TRONG CUỘC SỐNG NGƯỜI TÍN HỮU:
– Các gương sáng về sự cầu nguyện : Đầu tiên là nhà bác học AMPE, tên đầy đủ là André Marie Ampère (1775–1836), một nhà vật lý lừng danh người Pháp, đã để lại nhiều thành quả nghiên cứu khoa học như về điện học, nam châm điện… mang lại ích lợi cho nền văn minh nhân loại. Thế nhưng, Ampe không coi những thành quả đó là lớn lao khi nói với chàng sinh viên rằng : “Chúng ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện mà thôi”. Tiếp đến là Mẹ Têrêsa thành Canquýtta nước Ấn độ, một vị nữ tu thánh thiện sống giữa đời thường. Mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Canquýtta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đến “nhà hấp hối” để an ủi những kẻ đau liệt, Mẹ Têrêsa đều cùng các chị em nữ tu trong nhà đến quì chầu Thánh Thể tại nhà nguyện một giờ đồng hồ.
– Ích lợi của sự cầu nguyện : Ngày nay, trong một thế giới thực dụng, coi trọng hiệu quả bề ngoài, Hội thánh đang có nhiều Mácta nhưng lại có ít Maria. Nhiều người đã coi việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện là xa xỉ, là mất thời giờ vô ích, là ù lì thụ động. Nhưng thực ra có hành động nào hiệu quả bằng nghe và thực hành Lời Chúa ? Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với tha nhân. Vậy tại sao chúng ta lại không múc đầy tình yêu nơi Chúa Giêsu là suối nguồn yêu thương vô tận. Cho dù hoạt động truyền giáo, từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cũng đừng quên “chọn phần tốt nhất” này. Hãy nhớ Lời Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
– Cần phải cầu nguyện : Đôi tay của cô Mácta lo bữa ăn cho Đức Giêsu là một việc quan trọng và không thể thiếu để phục vụ Chúa về phần thể xác. Nhưng đôi chân quì bên Chúa và đôi tai lắng nghe Lời Người của cô Maria lại còn quan trọng và cần thiết hơn vì nó mang lại sự sống đời đời như lời Đức Giêsu nói hôm nay : “Maria đã chọn phần tốt nhất” (Lc 10,42).
– Tập thói quen cầu nguyện mọi lúc mọi nơi : Hội thánh sẽ trở nên quân bình khi có các hoạt động phục vụ và cầu nguyện của cả hai cô Mác-ta và Maria. Một tín hữu sẽ sống quân bình khi vừa chu tòan các việc bác ái tông đồ phục vụ Chúa và tha nhân, nhưng đồng thời luôn có lối sống cầu nguyện hiệp thông với Người. Đừng đợi tới khi rảnh việc mới đến tìm gặp Chúa, vì chính khi đang bận rộn làm việc lại là lúc chúng ta cần được Chúa nâng đỡ hơn cả.
TÓM LẠI: Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta thống nhất đời sống: Trong một ngày, chúng ta thường chỉ dành một ít phút cho việc cầu nguyện dâng lễ, còn phần lớn thời gian còn lại, chúng ta dành cho các sinh hoạt khác. Dù vậy, chúng ta vẫn có thể biến mọi sinh hoạt đời thường như: ăn uống, ngủ nghỉ, học tập, làm việc… kia trở thành một lời cầu nguyện liên lỉ, bằng việc dâng ngày mỗi sáng khi vừa thức giấc, rồi dâng những lời nguyện tắt lên Chúa trước mỗi công việc… Qua đó, chúng ta sẽ biến những việc làm ấy trở thành lễ vật hy sinh, kết hiệp với lễ vật cao trọng là Mình Máu Chúa Giêsu đang được dâng trên các bàn thờ ở khắp nơi trên thế giới mỗi ngày, và sẽ có được sự sống đời đời như lời Chúa đã hứa.
– LẠY CHÚA GIÊSU. Khi con bị bao vây bởi những tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng bên Chúa. Khi con vất vả với trăm công nghìn việc, xin cho con biết quý trọng những phút giây được an nghỉ bên lòng Chúa. Khi con bị kéo ghì bởi những đam mê dục vọng, xin cho con được ơn giải thoát và hướng lòng trí lên cao nhờ biết kêu cầu Danh Chúa.
– LẠY CHÚA. Ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần trong cuộc sống đời thường của con, để con có thể cầu nguyện không ngừng như lời thánh Phaolô : “Vậy, dù ăn, dù uống, hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn