Các bài Suy niệm Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời
Lời Chúa : Kh 11,19a;12,1-6a.10ab; 1Cr 15,20-27; Lc 1,39-56.
Đức Maria là người được chúc phúc, không chỉ vì Mẹ là người đã lắng nghe Lời Thiên Chúa, mà còn vì Mẹ đã đem Lời Chúa ra thực hành. Khi đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa vào lòng của mình, Mẹ đã không giữ Ngôi Lời lại cho riêng mình mà vội vàng đem Chúa đến cho người khác.
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh, chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria, hồn xác lên trời. Mẹ lên trời, mang lại cho chúng niềm hy vọng, cậy trông và đầy ủi an, vì Mẹ đi đâu thì chúng ta cũng đi đó.
Nhưng tại sao Đức Mẹ lại được đặc ân cao cả như vậy? Bởi cứ theo lẽ thường, thì sau khi nguyên tổ phạm tội, tất cả loài người đều phải chịu đau khổ và cuối cùng phải chết. Thân xác của chúng ta, khi kết thúc cuộc đời này, phải hư nát đi, đợi chờ ngày phán xét trong cuộc phán xét chung thẩm. Nhưng đối với Đức Mẹ, trong niềm tin của chúng ta, thân xác Mẹ đã không bị hủy diệt, vì Mẹ được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Phải chăng vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa? Phải chăng vì Mẹ đã được ơn vô nhiễm nguyên tội ngay từ lúc đầu thai? Phải chăng vì Mẹ là Đấng trọn đời đồng trinh? Hay phải chăng Mẹ đã đồng công cứu chuộc cùng với người Con chí thánh của mình là Đức Giêsu Kitô?
Vâng, đúng như vậy. Nhưng hôm nay, Tin Mừng theo thánh Luca còn cho chúng ta biết thêm một lý do quan trọng nữa. Sở dĩ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác là vì Mẹ là Đấng đã vâng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa.
Mẹ là mẫu gương lắng nghe Lời Thiên Chúa
Bài đọc thứ nhất được trích trong sách Sử Biên Niên, nói về việc vua Đavít cho triệu tập toàn dân lại, và tổ chức một cuộc rước kiệu hòm bia Thiên Chúa thật linh đình. Cùng với nhà vua, còn có những người đứng đầu các thầy Lêvi, các ca viên, nhạc công, với đàn sắt, đàn cầm, thanh la não bạt. Đoàn rước tiến đi trong tiếng đàn ca hoan hỉ cùng tiến về Lều Hội Ngộ – là nơi đặt Hòm Bia. Họ vừa đi vừa hát: “Lạy Chúa, xin lên đường tới nơi an nghỉ. Chúa và Hòm Bia oai quyền Chúa cùng đi”. Hòm Bia giao ước là chiếc hòm được chạm trổ công phu, trong đó có chứa 2 tấm bia giao ước có ghi 10 điều răn mà Thiên Chúa đã truyền cho dân của Ngài qua trung gian là Môsê. Đối với Itraen, sự hiện diện của Hòm Bia giao ước cũng chính là sự hiện diện của Giavê Thiên Chúa. Đó cũng là niềm tự hào của dân Chúa chọn, bởi vì xung quanh Itraen, không có vị thần nào lại trực tiếp ở với dân của mình. Quả thật, còn gì hạnh phúc hơn khi được Thiên Chúa ở cùng.
Đức Trinh Nữ Maria cũng được nhìn nhận là Hòm Bia Thiên Chúa, như chúng ta vẫn đọc trong kinh cầu Đức Bà: “Đức Bà là Hòm Bia Thiên Chúa”. Sở dĩ chúng ta tuyên xưng như vậy, là vì Đức Mẹ là người đã cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô trong cung lòng của mình. Kể từ lúc Mẹ nói lời xin vâng khi sứ thần Thiên Chúa truyền tin, thì cung lòng của Mẹ trở nên Hòm Bia cho Thiên Chúa ngự vào.
Khi xuống thế làm người, Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chọn một người Mẹ cao sang, quyền quý, nhưng đã chọn Đức Maria, một tì nữ thấp hèn, trong ngôi làng nhỏ bé Nazaret. Tại sao vậy? Thưa bởi vì Mẹ đã lắng nghe lời Thiên Chúa. Cũng như biết bao thiếu nữ Dothái khác, Mẹ cũng biết rõ lời ngôn sứ Isaia loan báo 8 thế kỷ trước đó: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”. Nhưng Mẹ không bao giờ nghĩ là mình lại chính là “thiếu nữ đầy ơn phúc ấy”. Chẳng thế mà khi thiên thần Gabriel truyền tin, Mẹ hết sức ngỡ ngàng: “Việc đó xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến người nam?”. Sau khi nghe thiên thần giải thích, Mẹ đã hiểu rằng, Mẹ đang được mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa và Mẹ đã cúi đầu thưa “Xin vâng” với tất cả sự khiêm tốn và lòng tin tưởng thiết tha: “Này tôi là nữ tì của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Nếu không là người thường xuyên suy gẫm Lời Chúa, chắc hẳn khó lòng mà hiểu ngay ra được đâu là chương trình và ý định của Thiên Chúa.
Mẹ là mẫu gương thực hành Lời Thiên Chúa
Đức Maria là người được chúc phúc, không chỉ vì Mẹ là người đã lắng nghe Lời Thiên Chúa, mà còn vì Mẹ đã đem Lời Chúa ra thực hành. Khi đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa vào lòng của mình, Mẹ đã không giữ Ngôi Lời lại cho riêng mình mà vội vàng đem Chúa đến cho người khác như Tin Mừng theo thánh Luca đã thuật lại: Trong những ngày ấy, Đức Maria vội vã lên đường đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, để gặp bà chị họ Êlisabet, khi ấy đang có mang được 6 tháng. Mẹ đã ở đó giúp bà chị họ cho tới khi “Mẹ tròn con vuông”.
***
Mừng lễ Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời hôm nay, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy nhìn lại đời sống của mình xem chúng ta đã biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa hay chưa?
Trên một tấm bia mộ cổ của một người Công Giáo đạo đức có ghi đôi câu đối: “Tin không việc làm, đức tin chết. Sống chẳng yêu thương, cuộc sống tàn”. Quả thật, chủ đề “Lắng nghe và thực hành Lời Chúa”, có thể chúng ta đã nghe đến nhàm tai; nhiều người chép miệng: “ôi dào, biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.
Vâng, từ xưa tới nay, tôi và anh chị em đã từng tự hào mình là người có đạo, chúng ta đã nghe Lời Chúa rất nhiều, nhưng trong giáo xứ, đây đó vẫn có những tranh giành, vẫn có những gia đình chưa được hòa thuận, vẫn có những gian lận trong làm ăn, vẫn có những bất công trong việc hành xử với anh chị em cùng xóm làng, cùng xứ đạo. Liệu như vậy, có phải chúng ta đang thực hành Lời Chúa dạy ?
Chúng ta tự hào rằng: mình vẫn đi nhà thờ, vẫn đọc kinh, tham dự Thánh Lễ, nhưng đôi khi lại thiếu bác ái với anh chị em của mình.
Chúa nói: “Ai nghe và thực hành Lời Chúa thì như người khôn biết xây nhà trên đá”. Còn chúng ta, mặc dù tin vào Đức Ki-tô, nhưng trong cuộc sống thực tế, chúng ta lại xây ngôi nhà cuộc đời của mình trên những thứ cát như tiền tài, quyền lực, danh vọng…
Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã khẳng định: “Ngày nay, người ta cần những chứng nhân hơn là những nhà giảng thuyết. Sở dĩ người ta nghe lời những nhà giảng thuyết bởi vì người ta đã thấy họ sống chứng nhân”. Thánh tông đồ Giacôbê Tông đồ cũng đã từng nói: “Bạn hãy chứng minh cho tôi thấy đức tin không có việc làm của bạn. Còn tôi, bằng việc làm, tôi sẽ chứng minh cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2, 18). Chúng ta nghĩ gì về lời mời gọi đó?
“Lạy Chúa, từ trước tới nay, chúng con vẫn thường tự hào mình là người có đạo, chúng con đã nghe Lời Chúa dạy rất nhiều, nhưng lại chưa đem ra thực hành. Nhiều lần chúng con ngại ngần, nhát đảm, không dám làm chứng cho Chúa qua việc làm chứng cho sự thật, cho những điều thiện khiến cho nhiều người vì chúng con mà mất niềm tin vào Chúa.
Nguyện xin Chúa, qua lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, giúp chúng con kể từ đây, thống nhất giữa lời nói và việc làm; để mai ngày, khi đến trước tòa Chúa, chúng con sẽ vui mừng nhận được lời chúc phúc của Chúa: “Phúc cho anh em là những người đã lắng nghe và thực hành Lời Chúa”. Amen.
Trong dịp hành hương Đất Thánh, chúng tôi có đến Nhà Thờ Thăm Viếng, nơi có tượng Đức Mẹ ngũ. Từ Nhà Thờ kính Thánh Gioan Tẩy Giả tại En Kerem, đi bộ một đoạn đường khá xa, lên một dốc cao rồi bước thêm đúng 66 bậc thang mới đến Nhà thờ. Từ trên ngọn đồi nhìn xuống thung lũng xa xa, quê hương Thánh Gioan Tiền Hô đẹp như một bức tranh mờ trong sương sớm.
Nhà Thờ dâng kính cuộc thăm viếng của Đức Mẹ. Khi nghe tin bà Isave mang thai, Đức Mẹ đã vượt đường sá xa xôi đến thăm và giúp đỡ. Từ Nazarét về tới En Kerem đường xa lắm, chừng 90 km và rất nhiều trắc trở hiểm nguy. Mẹ đã thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm đặc biệt đến người chị họ Isave. Nơi đây, bài Magnificat đã được viết trên tường bằng nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt Nam.
Sau kinh cầu nguyện trong Nhà Thờ Thăm Viếng, chúng tôi đi xuống tầng hầm, mỗi người thành kính quỳ gối lần hạt trước tượng Đức Mẹ ngủ. Nhìn Đức Mẹ thánh thiện ngủ giấc bình an, ai cũng cảm động nguyện cầu khấn xin. Nhiều người thổn thức bên Mẹ.
Theo truyền thống xa xưa, Đức Mẹ không chết, mà chỉ ngủ một giấc, rồi Chúa đưa Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác.
Phụng vụ đã cử hành ngày qua đời của Mẹ dưới nhiều tên gọi: Dormitio (an giấc), Depositio (an táng), Transitus (qua đời), Natalis (ngày sinh vào Nước Chúa). Tất cả những danh từ đó được dùng để nói tới cái chết của Đức Mẹ. Tiếng “assumptio” (bởi động từ assumere; sumere: cất lấy; ad: kết hợp, đoàn tụ), lúc đầu, ám chỉ việc linh hồn Mẹ được đưa vào vinh quang của Chúa (giống như các thánh); về sau, từ ngữ này được dùng để chỉ việc Mẹ được cất về trời. Giáo hội phân biệt hai từ ngữ ”ascensio” áp dụng cho Chúa Giêsu vì Ngài lên trời do quyền năng riêng, còn “assumptio” áp dụng cho Mẹ để nói rằng Mẹ được Chúa đưa về trời.
Tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời được Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố vào ngày 1.11.1950: “Sau khi đã mãn cuộc đời dưới đất, Đức Maria được đem về trời cả xác hồn”.
Vào thế kỷ 19, có một luồng thần học chủ trương rằng Đức Maria không phải chết và xin Đức Thánh Cha hãy định tín như vậy. Họ cho rằng Đức Maria không mắc tội nguyên tổ, nên không phải chết bởi vì sự chết là hình phạt của tội nguyên tổ. Tuy nhiên đa số các nhà thần học cho rằng Đức Maria đã chết và sau đó được sống lại. Đức Piô XII không bàn tới vấn đề này, không nói rằng Mẹ không phải chết, cũng chẳng nói Mẹ đã chết và đã sống lại; nhưng chỉ nói rằng: sau khi chấm dứt cuộc đời dương thế, Mẹ được cất về trời cả xác và hồn.
Nhìn Đức Mẹ ngủ, tôi thấy sáng lên vẻ đẹp thánh thiện cao quý. Mẹ tuyệt đẹp vì Mẹ đầy ơn Chúa. Mẹ đẹp thánh thiện vì ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ đẹp cao quý vì làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Hôm nay, Giáo hội mừng kính Đức Maria được khải hoàn bước vào quê hương Nước Trời.
Bầu khí phụng vụ đượm sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh. Từ đây, Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất, là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này, chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Giáo Hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Isave.
Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Đức Mẹ được lên trời hồn xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời, cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa.
Hồn xác lên trời là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho Mẹ. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là ”Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất, là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Trong bài giảng tại Thánh địa La Vang ngày 15/8/2007, Đức Tổng Giám Mục Huế đã suy niệm: Đức Mẹ lên trời sau khi đã đi qua hết mọi nẻo đường đời của một người bình thường nghèo khó: nẻo đường không nơi trú ngụ; phải sinh con trong hang đá Bêlem; nẻo đường lánh cư sang Ai Cập đầy tiếng khóc than của các bà mẹ mà những đứa con thơ vô tội bị vua Hêrôđê sát hại; đường vào tiệc cưới Cana có tiếng vui cười của thực khách và đôi tân hôn; đường lên núi Calvariô, có tiếng nguyền rủa, tiếng búa đóng đinh của các lý hình; đường loan Tin mừng Chúa Phục Sinh và đường thẳng lên trời hồn xác trong tiếng reo vui của đất trời, của thần thánh, của loài người. Đức Mẹ đã sống thánh giữa đời, đã nên thánh qua những chặng đường vui, đường sáng, đường thương, đường mừng.
Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng đang đi lại những chặng đường của Đức Mẹ: có cả vui, sáng, thương, mừng. Chúng ta lần hạt, tràng chuỗi nơi tay, miệng thầm thỉ, lòng kết hiệp với các mầu nhiệm vui mừng và đau thương của Đức Mẹ. Chúng ta cũng lần hạt một cách thiết thực nữa trong cuộc sống hằng ngày, mà tràng chuỗi và những hạt chuỗi giờ đây, chính là những hạt mồ hôi, những giọt nước mắt, những khổ đau, những oan ức…, và cũng chính là những tiếng vui cười, những tia hy vọng, những niềm hân hoan… Đó là tràng chuỗi sống, đi đôi với việc đọc kinh lần hạt suy niệm của chúng ta.
Đức Mẹ được vinh hiển hồn xác trên trời là hình ảnh và là khởi đầu bảo đảm cho tương lai của chúng ta sau nầy cũng sẽ được như vậy, miễn là bây giờ chúng ta biết noi gương Mẹ mà sống thánh giữa đời, qua những chặng đường vui, sáng, thương, mừng của cuộc sống (x. LG 68).
Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”. Kể từ lời tuyên bố trong thánh lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.
Chỉ trong một lời tuyên tín ngắn gọn và quan trọng để tuyên bố một tín điều, Đức Thánh Cha Piô XII đã liệt kê cùng lúc đầy đủ bốn đặc ân vô cùng cao cả, ngoài Đức Maria không ai có được. Đó cũng là bốn chân lý tuyệt đối của lòng tin thuộc về đời sống và nhân đức của Đức Maria mà mỗi người Kitô hữu phải tin:
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963- 975, kể ra 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
Mẹ đầy ơn phúc, được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Ngày lễ hôm nay với sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh. Từ đây Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ được Lên Trời Hồn Xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là ”Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Giáo hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Isave.
Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả…Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Ngày lễ hôm nay, Giáo hội mừng kính một tạo vật đầu tiên, Mẹ Maria đã được khải hoàn và bước vào quê hương thiên quốc. Thánh Kinh ca tụng Mẹ: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ” (Dc 6,10); “Có một điềm lớn xuất hiện trên trời : một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1)…
Mẹ “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung”. Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu.Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. “Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG số 69).
“Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Mẹ Lên Trời, trong hạnh phúc tuyệt vời, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại. “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLCG số 969).Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở; với niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, tin yêu phó thác nơi lòng thương xót Chúa.
Hôm nay mừng Mẹ Lên Trời.
Ngày mai đến lượt mỗi người chúng ta.
Maria, Thầy dạy đức tin
Trong một đan viện nọ, có hai tu sỹ ngồi đàm đạo để cùng giúp nhau thăng tiến về đời sống thiêng liêng. Họ mở Kinh Thánh ra và cùng nhau chia sẻ. Đoạn Kinh Thánh được đọc lên, trích trong Tin mừng Luca chương 15, nói về dụ ngôn đứa con hoang đàng. Câu chuyên khá dài với nhiều tình tiết. Gấp sách lại, cả hai thinh lặng cầu nguyện và trao đổi. Một đan sĩ lên tiếng “Tôi không hiểu tại sao thằng bé này lại bỏ nhà đi hoang. Nó có một gia đình khá đầy đủ về vật chất. Hơn nữa, nó còn có một ông bố yêu thương nó hết lòng. Vậy tại sao nó lại thoát ly gia đình ?”. Suy nghĩ một lát, vị đan sĩ kia lên tiếng “Đứa bé này bỏ nhà đi bụi, vì trong ngôi nhà ấy vẫn vắng bóng một người mẹ”.
May mắn, chúng ta có một người Mẹ tuyệt vời là chính Đức Maria. Người vừa là hiền mẫu, vửa là Thầy dạy đức tin và cũng là đấng phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin trần thế. Mừng lễ Mẹ lên trời hôm nay, Giáo hội cũng nhắc nhớ chúng ta hướng về người mẹ thiêng liêng và tuyệt diệu này. Đồng thời, chúng ta cũng nhìn về Đức Maria như là khuôn mẫu đức tin để noi theo.
Ý nghĩa mầu nhiệm Mẹ lên trời hồn xác.
Năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã công bố tín điều này. Đây là tín lý thuộc đức tin mang tính thần khải và Công giáo. Giáo hội xác tín chân lý ấy dựa vào nhiều lý chứng.
Trước hết, bởi vì Mẹ là thụ tạo vượt trổi, đã được Chúa giữ gìn khỏi lây nhiễm tội lỗi. Tội tổ tông không để lại âm hưởng gì nơi Mẹ, đồng thời Thiên Chúa cũng gìn giữ mẹ luôn mãi vẹn tuyền. Ngay từ ban đầu, Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Ngài phó trao cho Mẹ những đặc sủng tương thích với sứ vụ cao cả này. Thân xác Mẹ cho dù có phải nếm trải sự chết giống như Đức Giêsu, nhưng thân xác vẹn tuyền đó không thể bị hủy hoại. Vì vậy Giáo hội xác tín rằng sau khi chết, Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Thứ đến, cuộc đời của Mẹ đã gắn kết chặt chẽ với Đức Giêsu. Đức Giêsu đã phục sinh và lên trời. Mẹ cũng vậy. Phần thưởng nước trời dành cho Mẹ như một hệ quả tất yếu của sự hiệp thông vẹn tròn với Đức Giêsu.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy ngay từ những trang đầu tiên, Kinh Thánh đã nói đến sự chiến thắng của người nữ trên con rắn. Người nữ đạp dập đầu con rắn và con rắn rình cắn gót chân bà. Người phụ nữ này là hình tượng chỉ về Hội thánh, về Đức Maria, về những con người sống hiệp thông chặt chẽ với Đức Giêsu trong nhiệm cục cứu độ. Cũng tương tự, người nữ trong sách Khải Huyền đã chiến thắng con rồng đỏ, cũng ám thị về Đức Maria và về toàn thể Giáo hội.
Giáo hội công bố tín điều này để mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như khuôn mẫu đức tin. Mẹ chính là Thầy dạy Đức tin cho chúng ta.
Thầy dạy đức tin.
Sau khi Chúa về trời, Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ. Tin mừng Gioan chỉ tóm gọn trong một câu ngắn: “Từ lúc ấy, môn đệ đem Mẹ về nhà mình (Ga 19,27). Sách Tông đồ Công vụ chỉ duy nhất một lần nói về sự hiện diện của Đức Maria giữa các tông đồ khi cầu nguyện tại Giêrusalem trong dịp lễ Ngũ Tuần. Sau đó, Chúa Thánh Thần đậu xuống trên các tông đồ và trên Đức Mẹ. (Cv. 1,12). Như vậy, sau biến cố Phục sinh, Mẹ đã hoàn toàn rút vào trong thinh lặng để suy niệm và cầu nguyện. Thái độ đức tin này cũng được Thánh Luca tóm kết bằng một câu đơn giản : “ Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc. 2,19). Vì vậy, qua phụng vụ hôm nay, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của mọi tín hữu.
“Phúc cho bà là kẻ đã tin” (Lc. 1,45). Đây là lời được mặc khải qua miệng bà Elizabeth. Trước khi chúng ta chiêm ngắm các nhân đức và những đặc phúc nơi Mẹ, chúng ta hãy nhìn về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của chúng ta.
Cuộc hành trình đức tin của Mẹ được dàn trải trong suốt cả cuộc sống, từ biến cố truyền tin đến cao điểm là phút giây hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu dưới chân Thập giá. Thái độ đức tin đó được thể hiện bằng cách Mẹ luôn tìm kiếm và quy thuận thánh ý Thiên Chúa. Có lần, khi Chúa Giêsu đang giảng giữa đám đông, Đức Maria chợt đến. Người ta báo cho Chúa biết là ‘bà cố’ đang đến. Người trả lời :“Ai là mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành (Mc. 3,31-35). Đức Giêsu gián tiếp đề cao thái độ đức tin nơi Mẹ. Tính cách làm Mẹ của Ngài hệ tại ở việc biết nghe lời Thiên Chúa và đem ra thi hành.
Mẹ được đem về trời cả hồn lẫn xác là dấu chứng của một cuộc vinh thắng, và đó chính là cuộc chiến thắng trong đức tin. Trong thư Rôma, thánh Phaolô so sánh Ađam với Đức Kitô (xem chương 5). Ađam gieo sự tội vào trần gian vì bất tuân, còn Đức Kitô đưa sự giải án tuyên công đến cho con người qua vâng phục. Cũng như Evà đã liên đới với Ađam trong tội nguyên tổ, thì Đức Maria được sánh ví như Evà mới, đã hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu để đem ơn cứu độ đến cho con người. Nhiều thần học gia còn gọi Mẹ là Đấng ‘Đồng công Cứu chuộc’ (Corredemptorist). Sách Giáo lý Công giáo cũng mời gọi chúng ta hướng nhìn về Mẹ như là Biểu tượng Cánh chung (Eschatological Icon) cho toàn Giáo hội trong cuộc lữ hành trần thế ( Giáo lý Công giáo số 972). Những điều này nói về Mẹ như là khuôn mẫu và Thầy dạy đức tin cho chúng ta.
Kết luận
Ở Đức, trong một vở kịch diễn lại Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, diễn viên trình diễn cảnh Giuđa sau khi phản bội đã ra đi tự vẫn. Trước khi chết, anh ta thét lên: “Khốn thân tôi, tôi biết chạy đến với ai bây giờ ?”. Nghe vậy, một đứa trẻ ở gần đó nói với mẹ: “Mẹ ơi, sao anh ta không chạy đến với Đức Maria”.
“Trên đời này, không có một kỳ quan nào cao cả và vĩ đại cho bằng trái tim của người mẹ”. Cũng vậy, chúng ta có Đức Maria là Hiền Mẫu, là Thầy dạy đức tin và cũng là nơi nương náu an toàn nhất trong cuộc lữ hành trần thế hôm nay.
Từ tín điều Mẹ hồn xác lên trời, được mừng kính hôm nay, chúng ta rút ra được những kết luận nào.
Kết luận thứ nhất, đó là Mẹ đã được đưa về trời, nơi mà một ngày kia chúng ta cũng sẽ đến.
Thực vậy, sở dĩ Mẹ đã được đưa về trời một cách kỳ diệu vì Mẹ không hề phạm tội, nên thân xác Mẹ không bị huỷ hoại tiêu tan, cũng như thân xác Chúa Giêsu. Thân xác Mẹ trực tiếp đi từ tình trạng dương thế qua tình trạng vinh quang mà không phải nếm mùi mục nát. Sự hiện diện của Mẹ trên trời là lời hứa hẹn cho chúng ta, bởi vì một ngày kia chúng ta cũng sẽ được ở đó với Mẹ.
Tuy nhiên, vì mang thân phận tội lỗi, nên chúng ta sẽ không chuyển trực tiếp từ tình trạng dương thế qua tình trạng vinh quang, nhưng sẽ phải trải qua một thời kỳ huỷ hoại, một thời kỳ mục nát. Chúng ta giống như cây phượng. Khi mùa hè trở về, nó trổ bông đỏ rực. Nhưng khi mùa thu tới, nó bắt đầu rụng lá để rồi chỉ còn lại những cành cây trơ trụi vào mùa đông.
Cuộc sống của chúng ta cũng giống như vậy. Khi mùa thu cuộc đời trở lại, chúng ta mất đi toàn bộ vẻ đẹp thân xác, để rồi sẽ bị rữa thối trong lòng đất lạnh, một khi chúng ta nằm xuống cùng với một cái chết. Thế nhưng khi giờ phút sống lại đã điểm, thì một thân xác mới mẻ và xinh đẹp sẽ nở tươi trên đống tro tàn bụi đất, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: khi gieo một hạt giống vào lòng đất, nó sẽ không mọc lên nếu không bị chết đi. Và hạt giống chúng ta gieo, há chẳng phải là một cây đầy đủ mà sau này sẽ lớn lên sao. Thân xác của chúng ta lúc bấy giờ sẽ như thế nào? Thánh Phaolô diễn tả:
– Thân xác hay chết này sẽ mặc lấy sự không hay chết và thân xác mục nát này sẽ không còn mục nát nữa.
Kết luận thứ hai việc Mẹ được đưa về trời còn là nguồn trợ lực cho chúng ta khi chiến đấu để chiếm lấy niềm vinh thắng mà Mẹ đang vui hưởng.
Vì thế, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến kêu cầu cùng Mẹ.
Douglas Hyde là một đảng viên Cộng sản, chủ bút một tờ báo lớn ở Anh Quốc. Ông đã kể lại sự mình trở về với Giáo hội như sau:
Ngày nọ, tình cờ ông bước vào một nhà thờ Công giáo. Ngồi ở hàng ghế sau cùng, ông đưa mắt quan sát và nhận thấy có một thiếu nữ bước vào, vẻ mặt đầy âu lo. Cô ta đến trước bàn thờ Đức Mẹ, quỳ cầu nguyện một hồi lâu, sau đó đứng dậy ra khỏi nhà thờ. Lúc cô ta đi ngang qua, ông nhận thấy vẻ mặt đầy lo âu khi trước đã tan biến, nhường chỗ cho một vẻ mặt phấn khởi và hy vọng.
Thế là ông cũng mon men đến bên bàn thờ Đức Mẹ và trình bày câu chuyện đời mình, nhưng ông không biết phải bắt đầu như thế nào. Sau này khi nhớ lại, thì hình như ông ta đã nói với Mẹ:
– Lạy Mẹ dịu dàng và đáng yêu, xin hãy tỏ ra nhân từ và khoan dung với con. Nhờ Mẹ giúp đỡ, cuối cùng ông đã được ơn ăn năn trở lại.
Hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ, bởi vì xưa nay chưa từng nghe có người nào kêu cầu Mẹ, mà Mẹ chẳng nhận lời.
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn? Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình. Tứ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ.
Tác động thứ nhất: sự vội vã.
Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn.
Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca dâng tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ.
Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương. Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ.
Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta con người được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội và ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.
Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung” ca ngợi Đức Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấymang tên Maria.
Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.
Không phải thế, mà là kết quả suy tư lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới từ năm 1950, có chi mà quan trọng?
Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là “xe máy” thì nó là “xe máy” dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là “xe đạp”. Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.
Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát “Kinh Tin Kính” kết thúc bằng câu quyết tâm “Tin những gì Hội Thánh dạy con”. Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: “Cha nói thánh tướng nào con cũng tin cả”. Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày” “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng?
Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.
Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn.
Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.
Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng bay về trời.
Tại một số thành phố trong nước Ý có một cách mừng Lễ Mẹ Lên Trời thật đơn sơ nhưng có ý nghĩa: Họ bắt đầu không phải ở nhà thờ nhưng ở đường phố chính. Việc cử hành gồm hai cuộc rước.
Cuộc rước tượng Đức Mẹ bắt đầu từ ngoại ô thành phố tiến vào trung tâm thành phố. Cuộc rước này tượng trưng cho cuộc hành trình của Đức Mẹ từ cuộc sống trần gian tiến về trời.
Cuộc rước khác là cuộc rước tượng Chúa Giêsu qua các đường phố lớn. Ý nghĩa cuộc rước này là Chúa Giêsu đi đón Đức Mẹ khi Đức Mẹ tiến vào thiên đàng.
Giây phút nổi bật là khi hai cuộc rước gặp nhau tại một cổng chào được trang hoàng lộng lẫy. Chúa Giêsu và Đức Mẹ cúi chào nhau ba lần nói lên rằng Chúa Giêsu chào mừng Đức Mẹ tại cổng thiên đàng.
Sau nghi thức này, tất cả mọi người kiệu Chúa Giêsu và Đức Mẹ vào nhà thờ. Ý nghĩa việc rước này là Chúa Giêsu đưa Mẹ Ngài lên toà vinh quang trên trời. Khi mọi người vào nhà thờ thì Thánh Lễ được bắt đầu.
Theo phương diện thần học, Lễ Mẹ Lên Trời nói với chúng ta rằng cả hồn và xác Mẹ Maria đang ở trên thiên quốc. Vì Đức Mẹ không vướng mắc tội lỗi, giống như thân xác Chúa Giêsu, thân xác Mẹ không hư nát. Thể chất trần gian của Mẹ biến sang thể chất thiên đàng.
Theo phương diện thực hành, Lễ Mẹ Lên Trời nhắc nhở rằng chúng ta một ngày nào đó cũng được ở trên thiên đàng cả hồn và xác.
Có khi chúng ta quên rằng chúng ta cũng có thân thể trên thiên đàng. Dĩ nhiên, nó không phải là cái xác hay chết này như là thân thể thiêng liêng giống như thân thể Chúa Giêsu sau khi sống lại.
Nói về loại thân thể của chúng ta trên thiên đàng, chúng ta tìm đọc Thư thứ I Thánh Phaolô gửi cho Corintô: “Kẻ chết sống lại thể nào? Lấy thân xác nào mà đến?” Thánh Nhân so sánh thân xác dưới đất này với hạt giống và thân thể trên thiên đàng với cây lớn lên từ hạt giống đó: “Vật ngươi gieo nào phải là thân hình tương lai, nó chỉ là cái hạt, như lúa mì hay thứ khác chẳng hạn… Thiên Chúa cho nó hình thể nào tuỳ ý, mỗi hạt đều được hình thù riêng… Có hình thể thuộc về trời, có hình thể thuộc về đất. Việc kẻ chết sống lại cũng như thế: đã gieo sẽ mục nát, sống lại rồi thành bất hủ. Gieo xuống là nhục, sống lại là vinh, gieo vào đau yếu, sống lại mạnh khoẻ. Gieo thể xác sinh vật, sống lại thân hình thiêng liêng.” (I Cor 15:36-44).
Lễ Mẹ Lên Trời nhắc nhở chúng ta một điểm thực hành nữa là Đức Mẹ ở trên trời là để giúp chúng ta. Đức Mẹ không ngồi nghỉ, chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa, chờ đợi chúng ta lên trời. Thật ra, Đức Mẹ luôn quan tâm đến mỗi người chúng ta. Đức Mẹ luôn giúp đỡ chúng ta trong cuộc chiến đấu tiến về quê trời. Đức Mẹ trên trời có thế lực để giúp chúng ta.
Đó là tin mừng cho chúng ta khi mừng Lễ Đức Mẹ. Phần thưởng Đức Mẹ nhận lãnh cho cuộc đời phục vụ, hứa hẹn cho chúng ta cũng được thưởng công cho cuộc đời vất vả của chúng ta. Chúng ta chắc chắn được hưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng. Chúa Giêsu đón mừng Đức Mẹ lên trời cũng sẽ chào đón chúng ta về thiên đàng.
Chúng ta cùng cầu nguyện, dùng lời kinh của lễ hôm nay: “Lạy Chúa chí thánh, hôm nay, Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, được đưa về trời. Người là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế. Chúa không muốn Người chịu cảnh hư nát trong mồ, vì đã sinh hạ Con Cha yêu quí là Đấng ban sự sống cho mọi loài.” Xin cho chúng con được cùng Đức Mẹ, một ngày nào đó trên thiên đàng, ca tụng Chúa muôn đời.
Hôm nay, chúng ta mừng kính một tạo vật đầu tiên đã được khải hoàn và bước vào quê hương nước trời. Tạo vật ấy chính là Mẹ Maria.
Bàu khí phụng vụ mang một sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh, để rồi nắm giữ vai trò quan trọng nhất, vai trò Nữ vương trời đất, cũng như chiếm lấy một địa vị cao cả nhất, thật gần với Thiên Chúa và trổi vượt trên mọi tạo vật, địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Thực vậy, sau những ngày tháng khổ đau, giờ đây Mẹ được vui hưởng niềm hạnh phúc bất diệt như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
– Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa đã sắm sẵn cho những người yêu mến Ngài.
Trong ngày mừng kính Mẹ hồn xác về trời, chúng ta không phải chỉ ngợi khen và chúc tụng, mà còn phải tìm lấy cho mình một niềm vui mừng và hy vọng.
Thực vậy, kể từ khi Mẹ bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ rất nhiều, bởi vì tình mẫu tử, một thứ tình cảm đẹp đẽ và tinh ròng nhất của trái tim con người, đã được cụ thể hoá nơi Mẹ Maria trước ngai toà Thiên Chúa.
Nó không phải chỉ mang lấy vẻ dịu hiền của tình thương, mà còn mang lấy vẻ uy nghi của quyền năng, nhờ đó Mẹ sẵn sàng ra tay nâng đỡ và trợ giúp chúng ta trên đường lữ thứ trần gian.
Đúng thế, trên đỉnh đồi Canvê, Đức Maria đã trở nên Mẹ của nhân loại, cũng như trở nên Mẹ của mỗi người chúng ta, qua lời trăn trối của của Chúa Giêsu:
– Này là Mẹ con… và này là con Mẹ.
Qua lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã cưu mang chúng ta. Đồng thời, qua những đau khổ phải chịu, nhất là khi đứng dưới chân cây thập giá, Mẹ đã sinh chúng ta trong đời sống ơn sủng. Và bây giờ ở trên trời, với tước hiệu là Mẹ chúng ta, Mẹ vẫn nhớ đến từng người và Mẹ sẽ dùng tình thương của một người mẹ và uy quyền của một vị nữ vương để bầu cử và giúp đỡ chúng ta trước mặt Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nói được rằng:
– Mẹ nắm giữ số phận của mỗi người chúng ta trong lòng bàn tay yêu thương và quyền năng của Mẹ.
Vì thế, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ trong những phút giây hạnh phúc để cảm tạ, cũng như hãy chạy đến với Mẹ trong những tháng ngày đau khổ để xin Mẹ chở che.
Trong cuộc sống dương thế, Mẹ đã trải qua biết bao nhiêu cay đắng, nên Mẹ sẽ hiểu biết và chia sẻ với chúng ta hơn ai hết, bởi vì “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Có khổ đau, thì mới dễ dàng cảm thông với người đau khổ. Nếu chúng ta kêu cầu Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ trợ giúp và dẫn chúng ta đến cùng Chúa.
Douglas Hyde là một người cộng sản, chủ trương tờ nhật báo “Công Nhân” tại Anh, đã trở lại Công giáo trong một hoàn cảnh như thế này:
Sáng hôm ấy, đứng trước cổng một nhà thờ Công giáo, ông ta nhìn thấy một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, khuôn mặt chất đầy những khổ đau. Cô ta bước vào nhà thớ và quỳ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, nhưng khi cô ta ra về, thì dường như những nét khổ đau đã được xoá tan, không còn để lại một dấu vết nào cả.
Tò mò, ông ta cũng bước vào và đến bên tượng Đức Mẹ. Ông ta thắp lên một ngọn nến và quỳ cầu nguyện. Thế nhưng, đầu óc thì trống rỗng, ông ta không thể nhớ nổi một câu kinh mà hồi còn nhỏ ông ta đã thuộc lòng. Cây nến cứ giảm dần, giảm dần. Sau cùng, ông ta nghe như có một tiếng nói thì thầm bên tai, nhưng cũng không được rõ.
Sau khi ra khỏi nhà thờ, ông ta cố gắng nhớ lại. Rồi ông ta đã mỉm cười, bởi vì trong lúc cầu nguyện, ông ta đã khẽ hát một bản tình ca đang thịnh hành lúc bấy giờ:
– Nàng xinh đẹp quá, xin hãy nhớ đến tôi…
Nhưng Mẹ Maria đã thấu suốt cõi lòng ông ta và đã dẫn đưa ông ta về cùng Chúa.
Với tình thương của một người mẹ, Đức Maria sẵn sàng nâng đỡ chúng ta và với uy quyền của một bậc nữ vương, Đức Maria có thể làm được tất cả những gì chúng ta kêu cầu.
Chúng ta vốn thường đọc:
– Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.
Phải chăng đó là chính là niềm an ủi và khích lệ chúng ta gặp được khi mừng kính Mẹ hồn xác lên trời ngày hôm nay?
Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời.
Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18).
Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.
Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.
Làm chứng cho Chúa
Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48).
Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.
Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1,8).
Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.
Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện. Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.
Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể.
Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.
Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.
Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.
Nhờ Mẹ Maria cầu bầu
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19,26). Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa.
Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.
Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.
Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.
Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.
Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.
Ngày lễ Thăng thiên, chúng ta cử hành sự kiện Chúa Giêsu được tôn vinh, còn hôm nay ngày lễ Mông triệu, chúng ta cử hành sự kiện Mẹ Maria được tôn vinh. Chúng ta được lãnh nhận ơn Cứu độ từ Chúa Giêsu, nhưng chúng ta được lãnh nhận Chúa Giêsu từ Mẹ Maria.
Có một câu chuyện kể về cách thức người Da Đỏ Comache đã từng cầu nguyện để cho có mưa “Lạy Thầy Linh vĩ đại, xin nói cho chúng tôi biết chúng tôi đã làm điều gì sai trái, khiến cho ngài tức giận. Xin nói cho chúng tôi biết chúng ta phải làm gì, để ngài sẽ cho mưa xuống một lần nữa, và phục hồi sự sống cho mảnh đất của chúng tôi”. Họ cứ cầu nguyện như thế trong vòng ba ngày, nhưng vẫn không hề có mưa. Trẻ con và người già bắt đầu chết.
Thế rồi những người lớn tuổi trên bộ lạc đi lên các ngọn đồi, để lắng nghe tiếng gió thổi, mang theo giọng nói của Thần Linh. Khi trở về, họ nói với dân chúng “Cảnh hạn hán gây ra là do tính ích kỷ của chúng ta. Từ bao năm qua, chúng ta đã lấy đi đủ thứ từ mặt đất, mà không hề trả lại gì cả. Tất cả chúng ta phải làm của lễ toàn thiêu, để dâng lên Thần Linh những tài sản giá trị nhất của chúng ta. Chúng ta phải rải tro trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên địa cầu”.
Dân chúng cảm ơn Thần Linh về thông điệp đó. Nhưng khi trở về nhà, và nhìn vào những tài sản giá trị nhất của mình, họ lại lưỡng lự, và bắt đầu tìm cách thoái thác. Thay vì hy sinh những tài sản giá trị nhất, họ chỉ hy sinh một số thứ khác thay thế vào đó. Bây giờ, một cô bé tên là Miriam, có một con búp bê màu xanh, mà cô bé yêu quý trên hết mọi thứ khác. Vì là một đứa trẻ duy nhất còn sống sót, cô bé nhận ra rằng mình cũng phải hy sinh. Thế là một đêm kia, cô bé bò ra khỏi căn lều, đem theo con búp bê và một cây quy diêm, rồi đi lên đỉnh đồi. Tại đó, cô bé châm lửa đốt con búp bê. Vừa khóc, cô bé vừa nhìn con búp bê biến thành tro bụi. Sau đó, cô bé dùng bàn tay thu gom đống tro lại, và ném lên không trung. Sao cho gió sẽ rải đám tro đó lên mặt đất. Rồi cô bé lăn ra ngủ vùi ngay tại đỉnh đồi.
Sáng hôm sau khi thức dậy, cô bé nhìn khắp mặt đất, và thấy mặt đất phủ đầy những bông hoa màu xanh, khắp cả một vùng xa tít tắp mà tầm mắt của cô bé có thể thấy được. Dân chúng rất vui mừng khi nhìn thấy sự kiện xảy ra. Ngay tức khắc, họ nhận ra được điều mình phải làm. Họ cảm thấy xấu hổ vì tính ích kỷ của mình, mỗi người đều lấy số tài sản mà họ đã cất giữ rất cẩn thận, hi sinh đốt đi, và rải đám tro đó lên mặt đất. Một lần nữa, họ bắt đầu cầu nguyện với Thần Linh, và lần này Thần Linh đã nhận lời họ. Chẳng bao lâu, một cơn mưa bắt đầu chút xuống. Khi nhìn thấy sự kiện đó, họ ôm cô bé Miriam, người đã làm cho họ hổ thẹn, vì đã không làm theo yêu cầu của Thần Linh.
Câu chuyện nhỏ này giúp chúng ta hiểu được vai trò của Đức Maria, và nhận ra được tại sao Giáo hội tôn vinh ngài trong ngày hôm nay. Chính thông qua sự hy sinh Con của ngài, mà ơn tha thứ, bình an và yêu thương của Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mặt đất, và mang lại sự sống cho chúng ta, Đức Maria đóng một vai trò sống còn trong của lễ hy sinh đó.
Mẹ đã sẵn lòng đem Đức Giêsu đi vào trong thế giới này. Mẹ hết lòng yêu thương Người, và quý trọng Người vượt lên trên tất cả mọi thứ sở hữu khác. Nhưng khi công trình Cứu Độ toàn dân đòi hỏi rằng chính Đức Giêsu phải hy sinh, thì Mẹ vẫn đứng về phía Người, ngay cả mặc dù nỗi đau khổ giống như một lưỡi gươm sắc nhọn, đã đâm thâu qua trái tim Mẹ.
Hôm nay, chúng ta mừng kính ngày Mẹ được tôn vinh trên trời, có nghĩa là Mẹ được chia sẻ trọn vẹn vinh quang của Đức Kitô. Đây là một ngày dành cho niềm vui và ca ngợi. Mẹ sẽ thúc giục chúng ta phải quảng đại hơn trong việc đi theo Con của Mẹ, và trong việc hy sinh những gì chúng ta quý giá, để mang lại sự sống cho những người khác.
Đức Maria được chúc phúc vì Mẹ là mẹ của Đức Giêsu. Nhưng Mẹ còn được chúc phúc hơn vì, giống như cố bé Miriam, Mẹ đã lắng nghe và vâng phục lời của Thiên Chúa. Mẹ sẽ giúp đỡ chúng ta cũng biết vâng phục Lời Chúa, và từ đó, chúng ta được đi theo Đức Giêsu trên đường dẫn tới vinh quang.
Bà Elisabét nói với Đức Maria “Em được chúc phúc nhất trên tất cả mọi phụ nữ”. Quả thật đó là một lời khen ngợi vĩ đại. Lời khen ngợi này nói lên vị trí đứng đầu của Đức Maria. Nhưng điều gì đã xảy ra Mẹ có khước từ lời khen ngợi này một cách nhẹ nhàng, nhưng quy tất cả mọi sự về Thiên Chúa, và về lòng từ ái củ Người đối với Mẹ “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao nhiêu cao cả”.
Có thể chúng ta đã được dạy dỗ rằng sự khiêm tốn bao hàm sự tự đánh giá thấp bản thân mình. Nhưng đức khiêm nhường trái ngược với điều đó. Đây là sự nhận ra điều tốt đẹp nơi bản thân mình với lòng biết ơn, nhưng thừa nhận rằng điều tốt đẹp đó là một ân sủng của Thiên Chúa.
Ngày nay, về mặt tâm lý trị liệu, người ta nhấn mạnh rất nhiều vào lòng tự trọng. Sự tự ti mặc cảm đưa đến tình trạng bất hạnh cho tất cả mọi người, còn lòng tự trọng cao độ đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Chúng ta được hướng dẫn rằng điều quan trọng là cảm thấy bản thân mình tốt đẹp, yêu mến mình, có khả năng để nói rằng “Tôi là người tốt”.
Về một mặt nào đó, đây là một phương pháp tốt. Tự trọng là điều tốt đẹp. Thật quan trọng khi có được một hình ảnh tốt đẹp về bản thân, nhưng sự tự ý thức này phải được xây dựng trên sự thật, nếu không, đó chỉ là một việc xây dựng trên cát.
Chúng ta có lý do để nên có lòng tự trọng cao độ. Mỗi người trong chúng ta đều có thể nói rằng “Tôi có giá trị lớn lao, một nhân cách vĩ đại. Thiên Chúa đã tạo dựng tôi theo hình ảnh Người, Người gìn giữ và yêu thương tôi, vì tôi có tư cách là con cái của Người”. Do đó, chúng ta có quyền cảm thấy hài lòng về bản thân mình được đón nhận mọi sự từ nơi Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta không nên chần chừ trong việc đọc lời kinh thật tươi đẹp và vui mừng của chính Đức Maria “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”.
Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đúng sự thật đối với chúng ta. Chúng ta cũng có mặt tối, khiến cho chúng ta bị sự dữ chế ngự, và vì thế, chúng ta cần được cứu độ. Tâm lý học sẽ không cứu nỗi chúng ta. Tâm lý học lại còn không thừa nhận rằng chúng ta cần được cứu độ. Chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa có thể cứu độ chúng ta. Chúng ta không được e sợ khi nhìn vào khía cạnh tối tăm của bản thân mình.
Sự tự trọng không đúng cách làm cho chúng ta bối rối ngay với chính mình, và do đó khiến chúng ta chỉ tập trung vào bản thân. Mặt khác, lòng tự trọng đích thực lại giúp chúng ta biết quên mình, và làm cho chúng ta biết yêu thương hơn, có nhiều khả năng tiếp cận với người khác hơn. Chúng ta nhận thấy điều này nơi Đức Maria.
Sau khi nghe được những lời khen ngợi tuyệt vời của bà Elisabét, Mẹ có thể trở về nhà ngay tức khắc, và sự phô bày mình ra dưới ánh nắng của sự tự khen ngợi mình, mong đợi người khác phục dịch mình. Nhưng thay vào đó, Mẹ ở lại với người chị họ lớn tuổi trong vòng ba tháng, để giúp đỡ bà trong thời kỳ mang thai.
Hôm nay, chúng ta ca ngợi vinh quang của Đức Maria. Bởi vì Mẹ đã chia sẻ cuộc đời, sự thương khó, và sự chết của Đức Giêsu khi còn tại thế, điều này phù hợp với việc Mẹ được chia sẻ vinh quang của Người trên Nước Trời. Nhưng chúng ta không được nghĩ rằng mọi sự đều dễ dàng đối với Mẹ. Sự thật gần như trái ngược lại. Mẹ cũng phải sống cuộc đời của mình trong bóng tối đức tin. Đối với Mẹ, không hề có con đường tắt nào cả. Mẹ đã không chỉ lắng nghe lời Thiên Chúa, mà còn thực hành nữa.
Chúng ta cũng được mời gọi chia sẻ vinh quang của Chúa Giêsu. Đức Maria người mẹ thiêng liêng của chúng ta, sẽ giúp đỡ chúng ta trong những giây phút chán nản và thất bại. Mẹ ở trên trời không có nghĩa là Mẹ không thể giúp đỡ chúng ta trên trái đất này. Nói một cách chính xác, chính vì hiện nay Mẹ đang được ở cùng Thiên Chúa, mà Mẹ càng có thể giúp đỡ chúng ta hơn nữa.
Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:
– «Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài».
– «Con đã nói phản lại sự thật rồi! – Vị bề trên trả lời – Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường.
«Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không hay biết. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh».
Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứt khoát mục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tuỳ thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v… Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái này hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!
Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ «cao cả» đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm toả của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc – cho dù là vĩnh cửu – của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất. Đúng như lời Đức Giêsu nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.
Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Viec Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Đức Giêsu là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Lc 1: 39-56
Nhập hồn trong khúc hát, để nhờ không khí cố đẩy lên. Đó, là tâm trạng của nhà thơ nay ngẫu hứng. Nhập hồn với lời ca, để có tình tự Mẹ diễn tả lúc về Trời.
Trình thuật, nay thánh Luca cũng diễn tả tâm tình ngày Mẹ về Trời với Chúa, hầu chỉ dẫn dân con mọi người theo về chốn phúc hạnh, mà thăng tiến. Tâm tình này, đặc biệt hơn khi người chỉ dẫn lại là “Nữ phụ” đặc biệt, Mẹ Hiền của Chúa. Sống với thế giới và Giáo hội trong đó nam-nhân bao giờ cũng lấn lướt/vượt trội mọi nữ lưu, để bảo vệ/chăm sóc phụ nữ hơn chính mình. Nhưng ngược lại, mới đúng.
Thật ra thì, ở nam-nhân lẫn nữ-phụ, phẩm chất nam/nữ mỗi người một cách, rất khác biệt. Phẩm chất là chất-phẩm, gồm: sự tử tế, tính dịu dàng, độ-lượng, lòng xót thương, cả trực-giác, lẫn nét hiền lành toả sáng nhiều lúc cũng kín đáo, thâm trầm. Nhất nhất, là đặc trưng về “nhân” phẩm Chúa tặng mọi người, nam lẫn nữ.
Nhưng, quà tặng thiết thực ở hai phái tính, là quà Chúa tặng ban làm cơ sở cho thực chất cao cả hơn, tức: mở lòng ra với Chúa để vinh thăng tính siêu-việt; nếu không có tính này, chẳng ai đích thực là bản vị hết. Bởi, ta được tạo dựng là được Chúa mời gọi đi vào hiện hữu trong phần sâu thẳm của chính mình, với Chúa và cho Chúa, để rồi cứ thế cảm tạ Ngài. Quả thật, ta được gọi mời là để khám phá ra mà vui huởng ý nghĩa trọn vẹn của nhân vị quyết mở lòng ra với Chúa. Ta được gọi làm tạo vật hoàn-thành ý nghĩa xuất tự Chúa trong luồng ánh sáng rất tráng lệ.
Nhưng lịch sử đã làm suy giảm ánh chói loà của quà tặng nơi ta. Ngày nay, con người cũng được gọi mời theo cung cách tương tự, nhưng đa phần đều ra như không biết. Đa phần chất giọng thời hiện đại, đều hợp lòng bảo ta đừng lắng nghe tiếng gọi này để ta có yêu cầu độc-lập, tách rời Chúa và mọi người.
Phải công nhận, ánh sáng tắt lịm theo cung cách đặc biệt, nay xảy đến với nam nhân, khác hẳn nữ giới. Điều này, là do lịch sử lâu nay phát triển theo kiểu đó. Nam nhân vẫn thấy khó mà khám phá ra Thiên Chúa đích thực. Lịch sử và hoàn cảnh diễn tiến trong đó vẫn làm cho họ ra như thế. Điều này, từng được thánh Phaolô tỏ bày với dân thành Rôma, rất cứng lòng. Theo thánh-nhân, thì nam nhân, nếu không được trợ giúp, hầu như không có khả năng mở rộng lòng mình cách tích cực và vui vẻ với Chúa. Xem ra, Chúa được nam-nhân quan niệm như kình-địch chứ không như Đấng Cứu độ, khiến cần có sự trợ-giúp của nữ phụ, nam-nhân mới hiểu thế nào là ân-huệ.
Nữ-giới ngày nay thường muốn tham gia thế giới của nam-nhân, hầu có được vài đặc tính/đặc điểm của nam nhân, và có thể làm được những việc mà nam-nhân từng làm, cũng như có được tự do và toàn quyền chọn nghề nghiệp như nam nhân. Gần cận Chúa, nam nhân cũng cần sự trợ giúp của nữ-giới. Tuy thế, nữ-giới vẫn bị hạn chế trong nhiều sự việc; vẫn bị khai thác, bóc lột rồi còn bị nam-nhân vùi dập, nhận chìm trong tối tăm. Đặc biệt hơn, nữ-giới vẫn bị trở ngại vì chính mình, cách thực thụ.
Nơi nữ giới, chứ không phải nam-nhân, vẫn có thói quen giữ vững các giá-trị căn-bản của con người trong hiểu biết Chúa. Chính vì thế, Chúa đã phó thác nam-nhân cho nữ giới và yêu cầu nữ giới chỉ cho nam-nhân cách thức gần-cận Chúa. Nữ-giới trổi vượt hơn nam-nhân về chuyện này là nhờ lòng đạo đức cùng sức mạnh thiêng liêng khiến nữ giới biết rõ sự thể Chúa là trọng-tâm của cuộc sống. Tự bản chất, đích thực Chúa ủy-thác mọi sự về con người cho mỗi người và mọi người. Nhưng nữ-giới lại quan tâm nhiều hơn nam-nhân về chuyện ấy. Chuyện ấy, là do bản-chất của nữ-giới, vẫn như thế.
Thật ra thì, Chúa nhận ra là nữ-giới mạnh-mẽ hơn nam-nhân về đạo đức và về nguồn mạch linh-đạo. Chúa giao cho nữ-giới trọng-trách chăm lo cho nam-nhân. Chính vì thế, nữ giới có ơn gọi bảo-vệ sự sống con người, bảo vệ sự sang-tạo, chăm nom mọi sự về con người, và nữ-giới làm thế rất đắc lực do nữ-tính của mình.
Về với Đức Nữ-Trinh Maria. Mẹ là đấng được chúc phúc hơn mọi người nữ. Sứ-vụ của Mẹ được các nữ phụ chuẩn-bị và vẫn được nhiều nữ-phụ thực–thi; nhưng theo truyền thống Kitô-giáo, Mẹ là ví-dụ điển hình của sự hiền dịu, thương yêu hơn tất cả. Đặc-ân của Mẹ là đưa Chúa đi vào với thế giới của con người; và từ đó, đưa con người vào với thế-giới của Thiên Chúa. Con người được cưu-mang đến với Chúa là nhờ nữ-tính của Đức Trinh Nữ Maria. Ngang qua Mẹ, mọi nam-nhân được Đức Chúa, Con của Mẹ vui vẻ đón nhận.
Chỉ mình Mẹ, chứ không phải mọi người nữ nói chung, được chúc-phúc do bởi nơi Mẹ, là biến cố độc-nhất trong đời con người xảy đến, mới diễn tả sự đầy-tràn của thời gian, diễn tả cả tính chất nhân-bản và ơn cứu-độ. Nhập-thể diễn ra nơi Mẹ và do Mẹ. Nơi Mẹ, toàn thể “nhân loại” nơi phụ nữ đã đổi thay. Mẹ là Người-Nữ-của-Ơn-huệ-cứu-độ Chúa ban cho con người và cuối cùng đã hoàn-tất. Một lần nữa, Mẹ đã biến thành hiện-thực tính hiền-dịu xưa/cũ bị quên lãng của người nữ và của Chúa. Nữ-tính nơi Mẹ không chỉ là trường hợp “có them” về nữ-tính hiền-dịu rất vĩnh cửu, hoặc bản-năng làm Mẹ Hiền của nhân loại. Nơi Mẹ, bản năng và đức tính ấy đã trở thành của Đức Maria, về Maria, cho ta.
Đó là lý do tại sao ta muốn nhận biết Mẹ, không chỉ là Me của ta và của Chúa, hoặc là môn đệ Đức Giêsu hoặc “Nữ vương” thiên đáng mà thôi, nhưng trong mẹ và cho chính Mẹ, là nữ phụ nữa. Thật ra, Chúa làm nhiều điều kỳ-diệu cho Mẹ và Mẹ cũng đáp-ứng bằng cách chạm-khắc chúng vào nữ-tính thẳm sâu nơi Mẹ, để cứu rỗi mọi người. Người nữ khác, ắt sẽ phải ghen tị về Mẹ, nhưng họ cũng sẽ thấy nơi Mẹ những điều tốt đẹp nhờ Mẹ và do Mẹ mà có.
Giả như tất cả các đặc tính vượt trội ấy, là chính Mẹ và Mẹ hiện hữu là vì ta, để cho ta, thì ta có thể bắt đầu cảm kích biết rằng: sự chết không thể bắt chụp được Mẹ. Mẹ sống không có nghĩa là “chết cho chủ nhân” là nam nhân của Mẹ. Mẹ sống là cho sự sống. Mẹ có đó, khi nam-nhân lẫn nữ-giới đi vào cõi chết, nhưng Mẹ không sống để rồi sẽ phải chết, và Mẹ sẽ chứng-tỏ cho mọi người thấy: chỉ mình Mẹ mới được thế. Ta cũng có thể nói thế, với mọi nữ-phụ; nhưng ta sẽ thấy rõ điều đó khi nhìn mọi phụ-nữ qua tầm-nhìn của Đức Mẹ. Mẹ là Trăng Tròn giữa tinh tú.
Theo cách nào đó, ta có thể nói một cách đầy tin-tưởng rằng: Mẹ Về Trời cả hồn lẫn xác, theo nghĩa: toàn bộ căn-tính con người của Mẹ, đã đi vào vũ-trụ thiên-đường của Chúa, có Chúa. Chính nữ-tính của Mẹ và lòng muốn yêu thương mọi người chúng ta, được Mẹ mang theo “về trời” với Chúa. Và, lòng muốn ấy, được Mẹ dùng để tỏ cho ta biết, nhưng không phải để biết thế nào là thiên đường, mà là đưa ta vào cõi thiên đường, có Chúa. Quả thật, Mẹ đã mang toàn thể nhân loại cùng với Mẹ, qua động thái về “trời của Chúa”, có Chúa.
Thành ra, tất cả chúng ta –nam-nhân hay nữ-giới- đều được Mẹ “đem về trời” cùng với Mẹ và do bởi Mẹ. Chính đó, là ý nghĩa của lễ hội “Mẹ Về Trời”, và cũng là hội lễ của chúng ta nữa. Không có Mẹ, chắc chắn không ai được như thế. Như thế, là như thể: đã có Chúa, ở Nước Trời, về trời.
Trong tâm tình cảm nghiệm, hãy cùng Mẹ và cùng nhau hát lên câu thơ đời đầy ý nghĩa, rằng:
“Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát,
Để nhờ không khí đẩy lên trăng.
Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường trổi.
Để hớp tinh-anh của nguyệt cầu.
Và để thoát lý ngoài thế giới,
Để cười, để trững, để yêu nhau.”
(Hàn Mặc Tử – Chơi Lên Trăng)
Hớp “tinh-anh nguyệt-cầu”, là hớp “hồn” người có Mẹ cùng hớp, để người người yêu nhau, thoát ly ngoài thế giới mà về với Chúa, với Mẹ rất “Về Trời” cả xác lẫn hồn, rất Nghê thường.
Mười lăm tháng Tám mừng vui
Chúa cho Đức Mẹ về trời vinh quang
Niềm hy vọng thật rõ ràng
Chúng nhân sẽ được hưởng chung Nước Trời
Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “mông triệu” (*). Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ về trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian. Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.
Thánh Gioan kể lại thị kiến, y như một đoạn phim dài đầy kịch tính và nhiều tình tiết: “Đền thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra. Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 11:19a, 12:1-6).
Thị kiến kỳ lạ ấy ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12:10). Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.
Ngay cả Hồi giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo). Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ vương Hòa bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,… và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu,…
Tác giả Thánh vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” (Tv 45:10-12). Chắc hẳn phàm ngôn không thể đủ để diễn tả về Đức Mẹ cho xứng đáng, chúng ta chỉ biết dùng những ngôn từ nào cao trọng nhất để tôn xưng Đức Mẹ mà thôi.
Tất cả phàm nhân đều phải bước qua ngưỡng-cửa-sự-chết theo quy luật sinh-tử, vì ai trong chúng ta cũng từng phạm tội nhiều. Nhưng chết không là hết, mà là biến đổi, như Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chết đi để được sống lại. Chính Đức Kitô cũng đã chết và phục sinh để bảo đảm về chuyện đời sau. Chết là trực tiếp gặp Thiên Chúa, gặp Đức Kitô, và cũng gặp Đức Mẹ nữa.
Niềm hy vọng của Kitô hữu thật lớn lao và tuyệt vời, nhưng Thánh Phaolô nói: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15:19). Niềm hy vọng của chúng ta không hề như vậy. Thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15:20-22).
Ai cũng lần lượt ra đi, kẻ trước người sau, như lá rụng về cội, dù lá xanh hay lá vàng, như Thánh Phaolô giải thích thêm: “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:23-24). Tất cả đều xảy ra đúng theo trật tự Thiên Chúa đã ấn định, như chúng ta thường nói là Thiên Chúa an bài. Chúng ta không thể hiểu thấu, nhưng sự thật là vậy: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1 Cr 15:25-26).
Đức Kitô dùng thập giá để chiến thắng tất cả, và cũng chính trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét (x. Ep 2:16) để minh chứng tình yêu vô biên và sâu thẳm của Thiên Chúa, tức là Lòng Chúa Thương Xót, điều mà không ai trong chúng ta khả dĩ hiểu thấu.
Thánh sử Luca kể…
Hồi ấy, Cô em Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Cô vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).
Đây là cuộc gặp lịch sử. Một người là mẹ Thiên Chúa, còn một người là Mẹ của Vị Tiền Hô Gioan. Thấy Em họ Maria đến, Chị Êlisabét vui mừng thốt lên những lời đầy Thần Khí. Sau đó, Đức Maria cũng quá đỗi vui mừng và dâng lời Kinh Ngợi Khen (Magnificat, Lc 1:46-55), y như một bài thơ vậy:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.
Kinh thánh cho biết rằng Đức Maria ở lại với Chị Êlisabét độ ba tháng, rồi mới trở về nhà. Đức Mẹ đã chứng tỏ lòng yêu thương với tha nhân khi vội vã đi thăm Chị Êlisabét, đồng thời lại muốn chứng tỏ tình yêu thương đó qua việc ở lại giúp đỡ người chị đang mang thai trong ba tháng đầu của thai kỳ.
Trong Mầu nhiệm Mân Côi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết “ái mộ những sự trên trời”, quyết tâm hành động vì Nước Trời, dám khước từ trần gian để ưu tiên mọi sự vì Nước Trời, nhờ đó mà chúng con xứng đáng trở thành công dân Nước Trời vĩnh hằng. Lạy Mẹ, xin đồng hành và nâng đỡ chúng con luôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(*) “Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ 4 chữ “mông chủ (chúa) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” (triệu tập, hiệu triệu). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” (yêu mến) nên được Chủ (Chúa) gọi (về trời), Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ”, tức là “chết mà như ngủ”.
Có một bài hát dân ca về mẹ mà có lẽ trong chúng ta chẳng mấy ai không biết đến:
“Vườn rau, vườn rau xanh ngắt một màu,
“Có đàn, có đàn gà con nương náu,
“Mẹ quê, mẹ quê vất vả sớm chiều,
“Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu…”
(nhạc Phạm Duy)
Bài hát diễn tả hình ảnh người Mẹ nơi những vùng thôn quê trên khắp mọi miền đất nước. Nơi thôn quê, bà mẹ ngoài công việc đồng ruộng, có khi còn chịu khó kiếm thêm thu nhập bằng buôn gánh bán bưng. Có bà chiều chiều gióng gánh trên vai đi dạo từ đầu làng đến cuối xóm, để mua lại buồng chuối, dăm trái mãng cầu, vài trái mít… sáng mai ra chợ bán kiếm ít đồng lời. Có bà cũng gióng gánh đi mua lúa, mua gạo để bán lại làm “hàng xáo”!
Trên ruộng đồng, có lúc rau trái dư thừa như ngọn bầu, rau lang, cà pháo, cà dừa, ớt cay…bà Mẹ cũng chịu khó thu gom đem ra chợ bán, mặc dù biết chẳng được bao nhiêu.
Tất cả những điều đó như thể hiện tấm lòng người mẹ. Một người mẹ luôn hy sinh cho con, luôn lo cho con, ngay cả khi con cái đã lớn khôn tung cánh vào đời, mẹ vẫn mong được chăm sóc cho con:
Biết chiều nay con về thứ bảy
Gánh rau xanh mẹ hái nhiều hơn
Chợ huyện cách xa, ngày đông tê tái
Bước chân gầy vẫn bám chặt đường hơn.
Với mẹ, không đứa con nào là lớn cả, dù có làm đến ông nầy bà nọ, vẫn luôn cần đến những lời an ủi chia sẻ hay đơn thuần chỉ là bóng dáng còm cõi theo năm tháng của mẹ hiền. Mẹ luôn bênh vực che chở cho con. Tình thương của mẹ dành cho con luôn bất tử, mãi mãi theo con, cho dù:
“Nếu ngày mai trên đường đời vấp ngã
Con hãy gọi 2 tiếng MẸ YÊU!
Mẹ đi xa, nhưng mẹ vẫn bên cạnh.
Linh hồn này, mẹ vẫn mãi theo con”.
Cuộc đời người tín hữu chúng ta cũng có một người mẹ yêu thương, chăm sóc chúng ta. Một người mẹ luôn theo chúng ta suốt đời. Mẹ đi bên cạnh cuộc đời chúng ta không chỉ là linh hồn mà còn cả thân xác Mẹ, đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.
Thế nhưng, biết bao người Công giáo đã sống như những người mồ côi Mẹ. Vì rất nhiều người đã không cầu nguyện cùng Mẹ. Rất nhiều người đã đẩy mẹ ra khỏi cuộc đời mình. Chỉ cần một câu kính mừng, chúng ta ca tụng mẹ là Đấng đầy ân phước để rồi từ đó chúng ta xin Mẹ gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc đời. Nhiều người cho rằng không có giờ cầu nguyện, nhưng họ quên rằng, tâm lý của các bà mẹ chỉ cần con còn cần đến mẹ thì bà sẵn sàng làm tất cả cho con.
Hôm nay lễ mẹ hồn xác lên trời, thiết tưởng đây là niềm vui cho cuộc đời chúng ta, vì chúng ta có một người Mẹ bất tử, một người Mẹ ở trên thiên quốc luôn sẵn lòng ban ơn cho con cái khi chúng kêu xin. Một người Mẹ đã đi qua biết bao thăng trầm của dòng đời để có thể hiểu hết những khó khăn của con người. Mẹ đã hiểu và chắc chắn Mẹ sẽ chia sẻ với những khó khăn trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, với lòng hân hoan chúng ta cùng mượn tâm tình của bài hát “Bông Hồng Cài Áo” của Phạm Thế Mỹ để thưa với Mẹ:
Rồi một chiều nào đó con về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu
Rồi nói, nói với Mẹ rằng “Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không ?”
– Biết gì ? “Biết là, biết là con thương Mẹ không ?”
Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời. Quả thật, việc Mẹ được vinh thăng về thiên quốc không chỉ mang đến cho chúng ta niềm vui, nhưng còn cho chúng ta niềm tin yêu và hy vọng.
Chúng ta vui vì Mẹ đã về quê hương đích thực trên trời, nơi không còn khổ đau, không còn tang ma, khóc lóc. Chúng ta hy vọng, vì sẽ có ngày chúng ta cũng được cùng Mẹ hưởng vinh phúc với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhưng bởi đâu Mẹ được những đặc ân cao cả đó? Phải chăng vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa? Phải chăng vì Mẹ được đặc ân vô nhiễm nguyên tội? Phải chăng Mẹ là Đấng đồng trinh trọn đời?
Vâng, đúng như vậy. Nhưng Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 1, 39-56) hôm nay còn cho chúng ta biết thêm, sở dĩ Mẹ được vinh phúc đó là vì Mẹ đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa, như chính lời Mẹ ca lên trong bài Magnificat: “Phận nữ tì hèn mọn, Người đoái thương nhìn đến” (Lc 1, 48). Và để đáp trả lại tình thương ấy, Mẹ đã biết mau mắn vâng theo những tác động của Chúa Thánh Thần.
Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại rằng: “Trong những ngày ấy, Đức Maria vội vã lên đường đến một thành thuộc xứ Giuđa, vào nhà bà Eâlisabet” (Lc 1, 39). Sự “vội vã” ở đây không phải là hấp tấp, nhưng thể hiện một sự mau mắn, ước muốn được chia sẻ. Chúng ta biết rằng, để đi đến được với người chị họ, Đức Mẹ đã phải vượt qua quãng đường gập ghềnh, hiểm trở, dài hơn một trăm cây số, với phương tiện giao thông hết sức thô sơ. Sự “vội vã” của Mẹ, còn thể hiện một niềm hân hoan, vì Mẹ được đem Chúa đến cho người khác.
Khi được người chị họ khen là người có phúc nhất trong những người phụ nữ, Đức Mẹ đã không tỏ ra kiêu căng, tự phụ, nhưng Mẹ đã cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa qua bài ca bất hủ mà cho đến hôm nay, Hội Thánh vẫn giữ lại trong lời kinh của mình: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).
Cũng như biết bao thiếu nữ Do-thái cùng thời, Mẹ biết rõ lời ngôn sứ Isaia đã từng nói trước đó 8 thế kỷ: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”, nhưng có lẽ, chưa bao giờ Mẹ nghĩ mình là người thiếu nữ “đầy ơn phúc” đó. Chẳng thế mà khi nghe thiên thần truyền tin Con Thiên Chúa nhập thể, Mẹ đã tỏ ra hết sức ngạc nhiên: “Việc đó xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Nhưng khi nghe thiên thần giải thích, Mẹ đã hiểu rằng, mình đã được Thiên Chúa chọn để thực hiện công trình cứu độ của Người. Với tất cả sự khiêm tốn của một người tì nữ, Mẹ đã nói lời “xin vâng”: “Này tôi là nữ tì của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,38).
***
Mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi biến đổi đời sống của mình để trở nên giống như Mẹ.
Trước tiên là bài học về sự khiêm tốn. Mặc dù là Mẹ Thiên Chúa, những Mẹ chỉ nhận mình là “tì nữ thấp hèn của Thiên Chúa”. Quả vậy, nếu không có một tâm tình đơn sơ khiêm tốn, chúng ta khó có thể nhận biết được ơn Chúa ban. Chính thánh Phaolô Tông đồ đã có kinh nghiệm này khi ngài khẳng định rằng: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi… Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,9-10).
Thứ đến là bài học về tâm tình tạ ơn. Sở dĩ Mẹ vội vã ra đi đem Chúa đến cho người chị họ, vì Mẹ đã cảm nếm được những ân huệ cao cả mà Thiên Chúa đã thi ân cho Mẹ, cho dù Mẹ chỉ là một tì nữ thấp hèn. Còn chúng ta, mặc dù đã nhận được rất nhiều ơn lành từ nơi Chúa, như ơn được sinh ra làm người, ơn được làm con cái Chúa và Hội Thánh, ơn sức khỏe, ơn bình an… nhưng chúng ta có biết tạ ơn Chúa cho tương xứng hay không?
Sau cùng là bài học về sự phục vụ. Có lẽ, lời tạ ơn đẹp lòng Chúa nhất không phải là những lễ vật chúng ta dâng, nhưng là tình yêu thương, như lời Chúa phán: Ta đã chán ngấy của lễ toàn thiêu, chiên bò. Ta chỉ muốn tình yêu chứ không cần hy lễ…
Noi gương Mẹ đi thăm viếng, chúng ta cũng hãy biết mở lòng ra để đến với muôn người. Cuộc sống quanh ta, có biết bao người đang cần đến chúng ta trợ giúp. Sự giúp đỡ ấy, có thể chỉ là một lời thăm hỏi, một cái bắt tay, một ánh mắt cảm thông… Những sự chia sẻ tưởng chừng như đơn giản đó, đôi khi lại mang lại những kết quả to lớn.
Công việc tông đồ của chúng ta chắc chắn sẽ thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp nếu như chúng ta biết đặt dưới sự trợ giúp của Mẹ. Để chớ gì, qua đời sống chứng tá của chúng ta, mọi người sẽ nhận biết, chúng ta là con của Mẹ và là con của cùng một Cha trên trời.
***
Lạy Mẹ Maria, hôm nay, Mẹ đã được Thiên Chúa đưa lên trời cao cả hồn lẫn xác. Hợp cùng với triều thần thiên quốc, chúng con xin chúc mừng Mẹ. Chúng con tin rằng, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ cũng là Mẹ của mỗi người chúng con. Với trái tim từ mẫu và đầy dịu hiền, xin Mẹ giúp chúng con cũng biết noi gương Mẹ, sống đơn sơ, khiêm tốn. Nhờ đó, chúng con có thể nhận ra những ơn lành của Thiên Chúa ban xuống trên cuộc đời mỗi người chúng con, để chúng con có thể sẵn sàng giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.
Nếu ai đã đọc Kinh Thần vụ, sẽ gặp được những áng thơ tuyệt tác về Đức Maria, hiền mẫu của chúng ta:
Ôi Trinh Nữ, khoác ánh hồng rực sáng,
Mười hai sao là mũ ngọc tinh tuyền,
Mảnh trăng ngà làm bệ đặt gót sen,
Rực rỡ quá, vinh quang Ngài chói lọi!
Ngài chiến thắng tử thần và tội lỗi,
Lên ngự ngai vàng cạnh Đức Ki-tô,
Làm trạng sư cho chúng tử cậy nhờ,
Trời cùng đất tung hô: tâu Bà Chúa!
Lời Thánh Thi giờ Kinh Sách của ngày hôm nay, thật phù hợp với hình ảnh mà sách Khải Huyền diễn tả trong bài đọc thứ I: “Một điềm lạ vĩ đại, xuất hiện trên không trung, một người nữ, mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” (Kh 12,1). Người nữ ấy là ai vậy?
Cứ theo văn mạch của Sách Khải Huyền, thì người nữ ấy chính là Giáo Hội của Đức Kitô. Giáo Hội như người Mẹ hiền. Nhưng cũng như biết bao người mẹ khác, Giáo Hội đã phải đau đớn khi chuyển mình sinh hạ những đứa con là chúng ta. Ở mọi nơi và qua mọi thời, Giáo Hội vẫn tiếp tục phải đau đớn khi gặp phải những cơn gian nan thử thách, những bách hại đến từ nhiều phía. Nhưng với sự quan phòng của Thiên Chúa, Giáo Hội vẫn chiến thắng và đứng vững. Bởi vì, cùng với sự chết và phục sinh của Đức Giêsu Kitô, thế lực sự dữ đã bị đánh bại, kẻ thù cuối cùng là sự chết đã bị đạp dưới chân, như lời Sách Khải Huyền: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Ki-tô của Người, giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12, 10).
Hình ảnh người phụ nữ đầy vẻ kiều diễm, mình mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng đó, theo những nhà chuyên môn và các thánh giáo phụ, chính là Đức Trinh Nữ Maria mà hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng kính. Đức Trinh Nữ vẹn tuyền, sau khi kết thúc cuộc đời trần thế, đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác. Đó là niềm tin của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta. Nhưng bởi đâu Mẹ được những ân phúc cao cả đó?
Thưa, trước tiên là bởi vì Mẹ đã được Thiên Chúa thương nhìn đến, mặc dù, theo lời của Mẹ, Mẹ chỉ là một tì nữ thấp hèn. “Phận nữ tì hèn mọn, Người đã thương nhìn đến, từ nay hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48).
Qua lời kinh Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa) mà Đức Maria tấu lên trong bài Tin Mừng hôm nay, đem đến cho chúng ta niềm an ủi thật lớn lao. Bởi vì qua lời kinh ấy, chúng ta biết được rằng: Thiên Chúa luôn luôn yêu thương và bênh vực những người bé nhỏ, nghèo hèn trong xã hội. “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng”.
Mẹ là người có phúc, vì Mẹ đã “tin” vào Lời Thiên Chúa.
Như lời của bà chị họ Êlisabet: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. (Lc 1, 45).
Có lẽ, cũng như biết bao thiếu nữ Dothái khác, Mẹ cũng biết rõ lời ngôn sứ Isaia loan báo 8 thế kỷ trước đó: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”.Nhưng Mẹ không bao giờ nghĩ là mình lại chính là “thiếu nữ đầy ơn phúc ấy”. Chẳng thế mà khi thiên thần Gabriel truyền tin, Mẹ hết sức ngỡ ngàng: “Việc đó xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến người nam?” (Lc 1,34). Sau khi nghe thiên thần giải thích, Mẹ đã hiểu rằng, Mẹ đang được mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa và Mẹ đã cúi đầu thưa “Xin vâng” với tất cả sự khiêm tốn và lòng tin tưởng thiết tha: “Này tôi là nữ tì của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,38). Nếu không là người thường xuyên suy gẫm Lời Chúa, chắc hẳn khó lòng mà hiểu ngay ra được đâu là chương trình và ý định của Thiên Chúa.
***
Mừng lễ Đức Maria Hồn Xác lên trời hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta, không chỉ nhìn ngắm Mẹ Maria như một Bà Chúa, một bà Hoàng, nhưng là nhìn ngắm để noi noi các nhân đức của Mẹ. Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa “Thương nhìn đến” – được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt. Không có người hơn, không có người kém. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta có nhận ra tình thương tuyện vời đó của Thiên Chúa hay không?
Tiếp đến, Chúa mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Không ít người tỏ ra “ngã lòng” khi những lời cầu xin của mình chưa được Chúa nhận lời, hay những dự phóng trong cuộc đời không giống như ý chúng ta mong muốn. Chính Đức Mẹ cũng là người gặp không ít những thử thách trong đức tin. Nhưng vì vững tin ở Lời Chúa hứa, nên Mẹ đã vượt qua được.
Mừng lễ Mẹ lên trời hôm nay, chúng ta hãy noi gương Mẹ, biết tin tưởng vào chương trình huyền nhiệm đầy yêu thương của Thiên Chúa. Rằng Chúa sẽ ban ơn và che chở cứu giúp chúng ta, nếu chúng ta một dạ trung thành và phó thác vào Ngài như Mẹ Maria đã làm khi xưa.
Tại nhiều giáo xứ bên Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, người ta có tục lệ rước kiệu như thế này:
Một kiệu Đức Mẹ từ cuối làng đi lên. Còn một kiệu Chúa Giêsu từ đầu làng đi xuống. Cả hai sẽ gặp nhau tại sân nhà thờ. Người ta sắp đặt để cả hai tượng đều cúi đầu chào nhau ba lần, rồi sau đó cũng tiến vào nhà thờ, tượng trưng cho việc Chúa Giêsu dẫn đưa Mẹ Ngài vào quê hương Nước Trời. Nghi thức này tuy đơn sơ nhưng lại gây một ấn tượng mạnh mẽ nơi những người người tham dự. Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy niềm tin vào việc Đức Mẹ hồn xác lên trời đã được manh nha từ một thời rất xa xưa. Thực vậy, vào năm 457, Đức Giám Mục Giêrusalem đã viết như sau: Mẹ Maria qua đời, có các tông đồ vây quanh. Nhưng rồi sau khi chôn cất được ít lâu, ngôi mộ bỗng được mở ra, các tông đồ nhận thấy nó hoàn toàn trống rỗng và rồi các ông đã kết luận Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Đúng thế, Chúa Giêsu đã không muốn để Mẹ Ngài phải chịu một giây phút nào dưới quyền lực của Satan và tội lỗi, nên đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Đồng thời Ngài cũng không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu cảnh mục nát trong mồ, nên đã ban cho Mẹ đặc ân được về trời cả hồn lẫn xác. Thiên Chúa Ba Ngôi cùng với triều thần thánh trên trời mừng rỡ chúc tụng Mẹ.
Đó là niềm hạnh phúc của những người thân yêu gặp lại nhau. Và đó cũng là niềm hạnh phúc mà mỗi người chúng ta đều có thể mong đợi. Đúng thế, trong ngày lễ Mẹ về trời chúng ta có thể nghĩ tưởng tới ngày chúng ta cũng sẽ được bước vào quê hương Nước Trời, sau một cuộc đời trung thành phụng sự Chúa. Chính tại quê hương Nước Trời này, chúng ta sẽ được gặp lại những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta.
Đồng thời chúng ta cũng có thể suy nghĩ về sự chết. Thực vậy, cái chết không còn là một ngõ cụt, một chấm dứt, như nhiều người thường bảo: chết là hết. Trái lại đối với chúng ta, những người có đức tin, thì chết là giây phút chúng ta được trở về nhà Cha, được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu, được gặp lại những người thân yêu như lời kinh nguyện Thánh Thể chúng ta vốn thường nghe đọc: Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và toàn thể các thánh.
Chúng ta hãy sốt sắng đọc kinh Kính Mừng và đặc biệt chú ý tới lời kêu xin: Cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi, khi này và trong giờ lâm tử.
Vì thế, hãy cầu nguyện và ra sức uốn nắn những sai lỗi để đổi mới cuộc đời, nhờ đó trong ngày sau hết chúng ta cũng sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Phúc âm thuật lại những ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho Đức Maria, nhấn mạnh nhiều nhất về Đức Maria gương mẫu đức tin. Phúc thay cho bà, vì bà đã tin … Nghĩ về chúng ta, Thiên Chúa đã muốn rằng Mẹ Thiên Chúa phải được thỉnh mời đáp bằng một tiếng vâng đối với điều vượt quá trí khôn Mẹ. Đức Maria luôn luôn trả lời bằng một niềm tin toàn diện. Hiệp thông với dân tộc, với thời đó, với Giáo hội tương lai, Đức Maria ca lên kinh Magnificat. Giáo hội nhận ra mình trong bản kinh ấy. Chúng ta hãy hợp nhất với niềm tin của Người. Đức Maria khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa, kiên quyết trong thử thách, đóng vai kẻ tôi tới bệnh cạnh loài người, sống bằng suy niệm và luôn vui sống.
Để hợp với bầu khí Mông Triệu, chúng ta suy niệm về một câu trích trong bản kinh Magnificat tuyệt vời này.
1) Thần trí tôi nhảy mừng.
Ca khúc Magnificat giờ đây vang trên thiên quốc với tất cả âm điệu tiết tấu. Nhưng Đức Maria đã hát lên ca khúc ấy lần đầu tiên trong một giai đoạn cuộc đời dưới trần thế của Người, ở khoảnh khắc một mạc khải vừa được hé mở. Đức Maria thoáng nhìn thấy định mệnh nhân bản của mình được thành toàn trong cơ thể và thần trí. Thật vậy, Thiên Chúa mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Maria, ngõ hầu nâng cao con người, ban cho con người phẩm giá thần linh. Sự sống lại vinh hiển giống như hạt thóc vùi trong lòng đất nay hoá thành bông lúa chín vinh quang dưới ánh mặt trời. Trong kinh Magnificat, ngay ở lúc khởi sự mầu nhiệm Nhập thể, Đức Maria đã ca ngợi trước về niềm vui Phục sinh sau này. Trong con người Đức Giêsu, Đức Maria thoáng nhận thấy Thiên Chúa muốn có một lịch sử ấy, định mệnh ấy chỉ có thể là tuyệt diệu. Hơn nữa, đích thân Thiên Chúa đến đổi mới lịch sử thân xác nhân loại bằng cách hướng nó về Tình yêu của Thiên Chúa. Vẫn tiếng la lên vì sung sướng chào mừng lúc khai mạc, sau này trở thành bản thánh ca phấn khởi trong ngày hoàn tất. Cũng vậy, trong đời sống rất thực của chúng ta, trong thực tại xác phàm, mặc dầu đau khổ, chúng ta hãy vui sướng nhận rõ điều gì chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa để Người thánh hoá. Chớ quên rằng thân xác chúng ta được mời gọi để trở nên một cơ thể được ‘Kitô hoá’.
2) Trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc tôi.
Đức Giêsu cứu chuộc chúng ta bằng quyền năng Thiên Chúa của Người, Chúa cứu chuộc toàn bộ con người chúng ta cả xác lẫn hồn. Toàn thể thân xác sẽ được cứu chuộc chừng nào chúng ta tham dự trạng thái hiển vinh của cơ thể Đức Kitô. Nhưng không được quên rằng Đức Kitô cứu chuộc chúng ta ngay từ bây giờ. Đức Kitô phục sinh hiện hữu, sống trong trạng thái đặc biệt, Chúa ở trong mỗi chúng ta như linh hồn ở trong mỗi phần nhỏ cơ thể. Những giới hạn của bất cứ vật thể hữu hình nào không còn nữa đỗi với cơ thể Đức Kitô. Kitô hữu kết hợp với Đức Ki-tô thì mang trong mình lời kêu gọi sống lại vinh hiển. Điều này đúng vô cùng đối với Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ cho chúng ta được ‘hợp tác’ với sức mạnh cứu độ của Cơ thể quang vinh Đức Giêsu hiện diện trong chúng ta. Chừng đó, chính chúng ta cũng sẽ ca lên bản kinh Magnificat.
I. HỌC LỜI CHÚA
(39) Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! (50). Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.(53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Bài Tin Mừng gồm ba phần như sau: Phần I (39-40): Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Phần II (41-46a): Thai nhi Gio-an trong dạ mẹ đã hân hoan nhảy mừng đón Thai Nhi Giê-su đến ban ơn cứu độ. Phần III (46b-56): Đức Ma-ri-a dâng lời kinh Ma-nhi-phi-cát ca ngợi tình thương cứu độ của Đức Chúa.
– C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
– C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ chính là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ ngôn sứ bằng động tác nhảy mừng trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ria đang mang Đấng Mê-si-a đến viếng thăm nhà mình.
– C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ma-ri-a diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà vừa cảm nghiệm. Đó cũng là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
– C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến khi các điều sứ thần nói xảy ra (x. Lc 1,20).
– C 46-50: +“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3 ; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên bài ca này để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đã đến thời điểm lời hứa cứu độ của Đức Chúa được thực hiện.
– C 51-55: + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng như bài ca của Da-ca-ri-a trước đó: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
– C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để giúp đỡ bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà thay cho bà trong thời kỳ cuối trước khi bà sinh con. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về quê nhà là thành Na-da-rét.
1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét ?
2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào ?
3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu gì ?
4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, khác với ông Gia-ca-ri-a chồng bà ?
5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung gồm những gì ?
6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét bao lâu và để làm gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1) ĐỨC MA-RI-A HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI:
+ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒM BIA GIAO ƯỚC: Hòm bia hay Khám Giao Ước là một chiếc thùng được làm bằng gỗ keo hình chữ nhật, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Được dát bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài (x. Xh 37, 1-2). Bên trong chứa đựng hai tấm bia ghi Mười điều răn do chính Thiên Chúa viết và ban cho dân It-ra-en qua trung gian của Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 20,1-17; Đnl 5,2-21). Về sau Mô-sê còn viết sách Luật và truyền đặt bên cạnh Hòm Bia (x. Đnl 31,24-27). Trên Hòm Bia có một cái nắp đậy được gọi là Nắp Xá Tội. Hai bên đầu nắp có hai bức tượng thần hộ giá (Kê-ru-bim) bằng vàng gò đặt đối diện nhau và cùng cúi mặt xuống nắp. Hai tượng này có cánh giương lên và phủ trên nắp (x. Xh 25,18-20). Chính nơi Hòm Bia này mà Đức Chúa hiện ra nói chuyện với dân Người và đáp lại lời họ kêu xin (x. Xh 25,22; 1 Sm 4,4). Trong cuộc hành trình qua sa mạc, Hòm Bia Giao Ước luôn được khiêng đi trước dẫn đường cho dân Ít-ra-en. Vua Đa-vít đã đem cả Hòm Bia Giao Ước lẫn Lều Thánh về Giê-ru-sa-lem và làm cho thành này trở thành trung tâm của Vương quốc cả về chính trị lẫn tôn giáo. Vua Sa-lô-môn đã đặt Hòm Bia Giao Ước vào nơi Cực Thánh của Đền Thờ sau khi xây dựng xong. Đối với nhà vua cũng như toàn dân, Hòm Bia Giao Ước mang ý nghĩa lãnh đạo và che chở, đồng thời cũng là lời khuyến cáo phải sống theo thánh ý Thiên Chúa đang ngự giữa dân Người. Sau khi đế quốc Ba-by-lon tàn phá Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công Nguyên, họ cũng phá hủy cả Hòm Bia Giao Ước. Từ đó tất cả ý nghĩa của Hòm Bia Giao Ước đều chuyển sang Đền Thờ thứ hai và thành thánh Giê-ru-sa-lem, được coi là ngai tòa và là bệ chân của Thiên Chúa.
+ ĐỨC MA-RI-A, HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI: Trong Tân Ước, Đức Ma-ri-a được công nhận là nơi Thiên Chúa cư ngụ, giống như Hòm Bia của Giao Ươc mới. Nơi Đức Ma-ri-a, quyền năng của Thiên Chúa đã được tỏ hiện, đúng như sứ thần đã nói với Người: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Thực vậy, vinh quang Thiên Chúa đã bao phủ trên Ma-ri-a giống như cột mây cột lửa đã rợp bóng trên dân It-ra-en để bang trợ, phù giúp dân vượt qua biển Đỏ về miền Đất Hứa (x. Xh 14,19-20). Trong biến cố Truyền tin, ngay sau lời thưa “Vâng” của Người, Thánh Thần đã tác động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn còn trinh khiết, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập vào Thai nhi ấy, trở thành người có xác có hồn giống như chúng ta (x. Lc 1,38), ngoại trừ không có tội. Đó là Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Tóm lại, Đức Ma-ri-a cũng đựơc ví như Hòm Bia của Giao Ước Mới, nơi mà “Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (x. Ga 1,14), và Đức Giê-su trở thành Đấng “Em-ma-nu-en” Nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Đức Ma-ri-a là Mẹ cưu mang Hài Nhi Giê-su trong lòng, nên Người cũng được ví như Hòm Bia Thiên Chúa.
2) MẸ LUÔN CỨU GIÚP NHỮNG AI TIN CẬY KÊU CẦU:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý bao nhiêu, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy bấy nhiêu. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat tin theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô gái là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào ? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao ! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3) NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ ĐẶC ÂN HỒN XÁC LÊN TRỜI CỦA ĐỨC MA-RI-A:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết rất mật thiết với Con Mình và luôn chia sẻ tất cả thân phận của con, để xác tín đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), được hiểu là Đức Giê-su, Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa tức là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Người không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít cai trị Ít-ra-en và triều đại của Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới: Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19 ; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người.
4)TỪ TÍN ĐIỀU MẸ THIÊN CHÚA ĐẾN MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không ?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ ĐỨC GIÊ-SU:
Là Mẹ đã thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su: Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nhờ có Chúa ở cùng, và luôn kết hiệp mật thiết với Người. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ ơn Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem, miền Giu-đê là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7).
2) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ HỘI THÁNH:
+ Tin Mừng Gio-an viết: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Mẹ Người, chị của Mẹ Người là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy Mẹ và môn đệ mình thương mến đứng bên, Đức Giê-su nói với Mẹ Người rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,25-27).
+ Thánh Phao-lô cũng dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Như vậy Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đức Giê-su là Đầu, thì cũng là Mẹ của thân thể Đức Giê-su là Hội Thánh, trong đó có mỗi tín hữu chúng ta.
+ Người nêu gương khiêm nhường cho các tín hữu qua việc luôn lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn xin vâng (x. Lc 1,30-36). Người cũng nêu gương bác ái khi chủ động thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, đem niềm vui ơn cứu độ đến cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng’ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Sau đó Người còn ở lại 3 tháng để phục vụ, giúp đỡ việc nhà cho bà Ê-li-sa-bét trong ba tháng trước ngày bà sinh con, rồi trở về nhà mình (x. Lc 1,39-56). Người cũng quan tâm đến đôi tân hôn trong bữa tiệc cưới bị thiếu rượu tại thành Ca-na khi cầu thay nguyện giúp đội tân hôn với Đức Giê-su, xin Người can thiệp giúp đôi này. Dù Giờ chưa đến, nhưng Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên là biến nước lã trở thành rượu ngon để giúp họ (x. Ga 2,1-11).
3) ĐỨC MA-RI-A LÀ ĐẤNG ĐẦY ƠN PHÚC:
Ma-ri-a đầy ơn phúc và được Chúa luôn ở cùng như lời chào của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Ma-ri-a có phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Ma-ri-a có phúc vì đã tin: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Ma-ri-a có phúc vì được làm Mẹ Đức Giê-su. Là Hòm Bia Giao Ước Mới, Đức Maria chứa đựng chính Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, để ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là có phúc vì đã trở thành môn đệ Đức Giê-su như Đức Giê-su đã đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi người Mẹ đã có công sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
4) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC RƯỚC VỀ TRỜI ĐỂ CHUYỂN CẦU CHO CHÚNG TA:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy chúng ta phải ý thức về thiên đàng đời sau. Chúng ta chỉ được lên trời nếu ngay từ đời này đã sống theo Lời Chúa Giê-su và đi con đường đau khổ thập giá của Người như Đức Ma-ri-a xưa.
+ Đức Ma-ri-a lên trời, nhưng luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cái Người. Ta hãy xin ơn được chết lành trong tay Đức Mẹ và sau này được hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam): Chúng ta cần hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mỗi khi cầu nguyện với Thiên Chúa, noi gương Hội Thánh thời sơ khai (x. Cv 1,14). Ta hãy gắn bó với Mẹ và nhờ Mẹ cầu bầu cùng Chúa ban ơn lành hồn xác cho ta như Mẹ đã làm cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa (x. Ga 2,3).
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến với Chúa noi gương Đức Mẹ: Tin những Lời Chúa phán, tìm hiểu ý Chúa dạy và xin vâng ý Chúa muốn, chấp nhận mọi may rủi xảy đến cho ta với lòng cậy trông phó thác.
1) Việc về trời của Đức Mẹ (Lễ Mông Triệu) giống và khác với việc lên trời của Chúa Giê-su (Lễ Thăng Thiên) ra sao ?
2) Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban thưởng hạnh phúc lên trời với Mẹ ?
1) LẠY CHÚA BA NGÔI CỰC THÁNH. Hôm nay con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thực hiện việc lớn lao nơi Đức trinh Nữ Ma-ri-a, là người con thân yêu và là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Chúa đã thương cho Mẹ trở nên giống Con của mình là Chúa Giê-su: nhờ giữ đức trinh khiết vẹn toàn, tâm hồn không vương chút bùn nhơ tội lỗi; Nhờ biết đặt trọn niềm tin vào lời Chúa phán sẽ được thực hiện; Nhờ luôn xin vâng ý Chúa để trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai; Nhờ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa; Nhờ thông phần với nỗi đau khổ của Chúa Giê-su trên đường thánh giá… mà Mẹ Ma-ri-a đã được Chúa ban thưởng bội hậu lên trời cả hồn lẫn xác.
2) LẠY ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN TỪ. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”. Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ trong cơn gian nan thử thách : khi bị thất bại trong việc làm ăn, những khi không biết phải làm gì để vượt qua khó khăn… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ che chở ủi an, để được Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giê-su, ban cho chúng con ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con đi vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su con yêu của Mẹ, như Mẹ đã dạy các gia nhân tại tiệc cưới Ca-na : « Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo » (Ga 2,5).
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn