Các Bài Suy Niệm Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô- C
Lời Chúa: St 14,18-20; 1Cr 11,23-26; Lc 9,11b-17
DẪN NHẬP
Lời Chúa: “Các con hãy nhận lấy mà ăn này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con; các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (1Cr 11, 24).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đòan phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật Mình Máu Thánh Chúa Kitô hôm nay cho chúng ta thấy, với năm chiếc bánh và hai con cá do lòng thương xót của Chúa, Chúa đã hóa ra nhiều nuôi dân. Hôm nay qua hy tế thập giá Con Thiên Chúa dâng trên bàn thờ, Chúa hiện diện trong Bí tích Thánh thể để nuôi dưỡng chúng ta:
Mình Thầy nhận lấy mà ăn,
Uống đi chén Máu ngàn năm nhớ Thầy.
Bánh xưa cá nướng còn đâu?
Nhưng Mình Máu Chúa ơn sâu suốt đời.
Hiện thân Thánh Thể Chúa mời,
Nay ta hãy biết đáp lời kính tôn.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta kết hiệp mật thiết với Mình Máu Thánh Chúa, bằng việc hiệp dâng thánh lễ và rước lễ mỗi ngày. Xin cho mỗi người chúng ta cũng trở nên tấm bánh cho nhiều người. Tâm tình đó, giờ đây chúng ta thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa là mục tử tốt lành. Chúa chăn nuôi và bảo vệ chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa hiện diện trong bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng con luôn mãi. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, đã ban cho chúng con Mình Máu Thánh Chúa để nuôi dưỡng đời sống chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Cuộc hành trình của dân Do thái đi vào đất hứa, là một cuộc hành trình kéo dài suốt 40 năm trường trong sa mạc đầy khó khăn và chịu thử thách trăm bề. Có lúc họ đã chán nản, thất vọng muốn bỏ cuộc nhưng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót luôn song hành với họ. Khi họ đói, Ngài cho Manna từ trời rơi xuống để họ ăn no nê. Khi họ khát, Ngài lại sai Môsê lấy gậy đập vào đá và nước tuôn chảy tràn trề khiến họ có nước uống và đàn súc vật cũng được uống thoả thích.
Thưa anh chị em, từ những nhu cầu thường ngày của con người cần lương thực để sống, nhất là trong những tình huống ngặt nghèo của khách lữ hành nơi sa mạc nóng bỏng thời xuất hành, giúp chúng ta cảm nhận được những nhu cầu lương thực cho tâm hồn và đời sống thiêng liêng. Đó chính là Mình Máu Chúa Kitô. Bài đọc 1 hôm nay đã diễn tả Abraham như một vị tướng lãnh quân sự vừa chiến thắng trong việc giải cứu Lót. Trên đường trở về, Abraham được Melkisêđê vua thành Salem đón tiếp chào mừng. Vị vua này được giới thiệu là Thượng tế của Thiên Chúa tối cao. Lễ vật bánh và rượu trên tay của Melkisêđê trao tặng cho Abraham là hình ảnh báo trước bánh và rượu Chúa Giêsu dâng để thiết lập bí tích thánh thể trong bữa tiệc ly. Cũng thế, trang Tin mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi hơn năm 5.000 người háo hức đi theo Chúa. Thánh Luca đã diễn tả phép lạ bằng những từ ngữ sẽ được sử dụng trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh thể: “Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng”. Như vậy, phép lạ này là hình bóng báo trước việc Chúa Giêsu sẽ lập Bí tích Thánh thể. Từ trong nhà tiệc ly năm xưa, khi Chúa Giêsu lập bí tích thánh thể, Bánh trở nên Mình Chúa và Rượu trở nên Máu của giao ước mới. Chúa Giêsu còn mời gọi “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. “Nhớ” ở đây không chỉ là hồi tưởng một biến cố đã xảy ra nhưng còn là hiện tại hóa mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô, nghĩa là có sự hiện diện bản thể của Chúa Kitô dưới hình bánh và rượu. Qua đó, Chúa Giêsu muốn mời gọi mọi người Kitô hữu hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống phục vụ, hy sinh, quảng đại và trao ban.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hôm nay Hội thánh mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, đây là dịp Mẹ Hội thánh muốn nhắc nhớ chúng ta một cử chỉ yêu thương để Người ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta hãy tạ ơn về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta qua Bí tích Thánh thể. Bí tích thánh thể là Bí tích tình yêu. Vì thế, mỗi khi chúng ta lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, chúng ta ý thức mình đang lãnh nhận tình yêu vô biên của Chúa, một sức mạnh tình yêu để từ đó xua tan những đà cản, những mối hận thù, bất hòa để sẵn sàng chia sẻ tình yêu đến với anh em, đến với tha nhân trong yêu thương, cảm thông và tha thứ. Khi xác định sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh thể, chúng ta siêng năng tham dự thánh lễ vì đó là cách thế tốt nhất để tuyên xưng niềm tin của Hội thánh. “Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”. Chúa đã hứa: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”.
Nguyện xin Mình Máu Thánh Chúa Kitô bổ dưỡng và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta, giúp chúng ta trở nên lương thực để có thể nuôi sống người khác. Amen
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
MỤC LỤC
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay có thể giúp chúng ta khám phá ra một vài khía cạnh chính yếu của bí tích Thánh Thể. Qua bài đọc thứ I chúng ta thấy Melkisêđê là một nhân vật lạ lùng. Ông là vua Salem, đã dùng bánh và rượu để dâng lễ tạ ơn Thiên Chúa trong thời đại mà truyền thống chỉ dùng chiên bò làm lễ vật. Ông vừa là vua lại vừa là thượng tế, và dường như ông đóng vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Từ đó, truyền thống Thánh Kinh đã coi ông như là kiểu mẫu cho chức tư tế và các cộng đoàn tín hữu, đã noi gương ông, dâng bánh và rượu như lễ vật tạ ơn Thiên Chúa để lãnh nhận những ơn phúc lành Thiên Chúa ban cho.
Tiếp đến qua bài Phúc Âm thánh Luca kể lại phép lạ bánh hoá nhiều. Chúa Giêsu đã nuôi 5000 người bằng 5 chiếc bánh và 2 con cá. Phép lạ này là hình ảnh của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ lập sau này. Ngài đã dùng chính thịt máu Ngài qua hình bánh rượu để làm lương thực nuôi dưỡng chúng ta.
Sau cùng thánh Phaolô đã kể lại việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể vào chiều ngày thứ năm tuần thánh trước khi Ngài chịu nạn. Rồi thánh nhân đã kết luận: Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chết cho đến khi Ngài lại đến. Vì thế, khi rước lễ thì chính Chúa hiện diện trong chúng ta, kết hiệp chúng ta lại với nhau và cùng nhau kết hiệp với Thiên Chúa, đưa chúng ta từ cõi chết đến nguồn sự sống vĩnh cửu. Chính Ngài đã phá huỷ để tái lập lại chúng ta nên con người mới.
Một sự chết đi và sống lại được thực hiện trong chính tâm hồn chúng ta. Điều đó xem ra có vẻ lạ lùng, nhưng lại là cách thức sinh tồn của vạn vật. Hạt giống không mục nát, không chết đi thì làm sao cây lúa có thể nẩy sinh. Con ngài không tự huỷ thì làm sao nở thành một cánh bướm xinh tươi. Chính nhờ vào sự chết đi mà tạo vật được tiến hoá.
Với chúng ta cũng vậy, khi chúng ta rước lấy Mình Thánh Đức Kitô là chúng ta thực hiện một cuộc tái sinh mới. Chúng ta từ bỏ bản thân để được kết hợp với Đức Kitô. Hơn thế nữa, Thánh Thể còn nuôi dưỡng và thực hiện trong chúng ta một đời sống mới. Người tín hữu phải biết chấp hành những biến đổi do Đức Kitô đem lại, phải từ bỏ mình để làm một cuộc mạo hiểm, vì chúng ta không biết được điều gì Đức Kitô thực hiện trong chúng ta. Đó là một đời sống mới mà chúng ta chưa bao giờ trải qua.
Bởi vậy, với lương thực thần linh bổ dưỡng chúng ta hãy biêt khử trừ những thói hư tật xấu để nhờ đó chúng ta sẽ được mặc lấy con người mới theo hình ảnh của Chúa.
Không gì quý bằng sự sống. Dù bị thiên tai càn quét hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng người nhà chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống trên cõi đời là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Sách Giảng Viên viết: “Thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết.” (Giảng Viên 9,4). Thà làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: “Mạng sống quý hơn đống vàng.”
Vì yêu thương con người vô hạn nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý nhất, đó là sự sống; và Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật (sự sống tự nhiên) mà còn thông ban cả Sự Sống thần linh của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban Sự Sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha, rồi Chúa Cha thông ban Sự Sống của mình cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con) và Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu xác nhận sự sống của mình từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì kẻ ấy nên một với Chúa Giêsu và tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban cho những ai tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc tiếp nhận Mình và Máu Chúa Giêsu khi rước lễ, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ. Họ sẽ được sống đời đời.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy.” (Trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa: “Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Thánh Thể Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người Do Thái quý trọng hạt lúa miến như thế nào thì người Việt Nam chúng ta cũng quý trọng hạt gạo biết bao.
Vì hạt gạo tượng trưng cho sự đầy đủ, sung túc và no ấm. Người Việt Nam còn coi hạt gạo, hạt cơm là “hạt ngọc” Trời cho để nuôi sống con người. Tuy nhiên, để có được hạt gạo con người cũng phải bỏ công sức với một nắng hai sương mà có. Trong bài thơ: “Hạt Gạo Làng Ta” của Trần Đăng Khoa viết năm 1968 khi nhà thơ vừa tròn 10 tuổi đã nói lên được một phần ý nghĩa đó:
“Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi hôm nay
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy.”
Ôi! Thật là một sự hy sinh, cần mẫn vượt lên trên cái nắng đổ lửa, gay gắt đến nỗi “Chết cả cá cờ / Cua ngoi lên bờ”, ấy thế mà: “Mẹ em xuống cấy”… Mẹ đâu quản nắng mưa, đầu tắt, mặt tối để kiếm bát cơm đầy cho con, cho gia đình ấm bụng. Cha đâu quản “một nắng hai sương”,“bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để vun trồng chờ ngày cho lúa trổ bông.
Vì thế, có ai đó đã nói rằng:
Ôi hạt lúa
Ngậm nắng uống sương
Hạt hình cong tấm lưng người cày cấy.
Cày cấy với biết bao mồ hôi, tần tảo hy sinh, nhưng để thành hạt gạo, hạt lúa lại còn bị thanh luyện một lần nữa để thành hạt gạo thơm ngon.
Ôi hạt lúa
rồi cũng thành hạt gạo
Đau đớn qua rồi
Gạo trắng tựa bông.
Có lẽ Chúa Giêsu khi chọn tấm bánh làm nên từ hạt lúa miến là biểu tượng cho chính thân thể Ngài, Chúa Giêsu cũng muốn nhắc nhở con người phải trân quý Tấm Bánh Trời Ban, vì đây cũng là dấu chỉ của một tình yêu cao cả không phải của con người làm ra mà là của Thiên Chúa ân ban. Tấm bánh biểu lộ tình yêu tự hiến hy sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Tấm bánh là thành quả của mồ hôi, của công sức, của hy tế hiến dâng để trở nên của ăn của uống cho nhân trần.
Trong Thánh Kinh ghi lại: “Trong đêm bị trao nộp, Chúa Giêsu cầm bánh bẻ ra và trao cho các môn đệ.” Tại sao không phải là một đêm thanh bình hay một ngày bình an để thiết lập Bí tích Thánh Thể? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn giữa lúc nguy nan trăm bề sợ hãi để trao ban Thánh Thể Mình cho các môn sinh? Có lẽ, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh yếu tố hy tế thập giá, là một hy tế tự hiến đầy hy sinh. Thánh Thể được làm nên trong hiến tế thập giá, trong máu và nước mắt của Chúa. Thiên Chúa đã làm tất cả điều đó vì yêu con người. Vì yêu mà Ngài chẳng màng những hy sinh, những đắng cay muôn phần. Cũng như một người mẹ chẳng quản ngại dầm mưa giãi nắng để gieo trồng hạt gạo thì Chúa Giê-su cũng đi vào cuộc thương khó để làm thánh tấm bánh hằng sống cho nhân trần. Nếu như cha ông ta đã từng đồng cảm với bao vất vả cực nhọc thấm đẫm mồ hôi của người nông dân, chân lấm tay bùn và lên tiếng nhắc nhở mọi người: “Ai ơi bưng bát cơm đầy / Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.” Có lẽ Giáo Hội cũng nhắc nhở chúng ta hãy trân trọng món quà Thánh Thể mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Một món quà vô giá vì được ban tặng trong hiến tế đẫm máu của Đức Kitô trên Thập giá. Một món quà mà Thiên Chúa đã vun đắp với trọn tình yêu hy sinh chết cho người mình yêu.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa là dịp để chúng ta tạ ơn về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Tình Ngài vẫn đong đầy cho chúng ta qua Thánh Thể Chúa. Tình Ngài vẫn chịu hiến tế vì chúng ta và qua đó trao ban cho chúng ta tấm bánh sự sống đời đời để: “Ai ăn bánh này sẽ không chết bao giờ”. Xin cho chúng ta luôn biết siêng năng đón nhận Thánh Thể Chúa là lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Ước gì chúng ta cũng biết hiến tế đời mình kết hợp với hiến tế của Chúa để sinh ơn ích cho mình và cho muôn người.
Xin Mình Máu Thánh Chúa bổ dưỡng và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con. Xin cho chúng con đừng bao giờ xa lánh ơn lành của Chúa. Amen.
Chúa Giêsu và các môn đệ đang đứng trước một cử toạ đông đảo, đói lời Chúa cũng như đói cơm bánh. Lúc ấy, trời đã về chiều mà địa điểm tụ họp lại là một nơi hoang vắng. Thánh Luca đã ghi lại Chúa Giêsu và các môn đệ có hai cách đối xử hoàn toàn khác biệt nhau trong cảnh huống đặc biệt ấy.
Các môn đệ thì đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để mỗi người tự lo liệu lấy cái ăn và nghỉ ngơi cho mình. Thật là đơn giản. Các môn đệ và cả Thầy của họ khỏi bận tâm vất vả, mặc dù giải pháp các ông đề nghị có thể đưa đến một tình trạng xáo trộn có thể là khung khiếp. Chúng ta thử mường tượng cả một đám đông, mà nguyên số đàn ông đã lên tới 5000, kéo vào một vài làng gần đó, chắc hẳn là không có những siêu thị hiện đại dư đầy hàng hoá, để sục sạo mua bán cái ăn thức uống. Cảnh giành giật, cấu xé nhau không thể không xảy ra. Và cảnh tượng ấy hiển nhiên là trái nghịch với cảnh Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vừa mới rao giảng cho họ. Các môn đệ như muốn giới hạn sứ vụ của các ông và cả của Chúa Giêsu vào những việc ngày nay quen gọi là việc đạo. Thực ra cứ lý tự nhiên mà xét, vào lúc này không thể làm gì hơn là giải tán để mỗi người tự lo liệu lấy. Giải pháp riêng xem ra vẫn dễ hơn và khoẻ hơn. Chẳng phải chúng ta nghĩ oan cho các môn đệ. Bởi vì ngay Chúa Giêsu cũng đã ra lệnh cho các ông: Các con hãy cho họ ăn đi. Các ông đã trả lời: Chúng ta chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, trừ khi chúng con phải đi mua thức ăn cho tất cả đám đông này.
Nhưng Chúa Giêsu thì lại có một thái độ khác hẳn. Ngài không thể bỏ mặc đám đông đã đi theo Ngài. Sứ mạng của Ngài, như Ngài đã từng khẳng định: Không phải là mưu tìm cơm áo cho những kẻ thiếu thốn bởi vì chính Ngài đã bỏ trốn khi đám đông tìm Ngài để tôn Ngài lên làm vua sau khi được Ngài làm phép lạ cho họ ăn no nê. Nhưng Ngài không giới hạn sứ mạng của Ngài vào những việc thiêng liêng, để rồi làm ngơ trước cái đói, cái khó khăn, cái cùng quẫn của con người. Và ở đây Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ của Ngài bài học, đó là phải biết quan tâm về cuộc sống của những người chung quanh. Mọi sự đều được bắt đầu từ sự quan tâm này. Đồng thời không có sự quan tâm này thì mọi sự đều trở nên khó khăn. Trái lại, khi đã có sự quan tâm nhập cuộc, thì tình hình khó khăn sẽ được giải quyết như bởi một phép lạ. Dĩ nhiên, sự quan tâm đến người khác đòi hỏi chúng ta phải đầu tư sức lực, trí tuệ và khả năng để đáp ứng những nhu cầu của họ. Và như thế sự quan tâm cũng có nghĩa là tự hiến mình cho kẻ khác.
Và Chúa Giêsu đã thể hiện tới cùng sự quan tâm này nơi chính bản thân của Ngài, bởi vì Ngài đã ban chính thịt máu Ngài, nghĩa là trọn vẹn cuộc sống của Ngài cho kẻ khác: Các con hay cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các con hãy cầm lấy mà uống vì này là máu Ta. Cử hành Thánh Thể chính là lặp lại cử chỉ tự hiến của Chúa Giêsu: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Thánh Thể không phải chỉ là một nghi lễ, nhưng hơn thế nữa còn là một thái độ sống, một sự quan tâm, một sự dấn thân vì hạnh phúc của người khác.
(Trích trong ‘Hãy Ra Khơi’)
Hôm nay, tôi bỗng chợt nhớ đến một kinh nghiệm sống trong gia đình và thường được lặp đi lặp lại mãi trong thời gian tôi 57 tuổi. Cứ mỗi lần mẹ tôi làm bánh hay cha tôi tát các mương đìa quanh nhà bắt cá thì tôi thèm thuồng ngồi bên nồi bánh vừa chín hoặc tiếc nuối những rổ tôm cá. Thèm thuồng vì rổ bánh chín mà mình muốn ăn nhưng mẹ tôi lại cứ lấy đi phân chia, bảo tôi đem cho người này người nọ, hoặc hối tiếc những con tôm, con cá mà mẹ tôi bắt đem cho các gia đình hàng xóm, những người cần đến. Mỗi lần bảo tôi mang đi cho người khác thì tôi không muốn cho đi, bấy giờ mẹ tôi lại bảo: “Con ạ, mình giữ lại ăn thì hết mà cho người ta ăn thì còn mãi”. Tôi không bao giờ quên lời nói đơn sơ này đi kèm với chính hành động chia bánh, chia cá cho những người xung quanh.
Hôm nay đọc lại đoạn Tin Mừng của lễ Mình Máu Thánh Chúa, kinh nghiệm gia đình tôi đã trải qua và nhất là lời giải thích của mẹ tôi: “Mình ăn thì hết, người ta ăn thì còn”. Một lần nữa lại xuất hiện và giúp tôi phần nào hiểu thêm kinh nghiệm mà các tông đồ đã trải qua ngày xưa trong biến cố được kể lại trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa đọc qua. Vào thời điểm của biến cố, chắc chắn các tông đồ đã được nhìn thấy nhiều việc làm của Chúa Giêsu để thực hiện tình thương đối với con người. Những lời nhắn nhủ dạy bảo của Chúa đã đánh động các ngài là sẽ không được sống ích kỷ, không được mơ ước vinh quang, danh vọng, địa vị cho bản thân khi theo Chúa. Thế nhưng, khi phải đối diện với một nhu cầu cụ thể của muôn người đang theo Chúa mà bị đói thì các ngài có phản ứng tránh né, thoái thác, không muốn hy sinh làm một cái gì đó để giúp vào. Các ngài đã nhắc khéo Chúa cho đoàn người ra về để họ tự lo giải quyết lấy vấn đề ăn uống. Chúa Giêsu đã làm ngược lại, Ngài ra lệnh: “Các con phải cho họ ăn”. Làm đồ đệ của Chúa, nhất là trong địa vị các tông đồ thì càng không thể chối từ trước lời mời gọi của tình bác ái liên đới. Và không để các tông đồ sống trong một thái độ tiêu cực lâu hơn nữa. Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông cộng tác vào công việc cho đi của Ngài. Trước hết, bằng việc chịu cực một chút, dấn bước hơn một chút để ra khỏi cái tôi ích kỷ, để tổ chức đám đông ngồi xuống bãi cỏ thành từng nhóm cho có trật tự.
Chắc chắn, đây cũng là một công việc khá phức tạp so với phương tiện thời đó. Phức tạp hơn là việc rửa chén quét nhà, rót cho người khách một ly nước, dù chỉ là một ly nước lã, nếu phải ly nước trà lại càng phải hy sinh nhiều hơn nữa: “Con ạ, mình ăn thì hết, người ta ăn mới còn”. Không biết mẹ tôi đã học được lẽ khôn ngoan này nơi đâu? Chắc chắn không phải nơi sách vở, vì mẹ tôi chỉ học xong tiểu học, như vậy có thể là từ Chúa. Tôi không biết. Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ cầm lấy bánh và cá mà Ngài vừa chúc phúc để đem phân phối cho dân chúng. Như mẹ tôi đã bảo tôi đem bánh, đem cá đi cho người xung quanh để họ cũng được hưởng một bữa ăn ngon như nhà tôi lúc tát đìa hoặc làm bánh. Cử chỉ Chúa Giêsu thực hiện và được mô tả trong đoạn Phúc âm của thánh Luca hôm nay loan báo cho các môn đệ là Chúa sẽ thiết lập Bí tích Thánh Thể sau này. Chắc chắn sau kinh nghiệm sống với Chúa, các tông đồ hiểu được bí quyết sâu xa của Bí tích Thánh Thể, hy sinh chính bản thân mình như Chúa để nên của ăn đem lại hạnh phúc vui mừng cho anh chị em.
Chúng ta có thể nói, mừng lễ kính Mình Máu Chúa hôm nay như là ôn lại một kinh nghiệm gia đình, kinh nghiệm đại gia đình Giáo Hội của chúng ta. Bí tích Thánh Thể là trung tâm trong đời sống của mỗi người chúng ta cũng như là trung tâm của sinh hoạt Giáo Hội. Mỗi người chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội đều được mời gọi ôn lại kinh nghiệm gia đình mà Chúa Giêsu đã thực hiện với các tông đồ ngày xưa, Ngài mời gọi các tông đồ hãy cộng tác với Ngài để cho đi, cho đi chính Ngài, cho đi chính bản thân của họ. Mỗi người chúng ta hôm nay cử hành lễ Mình Thánh Chúa, chúng ta cũng được mời gọi cho đi chính mình như Chúa đã cho đi. Chúng ta tôn thờ sự hiện diện của Chúa không đủ, chúng ta còn phải để cho Chúa sống trong chúng ta, để Chúa cho đi trong chúng ta và chúng ta được mời gọi cho đi như Ngài. Xin Chúa củng cố đức tin cho chúng ta, để chúng ta cho đi trong tình thương bác ái, để chúng ta được sống như Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể mỗi ngày như Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
Ông tổ Abraham đi cứu người cháu là ông Lot bị bắt giữ, khoảng 1850 năm trước khi Chúa Giêsu giáng trần. Trên đường trở về đi qua Salem, ông Abraham đã gặp ông Melchizedek vừa là vua và là tư tế. Melkizedek đã dâng bánh và rượu cho Abraham. Bánh và rượu là biểu tượng của Bí tích Thánh Thể sau này được hiến dâng bởi tư tế theo dòng Melkizedek: Ông Melkizedek, vua thành Salem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao (Stk 14, 18). Từ thuở xa xưa, con người đã biết biến chế hạt miến, hạt mì thành bánh và ép những trái nho ủ lên men thành rượu. Đây là một tiến trình hòa lẫn biến đổi bánh rượu thật tuyệt vời. Tất cả mọi loài vật khác trên địa cầu đều ăn tươi nuốt sống theo luật tự nhiên. Riêng con người, bánh và rượu là căn cốt thực phẩm được chế biến để đáp ứng nhu cầu ăn uống của con người mọi thời và mọi nơi.
Trong ba năm rao giảng, phúc âm kể lại hai lần Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Trước khi Chúa làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều, Chúa đã dạy dỗ và an ủi chữa lành bệnh tật cả tâm linh lẫn thể xác. Chúa yêu thương đoàn dân như chiên không có người chăn dắt. Người ta mải mê nghe lời Chúa quên cả ngày giờ. Chúa cảm thông mọi nỗi khát khao của họ. Chúa cho họ các món ăn cả tinh thần lẫn thân xác. Hôm nay, Chúa muốn các tông đồ lo liệu thức ăn cho đám đông. Thật là bối rối, của ăn đâu cho đủ để nuôi cả mấy ngàn người: Đức Giê-su bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này.” (Lc 9, 13). Chúa muốn thử thách các các tông đồ một chút. Với lòng cảm thương sự đói khát của đoàn dân, Chúa đã sẵn sàng dùng bánh và cá như dấu chỉ của trời cao trao ban: Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông (Lc 9, 16).
Có thể chúng ta cũng cảm thấy hơi lạ, dân chúng ăn bánh với cá. Bánh là thức ăn chung của nhiều dân tộc nhưng với cá khô nướng hay cá kho. Mỗi dân tộc có những món ăn riêng biệt làm nên căn tính con người. Thức ăn nuôi dưỡng con người cả tinh thần lẫn thể chất. Thức ăn đi đôi với suy tư, quan niệm và triết sống. Đại khái thức ăn biểu trưng của người Việt Nam là cơm gạo, người Căm Bốt có mắm Bồ hóc, người Ấn Độ có món Cari, người Đại Hàn có Kim chi, người Trung Hoa có Mì phở, người Ý có Pizza, người Hoa Kỳ có Hamburger và người Mễ Tây Cơ có Taco, đỗ đậu…Thức ăn làm nên căn tính của mỗi dân tộc. Chúng ta tôn trọng sự khác biệt trong vấn đề văn hóa thực phẩm. Món ăn của các Kitô Hữu trên toàn thế giới, không phân biệt mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, chúng ta cùng ăn chung một thứ bánh và uống chung một chén rượu. Bánh và Rượu của Bí Tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã chọn lựa. Khi chúng ta được ăn bánh và uống chén của Chúa, chúng ta trở nên chi thể mầu nhiệm của Chúa Kitô.
Khi hoàn tất việc rao giảng Tin Mừng, trước khi Chúa Giêsu từ giã thế gian, Ngài đã để lại cho Giáo Hội một gia bảo quý giá vô cùng. Cũng bánh đó, rượu đó mà chúng ta được dưỡng nuôi hằng ngày. Chúa Giêsu đã chọn lựa bánh rượu trong muôn ngàn loại thực phẩm để hiến thánh. Trong bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng, Chúa Giêsu đã cử hành một nghi thức hết sức nhiệm mầu: Trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy ( 1Cor 11, 24). Và Chúa đã chọn rượu nho để thánh hiến trở thành Máu Chúa. Chất rượu trong chén thánh là giá máu của giao ước mới. Chúa Giêsu dùng cả bánh và rượu biến đổi thành thịt và máu thánh Chúa: Cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”(1 Cor 11, 25).
Đây là mầu nhiệm đức tin. Các tín hữu tuyên xưng sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể. Niềm tin vượt trội trên tất cả mọi việc cử hành phụng vụ. Người không thuộc trong đạo Công Giáo, không thể nào hiểu nổi, tại sao người tín hữu lại tin vào tấm bánh bé mọn và chén rượu nho đó là Mình Máu Thánh Chúa. Không có một tôn giáo nào trên thế giới có niềm tin vào sự biến đổi bản thể của một sự vật như thế. Trong cử hành thánh lễ, qua lời truyền phép của linh mục, bánh và rượu trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa. Một sự biến đổi lạ lùng qua quyền năng của Chúa Thánh Thần. Mọi người tuyên xưng niềm tin và phủ phục tôn thờ Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh hình rượu. Và khi trao Mình Máu Thánh, linh mục hay thừa tác viên xác tín: Mình Thánh Chúa Kitô, Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen. Có nghĩa là chúng ta tin thật Chúa hiện diện đó.
Các linh mục thay mặt Chúa và Giáo Hội dâng thánh lễ mỗi ngày. Giám mục và linh mục đều là con người yếu đuối, tội lỗi và mỏng dòn chứa đầy tham thân si. Qua sứ vụ, Chúa đã chọn gọi những con người tầm thường để thi hành việc thánh. Thật ra, không ai là người xứng đáng đại diện đứng trước bàn thánh để dâng thánh lễ. Trong lễ hiến tế, Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa bị lột trần, bị đòn đánh nát thân, mồ hôi cùng vết thương rướm máu chảy lan, chân tay bị đóng chặt vào thánh giá, chịu đói chịu khát, quằn quại đớn đau và máu cùng nước từ cạnh sườn đã chảy ra tới giọt cuối cùng. Vì đuối sức, Chúa bị nghẹt thở và đã chết trên thánh giá để cứu độ nhân loại. Chén Máu đã đổ ra lập giáo ước mới không chỉ trong bữa tiệc ly mà là chén máu châu báu đang hứng từng giọt từ châu thân của Chúa trên thánh giá. Chén Máu của nhục hình khổ đau và chết.
Trên gian cung thánh, trước bàn thờ dưới chân thánh giá Chúa, các chủ tế mặc áo lễ thiệt đẹp, có khi rước sách linh đình, chén vàng bát kiểu, bàn thờ đá quí và hoa nến trang trọng. Các linh mục cử hành thánh lễ trong không gian rộng rãi, thoáng mát và chẳng phải chịu nắng nôi đớn đau và khổ sở như Chúa Giêsu trên thập giá xưa. Mỗi linh mục cần ý thức vai trò đại diện quan trọng của mình trong khi cử hành thánh lễ. Các linh mục có trọng trách giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người. Chúa Giêsu là vai chính. Chúng ta biết rằng thánh lễ hy tế là trung tâm của tất cả niềm tin Kitô Giáo. Cử hành thánh lễ tưởng niệm sự hiện diện của Chúa Kitô chịu chết và sống lại. Thánh lễ là cử hành Bí tích tình yêu dâng hiến. Thánh Phaolô lãnh nhận giáo lý từ chính Chúa Giêsu phục sinh và truyền lại cho các thế hệ, Ngài nhắc nhớ: Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết (1Cor 11, 26). Chúng ta ăn Bánh và uống Chén hằng tuần, chúng ta tiếp tục loan truyền Chúa chịu chết và sống lại. Mỗi lần lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta được biến đổi nên giống Chúa hơn.
Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con Bí Tích Thánh Thể là nhiệm tích vô cùng cao quí, chúng con cùng phục bái tôn thờ. Chúa hiện diện trong Thánh Thể để an ủi và cảm thông những gánh nặng cuộc đời: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Hơn nữa, Chúa còn dưỡng nuôi chúng con bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa, xin cho chúng con được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt trong ân tình Chúa.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Theo truyền thống từ thế kỷ XIII, lễ kính Mình Máu Thánh Chúa được Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264 và được cử hành vào thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức là 60 ngày sau lễ Phục sinh. Lễ này gồm hai phần: Thánh lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Festum Corporis Christi, và cao điểm Rước Kiệu Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường và hát bài của Thánh Tôma Aquinô: Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê. (Ca nhập lễ)
Cử hành Thánh Thể
Giáo hội long trọng công khai Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Mầu nhiệm đã được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được nhớ đến vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho tất cả, được bao bọc bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội.
Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, đức tin chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta: Làm sao Bánh lại có thể là mình Chúa Kitô và Rượu lại là máu Chúa Kitô được?
Chúng ta tin, Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, Bí tích cần thiết để dẫn dắt chúng ta trên con đường về tới thiên đàng! Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã hứa không để chúng ta mồ côi: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Nhưng Ngài ở lại với chúng ta thế nào khi trở cùng Cha? Bí tích Thánh Thể là kho tàng cao quí thể hiện lời hứa trên.
Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta. Giáo Hội quả quyết rằng: Sự hiện diện thật của Ngài trong Bí tích Thánh Thể là chân lý cơ bản của Đức Tin Công Giáo. Chúng ta phải tôn thờ, Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta biết: Con độc nhất của Thiên Chúa, muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, Ngài đã làm người thực sự. Để cứu chuộc con người, Ngài đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là máu châu báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người. Vì thế, Ngài được các tín hữu ăn: “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống” (Ga 6,55-56). Từ phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông trong hoang địa. Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta (Lc 9, 11b-17).
Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Ngài đối với chúng ta: “Trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn…”. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: “Các con hãy cầm lấy mà uống. Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (1 Cr 11, 23-26). Thật là niềm an ủi cho những người đã buồn vì sự vắng mặt của Chúa,” (Bài giảng của Thánh Thomas Aquinas, Booklet 57).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Ngài lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Ngài kết hợp chúng ta với Ngài, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy.” (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta: “Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Ngài đã sinh ra thì Ngài nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Ngài làm cho ta vững tin rằng Ngài đã mang lấy chính xác thân của ta”. Ngài tan biến trong chúng ta, “làm một với chúng ta”, “làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài” (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là truyền thống rước kiệu Mình Thánh Chúa.
Rước kiệu Mình Thánh trên các nẻo đường
Khi kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ. Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà dành cho Chúa, đường đời ta là đường của Chúa Giêsu. Xin Chúa Giêsu luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta.
Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh nuôi sống đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm, từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời đời với Người. Amen.
Ở trong nhà tiệc ly chiều hôm thứ năm thánh ấy, Chúa Giêsu đã cầm bánh và rượu lập nên phép Thánh Thể. Bánh đã trở nên mình Chúa, rượu đã trở nên máu Chúa. Thì cách đó độ 300 thước, trên sân đền thờ người Do-thái cũng giết con chiên lấy máu rẩy lên bàn thờ, họ dâng bánh thánh theo luật Môisen dạy. Ngài cũng làm một nghi lễ, nhưng mặc cho nghi lễ ấy một ý nghĩa sâu xa: Ngài vừa là Thầy cả vừa là của lễ hiến tế dâng lên Đức Chúa Cha, vừa là của nuôi linh hồn ta.
Trong bài đọc I, Kinh Thánh kể lại việc Môisen làm hy lễ giao hòa bằng cách lấy máu bò tơ tưới lên bàn thờ. Người xưa coi máu là sự sống, cấm đổ máu người ta là cấm hại mạng sống người vì mạng sống thuộc quyền của Chúa; người xưa lấy máu để tỏ tình đoàn kết giao hòa. Hai bộ lạc dễ tỏ tình đoàn kết thì cho hai vị thủ lãnh gặp nhau, lấy dao rạch máu ở tay, và đôi bên uống máu nhau. Bằng nghi thức ấy, họ cho rằng hai bên đã uống nguồn sống của nhau và đã trở nên anh em, đã giao hòa mãi mãi với nhau. Môisen đã làm nghi lễ ấy khi lấy máu bò tơ, đại diện cho toàn dân để tưới lên bàn thờ Thiên Chúa: giữa Thiên Chúa và dân đã có một cuộc giao hòa vĩnh viễn.
Khi lập nên phép Thánh Thể, Chúa Giêsu đã hoàn tất việc giao hòa giữa ta với Thiên Chúa. Máu thánh của Ngài chảy trong huyết quản của ta, làm cho ta giao hòa nơi Thiên Chúa, Ngài ở trong ta như ta ở trong Ngài. “Này là chén máu Ta, máu tân ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được khỏi tội”. “Nếu các con không ăn thịt và uống máu Ta thì các con không có sự sống đời đời”.
Thánh Thể là một cuộc giao hòa – Thánh Thể là một lễ tế.
Chúa Giêsu biết giờ sau hết của Ngài đã gần đến thì Ngài yêu thương ta đến tận cùng. Ngài đã làm gì? Ngài diễn tình yêu ấy ra trước cuộc tử nạn của Ngài sẽ xãy ra ngày mai; Ngài cầm bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán: “NÀY LÀ MÌNH TA”. Bánh ấy đã trở nên mình Ngài, mà ngày mai sẽ bị roi đòn đánh đập, bẻ gẫy như chiếc bánh hôm nay, đã hiến tế dâng lên Đức Chúa Cha và làm của ăn nuôi linh hồn ta. Hai việc ấy là hiến dâng và nuôi sống linh hồn ta, chính là một cuộc lễ hiến tế và Ngài muốn chúng ta phải làm đi làm lại: “Chúng con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.
Vậy phép Thánh Thể là cuộc giao hòa chúng ta với Chúa, là việc tế lễ ta với Chúa. Hôm nay mừng mầu nhiệm ấy, chúng ta hãy dâng tất cả để tôn vinh và cảm tạ Chúa, vì đã ban cho chúng ta phép Thánh Thể.
Cách đây không bao lâu, một đám thợ lặn đã tìm ra chiếc tàu Tân Ban Nha bị chìm dưới đáy biển ngoài khơi Bắc Ái Nhĩ Lan. Trong số các báu vật tìm được trong tàu, họ thấy một chiếc nhẫn bằng vàng, trên mặt nhẫn có chạm một bàn tay nắm trái tim với dòng chữ:
– Anh không còn gì hơn nữa để cho em!
Hình ảnh về câu nói trên nhắc chúng ta nhớ đến việc Chúa Giêsu đã chịu chết để cứu chuộc chúng ta. Trái tim người đã bị đâm thủng vì chúng ta và Ngài còn tự nguyện trở nên thần lương cho đời sống Kitô hữu của chúng ta trong Bí tích Thánh Thể.
Nhiều nhà thần học gia nói rằng: việc Chúa Giêsu từ bỏ ngai Trời của mình hoá thân làm người cũng đủ cứu chuộc chúng ta rồi. Thế nhưng, với lòng yêu thương chúng ta quá bội, Ngài còn muốn trao ban cho chúng ta tất cả tình yêu, trao ban cả mạng sống của Ngài. Chính sự hy sinh vô cùng này có sức cứu chữa tất cả mọi tâm hồn tội lỗi, tha thứ mọi hình phạt mà con người đáng phải chịu. Ai yêu mến Chúa hết lòng, và ước ao trở nên một với Ngài trong Bí tích Thánh thể, sẽ được nên giống Chúa và chắc chắn sẽ được phần thưởng Nước Trời.
Thời nay, chúng ta không được gặp Chúa Giêsu, không được nghe Người giảng trực tiếp như các Tông đồ ngày xưa, nhưng chúng ta có Bí tích Thánh thể. Chúa Giêsu không muốn chúng ta thiệt thòi hơn dân Do Thái xưa nên Người đã lập Bí Tích Thánh Thể, để tiếp tục ở với chúng ta, đến với từng người chúng ta như xưa Người đã đến trong dân Do Thái. Mỗi lần chúng ta tham dự Thánh lễ là chúng ta được nghe lại lời Chúa và suy niệm theo sự gợi ý của vị linh mục, sau đó được rước chính Chúa vào lòng như xưa kia Giakêu, Phêrô, chị em Lazarô… đã rước Chúa vào nhà mình. Giáo lý Công giáo dạy rằng: mỗi khi chúng ta rước lễ là được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và hợp nhất với nhau, được tha thứ các lỗi nhẹ, được Chúa thêm sức giúp chúng ta chống trả các cơn cám dỗ… Vấn đề là chúng ta có cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong lòng mình không? Hay chúng ta rước lễ vì thói quen, rước rồi mà không nhớ là Chúa đang ngự trong lòng mình, quên việc tiếp đón và tâm sự với Chúa. Nếu chúng ta rước Chúa cách thờ ơ như vậy thì không chừng đáng bị phạt hơn là được ơn. Vì vậy, phải chuẩn bị tâm hồn kỹ lưỡng trước khi rước Chúa. ước gì mỗi lần rước Chúa, chúng ta đều rước với lòng yêu mến chân thành, cung kính để an ủi trái tim Chúa và nhận được tràn đầy ơn ích thiêng liêng.
Xưa kia, Thiên Chúa ngự xuống núi Sinai và nhắn gởi những lời thương yêu, nhắc bảo, sửa dạy dân chúng mà dân Do Thái cảm thấy rất phấn khởi và đầy lòng kính sợ Chúa. Còn chúng ta rước Chúa thường xuyên với tâm tình nào? Chúng ta có sẵn sàng lắng nghe lời Chúa và vâng theo thánh ý Chúa Cha như Đức Giêsu không? Có lẽ chúng ta chưa được như vậy! Vì vậy, hôm nay chúng ta hãy xin Chúa ngự vào lòng và làm cho long chúng ta bừng cháy lửa yêu mến Chúa, vui long hy sinh phục vụ cho gia đình, và tha nhân, chu toàn các bổn phận mà mình đã lãnh nhận trong chức vị hiện tại của mình đối với Giáo Hội và xã hội.
Xin Mình Máu Thánh Chúa mà chúng con rước lấy hàng ngày thêm sức cho linh hồn con, cho tâm trí con được chan chứa tình thương và lòng vị tha bác ái, để chúng con thật sự là chứng nhân cho Chúa giữa trần gian này.
Lễ nào không phải là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu hay sao, mà phụng vụ còn phải đặt ra ngày lễ hôm nay? Đó là vấn đề đã được tranh luận sôi nổi ở cuối thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV trước khi lễ kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được phổ biến ở mọi nơi. Trước đó, tức là trong hơn 10 thế kỷ đầu của Kitô giáo, Hội Thánh vẫn cử hành thánh lễ tạ ơn, nhưng không nghĩ tới việc đặt ra một ngày lễ đặc biệt để tôn thờ Chúa Giêsu ngự nơi Thánh Thể. Hội Thánh coi Thánh Thể là lương thực hàng ngày nên không để ý quan sát, mà chỉ quan tâm lãnh nhận. Sang đến cuối thế kỷ XII, vì có người đặt vấn đề sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể, Hội Thánh mới thấy việc chiêm ngưỡng và suy nghĩ về bí tích này là cần thiết. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được đặt ra để nói lên niềm tin vào việc Chúa ngự nơi Thánh Thể. Và niềm tin này đòi hỏi việc tôn thờ xứng đáng, biểu hiện trong thái độ chầu Mình Thánh và kiệu Mình Thánh. Đó còn là những việc mà chúng ta muốn làm hôm nay cùng với việc dự lễ và rước lễ để nói lên lòng tin yêu của chúng ta đối với bí tích Thánh Thể.
Nhưng cho dù chính đáng, những cách thức biểu lộ niềm tin này vẫn không cần thiết bằng việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể mà Hội Thánh vẫn quan tâm ngay từ đầu. Và những bài đọc Kinh Thánh hôm nay muốn giúp chúng ta làm công việc này.
Bài sách Khởi Nguyên đưa chúng ta về một thời đại xa xưa, thời của tổ phụ Abraham. Hôm ấy vị tổ phụ đi giao chiến để cứu anh em mình là gia đình ông Lót. Abraham đã toàn thắng. Trên đường về có vua ở Sôđôma ra đón để chúc mừng và tỏ tình thân thiện. Lại có vua ở Salem là Melkisedek cũng ra gặp gỡ.
Tác giả sách Khởi Nguyên chỉ dùng có ba câu để thuật lại câu truyện. Nhưng đây là ba câu đã có ảnh hưởng lớn trong truyền thống của Kinh Thánh. Hết mọi từ ngữ đều có ý nghĩa. Melkisedek, nếu chiết tự thì có nghĩa là Vua Công Chính. Và Salem không những là tên được đồng hóa với Giêrusalem mà còn gợi lên tư tưởng Hòa Bình. Chắc chắn câu truyện kể ở đây đã thành danh tiếng vì nó đã xảy ra tại Giêrusalem, ở ngay thời của tổ phụ dân Chúa. Người ta truyền tụng nó để đề cao Giêrusalem, và để nói lên rằng: thủ đô của dân Chúa đã được vị tổ phụ của dân tộc đặt chân đến.
Hơn nữa, ở đây, nơi đô thị ‘Hòa Bình’ này, vị tổ phụ đã gặp một nhân vật ‘mầu nhiệm’. Ông không phải chỉ là vua, mà còn mang danh hiệu là ‘ông vua công chính’. Về sau người ta đã cố gắng tìm hiểu lai lịch của ông, nhưng mọi nỗ lực chỉ đi đến một kết luận: ông như không cha không mẹ; ông đột nhiên xuất hiện rồi lại biến mất tăm hơi. Ông là con người mầu nhiệm, y như thái độ của ông trong câu truyện này.
Ông ra đón Abraham, nhưng khác hẳn với vua Sôđôma đã ra gặp vị tổ phụ. Vì mặc dù là Vua Salem, ông đã không nghênh đón ‘người đại thắng khải hoàn’ theo cung cách triều đình, nhưng với tác phong là tư tế; vì theo tục lệ đông phương thời ấy, hoàng đế cũng là tư tế. Ông mang bánh và rượu ra. Ông làm một cử chỉ tôn giáo. Ông chúc lành cho Abraham và ông ca tụng Chúa Tối Cao. Ông dùng chính vị Chúa của mình là Đấng Tối Cao dựng nên trời đất để chúc phúc. Ông làm cho Abraham như phải cúi đầu và dâng cho ông thập phân về hết mọi sự.
Có lẽ hàng tư tế Do Thái đã thích câu truyện này và muốn lợi dụng tối đa. Họ nhắc đi nhắc lại để cho con cái Israel phải quý việc nộp thập phân huê lợi cho hàng tư tế, vì chính vị tổ phụ đã làm như thế!
Nhưng phần lớn truyền thống Cựu Ước lại chú ý đến vai trò tư tế của Melkisedek và vị Chúa Tối Cao mà ông tôn thờ. Ngài là Đấng dựng nên trời đất, nên Ngài cũng là chính Giavê, Chúa của dân Israel. Ngài đã phó địch thù trong tay Abraham, và như vậy Ngài là Chúa toàn năng của tất cả mọi người, cả khi người ta không biết Ngài. Tất cả những tư cách này khiến con cái Israel –cũng như tổ phụ Abraham thấy ngay Ngài cũng là Thiên Chúa của họ và Giêrusalem thật là nơi thánh địa, vì từ đầu vẫn là đô thị của Thiên Chúa.
Điều này cũng nói lên quan niệm của Cựu Ước không coi tôn giáo tự nhiên, tôn thờ Đấng dựng nên trời đất, như tôn giáo của các dân ngoại. Ngoại giáo là tà giáo, chứ tôn giáo tự nhiên thờ Đấng Tối Cao là chính giáo ở thời chưa được mạc khải, nên vẫn đáng trọng.
Tuy nhiên Cựu Ước chưa chú trọng đến bánh rượu ở trên tay Melkisêdek như phụng vụ muốn cho chúng ta phải làm trong ngày hôm nay. Những của lễ kia, nằm trên tay vị tư tế mầu nhiệm của tôn giáo tôn thờ Đấng Tối Cao là hình ảnh báo trước bánh rượu sẽ được đôi tay của vị tư tế đạo mới dâng lên sau này. Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất, ngay từ buổi đầu của lịch sử dân Chúa, đã tỏ ra muốn dùng bánh rượu làm lễ vật. Những của lễ này nằm trên tay Melkisêdek nói lên lòng tôn thờ tự nhiên, chuẩn bị cho việc tôn thờ hoàn chỉnh sau này.
Do đó ngày nay trong Thánh lễ, chúng ta dâng lên Chúa bánh rượu ‘là hoa mầu ruộng đất và lao công vất vả của con người’ để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh lễ của chúng ta kiện toàn lễ dâng của Melkisêdek. Bánh rượu trên tay vị tư tế này đang chờ được vị thượng tế đạo mới thánh hóa. Và như vậy, Thánh lễ của chúng ta đã bắt nguồn từ xa xưa và kiện toàn mọi lễ dâng từ thời Abel qua Melkisêdek và cho tới nay. Chúng ta không dâng lễ ở ngoài lịch sử, nhưng dâng tất cả lịch sử làm của lễ khi nhận lấy bánh rượu đã được dâng từ thời Melkisêdek để trở nên bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho chúng ta.
Và Melkisêdek là hình ảnh báo trước về Chúa Kitô và các tư tế của Người, trong đó có cả chúng ta. Do đó, mỗi khi dâng lễ, chúng ta lại nhớ tới vị tư tế xa xưa này. Mỗi khi cầm bánh rượu, chúng ta như nắm lấy tất cả thiên nhiên và lịch sử. Chúng ta muốn tất cả trở thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta sau khi đã biến đổi nên Mình và Máu Chúa Giêsu. Chính Người với lễ hy sinh của Người nối kết và hoàn chỉnh mọi lễ dâng của các thế hệ xa xưa cũng như của những thế hệ sau này. Chúng ta hãy nhìn Người trong hành vi tế lễ.
Chắc chắn, khi còn ở trần gian và sống với các môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần cầm lấy bánh rượu. Nhưng có thể nói, môn đệ đã quên hết mọi lần khác để chỉ nhớ lại một lần, lần xảy ra trong bữa ăn tối sau hết trước khi Ngài ra đi chịu chết.
Lần ấy Người đã cầm lấy bánh rượu một cách khác thường, không thể quên được, đến nỗi mỗi khi nhắc lại đã có lần nào Người cầm bánh rượu, là môn đệ lại nhớ đến lần này và lấy cử chỉ, thái độ của Người trong lần này để mô tả mọi lần khác. Chính vì vậy mà hôm nay chúng ta xem bài thư Phaolô trước nói đến lần Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu ở bàn Tiệc ly. Rồi chúng ta mới nói đến bài Tin Mừng kể việc Đức Giêsu cầm lấy bánh để chia trong một dịp khác.
Việc này xảy ra trước bữa Tiệc ly; nhưng như đã nói, môn đệ Chúa đã kể lại việc này theo ‘khuôn mẫu’ của việc Người cầm lấy bánh rượu ở trong bữa ăn cuối cùng. Thành ra, chính bài thư Phaolô sẽ giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng, mặc dù câu truyện kể ở đây đã xảy ra trước, nhưng đã được viết lại sau và theo kinh nghiệm bàn Tiệc ly.
Thánh Phaolô viết đoạn thư này vào khoảng năm 57, căn cứ vào truyền thống chân thật, đây là điều người đã nhận được nơi Chúa, tức là bắt nguồn từ Chúa để truyền lại cho tín hữu. Do đó, đây là sự kiện chân thật. Chỉ có uy tín chân thật này mới có thể làm cho giáo dân Côrintô suy nghĩ và sửa mình.
Họ vẫn hội họp nhau để cử hành ‘bữa tiệc của Chúa’. Nhưng Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là ‘của Chúa’ cả. Gần giống các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại rồi. Bởi vì ai đến ăn, cũng mang phần riêng của nhà mình tới. Người có nhiều thì ngồi chung với nhau ăn nhậu một cách tham lam và khinh bỉ những người khác. Những người này nghèo hơn, mang theo phần ít, ngồi ăn một cách buồn bã. Người ta chỉ mượn ‘Nhà của Chúa’ để mang đồ ăn của ‘nhà mình’ tới. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành ‘bữa ăn tối’ của Chúa nữa.
Thế nên để sửa dạy giáo dân của Ngài, Phaolô nhắc lại thế nào là ‘bữa ăn’ đích thực của Chúa. Người làm cho họ nhớ giáo huấn chân truyền. Và sự thật ấy thế này: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Người đã bẻ ra và nói: “Này là Mình Ta… vì các ngươi…”. Cũng vậy về Chén, sau khi dùng bữa tối xong, Ngài nói: “Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống mà nhớ đến Ta”.
Chỉ trong mấy câu vắn tắt, Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Người nói rõ việc ấy xảy ra trong đêm Đức Giêsu bị nộp. Thế nên việc ban bánh rượu này cho môn đệ gắn liền với cuộc khổ nạn của Người. Và ‘Bữa Ăn Của Chúa’ luôn luôn mang sắc thái của bữa Tiệc ly.
Đó cũng là bữa ăn Vượt Qua của người Do Thái, nhắc lại việc Chúa cứu dân ra khỏi Ai Cập và tin tưởng cầu xin cùng chờ đợi Chúa còn tiếp tục giải cứu nữa trong tương lai cho đến khi có giao ước mới và vĩnh cửu như lời các ngôn sứ của Chúa từng loan báo. Và trong bữa ăn này, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là việc cốt yếu. Thế mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Đức Giêsu lại tuyên bố: đây là Mình Ngài bị nộp và đây là chén Máu Ngài sẽ đổ ra. Người còn gọi đó là chén giao ước mới. Do đó, rõ ràng Người đã tự coi, tự hiến mình nên Chiên Vượt Qua để mang đến ơn cứu độ mà các ngôn sứ từng loan báo.
Các môn đệ không lầm. Họ thấy rõ với các cử chỉ của Chúa Giêsu đã khai trương thời đại mới. Người đã thay thế bữa ăn Vượt qua của người Do Thái bằng bữa ăn của Người hôm nay. Có thể họ chưa hiểu rõ những lời về Mình và Máu, vì phải đợi đến ngày hôm sau khi thấy Mình Ngài bị nộp và Máu Ngài chảy ra họ mới biết hết ý nghĩa. Nhưng họ đã cảm thấy chắc chắn Chúa Giêsu muốn dùng các cử chỉ của Người hôm nay để ký kết giao ước mới, chấm dứt đạo cũ và nghi lễ cũ. Từ nay bước sang thời đại cứu độ và nếp sống mới. Và nghi lễ mới cũng đã được thiết lập, vì Đức Giêsu đã bảo: ‘Phải làm sự này mà nhớ đến Người’. Tức là mỗi khi nhớ đến Ngài, nhớ đến để hiệp thông với Ngài trong hành vi cứu độ để được Giao Ước mới, phải làm việc Ngài vừa làm, tức là phải cầm lấy bánh rượu mà làm như Ngài.
Thế mà giáo dân Côrintô đâu có làm như thế! Thánh Phaolô phải bảo họ ‘mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén ấy, anh em loan báo sự chết của Chúa… anh em làm bất xứng, thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa.
Những lời này tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh rượu đã trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Nếu ngày lễ hôm nay có ý nói lên niềm tin Chúa hiện diện nơi Bánh Thánh, Rượu Thánh, thì những lời thánh Phaolô vừa nói đã đạt yêu cầu. Nhưng mục đích của thánh Phaolô không phải chỉ muốn nói đến sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể; Người muốn rằng người ta phải hiệp thông với Chúa, có tâm tình của Chúa để cử hành tiệc Bánh Rượu.
Đây là bữa ăn Vượt qua. Người ta phải ôn lại và ôm lấy tất cả lịch sử từ trước cho đến nay với tâm tình tạ ơn, nhưng cũng với ‘ý thức xót xa vì bao nhiêu khiếm khuyết để ước mong được cứu độ nhờ giao ước mới. Người ta sẽ cầm lấy bánh và chén rượu. Và lúc ấy theo lời Chúa Giêsu đã nói, người ta nhớ đến Người, nhớ đến cuộc Tử Nạn hồng phúc của Người. Người ta tham dự, thông phần lễ hy sinh Người đã dâng để được vượt qua, sống lại, hướng về ngày vinh quang Người trở lại.
Bánh rượu trên tay Chúa, vì thế, không còn phải chỉ là bánh rượu như trên tay Melkisêdek nữa. Nếu trên tay vị tư tế mầu nhiệm này, bánh rượu tượng trưng cho thiên nhiên, thì trên tay Chúa Giêsu, bánh rượu mang thêm ý nghĩa lịch sử và giao ước cũ. Đó không phải chỉ là hoa mầu ruộng đất, nhưng còn là lao công vất vả của con người. Thiên nhiên và con người đều phải trở nên tạo vật mới, nhờ mầu nhiệm Chúa Giêsu nơi bí tích bánh rượu mà chúng ta còn tiếp tục dâng trên bàn thờ.
Dĩ nhiên khi dâng bánh rượu, chúng ta phải có những tâm tình như trên vừa nói; vì lời thánh Phaolô nói với tín hữu ở Côrintô cũng là để cho chúng ta. Nhưng mục đích cuối cùng của Phaolô không phải chỉ muốn nhắc cho chúng ta nhớ ‘Bữa Ăn Của Chúa’, mà còn khuyên chúng ta vì tính chất của bữa ăn như vậy, nên phải cử hành tiệc Thánh Thể mà gia tăng bác ái. Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn huynh đệ.
Ở đây chúng ta hãy nhớ bài Tin Mừng Luca. Chúng ta đã nói cử chỉ cầm bánh rượu của Đức Giêsu nơi bàn Tiệc ly đặc sắc quá khiến mỗi khi nhắc lại những lần khác mà Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu, các môn đệ lại nhớ đến các cử chỉ của Người ở bàn Tiệc ly và dùng chúng làm khuôn mẫu để diễn tả. Điều này rõ ràng trong bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Luca kể hôm ấy Chúa muốn thết đãi những người đi theo Chúa vào nơi hiu quạnh. Người cho họ ngả mình xuống thành từng cỗ, mỗi cỗ độ năm mươi… Rồi Người cầm lấy bánh và hai con cá. Người ngẩng mặt lên trời và chúc tụng trên bánh và cá, đoạn bẻ ra và ban cho môn đệ để họ thết đãi dân chúng.
Chúng ta bảo bữa ăn này báo trước bàn Tiệc ly và nhất là bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh; hay chúng ta phải nói các bữa ăn Thánh Thể và bàn Tiệc ly đã cung cấp cho thánh Luca mọi yếu tố để thuật lại một câu truyện xảy ra trước? Dĩ nhiên câu truyện này cũng có ý báo trước những việc xảy ra sau… nhưng chính những sự kiện xảy ra sau đã đem ý nghĩa đến cho câu truyện xảy ra trước và cung cấp cho nó những tài liệu để diễn tả.
Chúng ta không cần nói thêm điều ấy nữa. Nhưng vì thánh Luca đã nhìn vào bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh để thuật câu truyện đã xảy ra nơi sa mạc, thì chúng ta hãy xem ngoài các yếu tố báo trước bàn Tiệc ly và tiệc Thánh Thể, thánh Luca còn muốn chú trọng đến điểm nào nữa? Dường như tác giả đã chú ý đến vai trò của các Tông Đồ. Lúc đầu họ muốn giải tán dân vì thấy bất lực cung cấp lương thực cho dân. Nhưng được Chúa gợi ý cho dân ăn, họ nhiệt tình muốn đóng góp tất cả và sẵn sàng làm thêm. Chúa bảo họ tổ chức cho dân ngả mình xuống thành từng cỗ. Ngài trao bánh cá cho họ phân phát… cuối cùng còn thu được 12 giỏ mảnh vụn, đúng số 12 Tông Đồ.
Những điều ấy há không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Mình Máu Người còn trao cho chúng ta để chia sẻ, huống nữa là của ăn vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người. Chúng ta không phải chia sẻ những của ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy cuối cùng còn thu lại được 12 giỏ vụn?
Chắc chắn Hội Thánh ban đầu đã hiểu rằng bàn ăn của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ vật chất. Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên thánh Phaolô đã phải nhắc lại. Lời thánh Phaolô hôm nay cũng chất vấn chúng ta: chúng ta sốt sắng tôn thờ Thánh Thể, nhưng có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để không một ai phải thiếu thốn quá đang khi những người khác thì no đầy?
Thế nên hôm nay chúng ta phải suy nghĩ về cả ba bài đọc, để khi long trọng tôn thờ Chúa trong Thánh Thể, chúng ta ý thức thêm về nhiệm vụ bác ái, để mỗi lần cử hành bàn tiệc của Chúa chúng ta lại nghĩ đến bàn ăn của anh em. Nơi bàn tiệc thánh được Chúa nuôi thì sự sống mới chúng ta nhận được phải đưa chúng ta đến với anh em và chia sẻ số phận với anh em để khi trở lại dâng lễ, chúng ta có bánh rượu là hoa mầu ruộng đất và lao công của con người dâng lên để trở thành bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho tất cả chúng ta.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Ăn uống là chuyện bình thường của mọi sinh vật.
Khi tôi ăn uống, đồ ăn thức uống trở thành tôi.
Tôi sống, tôi hoạt động, tôi lớn lên, nhờ chút rau xanh, cá tươi, đậu trắng.
Tôi được nuôi bằng trời cao, đất rộng và biển cả.
Từ lâu Đức Giêsu mang một khát vọng lớn, đó là nuôi sống linh hồn con người, nuôi mọi tín hữu thuộc mọi thời đại, và nuôi họ bằng chính bản thân Ngài, bằng cái chết và sự sống của Ngài.
Ngài có mắc bệnh hoang tưởng không?
Cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển cho ta thấy Đức Giêsu là con người bình thường khi Ngài cử hành bữa Tiệc Ly tối hôm đó.
Ngài muốn ta tham dự vào cuộc Vượt Qua của Ngài, Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho ta; thành đồ ăn bằng cách biến tấm bánh thành Thịt Mình Ngài, thành thức uống bằng cách biến rượu nho thành Máu Ngài.
Như thế ai ăn Tấm Bánh và uống Chén Rượu đã được Ngài biến đổi nhờ quyền năng Thánh Thần, người ấy nên một với Ngài.
Không phải Ngài trở thành người ấy, cho bằng người ấy trở thành Ngài.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.”
Mỗi thánh lễ là một lần nhớ đến và làm sống lại hy tế duy nhất năm xưa trên Núi Sọ.
Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Tình Yêu. Tình Yêu luôn có nhiều sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu.
Cần ngắm nhìn cử chỉ bẻ bánh của Đức Giêsu.
Tấm bánh trở thành Tấm Thân Ngài được bẻ ra và trao hiến trên thập giá.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã bẻ bánh để môn đệ phát cho dân.
Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên mãi.
“Anh em hãy cho họ ăn đi.”
Như các môn đệ, chúng ta cũng lúng túng và bất lực trước cơn đói của con người hôm nay, đói cơm bánh, đói tình thương, đói được tôn trọng.
Nếu chúng ta dám trao cho Đức Giêsu tất cả những gì chúng ta có, dù chỉ là nhỏ nhoi; nếu chúng ta chịu để cho Ngài bẻ ra, và làm vỡ tan mọi tính toán ích kỷ, thì chúng ta có thể nuôi được cả thế giới.
Thỉnh thoảng bạn nên cầu nguyện trước Thánh Thể. Bạn có thể học được nhiều điều.
Con Thiên Chúa vinh quang rất mực, lại khiêm tốn hiện diện dưới dạng tấm bánh mong manh, lặng lẽ, đơn sơ.
Tấm bánh không biết nói, không sống cho mình.
Tấm bánh hiện diện là để cho người ta thưởng thức, và tan biến ngay sau khi được hưởng dùng.
Chúng ta có thể bắt chước lối hiện diện ấy của Chúa Giêsu Thánh Thể không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh lễ có làm thay đổi đời bạn không? Việc rước lấy Đấng đã tự hiến qua cử chỉ bẻ bánh có giúp bạn dám chia sẻ đời mình cho tha nhân không?
Để có một thánh lễ Chúa Nhật đầy ý nghĩa, bạn thấy mình phải chuẩn bị trong cuộc sống ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan toả khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ. Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ…
Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa.
Nguồn gốc ngày lễ:
Vào năm 1246, tại Toà giám mục Liège của Bỉ quốc, người ta thấy có cuộc gặp gỡ bất thường giữa Đức Cha Rôbectô de Thorate và sơ Juliana, một nữ tu khiêm hạ và thánh thiện của Dòng Augustinô. Sơ Juliana đến xin yết kiến vị Giám mục sở tại để dâng lên một lời thỉnh cầu: xin giáo quyền cho thiết lập ngày lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu.
Lẽ đương nhiên, vị Giám mục thánh thiện và khôn ngoan Rôbectô đã hỏi vị nữ tu về nguyên nhân hay động lực thúc đẩy làm nên lời thỉnh cầu. Sơ Juliana thành thật trình bày với Đức Cha rằng hồi nhỏ sơ có thấy hình một vầng trăng rằm với một đốm đen trên đó. Mãi về sau, trong một lần hiện ra, Chúa Giêsu đã giải thích cho Sơ Juliana về ý nghĩa của giấc mơ ngày xưa: vầng trăng rằm tượng trưng cho chu kỳ phụng vụ trong năm; đốm đen là vì trong chu kỳ đó vẫn còn thiếu một ngày lễ để vinh danh Thân Mình Cực Thánh của Chúa Giêsu.
Theo Sơ Juliana, ngoài Thứ Năm Tuần Thánh, ngày tưởng niệm việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu còn muốn Giáo hội có một ngày khác để tôn kính Mình Máu của Ngài. Kèm với lời giải thích và tỏ bày ý muốn, Chúa Giêsu còn nêu lên ba lý do của việc làm này: thứ nhất, Ngài khát khao niềm tin vào Bí tích Thánh Thể được càng ngày càng vững vàng mạnh mẽ nơi mỗi người Kitô hữu; thứ hai, Ngài ao ước mọi tín hữu múc được sức mạnh thiêng liêng nơi Bí tích Thánh Thể để có thể can đảm thực thi các nhân đức; và thứ ba, Ngài mong muốn người tín hữu có cơ hội sửa chữa cho những phạm thánh và bất kính mà loài người đã gây nên.
Dường như được ơn Chúa soi sáng và sắp xếp, nên Đức Cha Rôbectô de Thorate đã lắng nghe và tin tưởng những điều Sơ Juliana nói. Thế rồi, chẳng bao lâu sau, ngài cho thiết lập trong địa phận một ngày lễ kính Mình Thánh Chúa hay còn được gọi là Corpus Christi (tiếng Latinh). Đức Cha cũng đã trình cho Đức Giáo hoàng Ubanô IV về những gì ngài đang thực hiện trong địa phận. Và rồi, đến năm 1264, Đức Ubanô đã cho công bố với Giáo hội hoàn vũ việc chọn ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi làm ngày kính Mình Thánh Chúa cách đặc biệt.
Tập quán trên đã được nắm giữ từ thế kỷ 13 cho đến những thập niên gần đây. Sau Công đồng Vaticanô II, một vài sửa đổi đã được thực thi, trong đó lễ Corpus Christi được dời vào ngày Chúa Nhật sau Lễ Chúa Ba Ngôi.
Suốt hơn 8 thế kỷ trôi qua, cứ đến ngày lễ Kính Mình Thánh Chúa, khắp nơi, trong nhiều giáo xứ, người ta tổ chức chầu lượt, lôi cuốn biết bao nhiêu giáo hữu đến kính thờ suy tôn Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể.
Tuy cũng có những người chống đối và tìm cách loại trừ ngày lễ này khỏi lòng tín hữu, nhưng những cố gắng đó cũng chỉ hoài công. Lịch sử có ghi nhận: trong cuộc Chiến tranh Ba Mươi Ngày bên Châu âu, quân đội Thuỵ Điển đã bao vây một làng Wuerzburg tại Bavaria. Vị quan chỉ huy đã đưa ra nhiều nghiêm lệnh nhằm khống chế dân chúng. Trong đó có lệnh cấm tổ chức rước kiệu trong ngày lễ Corpus Christi sắp đến.
Các thầy Dòng Camêlô đang cư ngụ trong làng đã phải đối diện với tình hình tiến thoái lưỡng nan: trong khi Thiên Chúa Cha muốn cử hành ngày lễ tôn kính Con Ngài thì vị chỉ huy quân đội Thuỵ Điển lại ngăn cấm, nếu không muốn bị tử hình. Nhưng cuối cùng các vị tu sĩ đã chọn vâng theo ý Thiên Chúa. Thế là một cuộc rước long trọng với linh mục kiệu Thánh Thể từ nhà thờ qua cổng làng đã diễn ra. Lập tức quân đội được phái đến. Súng ống, gươm giáo dàn ra đe doạ.
Không sợ hãi, thầy Agapytus hiên ngang rẽ đám đông tiến lên. Đứng trước hàng quân đang lăm le vũ khí, thầy bảo họ hãy quỳ gối xuống trước Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá. Lạ lùng thay, cả đoàn binh đã đồng loạt quỳ xuống, không ai dám thi hành lệnh phá hoại cuộc rước của quan chỉ huy! Thế là dân chúng lại tiếp tục hồ hởi cung nghinh Mình Thánh Chúa qua các nẻo đường đã định. (x. Homilies, Thomas L. Kemp)
Ý nghĩa lễ Corpus Christi:
Lễ Corpus Christi được lập ra để nhắc nhở với người giáo hữu về một tình mến bao la vô tận. Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban người Con yêu dấu của Ngài, để mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.
Sự hạ mình từ một Thiên Chúa cao sang xuống mang kiếp người để chia sẻ thân phận khốn cùng và cứu chuộc nhân loại đã là một lối tỏ tình quá sức tưởng tượng. Ấy thế mà, làm như chưa thoả, Thiên Chúa lại còn hạ mình trở thành tấm bánh, vật vô tri vô giác, còn thấp hơn bất cứ một loài thụ sinh nào.
Lắm người cảm nhận mình như là quả banh, cây chổi, viết chì trong tay Chúa. Quả là những tâm tình khiêm hạ đáng quí. Nhưng khi so với sự khiêm hạ của Thiên Chúa khi trở nên tấm bánh nuôi dưỡng tâm hồn người ta thì vẫn là một cách biệt không thể đo lường.
Thánh Bênađô từng nói: “Tình yêu không phân biệt giai cấp.” Còn Thánh Phêrô Kim khẩu thì viết: “Khi yêu, người ta bất luận giàu nghèo, cũng không màng cân xứng, không ngại khó khăn, nhưng miễn sao thoả lòng ao ước là được.” Một linh mục khác cũng nhận xét rằng khi yêu chẳng ai nói với nhau: “Tôi là con nhà giàu, có bằng tiến sĩ vật lý, còn em chỉ là con bé nhà quê ít học, cho nên em phải biết thân biết phận của mình”. Không thế được! “Không thể có thái độ kênh kiệu như thế trong tình yêu chân thật” (Lm. Nguyễn Khảm, Nghe Trong Thinh Lặng). Đúng hơn, người ta sẽ khiêm tốn hạ mình để chỉ thấy người yêu chính là đối tượng duy nhất và tất cả.
Thế ra, vì yêu thương nên Thiên Chúa đã khiêm tốn hạ mình làm người, và hơn thế nữa, Ngài lại còn hạ mình làm thành tấm bánh đơn sơ bé nhỏ cho người ta dễ ăn, hầu được nên một với con người.
Nên một là đặc tính của tình yêu. Có yêu nhau người ta mới muốn nên một và sợ bị chia ly. Thánh Anphong từng suy gẫm rằng: “Vì Chúa khao khát ta rước lấy Ngài trong phép Thánh Thể, nên Ngài mời gọi: ‘Hãy đến ăn bánh Ta ban và uống rượu Ta dọn’ (Cn 9:5). ‘Ăn đi hỡi các bạn. Uống đi! Say đi hỡi các bạn yêu dấu’ (Dc 5:1). Chúa mời gọi ta chưa đủ, Ngài còn ra luật buộc ta nữa: ‘Hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta’ (Mt 26:26). Và Ngài hứa ban sự sống đời đời cho những ai chịu lấy Ngài: ‘Ai ăn bánh này, thì sẽ được sống đời đời’ (Ga 6:51). Nếu ta không vâng giữ lời Ngài, thì Ngài ngăm đe: ‘Nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con Người, các ngươi sẽ không có sự sống nơi mình các ngươi’ (Ga 6:53). Tất cả những lời mời gọi, những lời hứa ban, và những lời khuyên răn hiệp cùng ta trong bí tích Thánh Thể, để tình yêu thương được mật thiết hơn”.
Kỳ lạ làm sao tình Chúa yêu nhân thế trong Bí tích Thánh Thể! Nhưng có lẽ cũng kỳ lạ không kém khi con người dửng dưng, lạnh lùng và xem thường việc rước Chúa. Không ít người cảm thấy nguội lạnh, chẳng xứng đáng được Chúa ngự vào. Nhưng những người đó hãy ghi nhớ lời Thánh Catarina Xiêna: “Kẻ nói mình nguội lạnh, không dám rước lễ cũng giống như người biết mình bị cảm lạnh mà không chịu đến lò sưởi ấm, ấy thật là dại dột.” Thế nên, càng biết mình nguội lạnh, khô khan, hay hèn yếu, ta càng phải siêng năng đến gần với lò lửa tình thương đang bừng cháy. Các thánh khuyên ta hãy siêng năng rước lễ vì “một lần rước lễ được nhiều ơn ích hơn một tuần ăn chay” (T. Vincentê Phêriê).
Nếu không thể rước Chúa cách trực tiếp thì cũng hãy rước lễ cách thiêng liêng. Với lòng ước ao rước Chúa cũng đủ để khử trừ mọi tội nhẹ và giữ gìn ta khỏi các tội trọng rồi. Nếu không thể đi dâng Lễ hàng ngày, thì hãy đọc lên lời nguyện “Rước lễ Thiêng liêng” sau đây để lửa mến Chúa được bừng cháy luôn trong tâm hồn: “Lạy rất thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu. Bởi Chúa hằng muốn kết hợp cùng con trong phép Thánh Thể, nên lòng con khát khao rước Chúa ngự vào lòng con lắm. Song bây giờ con chẳng được rước thật Mình Máu Thánh Chúa, thì ít nữa lại xin Chúa hãy ngự vào lòng con cách thiêng liêng. Lạy Chúa xin hãy ngự vào lòng con”.
Xin cho ngày Lễ Corpus Christi đốt lên trong ta ngọn lửa kính mến và lòng khát khao được kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể, hầu sức sống luôn chứa chan và bình an hằng tuôn tràn trong cuộc đời chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – R. Veritas)
Trong ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về phép lạ bánh hóa nhiều. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Phúc Âm thuật lại. Đây cũng là một phép lạ công khai trước mặt một số đông người. Năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi khoảng năm ngàn người mà vẫn còn dư mười hai thúng miếng vụn. Thánh sử Luca nhấn mạnh đến vai trò của nhóm Mười Hai trong phép lạ này. Chính họ đã chủ động xin Chúa Giêsu giải tán đám đông để những người này tìm chỗ ăn, chỗ ở. Và Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một thách đố cho nhóm Mười Hai: “Chính các con hãy cho họ ăn”. Hãy lo cho họ sau khi đã được nghe giảng về Nước Thiên Chúa, được chữa lành khỏi mọi tật bệnh. Các môn đệ thấy mình bất lực trước nhiệm vụ này dù mới đây họ đã được sai đi rao giảng và chữa bệnh vàđã thành công. Điều duy nhất họ có trong tay là năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng chừng ấy thấm vào đâu so với nhu cầu của dân chúng: “Ở nơi thanh vắng này, dù có tiền cũng không mua được đủ bánh”. Chúa cần các môn đệ nhìn nhận sự bất lực của họ, để rồi Ngài mời gọi họ cộng tác vào việc nuôi sống dân chúng. Các môn đệ, theo lệnh của Chúa Giêsu, đã chia đám đông thành từng nhóm nhỏ. Chính các ông đã trao bánh và cá cho Chúa Giêsu để rồi nhận lại từ tay Ngài và trao cho đám đông. Phép lạ đã xảy ra trên bánh này khi Chúa Giêsu chúc tụng và bẻ ra. Chúng ta không tưởng tượng nổi số lượng khổng lồ bánh và cá đã phát sinh từ hành vi bẻ ra này. Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên không ngừng.
Có thể hôm nay chúng ta cũng thấy mình đứng trước những nhu cầu lớn lao của con người. Nhân loại vẫn ở trong tình trạng đói về nhiều mặt. Hàng giờ có biết bao trẻ em chết đói trên thế giới này. Trong tay chúng ta chỉ vỏn vẹn vài tấm bánh nhỏ, chúng ta lúng túng và thấy mình bất lực. Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chúng ta có; nếu chúng ta để cho Ngài thánh hóa những cố gắng nhỏ bé của mình; nếu chúng ta chỉ coi mình là người cộng tac của Thầy Giêsu đến phục vụ con người, thì phép lạ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Chúng ta vẫn có thể nuôi cả thế giới no nê và dư dật, nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa.
Chúng ta đọc lại câu 16 đoạn Tin Mừng trên: “Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đm đông”. Khi kể lại cử chỉ của Chúa Giêsu làm lúc lập bí tích Thánh Thể, thánh Maccô cũng sử dụng bốn động từ trên đây. Và trong biến cố hai môn đệ về Emaus, chúng ta cũng thấy thánh Luca dùng lại bốn động từ này: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ”. Cử chỉ quen thuộc này đã làm cho hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu. Giáo Hội thời khai sinh hẳn đã thấy sự liên hệ giữa phép lạ bánh hóa nhiều và bí tích Thánh Thể. Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu đều dùng một cử chỉ mà mời người khác ăn tấm bánh Ngài trao cho. Rất có thể ý định lập bí tích Thánh Thể được khơi mào từ sau phép lạ bánh hóa nhiều. Những chiếc bánh vật chất như đã giảm cơn đói cho một số người nhất định trong một thời gian nhất định. Mana ngày xưa trong sa mạc cũng không cho người ta sự sống sau cái chết.
Bữa tiệc ly không phải là một hành vi đột xuất không suy nghĩ trước. Trái lại, Chúa Giêsu đã phải bận tâm với mơ ước nuôi cả nhân loại, nuôi họ bằng chính bản thân Ngài và ban cho họ sự sống vĩnh cửu: “Này là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Này là chén máu Thầy, sẽ đổ ra cho các con”. Chúa Giêsu mời chúng ta ăn tấm bánh và uống chén rượu đã được thánh hiến để có dịp tham dự vào cái chết và sự phục sinh của Ngài; vào chính bản thân Ngài. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu biết tìm kiếm.
Cựu ước đã hứa rằng trong những ngày sắp đến, Thiên Chúa sẽ nuôi dân Người dư dật. Chúa Giêsu đã làm trọn lời hứa đó phần nào qua phép lạ bánh hóa nhiều. Nhưng đó cũng chỉ là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Khi thông hiệp với Chúa Kitô Phục Sinh với hình bánh và hình rượu, chúng ta còn cần đến đức tin, chúng ta mong chờ ngày được tham dự bữa tiệc ở Nước Trời, nơi chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Ngài, không qua bức màn đức tin nữa nhưng diện đối diện. Chúa Giêsu đã bẻ bánh nhiều lần trong cuộc đời của Ngài. Đời Ngài được kết tinh trong hành vi bẻ bánh. Tấm bánh trong bữa tiệc ly đã trở thành tấm thân Ngài được bẻ ra và trao cho con người qua cái chết trên thập giá: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Giáo Hội thời khai sinh đã không quên mệnh lệnh đó, họ tiếp tục cử hành bí tích Thánh Thể mà họ gọi là lễ bẻ bánh tại các nhà riêng của tín hữu. Bẻ bánh trở thành nét đặc trưng của cộng đoàn Kitô sơ khai. Nghi thức này thường được cử hành vào ngày Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần.
Xin Chúa giúp chúng ta gặp Ngài trong lễ bẻ bánh.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
KHI NGƯỜI TA BIẾT CHIA BÁNH CHO NHAU THÌ THẾ GIỚI SẼ KHÔNG CÒN NẠN ĐÓI
Phép lạ bánh là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác giả thuật đến hai lần như Matthêu (Mt 14, 13-21 và15, 32-38.) và Mác cô (6,35-44 và 8, 1-10) Luca ( 9, 12-17) và Gioan (6, 1-13). Như vậy, chắn chắn sự kiện nầy chứa đựng một nội dung hết sức quan trọng.
Nội dung đó là: khi người ta biết chia bánh cho nhau, thì thế giới sẽ không còn nạn đói.
Tài nguyên trái đất gồm hoa màu ruộng đất, các loài gia súc cầm thú, chim trời cá biển… được Thiên Chúa dựng nên dư thừa để nuôi những cư dân trên mặt đất.
Thế thì tại sao có nhiều người đói?
Sở dĩ có nhiều người đói vì có một số người thu gom cho mình thật nhiều, tích trữ cho mình dư dật nên mới xảy ra tình trạng “người thì ăn không hết, người thì làm không ra”.
Một chủ tiệc hào phóng dọn ra một ngàn phần ăn đủ cho một ngàn người ăn uống no say. Nhưng có một số khách mời khoẻ hơn, nhanh tay hơn, chạy vào phòng tiệc vơ vét nhiều thực phẩm cho mình, lại còn tọng đầy những túi mang theo để dành cho ngày mai, cho con cháu… thế là những khách mời đến sau phải đói.
Thế giới hôm nay cũng là một phòng tiệc vĩ đại mà Thiên Chúa dọn sẵn cho mọi người. Lương thực trên đất, dưới biển có dư cho mọi người hưởng dùng. Nếu cùng nhường nhau mà ăn, thì không ai phải thiếu đói.
Nhưng tiếc thay, có những người nắm trong tay những nhà máy lớn, nắm bắt công nghệ tiên tiến nên đã thu vén cho mình dư đầy của cải, khiến cho những người không có phương tiện sản xuất, không thủ đắc những công nghệ mới đành phải chịu cảnh thiếu đói.
Qua phép lạ bánh hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng: nếu ai cũng biết chia sẻ số bánh ít ỏi đang có cho nhau, thì tất cả mọi người đều no đủ, không những no đủ mà còn dư.
Hôm ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu, say mê nghe lời Ngài giảng dạy quên cả giờ về. Khi ngày tàn, nhóm Mười Hai đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để họ kịp trở về các làng mạc chung quanh kiếm thức ăn, vì hiện nay mọi người đang ở nơi hoang vắng.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Các môn đệ đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, lấy gì nuôi đủ cả năm ngàn người ăn?”
Thế rồi “Chúa Giêsu truyền cho dân chúng ngồi xuống, Ngài lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.”
Các môn đệ trố mắt nhìn Chúa Giêsu kinh ngạc! Chừng nầy cá và bánh thì ai ăn ai nhịn? Thôi thì cứ theo lệnh Chúa mà làm. Các vị phân phát phần bánh và cá ít ỏi cho dân. Noi gương các môn đệ, trong đám đông cũng có một số người mang theo chút lương thực dự phòng, cũng mang phần ăn ít ỏi của mình ra mà trao cho người bên cạnh. Thế là người nầy trao qua, người kia chia lại, mọi người tỏ lòng hào phóng với nhau. Và đang khi họ chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả năm ngàn người ăn không hết còn dư lại cả mười hai thúng đầy!
Phép lạ nầy cũng như hũ bột của bà goá Sa-rép-ta. Dù đang giữa cơn hạn hán trầm trọng, dù nạn đói hoành hành khắp nơi, dù chỉ còn chút bột ít ỏi trong hũ và chút dầu còm cõi trong bình, bà goá thành Sa-rép-ta vẫn vâng theo lời tiên tri Ê-li-a truyền dạy, đem phần ăn ít ỏi của mình cống hiến cho người khác. Thế là hũ bột không vơi, bình dầu không cạn cho đến khi Chúa cho mưa xuống làm hoa trái tốt tươi. (I Vua 17, 7-16).
Nếu hôm nay, nhân loại biết nghe theo lời Chúa Giêsu: “Các con hãy cho họ ăn” để rồi mọi người biết chia bánh cho người người chung quanh mình, thì chắc chắn nạn đói sẽ không còn tồn tại trên mặt đất nầy.
* * *
Xin mượn lời kể của Mẹ Têrêxa thành Cacutta để thay cho phần kết: Ngày nọ, có một thiếu phụ và tám đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn”.
Mẹ Têrêxa kết luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Mỗi người chúng ta đã từng nghe, từng nói những câu mời gọi sống tình liên đới và chia sẻ bác ái với nhau trong tình làng nghĩa xóm như: “Lá lành đùm lá rách”, hay“Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Sự liên đới đồng cảm với nhau trong tình thần “Tứ hải giai huynh đệ” để có thể “thương người như thể thương thân”. Đó là những lời răn dạy của tổ tiên, là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống của người dân Việt chúng ta. Một dân tộc đặt chữ tình lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người để có thể “tối lửa tắt đèn có nhau”. Thế nhưng, có mấy ai đã thực sự sống điều đó? Có mấy ai đã thực sự sống đùm bọc lẫn nhau? Tại sao một nền văn hóa tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam mà lại có sự chênh lệch giầu nghèo quá lớn như ngày hôm nay? Ở giữa những phồn hoa của nền kinh tế thị trường hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời đói rách bần cùng, kiếm ăn từng bữa, đôi khi cũng chỉ được bữa cơm, bữa cháo! Ngày nay khi xã hội thay đổi, cuộc sống người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Thì ở đâu đó rất gần chúng ta vẫn còn có những mảnh đời lạnh giá cả về thể xác lẫn tâm hồn. Họ là những người vô gia cư bị xã hội đẩy ra bên lề xã hội. Họ là những em bé bị bỏ rơi, bị lợi dụng đang ăn xin, bán vé số, lượm ve chai. Họ là những người tật nguyền không có tiền để đến bệnh viện đành chấp nhận sống lây lất qua ngày… Họ là những con người nghèo đang chờ từng hạt cơm rơi hay từng nghĩa cử bác ái của chúng ta.
Song le, cái đói, cái nghèo không chỉ đến với một vài cá nhân nhưng đôi khi cũng bám vào cả một làng, một xã. Theo báo Nông Nghiệp Việt Nam, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế, có một ngôi làng mà cư dân phải đối mặt với nạn đói quanh năm. Đó là làng Trung Chánh, xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, một ngôi làng không ruộng, không vườn, ăn không đủ no, trẻ con không được đến trường. Báo Nông Nghiệp ghi nhận về tình cảnh khốn khổ của dân làng này qua đoạn ký sự như sau.
Làng Trung Chánh nằm sát đầm Cầu Hai, phá Tam Giang. Cuộc sống ở đây chỉ theo đuổi con tôm, con cá ở đầm. Khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống, cả thôn từ già đến trẻ lại kéo nhau “gieo mình” xuống đầm, xuống biển mưu sinh. Cứ như vậy, người và lưới rong ruổi khắp các con đầm, kênh, lạch và ra tận biển từ đêm đến sáng hôm sau. Trong làng chỉ còn lại những người già yếu và trẻ con 3-4 tuổi trong những căn nhà lụp xụp, xiêu xẹo, dột nát.
Làng Trung Chánh 6 giờ sáng, khi những “chuyến đò đêm” trở vào bờ. Cả thôn náo nhiệt tiếng í ới gọi nhau, đàn ông xả lưới, đàn bà quảy hàng đi chợ, trẻ con hò nhau phụ giúp bố mẹ nhặt từng con tôm, con tép còn sót lại. Đã từ lâu dân Trung Chánh hình thành nên thói quen bất đắc dĩ là mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm: “Cả thôn này không có bữa cơm trưa, bữa tối, thường thì chỉ ăn “bữa cơm chính” vào lúc 8-9 giờ sáng, rồi sau đó cả làng cùng đi ngủ, đến tối lại đi làm” một người dân tên Hạnh tâm sự như thế. Và cái tên “làng đói” cũng ra đời từ đó. Buổi trưa, cả thôn không có lấy một nhà nổi lửa. Không gian đìu hiu, chỉ có bóng dáng những đứa trẻ con đầu tóc vàng hoe vì nắng, vì gió tụ tập quanh những bóng tre. Chúng vẫn chưa đến tuổi làm nghề nên vẫn còn được chơi đùa thoả thích. Còn cha, mẹ, anh chị của chúng đã tranh thủ ngủ lấy lại sức sau một đêm dài thức trằng trên đầm, trên phá.
Cũng theo báo Nông Nghiệp Việt Nam, khi kể về chuyện nợ của người dân trong thôn, cư dân Mai Thị Gái chua xót nói với phóng viên “Chú không tin cứ đi hỏi mười người trong thôn này thì có đến… mười một người mắc nợ. Khổ lắm chú ơi. Hồi trước còn có cơm mà ăn, nhưng mấy tháng nay, nhiều gia đình đã chuyển sang…ăn cháo”.
Xem ra làng Trung Chánh đang thiếu một tấm bánh được chia sẻ, được trao ban cho họ. Đất nước chúng ta đang ngày một giầu có vật chất nhưng lại nghèo tấm lòng. Nghèo đến mức chỉ tìm kiếm của cải cho mình mà vẫn chưa bao giờ thỏa mãn. Nghèo đến mức chẳng nghĩ rằng mình có khả năng cho đi. Nghèo đến mức chỉ nghĩ vun quén cho bản thân mà quên rằng mình còn có bổn phận chia sẻ cho anh em trong tình liên đới anh em một nhà. Cái đói, cái nghèo lận vào cuộc đời người dân làng Trung Chánh vì không được sự quan tâm của cộng đồng xã hội. Nếu “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” thì cả một làng đói khổ sao cả một dân tộc không chạnh lòng với những đói khổ của anh em mình?
Hôm nay lễ Mình Máu Thánh Chúa là dịp để chúng ta nhìn lên tình yêu của Chúa. Chúa đã trao ban chính sự sống của mình cho thế gian được sống. Chúa còn trao ban cả Máu Thịt Ngài để trở nên của ăn của uống cho chúng ta. Có người cho rằng bánh và rượu làm sao trở nên Thịt và Máu của Chúa Giêsu được. Thực ra, chúng ta ăn bánh và rượu vẫn biến đổi thành thịt và máu của chúng ta thì Chúa Giêsu cũng có thể biến bánh và rượu trở nên Máu Thịt Ngài. Điều quan yếu không dừng lại ở việc bánh và rượu trở nên Máu Thịt Ngài mà hệ tại ở việc Ngài trao ban chính sự sống đó cho chúng ta. Để “ai ăn bánh này sẽ không chết muôn đời”. Như vậy, bánh và rượu trở nên Mình và Máu thì dễ, điều quan yếu là chúng ta có dám trao ban chính sự sống đó cho tha nhân hay không?
Nguyện xin Mình và Máu Thánh Chúa cũng biến đổi chúng ta trở nên giống Chúa. Giống Chúa ở trái tim biết chạnh lòng thương xót trước những khổ đau của anh em. Giống Chúa ở tấm lòng sẵn sàng làm bất cứ điều gì để vơi đi nỗi khổ của anh em trong tình liên đới chân thành. Giống Chúa ở việc cũng trở thành tấm bánh được sẻ chia cho tha nhân được sống hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện cao dẹp của chúng ta để mỗi cuộc đời chúng ta thực sự là tấm bánh đem lại cho nhân thế sự no thỏa và niềm vui, hạnh phúc. Amen.
Phép lạ là hóa bánh ra nhiều hay bẻ bánh ra và trao?
Trong các phép lạ được ghi lại, hóa bánh ra nhiều là phổ thông nhất: cả bốn sách Tin Mừng đều kể lại, thậm chí Mat-thêu và Mác-cô còn đề cập tới một vụ khác nữa ít hoành tráng hơn. Tại sao vậy? Nhiều nhà chú giải Kinh Thánh cho là ‘vì đây là phép lạ chứng tỏ rõ ràng nhất quyền uy tuyệt đối của Chúa Giê-su trên các định luật tự nhiên’ (xem chú giải Lc 9,12 trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’ của nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ). Tôi xin mạn phép được suy nghĩ khác đi một chút.
Căn cứ vào Phúc Âm Gio-an chương 6, ý nghĩa chính của sự kiện lạ này không mấy hệ tại ở việc ‘hóa bánh ra nhiều’, cho bằng ở việc ‘bẻ bánh ra và trao’. Hầu như cả sáu trình thuật đều đề cao hành vi xem ra khá tiểu tiết này. Hơn nữa, khi đọc đoạn Tin Mừng được Giáo hội trích dẫn trong ngày Lễ Mình Máu Thánh Chúa năm C, tôi càng thêm xác tín về suy nghĩ của mình. Đúng là ‘hóa bánh ra nhiều’ chỉ là ‘bao bì’ để thu hút khách hàng đón nhận một ‘sản phẩm’ tuyệt vời là tình yêu ‘bẻ ra và trao tặng’ gói đựng bên trong. Và có thể vì đã nắm được nội dung nòng cốt của sự kiện này nên các Ki-tô hữu ngay từ thời đầu đã dành cho phép lạ ‘bánh hóa nhiều’ một trân trọng đặc biệt đến thế. Phép lạ mang tính vật lý này thực ra chỉ là tiền đề đưa ta tới cử chỉ ‘bẻ ra và trao tặng’ đầy ý nghĩa và rất độc đáo của một Thiên Chúa nhân ái, được thực hiện trong hiến tế thập giá của Đức Giê-su Ki-tô. Sau này, khi việc hóa bánh ra nhiều không còn là quan trọng nữa, thì hành vi ‘bẻ bánh và trao cho’ lại luôn được môn đệ nhận ra đó là dấu hiệu không thể nhầm lẫn để nhận ra Thầy chí thánh, như trường hợp hai môn đệ trên được đi Em-mau sau khi Chúa phục sinh (xem Lc 24, 30-31).
Nếu truyền thống Ki-tô giáo, qua các thời đại, luôn liên kết phép lạ này với Thánh Thể, thì chính là vì đã nhận ra việc ‘bẻ ra và trao ban’ là điều đã được thực hiện cách trọn vẹn trong hiến tế thập giá của Đức Giê-su. Trong bữa tiệc Vượt Qua ly biệt, Đức Giê-su đã chẳng tự ‘bẻ ra và trao ban’ là gì’? Bánh bẻ ra là ‘bí tích’ (dấu bên ngoài) của Mình Thầy hiến tế, rượu trao ban là ‘bí tích’ của Máu Thầy đổ ra cứu chuộc. Tự nó việc xác định ‘bánh là Mình Thầy và rượu là Máu Thầy’ sẽ hầu như trở nên vô nghĩa, nếu chỉ dừng lại ở sự biến thể kỳ lạ (transubstantiation). Đức Giê-su chỉ biến thể để có thể thực hiện việc tự ‘bẻ ra và trao tặng’ tới từng người chúng ta. Như thế Thánh Thể trước hết phải là một hành động, một hành động tự hiến, biểu lộ rõ nét nhất yếu tính nền tảng của Thiên Chúa, như Đức Giê-su đã hé mở cho thấy: một Thiên Chúa hiến dâng và trao tặng cho nhân loại, trong chính lúc họ tội lỗi và bất xứng nhất.
Như vậy Mình và Máu Thánh Chúa sẽ không chỉ đơn thuần là hiện diện của Giê-su – Thiên Chúa, để chúng ta ‘phục bái tôn thờ’; nhưng luôn là dâng hiến của một Giê-su ‘bẻ ra – trao ban’ để ta đón nhận và phân phát. Thánh Thể sẽ không chỉ đòi nơi ta một lòng sùng kính ‘tĩnh’, nhưng phải đưa ta đến một đón nhận và tham gia ‘động’ vào huyền nhiệm Giê-su hiến mình trên thập giá. Thánh Thể thôi thúc mỗi môn đệ chúng ta “chính anh em hãy cho họ ăn”, khác hẳn với thái độ hưởng thụ và no nê cho thỏa chí thỏa lòng của đám quần chúng.
Suy niệm này giúp ta hiểu được phần nào các đòi hỏi của việc cử hành Thánh Thể. Truyền phép để bánh trở thành Mình-Chúa-bẻ-ra và rượu trở thành Máu-Chúa-đổ-ralà một cử hành (celebration) thực sự, chứ không chỉ là một công thức (formula) nhiệm mầu tạo nên sự biến thể. Và Chúa muốn mỗi chúng ta “anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”, chứ không chỉ diễn lại hay lập lại như một tấn tuồng tưởng niệm. Càng trong tư cách linh mục, chính tôi trước hết, và qua tôi cả các anh chị em tín hữu khác nữa, trong mỗi Thánh lễ sẽ phải làm việc cử hành này cách sinh động nhất; đó là vào sâu trong niềm tin vào một Thiên Chúa hiến mình và trao ban, để rồi chính mình cũng sẽ khởi đầu cuộc hiến mình và trao ban trong Giê-su.
Thống hối đầu Thánh Lễ không chỉ mang mục đích thanh tẩy ta cho xứng với một hành vi phụng vụ, nhưng còn quan trọng hơn, cho ta ý thức đón nhận món quà đã được Thiên Chúa trao ban vô điều kiện, cách đầy nhân ái và yêu thương. Việc rước lễ không chỉ để ta đón lấy một Thiên Chúa ngự vào trong lòng, nhưng phải kết hiệp ta sâu sắc với một Đức Ki-tô ‘bẻ ra và trao tặng’ của thập giá, và phải thôi thúc ta làm như người đã làm trong cuộc sống hàng ngày. Thánh Lễ là trung tâm đời sống Ki-tô hữu không chỉ vì đó là hành vi thờ phượng Thiên Chúa cách cao quí nhất, nhưng vì nó liên kết chúng ta cách sâu xa nhất vào mầu nhiệm hiến tế là trung tâm của niềm tin cũng như cuộc sống của chúng ta. Một khi chính Thiên Chúa đã tự hiến và trao ban thì các Ki-tô hữu, là những kẻ tin vào Người, sẽ không thể làm gì khác hơn.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, cảm tạ Chúa đã cho con được làm linh mục để có điều kiện ‘cử hành’ Thánh Lễ tốt hơn. Xin Chúa nâng đỡ để con có thể giúp nhiều tín hữu, không những chỉ cử hành các nghi thức cách trang trọng và sốt sáng, nhưng còn biết tham dự vào hiến tế thập giá của Chúa Ki-tô bằng việc ‘bẻ ra và trao ban’ chính mình trong cuộc sống hàng này. Xin cho con được một lòng sùng kính mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa cách sống động, để mỗi lần tới gần Thánh Thể là con lãnh nhận được tình yêu dâng hiến Chúa dành cho con, đồng thời cũng mời gọi con tiến vào tình yêu dâng hiến phục vụ mọi người. Amen.
Nhân ngày lễ kính Mình và Máu thánh Đức Kitô hôm nay, tôi muốn đưa ra một câu hỏi để chúng ta cùng nhau suy nghĩ, đó là: Người Kitô hữu có cần phải đi tham dự Thánh lễ hay không?
Việc tham dự Thánh lễ đối với nhiều người, dù chỉ trong ngày Chúa nhật, cũng đã là một gánh nặng, một việc cực chẳng đã mới phải làm mà thôi. Dĩ nhiên hơn một tiếng đồng hồ ở trong nhà thờ chẳng ăn nhằm chi với đời sống, với những tính toán làm ăn và hưởng thụ của họ.
Nhưng nếu người Kitô hữu là người suốt tuần cảm thấy mình là phần tử của Dân Chúa và ý thức rằng thiên đàng không gì khác hơn là mọi người được hiệp nhất với Chúa và hiệp nhất với nhau, thì làm sao người đó lại không hân hoan đi về nhà Chúa, lại không cảm thấy mình cần phải có mặt trong cuộc gặp gỡ đầy tình mến thương, là Thánh lễ.
Nếu người Kitô hữu là người luôn ý thức sứ mạng của mình ở giữa lòng cuộc đời, là phải chu toàn những nghĩa vụ trần gian từ trong gia đình đến ngoài xã hội, thì làm sao người ấy lại không cảm thấy mình cần phải đến trước mặt Chúa, thú tội cùng anh chị em và xin mọi người cầu khẩn cho mình trước tôn nhan Chúa?
Nếu người Ki tô hữu là người suốt tuần muốn được ánh sáng đức tin soi cho thấy mọi sự và tìm hiểu ý Chúa trong mọi hoàn cảnh và trong mọi biến cố, thì làm sao người ấy lại không cảm thấy mình cần phải đến lắng nghe và suy gẫm lời Chúa?
Nếu người Kitô hữu là người suốt tuần không nhắm mắt và bịt tai lại, nhưng đã biết nhìn thấy những khổ đau vật chất cũng như tinh thần ở chung quanh mình, đã biết chia sẽ những niềm vui cũng như những nỗi buồn với mọi người anh em, và nếu người đó đã từng mang trong cõi lòng niềm hy vọng thúc đảy mọi người tiến đến sự giải thoát của Đức Kitô, thì làm sao người ấy lại không mang niềm hy vọng và nỗi chờ mong đó, hợp với những ý nguyện trong Thánh lễ mà dâng lên Thiên Chúa toàn năng?
Nếu người Ki tô hữu là người luôn ý thức rằng mọi sự mình có từ mảnh vườn và hạt lúa đến vợ chồng và con cái…đều do Chúa ban, còn mình thì có nhiệm vụ khai thác đất đai để giúp ích cho mọi người, thì dĩ nhiên người ấy sẽ hiểu vì sao Thánh lễ lại được gọi là lễ tạ ơn và vì sao mình phải cảm tạ Đức Kitô, Đấng phụng thờ Chúa Cha cách hoàn toàn hơn bất kỳ một người nào khác.
Nếu suốt tuần, sự lao động được quan niệm như là một việc thờ phượng Thiên Chúa, nếu những công lao khó nhọc và những nỗi đau buồn trong tuần đã được biến thành một của lễ thiêng liêng, thì chúng ta hiểu được vì sao cần phải đem tất cả những lễ vật xuất phát từ lòng cuộc đời ấy kết hiệp với của lễ tinh tuyền của Đức Kitô mà dâng lên cho Thiên Chúa.
Việc dâng lễ và rước lễ chỉ có ý nghĩa và giá trị, đồng thời trở nên niềm vui mừng và hy vọng, nếu như trước và sau khi đến nhà thờ, chúng ta cảm thấy mình chỉ có một nghĩa vụ là yêu mến Thiên Chúa trong anh em và yêu mến anh em trong Thiên Chúa, khi đó chúng ta mới cảm thấy rằng chúng ta không có cách nào hơn để sống, ngoài việc kết hiệp với Đấng đã vì yêu thương mà hiến mình trên thập giá và hiện đang sống để chuyển thông sức mạnh tình yêu ấy cho mỗi người chúng ta.
Bởi đó, hãy siêng năng tham dự thánh lễ và sốt sắng rước lễ, nhờ đó chúng ta sẽ kín múc được những lợi ích thiêng liêng cho tâm hồn, mà thánh lễ đem lại cho mỗi người chúng ta.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corintô, viết năm 57, thánh Phaolô cho chúng ta một chứng từ cổ xưa về bí tích Thánh Thể mà ngài gọi là bữa ăn của Chúa. Ngài khẳng định rằng ngài chỉ là người truyền đạt lại những gì mình đã lãnh nhận từ truyền thống Giáo Hội.
Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Đức Giêsu trong bữa ăn vào đêm Người bị nộp.
Tấm bánh thành Mình Thầy: hãy cầm lấy mà ăn.
Chén rượu thành Máu Thầy: hãy cầm lấy mà uống.
Đức Giêsu còn mời ta làm lại những gì Người đã làm:
“Anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ Thầy.”
Giáo Hội đã vâng lời từ 20 thế kỷ. Có biết bao thánh lễ đã được cử hành trên mặt đất. Thánh lễ nào cũng là một bữa ăn do Chúa thết đãi, và cũng là một nghi thức tưởng nhớ cái chết của Chúa.
Không thể tách rời thánh lễ với cái chết của Đức Giêsu. Mình Thầy sẽ bị nộp, Máu Thầy sẽ đổ ra vì anh em.
Rước lễ là rước lấy Đấng đã chết vì loài người, như thế là hiệp thông vào cái chết thập giá.
Mỗi lần dự lễ, chúng ta loan truyền Chúa đã chịu chết. Nhưng Đấng đã chết cũng là Đấng đã sống lại, Đấng đang ngự bên hữu Cha và sẽ đến trong vinh quang. Rước lễ chẳng phải là rước một thi hài người chết, mà là đón lấy Đấng đang sống và đang ban sự sống.
Dự thánh lễ là dự một bữa ăn như bữa Tiệc ly, là tham dự vào hy tế năm xưa trên Núi Sọ. Chính vì thế ta không nên dự lễ với hai bàn tay trắng. Cần đem theo tấm bánh của mình trong ngày qua, tuần qua. Tấm bánh làm từ lúa của đất, công của người.
Chúa Giêsu cần tấm bánh của tôi, để Người biến đổi. Thánh Thần cần tấm bánh của tôi, để Người thánh hoá.
Chúa Kitô không từ trời cao ngự xuống tấm bánh. Đúng hơn, Người nâng tấm bánh lên tới Người, và biến nó thành lương thực thần linh nuôi tôi. Như thế, tấm bánh thánh mong manh nhỏ bé lại là nơi hội tụ của cả Thiên, Địa, Nhân. Vũ trụ, con người và Thiên Chúa gặp nhau, hoà quyện.
Bí tích Thánh Thể góp phần biến đổi cả vũ trụ loài người. Những gì là tự nhiên, nay được thần hoá, được biến đổi tận căn mà vẫn không đánh mất chính mình.
Lễ vật tôi dâng lên Chúa, Chúa trao lại cho tôi. Bánh bởi trời cũng là bánh bởi đất…
Mỗi phút trên trái đất, có bao tấm bánh được trao đi.
Trong mỗi tấm bánh bình thường được bẻ ra và trao đi, chúng ta thấy có bóng dáng của tấm bánh Mình Chúa.
Chính nhờ được nuôi bằng bánh thánh tại bàn thờ, mà ta có thể chia sẻ cho tha nhân tấm bánh vật chất, và những tấm bánh tinh thần.
Hãy dâng tất cả những gì thuộc về trái đất và con người, để Đức Kitô biến đổi thành Tấm Bánh Khổng Lồ dâng lên Cha.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo kinh nghiệm của bạn, rước lễ đem lại lợi ích gì cho cuộc sống?
Thánh lễ trở nên nhàm vì chúng ta thường đi xem linh mục làm lễ, và chẳng mang theo một lễ vật nào. Theo bạn, thế nào là tích cực tham dự thánh lễ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, Chúa là thức ăn, thức uống của con.
Càng ăn, con càng đói; càng uống, con càng khát; càng sở hữu, con lại càng ước ao.
Chúa ngọt ngào trong cổ họng con hơn cả tầng mật ong, vượt quá mọi thứ ngọt ngào khác trên đời.
Lúc nào con cũng thấy đói khát và ước ao, vì con không sao múc cạn được Chúa.
Ngài nghiền nát con hay con nghiền nát Ngài? Con chẳng rõ; vì ở thẳm sâu lòng con, con cảm thấy cả hai.
Chúa đòi con nên một với Ngài, đòi hỏi đó làm cho con đau đớn, vì con không muốn từ bỏ những thói quen của con để ngủ yên trong tay Chúa.
Con chỉ biết tạ ơn Chúa, ca ngợi và tôn vinh Chúa, bởi đó là sự sống đời đời cho con.
Ruy Broeck
– Phép lạ xảy ra vào lúc ngày tàn; sau này Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể cũng vào lúc cuối ngày.
– Trong phép lạ này những hành động của Đức Giêsu như: cầm lấy bánh và cá đọc lời chúc tụng, bẻ ra, phân phát; sau này Đức Giêsu khi lập Bí Tích Thánh Thể, Người cũng có những hành động giống như vậy.
Qua phép lạ hoá bánh, cá ra nhiều này và Bí Tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập. Đức Giêsu muốn nói lên, muốn dạy ta điều gì? Thưa qua đó cho ta thấy tình thương của Thiên Chúa, Đức Giêsu dành cho mọi người chúng ta và Chúa cũng đòi hỏi chúng ta cũng phải lấy tình người đối với nhau.
Không những lo cho dân chúng được no đủ về thể xác, mà quan trọng hơn bằng việc tự hiến bản thân của mình để ban của ăn thiêng liêng cho loài người. Vì Người là Đấng quyền năng, có thể dùng những phương thức khác để nuôi sống linh hồn con người, nhưng Người đã chọn con đường tự hiến máu thịt của mình: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Tình thương của Người dành cho chúng ta không những một lần thôi, mà mỗi khi Thánh Lễ được cử hành là tái diễn việc hy sinh của Đức Giêsu, và hiệu quả của việc hy sinh này tiếp tục được thực hiện, như lời Đức Giêsu đã hứa: Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời(x. Ga 6,51-58).
Rồi cảnh tượng bữa ăn lạ lùng thật vui, trên 5.000 người cùng chia sẻ lương thực thực phẩm với nhau. Một hình ảnh nói lên sự yêu thương và hợp nhất. Thật vậy, một buổi tiệc dù vui hay buồn (sinh nhật, cưới, tang…), thì những người tham dự cùng chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn, qua đó nói lên sự yêu thương, hợp nhất. Buổi ăn nơi hoang dã này càng đượm ý nghĩa hơn khi Đức Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể.
Bàn tiệc Thánh Thể được Đức Giêsu thiết lập dưới hình thức một bàn tiệc hiệp thông huynh đệ. Vì vậy, Thánh lễ, qua đó Bí Tích Thánh Thể được cử hành là bàn tiệc thánh, thiêng liêng, mọi người không phân biệt giai cấp, già trẻ, sang hèn… đều được mời gọi tham dự, chia sẻ. Thánh Phaolô đã viết: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17).
Như vậy quả thật Bí Tích Thánh Thể không chỉ là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa ban cho con người mà còn là dấu chỉ của tình người cần phải có đối với nhau.
Khi xác quyết Bí Tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình Chúa, chúng ta phải siêng năng tham dự Thánh lễ và rước lễ, để đáp trả tình yêu thương Ngài đã dành cho chúng ta. Đồng thời nhờ ơn Chúa giúp để chúng ta có thể vượt qua những khó khăn, thử thách đời nầy và nhất là đảm bảo cho chúng ta được sống đời đời.
Khi xác quyết Bí Tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình người, mỗi chúng ta phải cố gắng sống yêu thương, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Không phải chúng ta chỉ hiệp nhất và yêu thương trong việc thờ phượng Chúa, trong Thánh lễ… mà còn phải thực sự hiệp nhất và yêu thương nhau trong cuộc sống. Đức Giêsu phán: “Anh em hãy làm việc nầy mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19), chắc hẳn Chúa không chỉ muốn chúng ta chỉ cử hành lại Bí Tích Thánh Thể mà thôi, mà còn muốn chúng ta yêu thương, giúp đỡ nhau trong tình bác ái huynh đệ theo gương của Người. Bởi đời ta là Thánh lễ nối dài và như lệnh truyền của Chúa: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
THÁNH LỄ TRONG NHÀ THỜ VÀ THÁNH LỄ NGOÀI CUỘC ĐỜI
Đức Hồng Y Hellder Camara về ban phép Thêm sức cho trẻ em trong một xứ đạo. Khi đến nơi, Ngài thấy cả xứ đạo đang quỳ gối lăn lộn trên đất, đấm ngực khóc lóc than van như trong cơn đại hoạ. Đêm trước, trong khi mọi người mê mải chuẩn bị đón Đức Hồng Y, kẻ trộm đã lẻn vào nhà thờ ăn trộm những bình đựng Mình Thánh. Kẻ trộm đổ Mình Thánh Chúa ra vườn, lấy đi những bình mà họ tưởng làm bằng vàng. Thật là một sự phạm thánh ghê gớm.
Thế nhưng trong bài giảng hôm ấy, Đức Hồng Y đã làm cho mọi người kinh ngạc khi Ngài nói: Tại sao hôm nay anh chị em mới than khóc. Hằng ngày biết bao lần Chúa Giêsu bị nhục mạ, bị hành hạ, bị chà đạp, bị giết chết trong những anh chị em nghèo khổ, vô gia cư, trong các trẻ em không cha mẹ, không gia đình, sao chẳng thấy ai than khóc? Anh chị em không biết sao, những anh chị em ấy chính là Chúa Giêsu, là Thân Mình Chúa Giêsu, là Thánh Thể Chúa.
Nói như thế, Đức Hồng Y không có ý coi thường phép Mình Thánh Chúa. Nhưng Ngài có ý nhắc cho ta một khía cạnh thường hay bị lãng quên trong khi cử hành bí tích. Đó phải là cử hành bí tích không chỉ trong nhà thờ mà còn phải cử hành cả ngoài cuộc đời nữa.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, ta hãy lưu ý hai điểm:
1- Diễn tiến phép lạ hoá bánh ra nhiều giống hệt như diễn biến một Thánh Lễ. Nếu Thánh Lễ gồm hai phần Phụng vụ Lời Chúa và Phục vụ Thánh Thể thì trong bài tường thuật hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã giảng dạy dân chúng trước rồi mới ban bánh sau. Dân chúng được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa trước khi được nuôi dưỡng bằng bánh đã được chúc phúc. Đây quả là một Thánh Lễ cử hành giữa đời thường. Một Thánh Lễ không có nhà thờ, chẳng có bàn thờ.
2- Cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu khi hoá bánh ra nhiều, khi lập phép Mình Thánh Chúa và khi dùng bữa với các môn đệ làng Emmau giống y như nhau. Cả 3 đoạn văn trên đều tả Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ.
Tại sao có sự trùng hợp thế? Thưa vì Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu rằng: Bí tích không chỉ là một nghi lễ, nhưng là một sự thực. Sự thực ấy phải đâm rễ sâu nơi cuộc đời, phản chiếu đời sống và đem lại lợi ích cho đời sống.
Nếu trong Thánh Lễ Chúa Giêsu ban phát lương thực nuôi linh hồn, thì ngoài cuộc đời, Người đã ban lương thực nuôi thân xác.
Nếu Thánh Lễ là một bữa tiệc huynh đệ, thì trong sa mạc hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã tổ chức một bữa tiệc long trọng, mỗi bàn ăn gồm 50 người để họ chia sẻ với nhau không chỉ cơm bánh mà còn tâm tư tình cảm nữa.
Nếu trong Thánh Lễ, Chúa Giêsu dâng mình cho Đức Chúa Cha dưới hình bánh rượu, thì ngoài cuộc đời, Chúa Giêsu đã tự hiến mình trên thánh giá.
Nếu trong Thánh Lễ, Chúa Giêsu dưới hình bánh bị bẻ ra để phân phát, thì ngoài cuộc đời, thân xác Người cũng đã bị bẻ ra trong những sỉ nhúc, đòn vọt, đóng đinh.
Quả thật Chúa Giêsu đã dâng Thánh Lễ không chỉ trong nhà thờ, mà Người còn dâng Thánh Lễ ngoài cuộc đời. Người không chỉ dâng một lễ vật nào đó, nhưng đã dâng chính bản thân mình. Người chỉ cử hành một bí tích, nhưng chính bản thân Người đã trở thành bí tích. Người không chỉ bẻ ra một tấm bánh mà còn bẻ chính thân mình ra để ban phát cho mọi người. Chính vì thế mà lễ dâng của Người có giá trị. Thái độ của Chúa Giêsu khiến ta phải suy nghĩ.
Làm sao ta có thể gọi Thánh Lễ là một bữa tiệc huynh đệ nếu ta vẫn còn giữ trong lòng những thù hận ghen ghét? Làm sao ta có thể đi dự tiệc Thánh Lễ nếu chung quanh ta còn biết bao anh em đói khổ, thiếu thốn? Làm sao ta có thể dâng Thánh Lễ nếu trong cuộc đời ta không hiến mình cho anh em?
Khi truyền lệnh: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Chúa Giêsu không chỉ truyền cho ta cử hành Thánh Lễ trong nhà thờ. Người còn muốn cho ta dâng Thánh Lễ cả ngoài cuộc đời. Nghĩa là phải chia sẻ, chịu mọi đau khổ, biết khiêm nhường nhịn nhục, biết sống đoàn kết yêu thương, biết hiến mình vì anh em.
Việc cử hành Thánh Lễ ngoài cuộc đời cũng quan trọng như việc cử hành Thánh Lễ trong nhà thờ. Hơn nữa, nếu thiếu việc cử hành ngoài cuộc đời, những nghi lễ trong nhà thờ sẽ trở thành bùa chú, giả dối và phản chứng.
Xin cho bí tích Thánh Thể trở thành một sự thực trong đời sống. Xin cho chúng ta biết thờ lạy Chúa Giêsu không phải chỉ trong hình bánh mà còn nơi những anh em bé mọn trong cuộc đời. Xin cho chính đời sống ta trở thành một bí tích, chịu bẻ ra để đem lại lợi ích cho anh em. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Trên bình diện giai thoại, nên nhắc đến một chú giải mới đây cho rằng đám đông theo Chúa là một cuộc tập họp có dáng dấp quân sự… Theo lối nhìn ấy, tưởng nên phụ đề thêm cho đủ bộ: Chúa chữa lành các bệnh nhân, vậy có nên nghĩ Chúa điều hành một sở y tế không? Phải nói lên như vậy để chúng ta chú ý đến sự cần thiết đọc các bản văn Kinh Thánh với tinh thần khách quan, không nên quên rằng nguy cơ là ở chỗ để óc chủ quan làm cho hiểu sai ý nghĩa Kinh Thánh. Phê phán thẳng thắn với một tâm hồn thanh khiết, là điều kiện phải có cho sự khảo cứu những tác phẩm nghiêm chỉnh – đức tính ấy rất cần cho người đọc Kinh Thánh.
Ý định Thiên Chúa trong sáng như thanh thiên bạch nhật, hiển hiện qua đoạn Phúc Âm thuật lại phép lạ hóa bánh thành nhiều. Đức Giêsu đáp ứng những khát vọng sâu xa của nhân loại bằng ân huệ sinh hóa bánh ăn và bằng chính bản thân Chúa lôi cuốn dân chúng. Bài đọc hôm nay dễ hiểu, chỉ cần lưu ý ba chi tiết hấp dẫn:
1) Đức Giêsu niềm nở với đám đông dân chúng theo Người.
Đức Giêsu là Thầy được dư luận rộng rãi đồn đại. Ai cũng muốn đến gần để xem để nghe. Tới một lúc, Chúa muốn lui ra một chỗ riêng biệt. Dân chúng đoán biết ý Chúa, vội đến đó trước chờ Người. Thấy thế, Chúa tỏ ra niềm nở với họ. Chúng ta có thể tưởng tượng Người có lẽ hơi bực mình, muốn nghỉ ngơi một lát vì mệt mỏi. Chúa để đám đông vây quanh, như thể ‘nuốt’ lấy Người. Có ý kiến cho rằng linh mục của Đức Giêsu Kitô được ơn kêu gọi trở nên một người bị ‘nuốt’. Đối với Chúa, điều nhận xét này đúng vô cùng. Chúa ban cho dân chúng một của ăn thiêng liêng lâu bền hơn của ăn vật chất. Vậy của ăn mà loài người khao khát nhất là của ăn thiêng liêng. Môn đệ Đức Kitô không được bao giờ quên rằng người xung quanh có quyền đòi hỏi nhiều ở mình, mình phải niềm nở, phải tiếp tế cho những ai đói khát.
2) Chúa nói với họ về Nước Thiên Chúa. Và bảo các môn đệ: “Hãy cho họ ăn”.
Cho họ của ăn nào? Họ cần cả hai thứ, bánh phần hồn lẫn bánh phần xác. Con người là một bản thể vừa vật chất vừa siêu nhiên. Nước Thiên Chúa dưới thế gồm những con người cần có lương thực nuôi thân. Kitô hữu nào muốn trở nên môn đệ Đức Kitô trong sự thật, kẻ ấy phải cố gắng phân phát của ăn vật chất cho những ai đói về thể xác, nhưng không được quên rằng họ cũng đói về phần hồn. Thế giới ngày nay thiếu ăn, kêu gọi chúng ta giúp đỡ – Đức Giáo Hoàng không ngớt nhắc nhở chúng ta điều ấy. Chúng ta làm gì về mặt thực tế cho những kẻ ăn không đủ no? Thế giới đang kêu gọi những người có trách nhiệm về Phúc Âm. Chúng ta có đem Phúc Âm thật đến cho những kẻ đói khát sự thật không?
3) Bánh được Đức Giêsu hóa thành nhiều là tiền-ảnh về Bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu tự hóa thành nhiều như Người đã hóa năm chiếc bánh thành vô số của ăn. Phép lạ bánh là dấu chỉ khiến chúng ta ý niệm về quyền năng vô biên của Thiên Chúa đem phục vụ cho một tình yêu vô biên. Không có dấu hiệu yêu thương nào lớn hơn hiến mạng sống mình. Đức Giêsu hiến mạng sống Người, hơn thế nữa, Chúa tặng tất cả bản thân Chúa cho nhân loại. Chúa dùng quyền năng vô biên của Người phục vụ cho sự hiến tặng ấy. Chúa tự hóa thành nhiều để hiến cho mỗi người chúng ta. Khi hàng ngàn người rước lễ, có hàng ngàn con người riêng biệt, chính Đức Kitô hiến toàn thân cho mỗi người rước Mình Thánh Chúa lúc đó.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trên thế giới ngày nay đang xảy ra hai sự kiện rất thời sự, nhưng cũng rất bi thảm và chua cay: đó là cảnh một số người dư tiền thừa của, ăn uống lu bù… Và bên cạnh đó, một thảm cảnh trái ngược khác: đó là hàng triệu người thiếu ăn, hay không có gì để ăn… Ngay hôm nay đây, có những vùng rộng lớn trên thế giới-như Phi Châu- đang thiếu ăn đến độ không sống nổi, bên cạnh những người khác đang phung phí tiền của một cách phi nhân… Ăn uống tràn trụa, ăn chọ bội thực, ăn quá mà chết, và người ta đã chết vì ăn quá nhiều cũng như biết bao nhiêu người khác đã chết vì không có gì ăn!..
Trong hai thực trạng bi thảm đó, có chung hậu quả nầy là: cái chết. No quá mà chết. Đói quá mà chết. Tại sao lai chết? Vì hai nhu cầu không được đáp ứng: nhu cầu thứ nhất, người ta muốn biết sống để làm gì? Tại sao lại sống? Vì thấy đời sống phi lý, nên người ta ăn để mà chết, ăn cho nó nổ tung cái bụng ra cũng được! Nhu cầu thứ hai, người ta muốn có cái gì ăn để sống. Sống bằng cái gì? Câu hỏi nầy lệ thuộc hoàn toàn vào câu hỏi thứ nhất: sống để làm gì? Qua Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu trả lời:người ta sống với nhau và chia sẻ với nhau. Thánh Thể Chúa ban cho chúng ta để thúc đẩy chúng ta chia sẻ tình yêu với anh em của mình. Nếu chúng ta thực hiện được điều nầy là giải quyết được nạn đói trên thế giới.
Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô vừa cho chúng ta một chứng cớ rất xa xưa về Bí tích Thánh Thể, “Bữa tiệc của Chúa”. Bốn sách Tin Mừng cũng ghi lại những nét chính yếu về Bữa Tiệc nầy. Các tín hữu Côrintô vẫn hội họp nhau để cử hành “Bữa tiệc của Chúa”, nhưng Thánh Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là “Tiệc của Chúa” cả. Gần giống các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại, bởi vì ai đến dự cũng đem phần ăn riêng của nhà mình đến. Người có nhiều thì ngồi chung với nhau ăn nhậu say sưa thoải mái, bên cạnh đó những người nghèo hơn đem theo phần ăn ít ỏi hay chẳng có gì, ôm bụng đói meo ngồi chờ… Người ta chỉ mương “Nhà của Chúa” để đem đồ ăn của “nhà mình” đến ăn nhậu. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành “Bữa ăn tối của Chúa” nữa.
Vì vậy, để sửa dạy giáo dân của ngài, thánh Phaolô phải nhắc lại thế nào là “bữa ăn” đích thực của Chúa. Ngài làm cho họ nhớ lại điều ngài đã nhận được nơi Chúa Giêsu để truyền lại cho tín hữu, đó là: Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra trao cho các môn đệ mà nói: “Nầy là Mình Thấy sẽ bị nộp vì anh em”. Cũng vậy, sau khi dùng bữa tối, Chúa Giêsu cầm chén rượu trao cho các ông mà nói: “Chén này là Giao Ước mới trong Máu Thầy. Anh em hãy làm lại việc nầy mỗi khi uống mà nhớ đến Thầy”.
Chỉ trong mấy câu vắn tắt, Thánh Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Ngài nói rõ việc đó xảy ra trong đêm Chúa Giêsu bị nộp. Cho nên việc ban bánh rượu nầy cho các môn đệ gắn liền với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Và “Bữa ăn của Chúa” luôn luôn mang sắc thái của Bữa Tiệc Ly cũng là Bữa Tiệc Vượt Qua của người Do Thái. Trong Bữa Tiệc Vượt Qua nầy, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là việc cốt yếu. Vậy mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Chúa Giêsu lại nói: “Đây là Mình Ngài sẽ bị nộp và đây là Máu Ngài sẽ đổ ra”. Rõ ràng Chúa Giêsu đã tự coi, tự biến mình nên Chiên Vượt Qua để đem đến ơn cứu độ mà các tiên tri từng loan báo. Ngài đã thay thế Bữa Tiệc Vượt Qua của người Do Thái bằng Bữa Tiệc của Người hôm nay.
Vậy mà giáo dân Côrintô đâu có làm như vậy. Thánh Phaolô phải bảo họ: “Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén nầy, anh em loan báo cái chết của Chúa cho đến khi Ngài trở lại. Anh em làm bất xứng thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa”. Những lời nầy tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh và rượu đã trở nên Mình và Máu Chúa. Nhưng mục đích của Thánh Phaolô không phải chỉ nói đến sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể mà còn khuyên chúng ta vì tính chất linh thiêng của bữa ăn như vậy, nên phải cử hành Tiệc Thánh để gia tăng tình yêu: Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn huynh đệ.
Đây mới là ý nghĩa của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe: Trước khi làm phép lạ nhân bánh ra nhiều để nuôi 5.000 người ăn, chưa kể đàn bà và trẻ em, Chúa Giêsu bảo các tông đồ: “Anh em hãy cho họ ăn đi!”. Các ông ngạc nhiên, lúng túng và bắt đầu tính toán: chúng ta chỉ có năm cái bánh và hai con cá; hay là phải đi mua thức ăn cho cả đám đông nầy? Làm sao nuôi nổi tới năm ngàn đàn ông, còn đàn bà và trẻ em chưa kể? Chỉ mua bánh cũng phải tốn ít ra là 200 đồng. Nhưng mua ở đây vì đây là hoang địa? Chính Philip là người đang cố tìm câu trả lời. Các ông định giải tán dân chúng để họ tự tìm lấy thức ăn và chỗ ở cho yên chuyện, vì trời sắp tối rồi. Thấy các ông thú nhận sự bất lực của mình, Chúa Giêsu bảo các ông chia đám đông thành từng tổ 50 người, rồi Ngài lại cầm lấy bánh và cá, chúc tụng Chúa, bẻ ra và trao cho các ông đem phân phát cho dân chúng. Tất cả mọi người đều được ăn no và cuối cùng còn thu lại được 12 thúng bánh vụn.
Những điều đó đáng chúng ta suy nghĩ. Trong Bàn Tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu cảu anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Máu Thịt Ngài, Ngài còn trao cho chúng ta để chia sẻ huống nữa là của cải vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người chúng ta. Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy cuối cùng còn thu lại được mười hai thúng bánh dư thừa?
Vì vậy, hôm nay chúng ta phải đi từ bàn tiệc của Chúa đến bàn ăn của anh em; đi từ chia sẻ Mình Thánh Chúa đến chia sẻ tình hiệp thông bác ái huynh đệ trong việc xây dựng đời sống cụ thể: cơm ăn, áo mặc, nhà ở… cho mọi người. Chắc chắn Giáo Hội ban đầu đã hiểu rằng bàn tiệc của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử hành Mầu nhiệm Thánh Thể, Giáo Hội cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ đời sống vật chất. Giáo Hội Côrintô đã quên việc hiệp thông huynh đệ trong Bữa Tiệc Thánh Thể, nên Thánh Phaolô đã khiển trách họ nặng nề: “Họ vẫn chia rẽ nhau, vẫn không chia sẻ cho nhau; người giàu thì ăn uống no say, còn người nghèo thì ôm bụng đói meo ngồi chờ” (1Cr 11).
Người ta phải sống với nhau và chia sẻ cho nhau. Chúng ta sốt sắng dự lễ, rước lễ, tôn thờ Thánh Thể, nhưng chúng ta có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để trên thế giới ngày nay không một ai phải thiếu thốn quá, đang khi những người khác thì no đầy; để không còn xảy ra thảm cảnh những người chết vì bội thực bên cạnh những người chết vì không có gì để ăn!
Nơi Bàn Thánh chúng ta được nuôi dưỡng bằng sự sống của Chúa. Sự sống mới nầy phải đưa chúng ta đến với anh em và chia sẻ với anh em. Các bí tích không phải là những phương tiện để chúng ta được cứu sống mà còn để chúng ta thành những người đi cứu hộ kẻ khác nữa. Bởi đó, tất cả những gì làm cho mọi người liên kết, hoà hợp, yêu thương nhau phải thúc đẩy chúng ta không ngừng. Chúa Giêsu đã không chết vì hận thù, nhưng Ngài chết vì tình yêu, thì trong Bữa Tiệc Thánh Thể nầy Chúa Giêsu cũng muốn dạy chúng ta phải biết sống và chết vì tình yêu như Ngài.
Suy Niệm 1. ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY
Vào lúc này hay lúc khác, tất cả chúng ta không được ai biết đến hoặc làm lơ. Điều ấy làm chúng ta rất khổ sở. Chúng ta cảm thấy việc chúng ta làm không được thừa nhận và chính chúng ta bị đối xử như thể chúng ta thật sự không có gì đáng kể.
Nhưng có một điều còn tệ hơn việc chúng ta không được biết đến. Chúng ta có thể bị bỏ quên. Điều này còn làm chúng ta khổ sở hơn. Điều đó không chỉ ở chúng ta có ít giá trị mà ở chỗ không có giá trị nào cả. Như thể chúng ta đã không hiện hữu.
Đức Giêsu cũng muốn đước tưởng nhớ. Đêm trước khi Người sắp chết, khi Người ngồi ăn với các môn đệ, Người cầm lấy bánh và nói: Đây là mình Thầy bị nộp vì các con: Rồi Người cầm lấy chén rượu nho và nói: “Này là chén máu Ta… Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
Dĩ nhiên, Đức Giêsu không đòi các môn đệ tưởng nhớ chỉ vì nhu cầu riêng của Người. Người cũng nghĩ đến các môn đệ của Người. Họ cũng cần nhớ đến Người. Vì tình yêu của Người đối với họ. Người đã để lại cho họ một phương thế đặc biệt để họ nhớ Người tức là Thánh Thể.
Mỗi lần chúng ta cử hành Thánh Lễ, chúng ta nhắc lại một vài việc làm và lời nói kỳ diệu của Người. Chúng ta suy nghĩ về những điều ấy và áp dụng vào đời sống chúng ta. Nhưng Thánh Lễ còn kỳ diệu hơn thế nữa.
Khi chúng ta nhớ đến theo cách ấy, Người trở nên hiện diện với chúng ta. Không phải bằng thể chất, nhưng là hiện diện thật.
Qua Thánh Thể một dây liên kết được hình thành ở giữa chúng ta, với kết quả là chúng ta có thể bước vào sự thân mật sâu xa với Người hơn cả khi Người hiện diện bằng thể chất. Chúng ta không chỉ giao tiếp với Người nhưng ở trong sự hiệp thông với Người, một sự hiệp thông thánh thiện.
Trí nhớ là một khả năng quý giá. Nó liên kết chúng ta với người khác và các biến cố không còn hiện diện với chúng ta nữa. Nếu chúng ta ấp ủ hồi ức về những người chúng ta yêu mến, họ trở nên hiện diện với chúng ta. Họ không chỉ là một hồi ức nhưng còn là một sự hiện diện mà chúng ta cảm thấy hơn là nhìn thấy. Khi tưởng nhớ đến họ, chúng ta tiếp tục thu hoạch một mùa gặt từ những gì họ đã gieo trồng khi họ còn sống giữa chúng ta.
Tưởng nhớ đến Đức Giêsu còn sinh lợi hơn biết bao, đặc biệt trong cách mà Người yêu cầu chúng ta nhớ đến Người.
Suy Niệm 2. TRONG ĐÊM NGƯỜI BỊ PHẢN BỘI.
Đêm hôm trước ngày Người chết, Đức Giêsu ngồi vào bàn tiệc với các Tông đồ. Nhóm nhỏ quy tụ xung quanh bàn tiệc gợi lên sự gần gũi, thân mật, ấm cúng, tín thác và yêu thương. Nhưng nếu có phản bội bước vào trong khung cảnh ấy thì sự chia cắt tình cảm càng sâu xa hơn, và tổn thương gây ra càng nhiều hơn. Khi sự rạn nứt xảy ra giữa những người rất thân nhau thì sự giải quyết gay go hơn so với những người không thân nhau đến thế.
Giuđa cũng đã có mặt. Tại sao ông ta lại tham dự bữa Tiệc Ly khi mà ông ta đã có ý định phản bội Đức Giêsu? Có lẽ, ông ta muốn tạo ra cảm tuởng rằng mọi việc vẫn bình thường, và do đó Đức Giêsu sẽ không có chút nghi ngờ nào.
Bản tường thuật của bữa Tiệc Ly của Phaolô là bản cổ nhất mà chúng ta có trong Tin Mừng. Ông viết: “Trong đêm Người bị phản bội, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Anh em hãy cầm lấy bánh mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”.
Một câu đập vào mắt của chúng ta. Đó là “Trong đêm Người bị phản bội”. Chính trong đêm ấy chứ không phải một đêm nào khác. Thay vì đoạn tuyệt với các Tông đồ, Người cho họ một dấu chỉ của tình yêu Người: Người ngồi ăn bữa tối thân mật với họ. Rồi Người nói: “Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”. Đó là cách mà họ phải nhớ đến Người. Chính trong đêm đó, một người trong bọn họ đã phản bội Người.
Chúng ta không nên nghĩ rằng Đức Giêsu không bị sự phản bội của Giuđa làm tổn thương. Người đã bị tổn thương một cách sâu xa. Thánh Gioan nói rằng khi Người bắt đầu nói về kẻ phản bội “Người đau buồn sâu sắc”. Và chắc chắn là thế. Người đã đích thân tuyển chọn và đào tạo Giuđa. Giuđa đã nghe những lời Người giảng dạy và chứng kiến những phép lạ của Người. Giuđa là một người trong vòng thân cận. Thế mà giờ đây, ông ta định phản bội Người. Sự phản bội của một người bạn càng gây ra nhiều sự tổn thương và khó khăn hơn khi đối phó với sự phản bội của một kẻ thù.
Đối phó với sự phản bội là một việc rất gay go. Tuy nhiên, những người bị phản bội có thể có được niềm an ủi từ sự kiện Đức Giêsu đã cảm thấy bị phản bội như thế nào. Họ không thể cho rằng mình không bị phản bội làm tổn thương. Đức Giêsu cho thấy Người bị tổn thương như thế nào và đã bộc lộ bằng lời nói. Điều quan trọng là chúng ta phải đối phó với sự tổn thương như thế nào. Nó có thể làm cho chúng ta chua chát hơn và cám dỗ chúng ta trả thù.
Dù cảm thấy bị tổn thương, Đức Giêsu không trả đũa Giuđa. Người cũng đã từ chối bêu xấu ông ta trước mặt những người khác. Nhưng khi đưa cho Giuđa miếng bánh nhỏ (một cử chỉ bạn bè), Người để ông ta biết rằng Người biết kế hoạch của ông ta. Và khi từ chối lấy tay chỉ thẳng vào ông ta, Người để cánh cửa mở rộng cho ông ta quay lại với tập thể.
Điều Giuđa làm cũng gây ra sự tổn thương cho các Tông đồ khác. Dẫu sao, ông ta cũng là một người của họ. Họ đã tin tưởng ông ta và cùng ông ta chia sẻ mọi việc. Họ nghĩ rằng họ biết ông ta, nhưng ông ta đã trở mặt làm một kẻ phản bội. Khi phản bội Giêsu, ông ta cũng đã phản bội họ.
Chúng ta không nhớ đêm ấy vì sự phản bội của Giuđa. Chúng ta nhớ đêm ấy vì ơn lành mà Đức Giêsu để lại cho chúng ta dù rằng có sự phản bội đó. Thánh Thể sẽ giúp đỡ chúng ta bình phục trước sự phản bội mà bàn tay người khác đã gây ra cho chúng ta. Và Thánh Thể cũng giúp chúng ta không trở thành kẻ phản bội của bất kỳ ai khác.
Thánh Kinh đã dùng thật nhiều hình ảnh để diễn tả về bữa tiệc Thánh Thể. Nào là hình ảnh Manna, Bánh bởi trời, nào là hình ảnh chiên vượt qua… Và gần chúng ta hơn hết là hình ảnh của phép lạ bánh hóa nhiều. Tất cả những hình ảnh ấy được thực hiện một cách viên mãn nơi Đức Kitô khi Ngài tuyên bố:
– Ta là bánh hằng sống… Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống.
Chính Chúa Giêsu đã trở nên của ăn cho tâm hồn mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thực vậy, Bí tích Thánh Thể chính là một sáng kiến tình yêu vĩ đại nhất của Chúa Giêsu. Ngài đã thiết lập mầu nhiệm tình yêu này để thông ban cho con người một hồng ân cao cả, đó là nhờ mình và máu Ngài mà chúng ta được thông hiệp vào sự sống thần linh. Thánh Thể còn là hy tế tưởng niệm và tạ ơn hoàn hảo nhất được dâng lên cho Thiên Chúa. Qua cái chết và sự Phục sinh, Đức Kitô đã trở nên của lễ hoàn hảo.
Nhưng lễ tế này, giờ đây còn được tái diễn trong thánh lễ. Hy tế ấy vẫn tồn tại và hiện thực, mặc dù biến cố ấy đã xảy ra cách đây hai mươi thế kỷ. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch sự sống, bổ dưỡng cho tâm hồn chúng ta như lời Chúa đã nói:
– Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.
Dân Chúa đang trên đường lữ thứ trần gian cần phải được bổ dưỡng bằng lương thực thần linh này để đạt tới bờ bến bình an.
Bí tích Thánh Thể còn là nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, sự sống đời đời là gì nếu không phải là ơn cứu độ Chúa dành cho chúng ta. Bí tích Thánh thể còn là sợi dây liên kết mọi người chúng ta lại với nhau như lời thánh Phaolô:
– Tất cả chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén, cùng thông phần một nguồn sức sống thần linh là Đức Kitô.
Tuy nhiên, Bí tích Thánh Thể chính là bí tích của đức tin. Muốn lãnh nhận, chúng ta phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới giúp chúng ta nhận ra bộ mặt của Đức Kitô trong Giáo hội. Chỉ qua lăng kính đức tin, chúng ta mới nhận ra Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Không có đức tin mọi hành vi phụng vụ đều bị coi là mê tín. Bí tích chỉ có ý nghĩa và tác sinh hiệu quả khi chúng ta có một đức tin sống động, một tình thương chan hòa và ơn sủng Chúa trao ban.
Và sau cùng, Thánh Thể chính là hình ảnh của bữa tiệc cánh chung. Khi tham dự Thánh Thể, được ăn và uống mình máu Thánh Chúa Giêsu, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Được Đức Kitô tan biến và thấm nhập vào tâm hồn chúng ta, được sống bằng chính sức sống của Thiên Chúa. Và như vậy, đời sống vĩnh cửu đang có và triển nở nơi người tín hữu để rồi tiến đến tình trạng viên mãn trong ngày sau hết.
Vì những ý nghĩ cao cả ấy, việc cử hành thánh lễ, phải là trung tâm của mọi hoạt động phượng tự của Giáo hội, cũng như phải là chóp đỉnh của đời sống người tín hữu, như Công đồng Vatican II đã xác quyết:
– Mọi bí tích, mọi việc tông đồ, mọi chức vụ của Giáo hội đều qui về Bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là khởi nguồn và chóp đỉnh của mọi việc rao giảng Tin Mừng và là dấu chỉ của sự hiệp nhất.
Thế nhưng còn chúng ta, chúng ta đã nghĩ gì về Bí tích Thánh Thể và nhất là chúng ta đã đáp trả tình thương to lớn mà Chúa Giêsu Thánh thể đã dành cho chúng ta như thế nào.
Cuộc gặp gỡ tình yêu mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta ở trang Tin Mừng này hay Tin Mừng nọ đôi khi là một kế hoạch lớn, một cuộc đối diện khá thân mật với Ngài và đôi khi là một kế hoạch tổng thể trong đó chúng ta chiêm ngưỡng Ngài từ xa hơn. Đó là trường hợp ngày hôm nay.
Không có trần thuật nào quen thuộc với chúng ta hơn là trần thuật bánh hóa nhiều. Có sáu trần thuật như thế trong Tin Mừng! Ngày hôm nay, lễ Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cố gắng đi ngay vào việc suy niệm Thánh Thể, nhưng như thế, sẽ làm hạn hẹp những quan điểm rộng rãi của thánh Luca.
Từ đầu thánh Luca không ngừng loan báo biến cố: ngày hôm nay hoàn tất những lời hứa của Thiên Chúa, ngày hôm nay Đấng Thánh của Chúa đã đến, những việc lạ lùng xảy ra, Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài.
Đối diện với những kẻ thù địch và những kẻ bỏ rơi Chúa Giêsu, thánh Luca ghi lại lần cuối cùng quang cảnh ở Galilê: Chúa Giêsu và đám đông phấn khởi. Đó là sự suy niệm của chúng ta, nhưng còn mở rộng ra, hết sức rộng: Chúa Giêsu, niềm mong đợi của tất cả mọi người.
Thánh Luca sắp giúp chúng ta thấy Chúa Giêsu như là Đấng quy tụ và làm cho phỉ nguyện. Lời đầu tiên của bài Tin Mừng là: “Dân chúng”, lời cuối cùng: “Tất cả ăn no nê”. Việc hóa bánh thành nhiều về mặt lịch sử đúng là một phép lạ, năm ngàn người được nuôi sống với năm chiếc bánh và hai con cá. Tôi ái ngại cho những người mà điều này làm cho khó chịu. Đức tin của họ thiếu động lực. Nhưng đàng sau phép lạ có dấu chỉ lớn về cơm bánh: Chúa Giêsu làm cho những người đói được no nê.
Ngày quy tụ Dân Chúa, Ngài tổ chức Dân Chúa, nhóm Mười Hai hiện diện trong trần thuật này, nhưng điều được nói đến nhất chính là quyền bính bình lặng và mạnh mẽ, ảnh hưởng của Ngài. “Xin Thầy giải tán dân chúng!”, nhóm Mười Hai lo lắng nói với Ngài. Không, Ngài ở lại thì chúng ta cũng ở lại, không có kẻ nào khác Ngài là người quy tụ ở dưới đất cũng như trên trời.
Ngài nói: Ngài giảng dạy Nước Trời, thánh Luca giải thích như thế. Thánh Luca cho thấy kế hoạch vĩ đại của Thiên Chúa. Chúng ta mất thời giờ khi chúng ta tìm kiếm một ông thầy mặc khải khác.
“Ngài mang lại sức khỏe”. Ở đây nữa, đàng sau các phép lạ, phải thấy dấu chỉ này là việc chữa lành các tâm lòng, sự dứt ra khỏi tội lỗi, sự giải thoát lớn, sức khỏe của con cái Chúa.
“Mọi người đều ăn no nê, và người ta thu lại được mười hai thúng bánh vụn!” dấu hiệu của cơm bánh, chính là thức ăn thần diệu, làm phỉ nguyện và dư dật. Chúa Giêsu nói với những người lầm lẫn về dấu chỉ này: “Cơm bánh, chính là Ta! Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói; ai tin Ta sẽ không bao giờ khát” (Ga 6,35)
Chúng ta sẽ đi đến Chúa Giêsu thật ngày mà chúng ta xác tín rằng chỉ có Ngài mới có thể xoa dịu cơn đói chủ yếu của đám đông dân chúng. Cơn đói được sống, được hiểu cuộc sống, được rút ra các mật ngọt từ đó, và đi tới niềm vui tối hậu mà vì đó chúng ta cảm thấy rõ rằng chúng ta đã nhận lãnh sự sống và những đói khát vô bờ bến. Chính Ngài là Sự Sống và là Cơm Bánh.
Cảm thấy những điều đó ở trong đám đông để thoát khỏi nếu cần một sự sùng tín Thánh Thể được sống quá riêng tư với Ngài. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa Giêsu khi chúng ta rất muốn tất cả đều yêu mến Ngài.
Trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều là trình thuật nền tảng và quen thuộc của Tin Mừng, vì 4 Tin Mừng đều thuật lại câu chuyện này (Mt 14, 13-21; Mc 6, 30-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-14). Xét về chi tiết thì mỗi tác gỉa thuật mỗi khác tùy theo quan điểm riêng của từng tác giả, nhưng tổng quát sự kiện xẩy ra thì giống nhau.
Thánh Luca cho chúng ta chiêm ngắm một vị Chúa đầy tình thương, tình người và kêu gọi chúng ta chia sẻ để có thể hiệp thông vời Chúa và liên kết với anh chi em.
1) Chúa Giêsu, Đấng thương cảm trước “cái đói, cái khát” của con người.
Những ai đã trải qua cái đói, khát thì mới thấy sự đáng thương, bi đát của người bị đói. Vì thế, phải đặt mình vào vị trí của những người đi theo Chúa Giêsu vào buổi chiều hôm ấy thì mới thấy được tình trạng thê thảm như thế nào khi không có cái gì để bỏ vào bụng. Có lẽ những người này đang trong tình trạng đói lả. Và Chúa Giêsu không thể nào làm ngơ trước tình trạng đáng thương ấy của “đám đông”. Họ đói khát vì đi theo Người, vì chăm chú nghe Lời Người. Chúa Giêsu không chỉ giải quyết cái đói thiêng liêng: Người nói với họ về nước Thiên Chúa (c.11b) mà Người còn giải quyết cái đói vật chất của đám đông đang theo Người: chữa lành những ai cần được chữa lành và cho mọi người được ăn no nê (c.17a)
2) Chính anh em hãy cho họ ăn
Phản ứng sửng sốt củ các môn đệ như bị gáo nước lạnh dội thẳng vào người là bình thường, vì làm sao họ có thể cung cấp thực phẩm cho số người như thế (riêng đàn ông đã đến gần 5 ngàn). Vì vậy, khôn ngoan nhất là giải tán để họ có thể tìm lương thực nơi các làng mạc chung quanh. Trong Gioan thì Chúa Giêsu là người đầu tiên bày tỏ sự lo lắng này (Ga 6,5) chứ không phải các môn đệ; và đây có lẽ cũng là cách của chúng ta hôm nay. Nhưng khi được Chúa gợi ý cho dân ăn, thì các ông đã nhiệt tình như muốn đóng góp tất cả. Năm chiếc bánh và hai con cá như thế là tất cả chất liệu mà các ông có thể có để cung cấp cho Người (5+2=7: một con số diễn tả sự viên mãn, trọn vẹn). Trong bữa ăn Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu của anh chị em và rồi chính Người sẽ cung cấp chất liệu để ta chia sẻ (Lc11,14).
Thực ra chính Chúa Giêsu mới là Đấng làm cho con người được no thoả. Các môn đệ xưa kia đã cộng tác với Thầy mình vàhôm nay là Giáo Hội mà trong đó mỗi người chúng ta được kêu gọi như là cánh tay nối dài của Chúa. Chúng ta chỉ có thể trở thành tấm bánh được bẻ ra và được trao ban cho anh chị em mình một khi dám đi ra khỏi cái tôi ích kỷ, hẹp hòi, so đo, tính toán, cố bám lấy chức, quyền, địa vị hay tìm kiếm một chỗ ở an toàn để yên thấn, để được kính nể… Chính vì vậy, cộng đoàn mặc dù không đói cơm bánh nhưng lại là nơi đói khát tình người, tình huynh đệ; và thế giới hôm nay tưởng chừng như sung túc thì lại trở thành nơi thiếu cơm bánh và đầy bất công. Một thế giới tuởng chừng là ngôi nhà chung của mọi người thì lại là nơi chất chứa nỗi cô đơn, tuyệt vọng.
Bao lâu “cái tôi”của ta còn quá lớn thì không thể ngả mình thành từng nhóm (câu 14a) và lại càng không thể bảo mọi người ngả mình xuống được (c.14b), tức là vẫn còn chia rẽ, vẫn còn thiếu tình huynh đệ. Nếu sau khi hiệp thông với Chúa trong thánh lễ (rước lễ) mà không không thể chia sẻ cơm bánh vật chất, cơm bánh thiêng liêng với anh chị em mình thì Mình Máu Thánh Chúa vẫn còn xa lạ với chúng ta vì chúng ta chưa thực sự hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là tấm Bánh được bẻ ra và được trao ban cho nhân loại thông qua các tín hữu.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Ta thấy hoạt động của Đức Giêsu được phối hợp giữa việc rao giảng Tin Mừng và việc thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của dân chúng: “Đức Giêsu tiếp đón dân chúng, Ngài nói với họ về Nước Thiên Chúa, và chữa lành những ai cần được chữa”. Điều mà Ngài rao giảng không phải là một cái gì xa vời đối với dân chúng, mà là một cái gì thiết thực, phù hợp với những khát vọng của họ. Đó là Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, một tin vui về việc họ được giải phóng, được thoát khổ và hạnh phúc, là điều mà họ hằng mong ước. Đó là thứ Tin Mừng “cho kẻ nghèo hèn”, Tin Mừng giải phóng “cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự do, v. v…” (Mt 4, 18).
Việc rao giảng ấy luôn luôn đi kèm với nỗi quan tâm lo lắng của Ngài đến những nhu cầu cụ thể của dân chúng. Nhờ sự quan tâm và những hành động cụ thể ấy, dân chúng cảm thấy được Ngài yêu thương, chăm nom săn sóc. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy tình yêu nhân bản của Ngài:
Thấy trời đã tối, các môn đệ đề nghị Đức Giêsu giải tán để họ tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn. Nhưng Ngài bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”. Thật là một quan tâm đầy tình người. Và sau đó Ngài đã làm một phép lạ cả thể.
Chúng ta đừng nghĩ rằng Ngài làm như vậy vì Ngài có khả năng làm phép lạ. Còn chúng ta, không làm phép lạ được, nên có gặp trường hợp tương tự, ta sẽ không dám làm như Đức Giêsu, là quan tâm đến nhu cầu cụ thể ấy của dân chúng. Đôi khi chúng ta phải nghĩ ngược lại, chính vì Ngài yêu thương, quan tâm thật sự đến nhu cầu của người khác và quyết tâm thỏa mãn những nhu cầu ấy với bất cứ giá nào, nên Ngài mới làm nên những phép lạ. Chúng ta không làm được những phép lạ, vì chúng ta không thật sự yêu thương và quyết tâm giải quyết những nhu cầu của anh em chúng ta. Nguyễn bá Học có nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Trong bối cảnh này, câu ấy có nghĩa: Đừng sợ rằng ta không thể làm được điều gì giúp anh em, mà hãy sợ rằng ta không đủ tình thương, không dám hy sinh vượt khó, không dám chấp nhận gian khổ để thỏa mãn những gì cần thiết cho anh em mình.
Tình thương thật sự có thể làm nên những phép lạ. Nhiều trường hợp trong lịch sử chứng minh điều ấy. Nếu ta thật sự yêu thương, quan tâm và nhất quyết giúp đỡ anh em mình khi họ cần, chắc chắn ta vẫn luôn luôn làm được một cái gì đó ích lợi cho họ. Nếu không đủ tình thương để làm nên phép lạ, thì hãy cố gắng làm tối đa trong khả năng của mình. Nếu không đủ tình thương để cố gắng tối đa, thì chí ít cũng nên làm những gì tối thiểu: có còn hơn không! Nếu ta hoàn toàn thờ ơ không làm gì cả trước nhu cầu thực tế của anh em, thì tình yêu của ta có hơn gì những người mà ta cho là phường tội lỗi? Trong họ, biết bao người đã tỏ ra có nhiều tình thương hơn ta (xem dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Lc 10,29-37).
Mục đích chính của Đức Giêsu khi đến trần gian là để rao giảng Nước Trời, chứ không phải là để cứu đói, chữa bệnh, trừ quỷ, hay nói chung là cứu khổ về phần xác. Nhưng Ngài đã quan tâm rất nhiều tới những việc này. Thánh Phê-rô đã nói lên điều ấy: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế” (Cv 10,38).
Rất nhiều Kitô hữu lo lắng đến những nhu cầu thiêng liêng của người khác: lo cho người ta biết Chúa, biết sống đạo đức, ăn ngay ở lành, làm lành lánh dữ, biết chăm sóc đến đời sống nội tâm, v.v… Điều ấy rất quí rất tốt, và cũng hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trong số những Kitô hữu nhiệt thành ấy, có khá nhiều Kitô hữu chỉ quan tâm lo cho tha nhân những việc thiêng liêng ấy mà thôi, không hề nghĩ đến những nhu cầu thiết thực, cụ thể trước mắt và rất cấp bách của những người gần gũi chung quanh họ. Chính vì thế, những người được họ quan tâm lo những việc thiêng liêng, không cảm nhận được tình thương của họ một cách cụ thể. Điều ấy làm cho những cố gắng tốt đẹp của họ về mặt thiêng liêng bớt hữu hiệu.
Thiết tưởng một người được đức ái đích thực thúc đẩy, sẽ không phục vụ tha nhân theo kiểu “công chức”, nghĩa là chỉ phục vụ một số đối tượng nào đó, trong một khía cạnh nào đó, trong một số giờ nào đó mà mình được chỉ định phục vụ. Vì thế, họ không quan tâm phục vụ những đối tượng khác, trong những khía cạnh khác, vào những giờ khác, cho dù có những người cần được họ chăm sóc, phục vụ, nhưng lại vượt ngoài những hạn định ấy. Người có tình yêu đích thực vẫn có thể chọn một loại đối tượng để phục vụ, trong một khía cạnh nào đó mà mình chuyên môn, v.v… Tuy nhiên, trong những trường hợp cần thiết mà đức bác ái đòi hỏi, người ấy vẫn có thể phục vụ những đối tượng khác, trong những khía cạnh khác, vào bất kỳ giờ giấc nào. Một người có tình yêu đích thực, có đức ái đích thực, không tự giới hạn lòng yêu thương, sự phục vụ của mình, nhất là trong những trường hợp đặc biệt cần đến lòng yêu thương và sự phục vụ của mình. Một người chuyên phục vụ tha nhan về mặt tâm linh, vẫn nên quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của họ.
Nói tới Thánh Thể, chúng ta thường nghĩ tới việc phải làm sao để nhận được từ Thánh Thể những ơn cần thiết cho mình. Nhưng thiết tưởng chúng ta không nên bỏ qua một bài học tuyệt vời và rất quan trọng của Thánh Thể là sự quên mình và tính vị tha. Không có gì tỏ ra quên mình và vị tha cho bằng trở nên của ăn cho người khác, hay sẵn sàng để cho người khác “ăn” mình. Thật vậy, đồ ăn hiện hữu vì người ăn nó, chứ không hiện hữu một chút xíu nào vì bản thân mình cả. Tất cả mọi sự, để trở thành đồ ăn thì đều phải chết đi mới có thể nuôi sống người ăn mình. Bản chất của đồ ăn chính là chết đi để nhờ đó người khác được sống, bị tiêu diệt để nhờ đó người khác tồn tại. Thông thường, chúng ta có khuynh hướng bắt người khác phải vì mình, biến họ thành phương tiện hay công cụ phục vụ cho mình. Biến mình thành đồ ăn thì hoàn toàn đi ngược lại khuynh hướng thông thường ấy: sẵn sàng hiện hữu vì người khác, sẵn sàng chấp nhận làm phương tiện hay công cụ vì hạnh phúc đời này hay đời sau của những người mình yêu thương. Danh ngôn Pháp có câu: “Aimer, c’est permettre d’abuser” (yêu là cho phép người mình yêu lợi dụng mình).
Cả cuộc đời Đức Giêsu là một thứ đồ ăn: Ngài hiện hữu không phải vì bản thân Ngài, mà hoàn toàn vì Thiên Chúa và vì con người. Ngài đã chết để con người được sống, đã tự hủy để con người được tồn tại, đã đau khổ để con người hạnh phúc, đã tự hạ để con người được nâng lên, đã chấp nhận bị đối xử như người tội lỗi để làm cho con người trở nên thánh thiện, v.v… Ngài hiện hữu, Ngài làm mọi sự đều vì người khác, chẳng vì mình một chút nào. Và Ngài đã biểu hiện tính chất “là của ăn”một cách cụ thể và tuyệt vời khi lập bí tích Thánh Thể. Chúng ta ăn Ngài, nhưng chúng ta đừng quên bắt chước Ngài trong tính chất ấy. Ngài đã yêu cầu chúng ta: “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy”. Tưởng nhớ ở đây không gì tốt hơn và ý nghĩa hơn là bắt chước Ngài trong tính chất ấy: Hãy trở nên đồ ăn cho những người chung quanh mình, nhất là những người sống gần mình nhất.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn, để con bắt chước Chúa, là trở nên của ăn cho những người chung quanh con, bằng cách quên mình đi để sống vì họ, cho họ.
Một người trong nhóm soạn bài giảng của chúng tôi xung phong triển khai đề tài Thánh Thể của chúa nhật này. Ông khoe, chắc chắn sẽ tìm ra tài liệu để giúp đỡ mình. Tôi nghĩ chẳng nên làm thế. Hãy để bản văn ngày lễ tự nói lên ý nghĩa và Thánh Thể soi sáng chúng ta những tư tưởng mới về Mình Máu Thánh Chúa. Một trong những tư tưởng ấy là nhìn vào sự đói khát trong cộng đồng chung quanh và trên toàn thế giới. Rồi nhìn xem các bản văn chúa nhật này giải quyết vấn đề ra sao? Thực ra loài người luôn ở trong tình trạng đói khát, đói vật chất và tinh thần. Hình thức nào cũng khủng khiếp. Báo chí hàng ngày đăng tải những tin tức não lòng về đói kém. Hiện thời ở Phi Châu, già nửa dân số sống dưới mức nghèo khó tức khoảng 1 đôla một ngày. Ở Châu Á, tình hình không sáng sủa hơn. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc thì 2/3 thế giới là nghèo khó, thêm vào đó, loạn lạc, chiến tranh ngày càng đẩy một số lớn nhân loại vào cuộc sống bần cùng không cửa không nhà. Số dân tị nạn hiện thời khoảng 13 đến 15 triệu người. Một con số không thể tưởng tượng nổi, nhưng đó chỉ là hình thức thống kê, thực tế còn vượt xa hơn nhiều.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa được thiết lập vào 1264 với chủ ý tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Từ thời ấy khắp mọi nơi trên thế giới, lễ được mừng rất long trọng, gây nhiều cảm hứng và lòng tôn sùng nơi các tín hữu. Có các cuộc rước kiệu Thánh Thể, các buổi chầu Mình Thánh trọng thể, kéo dài hàng chục thế kỷ cho đến công đồng Vatican II. Phải công nhận rằng lòng tôn sùng Thánh Thể đã đào tạo nên những vị thánh lớn cho Giáo Hội; ngày nay lòng sùng kính này có phần giảm sút cho nên người giáo dân không thấy rõ được mối quan hệ hữu cơ giữa Giáo Hội và Thánh Thể. Họ ít làm việc thờ kính Thánh Thể cho nên ít thấy Thánh Thể là thân mình Đức Kitô tức là Hội Thánh. Thật là một điều đáng tiếc!
Câu chuyện trước phân đoạn Phúc Âm hôm nay là các tông đồ trở về từ sứ mạng rao giảng, họ muốn nghỉ ngơi và Chúa Giêsu truyền cho họ lánh vào một nơi vắng vẻ như thánh Luca ký sự: “Các tông đồ trở về thuật lại cho Đức Giêsu những việc các ông đã làm. Người đem các ông đi riêng với mình lui về thành kia gọi là Bétsaiđa”(Lc 9,10). Nhưng dân chúng đã khám phá ra các ngài và họ kéo đến rất đông. Chúa Giêsu đón nhận họ và rao giảng về nước trời cho họ nghe đồng thời chữa lành những bệnh nhân họ đem tới (Lc 9,12). Nói cách khác, Chúa Giêsu trông thấy rõ và giải quyết mọi nhu cầu của dân chúng, phần xác cũng như phần hồn. Đám người này thuộc giai cấp bình dân, nghèo khổ và chất phác, bởi lẽ theo tục lệ, người Do Thái giàu có đi đâu xa cũng mang theo giỏ thức ăn đủ cho hai đến ba ngày đường. Mục đích là không phải ăn những đồ dơ bẩn của dân ngoại. Phúc Âm hôm nay kể: “Ngày bắt đầu tàn, nhóm mười hai đến bên Đức Giêsu, thưa Người rằng: xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc, nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn”nghĩa là đám đông hoàn toàn không mang theo thức ăn như tục lệ; họ nghèo khổ, không có dư để dự phòng, nhiều người có thể đói lả nếu Chúa không giơ tay cứu giúp. Tuy nhiên họ không phải là hạng phàm phu tục tử, chỉ chăm lo cho cái bụng. Trước tiên họ đói khát Lời Thiên Chúa và đến nghe Chúa Giêsu loan báo về nước trời, tiếp theo là được chữa lành. Nhưng không phải chỉ có thế; họ đại diện cho toàn thể nhân loại đứng ra xin Chúa nuôi dưỡng, bởi vì loài người thường khi thất bại trong nhiệm vụ nuôi nấng lẫn nhau. Lúc ấy trời đã bắt đầu tối.
Và một trong những góc “tối”của nhân loại là đám người đói khát. Theo tính toán của các nhà kinh tế, thế giới này có đủ lương thực cho những người nghèo khó nếu như người ta biết phân phối cho đồng đều. Nhưng thực tế không được như vậy, các nước Tây Âu giàu có sản xuất dư thừa thực phẩm nhưng hoặc huỷ đi hoặc được chính phủ trợ cấp để bỏ hoang đồng ruộng chứ không cung cấp cho những nước đói nghèo. Vì thế những người có chút ít lương tâm đã lập ra phong trào “Bánh ăn cho thế giới”(Bread for the World). Một mặt xuất bản các tin tức về tình trạng đói nghèo trên thế giới để đánh thức lương tâm nhân loại; mặt khác tích cực quyên góp để trợ giúp các quốc gia đói ăn. Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu sau khi cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, đọc lời chúc tụng, Ngài đưa cho các môn đệ, để các ông phân phát cho dân chúng và mọi người đều ăn no nê. Tức các môn đệ lãnh trách nhiệm “phân phối”lương thực cho đám đông. Ngày nay, Giáo Hội cũng lãnh trọng trách đó, nhưng không phải chỉ về phương diện thiêng liêng mà thôi nhưng còn về vật chất nữa. Một nhà cách mạng nổi tiếng đã từng nói: “Không sợ thiếu, chỉ sợ phân phối không công bằng”. Thực tế trong Hội Thánh nếu chúng ta có lòng thương yêu đích thực, thì chắc chắn không ai phải chịu số phận túng quẫn quá đáng. Một mình mẹ Têrêsa thành Calcutta đã có thể giúp đỡ và nuôi sống hàng ngàn người hấp hối trên thế giới. Mẹ không lo thiếu mà chỉ lo thi thố lòng bác ái. Trong nhiều giáo xứ nếu các hội từ thiện hoạt động tốt thì giáo xứ giảm hẳn con số người nghèo. Nhiều chính phủ hiện nay đang phát động phong trào xoá đói giảm nghèo và kết quả rất là khả quan, có thể giảm tới một nửa số hộ nghèo; chúng ta nên tích cực tham gia vào các chương trình đó. Nếu thực hiện tốt công việc này chắc chắn hình ảnh Chúa Giêsu nuôi dưỡng đám đông sẽ được cảm nghiệm rõ nét trong cộng đồng nhân loại.
Chúng ta sẽ không còn hành động như các tông đồ thuở xưa, giải pháp dễ dàng của họ là: Xin Thầy giải tán đám đông để họ tìm lấy chỗ trọ và thức ăn. Nhưng Chúa muốn điều ngược lại: “Anh em hãy cho họ ăn đi”. Giữa hoang địa thì lấy đâu ra của ăn mà nuôi sống năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con trẻ. Chúa đã giảng cho họ về hạnh phúc nước trời, bây giờ là lúc thể hiện nội dung đó. Người đã chữa nhiều bệnh tật thì vấn đề nuôi sống đám đông không phải là khó; Nước trời phải được cụ thể nhìn thấy. Tuy nhiên, các môn đệ vẫn còn mù tối và chưa thực sự tin vào lời rao giảng của thầy mình. Chúng ta cũng vậy, đã dám can đảm đánh đổi cuộc đời với những dấu chỉ của lòng tin? Đã dám hy sinh những tiện nghi, lợi lộc cho lý tưởng mình rao giảng? Hay chỉ đề nghị người khác theo Chúa còn mình thì không? Trước phép lạ Chúa Giêsu, các tông đồ đã được chữa lành về phần thiêng liêng, họ đã tận mắt chứng kiến Chúa Giêsu thoả mãn nhu cầu “đói khát”của đám đông. Trước hết Ngài truyền chia họ ra từng nhóm nhỏ: “Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một”. Để làm chi? Đó là những cộng đoàn thân thiện, biết về nhau, chung tình thân ái, cùng dự bữa ăn Agapé, chứ không phải một bữa ăn khổng lồ, kẻ thì cao sang, kẻ lại vô danh tiểu tốt, nghĩa là còn loại trừ nhau và xa lạ với nhau. Nhưng đây là những cộng đoàn bác ái cùng chung chia bữa ăn bình đẳng, người cao chức vị không được phần hơn, còn người bé nhỏ cũng không phải chịu thiệt thòi. Mọi người đều được ăn no nê, phần dư người ta thu được mười hai thúng đầy. Giống như các tông đồ xưa. Chúng ta hôm nay cũng được chữa lành khỏi những bệnh mù thiêng liêng, không còn kỳ thị thấp cao, giàu nghèo, sang hèn, người học thức cũng như người ngu đần, da trắng cũng như da màu. Chúng ta không tách biệt khỏi những nhu cầu của anh em đồng loại, bởi vì Hội Thánh là những nhóm nhỏ, biết rõ về nhau, săn sóc những nhu cầu của nhau cho đến chi tiết.
Bài học thứ hai là làm thế nào chúng ta có khả năng nuôi dưỡng thiên hạ? Lời Chúa truyền cho các tông đồ: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi”không phải là một lệnh truyền trống rỗng, Chúa Giêsu biết rõ các ông chẳng có gì ngoài năm chiếc bánh và hai con cá. Nhưng ngần ấy cũng đủ để Ngài làm phép lạ miễn là các ông có một tấm lòng. Trong bí tích Thánh Thể chúng ta nhận lãnh hàng ngày Đấng có quyền năng biến đổi cuộc đời chúng ta thành phép lạ, nếu chúng ta dâng hiến toàn thân cho Ngài, không so đo tính toán hơn thiệt. Thánh Thể có thể chữa bệnh ích kỷ, mở mắt cho người ta nhìn thấy những phương tiện nuôi dưỡng kẻ khó nghèo. Thế giới không thiếu lương thực nhưng thiếu lòng nhân ái để phân phát những tặng phẩm của Thiên Chúa. Đức Giêsu hôm nay làm gương để chúng ta noi theo: Mọi người được ăn cùng một thứ bánh, cùng uống một chén rượu mà Ngài tặng ban và sẽ được sống muôn đời nhờ bánh rượu đó. Vậy chúng ta có sẵn sàng chia sẻ cuộc sống của mình với tha nhân? Chia sẻ tình yêu, kiến thức, của cải… để giảm bớt sự nghèo đói của thế giới?
Chúng ta thường có khuynh hướng lãng quên, bí tích Thánh Thể là điểm mốc để nhắc nhớ nhân loại về những ân huệ Chúa ban: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”. Nhớ đến Chúa Giêsu bởi Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, là ơn cứu độ, là sự phục sinh và cuộc sống muôn đời, tóm lại, là hạnh phúc của nhân loại và từng cá nhân sinh ra trong thế gian này. Mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ hay kính thờ Thánh Thể là mỗi lần chúng ta được đổi mới linh hồn, lớn lên trong tình yêu Chúa và tha nhân cho đến khi Chúa lại đến. Thực ra theo cái nhìn cánh chung, mỗi sáng Chúa Giêsu trở lại trong thánh lễ và chúng ta được hạnh phúc tiếp rước Ngài. Cùng với Ngài là muôn vàn ân huệ và hạnh phúc. Nếu sửa soạn tâm hồn cho sốt sắng và xứng đáng, chúng ta sẽ được hưởng đầy đủ niềm vui thiên đàng như nhiều vị thánh đã từng cảm nghiệm. Phiền vì thiếu ý thức và hy sinh nên đa phần tham dự thánh lễ một cách máy móc, ươn lười, uể oải như bị ép buộc. Thành thử chẳng hưởng được những kho tàng quý báu đó; hậu quả là không thể tiến triển về phần thiêng liêng, thụt lùi hoặc dậm chân tại chỗ.
Sâu xa hơn nữa, bí tích Thánh Thể gói ghém trọn vẹn cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đúng như thời điểm Ngài hy sinh trên thập tự tại núi Sọ. Ngày nay người ta nghệ thuật hoá ảnh tượng bằng tài hoa của mình trên vàng bạc gỗ quý. Thực tế lúc Ngài chịu đóng đinh không phải như vậy. Nó là một cuộc hành hình dã man của đám lính La Mã mất hết tính người; Ngài bị lột trần không mảnh vải che thân, đinh đóng thấu xương, máu chảy đầm đìa, tanh hôi, ruồi nhặng bu đầy, khách qua đường không dám nhìn, bước đi nhanh như sợ bị ô uế hoặc có người buông lời chửi thề. Theo thói thường, cảnh tượng thê lương này kéo dài vài ba ngày, có khi cả tuần, cho đến lúc nạn nhân tắt thở. Trường hợp Chúa Giêsu, Ngài chết nhanh chóng đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên (Mc 15,44). Cho nên trong thánh lễ chúng ta đừng vì những trang hoàng bề ngoài mà làm mất tính thô kệch và gồ ghề của mầu nhiệm khổ nạn. Nó tàn nhẫn hơn các cuộc hành quyết bằng ghế điện hay xử bắn ngày nay.
Tóm lại, lễ Mình Máu Thánh Chúa là một cơ hội tốt để người tín hữu suy niệm về tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại tội lỗi, về sức mạnh của sự dữ, về những đau khổ ngày nay mà phần lớn nhân loại còn phải gánh chịu. Chắc chắn trong nhiều thánh đường tín hữu sẽ được rứơc lễ dưới hai hình thức bánh rượu, bởi lẽ chủ tế (Đức Giêsu) đã tuyên bố: Tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn và uống… này là Mình Thầy, này là Máu Thầy. Cho nên, với tất cả tâm tình thờ phượng và biết ơn chúng ta đón nhận bánh và chén ban ơn cứu độ. Cầu xin Ngài thánh hoá linh hồn mình, cuộc sống hàng ngày, anh chị em thân thiết và cả thế gian như Ngài đã nói: “Máu này đổ ra cho muôn người được ơn tha tội”(Mt 26,28). Ước chi nhờ thánh lễ hôm nay chúng ta ý thức hơn sứ mạng của mình là tích cực rao truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng Ngài đã sống lại, cho đến khi Ngài đến xét xử trần gian. Amen.
Nhân ngày lễ kính Mình Máu Thánh Đức Kitô hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về bí tích Thánh thể. Vậy bí tích Thánh thể là gì?
Trước hết, bí tích Thánh thể là một bữa tiệc huynh đệ.
Thực vậy, không phải tình cờ mà Đức Kitô đã thiết lập bí tích Thánh thể trong một bữa ăn. Như chúng ta đã biết ăn uống là một việc làm sơ đẳng của con người, là một như cầu cần thiết cho sự sống. Nhưng hơn thế nữa, ăn uống còn biểu lộ một tính cách xã hội nữa.
Đúng thế, mời nhau cùng ngồi vào bàn ăn là muốn diễn tả một tâm tình gắn bó nào đó. Chẳng hạn trong gia đình, khi một người không còn muốn ngồi ăn chung cùng với những người khác,, thì lúc bấy giờ tình cảm đã bị sứt mẻ nặng nề và nghiêm trọng.
Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh thể trong một bữa ăn và như một bữa ăn, nhờ đó chúng ta được liên kết, được gắn bó muật thiết với Chúa và với nhau.
Thật là không bình thường khi người ta ngồi vào bàn ăn mà lại chẳng ăn uống gì cả. Đành rằng có khi vì một lý do nào đó chúng ta không thể ăn uống được, nhưng vẫn ngồi vào bàn với anh em bạn bè, để biểu lộ tình cảm của chúng ta. Song đó chỉ là một việc chẳng đặng thì đừng, vạn bất đắc dĩ mà thôi.
Cũng thế, bình thường khi tham dự bàn tiệc Thánh thể, chúng ta cần phải rước mình và máu thánh Đức Kitô, trừ khi có những lý do chính đáng, những ngăn trở thực sự.
Lại cũng là một chuyện không bình thường, nếu chúng ta đến tham dự cùng một bàn tiệc Thánh thể mà lại thờ ơ lãnh đạm với nhau, thậm chí còn bất hòa và chia rẽ cùng nhau.
Quả là một thiếu sót to lớn khi chúng ta đến tham dự thánh lễ mà lại không để ý, không quan tậm tới người khác, cũng như không muốn chung tiếng chung lòng với nhau để tham dự một cách tích cực và sốt sắng. Thân xác ở đây mà cõi lòng thì lại ở tận những đâu đâu, hay chỉ loay hoay cầu nguyện riêng một mình, hoặc giũ thinh lặng thừ đầu chí cuối.
Quả là không bình thường khi bàu khí thánh lễ thiếu vắng tình huynh đệ, thiếu vắng sự hòa hợp, thiếu vắng sự vui tươi. Vậy chúng ta cần phải làm gì để thánh lễ trở nên trung tâm của mọi sinh hoạt trong giáo xứ?
Tiếp đến Thánh thể là bí tích tưởng niệm hy tế thập giá của Đức Kitô.
Đúng thế, thánh Phaolô đã viết:
– Mỏi lần ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.
Phụng vụ ngày lễ hôm nay cũng đã dựa vào những tư tưởng trên để cầu nguyện:
– Lạy Chúa, Chúa đã trối lại cho chúng con bí tích huyền diệu để kỷ niệm cuộc khổ nạn Chúa.
Bí tích Thánh thể chính là một đài tưởng niệm sống động cho cuộc thương khó. Trong phòng tiệc ly, Đức Kitô đã phó mình cho chúng ta qua hình bánh và rượu, trước khi phó mình cho chúng ta qua cái chết đẫm máu trên thập giá.
Đồng thời khi thiết lập bí tích này, Ngài đã hoàn toàn qui hướng về cái chết: Này là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con… Này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
Như vậy, mỗi khi cử hành thánh lễ, Giáo hội diễn lại sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô, diễn lại mầu nhiệm ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Vì thế, khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta không phải chỉ tham dự một bữa tiệc, mà còn liên kết chặt chẽ với hy tế thập giá, đồng thời hiến mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha.
Thế nhưng, dù dưới khía cạnh một bữa ăn, hay dưới khía cạnh một hy tế, bí tích Thánh thể vẫn mãi mãi là một bí tích của tình yêu, bởi vì hy tế thập giá chính là cao điểm của tình yêu cứu độ, như lời Đức Kitô đã phán:
– Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bởi đó, sống thánh lễ là phải tiêu diệt tính ích kỷ, sự chia rẽ và tất cả những gì đối nghịch với tình yêu của Đức Kitô và tình yêu của anh em đồng loại.
Sống thánh lễ là phải ràng buộc mình vào trong tình yêu, là phải làm cho đời mình trở nên phù hợp với những đòi hỏi của tình yêu, là phải sống bác ái yêu thương.
Hãy biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài bằng những hy sinh cho nhau và vì nhau.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – RVA)
Một trong những lễ trọng trong mùa thường niên là lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa, lễ này được cử hành vào thứ năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, nhưng tại nơi nào lễ này không buộc thì Hội đồng Giám mục có thể dịch vào Chúa nhật tiếp sau đó với sự phê chuẩn của Tòa thánh. Hằng ngày Giáo Hội cử hành Bí tích Thánh Thể qua việc dâng hy tế Thánh Thể, đây là một nghi lễ thường xuyên kính Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô.
Trong ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về phép lạ bánh hóa nhiều. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Phúc âm thuật lại, và đây cũng là một phép lạ công khai trước mặt một số đông người. Năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi khoảng năm ngàn người mà vẫn còn dư được mười hai thúng bánh vụn.
Thánh Luca nhấn mạnh đến vai trò của nhóm mười hai trong phép lạ này, vì chính họ đã chủ động xin Chúa Giêsu giải tán đám đông để những người này tìm chỗ ăn, chỗ ở khi ngày đã bắt đầu tàn. Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một thách đố cho nhóm mười hai: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi”. Hãy lo cho họ sau khi đã được nghe giảng về Nước Thiên Chúa và được chữa lành khỏi mọi tật bệnh. Các môn đệ thấy mình bất lực trước nhiệm vụ này, dù mới đây họ đã được sai đi rao giảng, chữa lành bệnh tật và đã thành công. Điều duy nhất họ có trong tay là năm chiếc bánh và hai con cá nhưng chừng ấy thấm vào đâu so với nhu cầu của dân chúng, vì ở nơi thanh vắng này dù có tiền cũng không mua được đủ bánh.
Chúa Giêsu cần các môn đệ nhìn nhận sự bất lực của họ để rồi Ngài mời gọi họ cộng tác vào việc nuôi sống dân chúng. Các môn đệ theo lệnh của Chúa Giêsu đã chia đám đông thành từng nhóm nhỏ, chính các ông đã trao bánh và cá cho Chúa Giêsu để rồi nhận lại từ tay Ngài và trao ban cho đám đông, như thế phép lạ đã xảy ra trên bánh và cá sau khi Chúa chúc lành và bẻ ra.
Chúng ta không tưởng tượng nổi số lượng khổng lồ bánh và cá phát sinh từ hành vi bẻ ra này. Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên không ngừng. Có thể hôm nay chúng ta cũng thấy bất lực trước những nhu cầu của con người, và nhân loại vẫn ở trong tình trạng đói về nhiều mặt khác nhau, hằng giờ có biết bao trẻ em chết đói trên thế giới này. Trong tay chúng ta chỉ vỏn vẹn vài tấm bánh nhỏ, chúng ta lúng túng và thấy mình bất lực. Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chúng ta có, nếu chúng ta để cho Ngài thánh hóa tất cả những cố gắng nhỏ bé của mình, nếu chúng ta chỉ coi mình là người cộng tác của Thầy Giêsu để phục vụ con người thì phép lạ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Do đó chúng ta vẫn có thể nuôi cả thế giới no nê và dư dật, nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa.
Chúng ta đọc lại câu 16 của đoạn Tin Mừng hôm nay: “Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông”. Khi kể lại cử chỉ Chúa Giêsu làm khi lập Bí tích Thánh Thể, thánh Marcô cũng sử dụng bốn động từ trên đây. Trong biến cố hai môn đệ trở về làng Emmau, chúng ta cũng thấy thánh Luca dùng lại bốn động từ này: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ”. Cử chỉ quen thuộc này đã làm cho hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu. Giáo Hội sơ khai hẳn đã thấy sự liên hệ giữa phép lạ bánh hóa nhiều và Bí tích Thánh Thể. Trong tất cả những trường hợp trên, Chúa Giêsu đều dùng một cữ chỉ để mời người khác ăn tấm bánh Ngài trao cho. Rất có thể ý định lập Bí tích Thánh Thể đã được khai mào từ sau phép lạ bánh hóa nhiều.
Những chiếc bánh vật chất chỉ làm giảm cơn đói của một số người nhất định và trong một thời gian nhất định. Manna ngày xưa trong sa mạc cũng không mang lại cho người ta sự sống sau cái chết. Bữa Tiệc Ly không phải là một hành vi đột xuất không suy nghĩ trước. Trái lại, Chúa Giêsu đã phải bận tâm với mơ ước nuôi cả nhân loại, nuôi họ bằng chính bản thân Ngài và ban cho họ sự sống vĩnh cửu: “Này là Mình Thày sẽ bị nộp vì anh em. Này là chén Máu Thày sẽ đổ ra cho anh em…”Chúa Giêsu mời chúng ta ăn tấm bánh và uống chén rượu đã được thánh hiến để thông hiệp vào cái chết và sự Phục sinh của Ngài, vào chính bản thân Ngài.
Bí tích Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu biết tìm kiếm. Cựu ước đã ghi rằng: “Trong những ngày sắp đến, Thiên Chúa sẽ nuôi dân Người dư dật”. Chúa Giêsu đã làm trọn lời hứa đó phần nào qua phép lạ bánh hóa nhiều, nhưng đó cũng chỉ là hình bóng của Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này.
Khi thông hiệp với Chúa Giêsu Phục sinh dưới hình bánh và hình rượu, chúng ta còn cần đến đức tin, chúng ta mong chờ ngày được tham dự vào bữa tiệc trên trời, nơi chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Ngài không qua bức màn đức tin nữa nhưng diện đối diện. Chúa Giêsu đã bẻ bánh nhiều lần trong cuộc đời của Ngài. Đời Ngài được kết tinh trong hành vi bẻ bánh. Tấm bánh trong nhà Tiệc Ly đã trở thành tấm thân Người được bẻ ra và trao cho con người qua cái chết trên thập giá: “Hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy”.
Giáo Hội sơ khai đã không quên mệnh lệnh đó, họ tiếp tục cử hành Bí tích Thánh Thể mà họ gọi là lễ Bẻ Bánh tại các nhà riêng của tín hữu. Bẻ Bánh trở thành nét đặc trưng của cộng đoàn Kitô sơ khai. Nghi thức này thường được cử hành vào ngày Chúa nhật, ngày thứ nhất trong tuần. Xin Chúa giúp cho chúng ta gặp Ngài trong lễ bẻ Bánh.
“Ai ăn thịt và uống máu Ta sẽ được sống đời đời” (Ga 6,59). Với niềm tin của người Kitô hữu thì Mình Máu Chúa trở nên lương thực thiêng liêng và là nguồn sống đời đời, nhưng với những người không phải là Công giáo thì họ không thể hiểu được ý nghĩa lớn lao của Bí tích này. Cụ thể, trong Tin mừng khi Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51), thì Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Từ thắc mắc này gợi lên cho chúng ta suy tư về mầu nhiệm Mình Máu Chúa mừng kính hôm nay.
Với cách nhìn của con người, việc ăn thịt người thật là ghê tởm, khủng khiếp quá, người Do thái thời Chúa Giê-su, họ coi máu là sự sống của con người, và chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên máu huyết. Cho nên, họ không ăn thịt sống khi có máu. Ngay cả chúng ta cũng khó hiểu, vì chẳng ai ăn thịt và uống máu người bao giờ. Người Do thái có lý để tranh luận với Chúa Giê-su. Và cuộc tranh luận đó càng trở nên sôi nổi và gây gắt, vì họ chỉ hiểu theo cách nhìn của con người, theo nghĩa thông thường, họ chưa thoát khỏi bởi thế giới của xác thịt. Trong khi đó, Chúa Giê-su muốn cho họ nhận ra Người, chính là gắn bó với Người, trở nên một với Người. Đó là đồng hóa bản thân với Người ngay trong thực hữu nhân loại của Người, thực hữu đã được ban tặng cho nhân loại trong cuộc sống và trong cái chết của Người. Như lời Đức Giêsu xác quyết: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”.
Sau trận động đất ngày 17.1.1995 tại Kobe, Nhật bản, người ta phát hiện ra người mẹ và cô con gái bốn tuổi nằm ở dưới đóng gạch vụn. Cả hai mẹ con đã bất tỉnh. Sau đó, những người cứu hộ đưa cả hai mẹ con vào phòng cấp cứu, rất may là họ đã được cứu sống. Khi tỉnh lại, bác sĩ hỏi tại sao bà lại có vết thương và máu ở tay ra? Bà mới kể lại rằng: “Khi thấy con của tôi không còn gì để uống, tôi cũng không còn sữa cho con bú, và tôi cũng không biết tìm đâu ra thức ăn và nước để cho đứa con có thể sống, nên tôi đã lấy thanh sắt, rồi rạch mạch máu ở tay để lấy máu chảy ra cho đứa con uống.” Bác sĩ hỏi thêm rằng, bà có biết làm như vậy là nguy hại đến tính mạng của mình không?. Bà ta trả lời: “Lúc đó, tôi không nghĩ đến tính mạng mình nữa, tôi chỉ mong sao cho con tôi được sống”. Hình ảnh người mẹ hy sinh mạng sống cho đứa con của mình xuất phát từ tình yêu sâu thẳm của tình mẫu tử. Đứa con sống được là nhờ máu của người mẹ.
Câu truyện có nhiều ý nghĩa về tình yêu dâng hiến, và nó cũng có thể minh họa cho chúng ta những điều khó hiểu về mầu nhiệm Mình Máu Chúa mà chúng ta lãnh nhận mỗi ngày. Hơn nữa, chúng ta có thể hiểu được lời Chúa Giê-su nói rõ ràng nhất, chính là qua thập giá của Ngài. Cái chết của Chúa Giê-su là bằng chứng sống động và là nguồn ơn cứu độ cho con người. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su cầm bánh dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ và nói:” Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Thầy”; và Người cầm lấy chén rượu và đọc:” Đây là máu Thầy, máu giao ước mới sẽ đổ ra cho các con”.
Cho nên, mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ là chúng ta tham dự vào hy tế của Chúa Giê-su được tái diễn lại trên bàn thờ, mà chính Chúa Giê-su đã thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly trước khi đi vào cuộc khổ nạn.
Cho nên, Bí tích Thánh Thể là trung tâm của đời sống Kitô hữu, và tấm bánh đó được bẻ ra để phân phát cho mọi. Điều đó được diễn tả trong Tin mừng hôm nay. Khi đám đông theo Chúa vào trong hoang địa không có gì để ăn, thì Ngài thấy họ đói thì chạnh lòng thương, và bảo các tông đồ: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Các ông trả lời: “Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này”. Số đàn ông độ năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng: “Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người”. Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại. Phép lạ hóa bánh ra nhiều không chỉ cho chúng ta thấy được quyền năng của Thiên Chúa mà còn là thể hiện tính hiệp nhất, liên đới giữa Thiên Chúa với con người mà Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời. Chúa Giê-su nói:” Cũng như Cha, là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.” ( Ga, 6,57-58)
Lạy Chúa, xin cho con biết siêng năng rước mình Thánh Chúa mỗi ngày để làm của ăn lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh của chúng con, và xin cho con trở nên tấm bánh cho những người anh chị em đang sống bên cạnh con. Chỉ có Ngài là sự sống đích thực cho con. Amen.
Có một bữa ăn của Chúa Giêsu đã được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại và thêm một chỗ thứ năm nữa cũng ghi lại, đó là trong thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô. Đó là bữa ăn cuối đời Ngài, bữa tiệc ly, lúc Ngài giã từ các môn đệ thân yêu để lên đường chịu khổ nạn và chết. Trong bữa tiệc này, Chúa Giêsu đã làm một việc rất quan trọng: biến bánh miến thành thịt Ngài và biến rượu nho thành máu Ngài để nuôi linh hồn muôn người. Đây chính là phép Thánh Thể, là Bí tích Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Chúng ta hãy nhìn lại việc cao trọng này. Hôm ấy là ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men, là tuần lễ chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của người Do thái. Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan đến và trao cho hai ông công tác dọn tiệc mừng lễ Vượt Qua. Vâng lời Ngài, hai ông đi vào thành mượn được một căn phòng rộng rãi và chuẩn bị mọi sự cần thiết cho bữa tiệc. Đến chiều ngày thứ năm, Chúa Giêsu cùng đoàn tông đồ tới đó dự tiệc, gồm những tuần rượu, những món ăn cổ truyền, xen lẫn với việc đọc các thánh vịnh. Sau khi nhắn nhủ các môn đệ nhiều điều xoay quanh vấn đề chính là hãy yêu thương nhau, rồi Chúa Giêsu cầm lấy bánh và nói trước mặt các môn đệ rằng: “Tất cả các con cầm lấy mà ăn: Này là mình Thầy”. Chúa trao cho các môn đệ cùng ăn. Rồi Chúa cầm lấy chén rượu và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà uống: Này là chén máu Thầy”. Chúa trao cho các môn đệ cùng uống. Với những lời nói và những cử chỉ trịnh trọng đó, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các môn đệ: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, tức là Chúa ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao quí này để tưởng niệm đến Ngài. Như thế, trong bữa tiệc lịch sử này và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ.
Từ đó trở đi cho đến ngày nay và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp lại những lời của Chúa Giêsu: “Này là mình Thầy”, “Này là chén máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của lý trí loài người. Bởi vì trước và sau khi đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa truyền phép và đã truyền phép, chúng ta không thấy có gì khác nhau. Nhưng theo đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế, chúng ta gọi đây là một Bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.
Để củng cố đức tin của chúng ta vào Bí tích kỳ diệu và cực thánh này, Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ tỏ tường để minh chứng cho mọi người biết trong Phép Thánh Thể có Chúa Kitô thật sự và hoàn toàn. Sau đây là hai phép lạ điển hình.
Phép lạ xảy ra ở làng Bônsênna nước Ý. Phép lạ này đã lưu lại cho chúng ta lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Có phép lạ này bởi vì Chúa muốn dẹp tan sự băn khoăn, nghi ngờ của nhiều người về sự Chúa Kitô hiện diện thật sự trong Thánh Thể. Đó là vào năm 1263, một linh mục người Đức cử hành thánh lễ tại nhà thờ thánh Christiana đồng trinh tử đạo. Đến khi bẻ bánh thì đột nhiên bánh thánh ấy biến thành Thịt và Máu thật sự, trừ phần nhỏ linh mục cầm trong tay. Những giọt máu ở Bánh thánh chảy loang ra thấm ướt khăn thánh. Linh mục ấy gấp khăn thánh lại, nhưng gấp đến đâu máu chảy ra đến đó và in lại dung mạo Chúa Kitô rõ ràng.
Một phép lạ khác xảy ra với thánh Antôn Pađua. Có một người Do thái, tên là Bônvilô, không tin và thường nhạo báng Phép Thánh Thể. Thánh Antôn nói thế nào ông ta vẫn cứ thế. Một hôm, ngài nói với ông ta như là một cuộc thách thức: “Nếu con lừa ông cưỡi mà quì xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình trong hình bánh thì ông có tin không?”Ông ta cho là một câu nói chơi và nhận lời thách thức. Hai ngày liền, ông ta không cho lừa ăn, rồi dẫn tới chợ để có đông người chứng kiến. Giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Con lừa quên đói, không ngó ngàng gì đến lúa mạch, quay sang thánh Antôn quì xuống gật gật đầu thờ lạy Chúa cho đến khi thánh Antôn kiệu Mình Thánh đi. Mọi người quì xuống thờ lạy Chúa và hoan hô thánh Antôn.
Đối với chúng ta, trên lý thuyết, tất cả chúng ta đều tin Chúa Giêsu hiện diện thật trong Phép Thánh Thể, thì trong thực hành, chúng ta hãy sống đức tin đó. Xin đề nghị hai điều: Thứ nhất, mỗi khi bước vào hay bước ra nhà thờ, chúng ta hãy nghiêm trang, cung kính cúi sâu đầu để bái chào và thờ lạy Chúa. Thứ hai, mỗi khi đi dâng thánh lễ, chúng ta hãy cố gắng rước lễ và chuẩn bị cẩn thận trước khi rước lễ và cám ơn sau rước lễ, vì đó là cách hiệp dâng thánh lễ đầy đủ và tốt đẹp nhất.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta long trọng cử hành thánh lễ tôn kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Thánh lễ này nhắc nhở cho chúng ta nhớ rằng Chúa Kitô đã và đang trao ban chính Mình Máu Ngài làm lương thực không hư nát để ban sự sống cho chúng ta, tiếp nhận chúng ta vào hiệp thông sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đồng thời thánh lễ hôm nay cũng nhắc nhớ rằng: chúng ta luôn được Thiên Chúa mời gọi hãy ra công làm việc vì của ăn không hư nát này và hãy cùng Ngài trao ban sự sống cho người khác bằng đời sống bác ái yêu thương, hy sinh phục vụ.
Chúng ta biết rằng, mọi sinh vật trong đó có con người cần thức ăn vật chất để sống, tồn tại và phát triển thân xác, con người lại còn trổi vượt hơn các loài sinh vật khác nhờ có đời sống lý trí và tinh thần. Chính đời sống lý trí và tinh thần làm cho con người ra con người và sống ngày càng ra người hơn, nhân bản hơn trong mối tương quan với người khác và vũ trụ vạn vật. Đời sống này cũng cần có lương thực phù hợp là tri thức và văn hóa. Không có tri thức và văn hóa, con người sẽ phải sống trong lạc hậu, u mê chẳng hơn con vật là mấy.
Thế nhưng, con người không chỉ có thể xác, lý trí và tinh thần, con người còn có tôn giáo, nghĩa là con người còn có đời sống niềm tin, đời sống giúp con người vươn lên những tương quan cao hơn, lớn hơn, chi phối mọi tâm tư, tình cảm và sinh hoạt đó là đời sống thông hiệp với thần minh hay Thiên Chúa. Đối với chúng ta, những người tin vào Chúa Kitô thì đời sống đức tin giúp chúng ta đi vào mầu nhiệm thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa tình yêu. Chính đời sống này không những làm cho chúng ta nên hoàn thiện mà còn hoàn thiện tốt lành như Thiên Chúa là Cha Tốt Lành trên trời, và chúng ta đến đón nhận sự sống đời đời của Thiên Chúa.
Lương thực cho đời sống này chính là Đức Kitô. Ngài là bánh bởi trời ban sự sống đời đời: Ai ăn thịt và uống máu Ngài thì có sự sống đời đời. An và uống chính mình máu Ngài sẽ không còn phải đói khát.
Chúng ta cần cơm gạo để sống, cần trau dồi tri thức và văn hóa để làm người thì chúng ta cũng cần phải tiếp nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô để sống đức tin, để nên thánh.
Cũng như mọi lương thực khác, Mình Máu Thánh Chúa tuy là hồng ân Thiên Chúa ban tặng nhưng không, nhưng Ngài vẫn mời gọi sự nỗ lực cộng tác của con người tìm kiếm và tạo tác nên lương thực cho đời sống của mình.
Tin Mừng hôm nay thuật lại, phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều không phải từ không ra có, nhưng từ năm chiếc bánh và hai con cá là phần đóng góp của con người. Cũng vậy, bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa được hiến dâng trên bàn thờ chính là hoa màu ruộng đất, sản phẩm của cây nho và lao công khó nhọc của con người. Thiên Chúa không muốn làm một mình dù Ngài có thể, nhưng Ngài muốn con người chúng ta cộng tác với Ngài. Được cộng tác với Ngài chính là hồng ân, là vai trò tuy nhỏ bé nhưng hết sức cao quí và sinh hiệu quả được dành riêng cho chúng ta trong mầu nhiệm Thánh Thể. Chính từ bánh, từ cá, từ đời sống của chúng ta mà Thiên Chúa đã tháp nhận vào ơn huệ Bí tích thánh Thể, làm nên Thánh Thể Đức Kitô.
Phần đóng góp công sức của chúng ta chẳng đáng là bao so với nguồn lương thực lớn lao này, tuy nhiên, không có phần của chúng ta, Bí tích Thánh Thể sẽ chỉ là ma thuật. Đức Kitô sẽ biến đổi, thánh hiến sự đóng góp nhỏ nhoi, khiêm hạ của chúng ta thành nguồn lương thực dồi dào cho mọi người.
Vì thế, chúng ta hãy nỗ lực góp phần cộng tác với Thiên Chúa. Chúng ta đóng góp không chỉ bằng của cải vật chất, nhưng cần thiết hơn còn bằng chính đời sống lao động khó nhọc để phục vụ người khác; bằng chính việc chu toàn bổn phận hằng ngày của mỗi người và bằng chính đời sống yêu thương, chia sẻ bác ái.
Chúng ta cộng tác với Thiên Chúa không phải chỉ tìm kiếm lương thực cho riêng mình, nhưng còn cho anh em khác nữa. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta, Ngài cũng đồng thời mời gọi chúng ta trao ban cho người khác. Đón nhận lương thực để rồi chuyển hóa thành sự sống tình yêu. Thánh Thể phải được chuyển hóa thành năng lượng tình yêu.
Thiên Chúa không làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chỉ một mình Người có bánh hay chỉ cho các môn đệ thân tín của Ngài, nhưng là cho mọi người. Thánh Thể cũng không chỉ dành cho một ai, một số người nào đó nhưng là cho mọi tín hữu. Không phải chỉ chúng ta no đủ phần hồn phần xác mà còn phải biết chia sẻ cho anh em khác nữa. Chia sẻ ở đây không có nghĩa là đi trao Mình Chúa cho người khác, nhưng là trao chính sự sống của mình. Vì một khi đã đón nhận Thánh Thể chúng ta đón nhận chính Đức Kitô để Ngài ở trong ta và ta ở trong Ngài: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Đời sống Đức Kitô là đời sống của yêu thương và hiến mình cho người khác. Đón nhận Ngài thì cũng chỉ có một đời sống như Ngài mà thôi, đó là sống cho và vì người khác trong yêu thương và phục vụ.
Nếu chỉ biết đón nhận mà không biết trao ban, không triển nở ơn thánh thì coi chừng mắc phải chứng bệnh “béo phì ân sủng”. Ngày nay, người ta sợ hội chứng béo phì vì sẽ làm tăng mỡ máu đưa tới xơ cứng động mạch, nhồi máu cơ tim, gây khốn khổ cho cuộc đời và nguy hiểm cho sinh mạng. Cho nên, phải giảm ăn thậm chí sợ ăn và tăng cường hoạt động để tiêu bớt mỡ, giảm bớt trọng lượng.
Cũng thế, nếu bị “béo phì ân sủng”sẽ có nguy cơ đưa tới xơ cứng trái tim yêu thương khiến cho không triển nở được tình yêu và sự sống của Thiên Chúa. Và lúc đó, việc tham dự thánh lễ cũng trở nên máy móc, theo thói quen nhàm chán, thậm chí ngại và sợ thánh lễ, đôi khi còn xúc phạm vì ý chẳng ngay lành. Nếu như thế, thì thật khốn cho ai ăn và uống Mình máu Thánh Chúa cách bất xứng. Nói như thánh Phaolô: “An uống như thế là ăn uống án phạt mình”chẳng lợi gì chỉ thêm nguy hại mà thôi.
Do đó, cần phải sống như Chúa: cho đi chính mình, trao ban chính sự sống mình. Lương thực Thánh Thể, nguồn sự sống phải được chuyển hóa tiêu hao thành tình yêu, thành bác ái hy sinh để cuộc sống mỗi người và mọi người luôn được no nê ân sủng, tình yêu và sự sống của Thiên Chúa.
Hãy đón nhận Thánh Thể là nguồn lương thực của đời sống Kitô hữu, là của ăn không hư nát mang lại sự sống đời đời. Hãy lao công khó nhọc vì của ăn không hư nát này và hãy cùng nhau chia sẻ của ăn ấy trong tình bác ái huynh đệ để thực sự chúng ta được sống và sống dồi dào.
Đức Giêsu có ít nhất hai lý do để Người có thể giải tán đám đông. Trước hết, Hêrôđê (người đã giết chết anh họ mình là Gioan) đã lưu tâm đến Người. Vì thế, đây là lúc Người phải giữ sự kín đáo, tránh xuất hiện nhiều. Và lý do thứ hai, các tông đồ cần sự nghỉ ngơi vì mới đi làm sứ vụ trở về.
Nhưng Người đã không giải tán đám đông, Người nhìn họ với lòng trắc ẩn và thấy họ như đàn chiên không người chăn dắt. Vì thế Người đã qui tụ họ lại xung quanh Người. Hình ảnh Đức Giêsu ở giữa năm ngàn người. Họ được lôi cuốn bởi lời Người có sức hấp dẫn và nhân cách Người nồng nàn. Việc đầu tiên Người đã làm là giáo huấn họ về Nước Trời. Kế đến Người chữa lành những bệnh nhân.
Có những lúc, Người kết thúc công việc quá buổi trưa và mọi người đều đói. Các tông đồ thúc giục Người giải tán đám đông. Nhưng Người không nghe theo họ. Người đã thực hiện một phép lạ cả thể là ban lương thực cho họ ăn. Và họ sung sướng biết bao trên con đường trở về nhà mình.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều khi chưa đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các tông đồ phân phát để nuôi sống đám đông là hình ảnh tiên báo sự dồi dào của bánh duy nhất mà Người ban cho chúng ta trong Thánh Thể.
Vào ngày thứ nhất trong tuần, ngày Đức Giêsu sống lại, các Kitô hữu tiên khởi gặp nhau và cùng bẻ bánh. Từ ngày đó cho đến nay, việc cử hành Bí tích Thánh Thể đã tiếp tục mỗi ngày, ở bất cứ nơi nào, chúng ta cũng gặp việc cử hành ấy trong Giáo Hội và cùng một cơ cấu nền tảng. Nó duy trì và ở ngay trung tâm của đời sống Giáo Hội.
Chúng ta là dân mới của Thiên Chúa. Đức Giêsu ở giữa chúng ta. Nơi đây chúng ta nghe lời Người khi lắng nghe đọc Kinh Thánh. Lời Người không phải là những lời chết. Đó là những lời hằng sống đem lại cho chúng ta những niềm cảm hứng và thách đố chúng ta.
Kế đến, nơi đây, Đức Giêsu chữa lành những thương tật của tội lỗi và chia rẽ. Người tha thứ những tội lỗi của chúng ta và chữa lành những thương tích mà tội lỗi để lại. Người cũng chữa lành chúng ta khỏi tính biệt lập. Tất cả chúng ta được chữa lành tính ích kỷ và thái độ thờ ơ đối với người khác. Thánh Thể đào tạo chúng ta giữa một cộng đoàn yêu thương.
Sau cùng, nơi đây, chúng ta được lương thực Thánh Thể nuôi dưỡng. “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”. Vào cuối thánh lễ, chúng ta không chỉ giải tán mà được sai đi như những người đem sự sống đến cho những người khác.
Vì thế từ thánh lễ này đến thánh lễ khác, khi công bố mầu nhiệm Đức Giêsu Phục sinh cho tới khi Người lại đến, dân Thiên Chúa tiếp tục tiến lên trong cuộc hành hương dẫn đến bữa tiệc Nước Trời, khi mọi người được tuyển chọn sẽ được ngồi vào bàn tiệc Thiên quốc.
Một phụ nữ đứng tuổi người Pêru không biết đọc và không biết viết, khi được hỏi: “Thánh lễ có ý nghĩa gì với bà?”Bà đã đáp lại rằng: “Thánh lễ nói với tôi rằng tôi là một người quan trọng”.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để thêm sức cho những người đã theo và nghe Ngài giảng dạy. Phép lạ hoá bánh ra nhiều, là dấu chỉ của bí tích Thánh Thể sau này.
Đức Giêsu như gương mẫu
Các tông đồ nhắc nhở Đức Giêsu: “xin Thầy cho dân chúng về để họ tìm chỗ trọ quanh đây và kiếm thức ăn vì ngày đã tàn”. Dường như dân chúng ham mê nghe Đức Giêsu giảng, và chính Đức Giêsu cũng rất thích giảng dạy dân chúng đến quên cả thời gian.
Điều các tông đồ có thể làm được, là nhắc nhở Đức Giêsu về nhu cầu thể lý của con người. Và Đức Giêsu nói: “Anh em hãy cho họ ăn”. Cho dân chúng ăn, đâu phải là nhiệm vụ của các tông đồ, và cũng vượt khả năng của chính các ông: “chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Hãy bảo họ ngồi thành nhóm khoảng năm mươi người. Và Đức Giêsu đã cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời tạ ơn rồi bẻ ra trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho dân chúng. Đức Giêsu không chỉ quan tâm đến khát vọng thiêng liêng của dân chúng, nhưng Ngài còn thông cảm và để ý đến cả nhu cầu thể xác của con người nữa.
Đức Giêsu: “cầm lấy, ngước mắt lên trời, dâng lời tạ ơn…”. Những việc bình thường hằng ngày, ngay cả như “ăn uống”, Đức Giêsu cũng vẫn làm với ý thức sâu xa về Thiên Chúa. Và cũng chính thói quen này giúp hai môn đệ Emmau nhận ra Đức Giêsu. Đây là điều mỗi người cần học nơi Đức Giêsu: đối diện với thực tại, hướng lên Thiên Chúa, chúc tụng và xin Ngài giúp để biết phải làm gì và làm như thế nào trong mọi hoàn cảnh.
Đức Giêsu nuôi dưỡng con người bằng chính Mình Máu Ngài
Đức Giêsu trong đêm Ngài bị bắt, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: này là mình thầy, hiến tế vì anh em. Đức Giêsu đã bị trao nộp và bị giết vì tội con người, Ngài trở nên của ăn của uống cho con người của mọi thời đại.
Ngày xưa dân Do Thái đi trong hoang địa được nuôi bằng manna, người thời Đức Giêsu được Ngài hoá bánh ra nhiều để nuôi họ, còn ngày nay Ngài nuôi con người bằng chính thịt máu Ngài. Con người ngày nay còn hạnh phúc hơn cả con người ngày xưa và ngay cả con người thời Đức Giêsu nữa. Tuy vậy, mấy ai nhận ra diễm phúc này?
Qua bí tích Thánh Thể, con người nhận ra tình yêu vô cùng của chính Đức Giêsu đối với con người. Ngài sẵn sàng trở thành của nuôi con người, để được tan biến trong con người, để làm con người được thần hoá, được thông phần bản tính Thiên Chúa. Của ăn vật chất con người dùng, trở thành thịt máu con người; còn bí tích Thánh Thể con người dùng, làm con người được “trở nên thịt máu Đức Giêsu”, được “thánh hoá”, được thần hoá, được trở nên con Thiên Chúa.
Dâng hiến chính mình
Đức Giêsu đã dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và cho con người qua cái chết trên thập giá và được thể hiện trước cách bí tích qua bí tích Thánh Thể. Và qua điều này Ngài mời gọi con người của mọi thời đại trở nên giống Ngài: yêu thương đến quên mình, đến dâng hiến chính mình cho con người.
Trong lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều người đã anh dũng dâng hiến chính mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ở Việt Nam đã có cả hơn một trăm ngàn người dám chết để làm chứng cho đức tin, cho Thiên Chúa. Các thánh và chân phước tử đạo là nhân chứng hùng hồn cho tình yêu Thiên Chúa và con người.
Những người dâng mình cho Chúa, cũng là những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Ơn gọi không khởi đầu với con người và cũng không được kết thúc bởi con người. Chính Thiên Chúa là sáng kiến của mọi ơn gọi và đặc biệt của ơn gọi dâng hiến; cũng chính Thiên Chúa là Đấng bảo vệ và phát triển ơn gọi dâng hiến. Ơn gọi dâng hiến là ơn gọi của tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Tình yêu không triển nở, sẽ bị chết. Mỗi người sống đời dâng hiến hãy luôn cầu xin, để tình yêu của họ với Thiên Chúa và con người luôn phát triển. “Xin Chúa làm cho con yêu Chúa và yêu con người”.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Trong Bang Georgia, giữa công viên đại học và Fairburn có nhiều vườn cỏ với những đài kỷ niệm danh tiếng. Đài kỷ niệm nổi nhất là bức điêu khắc bữa tối sau cùng bằng cẩm thạch khổng lồ dài 20 Feef, cao 7 Feef khắc vào một tấm cẩm thạch nặng 60 tấn.
Chúa Giêsu và các tông đồ được khắc bằng cỡ người thật, nhà điêu khắc Bern Zuckerman cố diễn tả từng chi tiết như móng tay, gân cổ của các tông đồ và thức ăn trên bàn. Ông mất ba năm để diễn tả những gì xảy ra trong chiều thứ năm Thánh đầu tiên ấy. Bức điêu khắc này lấy mẫu của Bức hoạ lừng danh của Leonard de Vinci Bức hoạ về bữa tiệc ly chúng ta thường thấy trong nhiều nhà thờ, trên tường hay trên kính cửa sổ.
Tại sao chúng ta kính nhớ bữa tiệc ly vào lúc này trong năm? Chúng ta đã chẳng kỷ nịêm bữa tiệc ly vào ngày thứ năm tuần thánh để nhớ bữa tiệc đó xảy ra lúc nào đó sao? Vâng, nhưng ngày thứ năm trong tuần thánh thì trang trọng và u buồn. Gia đình Chúa muốn Tôn kính biến cố rất quan trọng với một ngày lễ đặc biệt và vui mừng vào một ngày chủ nhật để tất cả chúng ta có thể tham dự.
Đêm trước khi Chúa Giêsu chịu chết, Chúa đã nói lời này: “Đây là Mình Ta. Đây là Máu Ta” và lần đầu tiên, con người được rước lễ. Rồi sau đó Chúa Giêsu nói với các tông đồ và tất cả chúng ta rằng chính thân thể ấy sẽ bị treo trên thập giá vào ngày hôm sau, chính Máu đó sẽ chảy ra từ các vết thương. Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta’. Nói cách khác hãy làm để nhớ cái chết của Ta.
Thánh Phaolô viết trong thơ Côrintô… Hãy làm việc này… để nhớ đến Ta. Nên mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan báo sự chết của Chúa cho tới ngày Người đến”.
Trong thánh lễ, chúng ta những công giáo, làm điều Chúa Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly, chúng ta diễn tả, chúng ta công bố sự chết của Chúa như người đã truyền dạy, chúng ta thật sự làm sống động bữa ăn tối sau cùng và sự chết của Chúa vào ngày kế tiếp.
Một kỷ niệm là một cái gì đó giúp ta nhớ về một người hay một biến cố nào đó. Nó có thể là một việc làm, một đài kỷ niệm, một lưu bút v..v… ngày Thứ Năm thọ nạn, Chúa Giêsu đã minh nhiên khởi đầu một việc làm để nhắc nhở và lưu niệm sự chết của Người qua mọi thời đại.
Đài kỷ niệm lớn nhất thế giới như ở Georgia, Bức tranh vĩ đại nhất thế giới như của Vinci. Thật sự cũng quá nhỏ bé so với bữa tối trọng nhất mà chúng ta làm sống lại trong thánh lễ này. Đó là chân lý quí giá chúng ta cử hành trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Vì tình yêu, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta chính Ngài, vì tình yêu chúng ta tiếp nhận Ngài.
Xin Chúa chúc lành bạn. Amen.
“Tôi muốn con tôi sống” đó là lời của bà Suzanna Petrosyan đã thốt ra và được báo chí nhắc lại. Thực ra, có bà mẹ nào lại không muốn con của mình được sống đâu? Thế nhưng trường hợp của bà Petrosyan và đứa con gái 4 tuổi của bà không giống như những trường hợp của nhiều bà mẹ khác, vì hai mẹ con bà này là nạn nhân của cơn động đất khủng khiếp tại Armeni, thuộc liên bang Xô Viết hồi tháng 12 năm 1987.
Sau khi động đất, cũng giống như hàng ngàn người khác, cả hai mẹ con bà Petrosyan đều bị lấp vùi dưới hàng trăm ngàn tấn gạch, đá và xi măng, nhưng họ may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cựa quậy mà thôi. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt và chẳng mấy chốc hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó, cô gái 4 tuổi mới kêu: “Mẹ ơi, con khát quá. Mẹ cho con uống nước”. Nhưng lấy nước đâu bây giờ? Tiếng kêu khát của con cứ tiếp tục làm cho bà mẹ vừa đau lòng vừa lúng túng. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo: đó là lấy những giọt máu cuối cùng của bà cho con uống để cầm cự với tử thần. Lúc đó, người mẹ đáng thương mới lấy tay sờ sẫm và vớ được một miếng kính bể. Bà lấy miếng kính cắt đầu ngón tay trỏ và đút ngón tay vào miệng con bảo con mút. Em bé mút ngón tay của mẹ một lúc rồi nói: “Mẹ cắt một ngón tay nữa cho con mút thêm”. Bà liền cắt một ngón tay nữa nhưng vì trời lạnh quá nên bà không thấy đau đớn gì nữa… Sau khi được cứu sống, người đàn bà thuật lại rằng: “Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống”. (Vietnamese Missionaries in Asia, Tôi Muốn Con Tôi Sống)
Trình thuật Tin Mừng Thánh Luca hôm nay, ý nghĩa Thánh Thể được diễn tả khái quát, qua sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ, với 5 chiếc bánh và 2 con cá, phục vụ cho 5 ngàn đàn ông, không kể trẻ em và phụ nữ. Mọi người đều ăn, và ai nầy đều no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng. (Lc 9, 17)
Hy tế hằng ngày
Hiện nay, hằng ngày mầu nhiệm Thánh Thể vẫn tiếp tục được tôn vinh và cử hành trong các thánh đường trên toàn thế giới. Tình Yêu Thiên Chúa vẫn tràn đầy, phong phú như sương sa, vẫn dưỡng nuôi các linh hồn đang khao khát, thiếu thốn, mệt nhọc, trên Đường Hy Vọng.
Cuộc hy tế của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, xóa tội trần gian, vẫn còn tiếp tục tái hiện qua Thánh Lễ. Công cuộc cứu độ của Chúa vẫn tiếp diễn cho đến tận thế. Nhưng đáng tiếc, bây giờ khuynh hướng tục hóa lan tràn, khiến cho nhiều con chiên ngoảnh mặt làm ngơ, lầm tưởng mầu nhiệm Thánh Thể chỉ như một nghi thức hoài cổ, kỷ niệm nào đó, chẳng hề liên quan đến họ.
Năm 1263, một linh mục người Đức cử hành Thánh Lễ ở nhà thờ kính Thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên, linh mục thấy Mình Thánh không còn là hình bánh, mà đã biến thành Thịt và Máu thực. Những giọt máu loang ra thấm ướt tấm khăn Thánh trên bàn thờ. Linh mục vội gấp khăn lại, nhưng gấp tới đâu, máu thấm ra tới đó, máu thấm qua 25 lần vải. Vị linh mục vừa cảm động vừa sợ hãi đến mức không tiếp tục Thánh Lễ được.
Ngài tới yết kiến Đức Giáo Hoàng Urbanô và kể lại sự kiện ấy. Đức Giáo Hoàng sai một Giám Mục đến rước Mình Thánh cùng tấm khăn đẫm máu về Tòa Thánh đặt ở nhà thờ chánh tòa cho giáo dân thờ kính. Năm sau, (1264) vào ngày mồng 8 tháng 9, Người ra sắc dụ lập lễ kính Thánh Thể trong toàn Giáo Hội như chúng ta mừng kính hôm nay. (Noel Quesson, Đây là Mình Thầy)
Lương thực trường sinh
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn và chết nhục nhã, đau đớn trên thập giá, Chúa Giêsu đã lập Giao Ước Mới bằng cách hy tế chính thân mình. Người không tế lễ bằng chiên, bò như giao ước cũ. Người hiến tế chính thân mình để gánh tội lỗi trần gian, giải thoát con người khỏi quyền lực ma quỷ, để giao hòa với Thiên Chúa. Như thế, con người mới hy vọng sống muôn đời. “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, Chính là thịt tôi đây, Để cho thế gian được sống.” (Ga 6: 51)
Mỗi khi đón rước Thánh Thể, chúng ta được vinh dự đón Chúa Giêsu ngự vào mình. Người thánh hóa bản thân chúng ta, liên kết chúng ta chặt chẽ với Thiên Chúa. Người ban muôn ân sủng, an ủi, dưỡng nuôi linh hồn và thân xác, cùng ban sự sống muôn đời. “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy.”(Ga 6,56 )
Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu rỗi toàn thể nhân loại, khi Người cầm chén rượu và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội.” (Mt 26, 27-28)
Hiệp thông và chia sẻ
Năm chiếc bánh và hai con cá được Chúa Giêsu cầm lên dâng lời chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa, rồi trao cho các môn đệ phân phát cho dân. Tất cả mọi người đều được no đủ và dư thừa.
Nhưng mầu nhiệm Thánh Thể còn cao sang gấp bội. Chính Chúa Giêsu trở nên của ăn thiêng liêng, cho phép chúng ta cùng hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân.
Nhờ lương thực Thánh Thể, chúng ta trở nên như Người và Người trở nên chúng ta. Như thế, chúng ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa. Đồng thời, tất cả tín hữu Kitô khi đón rước Người đều trở nên anh chị em của nhau
Trước đây, dân chúng được chia sẻ cùng năm chiếc bánh và hai con cá trong tình bằng hữu. Nay được chia sẻ mầu nhiệm Thánh Thể, mọi người cũng đều được ăn uống trong tình huynh đệ, như hai môn đệ Emmaus, đã nhận ra Chúa Phục Sinh chính vào lúc Người: “cầm lấy bánh chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho hai ông…” (Lc 24,30-31).
Trong Anh ngữ, từ “companionship” (tình bằng hữu) có nguồn gốc từ La tinh “Cum Panis,” nghĩa là cùng chia sẻ bánh cho nhau. Chỉ là bạn hữu thân thiết mới chia nhau của ăn. Có lẽ từ đó bắt nguồn từ sự kiện Chúa Phục Sinh, chia sẻ tấm bánh với hai môn đệ Emmaus kể trên.
Cho và đền đáp mới duy trì mối tương quan tốt đẹp. Vậy, chúng ta lấy gì đáp lại Chúa Thánh Thể? Nếu không phải dâng lên những niềm vui, nỗi buồn, những khó khăn, cực nhọc, những vất vả lo toan, ưu tư, hy vọng và cả những tội lỗi, yếu đuối vấp phạm.
Hiến dâng lên tất cả những gì chúng ta có, dù chẳng tốt đẹp, chẳng xứng đáng, mà còn tầm thường, thậm chí bất xứng nữa. Chú bé trong Tin Mừng đã dâng lên Chúa Giêsu tất cả lương thực chú đem theo, gồm 5 tấm bánh và 2 con cá mộc mạc và dân dã. Chúa vẫn hân hoan vui vẻ tiếp nhận và thánh hóa.
Tóm lại, chúng ta dâng lên tất cả những gì chúng ta có trong đời thường, tựa như hy lễ hiến dâng lên Thiên Chúa, như dấu chỉ tình yêu đáp trả Đấng đã yêu thương cứu chuộc chúng ta khỏi sự chết đời đời.
Như thế, chúng ta không thể thờ ơ với Bàn Tiệc Thánh. Bàn tiệc duy nhất cao quý vô cùng trên thế gian. Cố gắng thu xếp, từ bỏ hết các rào cản do công việc, hay thú vui, để hân hoan và nhiệt thành tham dự Thánh Lễ. Nhất là sốt sắng Rước Lễ mỗi khi có thể, đề đến đáp tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Rước Chúa vào lòng là thắt chặt mối liên kết hòa giải với Thiên Chúa, đồng thời hòa giải với anh chị em trong cuộc sống thường nhật mới thật sự có ý nghĩa và chân thành đồng hành với Chúa.
Khi chúng ta hy sinh, tha thứ và bác ái với tha nhân chính là lúc chúng ta nhìn thấy Chúa trong anh chị em, là lúc chúng ta đem mầu nhiệm Thánh Thể vào đời, vào ngay môi trường đang sống.
Mặt khác, những hy sinh, đau khổ chúng ta vui lòng chịu vì người khác sẽ là những lễ vật chân thật, đơn sơ, mộc mạc của cuộc đời, chúng ta dâng tiến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban muôn hồng phúc cho các Linh mục, đã hiệp thông tái hiện mầu nhiệm Thánh Thể, để cho đàn chiên được sống, và sống dồi dào. Xin Chúa ban cho con tình yêu nồng nhiệt với Thánh Thể, để con được hòa giải với Thiên Chúa và với tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, con tri ân Mẹ đã “Xin Vâng,” đón nhận, cưu mang Chúa Giêsu trong cung lòng. Nay con cũng được vinh dự đón rước Chúa. Xin dạy con biết cảm tạ, tri ân và tôn vinh Thánh Thể. Nhờ Tiệc Thánh, xin cho con được hiệp nhất với Chúa và với mọi người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An)
Phúc Âm kể lại: Đang khi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn,bẻ ra trao cho các môn đệ và nói:Này là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Rồi Người cầm lấy chén rượu và nói: Này là Máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống. (Mt 26, 26-29; Lc 22,14-20). Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể và Chúa dặn dò các môn đệ: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Tiệc Thánh Thể này được chính Chúa Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum, được thiết lập trong Tiệc Ly và đã được chính Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện đan kết với nhau thật tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa.Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô.Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô,Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá.Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian. Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần,tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần. Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội.Thánh Thể làm nên Giáo Hội.Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một bánh là thân mình Đức Kitô (1 Cr 10,17).
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô. Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể.
Chính Chúa Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô khi Linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà Linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như Linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của Linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách”giữa Linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau Truyền Phép, bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa. Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể”. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là Linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc Linh mục Truyền Phép:
“Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”(Kinh Nguyện Thánh Thể II).
“Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con”(Kinh Nguyện Thánh Thể III).
“Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18,20).Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo, vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: “Ta đói các ngươi cho ăn,Ta khát các ngươi cho uống …”(Mt 25,35-36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài. Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi Linh mục đọc Lời Truyền Phép. (x.Tặng phẩm Thần Linh, Đức Cha Bùi Văn Đọc)
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. Thiên Chúa đã yêu thế gian nổi ban chính Con Một (Ga 3,16) và Con Một là Đức Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng laị là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người.Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Đức Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta sẽ học được rất nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Thật ra, trong bất cứ thánh lễ nào, chúng ta cũng đã suy tôn mầu nhiệm Thánh Thể. Tuy nhiên, vì muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của Thánh Thể trong đời sống của mỗi kitô hữu, nên mẹ Giáo Hội đã chọn riêng một ngày để chúng ta có thời giờ nhiều hơn trong việc tôn thờ, suy gẫm và tạ ơn tình yêu Thiên Chúa nơi bí tích Thánh Thể. Nếu như các bí tích nói riêng và các sinh hoạt phụng vụ nói chung là phương thế để chúng ta nhận lãnh ơn cứu độ của Đức Giêsu, thì với bí tích Thánh Thể, chúng ta được đón nhận chính Đức Giêsu là nguồn của mọi ân phúc. Chính vì thế sách Giáo lý chung của Hội Thánh Công Giáo số 1324 đã viết: “Bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống kitô hữu”. “Những bí tích khác cũng như các thừa tác vụ và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với bí tích Thánh Thể và qui hướng về đó…”.
Mầu nhiệm về bí tích Thánh Thể rất phong phú, chúng ta không thể nào suy cho hết được. Do đó, trong giờ này, tôi muốn được chia sẻ cùng quý OBACE. về một trong những khía cạnh của bí tích Thánh Thể, đó là nhìn bí tích Thánh Thể dưới góc độ của một hiến lễ tạ ơn.
Khi nói đến hiến lễ, chúng ta không thể không nói đến lễ vật. Đức Giêsu chính là lễ vật được hiến dâng lên Thiên Chúa Cha làm của lễ đền tội cho chúng ta. Chính vì thế, khi thuật lại việc Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể, mặc dù là đang trong bữa tiệc với các môn đệ, thánh Phaolô đã nói: “Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, nầy là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con …”. Khi nhắc đến việc Đức Giêsu sắp bị nộp, thánh Phaolô muốn chúng ta nhớ đến cuộc khổ nạn của Đức Giêsu trên thập giá. Hiến thân làm của lễ, Đức Giêsu đã thực sự trở nên tấm bánh bẻ ra cho chúng ta được sống.
Mặt khác, trong hiến lễ tạ ơn này, Đức Giêsu không chỉ là của lễ mà còn là người dâng. Đức Giêsu đã tự hiến dâng chính mình cho Chúa Cha làm của lễ đền bù tội lỗi cho chúng ta. Hơn nữa, không giống như các tư tế của Cựu ước hàng năm đều phải tiến dâng lễ vật, nhưng vẫn không xoá được tội lỗi như lời tác giả thư Do Thái: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và đang đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi”(Dt 10, 11). Trái lại, Đức Giêsu “đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta”(Dt 9, 12).
Nhờ sự tự hiến này của Đức Giêsu, tất cả chúng ta đã được chữa lành khỏi mọi vết nhơ của tội lỗi. Chính vì thế trước khi tường thuật lại phép lạ hoá bánh ra nhiều, thánh sử Luca đã cho chúng ta biết rằng Đức Giêsu đã “chữa lành những kẻ cần được cứu chữa”. Đức Giêsu đã chữa lành những tật bệnh thân xác, như một dấu chỉ báo trước việc Ngài sẽ dùng chính Máu Ngài đổ ra trên thập giá, để chữa lành những vết thương do tội lỗi gây ra.
Như thế, Đức Giêsu chính là vị Thượng Tế đời đời theo phẩm hàm Melkisêđê. Chức tư tế của Ngài vượt trên mọi tư tế của Cựu ước, bởi lẽ các tư tế của Cựu ước đều là con cháu tổ phụ Abraham, mà tổ phụ Abraham lại phải dâng “một phần mười tất cả chiến lợi phẩm”cho Melkisêđê và nhận lời chúc phúc của ông như chúng ta vừa nghe trong bài đọc một.
Đức Giêsu đã tự hiến dâng chính mình Ngài làm của lễ đền tội và ban chính Mình và Máu Ngài làm của ăn đem lại sự sống vĩnh cửu cho tất cả chúng ta. Đồng thời, mỗi khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể, là lúc chúng ta nhận được lời mời gọi tiếp tục cử hành và sống hiến lễ tạ ơn này cho đến tận thế, như lời Đức Giêsu đã phán khi lập bí tích Thánh Thể: “Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.
Mỗi khi lãnh nhận Thánh Thể là lúc chúng ta lãnh nhận được sự sống Thần Linh của Thiên Chúa. Do đó, tâm tình đầu tiên phải có của mỗi người chúng ta, đó là tâm tình tạ ơn. Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì tình yêu bao la mà Ngài đã dành cho chúng ta. Nhất là chúng ta tạ ơn Đức Giêsu vì Ngài đã ban cho mỗi người chúng ta chính Mình và Máu Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế này.
Mặt khác, với kinh nghiệm của mình, chắc hẳn mỗi người chúng ta cũng nhận ra rằng: một sự tri ân đích thực không chỉ là một tâm tình bên trong, nhưng cần phải được loan báo. Thực vậy, có một niềm vui thật trong lòng, chúng ta không thể dấu kín, nhưng luôn muốn kể lại cho mọi người cùng biết. Do đó, nhận được hồng ân sự sống từ bí tích Thánh Thể, chúng ta cũng có nhiệm vụ loan báo cho anh chị em của mình, để tất cả mọi người đều cất tiếng ngợi khen và tôn vinh Thiên Chúa. Hay nói theo cách nói của thánh Phaolô trong bài đọc hai: “Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.
Kế đến, lòng tri ân của chúng ta cũng không chỉ dừng lại ở một lời loan báo, nhưng cần được thể hiện bằng một hành vi cụ thể. Đức Giêsu đã tự hiến dâng thân mình Ngài, trở nên một tấm bánh bẻ ra làm của ăn cho tất cả chúng ta, đến lượt mình, chúng ta cũng phải biết tự hiến, biết cho đi bản thân mình làm của ăn cho anh chị em của chúng ta.
Trong bài Tin mừng, đứng trước nhu cầu của cả một đám đông dân chúng, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Đức Giêsu muốn các môn đệ làm một cái gì đó thật cụ thể, với hết khả năng của họ, cho dù đó chỉ là “5 chiếc bánh và 2 con cá”, để giúp đỡ đám đông, chứ không chỉ là một lời nhận xét, một lời góp ý xuông, hay chỉ là một lời bàn làm cách nào để mình được thoải mái, nhẹ nhàng nhất: “Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn”. Điều này xem ra thật quá dễ và hợp lý cho các môn đệ và Đức Giêsu, nhưng lại không phải là điều mà Đức Giêsu muốn. Điều Ngài muốn là các môn đệ bắt tay cùng cộng tác với Ngài để làm dịu cơn đói của đám đông đang theo Ngài.
Là chi thể trong Nhiệm Thể của Ngài, mỗi người chúng ta cũng hãy dâng đời sống, lời ca ngợi, kinh nguyện và cả những đau khổ do tật bệnh trên thân xác, cùng với những lo âu trong cuộc sống… kết hợp với hiến lễ của Đức Giêsu trên thập giá, để dâng lên Chúa Cha trong Thánh Lễ mỗi ngày (x. SGL 1368). Nhờ đó, ngày càng có nhiều người nhận được ơn cứu độ do bởi hiến tế của Đức Giêsu trên thập giá. Amen.
Ăn uống là chuyện bình thường của mọi sinh vật sống. Khi tôi ăn uống, thức ăn, thức uống trở thành tôi. Tôi sống, tôi hoạt động, tôi lớn lên… nhờ bao nhiêu chất dinh dưỡng từ chút rau xanh, cá tươi, hoa trái…
Trừ những bữa tiệc, những độ nhậu phi nghĩa, phi đạo đức, nhằm mua quan, bán chức, hối lộ, mãi lộ, nịn hót. Hoặc những bữa tiệc, những độ nhậu mà người ta dùng như một cuộc hẹn hò làm ăn, bàn tính, thậm chí qua đó, người ta lên chương trình cho cả một hệ thống phi luân lý như cùng hợp tác với nhau giết người, cướp của, bóc lột dân lành, mánh mung, trả thù, bớt xén của công, chạy chọt để thoát sự trừng trị của pháp luật…
Trừ tất cả những bữa tiệc ấy, những bữa cơm, dù toàn những thức ăn sang giàu, hay chỉ đạm bạc, đơn giản vài trái cà gém, một chút mắm tôm của những gia đình nghèo, vẫn không bao giờ mất đi tính thiêng liêng và vẻ đẹp của nó. Nó cần nhận được sự tôn trọng của mọi người như: tránh gây gỗ, cãi vả, hiềm khích, đánh đập nhau. Câu nói nổi tiếng của ông bà từ ngàn xưa để lại cho con cháu: “Trời đánh tránh bữa ăn”, là câu nói rất hữu ích giáo dục lòng tôn trọng sự thiêng liêng và vẻ đẹp của bữa cơm. Những bữa cơm giàu tình yêu, nồng ấm tình gia đình, tràn ngập sự thành thực…, dù là những bữa cơm sang giàu hay đạm bạc đều là những bữa cơm quý phái, cần thiết cho cuộc đời.
Chúa Kitô đã nhiều lần sử dụng bữa cơm để mạc khải nhiều chân lý quý giá cho Giáo Hội. Càng suy nghĩ, ta càng nhận thấy Chúa Kitô thật là một nhà giáo dục tài ba. Vì có lúc nào tình yêu đằm thắm, lòng người tin tưởng nhau, và là nơi trổ sinh niềm vui cho bằng bữa cơm. Người đã dùng khung cảnh tốt đẹp của bữa cơm như thế để nâng hôn nhân lên hàng bí tích tại tiệc cưới Cana. Người đã đến nhà và dùng bữa tại nhà cô Maria, một phụ nữ tội lỗi, để tha tội cho chị, khi chị gục đầu khóc bên chân Người. và trong một bữa cơm, Người dạy người ta hãy ngồi vào chỗ rốt hết, vì “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, Người đã ăn với các môn đệ trên biển hồ sau khi sống lại để bày tỏ mầu nhiệm phục sinh… Còn nhiều, nhiều nữa những bữa cơm mạc khải như thế.
Liên quan tới bí tích Thánh Thể, Thánh Kinh cũng cho thấy nhiều bữa ăn mạc khải mầu nhiệm Thánh Thể. Chẳng hạn hai lần Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân trong thời gian Người giảng dạy. Hay bữa ăn cuối cùng trước khi rời xa các môn đệ. Chính trong bữa ăn này, Chúa Giêsu chính thức thành lập bí tích Mình Máu Thánh Người, qua lời truyền phép mà hôm nay thư thứ nhất của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô đã nhắc lại: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”và “Chén này là Tân Ước trong Máu Thầy. Mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
Hôm nay, lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, Giáo hội mời gọi ta suy niệm một trong ba bữa ăn ấy. Đó chính là lần Chúa làm phép lạ từ năm chiếc bánh và hai con cá để nuôi sống năm ngàn người đàn ông, chưa kể đàn bà và trẻ con.
Chúa không làm phép lạ chỉ như một phép lạ mà thôi, càng không bao giờ làm phép lạ để khoe mẽ tài năng của mình. Nhưng phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá, gọi về một phép lạ khác lớn lao hơn. Đó là phép lạ hóa nên Mình Máu của chính Chúa Kitô để nuôi dưỡng linh hồn con người, không phải năm ngàn hay mười ngàn, nhưng là lớp lớp người từ đời này sang đời khác. Hóa ra phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều là để hướng lòng ta về chính Bánh là của ăn muôn đời trường tồn, là Bánh bất tử đưa ta vào sự sống nhiệm mầu và vĩnh cửu của Thiên Chúa. Bánh ấy chính là Thịt máu Chúa Kitô.
Bữa ăn Thánh Thể do Thiên Chúa dọn cho chúng ta là một cuộc hạ sinh mới trong lòng người. Nếu đã có lần Chúa Giêsu sinh ra trong trần gian một cách thể lý, thì cuộc sinh hạ của Chúa trong lòng người ta là một cuộc sinh hạ không ngơi nghỉ. Mỗi khi ta rước Chúa Giêsu vào tâm hồn mình, là mỗi lần Chúa chấp nhận giáng sinh lại trong lòng ta. Người chấp nhận làm điều đó không nhằm lợi ích cho riêng mình, nhưng cho chính chúng ta. Vì các của ăn phàm trần, khi ăn vào, sẽ biến thành máu thịt ta, nhưng ăn Máu Thịt Chúa Giêsu, ta được “Thiên Chúa hóa”(ngôn ngữ chuyên môn của thần học gọi là “thần hóa”), nghĩa là trở nên giống Chúa hơn. Người sẽ ban cho ta sức mạnh của lòng tin, của tình mến để ta tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa, vững vàng trước mọi cám dỗ, không sa ngã và bảo vệ đức tin của mình thành toàn. Tắt một lời, Người hạ sinh trong lòng ta qua bí tích Thánh Thể để ta ngày một nên thánh thiện như Người.
Trên mọi bữa ăn, Thánh Thể là bữa ăn của hiệp thông trong tình yêu. Cuộc hiệp thông trong tình yêu này là một cuộc hiệp thông lớn lao đến mức tuyệt vời: Thiên Chúa tìm đến viếng thăm tâm hồn người thế và con người được diễm phúc đón nhận chính Thiên Chúa vô cùng cao cả ấy. Cuộc hiệp thông ấy lớn đến mức tuyệt vời nằm ở chỗ: siêu nhiên đến với tự nhiên, Thánh ở với người, cái vô cùng ở cùng cái hữu hạn. Một cuộc hiệp thông lớn đến thế, chỉ có thể thực hiện bởi tình yêu của Thiên Chúa mà thôi. Ngoài tình yêu ấy, không còn một sự hiệp thông nào sánh ví.
Một cuộc hiệp thông cao cả như vậy, mang lại giá trị cho con người. Bởi Thiên Chúa đã không trao ban bất cứ một cái gì ngoài Người, nhưng là trao ban chính Con Một của mình cũng là Thiên Chúa của chúng ta. Vì thế, nơi cuộc hiệp thông được thực hiện trong tình yêu của Chúa, chúng ta kín múc nguồn hạnh phúc là chính Thiên Chúa, Đấng Tuyệt Đối. Có ai ngờ, nơi bí tích Thánh Thể, loài người bé nhỏ là thế, lại được gần Thiên Chúa đến nỗi nên một trong nhau. Do đó, loài người không còn chỉ là tạo vật đơn thuần, nhưng là tạo vật mang chiều kích vĩnh cửu.
Lãnh nhận tình yêu hiệp thông nơi bí tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi sống yêu thương và hiệp thông với anh chị em của mình. Kinh Tạ Ơn II nói lên điều đó: “Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình và Máu Đức Kitô”. Hoặc kinh Tạ Ơn III: “Khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người, xin cho chúng con trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô”.
Lời cầu xin ơn hiệp thông khi cử hành Thánh Thể phải được cả cộng đoàn sống và áp dụng trên từng cá nhân. Chính vì điều này ta có thể nói, để đánh giá sức sống của một cộng đoàn Thánh Thể, tiêu chuẩn đúng nhất là sự hiệp thông, duy nhất nơi cộng đoàn đó. Một cộng đoàn chia rẽ không thể nói về “một thánh lễ sốt sắng”. Cũng như mỗi thành viên trong gia đình mà chia rẻ, rạn nứt, gia đình đó, dù chuyên chăm tham dự thánh lễ, lãnh bí tích Thánh Thể đến đâu, vẫn là gia đình đánh mất ơn hiệp thông, lẽ ra phải có, nhờ Thánh Thể Chúa Kitô.
Chúng ta có những bữa cơm hằng ngày, có khi đạm bạc, có khi sang trọng. Những bữa cơm ấy là nơi gặp gỡ và nuôi dưỡng tình gia đình, tình bạn, tình lối xóm, và biết bao nhiêu thứ tình cần thiết trong cuộc sống.
Trong chiều kích thánh thiêng của tâm hồn, chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể, để múc lấy tình yêu của Thiên Chúa. Từ đó sống với anh chị em quanh mình. Tình yêu nơi bàn tiệc Thánh Thể không đơn thuần nuôi dưỡng tình con người, nhưng đi một bước cao hơn: thánh hóa mọi tình yêu nhân loại, vĩnh cửu hóa tình yêu ấy. Tình yêu nơi bàn tiệc Thánh Thể còn thần hóa những người yêu nhau và biến họ nên đồng hình, đồng dạng với Chúa Kitô.
Vì thế, mỗi một lần rước Chúa Giêsu Thánh Thể, bạn và tôi xin Người ban cho mình được chìm ngập trong tình yêu của Người, để nên một với Thiên Chúa và với anh chị em.
1) Ý CHÍNH:
Thánh Luca thuật lại phép lạ Đức Giêsu nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Trước nhu cầu của đám đông, các môn đệ đề nghị giải tán để mỗi người tự lo liệu đồ ăn chỗ ngủ của mình. Nhưng Đức Giêsu lại truyền cho các ông: “Anh em hãy liệu cho họ ăn đi”. Sau đó, các ông chỉ kiếm được năm cái bánh và hai con cá. Nhưng Đức Giêsu đã xử dụng số lượng ít oi này để nhân ra nhiều gấp bội mà cho dân chúng được ăn no. Số bánh dư thu lại được mười hai thúng. Số người ăn hôm ấy khoảng chừng 5000 người đàn ông.
2) CHÚ THÍCH:
– Khi ấy, Đức Giêsu nói với dân chúng về Nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được chữa. Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giêsu thưa Người rằng: “Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng”(Lc 9,11b-12):
+ Đức Giêsu nói với dân chúng về Nước Thiên Chúa: Nước Thiên Chúa hay Nước Trời là trọng tâm các bài giảng của Đức Giêsu. Luca nhắc đến bài giảng trước phép lạ nhân bánh ra nhiều là nhằm ám chỉ đến Thánh Lễ Giáo Hội cử hành sau này có hai phần chính là Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể.
+ Chữa lành những kẻ cần được chữa: Lời giảng luôn được kèm theo phép lạ chữa bệnh. Đó là đặc điểm cách thức truyền giảng Tin Mừng của Đức Giêsu và là khuôn mẫu cho Giáo Hội về phương cách truyền giáo sau này.
+ Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn: Câu nói của các môn đệ cho thấy: Tuy quan tâm đến nhu cầu ăn uống ngủ nghỉ của dân chúng, nhưng các ông không muốn lãnh trách nhiệm giúp đỡ họ cách cụ thể.
– Đức Giêsu bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Các ông đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá. Trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này”. Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy bảo họ ngả mình thành từng nhóm khoảng năm mươi người một”(Lc 9,13-14):
+ “Chính anh em hãy cho họ ăn”: Đức Giêsu trao trách nhiệm cho các môn đệ là phải lo phục vụ dân chúng cả về thể xác nữa. Đây cũng là lệnh truyền cho các tín hữu hôm nay là không những phải thương yêu về linh hồn mà còn phải thương yêu cả về thể xác nữa như kinh thương người có mười bốn mối, trong đó có thương xác bảy mối như sau: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, chôn xác kẻ chết.
+ “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”: Bánh và cá là thức ăn thường ngày của dân chúng miền Galilê. Năm chiếc bánh và hai con cá là của một bé trai (x. Ga 6,9). Số lượng thức ăn này là quá ít so với số đông dân chúng. Điều này nói lên khả năng hữu hạn của các môn đệ. Nhưng Đức Giêsu lại muốn xử dụng sự cộng tác nhỏ bé này để làm phép lạ lớn lao.
+ Anh em hãy bảo họ ngả mình thành từng nhóm khoảng 50 người một: Có bản dịch ngả mình thành từng giường. Từ ngữ diễn tả thói quen của người xưa ở Cận Đông: người ta lấy tư thế nằm nghiêng khi ăn uống.
+ họp thành từng nhóm: Gợi lại kỷ niệm việc Môsê tổ chức dân Do thái trong sa mạc thời kỳ xuất hành. Đây được coi như cách tổ chức lý tưởng của dân Thiên Chúa (x. Xh 18,21.25). Ở đây nói lên ý Đức Giêsu muốn các môn đệ tổ chức đám đông ô hợp thành từng cộng đoàn. Các ông trở nên những “thừa tác viên”phục vụ cộng đoàn.
– Các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngả mình xuống. Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, để các ông dọn ra cho đám đông. Mọi người đều ăn và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, ngươi ta thu lại được mười hai thúng (Lc 9,15-17):
+ Các môn đệ làm y như vậy: Các môn đệ có nhân đức vâng lời: Mau mắn làm theo lời Đức Giêsu dạy, dù lúc ấy các ông chứ biết Đức Giêsu sắp làm gì.
+ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá…: Theo phong tục của người Do Thái: trước bữa ăn, người gia trưởng thường đọc một kinh cảm tạ Thiên Chúa về những ơn lành Chúa đã ban. Ở đây Đức Giêsu cũng làm việc cầu nguyện này bằng các nghi lễ phụng vụ Thánh Thể: Cầm lấy bánh, ngước lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ. Những cử chỉ này giống như khi Người lập Bí Tích Thánh Thể tại phòng Tiệc Ly vào tối thứ Năm Thánh (x. Lc 22,19) và trong bữa ăn với hai môn đệ tại làng Emmau (x. Lc 24,30).
+ Trao cho các môn đệ, để các ông dọn ra cho đám đông: Ở đây các môn đệ đóng vai trò trung gian giữa Đức Giêsu và dân chúng. Ngày nay các linh mục cũng có vai trò như vậy trong các cộng đoàn và các xứ đạo.
+ Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê…Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng: no nê và miếng thừa ở đây nói lên sự dồi dào của đồ ăn. Điều này gợi lên bữa tiệc Thiên Sai mà Isaia đã báo trước: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon”(Is 25,6). 12 thúng đầy tương ứng với 12 môn đệ khi nó đang phục vụ dân chúng. Các môn đệ thu nhặt lại là để gợi ý rằng bữa ăn này sẽ được mở rộng để đón những thực khách đông đảo hơn nữa sau này.
1) LỜI CHÚA: “Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông”(Lc 9,16):
2) CÂU CHUYỆN 1: “Mình Thánh ở trong lòng tôi”.
Thời kỳ cách mạng Pháp, một cha xứ miền Bờ-ta-nhờ (Bretagne) đưa Mình Thánh Chúa cho một gia đình, đi theo giúp cha là một cậu bé tên là Ben-gia-min (Benjamin). Bấy giờ cha xứ bị bọn lính canh phát hiện đuổi theo. Ngài vội trao Mình Thánh đựng trong một hộp nhỏ cho cậu bé. Sau đó cha bị bắt và bị giết chết. Cậu bé Ben-gia-min vừa chạy trốn vừa mở hộp ra rước Mình Thánh Chúa. Sau đó cậu cũng bị bắt và bị tra hỏi nơi cất giấu Mình Thánh Chúa. Cậu hiên ngang chỉ tay vào người mình mà nói rằng: “Mình Thánh đang ở trong lòng tôi đây Các ông hãy mổ ra mà lấy”. Bọn lính điên tiết liền đâm chết cậu bé và chôn vùi sơ sài hai xác chết ở dưới gốc cây sồi cổ thụ. Một thời gian sau, khi cuộc cách mạng bị thất bại, một hôm một cơn lốc đã đánh đổ cây sồi kia, để lộ ra hai xác chết của cha xứ và cậu bé giúp lễ. Người ta cũng phát hiện ra Mình Thánh Chúa vẫn đang còn sáng ngời trên thân xác cậu bé.
3) CÂU CHUYỆN 2: Ngày hạnh phúc nhất là ngày Rước Lễ Lần Đầu
Khi hoàng đế Napoléon của nước Pháp, người đãtừng chinh phục cả Au châu, bị thua trận và bị đày sang đảo Xanh Hê-len (Sainte Hélène), cùng đi theo ông là một nhà chép sử. Người viết tiểu sử này luôn để ý ghi nhận mọi chi tiết xảy ra trong cuộc đời của ông vua Napoléon. Một hôm, khi biết ngày cuối cùng của Napoléon sắp đến, và vào lúc ông ta vui vẻ thoải mái nhất, người viết sử kia mới hỏi hoàng đế rằng: “Thưa ngài, xin ngài cho biết trong cuộc đời của ngài, khi nào ngài cảm thấy được hạnh phúc nhất?”. Nghe xong câu hỏi, Napoléon không vội trả lời, ông ra đứng bên cửa sổ nhìn ra biển xanh ở xa xa một hồi lâu, rồi thở dài và quay lại nói với người viết tiểu sử rằng: “Trẫm nhớ ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời của trẫm không phải là ngày trẫm lên ngôi hoàng đế, cũng không phải là ngày trẫm dành chiến thắng trong các trận đánh ở Au châu hay Bắc Phi. Ngày ấy đã xảy ra từ khi trẫm còn bé, cách đây đã lâu lắm rồi. Đó chính là ngày trẫm được Rước lễ Lần Đầu”.
SUY NIỆM:
+ Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Chúa Giêsu. Người đã thiết lập bí tích này trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ trước khi chịu khổ nạn. Tấm bánh trở thành Mình Người sau lời truyền phép: “Này là Mình Thầy…Hãy cầm lấy mà ăn”. Chén rượu trở thành chén Máu Người sau lời phán: “Này là chén Máu Thầy…Hãy cầm lấy mà uống”. Cuối cùng Người còn truyền cho các Tông đồ: “Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy”. Từ đó, Giáo Hội đã vâng lời Chúa cử hành Bí Tích Thánh Thể trong Thánh Lễ. Thánh lễ chính là bữa tiệc thánh với hai của ăn là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, và là một nghi thức để tưởng nhớ sự chết và sống lại của Người.
+ Người ta không thể tách rời Thánh Lễ với cái chết của Chúa Giêsu dựa vào lời Người: “Đây là Mình Thầy sắp bị nộp…Đây là chén Máu Thầy sắp đổ ra vì anh em”. Rước lễ là rước Đấng đã chịu chết vì loài người và là sự hiệp thông vào cái chết của Chúa Giêsu.
+ Mỗi phút giây qua đi, có biết bao tấm bánh được bẻ ra để nuôi sống thân xác con người. Trong mỗi tấm bánh ấy, chúng ta thấy có bóng dáng của tấm bánh Mình Thánh Chúa. Nếu ta siêng năng lãnh nhận bánh Mình Chúa trên bàn thờ, chúng ta sẽ dễ dàng chia sẻ tấm bánh vật chất cho tha nhân. Mỗi lần tham dự Thánh Lễ, chúng ta hãy dâng lên Chúa những sự vất vả lao nhọc, những đau khổ về thể xác cũng như tâm hồn, những người thân yêu ruột thịt và những người bệnh tật nghèo khó…như lễ vật. Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần sẽ biến những lễ vật đó trở nên Bánh Thánh nuôi dưỡng đức tin của chúng ta và đem lại ơn cứu độ muôn đời cho chúng ta.
5) THẢO LUẬN: Thánh Lễ là một bữa tiệc thánh. Vậy khi tham dự Thánh lễ, chúng ta phải ăn mặc thế nào cho xứng đáng? Cần đến sớm hay trễ? Cần ngồi trong nhà thờ hay đứng ngoài canh giữ xe và nói chuyện với nhau? Khi dự lễ cần giữ thái độ nào: nghiêm trang hay hút thuốc, đùa nghịch? Cần Rước lễ thế nào: sốt sắng hay máy móc chiếu lệ?
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
Suy niệm về Bí tích Thánh Thể, các bài Tin Mừng của chu kỳ phụng vụ trình bày những góc cạnh khác nhau về việc Chúa Giêsu ban Mình và Máu Thánh Người cho nhân loại. Năm A, với bài Tin Mừng Gioan 6:51-58, ta lắng nghe lời giảng của chính Chúa Giêsu nói về ý nghĩa và hiệu quả của Thánh Thể. Bài Tin Mừng năm B (Mc 14:12-16.22-26) kể lại chính biến cố Chúa lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc ly. Năm nay (C), bài Tin Mừng Luca kể lại phép lạ Chúa làm cho bánh hóa nhiều nuôi đám đông dân chúng và các Tông đồ giúp Chúa phân phát bánh cho họ. Ta thử tìm hiểu ý nghĩa của phép lạ này và suy nghĩ về bữa tiệc Thánh Thể của toàn thể Giáo Hội mà ta tham dự.
1) “Dân chúng đi theo Người… Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa”
Chúa Giêsu sai các Tông đồ đi tập sự loan báo Tin Mừng trong một thời gian. Khi trở về, họ vui vẻ thuật lại cho Người những gì họ đã thực hiện. Nhưng con đường huấn luyện còn dài và các ông còn cần rất nhiều những chỉ bảo dạy dỗ. Do đó, Chúa Giêsu đưa các ông về Bét-xai-đa, tránh xa đám đông dân chúng để các ông có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm tông đồ và học hỏi thêm. Thế mà dân chúng cũng biết được Người đang ở đâu và tìm đến với Người.
Dân chúng đi theo Người vì nhiều lý do. Một đàng Chúa Giêsu có quyền lực thu hút dân chúng. Đàng khác dân chúng có những nhu cầu chỉ có Chúa Giêsu mới có thể giúp họ được thỏa đáng. Giữa Chúa Giêsu và dân chúng đã bắt đầu có một mối quan hệ, quan hệ giữa Mục Tử nhân lành và đoàn chiên. Trong quan hệ ấy, họ cần đôi tay giang rộng của Chúa để tiếp đón họ, lắng nghe những thao thức trăn trở của họ. Họ cần nghe được một giáo lý mới mẻ đem lại cho họ luồng sinh khí mới, chứ không phải mớ luật lệ nặng nề máy móc như họ vẫn thường phải nghe và tuân giữ. Họ có bao nhiêu vết thương cần được chữa lành, vết thương thể xác do bệnh tật hay lam lũ, vết thương tinh thần do mất mát đổ vỡ trong cuộc sống hoặc bị xã hội áp bức bất công. Trong hoàn cảnh ấy, Chúa Giêsu đã cảm thông với họ bằng trái tim của Thiên Chúa. Thánh sử mô tả Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh đối với dân chúng như thế nào: “Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa” (Lc 9:11).
Đối với các Tông đồ, các ông vừa thực tập việc tông đồ nên đã bắt đầu biết theo gương Thầy, quan tâm tới người khác. Nhưng các ông chỉ có thể đưa ra những sáng kiến hợp lý và trong tầm mức loài người thôi. Giải pháp tốt nhất các ông đề nghị để giải quyết vấn đề của dân chúng lúc này là “Xin Thầy cho đám đông về” để họ tự lo cho những nhu cầu ăn uống ngủ nghỉ của họ. Tuy nhiên lòng nhiệt thành rao giảng Tin Mừng của Chúa và lòng khao khát đón nhận Tin Mừng của dân chúng còn to lớn hơn cả những nhu cầu cấp thiết của họ nữa. Vì thế, Chúa có lối giải quyết của Người.
2) “Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá…”
Ta cứ tưởng tượng ra khung cảnh hơn năm ngàn người, chưa kể đàn bà và trẻ em, yên lặng và trang nghiêm ngước mắt nhìn lên Chúa Giêsu. Trước khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, Người không hô hoán phù phép như một ảo thuật gia, cũng không nghênh ngang đắc chí như một người ban phát ân huệ cho đám lê dân. Nhưng Người có những cử chỉ cung kính, trân trọng và cầu nguyện: “ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông”, đúng như một bữa ăn gia đình Do-thái.
Phong cách ấy được lập lại trong bữa Tiệc Ly khiến ta xác tín phép lạ hóa bánh ra nhiều này là hình bóng báo trước biến cố trọng đại Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Đám đông dân chúng là hình ảnh Giáo Hội, với những người anh chị em có những nhu cầu chỉ Chúa Giêsu mới đáp ứng cho họ. Không chỉ là những nhu cầu “tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn”, nhưng là những nhu cầu thiêng liêng, đói khát lời Chúa và tình yêu Thánh Thể của vị Mục Tử nhân lành. Giáo Hội quây quần chung quanh bàn tiệc Thánh Thể, để đón nhận lời Chúa và rước lấy Mình Máu Thánh Chúa làm lương thực. Cũng giống như đám đông dân chúng ngày xưa đi theo Chúa cần đến phép lạ bánh và cá hóa nhiều, thì Giáo Hội mọi thời cũng cần Thánh Thể trong cuộc hành trình theo Chúa đi về nhà Cha. Phép lạ bánh hóa nhiều chỉ xảy ra một hoặc hai lần, nhưng phép lạ bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu thì xảy ra từng giờ từng phút khắp nơi trên mặt đất khi các linh mục dâng Thánh Lễ.
Về phép lạ hóa bánh ra nhiều, thánh Luca đã ghi lại sự phong phú dư dật của bữa ăn lạ lùng: “Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng”. Suy nghĩ về sự phong phú của Bí tích Thánh Thể, ta có thể cảm nghiệm được tình yêu của Chúa bao la như thế nào. Sự phong phú này được thể hiện qua mỗi Thánh Lễ, giúp ta nhớ lại lời Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Tình yêu của Thiên Chúa đầy tràn đến độ không những Người sai Con Một đến ở giữa nhân loại, mà Người Con ấy còn tự nguyện ở lại với họ mọi ngày cho đến tận thế. Cùng với tình yêu của Thiên Chúa, ta cũng nhận ra tình yêu của con người. Đến với Bí tích Thánh Thể và Thánh Lễ, mọi người lãnh nhận tình yêu của Chúa, nhưng cũng sẵn sàng biểu lộ tình yêu thương nhau, để sự phong phú tình yêu được lan tràn theo mọi chiều kích dọc ngang.
3) “Chính anh em hãy cho họ ăn”
Thánh Thể là phương cách biểu lộ tình yêu. Chúa Giêsu muốn ở gần ta nên Người chọn phương cách này để làm thỏa mãn cơn đói Thiên Chúa của ta. Người truyền dạy các môn đệ: Chính anh em hãy cho họ ăn. Trong tinh thần chia sẻ “cùng một bánh và một chén”, Bí tích Thánh Thể đưa ta đến hành động. Nếu ta đã được phúc lãnh nhận tình yêu Thiên Chúa, thì đến lượt ta cũng phải chia sẻ tình yêu đó với anh chị em. Dĩ nhiên, vốn liếng tình yêu của ta thật nghèo nàn, giống như các Tông đồ “chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”. Nhưng Chúa chỉ cần có thế thôi, Người sẽ sử dụng sự nghèo nàn của ta để thực hiện sự phong phú của Bí tích Thánh Thể.
Điều quan trọng khác để ta sống Bí tích Thánh Thể là ta có biết nhận ra sự đói khát của anh chị em hay không. Các Tông đồ đi theo Chúa nên đã học theo gương Chúa lo lắng cho tha nhân. Các ông đã nhận ra được những nhu cầu của dân chúng, dù chỉ là những nhu cầu vật chất. Dần dần, họ nhận ra những nhu cầu tinh thần và thiêng liêng của nhân loại và đã ra đi thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Cũng vậy, nếu ta không uốn nắn con tim và tập nhạy cảm trước những nhu cầu của anh chị em, ta sẽ không thể nhận ra được những nhu cầu ấy. Những người đi theo Chúa đâu có kêu ca với các Tông đồ là họ đang đói lắm. Thế mà các ông nhận ra được. Tình yêu đích thực luôn nhìn thấy trước được những nhu cầu người khác chưa nói lên.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thánh Lễ là bữa tiệc của toàn thể Giáo Hội. Nhưng tôi có ý thức tầm quan trọng của Thánh Lễ không? Tôi có sống ngoài vòng liên kết tình yêu của Thánh Thể không?
Thánh Thể liên kết tôi với Chúa và tôi với anh chị em. Vậy sự liên kết ấy đòi tôi phải làm những gì cho Chúa và cho anh chị em?
“Chính anh em hãy cho họ ăn” có phải là một mệnh lệnh quá đáng đối với tôi không? Tôi đã làm được gì để xoa dịu cơn đói tinh thần của anh chị em?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đến với chúng con
dưới dạng tấm bánh bình thường.
Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi.
Tấm bánh hiện diện là để phục vụ con người.
Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé,
có thể bị ẩm mốc làm hư hoại,
và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu, có cái gì tương tự
giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa.
Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay:
đơn sơ, khiêm hạ,
không chút vinh quang hay quyền lực.
Nhờ ăn tấm bánh của Chúa,
chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon,
được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người.
Ước gì chúng con dám rước Chúa
đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình,
để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên.
Và ước gì chúng con trở thành
những Nhà tạm di động,
đem Chúa đến cho đồng bào
và quê hương chúng con. A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 106)
THÁNH LỄ NỐI DÀI GIỮA LÒNG NHÂN LOẠI
Trên đường về thành Bétxaiđa, đám đông dân chúng tuôn đến với Chúa Giêsu để nghe lời Người giảng dạy. Cùng với Chúa Giêsu, các môn đệ và đám đông, chúng ta đang ở nơi đồng vắng – nơi sẽ xảy ra phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi sống dân chúng. Sự kiện Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều không chỉ đơn thuần là một phép lạ, mà còn là một một lời loan báo cho tương lai: nhân loại sẽ được dưỡng nuôi bằng bàn tiệc Thánh Thể trong đó nhiệm thể Chúa Kytô trở nên Linh dược Thần linh nuôi sống nhân trần.
Giữa nơi hoang vắng, ngày lại sắp tàn và với một lượng người quá đông đã khiến các môn đệ lo lắng. Các ông lo lắng là phải. Bởi các ông biết rằng đối với đám đông, các ông cũng có một vai trò nhất định nào đấy. Một điều dễ hiểu là để lời Thầy được thính giả lãnh hội thì công việc của các môn đệ trong vấn đề tổ chức chẳng dễ dàng gì. Chính vì thế, giữa đồng không hiu quạnh, các ông lo cho số phận của năm ngàn con người sẽ ra sao khi đêm về mà không có gì lót dạ. Lương thực dự trữ bấy giờ chỉ vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá. Thật chẳng thấm vào đâu với số người quá đông như thế. Vì thế, theo các ông, cách tốt nhất là giải tán đám đông, cho họ về nhà, nhẹ gánh nặng, thầy trò còn có thời gian nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc. Hợp lý quá đi chứ. Nhưng Chúa Giêsu không nghĩ như vậy. “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Tâm trạng của các ông có lẽ bực bội hơn là ngạc nhiên. Chúng con cho họ ăn ư? Ồ không đâu, thưa Thầy. Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá? Chỉ còn cách là chúng con đành phải lặn lội vào nơi gần nhất để mua lương thực cho ngần ấy người mà thôi. Chúa Giêsu không để các ông phải khổ sở với suy nghĩ rất ư bình thường như vậy. Điều Chúa muốn các ông làm là hãy bảo đám đông quy tụ từng nhóm năm mươi người, nằm ngã xuống và phân phát bánh cho họ.
Khi đám đông dân chúng đã ngã mình trên đồng vắng, nghĩa là như Israel xưa trong sa mạc, họ không còn lạc lõng, bơ vơ, tản mát nữa, tất cả đều được quy tụ trở thành cộng đoàn cùng nhau dự tiệc- một hình ảnh loan báo cho một dân tộc mới được mời gọi vào dự Tiệc cánh chung của Thiên Chúa, khi đó kẻ nghèo sẽ được ăn uống thoả thuê- Chúa Giêsu mở đầu bữa tiệc này theo đúng phong tục của người Dothái, nghĩa là bằng lời chúc tụng. Một điều thú vị là nếu đối chiếu với bản văn Tin mừng hôm nay với bản văn bữa Tiệc ly và bữa tiệc Emmau, chúng ta sẽ thấy 4 động từ sau đây như là nét đặc trưng của việc dâng lễ tạ ơn. Đó là việc Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ. Có khác chăng là ở đây là lời chúc tụng, còn trong bữa Tiệc ly là lời Tạ ơn (x. Lc 22, 19;24, 30). Như thế phép lạ hoá bánh ra nhiều không chỉ cho thấy Chúa Giêsu chính là vị Ngôn sứ vượt trên mọi ngôn sứ của thời đại, như ngôn sứ Êlia xưa đã nuôi 100 người bằng 20 chiếc bánh lúa mạch (x. 2V 4, 42-44) mà còn có quyền năng trong việc quy tụ và nuôi sống dân Thiên Chúa. Chúa Giêsu còn cho chúng ta thấy chính Người là hình ảnh của Thiên Chúa đến trần gian để yêu thương con người, săn sóc và nuôi dưỡng họ bằng phương cách họ không thể ngờ. Hôm nay chính Người đã ban tặng cho họ ân huệ cao vời, đã nuôi sống họ cách dư dật.
Như ngôn sứ Êlia xưa, Chúa Giêsu hôm nay cũng dựa trên năm chiếc bánh và hai con cá của đám đông dân chúng hiến dâng để nuôi sống họ. Bí tích Thánh Thể mà chúng ta tham dự mỗi ngày cũng vậy. Chính chúng ta cũng phải dâng hiến năm chiếc bánh và hai con cá, tức là những hy sinh, những đau khổ, bình an và hạnh phúc của cuộc đời lên cho Thiên Chúa. Năm chiếc bánh và hai con cá thật chẳng đáng là gì trước một đám đông đang đói lả, nhưng đó lại chính là phương tiện cần thiết để Chúa thi ân giáng phúc. Cũng vậy, với quyền năng, Chúa Kytô sẽ biến đổi, hiến thánh sự đói nghèo của chúng ta, Người sẽ tiến dâng lên Chúa Cha cuộc sống và những việc làm dù rất nhỏ bé của chúng ta trở nên điều thiện hảo mưu ích cho muôn người.
Bí tích Thánh Thể chính là việc Thiên Chúa muốn quy tụ, mời gọi và đón nhận mỗi người chúng ta vào dự Tiệc với Người. Bữa tiệc đó rất cụ thể, rất sinh động và sinh muôn ơn ích. Bàn tiệc mà chúng ta tham dự không đơn thuần là một bữa tiệc thông thường, mà là một bữa Tiệc Sự Sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến kín múc nơi bàn tiệc Thánh Thể để toàn thể con người chúng ta qua việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kytô, chúng ta được hiệp thông cách trọn vẹn với Thiên Chúa, được sống chính đời sống Thần linh của Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể còn là một lời mời gọi chúng ta can đảm lên đường, đến với thế giới đang chia rẽ, đến với đồng loại đang đói nghèo, đau khổ, bệnh hoạn tù đày để liên kết, an ủi, nâng đỡ và cưu mang họ. Xin Chúa thánh hoá và biến đổi chúng ta hầu cuộc đời chúng ta mãi mãi là Thánh lễ nối dài giữa lòng nhân loại.
(Suy niệm của Lm. Giuse Vinc. Ngọc Biển)
Khi diễn tả hành vi của tình yêu cho người mình thương mến, chúng ta thường trao cho họ những kỷ vật để làm bằng chứng về tình yêu mà mình muốn dâng hiến. Với người đón nhận thì tặng vật đó không chỉ đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng nó còn là sự hiện hữu của chính người tặng quà.
Cũng vậy, khi Chúa Giêsu đến trần gian để cứu độ con người, và khi biết mình sắp trở về với Đấng đã sai mình, Người đã yêu thương họ đến cùng, Người cũng để lại cho Giáo Hội một bảo chứng để diễn tả tình yêu tuyệt đối của Người cho nhân loại, đó là Bí tích Thánh Thể.
Vì vậy, Bí tích ThánhThể là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (x. LG, số 11). Thật vậy, trải qua bao thế hệ, Giáo Hội luôn coi Bí tích Thánh Thể là gia tài của mình, nơi đó tuôn chảy và phát xuất ra mọi năng lực của Giáo Hội (x. Porta Fidei, số 9).
Khi thiết lập Bí tích này, Chúa Giêsu hiện diện trực tiếp để trở nên của ăn, của uống nuôi linh hồn con người. Đồng thời Người cũng muốn mọi người khi đã rước Mình và Máu Người thì cũng được liên kết, hiệp thông với nhau trong cùng một tinh thần.
Thật vậy, mỗi khi chúng ta tham dự Tiệc Thánh Thể, ấy là những lúc chúng ta sống trong sự hiệp thông sâu xa với Chúa và với nhau. Khi rước lễ, chúng ta đón nhận chính Chúa Giêsu. Mà Chúa Giêsu là Đầu của Giáo Hội thì chúng ta cũng được hiệp thông với nhau trong Chúa Giêsu với tư cách là thân mình của Người. Sự hiệp thông này gợi lại cho chúng ta lời cầu nguyện của chính Chúa Giêsu: “Như, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong Chúng Ta, như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con.” (Ga 17,21).
Trong Kinh Tiền tụng Thánh Thể cũng nhắc lại cho chúng ta ý nghĩa này: “Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần.” Công thức này cho thấy rõ ràng hiệu quả của Bí tích Thánh Thể: là sự hiệp nhất của các tín hữu trong sự hiệp thông với Giáo Hội. Như thế Bí tích Thánh Thể tỏ hiện là nền tảng của Giáo Hội – mầu nhiệm hiệp thông.
Trong Thông điệp Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể, Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển rõ ràng và sâu xa, giúp toàn thể Giáo Hội sống hiệp thông với Chúa. Ngài viết:
“… Thánh Thể xuất hiện như là đỉnh cao của tất cả các Bí tích, vì nó làm cho nên hoàn thiện mối hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa Cha, bằng cách đồng hoá với Người Con yêu dấu duy nhất của Người nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần.”
Để sự hiệp thông được lớn lên, cần có đời sống ân sủng, nhờ đó chúng ta trở nên “những người thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Cũng vậy, khi pha chút nước vào rượu, linh mục dâng lời nguyện để nói lên sự thông phần đó: “Nhờ dấu chỉ nước hoà rượu này, xin cho chúng con được tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con.”
Khi chúng ta hiệp thông với Chúa Giêsu, thì cũng có nghĩa là chúng ta hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa. Khi chúng ta được sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa thì cũng là lúc chúng ta hiệp thông với nhau cách trọn vẹn. Thánh Augustinô đã làm nổi bật sự thông phần vào bản thể của Thánh Thể khi nói: “Nếu anh em là thân thể Đức Kitô, là chi thể của Người, anh em sẽ thấy đặt trên bàn của Chúa mầu nhiệm của anh em. Vâng, anh em sẽ nhận lãnh mầu nhiệm của chính mình.” Từ những lập luận trên, ngài đã kết luận như sau: “Chúa Kitô… đã thánh hiến trên bàn thờ mầu nhiệm bình an và hiệp nhất của chúng ta. Bất cứ ai nhận lãnh mầu nhiệm hiệp nhất mà không duy trì những mối giây hòa bình thì không nhận lãnh mầu nhiệm của Người để được cứu độ, nhưng nhận lãnh một bằng chứng chống lại chính mình.” (x. EDE 34…).
Thật thế, khi ta đón nhận Bí tích Thánh Thể cách xứng đáng là ta đi vào mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội. Đây chính là một trong những đặc tính “duy nhất” của Giáo hội Công giáo. Sự hiệp thông ấy trước tiên là với Đức Giáo hoàng.
Trong những ngày này, toàn thể Giáo Hội thể hiện sự hiệp thông đó qua việc hưởng ứng lời mời gọi của Đức Giáo hoàng hướng về Thánh Thể như là sự hiệp thông tuyệt hảo. Đây là nền tảng vĩnh cửu và hữu hình, bởi vì: mọi cuộc cử hành thành sự Bí tích Thánh Thể đều diễn tả sự hiệp thông phổ quát này với vị đại diện Chúa Kitô và là người kế vị Thánh Phêrô. Hiệp thông với ngài là hiệp thông với toàn thể Giáo Hội… Chính vì sự hiệp thông mầu nhiệm này, mà trong “Năm Đức Tin”, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI trong Tông thư “Porta fidei”, đã kêu gọi toàn thể Giáo Hội chầu Thánh Thể vào ngày mồng 2-6 tại Giáo phận Rôma và các giáo phận trên toàn thế giới. Tại Rôma, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ cử hành vào lúc 17 giờ (giờ Rôma), tức 22 giờ (giờ Việt Nam). Sự kiện này cho thấy tính hoàn vũ và tinh thần hiệp thông sâu rộng. Khi cử hành việc tôn sùng Thánh Thể cách công khai và mang tính hoàn vũ như thế, Giáo Hội muốn nhắc cho chúng ta nhớ lại những hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua Bí tích Thánh Thể; đồng thời mời gọi chúng ta tôn thờ sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể và sống đặc tính Bí tích này qua sự hiệp thông.
Tầm nhìn hoàn vũ của thời điểm này đã trở thành một cử chỉ chia sẻ thiêng liêng nhằm hiệp thông với vị Đại diện Chúa Kitô để cầu nguyện cho Giáo Hội, để dâng lời cảm tạ vì hông ân đức tin Chúa đã ban, để trao phó Giáo Hội cho sự hướng dẫn của Đấng “khởi đầu và kiện toàn lòng tin”.
Quả thật, bánh và rượu được chọn làm lễ vật là bởi vì nội tại nơi những lễ vật này nhắc ta tính cộng đồng. Mỗi tấm bánh được kết tinh từ trăm ngàn hạt lúa mì; cũng vậy, ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép trong máy và hoà tan với nhau. Hai hình ảnh này tiên trưng cho tính cộng đồng khi cùng nhau hiệp dâng thánh lễ trên bàn thờ.
Chính vì vậy, thật mâu thuẫn tận căn khi chúng ta cử hành Thánh Thể và thiếu đi tính hiệp thông sâu xa này. Bởi vì “Thánh Thể tạo nên sự hiệp thông và cổ vũ sự hiệp thông”. Nói như Thánh Phaolô thì “anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1 Cr 12,27). Hiện nay, trên thế giới, dân số lên đến 6 tỷ 750 triệu người. Nhưng có tới 1/3 người nghèo, tức là hơn 2 tỷ người đang sống dưới mức nghèo khổ. Riêng Việt Nam, trong số 87 triệu người, có 15% dân nghèo không kiếm đủ 1 USD/ ngày. Tuy nhiên, bên cạnh đó, biết bao nhiêu thứ dư thừa và lãng phí được huỷ bỏ ngay trên xác chết của những người đói khát. Rồi những nguồn lực kinh tế thì tập trung vào một số người và tập đoàn, trong khi đó biết bao nhiêu người phải vĩnh biệt cuộc sống chỉ vì thiếu một gói mì chỉ với giá 2.000 VNĐ, hay một ly nước, một viên thuốc. Lại còn biết bao nhiêu tiền bạc đổ dồn vào những quán nhậu, quán bar mỗi khi thành phố lên đèn, số tiền chi trả lên đến bạc triệu sau mỗi cuộc vui chơi trác táng, bên cạnh đó là những Lazarô nghèo đói, ghẻ lở đang bị những con chó đến liếm những mụn nhọt đã ung thối.
Đứng trước thực trạng xã hội đó, là người Kitô hữu, chúng ta đều có trách nhiệm ít nhiều trong việc thăng tiến con người.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy, nếu mỗi người chỉ nghĩ đến cái bụng của mình mà không biết nghĩ đến cho người khác, thì làm sao có 5 chiếc bánh và 2 con cá để Chúa làm phép lạ nuôi dân chúng? Nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá qua sự quảng đại của người hiến tặng, Chúa đã làm một việc cả thể là nuôi 5.000 người, không kể đàn bà và trẻ em. Không phải vì Chúa không làm được phép lạ từ không thành có để nuôi dân chúng, nhưng vì Chúa muốn cho con người sống tinh thần liên đới khi biết đóng góp phần mình trong công việc chung vì ích lợi của người khác.
Như vậy, mỗi người chúng ta hãy biết liên đới với người khác, biết đặt sự sống của mình vào trong hoàn cảnh của họ, để thấy được thế nào là đói khát, đau bệnh và cô đơn… hầu đem lại niềm vui và hạnh phúc đại đồng cho tất cả mọi người.
Mừng Lễ Mình và Máu Cực Thánh Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng ta biết sống mầu nhiệm tự huỷ của hạt lúa, trái nho để đem lại sự sống cho người khác. Xin cho chúng ta cũng biết liên đới với anh chị em chung quanh chúng ta mỗi khi họ cần đến chúng ta để yêu thương, chia sẻ, đồng hành với họ. Được như thế, chúng ta đang làm cho Bí tích Thánh Thể sống động nơi con người và hành vi của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tôn thờ, chúc tụng Chúa. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con khi rước Mình và Máu Thánh Chúa cách xứng đáng, thì cũng được hiệp thông thần tính với Chúa và liên đới với nhau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, dù theo truyền thống văn hóa nào, người ta cũng đều cảm thấy máu của con người có một giá trị thiêng liêng, là phần quan trọng nhất trong cơ thể con người, và nó còn được coi như biểu tựơng của sự sống của con người; những ngày hiến máu nhân đạo được coi như những ngày hội của lòng nhân ái, nhờ những giọt máu của lòng quảng đại ấy mà nhiều người đã được cứu sống. Cũng vậy đối với người Do Thái, máu là thánh thiêng, là biểu tượng của sự sống và thuộc chủ quyền của Thiên Chúa nên không ai được đụng chạm đến máu, vậy mà trong đêm Thứ Năm Tuần Thánh, tại nhà tiệc ly, Chúa Giêsu đã thực hiện một việc lạ lùng, đó là trao ban cho nhân loại Máu và Thịt, và Ngài còn mời gọi: Anh em hãy cầm lấy mà ăn, hãy nhận lậy mà uống, máu ấy vừa có sức tẩy rửa tội lỗi, đem lại sự sống và làm của ăn của uống và là quà tặng muôn đời cho nhân loại.
Chúng ta thường xúc động khi đọc những câu chuyện về những người cha tận tụy hy sinh một đời cho con cái, có những người mẹ đã ở tuổi 70 mà vẫn phải vất vả sớm hôm lo cho những đứa con bệnh tật, có những người cha người mẹ mỗi tháng âm thầm đi bán những giọt máu của mình để có tiền nuôi con, và thuốc men cho con cái. Mừng lễ Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay, chúng ta càng xúc động hơn nữa khi chiêm ngăm tình yêu của Thiên Chúa đã hy sinh đổ máu mình ra để cứu chuộc chúng ta và mời gọi chúng ta xác tín vào Bí Tích Diệu Kỳ này, đồng thời mời gọi chúng ta chiêm ngắm, tôn thờ và đón nhận Mình và Máu Chúa làm lương thực và sức sống cho chúng ta.
Những hình ảnh hy sinh tận tụy của những người cha người mẹ giúp chúng ta dẽ dàng hơn khi suy niệm về tình yêu của một Thiên Chúa yêu thương và hy sinh, kể cả mạng sống cho chúng ta là con cái của Ngài. Đức Giêsu Kitô chính là một vị Thiên Chúa, thế nhưng Ngài không ngự ở trên trời để nhìn xem loài người, nhưng Ngài đã chấp nhận mang lấy thân phận của con người để đến ở với con người và nhất là để có thể yêu thương con người bằng trái tim của một con người. Đó là một Thiên Chúa có tấm lòng chạnh thương trước những nhu cầu và sự đói khổ của nhân loại, Ngài nhìn thấy một nhân loại đang lầm lũi bước đi trong bóng tối của sư chết, Ngài đã đem đến cho họ ánh sánhg của hy vọng và niềm vui của nước trời, Ngài đã chỉ cho họ con đường để đạt đến niềm vui và hạnh phúc đích thực, Ngài còn ra tay cứu chữa những đau khổ thể xác và tâm hồn cho con người. Tin Mừng Maccô còn cho thấy, Chúa Giêsu không chỉ lo lắng cho đời sống thiêng liêng của con người mà Ngài còn chạnh thương cho tình trạng đói nghèo thể xác của họ. Khi thấy đám đông dân chúng đã theo Ngài từ sáng sớm, Ngài không nỡ để họ ra về bụng đói, Ngài đã đề nghị các tông đồ tim kiếm lương thực cho họ, và sau đó Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông hơn năm ngàn người ân no.
Qua phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no đến dư thừa, Chúa Giêsu còn muốn hướng mọi người đến một thứ lương thực cao quý hơn có thể thỏa mãn tất cả những đói nghèo, đau khổ của con người người, mà Chúa Giêsu sẽ ban tặng sau này, đó là việc Ngài đã không chỉ biến bánh ra nhiều mà còn biến bánh trở nên thịt Ngài và biến rượu trở nên máu Ngài làm của ăn của uống nuôi dưỡng nhân loại chúng ta.
Trong thư Corintô, Thánh Phaolô đã thuật lại biến cố long trọng ấy: Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: Đây là Mình Thày, hiến dâng vì anh em, anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thày. Ngài cũng cầm lấy chén và nói: Đây là Máu Thày, anh em hãy cầm lấy mà uống, anh em hãy làm việc này mà nhớ đên Thày. Việc làm này là một hành động vượt sức tưởng tượng của con người, giống như người cha người mẹ, không hề tiếc với con điều gì, kể cả mạng sống, thì Đức Giêsu cũng yêu thương con người chúng ta như vậy, Ngài trao ban tất cả cho chúng ta, trao ban đến cả mạng sống, chấp nhận trở nên của ăn của uống để có thể ở lại với con người, đi vào trong tâm hồn và nên một với người mình yêu thương.
Bí tích Mình Máu Thánh Chúa, chính là một sáng kiến tuyệt với của tình yêu của Chúa Giêsu, vì yêu, Chúa không muốn lìa xa con người nhưng muốn ở lại, và ở cùng con người để tiếp tục yêu thương và nuôi dưỡng con người cho đến ngày tân thế, Ngài còn chấp nhận lệ thuộc vào các tông đồ khi trao cho các ông quyền: Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thày. Với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã cho các tông đồ lặp lại việc biến bánh và rượu là sản phẩm từ lao công của con người trở thành của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha và biến nó trở thành chính thân thể, máu thịt của Chúa Giêsu.
Thưa quý OBACE, mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta cảm tạ về Hông Ân Mình và Máu Thánh mà chúa Giêsu đề lại và trao ban cho chúng ta, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta đừng ngại ngần, mà hãy siêng năng đến cầm lấy mà ăn, cầm lấy mà uống vì đây chính là lương thực nuôi dưỡng đời sống đức tin của chúng ta, và là chính Thiên Chúa Tình Yêu đang ở với chúng ta để nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta trên hành trinh theo Chúa.
Thánh lễ mỗi ngày là nơi mà Giáo Hội thi hành lệnh truyền của Chúa: Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thày, và cũng là lúc Giáo Hội nhân danh Chúa Giêsu để dâng lên Thiên Chúa Cha, chính Mình, Máu và cả con người của Chúa Giêsu đã chịu hiến tế, để xin ơn tha thứ và cứu độ cho nhân loại. Vì vây đến tham dư thánh lễ mỗi ngày, là chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và vâng phục của chúng ta trước tình yêu hy sinh trao hiến của Chúa Giêsu, đồng thời mỗi người đón nhân tình yêu và sư tha thứ từ nới Thiên Chúa Cha. Không những thế, trong thánh lễ, tùy theo phận vụ và ơn gọi của mình mỗi người đến đây sẽ đem theo mồ hôi nước mắt, hy sinh vất vả trong ngày để cùng đặt lên dĩa thánh dâng lên Thiên Chúa xin Chúa chấp nhận biến thành Máu Thịt của Chúa Giêsu và ban làm của ăn cũng như ơn cứu độ cho bản thân và gia đinh.
Vì thế đừng bao giờ chúng ta nại vào sự vất vả hay bận rộn, mà bỏ qua việc đến với Thánh lễ mỗi ngày, vì ở nơi đây chúng ta được gặp gỡ với Đức Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, được đón nhận sư nâng đỡ và bổ sức của Ngài, được nuôi dưỡng và an ủi, được thứ tha và được yêu thương vỗ về của Thiên Chúa là Cha và của chính Chúa Giêsu Đấng là Chúa và cũng là bạn hữu là người thân của chúng ta.
Đón nhận Mình Máu Chúa, chúng ta được mời gọi để trở thành của ăn trở thanh tấm bánh cho anh em, chấp nhận hy sinh, chia sẻ và trao tặng cả con người và cuộc đời mình cho gia đình và anh em. Chính anh em hãy cho họ ăn. Đó là lời Chúa muốn nói với chúng ta, dù là bậc cha mẹ hay là con cái, dù là trong gia đình hay với bạn bè, chúng ta đều phải thực hiện lời mời gọi này. Hãy noi gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải trở thành những con người dám phục vụ anh chi em, dám hy sinh thời giờ sức lực trí tuệ để đem đến niềm vui và hạnh phúc cho anh chị em, dám mở rộng đôi tay và trái tim và để cho trái tim mình biết rung nhịp trước những đau khổ của anh em để cảm thông để an ủi nâng đỡ; hãy cho vợ chồng, con cái không chỉ lương thực cơm bánh mà hãy cho họ tình yêu thương và sự phục vụ của mình.
Lời Chúa hôm nay mời gọi các bạn trẻ hãy siêng năng đón nhận Mình Máu Chúa mỗi ngày, Thánh Thể Chúa sẽ dạy các bạn biết thế nào là một tình yêu thương đích thực, Ngài sẽ cho các bạn nghị lực và niêm vui trong cuộc sống, Ngài sẽ giúp các bạn ra khỏi sư ngại ngần để bước đến với người khác bằng một tâm hồn và trái tim nhiệt thành của tuôi trẻ, để phục vụ để yêu thương. Nhất là đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, Ngài sẽ giúp các bạn chiến thắng được con người ù lỳ lười biếng của mình, vượt qua những lôi cuốn của cám dỗ đam mê dục vọng, và sẽ thánh hóa con người và cả cuộc đời các bạn, và đem đên cho các bạn sự sống đời đời. Amen.
Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10). Thật tuyệt, nhờ Ngài mà chúng ta không chỉ ĐƯỢC SỐNG mà còn SỐNG DỒI DÀO. Chúa Giêsu đã có cách độc nhất vô nhị mà không ai có thể tưởng tượng được, đó là Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể trước khi Ngài bị kết án tử. Thánh Thể được hiểu bao gồm Thánh Huyết. Thánh Thể là Phép Lạ của các phép lạ.
Sống thì phải ăn, ăn để có sự sống. Tuy nhiên, lương thực chúng ta ăn hằng ngày không chỉ là lương thực bình thường mà đặc biệt là chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu. Đó là Thần Lương, là Nguồn Sống cho mọi người trên đường lữ hành trần gian.
TỪ GIAO ƯỚC VĨNH CỬU…
Kinh Thánh cho biết rằng ông Menkixêđê là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, là vua thành Salem, và chính ông mang bánh và rượu ra. Sau đó, ông chúc phúc cho ông Áp-ram: “Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc phúc cho Áp-ram! Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao, Đấng đã trao vào tay ông những thù địch của ông!” (St 14:19-20). Về sau, Thiên Chúa thiết lập Giao ước Vĩnh cửu với Áp-ram và xác nhận: “Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc” (St 17:5).
Bài đọc I ngắn gọn nhưng có những chi tiết quan trọng. Thứ nhất, thời Cựu ước, BÁNH và RƯỢU được dùng làm lễ vật; thời Tân ước, Chúa Giêsu cũng dùng BÁNH và RƯỢU để thánh hóa thành chính Mình Máu của Ngài. Thứ nhì, có lễ vật thì cần có người dâng, đó là các tư tế, đại diện dân Chúa mà dâng lễ vật lên Thiên Chúa hằng ngày, họ được mệnh danh là những người theo phẩm trật Menkixêđê. Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể, đồng thời Ngài cũng thiết lập chức linh mục. Các linh mục thừa tác tiếp tục công việc tế lễ để Chúa Giêsu hằng ngày hiện diện thật giữa chúng ta, để nhờ Mình Máu Ngài, chúng ta được sống và sống dồi dào qua từng hơi thở. Quả thật, Đại Tôn Sư Giêsu quá tuyệt vời!
Tác giả Thánh Vịnh nói về sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng: “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con” (Tv 110:1). Và từ Sion, Đức Chúa sẽ mở rộng quyền vương đế của Ngài: Giữa lòng địch quân, xin Ngài làm bá chủ. Chính Thiên Chúa đã tuyên phán: “Ngày đăng quang con nắm quyền thủ lãnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con” (Tv 110:3). Chúng ta chỉ là cát bụi, hoàn toàn bất xứng, nhưng lại vô cùng hạnh phúc vì được Ngài giao ước. Tuy chỉ một lần thề ước, nhưng là vĩnh viễn, Ngài sẽ chẳng rút lời: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê” (Tv 110:4).
Thánh Phaolô nói rõ: “Điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11:23-24). Thánh Phaolô tiếp tục nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11:25).
Phép Lạ vĩ đại hằng ngày xảy ra trên bàn thờ, nhưng mắt thường không thể nhìn thấy, cho nên sau lời truyền phép, Giáo hội xác nhận: “Đây là mầu nhiệm đức tin”. Và rồi mọi người cùng tung hô theo lời của Thánh Phaolô đã nói: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11:26). Quả thật, chúng ta phải dùng con-mắt-đức-tin để bù đắp cho con-mắt-trần-tục khi tôn kính Thánh Thể. Những lần hiện ra, Chúa Giêsu và Đức Mẹ vẫn luôn nhắc nhở người ta phải hết lòng tôn sùng và yêu mến Thánh Thể.
…ĐẾN PHÉP LẠ
Chúa Giêsu không bao giờ nói suông, mà rất thực tế, đồng thời cũng để củng cố lòng tin cho mọi người. Một lần nọ, có đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu. Ngài tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. Khi bóng đêm dần buông xuống, các môn đệ đến bên Thầy Giêsu và thưa: “Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng” (Lc 9:12). Thế nhưng Ngài liền bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Lc 9:13a). Ôi chao, “căng” thật! Rồi các ông đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này” (Lc 9:13b).
Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông, chưa kể phụ nữ và trẻ em. Một bữa tiệc nhỏ còn phải chuẩn bị cả tuần trước, dù chỉ vài chục thực khách chứ nói chi vài trăm người. Thế mà lúc này có tới gần chục ngàn người. Làm sao mà xoay xở đây chứ?
Thấy các ông vò đầu, bóp trán, vẻ lo lắng hiện rõ trên từng khuôn mặt của các đệ tử, Đức Giêsu nói với họ: “Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một” (Lc 9:14). Bị động và bị triệt buộc, nhưng các môn đệ được Thầy gỡ rối tơ lòng, thế nên bảo sao làm vậy, chả dám ý kiến chi cả. Các ông bảo mọi người ngồi xuống theo nhóm. Khi mọi người đã ổn định chỗ ngồi, Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.
Thánh sử Luca cho biết một sự lạ khác: “Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng” (Lc 9:17).
Trong cuộc sống, miếng ăn liên quan các vấn đề khác, không chỉ về sự sống mà còn về “quyền lợi”. Tục ngữ Việt Nam nói: “Trâu cột ghét trâu ăn”. Một thực tế buồn nhưng vừa minh nhiên vừa mặc nhiên. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Một số cành cây ô-liu đã bị chặt đi, còn bạn là ô-liu dại đã được tháp vào đó, và cùng được hưởng sự sống dồi dào từ rễ cây ô-liu chính. Vì thế, bạn đừng có lên mặt khinh dể các cành khác” (Rm 11:17-18a). Và rồi Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Thì bạn cứ lên mặt đi! Đâu phải bạn mang rễ, mà là rễ mang bạn” (Rm 11:18b).
Quả thật, chia sẻ là điều quan trọng, cả vật chất lẫn tinh thần. Chia sẻ liên quan việc CHO và NHẬN: “Phúc cho ai CHO mà không nhớ, NHẬN mà không quên” (Elizabeth Bibesco). Thánh Phanxicô Assisi đã có nghịch-lý-thuận này: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình). Quả thật, nếu chúng ta không chia sẻ với người khác về những thứ họ cần, đó là chúng ta đã cướp chính sự sống của họ! Giáo huấn Xã hội Công giáo cũng đề cập các vấn đề tương tự.
Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Ngài đã ban Nguồn Sống Thánh Thể để chúng con được sống và sống dồi dào, xin giúp chúng con xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể hằng ngày để mai này cũng xứng đáng lãnh nhận sự sống đời đời. Xin Chúa giúp chúng con biết sẵn sàng và vui vẻ chia sẻ với mọi người, nhất là những người thiếu thốn – tinh thần hoặc vật chất. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Thánh nữ Juliana (1193 – 1258) người Bỉ, từ nhỏ đã có lòng kính mến Mình và Máu Thánh Chúa cách đặc biệt, và luôn ước ao có một ngày lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa. Juliana đã bày tỏ lòng ước ao đó với Đức cha Robert de Thorete, Giám mục Liège, và sau đó thỉnh cầu tới nhiều vị hữu trách khác trong Giáo hội. Đức Giám mục Robert rất đồng tình và thiết đặt một ngày lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa trong địa phận mình năm 1247. Năm 1264, Đức Giáo hoàng Urban IV ban hành sắc lệnh Transiturus để công bố ngày Lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa trong toàn thể Giáo hội. Đức Giáo hoàng Clement V, rồi Đức Giáo hoàng John XXII cũng góp phần phổ biến rộng rãi ngày lễ này trong Giáo hội hoàn vũ.
Lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm Mình Thánh Chúa Kitô qua hai biểu hiện. Một là qua Bí tích Thánh Thể, hai là qua Giáo Hội – thân thể mầu nghiệm của Người.
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh của Phụng vụ và là nguồn mạch của đời sống Giáo hội. “Những Bí tích khác cũng như các thừa tác vụ và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với Bí tích Thánh Thể và qui hướng về đó” (GLGHCG, số 1324). Bí Tích Thánh Thể là trung tâm của đời sống Hội Thánh, là tâm điểm của niềm tin, là suối nguồn của lòng mến và niềm trông cậy.
Giáo hội là nhiệm thể của Đức Kitô bởi mối dây mật thiết Người chia sẻ với các môn đệ (GLHTCG, số 787). Kinh Thánh cũng nói rõ Đức Kitô là đầu, Giáo hội là thân thể (Cl 1, 18), trong đó chúng ta là những chi thể của thân thể mầu nhiệm đó, như những cành nho gắn liền với thân nho (Ga 15, 5).
Trong Phép Thánh Thể, chúng ta được ơn xa lánh tội lỗi, tăng cường các nhân đức, linh hồn được no thỏa và dư đầy hồng ân, như đám đông được no lòng thỏa chí trong bài Tin mừng hôm nay. Không có Bí tích nào tốt lành và sinh ơn ích dư tràn hơn Phép Thánh Thể. Được thiết lập để mưu ích phần rỗi của cả và nhân loại, nên Bí tích Thánh Thể được cử hành cho cả người sống và kẻ chết, để mọi người có thể chia sẻ kho tàng cực châu báu là Mình và Máu Cực Thánh Chúa Giêsu.
Người Việt chúng ta thường có câu “đồng bàn, đồng bạn.” Bàn tiệc Thánh Thể đưa tình bạn “đồng bàn” đó lên một tầm cao mới, là kết hiệp chúng ta nên một với Đức Kitô và liên kết chúng ta với nhau. Nhờ Bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta được lãnh nhận và được tham dự vào thần tính của Chúa Kitô. Từ trời cao, Người xuống đất thấp để nâng dậy con người từ đất thấp lên tới trời cao. Con Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu chết cho con người, ban lương thực thần linh nuôi dưỡng con người, để con người được làm con Thiên Chúa. Vinh phúc thay! Cao quý thay Máu Thịt Con Chúa Trời! Ngay tại thế gian này, chúng ta được nếm trước Bàn tiệc Thiên Quốc. “Nhờ cử hành Bí tích Thánh Thể, ngay từ bây giờ chúng ta được kết hiệp với phụng vụ trên trời và tiền dự vào đời sống vĩnh cửu” (GLHTCG, số 1326). Đối với phàm nhân, còn gì cao cả hơn? Còn gì quý trọng cho bằng?
“Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19). Chúa Kitô đã thiết lập Bí tích cực trọng này để hiện tại hóa mầu nhiệm tử nạn của Người. Người ước ao vô cùng chúng ta lãnh nhận Người. Người mong muốn cháy bỏng trao ban chính mình Người cho chúng ta. Người khát khao nồng cháy kết hiệp thân tình với chúng ta. Tất cả điều đó chỉ vì tình yêu vô bờ bến mà Ngài dành cho chúng ta. Vì vậy, Người đã không những trao ban chính mạng sống Người để cứu chuộc chúng ta, mà còn trao ban chính mình Người làm của dưỡng nuôi linh hồn chúng ta. Bởi vì tình yêu của Người là một tình yêu “cho đến cùng” (Ga 13,1). Mình và Máu Thánh Chúa chính là bảo chứng cho tình yêu đó. Vì yêu chúng ta, Người đã đổ tràn tình yêu của Người trên chúng ta cùng sự thiện hảo vô biên của Người.
Từ Cuộc Khổ Nạn của Người tuôn trào suối nguồn ân sủng, khai sinh các Bí tích. Nơi nào chúng ta có thể tìm thấy dạt dào tình yêu và hồng ân cho bằng Thánh Thể. Nơi nào chúng ta có thể gặp gỡ chúa Kitô sống động hơn Thánh Thể?
Với tâm tình tạ ơn, ca ngợi Thiên Chúa Cha, và tưởng niệm hy tế của Đức Kitô, Giáo hội cử hành trọng thể Lễ kính Mình và Máu Chúa Giêsu. Chúng ta được mời gọi nhìn nhận sự hiện diện thật của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Đồng thời chúng ta cũng được mời gọi yêu mến Giáo Hội và tha nhân. Khi nhận biết tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta sẽ biết yêu mến tha nhân. Vì rằng, mến Chúa và yêu người là hai mặt của một lòng mến duy nhất. Lãnh nhận cùng một thân thể Chúa Kitô, chúng ta trở thành chi thể của Người, là thành phần trong Giáo hội của Chúa, là anh em của nhau trong Đức Kitô.
Nên thánh, sống hiệp nhất thân tình với Thiên Chúa chính là ơn gọi chung cùng, là đích điểm của mỗi người chúng ta. Xin được kết thúc những tâm tình của ngày Lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay bằng lời ca tiếp liên:
Hãy xướng lên lời ca khen ngợi,
… hãy vui mừng rạng rỡ!
Vì đây là ngày trọng thể, ngày kỷ niệm Bàn tiệc Thánh được thiết lập ra…
(Ca Tiếp liên Lễ Mình và Máu Thánh Chúa)
Câu hỏi gợi ý suy niệm:
Khi thương nhau thì người ta sẽ làm mọi cách để biểu lộ tình thương và sự quan tâm của mình. Những món quà, những cuộc điện thoại hay những tin nhắn qua điện thoại… Cử chỉ trao nhẫn cho nhau trong nghi thức của Bí tích Hôn phối cũng nói lên dấu chỉ tình yêu giữa hai người phối ngẫu. Dấu chỉ ấy nói lên từ giây phút đó họ sẽ thuộc trọn về nhau cả xác lẫn hồn.
Tuần trước cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Ba Ngôi – mầu nhiệm trung tâm của niềm tin Kitô giáo. Ba Ngôi cùng một bản thể, cùng một uy quyền và cùng hướng về một mục tiêu chung. Đó là cùng đem tình yêu và hạnh phúc đến cho con người. Có thể nói Thiên Chúa đã tỏ ra hàng trăm ngàn dấu chỉ để biểu lộ tình thương của Người dành cho con người. Một trong những dấu chỉ quý báu ấy chính là Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể chính là Bí tích quan trọng nhất trong 7 Bí tích. Vì qua Bí tích này chúng ta đón nhận được chính Chúa Giêsu là nguồn mọi ơn phúc.
Như chúng ta biết, trước khi chịu khổ hình Chúa Giêsu biết mình sẽ không còn hiện diện hữu hình ở trần gian này nữa nên Người đã lập Bí tích Thánh Thể. Để rồi qua Bí tích này Người sẽ còn tiếp tục hiện diện với con người. Quan trọng hơn là Người ban cho con người chính bản thân mình qua hình Bánh và hình Rượu.
Ngày nay, mỗi khi tham dự Thánh lễ là chúng ta cùng nhau cử hành Bí tích Thánh Thể – Bí tích tình yêu. Và rồi nếu có đầy đủ điều kiện chúng ta sẽ lên rước lấy chính Chúa Giêsu qua hình bánh và hình rượu làm của nuôi cho sự sống đời đời. Thật là cao quý và hạnh phúc cho người tín hữu chúng ta. Mãi mãi chúng ta là những con người được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Hãy tin vào Chúa qua dấu chỉ Bí tích Thánh Thể – Bí tích tình yêu này. Và chúng ta đ ược kêu mời hãy siêng năng rước lễ mỗi khi tham dự Thánh lễ. Bởi lẽ, rước lễ thì được những ơn ích này: một là làm cho ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với nhau, hai là xóa bỏ các tội nhẹ và gia tăng ơn thánh hóa, ba là thêm sức cho ta chống trả các chước cám dỗ của ma quỷ và sửa tính mê nết xấu, bốn là bảo đảm cho ta được sống đời đời.
Trong thư thứ nhất gởi cho giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô đã nói: “Khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó không phải là dự phần vào Thân Thể của Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm Bánh ấy, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta ta chỉ là một thân thể” (1Cr 10, 16b-17). Cho nên, hiệu quả của Bí tích Thánh Thể là sự hiệp thông với nhau.
Ông bà chúng ta có dạy: “Khôn ngoan đá đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau “.
Hay: “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Còn ở đây, khi rước lễ là chúng ta được hiệp nhất cùng nhau trong thân thể Chúa Giêsu. Thân thể này không thể bị chia rẻ nhau từng mảnh mà phải được gắn kết với nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban cho chúng ta tin vào dấu chì tình yêu qua Bí tích Thánh thể Người đã lập nên. Thể hiện niềm tin ấy là việc siêng năng rước Chúa và sống hiệp thông với nhau.
Thưa quý vị,
Nếu tinh ý một chút, chúng ta sẽ nhận ra hình như Phúc Âm hôm nay trả lời cho câu hỏi của vua Hêrôđê: “Ong này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế? Rồi vua phân vân tìm cách gặp Đức Giêsu.”(Lc 9, 9). Đoạn trích hôm nay tiếp liền nghi vấn của Hêrôđê. Vậy Chúa Giêsu quả thật là ai? Xin viết lại cả đoạn văn: “Tiểu vương Hêrôđê nghe biết tất cả những gì xảy ra, thì phân vân lắm. Thật vậy có kẻ nói: Đó là Gioan từ cõi chết trỗi dậy. Kẻ khác nói: ông Elia xuất hiện đấy. Kẻ khác nữa lại nói: đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại. Còn vua Hêrôđê thì nói: Ong Gioan chính ta đã chém đầu rồi. Vậy ông này là ai?” Nhưng trả lời cho ông vua độc ác mang tên Hêrôđê không phải là chủ ý của Luca, cho dù Hêrôđê quan trọng đến đâu! Cũng không phải Luca muốn làm toại nguyện những bộ óc “tò mò” của lịch sử loài người. Ong có chủ ý khác như ông viết trong lời tựa Phúc Âm: “…để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc.”(1,1). Đó cũng là chủ ý của ông cho các tín hữu thuộc muôn thế hệ mai sau, kể cả chúng ta hôm nay. Dĩ nhiên câu hỏi của Hêrôđê dẫn đến trình thuật hôm nay về căn cước của Chúa Giêsu sau khi đã nuôi sống ít nhất là năm ngàn người nơi sa mạc hoang vắng. Chi tiết phép lạ không chắc thoả mãn Hêrôđê và các não trạng tân thời. Nhưng đối với các kẻ ngay thật thì Luca đã cho câu giải đáp sâu sắc về căn tính và ý nghĩa ngôi vị Giêsu giữa trần gian.
Câu truyện khởi sự khi các Tông đồ hoàn thành sứ vụ rao giảng và chữa lành. Họ trở về báo cáo Chúa những kết quả thu lượm được. Ngài muốn đưa họ đến Bethsaiđa để lấy lại sức khoẻ và bồi dưỡng thêm giáo lý, đời sống thiêng liêng. Nhưng kế hoạch của Ngài bị vỡ, vì đám đông tuôn đến nghe giảng. Thay vì đuổi họ đi để duy trì chương trình như người ta thường làm xưa nay, thì Chúa Giêsu niềm nở tiếp đón họ. Ngày hôm ấy, Ngài cắt nghĩa cho họ về nước trời, như thánh Luca kể: “Đám đông dân chúng biết thế, liền đi theo Ngươi. Người tiếp đón họ, nói với họ về nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa.”
Chúng ta có thể tưởng tượng công việc của Ngài hôm ấy bận rộn thế nào: Đám đông rất lớn, chỉ tính riêng nam giới đã lên tới năm ngàn. Nếu kể hết thì phải trên mười ngàn, tương đương với dân số của một xứ đạo cỡ lớn trong các đô thị công nghiệp. Ngài đi lại giữa họ, tìm kiếm và chữa lành bệnh nhân, đồng thời rao giảng Nước Trời. Khi công việc ổn định thì Phúc Âm kể: “Ngày đã bắt đầu tàn”. Các môn đệ đến gần Chúa xin Ngài giải tán đám đông, để họ vào làng mạc, nông trại quanh đấy tìm kiếm thức ăn và quán trọ! Vì nơi họ đang tụ họp là hoang địa. Chúng ta dừng lại chút ít để suy nghĩ về sự kiện này.
Chương 9 của Luca mô tả một ngày của Chúa Giêsu tại Galilêa rất náo nhiệt: Dày đặc những công việc. Sau đó, Ngài quyết định đi Gierusalem với các môn đệ. Trong những hoạt động này, bữa ăn giữ vai trò quan trọng. Thực tế các bữa ăn trong Phúc Âm đều quan trọng và mang ý nghĩa khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh và khách đồng bàn. Thí dụ: Ơ nhà ông Giakêu, Chúa được mệnh danh là tay bợm nhậu, ăn uống với phường tội lỗi. Khi ngồi với khách nghiêm trang tự coi mình là công chính, thì lại bị hỏi thăm về thẩm quyền và căn tính chính thống. Khi đồng bàn với các môn đệ thì Ngài nói: Đây là mình thầy, đây là máu thầy sẽ đổ ra vì anh em. Nhiều lần Ngài còn so sánh nước trời với bữa tiệc thịnh soạn, thịt thì béo, rượu thì ngon. Bữa ăn nhân bánh hôm nay cũng mang một ý nghĩa sâu sắc riêng. Ngài nuôi đám đông bẩn thỉu, hổ đốn mà quan điểm quyền bính tôn giáo cho là “không thanh sạch” vì không rửa tay trước. Oi não trạng hẹp hòi, ngày nay cũng vậy thôi: Đầy dẫy kỳ thị, loại trừ, khinh miệt, mặc dù mội miệng rao giảng khác đi: đại đồng đòan kết, bác ái yêu thương. Cho nên thái độ của Chúa Giêsu là bài học thấm thía cho nhân loại.
Theo thánh Luca, thái độ ấy liên tục với tới những cặn bã của xã hội, kẻ bị bỏ rơi, ngoài lề vì nhiều lý do và Chúa Giêsu đã đón tiếp họ: kẻ đói khát được nuôi ăn uống, bệnh tật được chữa lành, ly tán được đoàn viên (từng nhóm chừng 50 người). Sau lời tạ ơn, các môn đệ được Chúa phân công đi chia phần. Ai nấy ăn uống no nê. Đến đây thì nghi vấn của Hêrôđê được thỏa mãn: Ong này là ai? Là kẻ công bố vương quốc sự sống bằng lời nói việc làm. Những ai bị triều đình ác vương từ chối thì đều được mời gọi vào Nước Trời, ở đó họ được đón tiếp và đối xử tốt. Tuy nhiên, loại người nào được ăn uống với Chúa? Quý vị chẳng thể tìm ra danh sách các khách mời dự tiệc trong Tin Mừng. Vậy phải hiểu ngậm là hết những ai có nhu cầu ăn uống và chữa lành. Nghĩa là bữa tiệc mở ra cho hết mọi linh hồn, không loại trừ. Xin để ý những lời Chúa nói lúc cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá. Thánh Luca kể “Ngài ngước mắt lên trời dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông phân chia cho đám đông”, y hệt những lời Ngài nói trong bữa tiệc ly. Liệu chúng ta nhận ra sự liên kết giữa 2 tình huống? Phải chăng là bữa tiệc Thánh Thể? Chưa hết, hai môn đệ đi làng Emmaus cũng đựơc chứng kiến tình huống tương tự khi ngồi ăn bữa tối với người “khách lạ” (24, 13-35). Liệu chúng ta đủ khả năng nhận biết Chúa Giêsu là ai chưa hay còn nghi nan như Hêrôđê? Vậy trong thánh lễ hôm nay và trong các buổi phụng vụ, chúng ta nên thực hành lòng xác tín của mình vào thần tính Đức Kitô.
Bởi lẽ, Luca không viết Phúc Âm để trả lời cho Hêrôđê mà giúp đỡ tín hữu mọi nơi, mọi thời hình thành lời đáp riêng của minh. Liệu Phúc Âm đã đủ sức thuyết phục chúng ta về căn cước của Chúa chưa? Liệu lời nói việc làm của Ngài mang ý nghĩa thế nào trong cuộc sống mỗi người? Bởi lẽ, sau đoạn trích hôm nay lại còn một câu hỏi khác, không do Hêrôđê mà do chính Chúa Giêsu: “Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?” (9, 20). Có lẽ chúng ta trả lời như đám đông: Thầy là Gioan tẩy giả, Thầy là Elia tái lâm, thầy là một ngôn sứ Cựu Ước nay sống lại. Nếu chúng ta tiếp tục hành xử như hiện trạng: nhung lụa, dễ dãi, trốn tránh hy sinh. Nhưng nếu chúng ta bắt chước Phêrô: “Thày là Đấng Kitô con Thiên Chúa hằng sống” (9, 20) thì thái độ chúng ta phải khác, tức dâng hiến toàn thân để công bố căn tính Chúa Giêsu, giống như Phêrô, mặc dầu có phải hy sinh mạng sống! Viết đến đây tôi liên tưởng đến câu nói của thánh nữ Marie Eugenie: “Trái đất này là nơi Thiên Chúa được vinh quang”
Đúng vậy, Phêrô và các Tông đồ khác phải học biết dần dần căn cước Chúa Giêsu và sứ mệnh thiên sai để có khả năng dấn thân theo ơn gọi. Bài đọc 2 hôm nay nói rõ cho các Tông đồ biết Chúa dặn dò các ông làm sao và truyền các ông “làm việc này” để tưởng nhớ tới Ngài. Các ông phải tưởng nhớ cuộc sống, cái chết, đau khổ, phục sinh, lên trời để cứu độ nhân loại. Ngài đã từng bị chống đối loại trừ, hành xích về chân lý Ngài rao giảng. Nếu chúng ta mơ ước tán dương, ca tụng, ngượi khen, biệt đãi khi thi hành sứ mệnh rao giảng lẽ phải và sự thật,thì chỉ có thể là ngôn sứ giả, vì tôi tớ chẳng thể hơn ông chủ, học trò chẳng thông thái hơn thày mình! Chúa Giêsu không những nuôi sống đám đông phần xác, nhưng Ngài còn ban tặng đời sống siêu nhiên là chính Mình Máu Thánh Ngài. Vì thế ba bữa ăn nói trên cấu kết với nhau thành một thực tại trong Thánh Thể. Theo Luca, Chúa Giêsu ứng nghiệm hình ảnh người chăn chiên nhân lành nuôi dưỡng, chữa lành, săn sóc đàn chiên trong hoang địa (thử thách) của Cựu Ước. Như vậy, Ngài thách đố các Tông đồ khi xưa và chúng ta hôm nay trước nhu cầu cứu rỗi của thế giới, nhất là của kẻ nghèo đói, bệnh tật, tù đày, bơ vơ, lạc lõng vì chiến tranh, kinh tế. Theo cảm tính, thì trước đám đông khổng lồ, các Tông đồ xin Chúa giải tán họ, vì nhu cầu quá lớn các ông không thể đáp ứng nổi. Nhưng Chúa Giêsu không làm theo ý các môn đệ. Mặc dù chính Ngài đã bị dân riêng tẩy chay, xua đuổi, chống đối và đóng đinh. Ngài truyền cho các ông: “Anh em hãy cho họ ăn đi”. Oi một gương sáng tuyệt vời về lòng tha thứ, tử tế, đối xử tốt. Vì vậy, chúng ta phải học nơi Chúa thái độ đối với những kẻ bất hạnh trên quê hương, trong xã hội hiện nay. Còn biết bao nhiêu linh hồn không đủ ăn, đủ mặc, thiếu thốn sức khoẻ, thuốc thang, giáo dục. Nỡ lòng nào chúng ta quay mặt đi, xua đuổi họ chỉ vì họ nghèo đói, thiếu thốn. Trong khi chúng ta no đủ, cơm dư, gạo thừa, mua sắm tiện nghi không cần thiết hoặc nói như nhà mô phạm kia: “Nhu cầu giả tạo”. “Anh em hãy cho họ ăn đi!” Chẳng lẽ là lời nói dư thừa đối với thính giả tân thời?
Chẳng như vậy được. Nó thức tỉnh những linh hồn còn lương tâm. Chúng ta quy tụ nhau mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa là họp nhau để được bàn tay yêu thương của Thiên Chúa đón nhận. Nghĩa là giống như đám đông khi xưa, tìm kiếm của ăn và thuốc chữa thiêng liêng. Chúng ta được Lời Chúa nuôi dưỡng và chia phần Mình Máu Chúa. Ngài nuôi dưỡng năm ngàn người đàn ông là để chỉ bảo nhân loại một bài học về Bí tích Thánh Thể. Họ cùng ăn một thứ bánh trong bữa tiệc bình đẳng, không ai hơn, không kẻ kém. Tất cả đều no nê. Ngày nay đa phần xã hội đều có khá dư thưà khi tham dự phụng vụ, chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô, hưởng nhờ ơn ích sự sống, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chúng ta không cử hành riêng tư mà là công khai và cộng đồng. Chúng ta nên mở rộng tầm nhìn để trông thấy những nhu cầu của kẻ khác. Chúng ta không tưởng niệm suông phép lạ nhân bánh ra nhiều, nhưng tưởng niệm cuộc khổ nạn và cái chết cứu độ của Chúa. Ngài đã dâng mình cho Thiên Chúa Cha, chúng ta nên thi hành tương tự. Càng giống Chúa Giêsu chúng ta càng tự giải thoát khỏi quyền lực tử thần để được sống muôn đời và mang ơn phục sinh cho kẻ khác. Với Chúa, chúng ta nhìn ra nỗi đói khát thiêng liêng của thế giới và nỗi nhọc nhằn của hàng xóm láng giềng. Hàng ngày Chúa nói với mỗi người: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi”. Nghĩa là Ngài thúc dục mỗi thành viên của Hội Thánh, nhất là những ai có trách nhiệm trực tiếp, đồng hoá mình với Chúa Giêsu và đồng hoá lòng tốt của Chúa với cộng đồng giáo xứ, khu xóm, tu viện, gia đình. Ngài sẽ lấy tất cả những chi chúng ta dâng, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng và ban cho đám đông. Bằng cách ấy, Ngài nhân bánh lên nhiều cho mọi người no đủ. Hôm qua tôi được nghe lỏm câu truyện của hai người giáo dân xa quê hương để kiếm sống: Linh mục Tiền kỳ này thế nào? – Thì “vũ như cẩn”. – Vậy thì hết xài rồi. Tôi ngây thơ cứ nghĩ cha xứ của họ tên như vậy. Nhưng không phải, đó chỉ là nhãn hiệu! Hỡi ôi, hạng này bây giờ nhiều lắm, còn đông hơn Pharisêu thời Chúa Giêsu. Xin cam đoan truyện thật 100%, không dám bịa kẻo mắc tội vu khống.
Trong ngôn ngữ Dothái, cụm từ “Mình Máu” không như chúng ta hiểu, gồm hai phần của thân thể. Nó là đường lối diễn tả cụ thể sự sống của con người. Vậy khi cử hành phụng vụ, nghe nói, này là Mình ta, này là Máu ta, xin đừng nghĩ đến hai thực tại tách biệt nhau mà là sự sống của Chúa Kitô, sự sống ấy ban cho đám đông, cho các môn đệ và cho chúng ta để vươn tới hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài tìm kiếm nghỉ ngơi cùng các môn đệ, nhưng đám đông kéo đến. Ngài không xua đuổi mà ban sự sống cho họ. Còn chúng ta thì sao? Câu trả lời tuỳ lương tâm mỗi người. Nếu Hêrôđê thực sự muốn thoả mãn tò mò về Chúa Giêsu, ông ta có thể theo dõi Luca khai triển Phúc Âm. Tiếc thay ông đã bỏ lỡ cơ hội! Và mặc dầu những đe doạ từ chính quyền Lamã, từ phía thần quyền Gierusalem, Chúa Giêsu tiếp tục ban sự sống mình cho dân chúng, với tới những kẻ bất hạnh nhất trong xã hội Dothái, kể cả thượng phẩm, tư tế, ký lục, Pharisêu. Ngài không ngừng ban mình cho họ, ngay cả trên thập tự. Như vậy lễ mừng hôm nay quả là một ánh sáng chiếu soi vào ý nghĩa của Phúc Âm và giúp đỡ chúng ta nhận ra toàn bộ cuộc đời Chúa Giêsu là một tặng phẩm hiến tế. Chúng ta, những kẻ đói khát sự sống, được hưởng nhờ ân huệ của Ngài cho tới mức no đủ. Amen.
Fr. Jude Siciliano, op.
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Cử hành Bí tích Thánh Thể để tưởng nhớ Đức Giêsu là chia sẻ không những sứ mạng của Người, mà cũng còn là chia sẻ định mệnh của Người, được tượng trưng bằng thập giá.
1.- Ngữ cảnh
Truyện này được đặt vào ngay sau phân đoạn nói về việc Đức Giêsu sai phái Nhóm Mười Hai đi rao giảng (các ông ra đi: 9,1-6; tiểu vương Hêrôđê thắc mắc về Đức Giêsu: 9,7-9; các tông đồ đã đi rao giảng về tường thuật của Đức Giêsu những việc đã làm: 9,10-11) và trước lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9,18-21) cũng như lời tiên báo Thương Khó lần thứ nhất cùng với các điều kiện của đời môn đệ (9,22-16).
Riêng truyện hóa bánh ra nhiều trong TM Lc (9,12-17) thì tương ứng với Mc 6,30-44 và Mt 14,13-21. Tác phẩm Lc không có bản văn tương ứng với truyện hóa bánh ra nhiều lần hai ở Mc 8,1-10 và Mt 15,32-39; do đó, bề ngoài bản văn Lc giống với Ga bởi vì Ga cũng chỉ có một bài tường thuật về nhân bánh và cá (Ga 6,1-15).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Sứ vụ của Đức Giêsu (9,11b);
2) Các môn đệ nhận định về vấn đề (9,12);
3) Đức Giêsu đáp trả (9,13-16):
4) Kết quả (9,17).
3.- Vài điểm chú giải
– nói với họ về Nước Thiên Chúa (11): hoặc “tiếp tục nói với họ”, vì động từ ở thì vị-hoàn (imperfect). Tác giả Lc đã sửa Mc 6,34 (“nhiều điều”) thành “về Nước Thiên Chúa”. Rõ ràng Lc muốn nối phép lạ sắp kể với lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa.
– Nhóm Mười Hai (12): Trong bản văn song song, Mt 14,15 và Mc 6,35 nói đến “các môn đệ” (hoi mathêtai). Đối với Lc, Nhóm Mười Hai tượng trưng sự nối tiếp với Israel. Trong Cv 1, con số mười hai phải được bổ sung sau khi Giuđa chết, để Nhóm Mười Hai đã được tái lập như thế, có thể đón nhận ân huệ đã được Thiên Chúa hứa ban là Thánh Thần và bắt đầu đi làm chứng. Tác giả Lc là tác giả duy nhất nối kết Nhóm Mười Hai với danh hiệu “tông đồ” ở 6,13 (x. Mt 10,2). Đọc Cv 1,21-22, ta thấy Phêrô xác định rằng người thay thế Giuđa phải đã cùng đi với Đức Giêsu kể từ khi Người được Gioan ban phép rửa đền khi Người lên trời, và như thế, trở thành chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Người. Như vậy, đối với Lc, Nhóm Mười Hai trở thành dây liên kết nối tiếp lời loan báo của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa với lời Giáo Hội rao giảng Lời Chúa.
– Chính anh em hãy cho họ ăn (13): Những lời Đức Giêsu nói có thể gợi đến 2 V 4,42-44: ở đây, một người từ Baan Salisa mang đến biếu ngôn sứ Êlisa hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm. Vị ngôn sứ bảo tiểu đồng: “Phát cho người ta ăn”. Tiểu đồng phản đối: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?”; vị ngôn sứ đáp bằng cách nhắc lại lời của Đức Chúa (Yhwh): “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Nếu gợi ý này quả thực có trong các Tin Mừng Nhất Lãm, thì hẳn là nó có hàm ý là Đức Giêsu đóng vai trò ngôn sứ khi hóa bánh ra nhiều.
– Đức Giêsu cầm lấy (16): Năm hành động của Đức Giêsu được diễn tả bằng những động từ lấy nguyên văn từ Mc 6,41 (x. Mt 14,18): cầm lấy (labôn), ngước mắt lên trời (anablepsas eis ton ouranon), dâng lời chúc tụng chúng (eulogêsen autous), bẻ ra (kateklasen), trao cho (edidou).
Mt 14,18 cũng nói đến năm hành động ấy nhưng ở những dạng khác. Trong Bữa tối cuối cùng theo Mc 14,22 (x. Mt 26,26), có bốn hành động được nhắc lại: cầm lấy, chúc tụng, bẻ ra, trao cho. Ở Lc 22,19, cũng xuất hiện bốn động từ, nhưng eulogêsas(chúc tụng) được thay thế bằng eucharistêsas (tạ ơn). Ở Lc 24,30, có ba động từ, nhưng edidou được thay thế bằng epedidou (= ban tự ý; ban làm của hồi môn). Trong bài tường thuật cuộc nhân bánh lần hai (Mc 8,6; Mt 15,36; x. 1 Cr 11,24) cũng có những động từ tương tự. Những bản văn dùng eucharistêsas (tạ ơn) phải được coi như là phản ánh một đợt muộn hơn trong truyền thống về Bí tích Thánh Thể (eucharistia). So với Mc 6,41, động từ này đứng một mình, nên rất có thể có nghĩa là “chúc tụng Thiên Chúa”. Khi gắn đại từ “chúng” (= bánh và cá) vào lời chúc tụng và việc bẻ bánh, tác giả cho hiểu rằng hai hành vi này chính là nguyên nhân đưa tới việc hóa bánh ra nhiều.
– ngước mắt lên trời (16): Đây là một thuật ngữ của Cựu Ước, thường có ở trong Bản LXX (St 15,5; Đnl 4,19; G 22,26; 2 Mcb 7,28).
– bẻ ra (16): Các TMNL không bao giờ nói rằng Đức Giêsu đã “nhân” bánh ra nhiều. Ta suy ra phương diện phép lạ từ con số những người ăn và những gì còn sót lại, từ khối lượng nhỏ bé lúc khởi đầu.
– ai nấy được no nê (17): Lc dùng echortasthêsan là động từ của Mc 6,42. Ngài cũng dùng động từ này trong Mối phúc 6,21 (x. 15,16; 16,21). Trong Bản LXX, động từ này thường được dùng để diễn tả lòng nhân lành Thiên Chúa đã hứa để làm no thỏa dân Ngài (x. Tv 37,19; 81,17; 132,15).
– mười hai thúng (17): Con số “mười hai” rõ ràng có một quy chiếu tượng trưng đến “Nhóm Mười Hai” ở c. 12: mỗi ông mang về một thúng đầy và bây giờ có đủ lương thực để nuôi cả những người khác nữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Sứ vụ của Đức Giêsu (11)
Sau khi mười hai tông đồ đi giảng về và sau khi các ông đã tường thuật cho Người các công việc đã làm (Lc 9,10), Đức Giêsu lại chìm vào trong công việc phục vụ đám đông (9,11): Giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. Từ đầu Tin Mừng đến đây, tác giả đã liên tục giới thiệu hai khía cạnh này trong hoạt động của Đức Giêsu:4,31-44; 6,18; 8,1-2.
* Các môn đệ nhận định về vấn đề (12)
Lần đầu tiên trong Tin Mừng Lc, Nhóm Mười Hai lấy sáng kiến và quan tâm đến tương quan của Đức Giêsu với đám đông. Vì trời đã xế chiều, các ông đã nêu những nhận định và đề ra phương án giải quyết rất thực tế: đây là nơi hoang vắng, mà người ta thì đông; do đó, tốt nhất nên giải tán đám đông để họ tự giải quyết vấn đề nơi ăn chốn ở. Tác giả Lc nói ở 9,12 về “Nhóm Mười Hai”, trong khi ở 9,14.16, ngài thay đổi từ vựng: Đức Giêsu ngỏ lời với các “môn đệ”. Từ ngữ “môn đệ” này rất có thể cả ở đây cũng chỉ một nhóm đông hơn trong đó chắc chắn có Nhóm Mười Hai. Dù sao, sáng kiến phát xuất từ Nhóm Mười Hai khi họ vừa đi giảng về và lại tháp tùng Đức Giêsu. Qua sáng kiến này, rất có thể tác giả muốn cho thấy là, do chuyến đi truyền giáo vừa qua, các tông đồ đã nhạy cảm hơn với các nhu cầu của dân chúng.
Ở đây, chúng ta sắp gặp lại đề tài quen thuộc trong TM III, đó là “các bữa ăn Đức Giêsu chia sẻ với người khác” (x. 4,16–9,6). Nay chúng ta sắp sửa chứng kiến một phương diện mới: qua sứ mạng của Đức Giêsu là rao giảng về Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa đang thực hiện các lời Ngài hứa, là nuôi dưỡng tạo thành đói khát (x. Is 25,5-6).
Cụm từ “nơi hoang vắng” (c. 12) khiến chúng ta nhớ đến đoàn dân Israel đang sống kiếp nô lệ, nay bằng qua sa mạc để tiến dần về tự do, về với một cuộc sống mới.
* Đức Giêsu đáp trả (13-16)
Đức Giêsu trả lời bằng hai lệnh truyền (Lc 9,13.14) và một hành động (9,16).
Do Nhóm Mười Hai đã tỏ ra có ý thức trách nhiệm đối với dân chúng, Người trao cho một trách nhiệm quan trọng hơn và xác nhận nhiệm vụ: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (9,13); chính anh em hãy nuôi dưỡng đoàn dân Israel vừa mới được tái lập. Với cái nhìn thực tế và với trái tim sẵn sàng, các ông nhận thấy tài nguyên của các ông quá nghèo nàn, các ông tình nguyện đi mua thức ăn cho dân chúng. Nhưng Đức Giêsu phản ứng với một lệnh thứ hai: “Bảo họ ngả mình thành từng nhóm năm mươi” (9,14). Các ông đã thi hành chính xác lệnh truyền (9,15). Đức Giêsu không lập một cơ quan phân phối bánh, để mỗi người có thể đến lấy phần của mình. Các môn đệ phải bố trí họ thành những nhóm trật tự (9,14).
Bây giờ đến hành động quyết liệt của Đức Giêsu. Sau khi đã đọc lời chúc tụng và bẻ bánh và cá ra, Người trao cho các môn đệ để các ông phân phát cho đám đông. Các môn đệ đã vâng theo lệnh thứ hai của Người, nên giờ đây Đức Giêsu làm cho họ cũng có khả năng thực hiện lệnh thứ nhất: cho đám đông ăn (so sánh 9,13 // 9,16). Các từ ngữ được Lc dùng để mô tả hành động Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều (cầm lấy, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho) thuộc về bài tường thuật việc thiết lập Bí tích Thánh Thể (22,19) và truyện hai môn đệ Emmau (24,30, cũng liên hệ với Bí tích Thánh Thể). Các môn đệ của Đức Giêsu sẽ phải tiếp tục nuôi dưỡng đám đông bằng Bí tích Thánh Thể.
* Kết quả (17)
Đám đông đã được no nê mà các mảnh vụn còn thừa đã được người ta thu lại được mười hai thúng (Lc 9,17). Trong biến cố này, Nhóm Mười Hai, là những bạn đồng hành của Đức Giêsu, không chỉ chứng kiến việc Người làm, mà còn được đưa vào cộng tác trực tiếp. Các ông đã nhận lệnh cho đám đông ăn (9,13) và các ông đã được Đức Giêsu làm cho có khả năng thực hiện điều đó (9,16). Điều đánh động chúng ta khi đến cuối truyện này là Lc không ghi lại một phản ứng nào của đám đông trước phép lạ (ngược với Ga 6,14-15). Chính Phêrô sẽ làm phát ngôn nhân cho họ khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (9,20).
Ta có thể so sánh với 22,19, trong đó cũng Nhóm Mười Hai nhận bánh do Đức Giêsu trao ban, bây giờ với lời giải thích và lệnh truyền: “Đây là Mình Thầy, hiến trao vì anh em; anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. Các ông lại nhận và phải cho đi. Về đời sống của cộng đoàn tiên khởi, sách Cv viết: “Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Như Simôn và các môn đệ đầu tiên vào dịp mẻ cá lạ lùng (5,4-11), Nhóm Mười Hai cũng trải nghiệm trực tiếp về quyền lực của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Khi tỏ mình ra như là chúa tể ban cơm bánh, Đức Giêsu cũng tỏ mình ra như là chúa tể ban sự sống và khuyến khích Nhóm Mười Hai tin tưởng bẻ ra và phân phát bánh đã nhận trong Bữa Tối cuối cùng. Nhóm Mười Hai đã đề nghị giải tán đám đông và như thế là chấm dứt sự hiện diện và kết hợp của họ với Đức Giêsu. Nhưng dân chúng không bị buộc phải rời bỏ Đức Giêsu mới tìm được các kế sinh nhai. Đức Giêsu có quyền năng duy trì sự hiệp nhất trong tư cách là chúa tể ban cơm bánh và sự sống. Người có thể quy tụ lại và bảo toàn cộng đoàn vĩ đại quanh Người. Cả điều này cũng thuộc về kinh nghiệm mà Nhóm Mười Hai vừa trải nghiệm.
5.- Gợi ý suy niệm
HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH
Phép lạ về bánh rất ăn khớp với mạch văn. Ngoài việc nó được đưa vào một cách hợp lý –ngày đã bắt đầu tàn, phải nghĩ đến chuyện ăn uống- trình thuật sắp gián tiếp trả lời cho câu hỏi mà Hêrôđê tự đặt ra cho ông; nếu không có một tước hiệu nào được gán cho Chúa Giêsu ở đây, thì dấu chỉ lạ lùng Ngài đã thực hiện cũng đưa nhóm Mười Hai (và độc giả) vào đúng hướng. Duy nhất chỉ có phép lạ này trong suốt sứ vụ ở Galilê, được tường thuật trong ba bản Nhất Lãm mà cũng thấy có cả ở Gioan nữa. Hơn thế, Mc 8,1-10, được Matthêu lấy lại, có một bản dịch với bảy bánh, bảy thúng và bốn ngàn người. Như vậy, được thuật lại sáu lần trong các Tin Mừng, “phép lạ làm quà” này theo một sơ đồ mà cách Các Vua đã sử dụng tới ba lần khi nói về Êlia và Êlisê: dù người ta không đòi hỏi, vị ngôn sứ đã do sáng kiến của riêng mình mà trao tặng những của cải vật chất (bột mì, dầu, bánh) một cách kỳ diệu. Người ta cũng nhấn mạnh đến sự dư dật của quà tặng. Trong trình thuật mà bản văn chúng ta cảm hứng theo, chính Êlisê tuyên bố: Chúa phán như thế này: Người ta sẽ ăn no mà còn dư thừa (2V 4,43 xem cả ở 1V 17,14). Trái với đoạn văn song song của Ga 6, Luca không đọc ở phép lạ hoá bánh theo ánh sáng của các trình thuật thời xuất hành nói về manna và ông cũng không trình bày Chúa Giêsu như Môsê mới trao ban bánh của thời kỳ cuối cùng.
Ngày đã bắt đầu tàn. Về mặt thời gian, ghi chú này cũng là một thoáng nhìn đầu tiên hướng về bữa ăn ở Emmas (24,29) sẽ được nói rõ hơn trong phần tiếp theo của bản văn. Tính cách cho không của dấu chỉ mà Chúa Giêsu sắp làm đến từ sự kiện là nếu địa điểm là nơi hoang vắng, cũng có các làng mạc và nông trại quanh đây; nhóm Mười Hai có thể đi mua thực phẩm dù đó là một chi phí khá lớn (c.13). Trong khi giải quyết vấn đề thực phẩm, phép lạ sắp xảy ra không giải quyết vấn đề chỗ ở, như cũng đã được nhắc đến… Lời đối đáp của Chúa Giêsu giống như lời của Êlisê (2V4 – Lc 9,13-17). Tính cách lớn lao của quà tặng được ban phát đến từ sự khác biệt giữa những con số; Chúa Giêsu là một Ngôn Sứ vĩ đại đến độ ta không thể so sánh Êlisê với Ngài được.
Lệnh được ban các môn đệ bảo mọi người ngồi xuống làm cho các ông đóng vai trò trung gian. Các ông đã trình bày với Thầy về nhu cầu của đám đông (c.12); trong chốc lát; họ sẽ đưa bánh và cá từ bàn tay Chúa Giêsu đến cho dân chúng. Trình thuật không chứa đựng lời tiên tri để nói lên ý nghĩa của những gì đang xảy ra (khác với 1V 17,14; 2V 4,13); ý nghĩa được cung cấp cho độc giả bằng bốn trong năm đương thời mô tả những cử chỉ của Chúa Giêsu. Cầm lấy, tạ ơn (ở đây là dâng lời chúc tụng), bẻ ra, trao cho là những từ ngữ dùng cho bữa tiệc cuối cùng ở 22,19. Màu sắc của phép lạ còn rõ nét hơn khi Luca dùng những từ ngữ “bẻ ra / bẻ bánh” để chỉ những buổi tiệc Thánh Thể của Giáo Hội (24,30.35; Cv 2,42-46). Hơn nữa, không có từ “tăng lên nhiều”; chỉ có chuyện bẻ ra và phân phát bánh thôi. Được nhắc đến hai lần, nhưng các con cá lại ở vào thế phụ thuộc, vì lý do các động từ liên quan đến bữa tiệc Thánh Thể được dùng ở đây. Cuối cùng nơi mà năm trình thuật khác trong Tin Mừng nhắc đến “chúc tụng Chúa” hoặc “tạ ơn Chúa”, chỉ có Luca nói chúc lành cho thực phẩm. “Bằng lời chúc lành”, Chúa Giêsu chuyển trao sức mạnh của ngài sang bánh và cá như khi chữa bệnh, một quyền năng xuất phát từ Ngài và làm cho phép lạ xảy ra (F. Bovon). Trái với các trình thuật chữa bệnh, ở đây không có thể phát biểu ý kiến về biến cố dựa trên một trình thuật như thế.
2V 4,44 ghi chú: “Tên đầy tớ phân phát trước mặt mọi người: họ đã ăn và còn dư lại theo lời Thiên Chúa”. Ở đây cũng vậy, thêm vào việc mọi người ai nấy được no nê là còn thừa những miếng bánh đã bẻ ra (dịch sát: những miếng vụn, cũng là một từ của bữa tiệc Thánh Thể); tất cả là mười hai thúng. Cuối cùng thì mỗi người trong nhóm Mười Hai (xc.12) mang một thúng đầy. Như vậy là một cách đọc có tính tượng trưng đã rộng mở…
Không hề có một phản ứng nào về phía đám đông, dường như họ không biết đến những gì vừa xảy ra. Trái lại, phản ứng của nhóm Mười Hai sẽ xảy ra ngay tức khắc; phép lạ hoá bánh ra nhiều chuẩn bị cho lời tuyên xưng của Phêrô liền ngay sau đó.
Hôm nay là “Lễ Mừng Thiên Chúa”! Từ đó xem ra kỳ lạ, nhưng được tuyển chọn để nói lên mầu nhiệm “Mình và Máu Đức Kitô”, là dấu chi vĩ đại, là bí tích thiêng thánh của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Vì thế để gợi lên cho ta thấy bí tích Thánh Thể quan trọng này, Giáo hội đã chọn, để năm nay chúng ta đọc lại một phép lạ liên hệ đến “vật chất”: đó là phép lạ hóa bánh ra nhiều. Làm như thế có phải là giảm nhẹ mầu nhiệm không? Có lẽ đó là điều gây cho ta nhiều ngỡ ngàng. Với tinh thần duy lý, chúng ta không thường hiểu sai, khi muốn vật chất hóa bánh ra nhiều một cách triệt để, hãy thiêng liêng hóa bữa tiệc Thánh Thể đến cùng sao? Thực sự, chúng ta sẽ nhận ra rằng, hai thứ bánh đó liên kết với nhau. Để nói lên Đức Giêsu cho đám đông dân chúng đói bụng ăn no nê, Luca sử dụng chính những công thức của Bữa Tiệc ly… Nhưng ông cũng sẽ diễn tả Thánh Thể như một bữa ăn huynh đệ, đòi phải phục vụ lên nhau cách cụ thể.
Có lẽ chúng ta cần nhận ra rằng, “bánh của Thiên Chúa” đòi ta phải thương tới anh em mình, tới “bánh của con người”… hoa quả và ruộng đất công lao của con người! Vì lòng thương yêu chúng ta, khi trao nộp Mình và Máu Ngài, Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy làm như thế. Làm sao Thánh Lễ của chúng ta lại có thể thoát ra ngoài thế gian được?
Đức Giêsu đã nói với đám đông về nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa.
Ngay những lời mở đầu, Luca đã tiếp tay rất nhanh, để độc giả của ông, những Kitô hữu sống Thánh Thể mỗi Chúa Nhật, hiểu rõ ý nghĩa biểu tượng của trình thuật ông sẽ kể. Cũng như trong thánh lễ, bữa ăn mà Đức Giêsu sắp cống hiến cho đám đông, bắt đầu bằng một “Phụng vụ Lời Chúa”. Cần phải hiện diện tại đó ngay từ đau để được dưỡng nuôi bằng chính Giêsu đó, Đấng “nói về nước Thiên Chúa” và “chữa lành những ai cần được chữa”. Phải, dấu chỉ của bánh che giấu một khuynh hướng biểu tượng sâu sắc mà ta cần phải hiểu ý nghĩa vượt trên thực tại vật chất trực tiếp. Lương thực sắp được trao ban, không chỉ nhằm tới làm dịu cơn đói phần xác, dù rằng trước hết nó đóng vai trò đó. Con người không chỉ sống bằng cơm bánh! Cơn đói khát của con người không phải chỉ là những lương thực trần gian. Lát nữa họ có nhận ra Đấng sẽ ban cho họ “bánh bởi trời” (Ga 6) không?
Đức Giêsu “nói đến nước Thiên Chúa”. Do đó, đây là Lời giải thoát con người, là Ngôi Lời cứu độ con người, là sứ điệp mở lối cho con người tới Thiên Chúa. Hỡi con người giá như người biết nhu cầu đích thực của ngươi? Giá như ngươi biết rằng, sự “no thỏa” duy nhất và thực sự của người là chính Thiên Chúa. Người được tạo thành để hưởng hạnh phúc vô biên, mà các hạnh phúc trần gian chỉ là một thứ hình ảnh mờ nhạt. Vậy, bạn đừng hài lòng vì những thứ bánh ngọt, món rau đỗ, hay món thịt bò với khoai tây rán…
Đức Giêsu “chữa lành những ai cần được chữa”. Đó là kiểu nói đầy tính mạc khải. Luca biết rằng có lẽ mọi người đều cần đến việc chữa lành như trên, mà Đức Giêsu sẽ mang đến. Nhưng rõ ràng, có quá nhiều người còn đang đóng kín trong tiểu vũ trụ con Người riêng tư của họ, thường không cảm nhận được những giới hạn sâu xa của mình, như tội lỗi và định mệnh phải chết. Họ cứ tưởng mình là “mạnh khỏe”! Thế mà, Đức Giêsu không đến với người mạnh khỏe, những kẻ công chính, nhưng đến với kẻ đau bệnh và tội lỗi (Lc 5, 31). Đó thực là “hồng ân cứu độ của Thiên Chúa, sắp được biểu trưng trong lương thực mầu nhiệm có sức làm no thỏa và vô cùng phong phú… mà Đức Giêsu (theo tiếng Hê-brơ danh của Ngài có nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”) sẽ trao ban cho “những ai cần đến”! phần tôi, tôi có thuộc vào những người đó không?
Ta cũng đã thấy, tại điểm nào mà kiểu giải thích nhằm đơn giản hóa sự việc, muốn tìm hết cách để hợp lý hóa phép lạ, và cố nói lên rằng, Đức Giêsu đã thuyết phục dân chúng để họ đưa ra những đồ dự trữ mà họ cất giấu, do đó gợi lên một thái độ chia sẻ chung. Kiểu giải thích này không nghiêm chỉnh. Nó biến Tin Mừng thành một thứ tiểu thuyết màu mè, dù đã đưa ra được một bài học liên đới khá tốt.
Cũng thật là ấu trĩ khi nghĩ rằng, Chúa là Đấng không ngừng làm cho các đồng bắng trên thế giới đẫy rẫy những mùa gặt từ vài hạt lúa, lại có thể gặp lúng túng khi hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh… Thánh âu Tinh đã phát biểu như thế.Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn. Nếu đó là ơn cứu độ, là sự sống đời đời, thì chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng “Hỡi con người nếu ngươi nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban” (Ga 4, 10). Ôi, hỡi chị phụ nữ xứ Samari, cơn khát khao của chị không phải là cơn khát ở nước giếng này! (Ga 4,15) Còn tôi, tôi có đói khát không?
Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giêsu thưa người rằng: “Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng…”.
Vẫn là nết nhạy bén của Luca. Dừng lại những chi tiết vật chất của cảnh tượng trên, có nghĩa là bỏ quá điều cốt yếu. Làm sao những người quen thuộc Kinh Thánh lại không nhận ra trong thứ bánh được trao ban cho dân chúng “trong hoang địa”: Một nhắc nhở đến phép lạ “man na” kỳ diệu trong Xuất Hành? Đức Giếsu là Môsê mới, “nhà giải phóng” mới, Đấng,”cứu khỏi vùng đất tử thần” hoang địa!
Không phải nhờ đi đến các nông trại làng mạc mà đám đông được cứu sống… nhưng chính là nhờ ở lại với Đức Giêsu! Hỡi các tông đồ, các ông đã nhầm lẫn khi kiếm tìm giải pháp trong phạm vi nhân loại.
Nhưng Đức Giêsu bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn. Các ông đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá… trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này”. Quả thực, có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy cho họ ngả lưng thành từng nhóm khoảng năm mười người một”. Các môn đệ làm y như vậy và cho mọi người ngả lưng xuống.
Ta không thể không ngạc nhiên, về những vai trò mà Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ thể hiện: thế nhưng chính Đức Giêsu sắp “ban bánh”… và nhóm Mười Hai sắp phân chia bánh. Trước hết, họ được trao cho trách liệm tổ chức đám đông ô họp thành “cộng đoàn” có cơ cấu. Họ được Đức Giêsu thiết lập như các “thừa tác viên”, nghĩa là những “người phục vụ”. Làm sao các cộng đoàn thời Luca lại không hiểu được ám chỉ đó! Trình thuật mang tính đồng quê trên đây chắc chắn hàm chứa nhiều màu sắc phụng vụ hơn chúng ta tưởng, nếu ta không dừng lại ở vẻ bề ngoài.
Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao ban cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.
Hiển nhiên là những từ trên được Luca chọn lựa, để nhắc lại nghi thức phẩm trật và phụng tự của Thánh Thể. Diễn tiến bốn cử chỉ Thánh trên đây, cũng sẽ được Luca thuật lại trong bữa tiệc ly thứ Năm Thánh và trong bữa ăn tại làng Em-mau:
Tại hoang địa (Lc 9, 15)
Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh…
Ngài chúc lành…
bẻ ra…
và trao ban…
Tại phòng Tiệc ly (Lc 22,19)
Ngài cầm lấy bánh…
dâng lời tạ ơn…
bẻ ra….
và trao ban…
Tại Em-mau (Lc 2430)
Ngài cầm lấy bánh…
dâng lời chúc tụng…..
bẻ ra…
và trao cho họ…
Những lời trên không chắc chắn buộc chúng ta phải dừng lại trên lối giải thích, các Kitô hữu đầu tiên đã làm trước việc hóa bánh ra nhiều nổi tiếng mà các Tin Mừng không tường thuật cho ta ít hơn sáu câu đối chiếu (Mt 14, 13.21 và 15, 32.39 Mc 6, 30.40 và 8, 1.10 Lc 9, 10.17 Ga 6, 1,15). Khi linh mục, thừa tác viên phục vụ của Đức Giêsu lặp lại giữa chúng ta, trong cộng đoàn, bốn cử chỉ trên đây của Đức Giêsu, thì chính Người đang thực sự làm lại và: hiện diện giữa chúng ta. Thánh lễ có thể giúp ta, trong Đức tin gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh, Đấng chiến thắng sự dữ và tử thần, do đó là Đấng cứu chuộc con người. Bánh được bẻ ra và trao ban, đó là dấu chỉ mà “Thiên Chúa ở cùng chúng ta. “Bánh đó chính là bản thân của Đức Giêsu được trao ban cho ta… là chính con người nhiệm mầu, như hai đoạn văn liền kể trước sau với trình thuật hóa bánh ra nhiều gợi lên cho ta: “ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện lạ như thế? Hêrôđê tự hỏi (Lc 9, 7.9)… “Anh em bảo Thầy là ai?”. Đức Giêsu hỏi các bạn hữu, ngay khi Người làm phép lạ trên đây (Lc 9, 18.27). Nếu chúng ta không trả lời câu hỏi về căn tính của Đức Giêsu trên đây, thì “dấu chỉ bánh” vẫn còn giữ vẻ hời hợt bên ngoài. Như thế có phải là các Kitô không cần quan tâm đến sự đói khát vật chất của mình không? Cộng đồng chủng người trẻ của Taizé trả lời rằng việc phụng thờ và công cuộc phát triển liên kết với nhau. Việc bạn chia sẻ cơm bánh, thái độ dấn thân để thay đổi xã hội, cử chỉ cho kẻ đói ăn, hành động phục vụ kẻ khác… những việc làm như thế rất quan trọng. Trước hết bạn hãy thực hiện những công tác đó! Nhưng bạn cũng đừng quên tôn thờ, gặp gỡ con người của Đức Giêsu Đấng cứu độ… Nếu không, bạn có thể làm thất vọng anh em mình về điều họ đang cần nhất. Họ là làm no thỏa cái bụng, họ cần sự thỏa mãn mà Thiên Chúa sẽ mang đến nếu bạn biết trao cho họ. Bởi vì, bánh hằng ngày của con người (không có gì tầm thường hơn là bánh!), cần phải trở nên Minh Thánh Đức Kitô. Không được phung phí bánh của con người. Một mầu nhiệm đang ẩn giấu ở đó.
Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.
Không được vứt đi một mảnh nào của đời người, một miếng nào của tầm thường, một giây nào của mỗi ngày… từ khi Thiên Chúa đã nhập thể vào đó! Lạy Chúa là Chúa tể càn khôn – chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa mầu ruộng đất và công lao của con người, xin dâng lên Chúa để bánh này trở nên bánh tràng sinh nuôi dưỡng chúng con!
Nhưng chúng ta cũng biết rằng, lúc đó đám đông chưa hiểu gì. Họ muốn tôn Ngài làm vua, gán cho Người vai trò của Đấng Mêsia, theo quan điểm chính trị, đóng khung Người trong phạm vi nhân loại! Người đã không nhận. Người “lánh mặt đi lên núi” (Ga 6, 15) và “Người bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia” (Mc 6, 45).
Xin ban cho chúng con lương thực hằng ngày… lương thực này và lương thực kia!
ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH, PHÂN PHÁT DƯ DẬT CHO DÂN CHÚNG TRONG HOANG ĐỊA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Lua đã đặt trình thuật hóa bánh ra nhiều vào giữa hai câu hỏi về thân thế của Đức Giêsu:
+ Câu hỏi của vua Hêrôđê, ông không biết nghĩ sao khi nghe nhưng dư luận rất khác nhau về Đức Giêsu. “Có kẻ nói: Đó là ông Gioan Tẩy Giả từ cõi chết sống lại. Kẻ khác nói: ông Êlia xuất hiện đấy. Kẻ khác nữa lại nói: Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại. Còn vua Hêrôđê thì nói: Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế? Rồi vua tìm cách thấy mặt Đức Giêsu ” (9,7-9).
+ Câu hỏi của chính Đức Giêsu (9, 12-20): “Đám đông nói Thầy là ai?… Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? “. Và Phêrô sẽ đáp lại bằng lởi tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa ” (Tin Mừng Chúa nhật tới).
– Luca cũng đặt trình thuật nào vào bước ngoặt của sứ vụ Chúa thi hành ở Galilê, khi sứ vụ sắp kết thúc. F. Prod’hom giải thích: “Tấm thảm kịch tới hồi bi thảm, một bên là nhà cầm quyền sẽ thù nghịch, và đám đông hồ hở lúc ban đầu, nhưng rồi chán nản vì lòng nong mỏi một Đấng Kitô trần tục không được đáp ứng; một bên là các môn đệ và Đức Giêsu thì cố gắng làm cho họ hiểu bản chất đích thực của sứ vụ cứu thế của Người… Ta không thể đọc trình thuật về việc hóa bánh ra nhiều, mà không nghĩ đến lúc này Đức Giêsu đang bị cơn khủng hoảng: người tự thấy mình bị một số người lìa bỏ những người đã không có thể vượt lên trên những mong mỏi trần tục của họ; cũng lúc này Phêrô và các bạn được mời gọi chứng tỏ lòng tin yêu phó thác, quyết tâm đi theo Đức Giêsu.” (“Assemblée du Seigneur”, số 32, trg 60-61).
– Sau cùng, Luca liên kết trình thuật này với việc sai mười hai ông đi truyền giáo lần đầu, các ông được sai đi “công bố Vương Quốc Thiên Chúa” (9,1-2). Các ông trở về và “báo cáo cho Đức Giêsu những việc các ông đã làm”. Rồi Đức Giêsu dẫn các ông vào nơi vắng vẻ. Chính lúc đó thì đám đông đi theo Chúa và biến cố đã xảy ra, khi mà Mười Hai trình bày cho Thầy mình biết nhu cầu của đám đông và thú nhận sự bất lực trước tình thế cấp bách như vậy, thì Đức Giêsu truyền cho các ông phân phát cho mọi người năm chiếc bánh và hai con cá. Công cuộc truyền giáo được kết thúc bằng việc phục vụ đám đông.
“Ngày đã bắt đầu tàn”. Các môn đệ hỏi nhau: Chúng ta đang ở “một nơi hoang vắng”. Lấy gì ăn đây. Bởi vì có tới “năm ngàn người” mà lương thực dự trữ chỉ có “năm ổ bánh và hai con cá”. Trong khi các ông nghĩ rằng tốt nhất là giải tán cho họ về nhà, thì Đức Giêsu lại trả lời: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi”.
Trước hết, Đức tin truyền cho các ông: “Anh em hãy bảo họ ngả mình xuống. Rồi Người cầm lấy bánh, cá, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông phân phát cho đám đông. Thức ăn dư dật đến độ còn dư thừa “12 thúng”. Mỗi thúng cho một ông trong nhóm mười hai.
Mọi nhà chú giải Thánh Kinh đều đặt trình thuật việc lập Bí tích Thánh Thể đối chiếu với việc hoá bánh ra nhiều. Nhưng còn có sự đối chiếu song hành nổi bật hơn nữa, đó là đối chiếu với trình thuật về hai lữ khách đi Emmaus.
– Cũng như ở Luca 24,13-35 (“Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đên Người trong Sách Thánh”). Việc chia sẻ Lời Chúa (“Đức Giêsu nói với họ về Nước Thiên Chúa”) xảy ra trước dấu lạ bánh được chia sẻ và được hóa ra nhiều là chóp đỉnh của trình thuật.
– Cũng như ở Luca 24,29 (“Mời Ngài ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều là ngày sắp tàn”) thì cũng vào lúc “ngày bắt đầu tàn” xảy ra việc hoá bánh ra nhiều.
– Cũng như ở Luca 24,40, thì ở Luca 22, 14 cũng tả tư thế của những người tham dự là thế nằm (“anh em hãy bảo họ ngả lưng xuống”) theo phong tục của thời đó khi ăn tiệc lớn.
– Cũng như ở Luca 24,30 thì ở Luca 22,14 chúng ta gặp thấy 4 động từ đặc điểm của việc dâng lễ tạ ơn: Đức Giêsu cầm lấy 5 ổ bánh… ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ.
Hành động mà Đức Giêsu đã làm và những lời Người đã nói lúc ấy để “làm dấu chỉ” cho sứ mệnh của Người là tái lập nước Thiên Chúa, đã không được hiểu ngay lúc ấy. Nhưng sau cuộc khổ nạn và “biến cố vinh quang”, “trong ánh sáng của Thánh Linh” thì cộng đoàn tiên khởi đã làm sáng tỏ điều Người “thực sự đã làm và đã dạy”.
Sau hết, ta nhận thấy trình thuật này được trình bày như một dụ ngôn bằng hành động mô tả sứ mệnh của Đức Giêsu và của Hội Thánh Người như thế nào.
– Trước đám đông dân chúng, mải miết đi theo Người vào chốn hoang vắng này, đến nỗi quên rằng giờ đã muộn và lại ở xa với địa điểm có thể tìm được lương thực, thì Đức Giêsu là một vị Ngôn sứ thượng thặng (vượt xa những ngôn sứ trong Cựu ước, như Êlia, vị ngôn sứ đã nuôi 100 người bằng 20 ổ bánh (2V 4.44), qui tụ và nuôi sống Dân Thiên Chúa.
Trong Người, Nước Thiên Chúa đã khai mở, sự trông ngóng của muôn người được đáp ứng ngoài mong đợi. Của ăn mà Người vừa cung cấp cho họ một cách nhưng không và dư dật tràn trề, chính là ơn cứu độ của Thiên Chúa.
– Đám đông không còn tản mát và bơ vơ, mà đã được qui tụ được tổ chức “thành từng nhóm năm mươi người” (Giống như dân Israel trong sa mạc: Xh 18, 21-25; Ds 31, l4; Đnl 1,15) làm thành một cộng đoàn cùng nhau dự tiệc, gợi nhớ đến Dân mới và Bữa tiệc cánh chung mà, theo lời Chúa hứa, kẻ nghèo sẽ được ăn uống no nê.
Còn về Nhóm Mười Hai, tác vụ tông đồ các ông thi hành ở đây mang một ý nghĩa biểu trưng. Đức Giêsu cho các ông hợp tác cụ thể với sự nghiệp của Người (“Các anh em hãy cho họ ăn”). Chia công tác cho các ông, truyền cho các ông tổ chức dân chúng (“Anh em hãy bảo họ ngả mình từng nhóm năm mươi người…”), và phân phát bánh đã hóa nhiều cách rộng rãi (“Đức Giêsu đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông phân phát cho mọi người”).
Khi nói đến bánh dư thừa thu gom lại được “12 thúng”, thì tuy trình thuật kết thúc ở đây, nhưng vẫn mở ra cho sứ mệnh phổ quát của Hội Thánh qua không gian và thời gian.
Francois Bovon kết luận: “Nhìn theo quan điểm Giáo Hội học, Đức Giêsu mời gọi sự cộng tác của các môn đệ, dù rằng, trước phục sinh, các ông chưa hoàn toàn hiểu được điều đang xảy ra. Việc làm trung gian là Người trao cho Nhóm Mười Hai báo trước tác vụ và trách nhiệm tương lai của các ông sau phục sinh. Như vậy đã rõ, Đức tin thiết lập tác vụ như một sự phục vụ chứ không phải như một sự thống trị. Căn nguyên của tác vụ này và những thiện ích phát sinh từ đó ra, không hệ tại bản thân thừa tác viên, nhưng hệ tại Thiên Chúa, đang tuyển chọn và bổ nhiệm. Công việc của thừa tác viên giống như đời sống của Giáo Hội có phát triển bên ngoài (1,1 –16,10a) và bên trong (9. 10-l7) đó là phải bung ra thế giới ngoại giáo, đồng thời phải xây dựng cộng đoàn thánh thiện.
Dân Thiên Chúa vì thế phải lên đường cả ngày lẫn đêm, nơi thôn quê cũng như thành thị, và sa mạc. Chắc chắn Chúa yêu thương họ, săn sóc và nuôi dưỡng họ bằng cách thế không thể ngờ. Người ban tặng họ ân huệ cao quý và dư dật, nhờ con của người là nhờ những môn đệ mà Con Chúa đã tuyển chọn. Ơn huệ dồi dào này không chỉ dành riêng cho nhóm dân khác. Thông hiệp vào tình yêu của Thiên Chúa không phải là hình thức loại trừ, nhưng là sự hội nhập có tính năng động”
BÀI ĐỌC THÊM:
(L. Sintas trong “Parole de Dieu pour la méditation”).
Đức Giêsu đang nói với đám đông về Vương quốc Thiên Chúa. Vậy mà khi vừa mới giảng về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu liền truyền cho đám đông ngồi xuống như để đưa ra cho họ một hình ảnh cụ thể. Thế còn cử chỉ Người làm trước mắt họ là cử chỉ nào? Đó là việc hóa bánh ra nhiều. Vua đích thật của Vương quốc chẳng có gì kiêu kỳ cả. Người biết rất rõ đám thính giả của Người đang đói. Đám đông đói lả này tượng trưng cho cả nhân loại. Người ta nói rằng đám đông ấy đông vô kể. Phần các môn đệ, các ông nghĩ là nên giải tán để cho họ đi vào các làng lân cận mà lo kiếm của ăn. Nhưng Đức Giêsu lại nghĩ khác. Người yêu cầu cho họ ngồi xuống. Chính Người sắp lo liệu cho đám dân này mà Người lại làm công việc đó một cách khiêm tốn. Người đã không coi chuyện năm ổ bánh và hai con cá nghèo nàn mà các môn đệ nói cho biết là chuyện nghiêm chỉnh chăng? Chính những ổ bánh là những con cá này mà Người hóa ra nhiều đấy.
Chúng ta cũng được biết trong trí của Đức Giêsu (việc hóa bánh ra nhiều) là dấu lạ loan báo một của ăn khác. Nếu ta vận dụng ý nghĩa của cử chỉ Chúa làm, thì ta có thể cả quyết rằng phép Thánh Thể cũng như phép lạ ta vừa chứng kiến, không phải là một trò ảo thuật. Việc làm của Đức Giêsu dựa trên việc hiến dâng 5 ổ bánh và 2 con cá. Đó chính là vai trò hết sức chủ động dành cho ta trong phép Thánh thể Đức Kitô muốn ghép hồng ân Thánh Thể vào chính bánh và cá cũng như cuộc sống của ta. Thánh Phaolô sẽ nói lên điều đó. Chúng ta là thân thể của Đức Kitô. Vì thế, trong khi cử hành bí tích Thánh Thể cũng như mọi bí tích khác, chính chúng ta cũng phải cống hiến 5 ổ bánh và 2 con cái mà ta có. Những thứ đó chẳng là gì sánh với đám đông đang đói lả ngày nay. Tuy nhiên, nếu không có những thứ đó, Bí tích Thánh Thể sẽ chỉ còn là một trò ảo thuật. Đức Giêsu, với quyền năng của Người, Người sẽ biến đổi, sẽ hiến thánh sự nghèo nàn của những việc ta làm và thực tại cuộc sống của ta.
Nước Thiên Chúa sẽ hoàn tất cách tuyệt hảo những gì mà con người có can đảm cống hiến cho người nghèo đang van xin, cho người đau yếu đang rên rỉ, cho tù nhân đang đòi hỏi công lý, cho người cùng khổ đang đau đớn và than khóc. “Điều gì anh em làm cho người bé nhỏ nhất trong các anh em Ta đây là đã làm cho chính Ta vậy ” (Mt 25,40) “.
(Fête-Dieu, tạp chí “Célébrer” do CNPL., số 219, trg 42)
Đức Giêsu tiếp đón đám đông dân chúng. Cụm từ đó đi liền trước và dẫn vào trình thuật về bánh được phân phát trong Tin Mừng Luca. Bí tích Thánh Thể, chính là việc Thiên Chúa tiếp nhận chúng ta vào bàn ăn của Người, và việc người đón tiếp thì rất cụ thể: trong khung cảnh một bữa ăn để ta có cái ăn.
Thiên Chúa tiếp đón chúng ta ở bàn tiệc sự sống của Người. Bánh và rượu được ban để làm cho sự sống của Chúa hoạt động trong ta “trong sinh hoạt thường ngày”. Lễ Mình Máu Chúa Kitô còn vọng lại âm thanh của mùa phục sinh vừa mới kết thúc, mầu nhiệm Thiên Chúa được tỏ ra trong việc Đức Giêsu chết và sống lại vì chúng ta. Lễ này cũng nhắc lại sự hiệp thông trong Ba Ngôi Thiên Chúa, mà ta vừa mới cử hành Chúa nhật vừa qua trong lễ Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu tiếp nhận ta vào sự sống của chính Thiên Chúa. Khi ăn bánh và uống chén rượu, chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là giờ phút để ta “cám ơn”, tạ ơn Thiên Chúa.
Trong lễ Mình Máu Chúa (Fête-Dieu), Thiên Chúa sẽ hoan hỉ khi mọi con cái loài người đều có chỗ ngồi và có của ăn. Và trong “sinh hoạt thường ngày”, ai sẽ được trao nhiệm vụ đón tiếp đám đông để nói cho họ về Nước Thiên Chúa? “Anh em hãy cho họ ăn đi”. Trọng trách được trao cho các môn đệ. Ân huệ kéo theo nhiệm vụ. Nếu ân huệ là cụ thể, thì nhiệm vụ cũng vậy thôi. Chúa không ngừng hướng dẫn Hội Thánh Người đến với những người đang đói.
Chiều sắp tàn, nhà thì xa, và dân chúng đều mỏi mệt, đói bụng. Lạ thay Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải lo cho dân chúng ăn. Có hai cách suy gẫm phép lạ này. Thứ nhất, hiểu đơn giản đây là một phép lạ Chúa Giêsu đã thật sự làm ra thức ăn cho đám người đông đảo này. Thứ hai, có người nghĩ sự việc xảy ra như sau. Dân chúng đói, và họ rất mực ích kỷ. Tất cả đều có đem thức ăn theo, nhưng mỗi người cứ giấu kín vì ngại phải chia sẻ cho người khác. Mười Hai Tông Đồ đem đặt trước mặt dân chúng phần ăn ít ỏi của họ, việc đó đã làm động lòng dân chúng khiến ai nấy cũng bày phần ăn của mình ra, sau cùng mọi người đều có thức ăn dư dật. Khi Chúa cải hoá một số người ích kỷ, nghi ngờ trở thành những người rộng rãi, thì đó là phép lạ vì người ta được thúc đẩy bởi Chúa Giêsu mà có được tấm lòng muốn chia sẻ của cải cho anh em.
Thật ra, nhận định như vậy thì người đó quá chủ quan. Làm sao một câu chuyện như vậy có thể xảy ra lại được ghi trong Kinh Thánh và được cả Hội Thánh sơ khai bàn đến, học hỏi rất nhiều. Tất cả đều công nhận đó là phép lạ Chúa hoá bánh nuôi năm ngàn người (không kể đàn bà con nít, theo văn hoá thời bấy giờ). Tác giả các sách Phúc Âm ghi lại những điều này nhằm nhắc nhở dân Chúa vững tin rằng Chúa luôn thoả đáp nhu cầu của loài người trong lúc họ cần.
Trước khi phân phát thức ăn, Chúa Giêsu đã chúc phúc trên thức ăn, Ngài nói lên lời cảm tạ. Châm Ngôn Do Thái có câu: “Kẻ nào hưởng dùng của gì mà không cảm tạ khác nào kẻ ấy ăn trộm của Chúa”. Lời chúc tụng tạ ơn được đọc trong mỗi gia đình ở xứ Palestine trước mỗi bữa ăn như sau: “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con và là Vua trần gian, ca ngợi Ngài là Đấng làm cho đất sinh ra bánh”. Hẳn Chúa Giêsu không bao giờ ăn món gì mà không cảm tạ Đấng đã ban mọi ơn lành. Đây là một câu chuyện dạy dỗ chúng ta nhiều điều:
Thật thích thú cho chúng ta khi cố gắng tìm hiểu Chúa Giêsu đã dành bao nhiều thì giờ, không phải để giảng, nhưng để làm giảm bớt đau khổ của đoàn dân và cho họ được ăn no. Chúa Giêsu còn chờ đợi sự giúp đỡ của bàn tay loài người. Người mẹ dành cả đời mình để làm việc nội trợ phục vụ gia đình, cô y tá, vị bác sĩ, người bạn thân, người bà con đã hy sinh thì giờ và đời sống để xoa dịu đau khổ cho người khác, các nhà cải cách xã hội đã hy sinh tất cả để tìm kiếm cho loài người một cuộc sống tốt hơn –họ thật đã giảng cách có hiệu quả vượt xa những nhà hùng biện tài ba.
Sự giúp đỡ của Ngài thật đầy đủ và dư dật. Tình yêu không tính toán thiệt hơn. Chúa như thế đó. Khi chúng ta gieo giống, thường chúng ta phải nhổ tỉa bớt cây con cho trống bớt và đôi khi số cây con ném bỏ còn nhiều cây hơn số cây giữ lại. Thiên Chúa đã dựng nên thế giới có thừa của cải để nuôi mọi người nếu loài người sẵn lòng chia sẻ cho nhau.
Trong Chúa Giêsu, mọi nhu cầu của loài người đều được tiếp trợ. Có sự đói khát của linh hồn, trong mỗi con người thỉnh thoảng có một niềm khao khát được gặp một ai đó mà mình có thể gửi gắm cuộc đời. Tâm hồn chúng ta không bao giờ nghỉ yên cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa. Phaolô đã nói: “Thiên Chúa sẽ tiếp trợ mọi sự cần dùng của anh em” (Pl 4,19) dầu trong những chỗ hoang vắng.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn