Các bài suy niệm Chúa Nhật 13 Thường Niên – C
Lời Chúa: 1V 19,16b.19-21; Gl 5,1.13-18; Lc 9,51-62
DẪN NHẬP
Lời Chúa: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đòan phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 13 thường niên hôm nay cho chúng ta thấy ba người thanh niên được kêu gọi đi theo Chúa Giêsu để làm môn đệ. Tuy là ba trường hợp khác nhau, nhưng điều kiện Chúa Giêsu đưa ra đều giống nhau là phải từ bỏ mọi sự và tự nguyện theo Chúa:
Li-sê giãi tỏ tấm lòng,
Bước đi theo Chúa, trả xong nợ trần.
Những ai muốn được chung phần,
Giã từ tất cả, hiến thân giúp đời.
Nhưng khi đã nhận lời mời,
Vững tâm lao nhọc đừng ngơi tay cày.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chọn Chúa làm gia nghiệp, sống theo tinh thần của Tin mừng để tâm hồn luôn dành trọn vẹn cho Chúa. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa luôn tìm thánh ý Chúa Cha trong hết mọi sự. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa làm cho chúng con trở nên con cái Ánh Sáng nhờ sức mạnh Thánh Thần Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Con người không thể tự làm cho mình được cứu độ. Trái lại, con người được cứu độ là nhờ ơn Chúa. Chính Thiên Chúa yêu thương con người trước nên mỗi người đều được Thiên Chúa kêu gọi và Ngài muốn con người đáp lại tình yêu đó. Thiên Chúa kêu gọi mỗi người vào một bậc sống nào đó và trao cho họ một sứ mạng tùy vào đặc sủng mà họ đã lãnh nhận. Thiên Chúa có thể kêu gọi những ai là tuỳ ý Ngài, nhưng Ngài muốn con người đáp lại lời mời gọi để cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa bằng việc từ bỏ mọi sự và tự nguyện đi theo Ngài.
Thưa anh chị em, trường hợp ơn gọi của Êlisê trong bài đọc 1 hôm nay đã làm sáng tỏ cho chúng ta thấy những điều đó. Khi Êlia được lệnh Thiên Chúa sai đi chọn gọi Êlisê kế tục sứ mạng của mình, ông đã phủ áo choàng trên Êlisê. Phủ áo choàng trên Êlisê, không những là biểu hiện sự chiếm hữu Êlisê làm của riêng, làm môn đệ thân tín nhưng còn muốn nói Êlisê cũng được chia sẻ quyền lực và sứ mệnh ngôn sứ. Về phần mình, Êlisê khi đã nghe được tiếng Chúa kêu gọi ông làm ngôn sứ thay cho Êlia. Êlisê xin phép về hôn từ biệt cha mẹ, ông bắt đôi bò làm thịt, chẻ cày làm củi đốt, dọn tiệc từ giã mọi người và từ bỏ tất cả đi theo Êlia với sự tự nguyện và đại độ hy sinh tất cả để nghe theo tiếng gọi của Chúa. Hành động này nói lên quyết tâm của Êlisê và vĩnh viễn sẽ không bao giờ trở lại nghề cũ. Cũng vậy, bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc ba người thanh niên được kêu gọi đi theo Chúa Giêsu để làm môn đệ. Người thứ nhất muốn đi theo Chúa, nhưng Chúa Giêsu cho biết “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”. Người thứ hai cũng xin đi theo Chúa, nhưng trước khi đi với Chúa, anh ta xin cho được về chôn cha của anh mới mất. Chúa trả lời: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”. Người thứ ba cũng xin theo Chúa, nhưng lại xin phép Chúa cho từ giã gia đình trước đã. Chúa Giêsu trả lời ngay: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”. Tuy là ba trường hợp khác nhau, nhưng điều kiện Chúa Giêsu đưa ra đều giống nhau là phải từ bỏ mọi sự và phải chấp nhận một cuộc sống bấp bênh về vật chất. Đúng là một lời dứt khoát, quyết liệt của Chúa Giêsu đối với những ai muốn làm môn đệ của Người.
Trong kinh phật kể rằng, một vị hòa thượng già dẫn theo một tiểu hòa thượng đi thỉnh kinh. Trên đường đi, họ gặp một con sông. Cũng chính tại đó, họ gặp một phụ nữ rất muốn sang sông nhưng không dám lội xuống nước. Không chút đắn đo, lão hòa thượng liền chủ động cõng người phụ nữ đó và đặt cô ta xuống sau khi đã đến bờ bên kia rồi tiếp tục cùng tiểu hòa thượng lên đường. Trên đường đi, tiểu hòa thượng cứ suy nghĩ mãi, không thể nhẫn nại thêm được nữa mới hỏi: “Sư phụ, người phạm giới rồi, tại sao người lại cõng phụ nữ?”. Hòa thượng già đáp: “Ta đã đặt cô ta xuống từ lâu rồi, còn con, đã đi một đoạn đường dài như vậy, con vẫn chưa bỏ được cô ta ra khỏi đầu sao?”.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Câu truyện trên đây muốn diễn tả sứ điệp Chúa Giêsu đưa ra hôm nay cho những ai đi theo Người: chấp nhận và hiểu rõ những đòi hỏi của Tin mừng. Đi theo Chúa là phải dứt khoát từ bỏ chính mình, bước trên con đường hẹp và phải chịu mất mát, hy sinh, thiệt thòi. Mặc dầu đã được giải thoát khỏi tội lỗi nhờ Chúa Kitô, nhưng con người vẫn luôn bị giằng co giữa thiện và ác, giữa sạch và nhơ. Người Kitô hữu không thể bắt cá hai tay vừa chọn Chúa, vừa chọn ma quỉ. Thánh Phaolô cho biết: Chúa Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi để được sống tự do. Chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, không nên lợi dụng tự do mà sống theo xác thịt. Phải có Thần trí hướng dẫn và tăng cường sức mạnh, chúng ta mới mong thực hiện trọn vẹn được sự từ bỏ vì Nước trời.
Nguyện xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng ta vững bước trên con đường theo Chúa đến cùng. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Khi Lê Lợi khởi nghĩa ở đất Lam Sơn, Thanh Hóa, chống lại quân nhà Minh tàn ác cai trị nước ta, có Lê Lai rất giống Lê Lợi. Một hôm, quân ta đánh thua to, chạy về trú ẩn ở núi Linh Sơn, bị quân Minh vây hãm lâu ngày, hết lương thực, Vua tôi hầu chết đói. Lê Lai đã giả làm Lê Lợi hy sinh ra nộp mình cho quân Minh. Chúng tưởng đã bắt được Lê Lợi rồi, chúng kéo quân về. Thế là Lê Lai đã giải thoát cho quân ta khỏi bị quân Tàu tàn sát. Nhờ đó, Lê Lợi chiêu tập quân sĩ đông đảo, đã đánh bại quân Tàu. Nước ta thoát ách nô lệ dã man của nhà Minh.
Tin Mừng hôm nay đã tường thuật cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem, bắt đầu một cuộc khởi nghĩa thiêng liêng.
Giêrusalem mệnh danh là thành đô của Thiên Chúa đang bị quân thù vây hãm tứ bề, đang mong chờ Đấng Cứu thế đến giải thoát. Đức Giêsu lên Giêrusalem hy sinh nộp mình như Lê Lai, để cứu thoát thành thánh. Đức Giêsu đã biết rõ: “đã tới ngày Người được rước lên trời” Ngày Người sắp kết thúc một cuộc khởi nghĩa vĩ đại giải phóng muôn dân thoát ách nô lệ tử thần. Người thấy rõ mục đích cuộc khởi nghĩa thần thánh này sắp đến ngày chiến thắng vinh quang, nên “Người nhất quyết lên Giêrusalem, khuôn mặt gân guốc của Người hướng thẳng về thành Thiên Chúa đang lâm nguy. Nhưng càng cam go cực khốn, thì càng vinh quang rực rỡ, vì “Con Người phải qua đau khổ mới tới vinh quang”, “Con Người bị bắt, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Trận chiến đã bắt đầu Người sai sứ giả đi thăm dò và về báo cáo những trở ngại. Có những đoàn quân Samaria phục kích chặn đường tiến bước. Các môn đệ xin Người lấy lửa bởi trời xuống đốt, nhưng Người không dùng chính sách bạo động đốt sạch, giết sạch, dù Người đang nắm trong tay toàn quyền của Thiên Chúa. Người đã dùng đường lối bất bạo động, nhún nhường khiêm tốn tìm đường khác để đi. Toàn quyền của Thiên Chúa để thực hiện lòng thương yêu họ, cho họ được sống và được sống dồi dào, chứ không để hủy diệt. Thiên Chúa như thân phụ và từ mẫu chậm bất bình và giàu lòng thương xót. Người kiên nhẫn kêu gọi ta. Người chịu đựng mọi từ chối, mọi xúc phạm. Người hằng chờ đợi mọi trì trệ, lì lợm cứng lòng. Người khát khao ta tham gia vào cuộc hành trình khởi nghĩa của Người. Người đã kêu to: “Ta khát”.
Suốt cuộc hành trình, Đức Giêsu kêu gọi mọi người đồng hành với Người lên Giêrusalem. Có kẻ tình nguyện đi theo Người. Nhưng khi thấy Người sống quá nghèo, quá khắc khổ, chưa được bằng: “Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Họ không còn can đảm dấn thân theo Người. Người kêu gọi kẻ khác: “Anh hãy theo tôi”. Nhưng anh còn mắc ngăn trở, xin về chôn cất cha mẹ trước đã. Anh có lòng hiếu thảo thực thi giới răn thứ bốn thảo kính cha mẹ thì rất quý. Nhưng thời giờ cấp bách, cuộc hành trình thiêng liêng đang tiến công như vũ bão, không thể dừng bước. Người nói với anh: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa”. Anh phải hiểu rằng: Hy sinh cho nước trời, cho thành của Thiên Chúa, chính là giải thoát cho cha anh khỏi tay tử thần. Đó mới là đại hiếu, đại nghĩa, đó là làm cho cha anh được sống lại muôn đời, đâu còn phải lo chôn cất cho cha anh nữa.
Kẻ khác cũng xin tình nguyện theo Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy nhưng xin Thầy cho phép tôi về từ biệt gia đình trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đằng sau thì không thích hợp với Thiên Chúa”.
Anh này có lẽ muốn như Êlisê xưa, xin về từ giã cha mẹ bà con rồi đi theo Chúa. Êlia đã cho Êlisê cứ về từ giã, còn Đức Giêsu thì không. Đức Giêsu, Ngài là ai mà đòi hỏi chúng ta từ bỏ mọi sự dứt khoát như thế? Ngài muốn chúng ta theo gương Ngài rời bỏ mẹ hiền Maria của Ngài, từ bỏ bà con quê hương Ngài. Chính Đức Giêsu ngay khi lên mười hai tuổi, Người đã trả lời cha mẹ rằng: “Sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận thi hành ý Cha con sao?” (Lc. 2, 44), ưu tiên thực hiện ý Cha trên trời mới quan trọng, “Còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau”.
Thiên Chúa phản đối bất cứ ưu tiên nào của chúng ta: Dù là ưu tiên an táng cha mẹ hay từ giã gia đình. Còn chúng ta lại đặt ưu tiên của chúng ta hơn ưu tiên của Thiên chúa. Mỗi ngày Chúa Nhật, ưu tiên của ta là nghỉ ngơi, giải trí, ăn uống, vui chơi… Còn lễ lậy, từ thiện bác ái, sinh hoạt đạo đức sẽ tính sau.
Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã quyết tâm bắt đầu cuộc khởi nghĩa thiêng liêng với bất cứ giá nào, để trả lại quyền ưu tiên cho Thiên chúa, chống lại mọi thứ ưu tiên của satan, của thế tục, của mỗi người chúng ta, vì Người đến “giải phóng mọi xiềng xích nô lệ, cho chúng ta được tự do chân chính vững chắc muôn đời” (Gl. 5,1)
Lạy Chúa, xin cho con quyết tâm đồng hành với Ngài trên đường tiến về thành Thiên Chúa. Xin cho cho con được vác thập giá với Ngài và cùng chết với Ngài trên đỉnh cao chót vót để cùng được rước về trời với Ngài vinh quang.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Đối với Kitô hữu chúng ta, và có lẽ cả các tín đồ các tôn giáo khác nữa, thì việc dành cho Thiên Chúa sự kính trọng xứng đáng luôn là mối bận tâm hàng đầu, đặc biệt là trong các việc thờ phượng, các nghi lễ phụng tự; điều đó là đương nhiên, là phổ biến, và không có gì để mà bàn cãi. Tuy nhiên hình như có một điều gì còn quan trọng hơn cả sự kính trọng và tôn vinh, một điều rất đặc sắc của riêng Kitô hữu mà rất thường khi chúng ta hầu như quên lãng hoàn toàn, đó là: hiểu thấu lòng từ nhân và hay thương xót của Thiên Chúa; Tân Ước xem ra rất coi trọng điều này, bởi vì đó là nội dung chính mà Đức Giêsu đã đến trần gian để khải mở cho chúng ta được biết (xem Ga 3:16).
Các môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an quả rất nhiệt tình; các ông muốn thấy Thầy Giêsu của mình phải được mọi người đón tiếp xứng đáng; chính lòng nhiệt thành đã thôi thúc các ông xin Thầy cho phép khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy dân làng Sa-ma-ri đã từ chối đón tiếp Thầy. Các ông những tưởng sẽ được Thầy Giêsu khen thưởng và trọng dụng, nhưng tất cả những gì các ông nhận được là lời quở mắng; kỳ lạ thay!
Chúng ta đã từng bao nhiêu lần được chứng kiến những nhiệt tình tương tự, như cha xứ quở trách giáo dân đã không tiếp đón đức cha cách long trọng cho đủ, bề trên phiền trách hội viên đã không coi trọng mình cho phải lẽ… (chưa nói tới thói đời là tiền hô hậu ủng); và thường thì ta cho điều đó là hoàn toàn đúng, vì tôn ti trật tự xã hội đòi phải vậy. Thế nhưng cái điều quan trọng hơn kia thì lại rất khó nuốt trôi, và không biết tới bao giờ ta mới học cho thuộc. Đã mang danh là Kitô hữu (hơn nữa một tu sĩ theo Đức Giêsu sát hơn, “Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo”), ta không thể không thuộc bài học căn bản đó dầu cho nó có khó trôi tới mấy đi nữa: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” – bài học duy nhất Đức Giêsu đã muốn được trực tiếp dạy các môn sinh của Người!
Thiên Chúa của Đức Giêsu cần lòng thương xót, trước cả được tôn vinh: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần hy lễ”; nói cách khác, tôn vinh cao nhất mà Người muốn nhận được phải là lòng nhân ái xót thương. Người chấp nhận không có lấy một chỗ tựa đầu nên chưa bao giờ đòi các môn đệ phải dọn cho mình một chỗ xứng đáng để ngả lưng! Là Kitô hữu, một khi đã khởi sự con đường môn đệ bằng việc đón nhận lòng thương xót tha tội (bí tích Rửa Tội), tôi biết Người không muốn tôi, vì bất cứ lý do gì (kể cả hợp lý nhất), ngoái cổ để tìm lại thứ tôn vinh phải phép dành cho Thiên Chúa. Điều mà Người thật sự mong muốn, là tôi tham dự cách trọn vẹn và quyết liệt vào lòng nhân ái và xót thương mà Người đã dày công minh chứng khi đến trần gian.
Ôi, bài học xem ra dễ đó lại thật khó biết bao! Đức Giêsu đã không tỏ vẻ phấn khởi lắm với nhiều kẻ xin theo Người…, vì họ đinh ninh: theo Người là tôn vinh Thiên Chúa với cả một hệ thống luân lý và tu đức khắt khe; đàng này, Người đòi các môn đệ trung kiên phải thuộc bài học nhân ái tới độ tự hủy hoàn toàn… thì ít ai có thể học cho thuộc. Phê-rô được chọn làm thủ lãnh sẽ phải củng cố niềm tin của các anh em chính ở điểm này, sau khi bản thân ông đã thấm thía bài học xót thương và tha thứ của Thầy sau ba lần chối bỏ.
Tôi thầm ước: việc theo sát Đức Giêsu của mình (đã hơn 50 năm rồi còn gì!) sẽ giúp tôi hiểu và học thuộc được bài này. Tôi cầu mong cho mọi phần tử trong Hội Thánh, đặc biệt các linh mục và tu sĩ, sẽ hết lòng làm vinh danh Thiên Chúa trong chính nội dung này. Mong họ sẽ trở thành dấu chỉ làm cho một nhân loại (kể cả các tôn giáo khác) đang lao đầu kiến tìm các thứ quyền lợi, danh dự và vinh quang cho thần tượng hay thần thánh của họ (đôi khi rất chính đáng) biết rằng: có một ‘vinh quang đích thực’ mà Thiên Chúa của các Kitô hữu mong muốn, đó là ‘lòng xót thương và tha thứ’. Kitô hữu thà đánh mất mọi thứ (kể cả những quyền lợi thiết thân nhất dành cho Thiên Chúa và tôn giáo của mình) chứ không để chứng từ rất độc đáo này bị lu mờ.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ tình thương của Chúa: để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp… Hãy dạy con học thuộc bài học chấp nhận thua thiệt, kể cả trong những điều xem ra rất thiết yếu để thờ phượng kính tôn Thiên Chúa cho phải lẽ, bởi vì nhận thức được rằng vinh quang lớn nhất mà Thiên Chúa của Đức Kitô muốn bảo vệ bằng mọi giá chính là hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.
Chân tính người môn đệ Đức Giêsu.
Ông Dunan, người sáng lập hội Hồng Thập Tự quốc tế đã cho khắc trên ngôi mộ của mình hàng chữ ‘Hoặc tôi là môn đệ Đức Giêsu, hoặc tôi không là gì cả’. Cũng vậy, mọi người chúng ta đều được mời gọi trở nên môn sinh của Chúa. Nhưng, chân tính đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu là gì? Trong Giáo hội có nhiều loại hình ơn gọi khác nhau: làm Linh mục, làm tu sỹ, hay sống bậc sống giáo dân. Nhưng tất cả các ơn gọi ấy đều có một mẫu số chung, đó là trở nên môn đệ Đức Giêsu và bước đi theo Ngài.
Ai là môn đệ Đức Giêsu?
Câu chuyện được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta câu trả lời. Thánh Luca lược tóm 2 loại môn đệ. Loại thứ nhất là những học trò được Chúa Giêsu ưu tuyển, đặc biệt có nhóm 12. Hai khuôn mặt tiêu biểu thuộc nhóm này mà bài Tin mừng hôm nay nhắc tới là Giacôbê và Gioan. Hai ông thuộc loại ‘Top ten’, là 2 trong 4 môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu trực tiếp tuyển chọn. Chính Đức Giêsu đã gọi và chọn các ông. Đáp lại lời mời gọi đó, các Ngài đã bỏ mọi sự, bỏ cha mẹ, bỏ ruộng vườn, bỏ cả vợ con, bỏ chài và lưới là những phương tiện mưu sinh hằng ngày, để bước đi theo Chúa.
Chúa Giêsu đã chọn các môn sinh không theo bất cứ một tiêu chuẩn nào như chúng ta thường hay nghĩ. Ngài không cần những người tài giỏi, có học vị hay bằng cấp cao sang. Ngài cũng không tuyển chọn các tông đồ từ những con người xuất sắc theo tiêu chuẩn đạo đức xã hội. Những học trò đầu tiên đến với Đức Giêsu chỉ là những ngư dân rất bình thường, đầy những tật xấu và khuyết điểm. Cụ thể, chúng ta hãy nhìn vào hai anh em con ông Giêbêdê mà bài Tin mừng hôm nay nhắc đến. Cả 2 là những chàng thanh niên tính nóng như lửa. Các ông hậm hực và cay cú khi thấy dân làng Samari không đón tiếp Chúa, nên đã nóng nảy xin Chúa cho lửa từ trời xuống thiêu đốt ngôi làng, để họ chết hết cho bõ ghét. Hai ông lại còn tỏ ra quá tham quyền cố vị, xin cho một người được làm ‘thủ tướng’, còn người kia làm ‘chủ tịch nước’ trong vương quốc mà Đức Giêsu sẽ thiết lập. Điều đó cho thấy rằng những môn đệ đầu tiên được Chúa tuyển chọn hoàn toàn không phải là những con người hoàn hảo hay xuất chúng. Ngài chọn các ông chỉ vì Ngài muốn như vậy. Đơn giản thế thôi.
Loại môn đệ thứ 2 là những con người mà Chúa Giêsu chưa mời gọi bao giờ, nhưng vẫn khao khát muốn đi theo Chúa để trở thành học trò của Ngài. Cụ thể là hai thanh niên được nhắc đến trong bài Tin mừng hôm nay. Hai chàng nhìn vào Chúa Giêsu như một thần tượng, và mong muốn được trở nên môn đệ của Ngài. Hai bạn thanh niên này thực sự chưa hiểu rõ lý tưởng mà họ đang ôm ấp. Một người xin phép trở về nhà chôn cất ông bố vừa mới chết. Người kia xin về từ biệt gia đình và những người thân quen trước khi lên đường đi xa. Những lý do đó rất chính đáng, nhưng đối với Chúa Giêsu thì không phải vậy. Ngài đặt ra điều kiện tiên quyết và tuyệt đối, là phải cắt đứt mọi dính bén một cách vô điều kiện. “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”, hoặc “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái cổ lại phía sau thì không xứng đáng làm môn đệ thầy”. Như vậy Chúa nói với 2 bạn trẻ đang thai nghén hoài bão để trở nên môn đệ, là phải đặt Ngài vào chỗ tối thượng. Đồng thời, Chúa cũng nhắc cho chúng ta biết rằng, chân tính đích thực của người môn đệ là phải tuyệt đối thuộc trọn về Ngài, không chút vướng bận hay so đo tính toán.
Hành trình của người môn đệ: ‘Sequela Christi’ (Theo Chúa Kitô).
Trình thuật Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh Chúa Giêsu và các học trò đang trên đường lên Giêrusalem. Thuật ngữ ‘lên Giêrusalem’ hàm ngậm mầu nhiệm Thập giá và cái chết. Chúa tiến về Giêrusalem để hoàn tất kế hoạch cứu chuộc mà Chúa Cha đã hoạch định. “Ngài sẽ lên Giêrusalem, sẽ bị nộp trong tay người tội lỗi, sẽ bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mt 16,21; Mc 8,31-33; Lc 9,22). Thánh Luca còn nói rõ hơn về cuộc hành trình ấy trong câu đầu tiên của bài Tin mừng hôm nay: “Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết lên Giêrusalem (c.51). Như vậy, rõ ràng thánh Luca muốn lồng ghép ơn gọi và cuộc hành trình của các môn đệ đan kết với mầu nhiệm Thập giá. Cũng vậy, đã nhiều lần Chúa Giêsu gợi nhắc: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo” (Mc 8,34; Lc 9,23-27…). Bài học căn bản Chúa nhắc đi nhắc lại cho các học trò, đó là tinh thần từ bỏ. Theo Chúa không phải để tìm kiếm vinh hoa phú quý hay lợi lộc trần thế, nhưng là dần dần đi vào mầu nhiệm tự hủy cách tròn đầy. Các môn đệ không hiểu, hay nói chính xác hơn, họ chưa hiểu. Chỉ sau này, sau khi Đức Giêsu sống lại, các Ngài mới dần nghiệm ra những lời chỉ dạy của Chúa Giêsu năm xưa, và từ đó các Ngài ra đi làm chứng nhân cho Thầy mình, sẵn sàng chấp nhận cái chết để đi vào mầu nhiệm Thập giá một cách trọn vẹn. Đó là căn tính đích thực của những môn đệ Chúa Giêsu.
Thách đố cho mọi Kitô hữu ngày hôm nay.
Khi xem cuốn phim tài liệu về Cha John Lee, nhiều người đã xúc động đến rơi lệ. Ngài là một linh mục trẻ đầy tài năng, đã tốt nghiệp bác sĩ tại Hàn quốc. Tương lai đang rộng mở nếu Ngài ở lại trong nước để làm việc. Nhưng Cha Lee đã từ bỏ tất cả, tình nguyện sang Phi Châu truyền giáo. Ngài chọn nơi xa xôi và nghèo nàn nhất tại Sudan để dấn thân phục vụ. Bốn năm trước đây, Ngài đã chết vì bệnh ung thư. Dân chúng tại Sudan, đặc biệt giới trẻ khóc thương Ngài thảm thiết. Họ nhận ra hình ảnh Chúa Giêsu rất gần gũi và sống động nơi vị tu sỹ đầy nhiệt huyết này. Ngài là một tu sỹ dòng Salêdiêng DonBosco thuộc tỉnh dòng Hàn quốc. Cha John Lee đã chết, đã đi vào mầu nhiệm tự hủy và đạt đến đỉnh cao của cuộc sống trở nên môn đệ Đức Giêsu một cách đích thực. Đó là mẫu gương và cũng là thách đố cho tất cả mọi người chúng ta.
Kết luận
“Hoặc tôi là môn đệ Chúa Giêsu, hoặc tôi không là gì cả”. Đây là câu châm ngôn của ông Dunan, của nhiều vị truyền giáo, của rất nhiều bạn trẻ đã và đang từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa trên con đường trọn lành. Còn bạn và tôi, chúng ta đã chọn và thể hiện lý tưởng đó như thế nào?
Đoạn Tin Mừng vừa nghe được chia làm hai phần: Phần thứ nhất kể lại cuộc hành trình của Chúa Giêsu lên Giêrusalem.
Bấy giờ, Chúa Giêsu và các môn đệ đi vào một làng xứ Samaria. Đã từ lâu, người Do Thái vốn nghi kỵ và tránh tiếp xúc với người Samaria, vì họ cho rằng: Những người Samaria chỉ là những kẻ lai căng và đã chạy theo những tôn giáo ngoại bang. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại tỏ ra không quan tâm tới sự tranh chấp này. Trên đường lên Giêrusalem để thực hiện chương trình cứu độ, Người đã đi ngang qua xứ Samaria. Tuy nhiên, Người và các môn đệ đã không được tiếp đón. Thái độ thờ ơ lạnh nhạt này chính là hậu quả của những tranh chấp gữa họ và người Do Thái.
Trước sự từ khước này, các môn đệ đã muốn thẳng tay trừng trị bằng chính những hình phạt mà ngày xưa tiên tri Elia đã dùng để hạ bệ những kẻ thù của ông. Nhưng Chúa Giêsu thì khác. Người đã ngăn cản các ông và nhân dịp này, Người đã đưa các ông đi sâu vào sứ vụ của Người, và cũng là sứ vụ của các ông sau này: Con người đến không phải để hủy diệt mạng sống người ta, nhưng đến đề cứu chữa.
Phần thứ hai gồm một số những mẩu đối thoại giữa Chúa Giêsu và những kẻ muốn theo Người.
Những mẩu đối thoại này có một ý nghãi rất đặc biệt, khi được đặt vào trong viễn tượng sự ra đi của Chúa Giêsu và ngay trước việc Người sai bảy mươi hai môn đệ tới các làng mạc và thành thị để rao giảng Nước Thiên Chúa. Công cuộc rao giảng này dưới ngòi bút của thánh Luca mang tính cách thật cấp bách. Chúa Giêsu không có thời giờ để dừng chân, bởi vì Người không có cả đến một chỗ để gối đầu. Cũng vì tính cách cấp bách này, Người đã không chấp nhận để những ai muốn theo Người, nhưng lại còn nấn ná, dù là để làm những công việc bình thường, rất đáng làm, như chôn cất người chết, hay từ giã những người thân yêu trong gia đình.
Từ đó, chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã thực sự bước theo Chúa, hãy vẫn còn bị những níu kéo trần gian ràng buộc. Nhất là chúng ta đã thực sự nên giống Chúa, bằng cách đối xử khoan dung, độ lượng với những kẻ chúng ta không mấy có cảm tình. Bởi vì sự nóng giận thường làm hỏng công việc: Già néo thì đứt dây, giận quá thì mất khôn, và sự thù địch này sẻ nảy sinh ra sự thù địch khác, khiến cho cuộc sống của chúng ta trở nên bất ổn, bởi vì lúc nào cũng bị căng thẳng vì phải đối đầu với nhau.
Chính vì thế, một lần nữa tôi xin lặp lại lời Chúa Giêsu đã nhắn nhủ cho mỗi người trong chúng ta, đó là: Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu cương quyết lên Giêrusalem mặc dù biết rõ lên đấy Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết. Qua chuyện này ta biết Chúa Giêsu trung thành đến mức nào đối với nhiệm vụ mà Chúa Cha giao cho Ngài. Nhiều khi lòng trung thành đòi hỏi phải hy sinh rất nhiều.
Chúng ta hãy bày tỏ lòng trung thành với Chúa, xin Ngài tha thứ cho những lần chúng ta đã bất trung, và xin Ngài giúp chúng ta thêm can đảm để luôn trung thành với Chúa cho dù phải hy sinh.
Xin Chúa tha thứ những lần chúng con bất trung với Chúa.
Xin Chúa tha thứ những lần chúng con không dám từ bỏ những điều bất xứng với Chúa.
Xin Chúa tha thứ những lần chúng con chọn tội lỗi mà bỏ Chúa.
III. Lời Chúa
Bài tường thuật ơn gọi của Êlisê:
Thiên Chúa bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm ngôn sứ thay thế cho mình.
Êlia đi tìm và gặp thấy Êlisê đang cày ruộng. Ông quăng chiếc áo choàng của mình (tượng trưng cho sứ mạng làm ngôn sứ) cho Êlisê. Êlisê hiểu ý, liền bỏ bò lại chạy theo Êlia, nhưng xin được phép về từ giã cha mẹ trước. Êlia đồng ý. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cày làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo ngôn sứ Êlia.
Tác giả Tv này đã nhất quyết chọn Chúa làm cơ nghiệp của mình nên bày tỏ sự phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Chúa.
Đoạn Tin Mừng này gồm hai chuyện:
a/ Chuyện một làng Samaria không đón tiếp Chúa Giêsu: Trước sự việc trái ý này, Gioan và Giacôbê biểu lộ những thói xấu rất tầm thường của con người:
Tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt.
Óc bè phái: phân biệt bạn thù và hở một chút là muốn tiêu diệt kẻ thù.
Lạm dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giêsu nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân.
Chúa Giêsu dạy hai bài học:
Xác định ý hướng căn bản của sứ mệnh: Con Người đến không phải để giết chết mà để cứu sống.
Nhường nhịn: làng này không tiếp mình thì sang làng khác.
b/ Chuyện 3 người muốn làm môn đệ Chúa Giêsu: Điều quan trọng trong những chuyện này không phải là những nhân vật (vì không chi tiết nào mô tả các nhân vật ra sao), mà là giáo huấn của Chúa Giêsu về những điều kiện để làm môn đệ Ngài.
Người thứ nhất muốn đi theo Chúa Giêsu đến bất cứ nơi nào. Trường hợp này thường xảy ra trong xã hội thời đó: có những người vì ngưỡng mộ một rabbi nào đó nên bỏ gia đình và xin theo ở với rabbi đó trong một thời gian vài ba năm (xem Ga 1, 37-49)
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không giống như các rabbi: cuộc sống của Ngài là cuộc sống lang thang rày đây mai đó, vì Ngài là một con người bị từ chối (xem chuyện trên, một làng Samaria không tiếp rước Ngài). Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là phải giống Ngài ở chỗ chấp nhận một cuộc sống vật chất không ổn định, có thể bị từ chối và còn có thể bị giết chết nữa.
Người thứ hai: không phải cha người này vừa chết, nhưng ông ta vẫn còn sống. Ý người này là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo.
Chúa Giêsu nói: “Mặc cho kẻ chết chôn người chết”: tiếng Pháp rõ nghĩa hơn “mặc cho les mortels chôn les morts” (nghĩa là mặc cho người phàm lo việc thế phàm. Hiểu ngầm người môn đệ Chúa Giêsu phải lo việc Nước Thiên Chúa). Điều kiện thứ hai là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình (x. Mt 15, 3-9) nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn.
Lời xin của người thứ ba cũng giống lời xin của Êlisê (1. V 19, 19-21). Lời đáp của Chúa Giêsu cũng khiến ta nhớ lúc đó Êlisê đang kéo cày “đầu ngoái lại sau”: còn luyến tiếc quá khứ. Như vậy điều kiện thứ ba là phải dứt khoát với quá khứ (của cải, địa vị vv…), hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi.
Theo văn mạch: Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là chịu chết, sống lại và lên trời. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài. Thế nhưng người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ.
Thánh Phaolô cho tín hữu Galata biết rằng họ đã được rửa tội nên đã trở thành những con người tự do. Sau đó Thánh Phaolô dạy cho họ biết phải sống thế nào như một người tự do: Người tự do là người sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần chứ không theo sự xúi dục của xác thịt.
Bởi đó đừng viện cớ mình tự do rồi buông tuồng theo những đòi hỏi của xác thịt.
Hãy theo Thánh Thần soi sáng mà sống bác ái với anh chị em mình.
* 1. Đời là những chọn lựa (Lc 9,51-62)
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm như sau:
Một con khỉ cầm hai nắm đậu rồng, một hạt đậu rơi xuống đất. Nó tính nhặt hạt đậu đó lên, không ngờ vừa nhón tay lại rơi thêm hai mươi hạt nữa. Nó định nhặt hai mươi hạt đậu đó lên, ai ngờ vừa mở ngón tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm bung nốt nắm đậu ở trong tay kia, nó dùng cả tay lẫn chân vét đậu lại, nhưng càng khều thì đậu càng văng ra xa. Cuối cùng cả hai nắm đậu tản ra trên mặt đất như một đám khói.
***
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa. Và chọn lựa nào cũng phải chịu thiệt thòi mất mát. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Con khỉ vì tiếc một hạt đậu mà mất cả hai nắm đậu trên tay.
Người thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay xin đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, nhưng Người bắt anh phải chọn lựa: hoặc là được an toàn ổn định dưới một mái nhà, có chăn ấm nệm êm; hoặc là phải bấp bênh phiêu bạt, không một mái nhà: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu” (Lc 9, 58).
Người thứ hai xin đi theo Chúa, nhưng với điều kiện cho anh về chôn cất thân sinh trước đã. Chúa trả lời: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa” (Lc 9, 54). Thế là anh phải đứng trước một chọn lựa giữa người thân và việc loan báo Tin Mừng.
Người thứ ba xin đi theo Chúa, nhưng xin phép về từ biệt gia đình. Chúa đòi anh phải chọn lựa dứt khoát: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62).
Thực ra, Chúa Giêsu rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ. Người phán: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mi 15, 4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, nghĩa là Người muốn chúng ta chọn lựa đâu là ưu tiên một, đâu là ưu tiên thứ yếu. Đối với người tín hữu Kitô, ưu tiên một chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, nó quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa (x. Lc 14, 26).
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người tín hữu Kitô là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình… Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Chúa Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mi 6, 33).
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát khỏi những bận tâm về mình, nhưng biết chọn Chúa là phần gia nghiệp và là phần phúc của chúng con.
Xin tha thứ cho chúng con, vì chúng con đã chạy theo của cải, lạc thú, danh vọng ở đời. Xin ban cho chúng con ý chí cương quyết để chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen. (Thiên Phúc)
* 2. Suy nghĩ về điều kiện thứ nhất: “Không có chỗ gối đầu”
“Chỗ gối đầu” là một nơi thoải mái mình muốn chọn làm nơi thường trú, là một nếp sống tiện nghi mình muốn được hưởng mãi. Ai mà không thích có một chỗ gối đầu như thế.
Tuy nhiên nếu là môn đệ Chúa Giêsu thì không được “mọc rễ” ở “chỗ gối đầu” đó. Một vài thí dụ:
Cuộc sống của tôi đã thành nếp: ban ngày làm việc, tối về nhà nghỉ ngơi giải trí với gia đình, ngày Thứ bảy Chúa nhựt là thời gian hưởng thụ. Những lúc nghỉ ngơi, giải trí và hưởng thụ ấy chính là những “giờ thánh” của tôi, không ai được đụng đến. Nhưng tối nay, nhà hàng xóm có người hấp hối, người ta mời tôi sang cầu nguyện, phải bỏ mất một tập phim truyền hình đang hồi gay cấn! Chúa nhựt tới, Cha Xứ mời tôi dự phiên họp các gia trưởng, mất toi một buổi nghỉ ngơi! Nếu muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, tôi phải chấp nhận những mất mát đó.
Từ trước tới nay tôi là một tín hữu bình thường, đọc kinh tối sáng hằng ngày, Chúa nhựt và lễ trọng đều đi dự lễ. Tôi thấy như vậy là đủ quá rồi. Bây giờ người ta mời tôi tham gia sinh hoạt đoàn thể trong Xứ đạo: nào là hội họp, nào là đi công tác tông đồ, nào là đóng góp quỹ này quỹ nọ… Nếp sống của tôi bị xáo trộn. Nếu muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, tôi phải chấp nhận những xáo trộn đó.
* 3. Suy nghĩ về điều kiện thứ hai: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”
Có thể chia những việc làm thường ngày của chúng ta thành hai loại: những việc “của kẻ chết” là những việc lo cho đời sống vật chất như làm ăn kiếm tiền, nhà cửa, tiện nghi, giải trí, hưởng thụ, địa vị, thể diện v. v. Và những việc “hằng sống” như cầu nguyện, bác ái, tông đồ, truyền giáo…
Chúa dạy người môn đệ Ngài phải ưu tiên cho những việc sau, hoặc khi có mâu thuẫn giữa hai loại việc thì phải can đảm bỏ loại việc thứ nhất để chọn loại việc thứ hai.
Thực tế, hằng ngày chúng ta lo loại việc thứ nhất nhiều hơn loại việc thứ hai; và khi phải chọn một bỏ một thì chúng ta chọn loại thứ nhất và không chút ngần ngại bỏ loại việc thứ hai.
* 4. Óc phe nhóm
Bắc Ai Len là một đất nước mà những người tin lành và những người công giáo thường xuyên xung đột với nhau. Jackie Hewitt là chủ tịch một Cộng đồng Tin lành. Một hôm ông đang lái xe về thủ đô Belfast thì nghe Radio trên xe loan tin có một quả bom phát nổ ở Shankill (khu vực của người tin lành) làm cho 3 người chết. Ông nổi giận và nghĩ “Khốn kiếp, cần phải đặt một quả bom ở khu Falls Road (khi của người công giáo)”. Xe ông chạy gần tới Belfast thì Radio lại loan tin có thêm một quả bom phát nổ nữa và làm chết thêm 7 người. Ông hét lên: “Phải cài 2 quả bom bên khu người công giáo”. Cuối cùng xe của ông chạy tới nơi xảy ra vụ nổ. Ông thấy những người đồng đạo kẻ thì khóc, người thì la, đòi trả thù. Những lời la hét ấy cũng giống những lời của ông thôi, nhưng chúng làm ông phát sợ: “Khi tôi nghe người ta hét lên những điều chính tôi đang nghĩ trong đầu, tôi thật sự hoảng sợ”.
Vào thời Chúa Giêsu, những người Samaria và những người Do Thái là kẻ thù của nhau. Vì thế khi dân cư một làng Samaria nghe tin Chúa Giêsu muốn đi ngang làng họ để lên Giêrusalem thì họ không đón tiếp Ngài. Giacôbê và Gioan nổi giận, xin Chúa Giêsu cho họ khiến lửa từ trời xuống đốt rụi cả làng Samaria ấy.
Đây là một thí dụ điển hình của óc phe nhóm. Phe nhóm của tôi đúng hay sai gì thì cũng là phe nhóm của tôi nên tôi cương quyết bảo vệ, và chống lại phe nhóm khác. Óc phe nhóm của những người Samaria đã tệ, mà óc phe nhóm của hai môn đệ còn tệ hơn: theo họ nghĩ, ai mà chống lại phe nhóm của họ là chống chính Thiên Chúa cho nên phải bị Thiên Chúa trừng phạt.
Nhưng Chúa Giêsu không tán thành, Ngài quở mắng các ông và Thầy trò đi sang làng khác.
Trả thù thì dễ. Không trả thù mới khó, vì nó đòi hỏi ta can đảm hơn và có nghị lực nhiều hơn. Việc Chúa Giêsu không cho môn đệ trả thù và Thầy trò đi sang làng khác chứng tỏ Chúa Giêsu can đảm và rất nhiều nghị lực. Kẻ yếu thì nghĩ rằng mình phải thắng, còn người mạnh thì biết rằng mình không cần phải thắng trong mọi trường hợp.
Cần phải chống lại sự xấu, nhưng không phải bằng cách dùng một sự xấu khác, bởi vì sự xấu chỉ có thể được chế ngự bằng sự thiện mà thôi.
Bài Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta hiểu rằng muốn đi theo Chúa thì chúng ta phải theo con đường của Ngài, đó không phải là con đường báo thù, con đường bạo động, mà là con đường yêu thương, con đường cứu độ (FM)
* 5. Không bỏ cuộc
Viktor Frankl bị giam cầm 3 năm trong những trại tập trung Auschwitz và Dachau của Quốc xã Đức. Ông kể lại câu chuyện sau:
Ông là một bác sĩ nên được giao trách nhiệm chăm sóc các tù nhân bị bệnh. Gần cuối cuộc chiến, ông và một bạn tù đã tìm được một cách để vượt ngục. Nhưng trước khi trốn đi, ông đi một vòng thăm các bệnh nhân. Một bệnh nhân sắp chết hỏi “Có phải ông sắp trốn ra không?” Frankl chối. Nhưng câu hỏi ấy cứ ám ảnh ông, khiến ông có mặc cảm tội lỗi là ông đào nhiệm. Ông thấy mình có lỗi với các bệnh nhân. Cuối cùng ông bảo người bạn kia hãy trốn đi một mình, còn ông thì quyết định ở lại. Từ lúc đó ông thấy lòng mình rất thanh thản. Dù ông biết rằng tiếp tục ở lại trong trại tập trung thì sẽ gặp rất nhiều khổ sở, nhưng ông chấp nhận và cảm thấy rất bình an trong lòng.
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng câu “Chúa Giêsu nhất quyết lên Giêrusalem”. Ngài biết có rất nhiều gian khổ đang chờ Ngài ở Giêrusalem như bị từ chối, bị phản bội và bị giết chết. Nhưng sứ mạng Chúa Cha giao cho Ngài ở Giêrusalem thì Ngài phải hoàn thành, không thể quay lui được.
Đáp lại một người muốn đi theo làm môn đệ Ngài, Chúa Giêsu cũng nói “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Đã dấn thân theo một lý tưởng thì phải kiên trì cho đến cùng.
Điều này ban đầu thì dễ. Nhưng với tháng năm trôi dần, khó khăn tăng thêm thì kiên trì trở nên rất khó. Khi ấy, ta bị cám dỗ “ngoái lại đàng sau”.
Lời Chúa Giêsu nói với người muốn theo làm môn đệ Ngài cũng là nói với chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta theo Ngài không phải trong một thời gian mà theo suốt cả đời.
Xin Chúa giúp chúng ta kiên trì bước theo Ngài, không bao giờ “ngoái lại đàng sau” (FM)
* 6. Vài mẫu chuyện minh họa cho việc trả thù
a/ Đem yêu thương vào nơi oán thù
Cha S. Hodden thấy một đại úy đến xin học đạo. Khi ngài hỏi lí do, ông trả lời như sau: “Trong đại đội tôi, có một binh nhì là Kitô-hữu. Đêm nọ, anh đi gác về, mình mẩy ướt nhẹp, nhưng trước khi ngủ, anh còn quì gối đọc kinh. Ngứa mắt, tôi đá cho anh một cú vào đầu, ngã lăn ra. Nhưng anh ngồi dậy, không nói gì và tiếp tục cầu nguyện.. Sáng hôm sau, tôi thấy đôi giầy mà tối qua tôi đá anh được đánh bóng láng và xếp ngay ngắn bên giường ngủ. Điều đó làm tôi sững sờ, hổ thẹn và vì thế tôi quyết tâm học đạo.”
b/ Không có kẻ thù
Một thầy giảng lên tiếng: Mọi người đều có kẻ thù. Ông mời bất kỳ một thính giả nào không có kẻ thù lên nói về chính mình.
Một sự thinh lặng đồng tình với lời xác quyết đó. Nhưng rồi một người già giơ tay và nói: “Tôi không có kẻ thù”.
Đương đầu với lời mời và gây sự chú ý của thính giả, ông nói: “Rất dễ. Tôi không quan tâm đến họ”.
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trung thành theo Chúa đến cùng, bất chấp mọi thử thách gian nan, là lý tưởng của người Kitô hữu. Luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trong đời sống chứng nhân thường ngày, chúng con gặp biết bao là thử thách gian truân. Vì thế, để có thể trung kiên bước theo Chúa đến cùng, sức riêng của chúng con không thể thực hiện được. Vậy, xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con đi trọn cuộc lữ hành trần thế. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy nhớ đến lời Chúa Giêsu quở trách hai môn đệ muốn sai lửa từ trời xuống thiêu đốt làng Samaria, và hãy sốt sắng khi đọc câu “xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
VII. Giải tán
Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa. Chúng ta sắp trở lại cuộc sống. Hãy nhớ những gì Chúa đã dạy chúng ta trong Thánh lễ hôm nay và hãy can đảm chọn lựa những gì thuộc về Nước Thiên Chúa.
Vào năm 1924 ở nước Anh, Eric là lực sĩ chạy nhanh nhất trong cự ly 100m. Mọi người đều hy vọng anh sẽ đoạt huy chương vàng ở thế vận hội được tổ chức tại Paris năm đó. Thế nhưng vào phút chót một sự việc xảy ra làm cho mọi người đều ngỡ ngàng và bực tức. Số là việc thi đấu cho môn chạy 100m này lại nhằm vào ngày Chúa Nhật. Eric nghĩ rằng việc phụng sự Chúa không cho phép anh thi đấu vào ngày Chúa Nhật. Vì thế anh đành từ chối thi môn này. Vừa nghe tin Eric từ chối thi đấu, lập tức mọi người tìm cách gây sức ép đối với anh. Ngay cả hoàng tử xứ Wales cũng cố gắng thuyết phục anh vi phạm tiếng nói của lương tâm. Thấy anh không chịu đổi ý, báo chí nước Anh đã gọi anh là tên phản bội. Tuy nhiên Eric vẫn khăng khăng không chịu làm ngược với niềm xác tín của mình. Cuối cùng anh đề nghị với các huấn luyện viên chọn một lực sĩ khác thay cho anh trong môn chạy 100m, là môn anh chưa một lần thi đấu. Kết quả là trong thế vận hội năm ấy, nước Anh đã đạt hai huy chương vàng cho môn chạy 100m và 400m.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng chiều hôm nay với thái độ dứt khoát mà Chúa đòi hỏi, bởi vì Ngài đã phán dạy: Kẻ nào đã tra tay vào cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Chàng lực sĩ của chúng ta đã không bao giờ ngoái cổ lại đằng sau, mặc dù có những lý do chính đáng. Một khi đã quyết định theo Chúa, là anh cứ nhắm thẳng phía trước mà bước tới, chứ không ngó lại phía sau nữa, cho dù bị dư luận gọi là tên phản bội tổ quốc của mình. Còn chúng ta thì sao?
Mặc dầu chúng ta đã tin nhận và bước theo Chúa, nhưng chúng ta vẫn chưa dứt khoát lập trường, để thuộc hẳn về Ngài. Chúng ta giống như bà vợ của ông Lót, mặc dầu đã ra khỏi thành Sođoma, nhưng vì còn ngoái cổ lại để xem sự gì đang xảy rar ở phía sau, nên đã hoá thành tượng muối. Chúng ta giống như dân Do Thái trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Trước những cực nhọc vất vả gặp phải, họ đã tưởng nhớ đến củ hành củ tỏi của Ai Cập và đã lên tiếng trách móc Maisen. Cũng vậy mặc dầu đã tin nhận và bước theo Chúa, nhưng chúng ta vẫn tưởng nhớ đến những củ hành củ tỏi, là những đam mê tội lỗi, là những ước vọng xấu xa, để rồi cuối cùng, vì chạy theo tiền bạc, chúng ta đã bán Chúa như Giuđa, vì hèn nhát chúng ta chối Chúa như Phêrô, vì sợ sệt chúng ta đã chạy trốn như các môn đệ, vì quá quyến luyến và vương vấn với tội lỗi, chúng ta đã cúi mặt bỏ đi như chàng thanh niên giàu có.
Để kết luận, chúng ta hãy kiểm điểm đời sống và hãy tự vấn lương tâm xem Đức Kitô đã chiến địa vị nào trong cuộc đời chúng ta? Ngài có phải là nhân vật số một của cõi lòng chúng ta hay chỉ là một hình ảnh đã bị phai mờ và chìm vào quên lãng.
Truyện kể: Trong một xưởng thợ, mấy cô bạn gái cùng làm việc đang chê bai đạo Chúa. Họ cho rằng Đạo Chúa làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải và làm sai lạc trí phán đoán người ta. Một nam công nhân nghe họ nói truyện và khi họ vừa im lặng, bèn cất tiếng nói: Phải, vì đạo Chúa mà tôi đã mất tất cả. Mọi người cùng sững sờ nhìn. Người thợ nói tiếp: Tôi thích rượu, Đạo Chúa làm tôi bỏ rượu. Trước kia tôi chỉ mặc quần áo rách và đội cái mũ bẩn thỉu, giờ Đạo làm tôi mất tất cả… Đạo còn làm tôi mất cả tâm địa xấu xa nữa… Xưa địa ngục cai trị gia đình tôi, vì nếp sống gia đình đã thành ra như chốn ngục hình. Thì nay, khi trở nên tín hữu Chúa, tôi đã mất tất cả. Hỡi các anh chị, bây giờ các anh chị biết đức tin đã làm tôi mất những gì và được những gì. Hãy làm như tôi. Tôi xin cam đoan chắc chắn các anh chị sẽ không phải hối hận đâu.
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã chọn gọi một số những vị tiên tri như Amos, Hosea, Micah, Isaia, Zephaniah, Nahum, Habakkuk, Jeremia, Ezekiel, Haggai, Zecharia, Obadiah, Joel, Malachi, Jonah và Elia. Ngoài ra còn một số những vị ngôn sứ nhỏ như Nathan, Êlise…, ít được nhắc đến. Trong suốt thời gian dài từ sau khi Dân Do-thái vào miền Đất Hứa cho đến khi Chúa Giêsu giáng trần. Thiên Chúa luôn gởi các vị ngôn sứ đến để hướng dẫn dân đi theo đường lối của Chúa. Tất cả sứ mệnh qui về việc tôn thờ Thiên Chúa duy nhất, giữ các giới răn, huấn thị và chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế.
Xưa tiên tri Êlia được Thiên Chúa gọi và chọn để thi hành sứ vụ làm nhân chứng cho Chúa giữa cuộc sống xã hội đa thần. Nhiều người mê lầm chạy theo những thần giả tạo do con người sáng lập ra. Có rất nhiều tiên tri giả đã chạy theo thần Baal và rao truyền những sự mê tín lầm lạc. Êlia đã thách thức quyền năng của các thần và thuyết phục dân chúng tin vào Thiên Chúa duy nhất. Êlia đã gặp rất nhiều sự khó khăn, bị bắt bớ và chạy trốn. Bàn tay quyền năng của Chúa ở cùng ông. Ông đã chu toàn sứ mệnh của mình và Chúa đã cất nhắc ông lên bằng xe rực lửa.
Để chuẩn bị có người kế vị, Êlia đã chọn người môn đệ tên là Êlisê để kế thừa sứ vụ: Ông này liền để bỏ lại, chạy theo ông Êlia và nói: “Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông.” Ông Êlia trả lời: “Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu? (1Vua 19, 20). Êlisê tiếp nối sứ vụ mà Êlia đã truyền lại. Êlisê đã từ bỏ nghề cầy bừa cũ, rời bỏ gia đình và bạn bè để ra đi thi hành sứ mệnh mới: Ông Êlisê bỏ ông Êlia mà về, bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cầy làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Êlia và phục vụ ông (1V 19, 21).
Trong tất cả các loài thụ tạo, mỗi loài đều có những cách thế truyền sinh và cơ cấu tổ chức khác nhau. Các loài động vật đã được Đấng Tạo Hóa phú bẩm những bản năng cố định. Các con vật sống thành bầy, thành đàn, thành tổ và chúng sống theo nhau, nối kết với nhau. Hằng năm chúng ta thường chứng kiến những bầy chim hàng ngàn con di chuyển từ Bắc cực xuống Nam cực và sau đó lại trở về chốn cũ. Những đàn voi, đàn trâu bò, đàn khỉ… chung sống trong hoang địa cũng thế. Hoặc là những tổ ong, tổ kiến, tổ mối…tự nó xây cất những kiến trúc rất tinh tế. Từ đời này qua đời khác, các con vật theo nhau hoàn thành công việc đã được Tạo Hóa sắp đặt. Riêng con người có trí khôn, ý chí và tự do, họ đã tạo thành từng xã hội đặc thù. Loài người tiến triển theo từng giai đoạn để trở thành những người văn minh hơn. Con người có thể bảo tồn, truyền tụng những suy tư, phát minh và kho tàng văn hóa qua các dấu ấn trong lịch sử xã hội, tôn giáo và chính trị.
Sống trong xã hội có kẻ trước người sau, có thầy có trò, có người chỉ đạo và môn sinh. Trong mọi khía cạnh sống, bất cứ một ngành nghề chuyên môn nào cũng có những vị tiền bối muốn truyền đạt khả năng cho những người thừa kế. Trong tôn giáo, sự lưu truyền niềm tin của đạo giáo còn quan trọng hơn nữa. Đời sống tâm linh và tinh thần chi phối sinh hoạt của con người rất sâu thẳm. Đây là điểm đặc thù của con người xã hội. Nếu thiếu sự hướng dẫn trong đời sống tâm linh, con người sẽ bị tha hóa và thụt lùi trở lại sống theo bản năng giống như các loài cầm thú. Kinh nghiệm lịch sử thế giới cho biết, hiện nay thế kỷ 21, vẫn còn có nhiều tổ chức xã hội rất sơ khai, có những bộ lạc sống như người tiền sử và những nhóm người sống biệt lập rất man rợ trong rừng sâu. Đời sống của họ phát triển rất chậm và sống theo bản năng tự nhiên.
Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đi theo Chúa một cách khác nhau. Có người đi theo Chúa trong ơn gọi gia đình. Có kẻ sống độc thân phục vụ. Có người hiến thân trong việc truyền giáo. Có kẻ hiến dâng mình cho Chúa trong các dòng tu. Có người đi tu trở thành tu sĩ linh mục. Ơn gọi nào cũng qúi báu. Khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa tội là chúng ta đã bắt đầu bước theo đường lối của Chúa. Chúng ta mang danh là Kitô hữu. Chúng ta là nhân chứng cho Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh, môi trường và thời gian. Chúng ta là Kitô hữu suốt đời. Làm chứng nhân cho Chúa cả thời gian chứ không chỉ bán thời hay trong một số trường hợp đặc biệt. Chúa Giêsu đã nói rõ cho những người sẽ đi theo Chúa:“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”(Lc 9, 58). Chúa Giêsu cần chúng ta có thái độ dứt khoát. Chúng ta không thể bắt cá hai tay hay làm tôi hai chủ. Đáp tiếng mời gọi của Chúa là chúng ta tự do chọn lựa trở thành môn đệ của Chúa.Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều đại Thiên Chúa.”(Lc 9, 60).
Người môn đệ cần có những sự dứt bỏ những mời gọi hấp dẫn của thế gian. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”(Lc 9, 62). Chúng ta biết sự yếu đuối của bản năng con người luôn kéo lôi ta trở lại sống theo thói đời. Ưa thích thỏa mãn những nhu cầu của lòng tham sân si. Không lạ gì khi chúng ta thích thu quén của cải, tiền bạc, chức tước và lợi lộc trần gian. Chúng ta lo làm giầu cho cuộc sống mà bất chấp lỗi phạm lề luật và giới răn của Chúa. Thí dụ: Các giới răn về ham mê dâm dục, ăn gian nói dối, làm chứng thề gian và lỗi luật yêu thương. Đôi khi chúng ta cảm thấy vì theo Chúa mà bị mất mát và rồi tiếc nuối những thỏa mãn thấp hèn. Theo Chúa, chúng ta phải phấn đấu hằng ngày với các cơn cám dỗ. Phải kiên tâm chịu đựng và vác thánh giá mỗi ngày đi theo Chúa.
Đi theo Chúa là dâng hiến cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng ta không thể cắt ngắn hay chọn lựa chỉ giữ những giới răn, lề luật hay những huấn giáo thích hợp với sở thích của chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhở về giới luật yêu thương. Giới răn căn bản làm nền tảng là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Gal 5, 14). Yêu thương thì chân thành, cảm thông và chia sẻ. Yêu thương là xây dựng, đoàn kết và hòa bình. Những sự chia rẽ, cắn xé, tranh dành và gây thù hận đều ngược lại với giới luật yêu thương: Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau (Gal 5, 15). Muốn nên là nhân chứng đích thực của Chúa chúng ta phải ước muốn những điều thuộc về Thần Khí của sự thật, tình yêu và bình an.
Lạy Chúa, xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô soi dọi đường chúng con đi. Xin đừng để chúng con bị lạc hướng trong đêm tối và tội lỗi của ma quỉ và thế gian.
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm như sau: Một con khỉ cầm hai nắm đậu, một hạt đậu rơi xuống đất. Nó tính nhặt hạt đậu đó lên, không ngờ vừa nhón tay lại rơi thêm hai mươi hạt nữa. Nó định nhặt hai mươi hạt đậu đó lên, ai ngờ vừa mở ngón tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm bung nốt nắm đậu ở trong tay kia, nó dùng cả tay lẫn chân vét đậu lại, nhưng càng khều thì đậu càng văng ra xa. Cuối cùng cả hai nắm đậu tản ra trên mặt đất như một đám khói.
***
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa. Và chọn lựa nào cũng phải chịu thiệt thòi mất mát. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Con khỉ vì tiếc một hạt đậu mà mất cả hai nắm đậu trên tay.
Người thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay xin đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, nhưng Người bắt anh phải chọn lựa: hoặc là được an toàn ổn định dưới một mái nhà, có chăn ấm nệm êm; hoặc là phải bấp bênh phiêu bạt, không một mái nhà: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu” (Lc 9,58).
Người thứ hai xin đi theo Chúa, nhưng với điều kiện cho anh về chôn cất thân sinh trước đã. Chúa trả lời: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa” (Lc 9,54). Thế là anh phải đứng trước một chọn lựa giữa người thân và việc loan báo Tin Mừng.
Người thứ ba xin đi theo Chúa, nhưng xin phép về từ biệt gia đình. Chúa đòi anh phải chọn lựa dứt khoát: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9,62).
Thực ra, Đức Giêsu rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ. Người phán: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15,4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, nghĩa là Người muốn chúng ta chọn lựa đâu là ưu tiên chính, đâu là ưu tiên thứ yếu. Đối với người tín hữu Kitô, ưu tiên chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, nó quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa (x. Lc 14,26).
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người tín hữu Kitô là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình… Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Đức Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33)
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát khỏi những bận tâm về mình, nhưng biết chọn Chúa là phần gia nghiệp và là phần phúc của chúng con.
Xin tha thứ cho chúng con vì chúng con đã chạy theo của cải, lạc thú, danh vọng ở đời. Xin ban cho chúng con ý chí cương quyết để chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Theo một tôn giáo thường được gọi là theo đạo.
Theo đạo là theo một con đường.
Điều này đặc biệt đúng đối với Kitô giáo (x. Cv 9,2).
Làm môn đệ Đức Kitô là theo Ngài trên con đường Ngài đi, con đường đất quanh co trong xứ Palestine hay con đường đầy chông gai nhọc nhằn của sứ vụ.
Đức Kitô chẳng những dạy Đạo, Ngài còn là Đạo (x. Ga 14,6).
Theo đạo là theo một ngôi vị hơn là theo một giáo lý.
Sống đạo là sống như Ngài, với Ngài, cho Ngài và trong Ngài.
Phần cuối của đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện ba người muốn theo Chúa.
Chúng ta chẳng biết họ là ai, cũng chẳng rõ cuối cùng họ có theo Chúa hay không, nên mỗi người chúng ta dễ thấy mình nơi hình ảnh họ, để rồi chúng ta phải đưa ra lời đáp trả của mình.
Người thứ nhất hăng hái xin theo Ngài đi bất cứ nơi đâu.
Chúa Giêsu không giấu anh hoàn cảnh bấp bênh của mình. Ngài sống cuộc đời phiêu bạt, không mái nhà để trú, lúc nào cũng ở trong tư thế lên đường. Chấp nhận theo Ngài là chịu bỏ mọi an toàn, ổn định, là sống thân phận lữ khách trên mặt đất (x. 1Pr 2,11). Theo Ngài là theo Đấng có chỗ tựa đầu, chỗ tựa đầu tiên là máng cỏ, chỗ tựa cuối là thập giá.
Cuộc sống nghèo làm Ngài tự do hơn, sẵn sàng hơn trước những đòi hỏi bất ngờ của Cha và nhân loại.
Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với điều kiện cho anh về chôn cất người cha mới qua đời trước đã.
Anh muốn chu toàn bổn phận thiêng liêng của người con. Chúa Giêsu coi trọng việc hiếu kính mẹ cha (x.Mt 15,3-9), nhưng Ngài đòi anh dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.
Câu trả lời của Ngài làm chúng ta bị sốc thực sự.
Loan báo Tin Mừng ư? Cần gì phải vội vàng đến thế! Dầu sao cái sốc giúp ta nhận ra mình vẫn quen thờ ơ trước một bổn phận thiêng liêng và hết sức cấp bách.
Người chết nằm xuống thật đáng kính trọng; nhưng có bao người sống đang cần phục vụ khẩn trương.
Người thứ ba xin về từ giã gia đình trước đã.
Chúa Giêsu đòi anh dứt khoát thẳng tiến như người cầm cày, không quay lại với những kỷ niệm quá khứ, không bị cản trở bởi những ràng buộc gia đình, để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa.
Trong đời sống, nhiều lúc ta phải chọn lựa. Chọn lựa là chấp nhận hy sinh, bỏ một trong hai.
Chúa Giêsu không dạy ta sống vô cảm hay bất hiếu… Ngài dạy ta can đảm tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã.
Có bao nhiêu cái trước đã chi phối đời ta? Đâu là lựa chọn ưu tiên một? Chúng ta cần sắp xếp lại thứ tự các ưu tiên cho đúng.
Nếu Chúa Giêsu gặp tôi hôm nay và mời tôi theo Ngài, tôi có xin phép Ngài để làm cái gì đó trước đã không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong cuộc sống của bạn, có nhiều điều quan trọng và cần thiết. Đâu là 3 điều mà bạn nghĩ là quan trọng và cần thiết hơn cả? Tại sao bạn chọn 3 điều ấy?
Bạn nghĩ gì về thái độ của Chúa Giêsu đối với thân mẫu của Ngài dựa trên các sách Tin Mừng? Ngài có hiếu không? Ngài có quá lệ thuộc và Mẹ Ngài không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Đời là một con đường: đường đời.
Sống là bước vào một cuộc hành trình tiến về phía trước, để đến nơi mình được thu hút, mời gọi. Nhưng đường đời không luôn luôn bằng phẳng. Có những dốc cao làm chúng ta ngần ngại, có những khúc ngoặt làm chúng ta sợ hãi. Đôi khi ta thấy mình phải đến nơi mình không muốn.
Chúa Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này khi Ngài kiên quyết lên đường đi Giêrusalem, dù biết có những nguy hiểm đang chờ mình ở đó.
Chúa Giêsu đã phải cố gắng như chúng ta để thắng vượt nỗi sợ hãi và do dự, và đi hết đường đời của mình, vì đó là con đường Cha muốn Ngài đi.
Trên đường đi, Chúa Giêsu gặp sự từ khước. Một làng Samari không muốn tiếp đón Ngài. Họ có lý do của họ, lý do có thể rất nghiêm túc. Nhưng điều đó khiến Giacôbê và Gioan nổi giận. Hai ông đòi sai lửa từ trời thiêu rụi cả làng.
Có cần trừng phạt vội vã như vậy không? Có cần dùng sức mạnh Thiên Chúa để tiêu diệt mọi kẻ dữ không?
Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người, kể cả tự do của những kẻ dữ trên mặt đất. Ngài kiên nhẫn chờ họ sám hối và biến đổi. Cả Giacôbê và Gioan cũng phải được biến đổi. Cần có thời gian và cần được huấn luyện để những “đứa con sấm sét” trở thành khoan dung, để Gioan trở thành vị tông đồ dịu dàng suốt đời ca ngợi tình yêu.
Đường đời của người Kitô hữu là đường theo chân Giêsu. Tự bản chất kitô hữu là người đi theo Chúa Giêsu.
“Thầy đi đâu, con sẽ theo Thầy đi đó” (Lc 9,57).
Ai có ngờ rằng đi theo Chúa Giêsu là đi theo một Đấng không nhà cửa, không nơi trú ngụ, một Đấng nghèo hơn cả loài chim, loài chồn, một Đấng luôn tín thác và chờ đợi tất cả từ Cha.
Các môn đệ đầu tiên đã sống bấp bênh từng ngày, họ đã hy sinh nghề nghiệp ổn định để chấp nhận theo Thầy bữa đói bữa no.
Chúa Giêsu mời ta theo Ngài để loan báo Nước Thiên Chúa.
Đây là một công việc khẩn trương và quan trọng, một giá trị vượt trên mọi giá trị khác.
Không cần phải trở về từ giã người thân yêu, không được quay lại đàng sau khi cầm cày, vì tất cả nằm ở phiá trước.
Cũng không cần lo xong việc tống táng cha già rồi mới nghĩ đến chuyện theo Chúa. Ở đây còn có gì trọng hơn chữ hiếu, vượt trên tình cảm tự nhiên của con người.
Lời Chúa hôm nay dành cho mọi Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đòi chúng ta phải hy sinh, chấp nhận sự bất ổn, thiệt thòi và đau khổ.
“Hãy tìm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống đúng tinh thần của Chúa Giêsu, thực thi những lời Ngài dạy, điều đó chẳng dễ chút nào. Riêng bạn, bạn thấy có lời nào của Ngài quá khó đối với bạn không?
Chấp nhận đặt Thiên Chúa lên trên hết là chấp nhận đặt mọi sự khác dưới Thiên Chúa. Bạn có khi nào trải qua một kinh nghiệm chọn Chúa trong nước mắt không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một ngư phủ ít học và đã lập gia đình, để làm vị giáo hoàng đầu tiên của Giáo Hội. Chúa xây nền Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Eric Liddle là người chạy đua 100 mét nhanh nhất của nước Anh trong năm 1924. Tại Thế vận hội thể thao Olympic (TVH) mở ở Paris năm đó, mọi người đều mong đợi rằng anh sẽ chiếm được huy chương vàng về cho nước Anh. Nhưng rồi một việc đã xảy ra làm xôn xao cả trong cũng như ngoài nước. Ban Tổ chức TVH sắp đặt môn chạy đua một trăm thước vào chương trình ngày Chúa Nhật. Eric nghĩ rằng luật kiêng việc phần xác, nghỉ ngày của Chúa, không cho phép anh chạy đua ngày Chúa Nhật. Vậy anh quyết định không chạy đua ngày Chúa Nhật, dầu việc nầy làm cho anh rất buồn phiền. Khi tin nầy được loan đi, mọi người sửng sốt. Họ làm áp lực tư bề để buộc anh bỏ ý định, và chuẩn bị chạy đua ngày Chúa Nhật. Nhưng Eric đã nói không là không. Thái tử nước Anh cũng đứng ra can thiệp, bắt buộc anh phải chạy đua ngày Chúa Nhật theo như chương trình của ban tổ chức. Trước mọi áp lực, Eric đã nói không là không. Báo chí nước Anh gọi Eric là người phản bội. Nhưng anh cương quyết không làm điều trái với lương tâm tôn giáo của mình. Sau đó Eric đi gặp các huấn luyện viên và đề nghị để cho một bạn đồng đội chạy đua 100 mét ngày Chúa Nhật thay thế, còn anh sẽ chạy 400 mét trong ngày thường, dẫu rằng trước đó chưa bao giờ anh chạy đua 400 mét cả. Một điều lạ đã xảy đến trước sự ngạc nhiên đến sửng sốt của mọi người. Eric đã thắng cuộc chạy đua 400 mét, rồi anh bạn đồng đội mà anh đề nghị thay anh cũng thắng trong cuộc chạy đua 100 mét. Ít năm sau Thế vậy hội, Eric lại làm cho cả thế giới ngạc nhiên lần nữa. Anh tình nguyện lên đường sang Trung quốc giúp việc truyền giáo. Cô thiếu nữ người yêu của anh cũng theo anh sang Trung Quốc. Với thời gian họ sinh được ba đứa con ngoan ngoãn. Thế rồi Đệ nhị thế chiến bùng nổ. Nhật Bản xua quân xâm lăng Trung Quốc. Trước tình thế nguy hiểm, Eric gởi vợ con sang Canada lánh nạn. Ít lâu sau, anh bị quân Nhật bắt đem đi nhốt tại một trại tập trung. Tại đây, anh tiếp tục làm việc tông đồ giữa các bạn tù. Mấy năm sau, anh đã chết một cái chết thật can đảm và anh dũng tại trại tập trung. Sau khi Eric chết, vợ anh nhận được hàng trăm bức thư chia buồn, và nói lên lòng can đảm và anh dũng của anh khi bị gian trong trại. Ít nhất có hai bức thư của bạn tù nói rằng Eric là lẽ sống duy nhất của họ trong trại tập trung. Nếu không nhờ sự có mặt của anh trong trại, thì họ đã tự tử chết lâu rồi. Đến năm 1980 nghĩa là 56 năm sau Thế vận hội Paris nói trên, có người nảy ra ý kiến làm một cuốn phim về Eric và Thế vận hội 1924. Khi hay tin đó, vợ của anh còn sống ở Toronto nói: “Thời bây giờ ai mà còn để ý tới một việc đã xảy ra lâu lắm rồi về một người quyết không chạy đua ngày Chúa Nhật vì đức tin người Kitô hữu của mình? Ấy thế mà cuốn phim nầy tên là Chariots of Fire (Xe hỏa ngục) đã thành công một cách phi thường. Thiên hạ đùng đùng kéo nhau đi xem như nước lụt. Cuốn phim đã giựt giải thưởng điện ảnh năm 1982. Câu chuyện Eric giúp chúng ta hiểu được lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: “Kẻ cầm cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.”
Eric không bao giờ ngó lại sau lưng. Một khi đã quyết tâm đi theo Chúa, anh luôn luôn nhìn về đàng trước mà tiến bước theo Chúa, không bao giờ nhìn lại đàng sau, mặc cho tất cả mọi người tìm cách gây áp lực. Anh không bao giờ nhìn lại đàng sau, dầu thiên hạ gọi anh là phản quốc. Đâu là bí quyết của lòng can đảm làm cho anh không bao giờ ngó lại đàng sau? Đâu là bí quyết long trung kiên của Eric đối với Đức Kitô trước những chống đối kinh khủng từ mọi phía? Đây là câu trả lời mà người vợ của Eric đã nói trong cuộc phỏng vấn với tờ báo Toronto Star: “Eric bao giờ cũng dậy thật sớm, dùng giờ đầu tiên trong ngày để đọc Kinh thánh và cầu nguyện, cùng sắp đặt công việc cho ngày mới.” Đó là bí quyết của lòng can đảm hành đạo và sự trung thành của anh đối với Đức Kitô. Eric là một người cầu nguyện. Anh đã tra tay vào cày mà không bao giờ ngó lại đàng sau, bởi vì anh tìm gặp Đức Kitô mỗi buổi sáng trong giờ cầu nguyện.
Câu chuyện về Eric Liddle không thể không làm cho chúng ta suy nghĩ. Chúng ta không thể không nghe tiếng Chúa phán bảo trong tâm hồn rằng phải noi gương Eric mà tổ chức cuộc đời mình bằng sự năng tiếp xúc với Chúa trong lời kinh cầu nguyện, nhất là ban mai sau khi thức dậy và ban tối trước khi đi ngủ. Nếu chúng ta gặp phải ưu tư phiền muộn, hãy nhìn vào Đức Kitô. Nếu thấy khó tra tay vào cày, mà không ngó lại đàng sau, hãy chạy đến cùng Đức Kitô trong lời kinh cầu nguyện ban sáng cũng như buổi chiều hôm.Nếu thấy cõi lòng trống rỗng tẻ lạnh như khu rừng hoang, hãy chạy tới cùng Đức Kitô trong lời kinh cầu nguyện, ban sáng cũng như buổi chiều hôm, chúng ta sẽ thấy mình làm được những sự lạ như Eric, bởi vì trong lúc đó, không phải tôi làm việc, nhưng chính Đức Kitô làm việc trong tôi. Nếu tôi có thể nói được một cách thành thực như thánh Phaolô rằng: “Tôi sống không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi.” (Gal 2:20) Lúc đó tâm hồn tôi sẽ ấm áp và sẽ không còn sự gì mà tôi không làm được, vì lúc đó, không còn phải tôi hành động, nhưng chính Chúa Kitô hành động trong tôi.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Thầy Marcel Văn tên thật là Gioakim Nguyễn Tân Văn, sinh ngày 15.3.1928 trong một gia đình Công giáo, tại làng Ngăm Giáo, một làng nhỏ thuộc tỉnh Bắc Ninh, nằm giữa Hà Nội và Hải Phòng. Năm 17 tuổi, Thầy vào tu Dòng Chúa Cứu Thế tại Thái Hà Ấp, Hà Nội, theo bậc trợ sĩ và khấn lần đầu ngày 8.9.1946.
Sau khi khấn dòng, Thầy được Bề trên chỉ định về phục vụ tại Nhà Dòng Thái Hà Ấp và sau đó ở các tu viện trong miền Nam. Năm 1954, trong khi hàng triệu người ngoài Bắc di cư vào Nam, Thầy tình nguyện trở ra Bắc để “ít nữa là có người yêu mến Chúa” tại đây. Thầy bị tố cáo và bắt vào ngày 7.5.1955, bị giam giữ trong nhiều nhà tù và chết ngày 10.07.1959 trong nhà lao Yên Bình, cách Hà Nội 150 cây số.
Suốt cuộc đời vắn vỏi của mình (31 năm), Thầy Marcel Văn đã phát triển tinh thần yêu thương, đùm bọc nhau trong gia đình một cách tốt đẹp và gương mẫu. Nhờ tinh thần đạo đức đó, Thầy Văn đã sớm biết sống thân mật với Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Lúc sống chung với anh em trong Dòng, Thầy chóng vánh, vui vẻ và tuyệt đối vâng lời bề trên, ra sức phục vụ anh em lớn nhỏ và luôn hoà dịu với mọi người. Noi gương Nữ Thánh Tiến Sĩ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, trong lời cầu nguyện Thầy Marcel Văn đặc biệt lưu tâm đến các linh hồn đã từ bỏ ân sủng Chúa. Trong lao lý, Thầy đã hoàn toàn quên mình để chăm sóc anh em đồng cảnh, bệnh hoạn, khốn khổ. (Đôi dòng tiểu sử Thầy Marcel Nguyễn Tân Văn, 1928-1959 http://www.cuuthe.com/marcelvan/a02tieusu.html) (*)
Trích thuật Tin Mừng Thánh Luca hôm nay Chúa Giêsu công bố ai muốn theo Người, thì tuân theo ba điều kiện chính yếu, mà mỗi người đều có quyền tự do chọn lựa. Bởi vì “Sống là chọn lựa, và chọn lựa là hy sinh điều gì đó.” (Lm Gaston Courtois)
Vật chất & Tinh thần
“Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”(Lc 9, 58)
Trước hết, theo Chúa không lệ thuộc vào môi trường sinh hoạt, không bị ràng buộc vào vật chất, phương tiện, hay tiện nghi. Nói cách khác, không để vật chất ảnh hưởng đến tinh thần theo Chúa. Điều này tuy đơn giản, nhưng hằng ngày rất khó tuân giữ.
Thầy Marcel Văn sớm từ bỏ nếp sống gia đình êm ái, từ bỏ mái ấm đầy ắp tình cảm khắng khít giữa cha mẹ và anh chị em, để theo đuổi Ơn Gọi Hiến Dâng, đối đầu với bao thử thách, cám dỗ, tưởng chừng không thễ vượt qua. Từ khi xa mái ấm đi tu, thầy luôn chịu muôn vàn hy sinh đau khổ, thậm chí ngay trong nhà xứ, nhà dòng, nhưng thầy vẫn một mực trung thành theo chân Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.
Còn chúng ta thì trái ngược, thường chọn sự đời hơn là chọn Chúa. Hằng ngày vào chiều tối, nghỉ ngơi sau ngày vất vả, mệt mỏi, dễ dàng bỏ ra vài giờ đồng hồ liền, đàn đúm chè chén bê tha, hay dán mắt vào TV, mê say, khóc cười theo phim Hàn Quốc, hay đứng tim theo phim hành động Hollywood. Hoặc lướt web hàng giờ bất tận vào thế giói ảo kỳ diệu. Luôn cúc cung tận tụy phục vụ bản thân, đâu cần đếm xỉa gì đến thân nhân hữu hình, hiện diện ngay bên cạnh, nói chi nhớ đến Thiên Chúa vô hình. Còn nhớ chi kinh hạt ban tối? Hay nhắc nhở gia đình đọc kinh chung?
Hơn nữa, còn tỏ ra thật khó chịu khi dự Thánh lễ Chúa Nhật lâu quá 60 phút, vì bài giảng dài quá 12 phút. Chi ly, bủn xỉn, cắt xén, tính toán với Chúa từng phút, từng giây. Xem chừng ai cũng đều đồng tình hành xử như vậy. Phải chăng chúng ta đang chọn thế gian, thay vì chọn Chúa?
Đi theo Chúa còn cần loại bỏ thói hư tật xấu. Không sừng cồ, xù lông nhím khi bị xúc phạm, như hai môn đệ Giacôbê và Gioan, nổi cơn thịnh nộ trước dân làng Samaria, không chào đón Chúa Giêsu và các ông. Sự kiêu căng, lòng tự ái, óc bè phái, lạm dụng quyền hành che mờ Lời Chúa luôn răn dạy: Yêu thương, khiêm tốn, bao dung, tha thứ và nhường nhịn.
Sinh & Tử
“Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.” (Lc 9, 60)
Sống trong xã hội buông trôi theo văn minh sự chết, duy vật, vô thần, chỉ biết bái lạy con bò vàng tiền tài, của cải, danh lợi, hưởng thụ, khoái lạc, con người cũng sẽ mục nát, chết theo cái bả phù phiếm đó. Thói đời ham sinh úy tử, tham sống sợ chết, nhưng cũng không ai tránh nổi. Vấn đề là lựa chọn, sống hay chết như thế nào?
Thầy Marcel Văn trái lại, chọn vào nơi tù đầy, thay vì tự do thanh thỏa. Sẵn sàng bước vào cửa tử, thay vì chọn sống dưỡng xác theo thế gian. Thầy Marcel tâm tình cùng Cha linh hướng Dòng Chúa Cứu Thế người Canada Antoine Boucher:
“Thời gian qua con đã phải chiến đấu rất nhiều và chịu đủ mọi khổ hình về tâm não. Kẻ thù dùng nhiều mưu bắt con phải đầu hàng, nhưng chưa bao giờ con lại hèn nhát đến thế. Cũng có thể nói nếu con ham sống, thì ngày nay con không còn bị nhốt ở trong tù nữa. Nhưng kẻ thù lại không muốn để con chết một cách anh dũng và dễ dàng như thế. Cha hiểu con nói gì rồi. Cha cầu nguyện nhiều cho con, cách riêng cho các tín hữu Bắc Việt.” Tù 304 A. (Thư 17/11/1955 gửi cha A. Boucher)
Nếu còn cứ vấn vương tham sân si hỷ nộ ái ố, thì làm sao ngộ đạo được? Cứ mãi gắn bó với vật chất, thế tục, làm sao nâng hồn lên với Chúa Cứu Thế, mà gắn bó, sống theo Ngài? Nặng lòng tục lụy thì sẽ chết theo đời, chết theo của phù vân. Do vậy, “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.” Còn muốn theo Chúa để được sống viên mãn, thì lắng ghe và chân thành thực hành Lời Chúa, làm chứng nhân cho Đức Kitô, rao giảng Nước Trời.
Trung thành & Bất tín
“Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” (La 9, 62)
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đòi hỏi lập trường dứt khoát, trắng đen rõ ràng. Theo Chúa hay không. Người không thể chấp nhận sự mập mờ, chân trong chân ngoài, nước đôi, nhị trùng. “Nóng thì nóng cho hẳn, lạnh thì lạnh cho rồi. Không lạnh không nóng, dở dở ương ương, Ta sẽ mửa người ra!” (Kh 3, 15b -16)
Đi theo Chúa mà còn nuối tiếc củ hành củ tỏi Ai Cập, còn thèm thuồng vui thú hồng trần, thì không xứng đáng, “thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” Bởi vì Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận bắt cá hai tay, thái độ lưng chừng, nửa vời: “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: Vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia, hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên chúa mà lại làm tôi tiền của được!” (Lc 16,13)
Cần quay lưng lại quá khứ, bỏ đi tất cả những gì đã tích lũy, kể cả thành công lẫn thất bại, kể cả thanh danh hay xú danh, ô danh, sở đoản lẫn sở trường, tài năng và kinh nghiệm, khiêm hạ sám hối, ăn năn lỗi lầm. Rồi thanh thản, phó thác đi theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn qua các dấu chỉ.
Gương bất tín, bất trung, bất nghĩa nhan nhản, tràn trề như nước lũ, vì e sợ mất mát, mất cái ăn cái ở, mất tiện nghi, sung túc, danh lợi, nhất là e sợ thánh giá nặng nề, e sợ roi vọt, tù đầy, e sợ mất mạng sống tạm bợ đời này. Cho nên chúng ta dễ quay lại với cám dỗ thế gian, hòng che chắn tấm thân an toàn, sung túc, hạnh phúc đời này, mà dại dột đánh mất đời sau. Dại dột đổi của trọng lấy của hèn!
“Mất để được, chết để sống, từ để gặp. Ba Đạo sĩ liều hiểm nguy, chế nhạo; Phanxicô liều xa cha mẹ, mất của cải, thú vui. Goretti liều mạng sống.” (Đường Hy Vọng, số 8)
Lạy Chúa, xin giúp con biết dùng của cải, vật chất phục vụ cho đời sống thiêng liêng, thay vì làm đầy tớ cho chúng. Xin giúp con biết từ bỏ những rào cản, để có thể luôn trung thành thực thi Lời Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vượt biết bao trở ngại mưu sinh cùng với Thánh Giuse, xin giúp đỡ con dứt bỏ những cám dỗ thế gian, để mạnh dạn theo Chúa trên đường hy vọng. Amen.
_________________
(*) Việc Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận từ giã cõi đời ngày 16.9.2002 tại Rôma là một đại tang cho cả Giáo hội hoàn vũ nói chung và Giáo hội Việt Nam nói riêng. Nhưng ít ai biết Ðức Cố Hồng Y cũng là Cáo Thỉnh viên cho án phong Chân phước của Thầy Marcel Nguyễn Tân Văn, C.Ss.R. Do đó, việc Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê mệnh chung là một mất mát lớn cho Hội Les Amis de Van hiện đang xúc tiến án phong Chân phước cho Thầy…
Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều đơn sơ giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên tâm đọc kinh cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối, anh giặt áo, phơi khô, để sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra cắn. Sau nhiều lần vá, anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo. Con mèo ăn khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cày ruộng. Bận rộn với việc đồng áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ trong làng tình nguyện giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người, nên anh phải lo làm nhà cửa cho khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao cửa rộng, có ruộng đất, có đàn bò. Ít lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa, ruộng nương, trâu bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao thế?” Anh trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”.
Câu chuyện trên cho thấy con người muốn vươn lên thật khó. Có nhiều thứ vướng mắc ngăn cản bước chân. Vướng mắc kéo theo ràng buộc. Những vướng mắc ràng buộc đan nhau thành một tấm lưới khổng lồ vây bọc con người. Muốn tự do bay lên, phải có can đảm phá tung những mắt lưới trói buộc.
Tiên tri Êlisa là người biết phá vỡ những trói buộc đó. Ông là một nhà nông. Khi Thầy Êlia đến tìm, ông đang cày ruộng với 12 cặp bò. Có 12 đôi bò tức là khá giàu có. Thế mà, khi nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy.
Làm nghề nông thì tài sản là ruộng đất, trâu bò, cày cuốc. Đốt cày cuốc, giết trâu bò có nghĩa là từ bỏ tài sản của mình. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ để theo đuổi nghề nghiệp mới. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ để phóng mình vào tương lai. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, vì chẳng còn gì gắn bó, ràng buộc. Ra đi không trở lại vì đốt cày, giết bò rồi thì đâu còn chỗ trở về nữa.
Thái độ của tiên tri Êlisa là thái độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu mời gọi ta bước theo Người. Để theo Người, ta phải dứt khoát quyết liệt. Không khoan nhượng. Không lưỡng lự dùng dằng. Sở dĩ Chúa đòi chúng ta phải dứt khoát vì Chúa biết xác thịt chúng ta yếu đuối. Tinh thần muốn vươn cao nhưng xác thịt cứ muốn kéo ghì chúng ta xuống. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy sống theo Thần Khí chứ đừng theo xác thịt. Hơn nữa, ma quỷ rất tinh khôn, nó cám dỗ ta từng bước, đưa ra những lý do rất hợp lý để khiến ta nhượng bộ. Nhượng bộ xác thịt một lần rồi sẽ dẫn đến những nhượng bộ khác. Những nhượng bộ đó kéo ta dần dần xa Chúa. Đến khi tỉnh lại thì đã muộn rồi. Như câu chuyện người đệ tử muốn giữ manh áo rách mà ta đã nói ở đầu.
Xin Chúa ban cho chúng con được dứt khoát trên đường theo Chúa, đã cầm cày rồi thì đừng quay lại sau lưng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Ra đi rồi quay đầu lại. Bạn có kinh nghiệm đau đớn về điều này chưa? Nhất là đối với những ai quyết tâm từ bỏ rượu chè, cờ bạc, tiêm chích. Bạn có thấy điều đó không?
2- Có nhiều trở ngại ngăn cản bạn tiến bộ trên đường đạo đức. Hiện nay, điều gì cản trở bạn nhiều nhất?
3- Đã lần nào bạn có một thái độ dứt khoát với tính mê tật xấu chưa?
4- Thái độ của Êlisa dạy ta điều gì?
Tin mừng Chúa Nhật 13 thường niên năm C là đoạn khởi đầu về cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem tức là Người lên đường hướng đến cuộc khổ nạn và thực hiện trọn vẹn ơn cứu độ.
Đoạn Tin mừng này gồm hai phần:
* Câu 51 – 56: Đức Giêsu không được người Samari đón tiếp và phản ứng của tông đồ Giacôbê và Gioan.
* Câu 57 – 62: Ba lời khuyên của Đức Giêsu cho những ai muốn đi theo Người.
* Lời khuyên thứ nhất là khước từ những bảo đảm thường tình: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”.
* Lời khuyên thứ hai là việc rao giảng Nước Thiên Chúa phải được đặt trên hết, không được trì hoãn: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”.
* Lời khuyên thứ ba là hãy quên quá khứ và hướng về tương lai: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”.
Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Đây là một giai đoạn mới trong cuộc đời Người. Người bỏ Galilê, nơi Người đã thành công ngay từ những bài giảng đầu tiên, đến độ người ta muốn tôn vinh Người làm thần tượng. Người lên Giêrusalem, nơi Người sẽ phải chịu treo trên thập giá để thực hiện trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa Cha, để hoàn tất công trình cứu độ. Vượt qua quá khứ “dễ dãi” và đi đến một tương lai “chẳng chắc chắn gì” theo dự phóng của Thiên Chúa Cha quả là một thách đố. Chính trong thời điểm thách đố đó, Đức Giêsu đưa ra những lời khuyên cho những ai muốn bước theo Người.
Đời sống kitô hữu là đời sống bước theo Chúa Giêsu, họ được mời gọi để vượt qua những bảo đảm thường tình: tiền bạc, danh lợi, chức quyền… đồng thời nhận lấy Đức Giêsu như là bảo đảm cho đời sống của mình. Kitô hữu là người cố gắng thể hiện mối phúc thứ nhất trong đời sống mỗi ngày: “phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó”. Người có tâm hồn nghèo khó là người “có mà như không”; đó là người có những bảo đảm thường tình, nhưng họ không cho đó là duy nhất. Họ chỉ có một bảo đảm duy nhất là chính Thiên Chúa. Với tâm hồn nghèo khó, không có gì hết, họ mới có khả năng đón nhận Thiên Chúa vào đời sống của mình. Từ đó, trình bày vị Thiên Chúa của đời sống mình cho người khác.
Hơn nữa, chúng ta được mời gọi để “bước theo Đức Giêsu trong công trình cứu độ”, nghĩa là cũng được mời gọi để “lên Giêrusalem”. Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải rao giảng Tin mừng “lúc thuận lợi cũng như lúc nghịch cảnh”, không vì lý do gì mà có thể trì hoãn. Rao giảng Tin mừng bằng chính đời sống bác ái có tính cách thuyết phục hơn là những “ngôn từ đao to búa lớn”. Khi những người Samari khước từ Đức Giêsu, thánh Giacôbê và Gioan đã muốn “khiến lửa bởi trời xuống thiêu hủy những người đó”. Ngày nay, hẳn là vẫn còn những người “samari hiện đại” không đón nhận Đức Giêsu và lời giảng của Người? Hẳn là không thiếu những thái độ như của Giacôbê và Gioan? Là người theo Đức Giêsu trong công trình rao giảng Tin mừng, chúng ta cần “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui đến chốn u sầu” (thánh Phanxicô Assisi). Thật vậy, Tin mừng là giải thoát, là làm cho con người được tự do. Tin mừng cần phải được tiếp nhận trong tự do và tình yêu.
Lạy Chúa,
trong một xã hội sâu xé nhau
vì quyền lợi, tiền bạc, danh vọng.
Xin cho chúng con trở thành
những con người có tâm hồn nghèo khó,
đồng thời biết chia sẻ cho người khác ơn tha thứ
và tình yêu chúng con đã nhận được từ Chúa.
Bài sách các Vua và bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, tường thuật thái độ của Elisê đi theo tiếng gọi của tiên tri Elia và người môn đệ đi theo tiếng gọi của Chúa Cứu Thế. Elisê được tiên tri Elia gọi lúc ông đang cày ruộng với cặp bò thứ 12, bằng một nghi thức cổ truyền là khoác áo choàng của ngài trên vai ông, để tuyển chọn ông nối nghiệp tiên tri của ngài. Tuy mau mắn bỏ nghề canh nông, bằng cách bắt cặp bò làm thịt, lấy cày làm củi nướng thịt thiết tiệc đãi dân, như để khao mừng vì mới được thăng quan tiến chức tiên tri. Nhưng Elisê cũng như mấy môn đệ xin theo Chúa trong bài Tin Mừng, còn bị tình cảm quyến luyến gia đình, việc từ giã cha mẹ họ hàng thân quyến làm ngưng trệ, làm gián đoạn ơn gọi theo Chúa trong Sứ Mạng Cứu Thế, rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho muôn người.
Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ, phụng sự và yêu mến, Chúa đòi chúng ta chỉ được tôn thờ, phụng sự và yêu mến duy một mình Ngài, Ngài muốn chiếm trọn trái tim chúng ta, Ngài không chịu để chúng ta đặt bất cứ thụ tạo nào ngang hàng với Ngài, Ngài không bằng lòng khi thấy chúng ta còn chia sẻ tình yêu của chúng ta cho thụ tạo; nghĩa là không được đồng thời vừa tôn thờ Thiên Chúa vừa phụng sự thụ tạo hoặc vừa yêu mến Thiên Chúa, vừa quyến luyến tiền của.
Vì thế, khi thấy mấy môn đệ đến xin theo Chúa mà lòng còn quyến luyến cha mẹ, họ hàng thân quyến, của cải ruộng nương, Chúa đã mạnh mẽ truyền dạy: “Hãy theo Ta”. Chúa như đặt một điều kiện cho những ai muốn làm môn đệ Ngài, nên Ngài đã quả quyết dứt khoát khi truyền dạy: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết. Phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”. Trước thái độ lừng khừng quyến luyến gia đình, Chúa đã khẳng định: “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”.
Những người không hiểu giáo lý của Chúa cho rằng, những yêu sách Chúa đòi người muốn theo Chúa là phải dứt bỏ tình yêu gia đình, dứt bỏ cả lòng hiếu thảo con cái phải có đối với cha mẹ, là điều quá đáng; vì họ chưa hiểu rằng chính Thiên Chúa đã dành riêng giới luật thứ bốn trong 10 Giới Luật, truyền dạy con cái phải thảo hiếu cha mẹ. Sáu giới luật ngăn ngừa những lạm dụng, giúp con người duy trì tình liên đới tốt với tha nhân, chỉ có ba giới luật phải giữ trong việc tôn thờ phụng sự Thiên Chúa.
Những điều kiện phải có để trở nên môn đệ Chúa trên đây, cho chúng ta thấy: Để theo Chúa và dâng hiến tình yêu chúng ta cho Chúa, chúng ta phải đặt Chúa trước hết và trên hết; còn mọi tình yêu thương khác phải được xếp đặt theo thứ tự tùy thuộc vào tình yêu mến Thiên Chúa.
Lời đáp ca chúng ta nhắc lại nhiều lần trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: “Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con”. Cái diễm phúc của người môn đệ trung thành theo Chúa, là chiếm hữu được Chúa là phần gia nghiệp đời đời của mình. Nhưng để đáng được Chúa làm phần gia nghiệp đời đời, Chúa đòi chúng ta phải trung thành với ơn gọi của Chúa, khi tuyển chọn chúng ta làm con Chúa. Ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, trở nên con Chúa, là ngày chúng ta được Chúa Kitô giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực hỏa ngục. Khi đó, chúng ta đã long trọng tuyên thệ dứt khoát từ bỏ tội lỗi và mọi quyến rũ xác thịt, từ bỏ Satan và mọi mưu kế của thần dữ. Đồng thời, chúng ta tuyên xưng niềm tin kính Thiên Chúa và tuân giữ mọi giáo huấn Chúa và Giáo Hội truyền dạy. Để được hưởng sự tự do đích thực của con cái Chúa, chúng ta hãy sống theo lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô: “Hỡi anh chị em, anh chị em đã được tự do, nhưng đừng lấy nê tự do mà sống theo xác thịt”; trái lại: “Anh chị em hãy sống theo thần trí, và đừng tìm thỏa mãn theo những đam mê của xác thịt”.
Khi chúng ta dứt khoát khước từ những quyến rũ trần gian, những đam mê xác thịt, những mưu chước của thần dữ và trung thành sống theo thần trí hướng dẫn, qua những giáo huấn của Chúa và Giáo Hội truyền dạy, chắc chắn chúng ta sẽ chiếm hữu được Chúa là phần gia nghiệp, là cùng đích, là hạnh phúc vĩnh cửu Chúa dành cho chúng ta ở đời sau, mà ngay từ đời này, chúng ta cũng sẽ được nếm hưởng hạnh phúc của những tâm hồn thánh thiện sống trong ơn nghĩa Chúa.
III. TẤM GƯƠNG ANH DŨNG THEO CHÚA
Đây, một tấm gương anh dũng: Thánh Giáo Phụ Basiliô bị điệu đến trước tòa án của Hoàng Đế Roma. Hoàng Đế phán: “Nếu ngươi bỏ đạo, trẫm sẽ ban cho ngươi chức cao lộc hậu”.
Thánh Basilio đáp: “Lời Hoàng Đế dạy chỉ có thể dụ dỗ được đứa con nít, Kinh Thánh dạy tôi khác hẳn, nên tôi thà chịu chết còn hơn lià bỏ Chúa Kitô”.
– Ngươi không biết trẫm là ai sao?
– Tôi biết chứ, nhưng tôi không thể tuân lệnh Hoàng Đế đâu.
– Ngươi không biết trẫm có quyền ban chức tước bổng lộc cho ngươi sao?
– Thưa, chức tước bổng lộc có thể thay đổi như chính ngôi vị Hoàng Đế của ngài.
Thấy không thể lay chuyển lòng Thánh Nhân, nhà Vua đe tịch thu tài sản, tra tấn tù tội, và giết chết. Ngài khẳng khái đáp:
– Tâu Hoàng Đế, tôi chẳng có tài sản để Hoàng Đế tịch thu. Lưu đầy chăng? Tôi có quê thật Thiên Đàng. Tra tấn ư? Tôi sẵn sàng chết vì Chúa Kitô. Muốn giết chết tôi ư? Tôi càng sớm được về Thiên Đàng với Chúa.
– Ngươi thật là điên cuồng.
– Tôi mong được điên mãi như thế này.
Hoàng Đế Roma và triều thần đành phải thua cuộc trước Đức Tin anh dũng của người môn đệ Chúa Kitô.
Kết Luận
Người môn đệ đích thực của Chúa Kitô là những kẻ quyết tâm theo Chúa, không lùi bước trước bất cứ trở ngại nào, họ thắng vượt tất cả, khước từ tất cả, để chỉ gắn bó với Đấng lòng họ đã hiến thân, để tôn thờ, phụng sự và yêu mến một mình Ngài.
Như Thánh Phaolô Tông Đồ, họ dám thách đố: “Ai có thể phân rẽ tôi ra khỏi tình yêu Chúa Kitô? Có phải gian nan thống khổ, đói khát trần truồng, hiểm nguy, khủng bố và gươm giáo chăng? Như đã chép: Vì Ngài, tôi phải khổ suốt ngày, khác nào con chiên bị phanh thây. Nhưng vì Đấng đã yêu thương tôi, tôi lướt thắng mọi nghịch cảnh đó. Vả, tôi chắc chắn rằng, dầu sống hay chết, dầu thiên thần hay tước phẩm, dầu hiện tại hay tương lai, dầu uy quyền hay thế lực, dầu trời cao hay vực thẳm, dầu bất cứ một thụ tạo nào, cũng không thể phân rẽ tôi ra khỏi tình yêu thương Thiên Chúa vốn có trong Đức Giêsu Kitô Chúa tôi được” (Rom 8:35-39).
Mỗi người chúng ta, tùy theo địa vị chức vụ mình, chúng ta hãy tự kiểm điểm xem chúng ta đã có thái độ nào đối với Chúa, để sống xứng đáng với ơn Chúa đã yêu thương tuyển chọn chúng ta làm con và làm môn đệ của Chúa?
Trong kho tàng văn chương tu đức Ấn Giáo có chuyện kể như sau:
Ở một làng nọ, có vị đạo sĩ, Sadhu, tu thân lâu ngày, gần đạt đến bậc thánh nhân. Dân chúng ngưỡng mộ, quý mến nhà đạo sĩ, đến thỉnh ý, tầm thầy học đạo.
Một ngày kia, thấy vị đạo sĩ rách rưới, kẻ qua đường biếu nhà đạo sĩ manh vải che mình. Những lúc Sadhu ngồi thiền niệm, bầy chuột tưởng tượng gỗ, rúc vào tấm vải gặm nhấm. Tội nghiệp, có kẻ qua đường thấy thế, biếu Sadhu con mèo bắt chuột. Dân trong làng thương tình, thay nhau đem sữa nuôi con mèo. Rồi ngày nọ, có kẻ hành hương từ phương xa, nghe tiếng thơm nhân đức, đến viếng nhà đạo sĩ. Người đàn bà giàu có ấy tặng đạo sĩ Sadhu con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Để nuôi con bò, người ta làm cho nó cái chuồng. Từ dạo đó, con bò có chuồng, vị đạo sĩ không có nhà. Thấy thế không ổn, dân trong làng làm cho nhà đạo sĩ chiếc chòi lá.
Từ ngày ấy, nhà đạo sĩ không còn nhiều thời giờ tu niệm như xưa, bận rộn nuôi con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Nuôi con mèo để đuổi lũ chuột. Phải lo sửa sang căn nhà. Dân trong làng không muốn nhà đạo sĩ mất thời giờ săn sóc con bò, họ gởi một người đàn bà đến cắt cỏ nuôi con bò, săn sóc con mèo thay cho nhà đạo sĩ có giờ thiền tu.
Nhà đạo sĩ đã có tấm vải che thân, có con mèo đuổi chuột, có con bò cho sữa, có căn nhà để ở, có người đàn bà săn sóc cuộc đời mình. Chẳng bao lâu, nhà đạo sĩ không còn thời gian tĩnh mịch nữa, ông đầy đủ hết rồi.
Đâu là con đường tu đạo? Ông lấy người đàn bà làm vợ, thế là chấm dứt cuộc đời hạnh tu…
Sống đơn giản đưa Shadu vào đời sống tu hạnh. Mất đơn giản, ông mất lý tưởng. Trong Giáo Hội, tất cả các đại thánh đều có đời sống đơn giản. Không phải trong Giáo Hội Công Giáo mà thôi, tất cả thánh nhân trong tôn giáo khác cũng vậy. (x.Những trang nhật ký của một linh mục, Nguyễn Tầm Thường, SJ).
Bài đọc 1 hôm nay kể chuyện Êlisa quyết tâm theo Êlia để làm Ngôn sứ. Êlisa là nông dân, đang cày ruộng với 12 cặp bò. Nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy. Ruộng đất, trâu bò, cày cuốc là tài sản của nông dân. Đốt cày cuốc, làm thịt trâu bò, có nghĩa là từ bỏ tài sản, là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, không luyến tiếc những gì đã có. Đó là thái độ dứt khoát và phó thác, vâng phục hoàn toàn.
Khác với thái độ của Êlisa, Tin Mừng hôm nay thuật chuyện ba người muốn theo Chúa Giêsu, xin được làm môn đệ. Chúa đòi hỏi họ phải dứt khoát trong chọn lựa.
– Người thứ nhất hăng hái xin theo Chúa đi bất cứ nơi đâu.
Chúa Giêsu không giấu anh hoàn cảnh bấp bênh của mình. Ngài sống cuộc đời phiêu bạt, không mái nhà để trú, lúc nào cũng ở trong tư thế lên đường. Chấp nhận theo Ngài là chịu bỏ mọi an toàn, không ổn định, là sống thân phận lữ khách trên mặt đất (x.1Pr 2,11). Theo Ngài là theo Đấng có chỗ tựa đầu. Chỗ tựa đầu tiên là máng cỏ. Chỗ tựa đầu cuối là thập giá.
– Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với điều kiện cho anh về chôn cất người cha mới qua đời trước đã. Anh muốn chu toàn bổn phận thiêng liêng của người con. Chúa Giêsu coi trọng việc hiếu kính mẹ cha (x.Mt 15,3-9), nhưng Ngài đòi anh dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.
– Người thứ ba xin về từ giã gia đình trước đã.
Chúa Giêsu đòi anh ta dứt khoát thẳng tiến như người cầm cày, không quay lại với những kỷ niệm quá khứ, không bị cản trở bởi những ràng buộc gia đình, để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa.
Ba người muốn xin đi theo để làm môn đệ của Chúa Giêsu. Thế nhưng, họ không dứt khoát chọn lựa như Êlisa, họ vẫn còn đắn đo kỹ lưỡng, chần chừ vì những lý do xác thịt và bịn rịn gia đình. Chúa Giêsu trả lời cho cả ba trường hợp là “hãy theo Ta” và đặt giá trị thiêng liêng lên trên mọi của cải vật chất. Theo Chúa lên Giêrusalem là đánh đổi cuộc đời quá khứ để lấy một tương lai mới, tuy vô định, đầy gian nan, bất trắc nhưng tươi sáng và chân thật hơn. Ba trường hợp khác nhau, nhưng đều chung một lời mời gọi từ Chúa Giêsu. Ba lời đối thoại trên cũng là ba đòi hỏi hướng đến điều răn thứ nhất: “Phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.” (Mt 22, 37).
Theo Chúa phải can đảm, phải chọn lựa và ưu tiên tìm kiếm và loan báo về Nước Thiên Chúa trước, còn mọi chuyện khác, Chúa sẽ lo cho sau. Con đường đi tìm Chúa là con đường con đường của từ bỏ… Tuy nhiên, muốn đạt được hạnh phúc thật thì phải lựa chọn trong tinh thần dứt khoát.
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người Kitô hữu là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình… Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Đức Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
Ơn gọi của Êlisa đến trong lúc ông đang cày ruộng, đang làm những công việc hàng ngày. Ơn gọi của Phêrô xảy đến khi ông đang thả lưới, của Môsê khi ông đang chăn chiên, của Mathêu khi ông đang ngồi bàn thu thuế… Ơn gọi tiêu biểu của mỗi cá nhân là ở trong bổn phận hàng ngày. Sống ơn gọi của mình là biết chọn lựa và ưu tiên. Đó cũng là lời mời gọi, hãy đơn giản hoá cuộc sống.
Cuộc sống thật đơn giản vì nó vốn rất đơn giản. “Khi còn nhỏ thì đơn giản, lớn lên trở nên phức tạp. Khi nghèo khó thì đơn giản, lúc giàu có trở nên phức tạp.Khi thất thế thì đơn giản, lúc có địa vị thì trở nên phức tạp.Tự nhận bản thân đơn giản, đánh giá người khác phức tạp.Thật ra, thế giới này rất đơn gỉan chỉ có lòng người là phức tạp. Mà suy cho cùng thì lòng người cũng đơn giản, chỉ vì có lợi ích chi phối nên con người mới trở nên phức tạp. Đời người, đơn giản thì vui vẻ. Nhưng người vui vẻ được mấy người.Đời người, phức tạp thì phiền não. Nhưng người phiền não thì quá nhiều.Trong cuộc đời mỗi người đều không thể tránh khỏi những lúc buồn phiền, lo lắng thậm chí là đau khổ.Người vui vẻ không phải là người không có buồn phiền, mà là người không để cho những nỗi buồn và niềm đau ấy khống chế” (St). Để sống bình an vui vẻ hạnh phúc, chúng ta chỉ cần sống đơn giản. Chúa Giêsu là người thích sống đơn giản và bình thường. Suốt ba năm rao giảng, Ngài mặc những chiếc áo, mang những đôi dép giản dị. Ngài không nghĩ mình là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình trở nên như tôi tớ rửa chân cho các môn đệ, để đến với người nghèo, bệnh nhân và tội nhân. Chúa Giêsu thích sự đơn sơ và bé nhỏ giữa đời thường. Bởi vậy, Ngài mới nhắn nhủ các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời ” (Mt 18,4). Chúa Giêsu đã gieo vào lòng thế giới giá trị của yêu thương và phục vụ trong đơn giản âm thầm.
Đơn sơ là một đức tính quý báu trong linh đạo “thơ ấu thiêng liêng” của thánh Têrêxa Hài Đồng. Sống đơn sơ và giản dị. Đối với những tâm hồn đơn sơ, không cần có những phương thế phức tạp.Nếp sống của Têrêxa luôn trong sáng, thành thực và tự nhiên. Con đường thơ ấu thiêng liêng là sống cuộc sống đơn sơ, yêu mến Chúa, hướng tới trọn lành. Sống đơn giản mới có được tinh thần thanh thoát và nhẹ nhàng, chúng ta mới nhạy bén để sống theo hướng dẫn của Thần Khí chứ không theo xác thịt, vì “anh em được gọi để hưởng tự do”.
Ngày 27.7.82, vận động viên trượt tuyết nổi tiếng người Thụy sĩ Sylvain Saudan, 44 tuổi đã lập một kỳ công thế giới: từ đỉnh núi cao 8.068m trên dãy núi Hy-mã-lạp-sơn ông đã lao xuống còn 3.000m trong 9 giờ. Để lập được kỷ lục này, Suadan đã chuẩn bị 3 năm, phải tập luyện chịu đựng rét lạnh thật kinh khủng, phải hy sinh mọi thú vui hại sức khỏe. Và trong một lần thực tập cụ thể ở độ cao 8.000m, đoàn tùy tùng theo ông đã có 3 người bị tuyết vùi bỏ mạng, những người còn lại vật lộn 2 ngày đêm với bão tuyết mới sống sót trở về được.
Từ sự kiện này chúng ta có thể rút ra được một bài học này: dù việc to hay nhỏ, nhất là những gì gọi là kỳ công, con người muốn thành đạt buộc phải chuẩn bị chu đáo mọi mặt, phải tuân theo những đòi hỏi gắt gao, phải luyện tập bản thân thật khắt khe, phải từ bỏ những thú vui khác.
Nếu vì những mục đích, những thành quả mau qua và giới hạn ở đời mà con người ra sức, nỗ lực chiếm đoạt cho bằng được, huống chi để chiếm được Nước trời, chúng ta sẽ không còn ngỡ ngàng sợ sệt khi nghe Chúa đưa ra những đòi hỏi, những điều kiện làm môn đệ, làm con Chúa trong bài Phúc âm hôm nay. Hơn nữa, nếu xét đâu là mục đích tối hậu và cao cả nhất mà con người phải nhắm tới, đâu là thành quả vĩ đại và vĩnh cửu mà cuộc đời con người phải đầu tư thì những đòi hỏi Chúa đưa ra quá rẻ.
Đòi hỏi đầu tiên là từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Đây là một đòi hỏi cốt yếu vì không ai có thể được gọi là môn đệ, không cố gắng tuân giữ những chỉ thị, những dạy bảo của Chúa. Ngay cả Chúa Giêsu, sau khi đã gặt hái được nhiều thành quả trên con đường truyền giáo, được dân chúng mến mộ, ca tụng, nhưng Ngài đã không dừng lại trong sự an phận thủ thường, trái lại Ngài cương quyết lên Giêrusalem để chịu khổ nạn theo ý của Thiên Chúa Cha.
Đòi hỏi thứ hai của người môn đệ Chúa là phục vụ kẻ khác vì Chúa. Suốt cuộc sống ở trần gian Chúa không những dạy dỗ mà còn làm gương sống phục vụ con người hết mình. Cũng thế, là môn đệ, chúng ta luôn tâm niệm và đeo đuổi một mục đích là đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác với bất cứ giá nào. Do đó, không thể để cho oán ghét, thù hận, ác độc ngự trị trong tư tưởng, lời nói, hành động của chúng ta cho dù người khác có đối xử không tốt hay vô ơn với chúng ta. Vì như Chúa dạy yêu thương, tha thứ, giúp đỡ anh em là dấu hiệu rõ ràng nhất để biết ai thuộc về Chúa, ai thuộc về thế gian.
Đòi hỏi thứ ba là tín thác hoàn toàn nơi Chúa cho dù ở đời có gặp phải những hoàn cảnh éo le, những thử thách đau thương, những thất bại đáng cay. “Con cáo có hang, chim trời có tổ” tiêu biểu những kẻ chỉ dựa vào của cải, danh vọng, kỹ thuật như là chốn nương thân vững chắc cho đời mình, còn “Con Người không có chỗ gối đầu” là những ai biết sống siêu thoát, biết hy sinh chịu khó cốt lo phần rỗi mai sau. Bởi vì, thân phận môn đệ Chúa là thân phận của một lữ khách, nghĩa là không có một nơi trú ẩn bảo đàm lâu dài nào, mà còn chấp nhận dấn thân vào những khó khăn của cuộc sống không từ nan.
Tóm lại, để theo Chúa đến cùng được và để xứng đáng làm môn đệ của Ngài, chúng ta phải có ý chí, quyết tâm cao thực hiện tốt những đòi hỏi của Chúa dạy bảo mới mong chiếm đoạt được Nước trời.
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm về sự chọn lựa như sau: Một con khỉ cầm hai nắm đậu trên hai bàn tay. Khi một hạt đậu rơi xuống đất, tiếc qúa nó bèn chọn lựa và làm một quyết định là nhặt hạt đậu đó lên. Không ngờ khi vừa buông tay để nhặt thì lại rơi thêm mấy chục hạt đậu nữa. Nó lại quyết định nhặt hết mấy chục hạt đậu đó lên. Ai ngờ vừa mở bàn tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm rơi hết nắm đậu còn lại trên tay. Tiếc quá, nó dùng cả hai tay lẫn hai chân để vơ vét các hạt đậu, nhưng càng khều càng vét thì đậu lại càng văng ra xa hơn. Cuối cùng cả hai nắm đậu đều tuột khỏi bàn tay, nằm vương vãi trên mặt đất.
***
Bạn thân mến! Cuộc sống không ngừng đòi hỏi ta phải chọn lựa. Có những chọn lựa “có vẻ” như mang lại cho ta nhiều thiệt thòi mất mát ở đời này. Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay hé mở cho ta thấy những chọn lựa ấy:
Chọn lựa thứ nhất là chọn lựa giữa cuộc sống an toàn ổn định, có chăn ấm nệm êm dưới một mái nhà, hoặc cuộc sống của người đi theo Chúa với những hy sinh thiệt thòi mất mát; những phiêu bạt bấp bênh không một mái nhà trú ngụ…“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu” (Lc.9:58). Hôm nay Chúa vạch ra cho ta hai con đường với hai cuộc sống khác nhau và mời gọi ta làm một việc chọn lựa …
Chọn lựa thứ hai là chọn lựa giữa người thân và việc loan báo Tin Mừng. Có một người muốn đi theo Chúa, nhưng anh lại thưa với Chúa rằng: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã” (Lc.9:59). Chúa nói với anh: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại nước Thiên Chúa” (Lc.9:60). Thế là anh phải đứng trước một chọn lựa.
Chọn lựa thứ ba là chọn lựa một cách cương quyết và dứt khoát để đi theo Chúa. “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc.9:62). Đó là lời Chúa nói với người môn đệ muốn đi theo Chúa, nhưng lại xin phép về từ biệt gia đình trước khi lên đường. Khi đi theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa một cách cương quyết và dứt khoát.
Thực ra, Chúa đòi buộc ta phải thảo kính cha mẹ, phải coi trọng tình yêu thương gia đình, nhưng Ngài cũng dạy ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước nhất. Ngài muốn ta chọn lựa đâu là ưu tiên chính, đâu là ưu tiên phụ. Đối với người Kitô, ưu tiên chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Đó là điều quan trọng nhất, quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống của chính mình nơi trần thế này (Lc.14:26).
Mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy dành ra một giây phút ngắn ngủi để đi vào lòng mình, để nhìn lại những chọn lựa mà ta đã làm trong cuộc sống hôm nay. Nhiều lúc ta phải giật mình vì thấy những chọn lựa của ta thường hay quy về chính mình: Ta chọn sở thích của mình, chọn tự do của mình, chọn hạnh phúc của mình, chọn gia đình của mình… Ta chọn tất cả những gì dính bén đến bản thân của ta, nhưng Đức Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi việc khác, Người sẽ ban thêm cho” (Mt.6:33)
***
Lạy Chúa! Xin tha thứ cho con vì đã nhiều lúc con chọn lựa của cải, danh vọng chức quyền và các thú vui vật chất của đời này. Xin ban cho con sức mạnh của Chúa để con thoát khỏi những bận tâm về chính mình. Xin ban cho con ý chí cương quyết để con biết chọn Chúa là phần gia nghiệp; là hạnh phúc và là cùng đích của đời con. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Chúa Giêsu đi vào giai đoạn chót cuộc đời dưới thế của Người. Lần sau cùng Chúa lên Giêrusalem, nơi đây sẽ hoàn tất số mệnh Cứu Thế của Người. Chúa quở trách các môn đệ vì các ông muốn áp dụng luật ‘ăn miếng trả miếng’, mong ước lửa trời thiêu hủy ngôi làng từ chối tiếp đón Thầy trò. Một bản văn khác chép thêm một lời phán của Chúa Giêsu: “Các ngươi không biết các ngươi ứng theo thần khí nào? Vì Con Người đến không phải để hủy diệt mạng người ta mà để cứu chúng”. Thần Khí Chúa không phải là tinh thần thù hận, dẫu cho bề ngoài đủ lý lẽ biện minh cho thù hận. Chúa không ép buộc phải đón tiếp, cũng không thù oán khi bị đuổi khéo. Làng Samaria nói ở đây theo chủ nghĩa địa phương cực đoan, có lẽ sau này cùng với một làng xóm khác đón nhận Tin Mừng Nước Trời. Đối với bất cứ xúc phạm nào, không bao giờ Chúa làm quá để không thể hàn gắn được, Chúa biết lòng người ta hay thay đổi, có thể một ngày nào tâm hồn sẽ mở ra đón nhận ân huệ Thiên Chúa. Sau khi thuật lại cảnh từ chối tiếp đãi, thánh Luca thuật tiếp ba cảnh khác, nêu lên những đòi hỏi của ơn gọi truyền giáo.
1) Cảnh một cho ta thấy Chúa Giêsu tuyên bố minh bạch trước mặt kẻ muốn theo Chúa rằng cuộc sống kẻ ấy chẳng dễ dàng gì. Làm thế, Chúa cho thấy không được giảm giá trị Phúc Âm vì cớ muốn lôi kéo dễ dàng hơn những kẻ nào ngần ngại trước những yêu cầu của Phúc Âm. Không bao giờ Chúa có thái độ cứng cỏi có thể khiến người ta xa lánh, trái lại Chúa thu hút người ta bằng lòng nhân hậu. Tuy nhiên, không bao giờ Chúa giảm bớt tính chất gắt gao của những yêu cầu hàm chứa trong Phúc Âm, trái lại Chúa nhấn thêm bằng những hình ảnh so sánh mà có thể chúng ta cho là thái quá, như câu: “Con Người không có chỗ để gối đầu”. Thái độ ấy tỏ ra Chúa trọng con người vì con người có quyền được biết sự thật và có khả năng đáp ứng yêu cầu.
2) Trong cảnh hai, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhấn mạnh vào việc phải đáp ứng mau chóng khi Thiên Chúa kêu gọi. Thiên Chúa lên tiếng kêu gọi, chúng ta nghe rõ, nhưng đôi khi có thể chúng ta muốn có thời giờ thu xếp công việc làm ăn, lo tích trữ thứ này thứ nọ để ‘phòng hờ’, tóm lại, chúng ta không gấp. Trường hợp ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ, còn gì chính đáng hơn là thu xếp công việc gia đình trước khi dấn thân theo Thầy? Đúng thế, nhưng với điều kiện là không được trì hoãn, tới lúc phải ra đi thì can đảm chia tay những kẻ vô cớ chèo kéo bịn rịn.
3) Trong cảnh ba, Chúa Giêsu bảo kẻ nào muốn theo Chúa phải biết rõ mình muốn gì và chớ có nhìn lại đàng sau. Khi người ta lái xe, người ta cũng phải nhìn vào kính chiếu hậu nữa để tránh tai nạn, nhưng không được luyến tiếc quang cảnh bỏ lại phía sau. Chúa Kitô không muốn các môn đệ theo Chúa mà lòng vấn vương một quá khứ nào đó. Phải quyết tâm theo Chúa, con mắt hướng thẳng về tương lai.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Trước khi đường siêu tốc có thể xây dựng, toàn thể những công nhân phải làm sạch con đường. Đôi khi những cây cối phải được cắt bỏ, những hòn đá phải được di chuyển đi và những ngọn đồi phải được san cho bằng. Bất cứ những cái gì cản trở trên con đường xa lộ đều phải được chuyển đi.
Chúa Giêsu có một điều gì giống như thế, khi Ngài mời gọi mọi người trở nên môn đệ của Ngài. Ngài trông đợi họ chuyển đi tất cả những gì cản trở trong cuộc sống của họ trên con đường theo Người. Lời tuyên bố khó hiểu của Ngài: “Hãy để cho kẻ chết chôn kẻ chết”. Không có nghĩa là Ngài chống đối việc chôn cất những người thân yêu của chúng ta. Một ý nghĩa khi Ngài tuyên bố, có nghĩa là những ai loại bỏ Người thì cũng giống như những người chết kể từ khi họ loại trừ Chúa của sự sống, nhưng đó cũng là cách mà Chúa Giêsu nói, là chúng ta phải quyết định không có gì quan trọng hơn việc trung thành với Người.
Bài đọc đầu tiên của ngày hôm nay miêu tả một thời kỳ của Cựu Ước, qua đó một con người đã phải làm một quyết định. Cái áo choàng của Êlia là một biểu hiệu chức vụ tiên tri của người. Khi ông khoác nó lên cho Êlisa, ngài muốn mời gọi Êlisa kế tục ông như là một tiên tri trong Israel. Êlisa có vẻ do dự mất một lúc. Ông ấy đã nghĩ về cha mẹ của mình. Ông ta đã làm gì? Sự tự do đã cho phép ông làm một quyết định riêng cho chính mình. Một quyết định mạnh mẽ đã bùng cháy bên trong trái tim ông. Ông đã giết bò, chẻ cày ra làm củi để nướng bò. Điều đó có nghĩa là ông đã từ bỏ những gì có ý nghĩa cho đời sống của ông. Ông đã gặp mọi người để từ biệt họ, bỏ mọi sự để đi theo Êlia. Chúng ta phải nói rằng ông đã thiêu cháy cái cầu đằng sau mình.
Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta làm cùng một công việc như thế để đi theo Người cách cởi mở. Tại phép rửa Ngài đã đặt một áo trắng trên chúng ta. Đó là một biểu tượng có nghĩa chúng ta là một dân mới với một đời sống mới, một đời sống của sự tự do thật. Chúa Giêsu muốn tất cả chúng ta phải giải phóng tất cả những chướng ngại để làm viên mãn ơn gọi làm môn đệ của chúng ta nhưng sự tự do là một thực tại phức tạp. Chúng ta sống trong một xã hội tự do nhưng những ngày này chúng ta làm chứng phải chịu đựng sự lạm dụng tự do, xã hội chúng ta đã thần thánh hóa câu, sự”tự do chọn lựa”, điều đó có đúng không khi chọn lựa phá thai, tước đoạt quyền được sống của kẻ khác. Thật sự một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ ngày xưa đã tuyên bố như giáo điều; “Sự tự do chọn lựa là nền tảng nhất của con người”. Ông ta sai –một cái sai chết người. Ý kiến của ông ta về sự tự do thì không phải những gì Chúa Giêsu đã dự định cho chúng ta.
Loại tự do mà Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta là vì tình yêu. Chúa Giêsu không cưỡng bách chúng ta làm môn đệ của Người, dâng hiến cho Người, để yêu mến Người trên hết mọi sự và trên hết mọi người. Ngài ban cho chúng ta sự tự do để chọn lựa bởi vì tình yêu mà bị cưỡng bách thì không phải là tình yêu nữa.
Trung thành với những ý tưởng của Chúa Giêsu là Thánh Phaolô, đấng đã dạy chúng ta rằng;”Chúng ta đã được kêu gọi để sống trong sự tự do nhưng không phải sự tự do để tháo thứ cho xác thịt”. Sự tự do tháo thứ này thật sự là một nô lệ. Nếu chúng ta nghiện rượu, chúng ta sống tình dục không hợp pháp, chúng ta tham lam hoặc giận dữ, thì chúng ta không tự do. Những vấn đề nhu cầu không bị chôn vùi đâu. Khi chúng ta cho phép môt thói quen lớn lên, một tính kiêu ngạo hoặc một tính ích kỷ điều khiển chúng ta, chúng ta đang lạm dụng sự tự do của chúng ta. Tội lỗi là một thứ nô lệ và đối đầu với tự do.
Trong lời tuyên xưng Thánh Thể của chúng ta, chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu đã trả một giá đắt cho sự tự do của chúng ta: “Lạy Chúa, bằng Thánh Giá và sự Phục Sinh của Người, Ngài đã thiết lập sự tự do cho chúng ta”. Chúa Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, để với ý chí tự do chúng ta có thể yêu mến Người một cách cởi mở.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một thi sĩ Pháp đã tả lại cuộc từ bỏ để đi theo Chúa qua một bài thơ dí dỏm mang tựa đề: “Chiếc bị” (La besace). Thi sĩ coi Chúa như một người bạn và tâm sự rằng.
“Hôm ấy, tôi đang mê mãi bóp trán nặn vần thơ thì tôi nghe tiếng Bạn mời. Tôi vội vã đi theo.
Tôi bỏ vào trong chiếc bị một sống tiêu bằng trúc, nhiều áo quần và cả một tập thơ, một album kỷ niệm thân thương, với nhiều kỷ vật quý giá.
Tôi cùng Bạn lên đường khi mặt trời vừa hé.
Bạn đi trước, tay không nhẹ nhõm,
Tôi theo sau với chiếc bị nặng trĩu trên vai.
Chân kéo lê trên một quãng đường dài.
Một ngày đã trôi qua trên cánh đồng gió thoảng.
Mỏi vai, tôi xin dừng lại giữa đường.
Mở bị ra tôi quăng bớt áo quần, rồi cùng Bạn tôi rảo bước.
Vẫn tay không, Bạn nhẹ nhàng đi trước,
Tôi đi sau mồ hôi đẫm áo ngoài.
Sắp lên cầu để vượt khỏi dòng sông,
Tôi quăng đi tập thơ và sáo trúc, rồi cùng Bạn đi tiếp tục.
Đường lên cao dốc giác và uốn khúc quanh co.
Ôi cánh tay mỏi rã rời, tôi nài xin Bạn cho tôi dừng nghỉ một chút để tìm lại tấm hình mẹ tôi, người tôi yêu dấu nhất đời, chụp vào ngày hôn lễ với cha tôi.
Nhưng tấm hình không còn nữa, nó đã bay mất.
Tôi bỗng buông xuôi, mắt tôi tối tăm lại giữa mặt trời đúng ngọ.
Rồi đêm về khi trăng vừa mới ló trên những giọt sương rơi,
Tôi quăng luôn cả chiếc bị trên đường.
Nắm tay Bạn nhanh chân tôi đi tiếp.
Nhưng bỗng nhiên Bạn bảo tôi ngừng bước.
Dưới vòm trời trong suốt ánh trăng,
Bạn cười tươi nhè nhẹ vỗ vai tôi và nói: Hãy dừng chân vì chúng ta đã đến nơi rồi”.
Anh chị em thân mến,
Muốn theo Chúa Giêsu đến cùng, phải ra đi tay không, phải bỏ lại đằng sau cả hành trang, kỷ vật và người thân. Khi đã mất hết, chỉ còn lại một mình Ngài, cuộc hành trình sẽ kết thúc êm đẹp. Đó cũng là những đòi hỏi mà Chúa Giêsu ngỏ cùng những người muốn đi theo Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay:
Thánh Luca kể lại, khi Chúa Giêsu đang tiến lên Giêrusalem, nơi Ngài phải hoàn tất công cuộc cứu thế bằng tử nạn thập giá, thì một người chạy lại bày tỏ thiện chí tối đa: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu con cũng xin theo Thầy”. Chúa Giêsu không vồn vã cũng không xua đuổi, nhưng nói lên thân phận của Ngài để giúp cho người kia ý thức rõ ràng những gì chờ đợi anh ta, nếu anh ta muốn theo Chúa một cách dứt khoát và tuyệt đối như vậy, Ngài nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có chỗ dựa đầu”. Điều nầy Chúa Giêsu đã thực hiện ngay từ lúc Ngài sinh ra: “không có chỗ cho ông bà trong quán trọ”, và Ngài đã được thân mẫu vấn tã đặt nằm trong máng cỏ. Cuối cùng, trên thập giá, chúng ta cũng đã thất tất cả sự khốc liệt của lời tuyên bố nầy. Trong Tin Mừng thứ ba, không bao giờ thấy nói đến một ngôi nhà riêng của Chúa Giêsu hoặc của nhóm môn đệ. Thực tế là vậy đó, muốn theo hay không tùy ý.
Một người khác lại được Chúa Giêsu ngỏ lời trước: “Hãy theo Tôi”. Nhưng anh ta lại xin phép trở về nhà mai táng cha mình trước đã. Chúa Giêsu không nhượng bộ: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa”. Sứ mạng loan báo Nước Trời là ở cõi chết. Hãy để những người ở ngoài Nước Trời chôn cất những người ở ngòai Nước Trời. Còn người đã được gọi phục vụ Nước Trời thì hãy lo bổn phận chính của mình trước hết và trên hết, không được trì hoãn vì bất cứ lý do gì. Việc báo hiếu cha mẹ là việc quan trọng nhất theo quan niệm thông thường của người đời, cũng không thể làm trì hoãn việc rao giảng Nước Thiên Chúa.
Người thứ ba đến xin theo Chúa Giêsu thì vừa xin đi theo vừa đặt điều kiện: “Thưa Thầy, con xin đi theo Thầy, nhưng xin cho phép con về từ giã gia đình trước đã”. Chúa Giêsu nói thẳng cho anh ta biết rằng thái độ ấy không xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Câu chuyện nầy cho ta liên tưởng đến câu chuyện ông Êlia gọi ông Êlizê mà chúng ta vừa nghe trong Bài đọc I: Ông Êlizê được gọi, xin về từ giã cha mẹ trước đã. Ông Êlia đồng ý ngay. Còn ở đây, Chúa Giêsu cho thấy đòi hỏi của Nước Thiên Chúa mãnh liệt hơn đòi hỏi của Cựu Ước. Toan đi theo Chúa Giêsu mà còn quyến luyến cha mẹ hơn Chúa Giêsu hti2 khác nào kẻ đã cầm cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau. Cầm cày thì phải nhìn về phía trước mới cày được. Muốn theo Chúa Giêsu thì không được quyến luyến cái gì khác, kể cả cha mẹ.
Thưa anh chị em,
Ba mẫu đối thoại nầy đặt chúng ta trước ánh sáng chói lòa của những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa. Muốn theo Chúa Giêsu thì phải chấp nhận đồng số phận với Ngài: nghèo khó, trần trụi, không nhà riêng, không trụ sở, không có gì bảo đảm cho mình ở trần gian nầy; phải coi nhiệm vụ rao giảng Nước Trời là nhiệm vụ trên hết.
Chúa Giêsu không nhượng bộ nửa bước trước những bổn phận chính đáng nhất như mai táng, từ giã cha mẹ. Chính Ngài đã cư xử như vậy lúc Ngài ở lại trong đền thờ năm 12 tuổi. Thánh Giuse và Đức Mẹ đã đau điếng về chuyện nầy. Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu thật khó hiểu: “Ông Bà kh“Ông Bà không biết rằng tôi phải lo việc của Cha tôi sao?”. Đức Mẹ đã ghi nhớ và nghiền ngẫm câu ấy suốt đời. Những lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở đây cũng làm cho chúng ta choáng váng chẳng khác Đức Mẹ và Thánh Giuse lúc ấy. Muốn hiểu được, chúng ta phải im lặng suy đi nghĩ lại trong lòng.
Đối với những người được mời gọi hiến thân phục vụ Nước Thiên Chúa, những lời nầy mời gọi kiểm điểm lại thái độ sống của mình. Chúa Giêsu và Nước Trời đã thực sự độc chiếm tâm hồn và cuộc đời của mình chưa? Đối với mọi Kitô hữu, những lời nầy cũng có ý nghĩa, vì tất cả những ai muốn theo Chúa Giêsu trên con đường tới vinh quang đều phải coi Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa hơn tất cả, nếu còn ngoái cổ lại đằng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa Giêsu thì không xứng đáng vào Nước Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã sống điều nầy và đã phát biểu: “Tất cả những cái tôi coi là mối lợi cho tôi, thì vì Đức Kitô, tôi đã coi như bất lợi. Chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy như thua lỗ, bất lợi hết, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành bị tổn hại về mọi sự và xem như rác rưởi tất cả, để lợi được Đức Kitô” (Pl 3,7-13).
Theo Chúa thì có nhiều người muốn theo. Nhưng lại chỉ muốn theo Chúa như quan niệm và ý muốn của mình, chứ không theo Chúa như Chúa muốn. Vì thế, có khi mắc phải ảo tưởng là mình đang theo Chúa, nhưng thật ra họ đang theo mình và bắt Chúa theo mình. Theo Chúa đúng nghĩa là phải chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, mất gốc; phải từ bỏ tất cả những gì không phù hợp với ý Chúa, với sự thánh thiện của Ngài, phải từ bỏ những gì là nguy cơ làm cho ta xa Chúa hay cản trở ta kết hợp mật thiết với Chúa. Theo Chúa là phải hoàn toàn tín nhiệm vào Chúa và thuộc trọn về Chúa.
Việc tham dự tích cưc và trọn vẹn vào mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Kitô được tái diễn trên Bàn Thánh nầy sẽ giúp chúng ta sống một cuộc đời thuộc trọn về Chúa mãi mãi.
Khát vọng tự do rất mãnh liệt trong tâm hồn con người. Nhưng đâu là tự do đích thực của người môn đệ Chúa Kitô?
MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC
Làm sao tìm được chân chung đích thực của người môn đệ Chúa Kitô? Câu trả lời nằm gọn trong Tin Mừng hôm nay. Môn đệ phải phản ánh hình ảnh Thày. Nếu Thày “nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9:51), môn đệ cũng phải có một gương mặt quả cảm như thế. Nhưng làm sao có thể thênh thang trên thiên lộ như vậy, nếu Thày không phải là con người tự do? Từ tinh thần cho đến lối sống, Thày không bị hoàn cảnh hay con người chi phối.
Tận thâm tâm, Thày không bị đam mê khuấy đục. Thất tình không thể lung lạc tinh thần Người. Dù bị dân làng Samari lạnh nhạt, Thày cũng không màng. Khác hẳn các môn đệ, Thày không muốn khiến lửa thiêu hủy dân làng Samari. Trái lại, “Đức Giêsu quay lại quở mắng” (Lc 9:55). Nhờ đó, các môn đệ mới thấy rõ tất cả giới hạn của lòng mình. Họ không thể bắt chước ngôn sứ Êlia khiến lửa từ trời đốt cháy quân thù (2 V 1:10,12). Người không muốn người môn đệ nuôi mối hận thù hay tìm cách ăn miếng trả miếng. Trái lại phải “yêu thương kẻ thù” (Mt 5:44). Dù bị ghét bỏ và khinh dể, Người cũng như giả điếc làm ngơ. Tim Người không bao giờ sôi sục niềm ân oán. Đó là một tinh thần tự do tuyệt đối. Tinh thần đó sẽ tạo nên những giá trị lớn lao và siêu vượt những tầm thường cuộc sống.
Tinh thần Thày vô cùng siêu thoát! Làm sao có thể siêu thoát như thế? Trước hết, lối sống vừa phản ánh vừa góp phần xây dựng tinh thần siêu thoát đó. Người sống khó nghèo đến nỗi “không có chỗ tựa đầu” (Lc 9:58). Một cuộc đời từ bỏ hoàn toàn. Từ một nơi vô cùng cao trọng, Người đã hạ mình xuống đất đen. Cuộc sống không có ngày mai. Theo Thày là dấn thân vào một cuộc mạo hiểm vô cùng thú vị, nhưng cũng đầy thách đố. Cuộc sống không bị lệ thuộc vào bất cứ nhu cầu nào. Có gì ăn nấy. Không đòi hỏi. Sống nay chết mai. Không có gì để mất. Không có gì tồn trữ. Nay đây mai đó. Nếu quá lệ thuộc vào những điều kiện sống vật chất, làm sao có thể chấp nhận lối sống bấp bênh như vậy?
Khó nghèo là điều kiện đầu tiên và tối thiểu một môn đệ phải có trên con đường theo Đức Kitô. Nhưng để loan báo Tin Mừng, họ còn phải có một tinh thần siêu thoát với những liên hệ tình cảm gia đình nữa. Trước bổn phận báo hiếu đối với thân phụ mới qua đời của người thanh niên, tại sao Đức Giêsu trả lời: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ” (Lc 9:60)? Phải chăng Chúa là một con người lạnh cảm?
Dĩ nhiên, Người không dạy môn đệ khinh dể hay loại bỏ bổn phận đối với gia đình. Gia đình là một giá trị thiêng liêng cao quí. Nhưng đứng trước giá trị siêu việt của Tin Mừng, gia đình phải nhượng bộ. “Những đường lối của Nước Thiên Chúa không nhất thiết sóng bước với đường lối con người” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:701). “Loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9:60) là một bổn phận tối thượng.
Nước Thiên Chúa phải chiếm địa vị ưu việt. Giá trị tuyệt đối. Thực vậy, “ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” (Lc 9:62). Ngoái lại đằng sau có thể làm cho luống cày không thẳng đường ngay lối. Làm việc trong cánh đồng truyền giáo cũng đòi môn đệ phải tập trung cao độ mới có thể đem lại kết quả tốt đẹp. Nếu còn để cho những quyến rũ bên đường thu hút, chắc chắn sẽ đánh mất giá trị lớn lao và công việc phục vụ mất hiệu lực. Chính vì thế, một khi hiến trọn đời loan báo Tin Mừng, thánh Phaolô phải “quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3:13). Người không bao giờ ngoái lại đằng sau với bao nhiêu mối liên hệ tình cảm chằng chịt và địa vị lớn lao trong hàng ngũ Pharisêu. Bởi vì, không giá trị nào có thể vượt trên Nước Thiên Chúa.
Chỉ có con người tự do mới có một tinh thần siêu thoát khỏi những nhu cầu tình cảm và vật chất như thế. Đó mới là tự do đích thực. Tự do đem lại sự giải thoát hoàn toàn. Lên tới cấp độ tự do đó, người môn đệ sẽ thấy rõ mình “được gọi để hưởng tự do” mà “phục vụ lẫn nhau” (Gl 5:13). Họ rất trân trọng giá trị siêu việt của tự do, vì niềm tin mạc khải: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5:1) bằng cái chết và sự phục sinh của Người.
Chính nhờ Thần Khí, Đức Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh lớn lao đó. Cũng như Đức Kitô, môn đệ cũng có sứ mạng giải thoát nhân loại để đem họ vào miền tự do làm con cái Thiên Chúa. Nhưng sứ mệnh đó chỉ có thể thực hiện khi người môn đệ “sống theo Thần Khí” (Gl 5:16). Chỉ Thần Khí mới có thể hướng dẫn họ tới miền đất tự do. Họ sẽ phóng mình theo Đức Kitô để giải thoát nhân loại khỏi vòng nô lệ tội lỗi.
TỰ DO HÔM NAY
Hôm nay khát vọng tự do vẫn sôi sục trong lòng người. Nhân danh tự do, người ta tranh đấu cho quyền phụ nữ phá thai, bất chấp tiếng nói lương tâm. Thực tế, “mặc dù tất cả chúng ta phải theo tiếng lương tâm, nhưng lương tâm không có nhiệm vụ sáng tạo ra chân lý đạo đức, mà phải nhận thức ra chân lý đó. Có thể một cá nhân nhận thức sai lạc thực tại luân lý của một hoàn cảnh đặc biệt. Họ có thể thành thực, nhưng là sai lầm một cách thành thực” (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04).
Lúc đó, cần phải có những tiêu chuẩn khách quan để hướng dẫn mới có thể xử dụng tự do đúng mức và đạt tới lý tưởng cuộc đời. Thực tế, có những mâu thuẫn. Chẳng hạn, “một số người Công Giáo muốn tin tất cả những gì Giáo Hội tin, nhưng lại muốn để cho người khác tiếp tục trực tiếp giết người vô tội. Đó là một gương mù lớn” (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04). Tự do đã đưa con người tới những chủ trương trái nghịch với đạo lý Giáo Hội.
Nếu muốn sống theo tự do như thế, họ phải chấp nhận một thực tế. “Những người Công Giáo công khai chống lại giáo huấn Giáo Hội về quyền sống của tất cả các trẻ chưa sinh nên nhận thức rằng qua hành động họ đã tự do muốn tự tách biệt khỏi những điều Giáo Hội tin tưởng và giáo huấn. Một cách nghiêm trọng họ cũng tự tách biệt khỏi cộng đoàn Công Giáo. Tuy nhiên, “họ vẫn còn là người Công Giáo về một phương diện nào đó, nhưng không còn đức tin Công Giáo toàn vẹn nữa. Đối với người như thế, diễn tả việc hiệp thông với Chúa Kitô và Giáo Hội qua việc chịu lễ là một hành vi thực sự thiếu lương thiện” (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04).
Nhân danh tự do, con người tưởng đạt tới đỉnh cao quyền làm người. Thực tế, “không có quyền nào căn bản hơn quyền được sinh ra và nuôi dưỡng với toàn thể phẩm vị xứng đáng với con người.” Do đó, “phá thai là một trong những bất công nghiêm trọng nhất” (John Myers TGM Newark: Zenit 6/5/04). Lý do vì con người không phải là “một hạt bụi vô dụng mất hút trong không gian và thời gian vô nghĩa, nhưng là một phần trong chương trình đầy khôn ngoan phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa” (Gioan Phaolô II: Zenit 5/5/2004).
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Các bài đọc thánh lễ hôm nay đều qui về một chủ đề chính là “Ơn Gọi Sống Theo Chúa”, hay nói theo ngôn ngữ của bài Phúc âm hôm nay là cùng với Chúa tiến về Giêrusalem, tiến về vận mạng cuối cùng của đời Ngài và đó cũng là vận mạng của mọi đồ đệ. Khi tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu mạc khải cho các đồ đệ số phận hay đúng hơn sứ mệnh mà Ngài đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để thực hiện. Đó là hiến mạng sống mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu đã phán:“Ai muốn theo Ta thì cũng phải từ bỏ chính mình vác lấy thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Trọn cả cuộc đời của Chúa đều hướng về sứ mạng cuối cùng này tại Giêrusalem, nơi mà Ngài sẽ phải hy sinh chính mình làm giá cứu chuộc nhân loại, và mọi người đồ đệ chúng ta cũng được mời gọi cùng tiến lên Giêrusalem với Chúa để thực hiện sứ mạng của Chúa. Trên đường đi Chúa muốn kêu gọi những đồ đệ mới cùng nhập cuộc, và bài Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta nhiều thái độ phản ứng khác nhau trước lời mời gọi nhập cuộc đồng hành với Chúa tiến về Giêrusalem. Trước hết, có những người không chấp nhận chút nào cả, chối từ Ngài thẳng thừng, nhưng Chúa Giêsu không ép buộc, không trả thù, không phạt tội. Có hai tông đồ trong nhóm bực tức muốn xin Chúa lửa bởi trời xuống thiêu hủy họ để trả thù, nhưng Chúa Giêsu trách: “Các con không biết thần trí nào xúi giục. Con Người đến không phải để giết đi nhưng để cứu chữa”.
Chúa Giêsu sống và thực hiện thái độ tha thứ và sẵn sàng chấp nhận kẻ chống đối,mong họ trở về với Ngài, và trên thập giá Chúa Giêsu cũng đã thực hiện điều này: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Với người trộm lành ăn năn Chúa phán: “Hôm nay con sẽ lên thiên đàng cùng với Ta”. Không bao giờ Chúa thất vọng về thái độ chống đối của con người, Ngài luôn chờ đợi và kiên nhẫn chờ đợi con người.
Đối với những kẽ chấp nhận theo Chúa: “Thầy đi đâu tôi cũng đi theo Thầy” thì Chúa Giêsu mời gọi họ hãy theo Ngài một cách cương quyết hơn, trọn vẹn hơn, chấp nhận những hy sinh từ bỏ: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ gối đầu”. Theo Chúa không phải để được hưởng lợi lộc trần gian hay địa vị xã hội. Bao ơn gọi đã bị lung lay, chết khô, bị bỏ cuộc chỉ vì lúc đó không còn những lợi lộc hay địa vị để người đồ đệ Chúa hưởng thụ nữa.
Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bị điệu ra trước mặt quan tòa yêu cầu ngài từ chối đức tin không chấp nhận mình là người Kitô, là người đồ đệ của Chúa nữa để được sống thì thánh giáo phụ đã mạnh mẽ trả lời cho những quan tòa rằng: “Không, tôi không thể nào chối bỏ Chúa tôi, tôi hết lòng yêu mến Ngài”. Và trong khi quan tòa nói những lời hăm dọa thì ngài vẫn bình tĩnh nói nhỏ những lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”. Quan tòa không chịu nổi thái độ thách thức này nên ra lệnh bảo ngài im và hăm dọa: “Nếu ông không ngưng nói những lời này thì ta sẽ ra lệnh phân thây ông thành muôn mảnh ngay”. Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bình tĩnh trả lời: “Tôi không thể ngưng yêu mến Chúa tôi. Nếu ông cắt đầu tôi, miệng tôi không nói được lời này nữa, nhưng bao lâu tim tôi còn đập thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn nói lời yêu mến Chúa”.
Để được trung thành và kiên trì đến cùng trên con đường theo Chúa, dám liều bỏ mọi sự thì mỗi người chúng ta cần phải có tình yêu thật mạnh mẽ đối với Chúa. Tình yêu này cũng không phải là do tự sức riêng của mỗi người chúng ta, nhưng là hồng ân của Chúa, là món quà Thánh Thần tình yêu mà Chúa Giêsu hứa ban và đã ban thật sự cho mỗi người chúng ta qua Bí tích Rửa tội và nhất là qua Bí tích Thêm sức. Tình yêu đó cần được nuôi dưỡng mỗi ngày một lớn thêm qua Bí tích Thánh thể, qua Mình và Máu Thánh Chúa.
Nơi bài đọc II của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô đã khuyên anh chị em giáo đoàn Galata hãy sống theo Thánh Thần mà đối xử với nhau để được tự do khỏi làm nô lệ cho những tội lỗi. Nhờ tình yêu của Chúa Thánh Thần chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của mình, theo Chúa cho đến cùng, cho đến Giêrusalem, cho đến đồi Golgotha và phục vụ anh chị em.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ của các thánh, của những đồ đệ cương quyết theo Chúa cho đến cùng. Ước chi đó cũng là những lời nguyện của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”. Xin Chúa củng cố mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
Quan đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy có nhiều loại người đi theo Chúa.
Hạng người thứ nhất: “thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào” mà không nghĩ tới công sức phải đầu tư vào. Với những người như vậy Chúa Giêsu bảo: “Trước khi theo ta, ngươi hãy tính kỹ giá phải trả.” Không bao giờ người ta có thể nói rằng mình bị dụ dỗ theo Chúa Giêsu, bởi những lý lẽ giả dối. Chúa Giêsu khen những người biết đánh giá cao hết sức những đòi hỏi của Ngài. Có thể chúng ta đã làm hại Hội Thánh rất nhiều, khi bảo người ta gia nhập Hội Thánh không khó khăn gì. Cần nói rõ với họ rằng đó là việc khó khăn nhất trên đời. Có thể, sẽ có ít người gia nhập Hội Thánh hơn, nhưng những người mà chúng ta có sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa.
Hạng người thứ hai được Chúa gọi, anh ta thoái thác, rất có thể cha anh chưa biết, cũng chưa gần chết, anh viện lẽ, bổn phận thiêng liêng để thoái thác lời mời gọi theo Chúa.
Chúng ta cần nghe câu chuyện sau:
Chàng thanh niên nọ rất muốn từ giã thế gian để đi tu, nhưng anh tuyên bố: gia đình anh quá yêu thương anh, do đó, không để anh thực hiện ý nguyện.
Ông thầy của anh biết chuyện bảo anh: “Yêu anh hả! Thật thế sao?”. Và ông bày cho anh một bí mật của Yoga: giả chết. Ngày hôm sau, anh ta chết. Cả nhà chạy tới than khóc thảm thiết.
Lúc đó, vị thầy xuất hiện và nói với gia đình rằng ông có quyền lực làm cho chàng trai này sống lại với điều kiện có một người nào trong gia đình tình nguyện chết thay. Ông lần lượt hỏi mỗi người trong gia đình.
Trước sự ngạc nhiên của xác “chết”, các thành viên trong gia đình lần lượt người này đến người khác đưa ra lý do để từ chối hy sinh thế mạng. Vợ anh tóm gọn tâm tình của tất cả các người trong gia đình bằng những lời sau: “Thực ra không cần thiết có ai đó thế mạng chồng tôi. Chúng ta sẽ đủ sức xoay xở mà không cần anh ta.”
Thật ra nếu câu trả lời của anh ta thành thật, anh cũng vẫn đáng trách, vì không có một bổn phận lo cho con người chết nào quan trọng cho bằng việc đáp lại lời mời gọi của Chúa hằng sống. Không có một ràng buộc nào dầu cao đẹp đến đâu có thể xem như là một lý do chính đáng để từ chối đi theo Đức Kitô. Chúa Giêsu đang đi qua đây lần cuối cùng. Nếu không theo ngay sẽ không còn dịp khác. Những người đá chết về phần tâm linh và không nghe lời hiệu triệu của Chúa Kitô có thể lo việc chôn cất ấy, nhưng những người đã được Đức Kitô kêu gọi có thể làm một việc thiêng liêng cao cả hơn: rao giảng Tin Mừng về sự cứu rỗi và sự sống.
Hạng người thứ ba còn lừng khừng chưa dứt khoát. Không bao giờ có người nông dân nào có thể cày một luống thẳng trong lúc cứ ngoái nhìn lại đằng sau. Thế mà có nhiều người chân bước theo Chúa mà lòng còn đặt vào việc thế tục đã qua, lòng họ bị chia sẻ… Đối với hạng người này Chúa Giêsu không bảo “Hãy theo ta” cũng không bảo “hãy trở về”, nhưng Ngài bảo “Ta không chấp nhận một sự phục vụ hâm hẩm.” Thái độ hâm hẩm ấy chứng tỏ anh ta chưa nhận thức được cái đặc ân vinh hiển được Chúa kêu mời hay vẫn còn cân nhắc đặc ân ấy với hy sinh phải chịu.
Chúa thấy anh không dứt khoát, và Ngài đưa ra câu trả lời có giá trị cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đã nhận được lời mời gọi theo Chúa và chúng ta phải làm tất cả mọi sự để đừng phí phạm ơn Chúa: “Chúng ta nhận ơn Chúa cách vô ích khi chúng ta nhận ở cửa lòng, chứ không nhận tận đáy lòng. Như thế là chúng ta nhận mà không giữ, nghĩa là chúng ta nhận mà không kết quả, vì cảm nhận gợi hứng thì đâu lợi ích gì, nếu không chứng nhận làm theo”.
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’ – André Sève)
Chúng ta sắp sửa nghe những lời rất gay go nhưng rất quan trọng đến nỗi trước tiên phải hiểu rõ tại sao Chúa Giêsu tỏ ra gay gắt và nóng lòng: “Vì gần đến ngày Chúa Giêsu phải lìa bỏ thế gian nên Ngài quyết định đi Giêrusalem”. “Con đường lên Giêsuralem” chính là con đường tiến về cái chết.
Chúa Giêsu biết điều đó. Ngài đã thấy nổi lên sự chống đối, một liên minh các thù địch đang chờ đợi Ngài trong thành phố “là nơi người ta giết chết các tiên tri” (Lc 13,34). Có lẽ Ngài đã có thể tránh được thảm cảnh trong khi ở lại Galilê, nhưng Ngài không tránh né sứ mạng cứu độ và những hậu quả của nó. Nơi mà Gioan nói Ngài đi “cho đến cùng” thì Luca nói rằng Ngài “quyết định” đi (trong bản dịch nghĩa đen: “Ngài nghiêm mặt lại”).
Cái “quyết định” này cũng phải đánh dấu những người muốn đi theo Ngài. Điều này đặc biệt đúng đối với những “ơn gọi”, nhưng mọi Kitô hữu, theo cách và trong hoàn cảnh của mình, được mời gọi “đi theo Đức Kitô”, nghĩa là sống theo Tin Mừng. Do đó chúng ta có thể làm một cuộc xem lại cuộc sống Tin Mừng bằng cách đi từ những câu trả lời sống động do Chúa Giêsu nói với ba người.
1) Ngươi sẽ không có chỗ trú ngụ.
Một ngày kia, chúng ta la lên hoặc thì thầm lời yêu thương này với Chúa Giêsu: “Con sẽ đi theo Ngài khắp nơi”. Câu trả lời của Ngài làm chúng ta hăng hái. Nếu ở vào lứa tuổi 20, ý tưởng thậm chí ‘không có hang’ chỉ có thể làm cho chúng ta vui thích mà thôi. Tập sinh nào, kẻ tiên phong nào, kẻ trở lại với Tin Mừng nào mà quan tâm đến tiện nghi cơ chứ!
Nhưng cuộc sống sẽ nhẹ nhàng trở nên trói buộc. Biết bao tông đồ sự tiện nghi đã làm cho uể oải! Biết bao Kitô hữu ngần ngại thực hành Tin Mừng bởi vì phải chịu thiếu thốn và nhất là dấn thân vào sự mất an toàn. “Quyết định đi Giêrusalem”, trước tiên đó là nhận thấy rằng chúng ta quá gắn bó với quá nhiều vật dụng, với quá nhiều điều đảm bảo.
– Sau đó thì sao? Chơi trò vô gia cư sao?
– Không, nhưng làm một vòng căn hộ và con tim để đo lường mức độ trưởng giả của chúng ta. Chúng ta sẽ là quan tòa duy nhất, mỗi một người trong chúng ta có những con quỷ tiện nghi riêng.
2) Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết
Đây trước hết là mệnh lệnh không được lần chần. Có biết bao nhiêu lý do làm chúng ta ngồi lại khi người ta đã đứng dậy để đi theo Chúa Giêsu. Nếu chúng ta không đi theo Ngài ngay lập tức, ơn kêu gọi sẽ qua nhanh, nhanh hơn những trì hoãn của chúng ta.
Có những chọn lựa rất khó mà dám đón nhận. Khi tôi nghe la rầy một linh mục không quan tâm đủ đến những cuộc mai táng hoặc người nào đó vừa mới mất, hoặc thậm chí cha mẹ của chính linh mục đó, tôi tự nhủ phải xác minh kỹ những điều đó và trong tinh thần của Tin Mừng hôm nay. Có lẽ đó là sự hờ hững hoặc thiếu vắng tinh thần con thảo, thế thì phải phản đối. Nhưng nếu ngược lại đó là để phục vụ cuộc sống tốt hơn nữa, và đôi khi một cách anh hùng thì sao? Tôi biết một bà mẹ nói với người con làm linh mục: “Đừng quan tâm đến mẹ, con là con trai mẹ hàng ngàn lần khi con hiến thân hơn khi là khi con quan tâm đến mẹ”. Chúng ta đã giết chết những người tông đồ trong khi kéo họ lại phía sau, họ trở nên những người chết bận tâm đến những người chết.
Cũng ý tưởng này trong lời nói khó khăn thứ ba:
3) “Hãy nhìn về phía trước, chứ không phải phía sau, nếu không con không xứng với Nước Trời”.
Có những cách bám víu vào quá khứ rất não nùng hoặc rất sợ hãi mà không phải là những bước tiến quyết định hướng về Giêsusalem! Thay vì nói những lời từ biệt không cùng, trong khi nắm lại những kỷ niệm, môn đệ của Chúa Kitô là kẻ “hướng về phía trước” mà Phaolô đã mô tả: “Quên con đường đã qua và hướng về phía trước, tôi đi đến đích” (Pl 3,13-14).
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một vị linh sư Ấn-độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quý để như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư mở mắt, thấy hai viên ngọc long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy một viên ném thẳng xuống sông.
Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống sông và lặn xuống đáy cố tìm cho bằng được viên ngọc quý giá. Nhưng suốt cả ngày hì hụp ngoi lên lặn xuống hao hơi nhọc công, viên ngọc vẫn biệt tăm.
Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin ngài chỉ đích xác nơi mà ngài đã ném ngọc xuống để may ra tìm lại dễ hơn.
Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên ngọc thứ hai lại ném xuống sông và nói: “Ta đã ném nó vào chỗ nầy nầy. Anh hãy lặn xuống mà tìm kiếm.”
Bấy giờ chàng thanh niên bỗng nhiên giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng bài học đầu tiên mà vị linh sư muốn dạy anh là muốn trở thành môn đệ của ngài thì điều kiện tiên quyết là phải có tinh thần siêu thoát, phải sẵn sàng dứt bỏ mọi dính bén với của cải thế gian.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho những ai muốn trở thành môn đệ của Người cũng phải có một tinh thần siêu thoát tương tự, chủ yếu là siêu thoát đối với ba sự việc sau đây:
Thứ nhất: siêu thoát đối với những tiện nghi và của cải
“Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Với những lời nầy, Chúa Giêsu cảnh báo rằng: ai muốn theo Người thì trước hết phải lượng sức mình: Có đủ siêu thoát để chấp nhận cuộc sống thiếu thốn như Người, ngay cả chỗ tựa đầu cũng chẳng có chăng?
Thứ hai: siêu thoát đối với những trói buộc trần thế để ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.
Rồi Chúa Giêsu lại gặp một người khác và cất tiếng mời gọi: “Anh hãy theo tôi. Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.”
Đức Giêsu muốn anh siêu thoát khỏi trói buộc nầy nên bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”
Tất nhiên Chúa Giêsu vẫn đề cao việc thờ cha kính mẹ (Mc 7,10), nhưng qua lời dạy nầy, Người đòi hỏi ai muốn trở thành môn đệ của Người phải dành ưu tiên tuyệt đối cho việc loan báo Tin Mừng, còn việc chăm sóc phụng dưỡng ông bà, mai táng cha mẹ tất nhiên đã có anh em họ hàng ở nhà chung lo.
Thứ ba: siêu thoát khỏi những tình cảm riêng tư để dốc hết tâm lực cho việc loan báo Tin Mừng.
Đi thêm chặng nữa, Chúa Giêsu gặp một người khác tình nguyện theo Người: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”
Với người nầy, Chúa Giêsu kêu gọi phải siêu thoát khỏi những mối tình cảm gia đình để thảnh thơi lo việc xây dựng Nước Thiên Chúa. Đã xông pha lên đường phụng sự Nước Trời mà còn vấn vương những mối tình cảm riêng tư thì chẳng khác chi “đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau”.
***
Những mối ràng buộc do của cải tiền tài, do những mối tình cảm riêng tư… như những chiếc vòi của con bạch tuộc khổng lồ huyền thoại, cuốn chặt lấy những chiến sĩ của Tin Mừng, không để cho họ xông pha lên đường phụng sự lý tưởng cao đẹp.
Khi kêu gọi người môn đệ siêu thoát đối với của cải tiện nghi và những ràng buộc của những mối tình cảm hẹp hòi, Chúa Giêsu mong muốn những ai dấn thân phụng sự Nước Trời hãy can trường chặt đứt những chiếc vòi quỷ quái đó hầu có thể thảnh thơi thi hành sứ vụ.
Cần thật nhiều ơn Chúa, cần có nhiều bản lãnh và nghị lực bản thân mới có thể thực hiện được những đòi hỏi khó khăn nầy.
***
Lạy Chúa, xin luôn ở bên chúng con, đồng hành với chúng con và cùng chiến đấu với chúng con.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trường hợp cha mẹ có năm đứa con do chính mình sinh ra, do chính mình tận tâm chăm sóc nuôi dưỡng và ấp ủ bằng tấm lòng yêu thương tha thiết từ lúc mới lọt lòng cho đến lúc khôn lớn, mà những đứa con đó lại không đếm xỉa gì đến bậc sinh thành, phủ nhận toàn bộ công lao cha mẹ, lại còn chối bỏ hoặc phỉ báng cha mẹ nữa… thì trong hoàn cảnh đó, cha mẹ đau khổ biết chừng nào!
Và nỗi đau khổ của cha mẹ càng dâng cao hơn, khi chính những đứa con đó, vì không biết cha biết mẹ, do đó cũng chẳng biết chúng là anh chị em ruột thịt với nhau, nên đâm ra ghen ghét, xâu xé nhau, khai thác trục lợi nhau và tệ hại hơn nữa, gây ra cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn giữa chúng với nhau.
Nỗi đau của Thiên Chúa cũng chất ngất như thế đó!
Thiên Chúa quá đỗi đau buồn vì có rất đông con cái của Ngài trên khắp thế giới, do chính Ngài sinh ra, do chính Ngài chăm sóc nuôi dưỡng và hết lòng yêu thương quý mến, lại không nhìn nhận Ngài là Cha, thậm chí có kẻ còn quay ra phỉ báng Ngài; và vì không nhìn nhận Chúa là Cha nên họ cũng không thể nhận ra nhân loại là anh chị em con cùng một Cha trên trời. Hậu quả là người ta đâm ra ghen ghét, hận thù, xâu xé nhau và gây ra vô vàn đau thương khốn khổ cho nhau.
Đây là thảm cảnh đau thương khiến Thiên Chúa là Cha nhân lành không chịu đựng nổi nên Ngài muốn chấm dứt thảm trạng nầy càng sớm càng tốt.
Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thực thi một sứ mạng tối thượng và cấp bách là bày tỏ cho nhân loại biết họ có một Người Cha/Mẹ tuyệt vời là Thiên Chúa và bởi vì Thiên Chúa thật sự sinh ra mỗi người trên trái đất nên mọi người đều là anh chị em con cùng một Cha/Mẹ trên trời; hy vọng một khi sự thật nầy được mọi người nhận biết và đón nhận, nhân loại sẽ được diễm phúc chung sống hòa bình như anh chị em một nhà có chung một Người Cha.
Đây là sứ mạng tối thượng và cấp bách nên không thể trù trừ chậm trễ mà phải dồn tất cả mọi nỗ lực để hoàn thành. Chính Chúa Giêsu đã dành ưu tiên cho sứ mạng nầy đến nỗi hy sinh quên mình, từ bỏ hết mọi sự, ngay cả chỗ tựa đầu, Ngài cũng không có: “Chim trời có tổ, chồn cáo có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Thế nên, khi có người gặp Chúa Giêsu để xin làm môn đệ, thì Ngài cho anh biết điều kiện tiên quyết để trở nên cộng tác viên của Ngài là phải hy sinh quên mình cho sứ mạng – sứ mạng loan Tin Mừng cho mọi người biết Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh chị em – đến mức không còn chỗ dựa đầu. Ngài nói với anh ta: “Chim trời có tổ, chồn cáo có hang, Con Người không chỗ dựa đầu.”
Và khi Chúa Giêsu gọi một kẻ khác theo Ngài, kẻ ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về mai táng cha tôi trước đã.” Chúa Giêsu bảo: “Hãy để người chết chôn người chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”
Đành rằng mai táng cha mẹ là việc quan trọng rất đáng thực hành để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục; tuy nhiên, khi trả lời như thế, Chúa Giêsu muốn dạy ta hiểu rằng sứ mạng theo Chúa loan Tin Mừng còn khẩn cấp hơn, đáng được ưu tiên hơn cả việc chôn cất cha mẹ qua đời.
Lần khác, có người thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” Nói như thế, Chúa Giêsu có ý nhắn bảo rằng phải dốc toàn tâm toàn lực cho công cuộc loan Tin Mừng, không chút chểnh mảng vì bất cứ lý do gì, kể cả việc giã từ cha mẹ vợ con hay những người thân trong gia đình.
Là người con trong Gia Đình Thiên Chúa, chúng ta không thể vô cảm trước nỗi thống khổ của Cha chúng ta, một Người Cha bất hạnh vì bị rất nhiều người con – mà Ngài đem hết lòng yêu thương – từ khước và thậm chí còn quay lại phỉ báng Ngài.
Là người em của Chúa Giêsu, chúng ta không thể khoanh tay đứng nhìn Anh Giêsu lao đao, thổn thức trên hành trình hun hút tìm kiếm những người em lưu lạc, sống xa cách Cha, lìa bỏ Gia Đình.
Là người anh em nhỏ bé trong Đại Gia Đình nhân loại, chúng ta không thể dửng dưng khi anh chị em một nhà không nhận ra nhau là người ruột thịt con cùng một Cha và vì thế, có những đối xử tệ hại với nhau.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp chúng con chấp nhận hy sinh quên mình như Chúa, biết dốc toàn tâm toàn lực như Chúa đòi hỏi để đồng hành với Chúa, góp công sức với Chúa thi hành sứ mạng tối thượng mà Chúa ngày đêm kêu mời chúng con hợp tác. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Nước Pháp người ta vẫn tự hào về chị nữ tu Emmanuelle. Nữ Tu này, đã từng được biết đến như là “Nữ Tu lượm giẻ rách” tại Cairô, Ai Cập.
Năm 1971, Nữ Tu Emmanuelle đến sống giữa những anh chị em nghèo cùng tại khu nhà ổ chuột ở thủ đô Cairô, Ai Cập, và đi lượm rác kiếm sống như họ. Năm 1980, Nữ Tu đã thiết lập hội “Trợ Giúp Xã Hội và Y Tế cho Trẻ Em”, hiện có mặt hoạt động tại 9 quốc gia trên thế giới, và giúp cho khoảng hơn nửa triệu trẻ em.
Trong lần sinh nhật 87 của bà, người ta đã nêu câu hỏi dành cho bà: “làm sao Sour có thể chấp nhận sự mất tự do ấy khi sống cho người nghèo và hoàn toàn lệ thuộc vào người nghèo?”
Vị nữ tu trả lời: “tôi lại nghĩ rằng nữ tu là người tự do nhất!” Trước sự ngạc nhiên của cử tọa, chị giải thích:
Với ba lời khấn hứa của đời nữ tu, tôi hoàn toàn tự do. Ba lời khấn đó là:
– Thứ nhất: nghèo khó, không giữ của riêng. Nhờ đó tôi không bị ràng buộc bởi những ham muốn tiền bạc, tài sản, không phải bon chen tìm kiếm chúng, không phải loay hoay để bám lấy chúng. Sống có nhà dòng lo, chết cũng nhà dòng lo nên tôi chẳng phải bận tâm đến nó.
– Thứ nhì: thanh tịnh, không dính vào tình yêu nam nữ. Nhờ đó tôi được giải thoát khỏi sự kềm tỏa của quý ông (mọi người cười)! Không phải sợ chồng con hỏi đi đâu, bao giờ về, tôi hoàn toàn tự do sống cho người nghèo.
– Thứ ba: vâng lời, tuân phục bề trên. Nhờ đó, tôi được giải thoát khỏi chính tôi, tức là khỏi những ham muốn, khi thì thích đi đây, khi thì thèm đi đó, khi đòi làm chuyện này, lúc muốn làm chuyện nọ, của riêng tôi. Tôi để bề trên quyết định
Bà kết luận: với ba sự giải thoát ấy, tôi hoàn toàn tự do.
Và tôi có cảm tưởng những người nghèo đói sống trong những khu nhà ổ chuột ở Cairô, Ai Cập lại có vẻ hạnh phúc hơn những người giàu vì họ ít ham muốn… Và điều quan trọng là họ thỏa mãn với những gì mình có.
Cuộc sống con người quan yếu là hạnh phúc. Hạnh phúc không dựa vào tiền bạc, quyền lực mà hạnh phúc là sống thanh thoát khỏi những bon chen của tiền – tình – quyền. Có tiền mà không hạnh phúc thì cũng không bằng không tiền mà hạnh phúc. Có quyền lực mà không có tự do cũng không bằng thường dân mà thanh thản.
Cuộc sống sẽ đẹp biết bao khi con người biết sống thanh thoát khởi những ham muốn danh lợi thú trần gian. Đôi chân sẽ nhẹ nhàng để đến với mọi người. Đôi tay sẽ thanh thoát để trao ban. Tâm hồn sẽ lạc quan dẫu cuộc đời vẫn còn đó những khó khăn.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng nhắc nhở người theo Chúa hãy sống thanh thoát với ảo ảnh trần gian. Chính Chúa cũng sống vượt ra ngoài những tiện nghi. Chúa không có nơi gối đầu để có thể thanh thoát ra đi đến với muôn nơi. Đôi chân Chúa không bị níu kéo bởi những tình cảm mau qua. Chúa đã chọn sống vì mọi người và cho mọi người. Cuộc sống của Ngài không tìm niềm vui riêng cho mình. Ngài không giữ lại cho mình một mái nhà, một người thân mà sẵn lòng bỏ lại đi đến tận cùng của hiến dâng cho đồng loại.
Xin cho chúng ta biết sống cao đẹp như Chúa khi biết sống mình vì mọi người. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống thanh thoát trước những mời gọi của danh lợi thú để tâm hồn luôn dành trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Amen.
Người ta bảo ở bên Palextina có hai biển hồ… Biển hồ thứ nhất gọi là biển chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi mà người uống phải cũng bị bệnh. Ai ai cũng đều không muốn sống gần đó. Biển hồ thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu hút nhiều khách du lịch nhất. Nước ở hồ lúc nào cũng trong xanh mát dịu, con người có thể uống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở nơi đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này…
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn nước từ sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào Biển Chết. Biển chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Galilê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muôn thú và con người.
Đây là một định lý trong cuộc sống: có cho đi mới được lãnh nhận. Vì “xởi lởi trời cho, co ro trời co lại”. Hay ít ra cũng là “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Người có tâm hồn quảng đại trao ban mới có cơ hội đón nhận niềm vui và hạnh phúc của cuộc sống. Người có tâm hồn thanh thoát khỏi những tham sân si của giòng đời mới tự do tự tại. Vì vậy, thật bất hạnh cho những ai cả cuộc đời chỉ biết giữ riêng cho mình. “Sự sống” trong họ rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nước trong lòng Biển chết. Và thật hạnh phúc cho những ai biết trao ban. Cuộc sống họ sẽ mãi lan tỏa và dồi dào sức sống như biển hồ Galilê.
Đó chính là cung cách sống của Chúa Giêsu. Ngài đã sống một cuộc sống thanh thoát với những tiện nghi vật chất. Ngài đã chấp nhận cuộc sống bấp bênh, rày đây mai đó đến độ không có nơi gối đầu. Ngài đã đi vào cuộc đời với cảnh nghèo khó khốn cùng trong thân phận người nghèo: “sinh vô gia cư, chết vô địa táng”. Ngài đã sống một cuộc đời cho đi: cho đi tình yêu, cho đi cả tính mạng mình vì người mình yêu. Ngài đã bỏ lại tình yêu của gia đình, của xóm làng để ra đi rao truyền chân lý, để tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa Cha. Giá tri cuộc sống của Ngài là làm theo thánh ý Chúa Cha. Ngài không làm theo ý riêng. Ngài không tìm danh vọng cho bản thân. Ngài luôn chu toàn thánh ý Chúa Cha và làm rạng danh Chúa Cha qua đời sống hiến dâng phục vụ nhân trần.
Hôm nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống. Ý Chúa có thể làm chúng ta phải thiệt thòi, nhưng là cơ hội để chúng ta đón nhận niềm vui bất diệt trên quê hương trên trời. Ý Chúa đang mời gọi chúng ta bỏ lại những hận thù, ghen ghét, những vinh hoa phú quý trần gian hay những tình cảm mau qua để chọn Chúa làm gia nghiệp đời đời. Ý Chúa đang mời gọi chúng ta đừng bám víu vào những tham vọng của danh lợi thú để tâm hồn thanh thoát bình an. Ý Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy quảng đại trao ban, hãy cho đi để được nhận lãnh. Ý Chúa cần thể hiện trong mỗi giây phút khi phải chọn lựa giá trị Nước Trời hơn là những giá trị vật chất tầm thường mau qua.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những người thích bám víu vào của cải danh vọng trần gian, vẫn còn đó những người sống lệ thuộc vào những tình cảm mau qua, vẫn còn đó những người vẫn để lòng tham làm hoen ố tâm hồn, làm mất đi nét đẹp của hoạ ảnh Thiên Chúa nơi tâm hồn của mình. Họ chưa thực sự sống tín thác vào Chúa. Họ chưa thực sự để cho Chúa làm chủ con người của họ. Họ vẫn là những con người làm tôi hai chủ. Sống đạo nửa vời, thiếu dứt khoát khi phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và danh lợi thú trần gian.
Xin cho mỗi người chúng ta biết tín thác vào sự quan phòng của Chúa, biết chọn Chúa làm nghiệp đời đời. Xin cho tâm hồn chúng ta luôn thanh thoát khỏi những ràng buộc vật chất và những tình cảm mau qua trần gian để tâm hồn và thân xác chúng ta luôn thuộc trọn về Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Alexander là một vị vua vĩ đại. Trên đường khải hoàn sau khi chinh phạt nhiều nước, ông ngã bệnh. Vào thời khắc ấy, những vùng đất ông chiếm được, quân đội hùng mạnh, những thanh gươm bén, và sự giàu có không còn nghĩa lý gì với ông. Ông nhận ra rằng cái chết sắp sửa đến và ông sẽ không về kịp mảnh đất quê hương. Ông bảo các sĩ quan của mình:
– “Ta sắp sửa rời bỏ thế gian này. Ta có ba điều nguyện ước. Các ngươi cần phải thực hiện những gì ta bảo”.
Các vị tướng tuân lệnh trong dòng nước mắt.
– “Điều ước đầu tiên của ta là hãy bảo thầy thuốc của ta mang cái hòm rỗng của ta về một mình”.
Sau khi cố hít thở một hơi, Alexander nói tiếp:
– “Ước nguyện thứ hai của ta là hãy rải vàng, bạc và châu báu trong kho tàng của ta trên suốt dọc đường đến nấm mồ của ta khi các ngươi mang quan tài của ta ra nghĩa địa”.
Sau khi quấn mình trong chiếc áo khoác và nghỉ một lúc, ông nói tiếp:
– “Ước muốn cuối cùng của ta là hãy đặt 2 bàn tay ta ra bên ngoài cỗ quan tài”.
Mọi người xung quanh ông tất cả đều rất tò mò, nhưng không ai dám hỏi nguyên nhân. Vị cận tướng của Alexander hôn bàn tay ông và hỏi:
– “Thưa đức Vua, chúng thần sẽ làm theo mệnh lệnh của Ngài. Nhưng Ngài có thể cho chúng thần biết tại sao Ngài lại muốn chúng thần làm như vậy hay không?”.
Sau khi gắng thở một hơi dài, Alexander trả lời:
– “Ta muốn mọi người hiểu được ba bài học mà ta đã học được:.
– “ Mong ước thứ nhất của ta, để người thầy thuốc đưa cỗ quan tài về một mình, là để cho người ta nhận ra rằng một vị thầy thuốc không thể nào thực sự chữa bệnh cho người ta. Nhất là khi đối diện với cái chết, thầy thuốc hoàn toàn bất lực. Ta hy vọng mọi người sẽ học được rằng, phải trân quý cuộc sống của họ.
– “Mong ước thứ hai của ta, là để nhắn nhủ mọi người rằng không nên giống như ta, theo đuổi mộng giàu sang. Nếu ta tiêu tốn cả đời chạy theo sự giàu có, ta sẽ lãng phí hầu hết thời gian quý báu của đời người.
– “Mong ước thứ ba của ta là để người đời hiểu rằng, ta đến thế gian này với hai bàn tay trắng và ta sẽ rời bỏ thế gian này cũng với hai bàn tay trắng”.
Nói xong ông nhắm mắt lại và trút hơi thở cuối cùng.
Người Việt Nam có câu: “Khôn dại cùng chung ba thước đất”. Vâng, với kinh nghiệm của mình, chúng ta thấy rằng: cho dù khi còn sống người đó là ai, làm gì đi chăng nữa, thì đến khi từ giã cõi đời cũng chỉ còn lại “ba thước đất”. Cũng chính vì thấy rõ sự giới hạn của thế giới vật chất mà tác giả sách Giảng Viên đã nói: “Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không”. Và tác giả đã nêu lên lý do tại sao ông cho rằng tất cả là hư không, đó là “vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không”.
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài đã sống thật thanh thoát với của cải. Ngài không để danh lợi thú cản trở bước chân của Ngài. Ngài đã từng nói: Cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”. Ngài không lệ thuộc vào phương tiện vật chất. Vì phương tiện chỉ hữu dụng khi con người làm chủ nó, còn khi con người phải lệ thuộc vào phương tiện thì lúc đó con người mất tự do và để phương tiện làm chủ mình. Ngài hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, cho dù phải uống chén đắng cuộc đời, Ngài vẫn xin vâng ý Cha trọn đời.
Thế nhưng, những người môn đệ Chúa hôm nay vẫn còn có những người thích tích lũy của cải trần gian. Vẫn còn có những linh mục sợ phải vào rừng sâu, phải đến những nơi thiếu thốn mọi bề. Cuộc sống của họ đang đầy đủ phương tiện nhưng bây giờ phải đối diện với thiếu thốn họ sợ hãi và muốn lẩn tránh.
Nhưng cũng có nhiều linh mục biết dấn thân mà không quản ngại khó khăn. Họ đến những vùng rừng núi hoang vu. Họ sống giữa bản làng thiếu thốn tư bề. Họ vẫn sống thanh thoát bình an. Đây là những hình ảnh đẹp của người môn đệ. Thanh thoát, nhẹ nhàng trong cuộc đời. Không để vật chất làm cản trở bước chân truyền giáo. Không để những tình cảm níu kéo làm mất đi tinh thần hăng say phục vụ.
Cuộc đời người ky-tô hữu cũng chỉ đẹp khi biết sống thanh thoát với của cải trần gian. Đừng vì ham mê của cải mà sống ti tiện, sống tham lam, bất công và bất chính. Cuộc đời người ky-tô hữu phải để Chúa làm chủ linh hồn và thân xác mình, đừng để những lạc thú làm mê hoặc lòng người. Hãy bước theo Chúa trong tin yêu phó thác. Hãy buông mình trong vòng tay quan phòng của Chúa để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Ước gì đời sống ky-tô hữu chúng ta luôn chọn Chúa làm gia nghiệp, luôn sống khó nghèo để tin mừng được loan đi khắp cùng trái đất. Xin cho từng người chúng ta luôn sống thanh thoát trước những mời gọi của danh lợi thú để tâm hồn luôn dành trọn vẹn cho Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Thầy trò Đức Giêsu lên Giêrusalem ngang qua Samaria. Con đường ngắn nhất để lên Giêrusalem là con đường đi ngang qua xứ Samaria. Dân Samaria lại thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn đối nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc xung đột đẫm máu. Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Gióđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem. Trở về thủ đô, Chúa Giêsu muốn đi qua xứ Samaria. Nhưng một làng đã không đón tiếp Ngài khiến cho Gioan và Giacôbê nổi giận đùng đùng đòi sai lửa từ trời xuống thiêu rụi cả làng ấy. Chúa Giêsu không chấp nhận. Ngài đã quở trách hai môn đệ được mệnh danh là con của thiên lôi này, và Ngài quyết định đi sang làng khác. Trên đường đi xuất hiện 3 người muốn theo Ngài làm môn đệ.
– Mẫu người thứ nhất: Theo Matthêu, đây là một luật sĩ. Chính đương sự tự giới thiệu và đề nghị được đi theo Chúa. Không những thế, ông còn tuyên bố mạnh mẽ sẵn sàng theo Chúa đến bất cứ đâu. Lời đề nghị này cho thấy lòng nhiệt thành nơi ông là rất lớn. Tuy nhiên, động cơ đi theo Chúa có lẽ là vinh quang, danh vọng và địa vị trần thế mà ông mong là Chúa Giêsu có thể mang lại. Ông thiếu sự thành tâm thiện chí, thiếu cả ý ngay lành.
Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh trước sự ảo tưởng của ông: “Cáo có hang, chim có tổ, còn Con Người không chỗ gối đầu.” Ở đây, ta thấy rằng Chúa Giêsu không chiêu mộ đồ đệ theo kiểu tiếp thị ngày nay… Ngài nói rất rõ những điều kiện khắt khe cho những ai muốn theo ngài. Theo Ngài là phải chấp nhận sự bấp bênh thiếu an toàn tiện nghi: “Con Người không có chỗ tựa đầu.” Ngài không đưa ra một bảo đảm nào cho cuộc sống hiện tại. Có chăng là Ngài chỉ bảo đảm cho cuộc sống mai sau, tức là sự sống đời đời. Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là biết chấp nhận cuộc sống bấp bênh, đôi khi cũng thiếu thốn cả những tiện nghi cơ bản của cuộc sống.
– Mẫu người thứ hai: Khác với người thứ nhất, người thứ hai không tự đề nghị theo Chúa mà chính Chúa Giêsu đính thân ngỏ lời cùng anh: “Anh hãy theo tôi!” Thái độ của anh trước lời mời gọi của Chúa Giêsu là gì? Anh xin được về chôn cất cha anh trước đã. Thực ra ở đây phải hiểu là không phải cha người này vừa chết; ông ta vẫn còn sống. Ý của anh là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi đã, rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo. Có thể nói anh ta là một người rất tốt, rất có hiếu. Nhưng đề nghị của Chúa Giêsu có vẻ như rất phủ phàng: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết”, tức là để cho người thế gian lo việc thế gian. Như vậy rõ ràng điều kiện thứ hai của người đi theo Chúa là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình, nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn. Tin Mừng phải có chỗ đứng trên hết, các giá trị Tin Mừng phải được đề cao tuyệt đối, sứ mạng loan báo Nước Chúa phải có tầm quan trọng và cấp thiết hơn tất cả các nghĩa vụ khác. Ngoài ra còn cần phải biết phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa nữa.
– Mẫu người thứ ba: Chính anh tự nguyện xin theo Chúa Giêsu. Nhưng anh lại xin thêm một ân huệ: “Xin cho phép tôi về từ biệt gia đình tôi trước đã.” Thỉnh nguyện của anh ta xem ra chính đáng, nhưng thực sự anh ta vẫn còn dây dưa, chưa dứt khoát, anh vẫn còn để cho những chuyện tình cảm riêng tư ràng buộc, giống như kiểu đi tu rồi nhưng tạm thời xin về một thời gian để chia tay với người yêu. Lời đáp của Chúa Giêsu khiến ta nhớ lại chi tiết trong Bài đọc I. Thiên Chúa bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm ngôn sứ thay thế cho mình. Êlia đi tìm và gặp thấy Êlisê đang cày ruộng. Ông quăng chiếc áo choàng của mình cho Êlisê (áo choàng tượng trưng cho sứ mạng làm ngôn sứ). Êlisê hiểu ý, liền bỏ bò lại chạy theo Êlia, nhưng với lời nài xin được phép về từ giã cha mẹ trước. Êlia đồng ý. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cày làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo ngôn sứ Êlia. Dù sao đây cũng là một hình ảnh tuyệt đẹp về ơn gọi rồi.
Thế nhưng nếu xưa kia Êlia đồng ý cho Êlisê được phép về từ giã cha mẹ trước, thì hôm nay Chúa Giêsu lại không đồng ý. Điều kiện Ngài đưa ra là phải dứt khoát, hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi. Không bắt cá hai tay, không để những tình cảm trần thế (dẫu là tình cảm gia đình) chi phối và ràng buộc: “Cầm cày không ngoảnh lại.”
Theo văn mạch thì Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là thương khó tử nạn và phục sinh. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài. Tuy nhiên, người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ.
Như vậy, điều kiện thứ ba mà Chúa dạy là phải chấp nhận quên đi quá khứ đời mình. Quá khứ đó có thể là những quyến luyến tình cảm phù du, những ước mơ trần tục, kể cả những mặc cảm tội lỗi xa xưa,… đồng thời phải dứt khoát với mọi thứ ràng buộc, vì người theo Chúa cần có một con tim không san sẻ để luôn biết lo cho vinh quang Nước Trời.
Tôi có thuộc mẫu người nào trong 3 mẫu người trên không? Có khi nào tôi thuộc cả 3 mẫu người cùng một lúc hay không? Có thể lắm. Đó là khi tôi theo Chúa mà thiếu thành tâm thiện chí, thiếu ý ngay lành; tôi theo Chúa mà không dứt khoát từ bỏ những ràng buộc trần thế; và nhất là chưa biết ưu tiên cho các giá trị Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã dạy: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các thứ khác ngài sẽ ban cho sau.” Những ai tin tưởng điều này và ưu tiên chọn lựa Chúa và các giá trị Tin Mừng trong đời sống, chắc chắn họ luôn xứng đáng là những người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, và chắc chắn sẽ là những người được Thiên Chúa chúc phúc và ban ơn cho dư dật. Amen.
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Một bài hát ta thường hát hoặc đã nhiều lần nghe, đó là bài: “Chúa là Gia Nghiệp” của nhạc sư Mi Trầm, trong đó có đoạn viết: “Chúa là gia nghiệp đời con. Xin Ngài bảo toàn thân con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy hạnh phúc, và chỉ nơi Chúa con tìm thấy được nguồn vui”. Qua bài hát này, gợi lại cho chúng ta tâm tình xác tín rằng: chỉ có Chúa là chỗ nương thân, chỉ có Chúa là nguồn hạnh phúc, chỉ có Chúa là Đấng cứu độ. Và, ta mong sao cho được thuộc về Chúa và được Ngài đưa ta đến bến bờ hạnh phúc.
Hôm nay thánh Luca kể lại ba mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và những người muốn theo Ngài cũng như những người Ngài muốn gọi họ. Tâm tư của Đức Giêsu cho những người muốn theo và được gọi này là đạt được hạnh phúc đích thực.
Tuy nhiên, muốn có được điều đó, hẳn phải đi trên chính con đường mà Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là con đường từ bỏ, phó thác, dứt khoát, hy sinh và đôi khi phải chấp nhận lội ngược dòng với đầy tình tiết phưu lưu.
Câu chuyện Tin Mừng được khởi đi từ một sự kiện: khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem, bất chợt có một chàng thanh niên tình nguyện đến xin đi theo Ngài, vì thế, anh ta đã thốt lên những lời rất tâm huyết: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo” (Lc 9, 57). Đứng trước lời đề nghị được đi theo mình, Đức Giêsu đã không nói là thâu nhận hay không, mà chỉ thấy Ngài nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58).
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn đưa anh vào một lộ trình của niền tin và phó thác hoàn toàn cho sự an bài của Thiên Chúa; mặt khác, Ngài cũng muốn tiên báo cho anh về sự thiếu thốn, bấp bênh trên hành trình sứ vụ. Sự phưu lưu này không có nghĩa là làm cho anh hoang mang về con người và sứ vụ cứu độ của Ngài, mà là giúp cho anh nhận định thật rõ, để anh thấy trước được những khó khăn của sứ vụ. Khi nói cho chàng thanh niên này như vậy, Đức Giêsu muốn báo cho anh ta biết sứ vụ và cuộc sống của Ngài không giống như những vị lãnh đạo khác, mà là một Đấng Mêsia khiêm tốn, từ bỏ sang giàu, quyền lực. Sống nghèo khó và vâng lời Thiên Chúa Cha cách tuyệt đối.
Vì vậy, nếu anh thanh niên này muốn theo, thì cũng phải đón nhận cuộc sống như Ngài đã sống. Một cuộc sống mà theo lối nói của Việt Nam thì: “Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường”.
Khác với trường hợp thứ nhất, lần này Đức Giêsu chủ động lên tiếng gọi một người thanh niên: “Anh hãy theo tôi!” (Lc 9, 59). Ngài muốn anh ta lên đường với Ngài để loan truyền Nước Thiên Chúa, để cùng Ngài sống chứng tá cho Nước Trời. Đứng trước lời mời gọi này, chàng thanh niên đã đặt ra cho Đức Giêsu một điều kiện, đó là: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã” (Lc 9, 59), rồi đi theo Ngài sau. Nhưng Đức Giêsu đã không chấp nhận, Ngài đã phủ nhận thái độ đó và coi là không xứng hợp với tinh thần tông đồ, nên Ngài đã nói: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9, 60).
Qua câu trả lời của Đức Giêsu, Ngài cho anh ta thấy rằng: thời điểm này và ngay tức khắc, anh hãy theo tôi để loan báo Triều Đại Thiên Chúa cho những người chưa biết, vì đây là sứ mạng quan trọng nhất, cấp bách, vượt lên trên mọi tình cảm tự nhiên của con người. Ngài không chấp nhận sự lần lữa và kèo nèo của một người môn đệ. Sứ mạng loan báo Tin Mừng là gian nan khốn khổ, đòi buộc phải hy sinh, phải từ bỏ, phải mau mắn… Vì thế, không thể chấp nhận một con người có thái độ trì hoãn.
Đi xa thêm một chút nữa, Đức Giêsu lại cất tiếng gọi một người khác đi theo Ngài. Khi được gọi, người thanh niên này thưa: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã” (Lc 9, 61). Người thanh niên này quả thực cũng muốn theo Chúa, nhưng anh ta muốn xin Đức Giêsu cho lui lại ít thời gian nữa, để anh ta lo giàn xếp chuyện gia đình… Vẫn một điều kiện tiên quyết mang tính quyết định, nên Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62). Qua câu nói này, Đức Giêsu nói cho người xin theo Ngài biết rằng: thái độ dứt khoát là yếu tố căn bản để trở nên môn đệ của Ngài. Theo Chúa là cần phải bỏ mọi sự, không lưỡng lự, không thể tiến thoái lưỡng nan, không chấp nhận nhập nhằng với những ràng buộc tình cảm. Muốn là người thợ cày tốt thì người cầm cày phải nhìn thẳng về phía trước để đi, nếu không thì đường cày sẽ cong queo, không thẳng hàng được. Cũng vậy, theo Chúa, phải để lại mọi sự, kể cả những gì là thân thuộc, gắn liền với cuộc sống, ngay cả những quyến luyến tình cảm của gia đình… Để đạt được Nước Trời, người môn đệ phải ưu tiên số một cho những đòi hỏi của Nước ấy. Phải từ bỏ tất cả quá khứ, quên đi dĩ vãng (x. 1 Pr 5,8-9), và nhắm thẳng vào tương lai để ta tiến bước. Điều này quan trọng hơn cả cha mẹ, anh chị em, vợ con và ngay cả mạng sống của mình nữa.
Khi đọc bài Tin Mừng này, hẳn mỗi người chúng ta đều đặt ra cho mình một câu hỏi: chúng ta có được Thầy Giêsu gọi không? Điều kiện của Ngài đặt ra cho chúng ta thời nay là gì?
Trước tiên, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, được tháp nhập vào dân của Chúa, được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa Cha. Vì thế, chúng ta được mời gọi từ bỏ ý riêng, chết đi cho con người cũ với những tham sân si, và mặc lấy con người mới để chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng như ngọn nến cháy sáng. Đây là ơn gọi căn bản của mỗi chúng ta.
Thứ đến, vào một thời điểm nhất định, mỗi người đều có một lựa chọn cho bậc sống của mình. Người thì xây dựng gia đình; người thì đi tu. Hai con đường. Hai ơn gọi. Nhưng đều chung một sứ vụ là loan báo Tin Mừng và đi tìm hạnh phúc đích thực.
Thật vậy, nếu là một người chồng mẫu mực; một người vợ thủy chung; một người con hiếu thảo; một đời tu trung thành, thánh thiện… Thì đây, chính là đời môn đệ tuyệt hảo khi chúng ta thuộc về Đức Giêsu và đáp lại lời mời gọi của Ngài để loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống gương mẫu của mình. Khi sống và lựa chọn như thế, ta mới xác định căn tính và mục đích của chúng ta, và Chúa mới là gia nghiệp của ta thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa. Biết từ bỏ ý riêng để thánh ý Chúa được thể hiện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết nghĩ đến người khác vì phần rỗi của họ như Chúa khi xưa. Amen.
Suy Niệm 1. KHÔNG QUAY ĐẦU LẠI ĐÀNG SAU
Trong cuốn tiểu sử tự thuật, Con Một, nhà văn Ailen Frank O’Connor kể lại một cách sinh động cái đêm mà sau cùng ông đã quyết định trở thành một nhà văn. Ông đã mất việc làm trong ngành đường sắt ở Great Southern Railway và không có tiền. Những người láng giềng nhìn ông như một tên khùng vô tích sự. Tuy nhiên, ông đã trình ra trước công chúng những điều ông đã viết:
“Hành động tin tưởng hy vọng quan trọng đến nỗi bằng cách nào đó, ở nơi nào đó, tôi muốn chứng tỏ tôi không điên cũng không vô tích sự; bởi vì giờ đây tôi nhận ra rằng tôi phải trả giá cho mọi sự, và không được quay đầu lại đàng sau. Khi còn là những cậu bé, chúng tôi đến bức tường bao quanh một vườn cây ăn quả, có vẻ quá cao khó mà trèo qua được, chúng tôi cởi mũ lưỡi trai ra và ném chúng qua bức tường và rồi không có chọn lựa nào khác hơn là phải đi theo chúng. Tôi đã ném cái mũ qua bức tường đời tôi và tôi biết rằng tôi phải đi theo nó, bất cứ nơi nào mà nó rơi xuống”.
Trong Tin Mừng, một cách nào đó, Đức Giêsu đã đối xử tương tự với ba người muốn trở thành môn đệ của Người. Người nói: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Người nêu bật sự cần thiết phải cam kết dấn thân và nói rằng không thể quay đầu nhìn lại đàng sau. Nếu bạn muốn cày một luống cày thẳng, bạn phải tập trung chú ý công việc bạn đang làm, không để bị phân tâm. Nếu bạn cứ quay đầu nhìn lại đàng sau, bạn sẽ không làm tốt công việc. Bạn cần phải có sự dâng hiến và cam kết. Nếu bạn bắt đầu công việc như thế, thì bạn toàn tâm toàn ý với công việc ấy.
Mọi người chúng ta đều tra tay cầm cày, không cày này thì cày khác. Thanh niên thì bắt tay vào việc học… vợ chồng thì bắt tay vào cuộc hôn nhân… linh mục thì bắt tay vào tác vụ… còn có thể kể thêm nhiều nữa. Và khi được rửa tội, chúng ta tra tay vào một cán cày khác –đi theo Đức Kitô, hoặc gia nhập và hàng ngũ các môn đệ của Người.
Nếu chúng ta cứ nhìn lại đàng sau, thì sự tập trung của chúng ta bị phân tán. Do đó năng lực của chúng ta cũng suy giảm. Chúng ta không dấn thân trọn vẹn. Chúng ta chỉ có một nửa nhiệt tình. Chúng ta hầu như đánh mất thời gian, đánh mất tầm nhìn hướng về mục tiêu, và bị cám dỗ quay trở lại và hoàn toàn rời bỏ công việc. Nhìn lại đàng sau cũng gợi ý rằng chúng ta có những suy nghĩ thứ hai, và có lẽ là nghi ngờ hoặc hối tiếc. Có lẽ chúng ta thấy rằng cái giá phải trả quá cao. Có lẽ những việc khác mà chúng ta nghĩ rằng mình đã từ bỏ vẫn còn giằng co trong tâm hồn chúng ta?
Nhưng nếu chúng ta nhìn tới trước, chúng ta sẽ có sự tập trung không phân tán vào nhiệm vụ đã được chọn. Chúng ta sẽ có một sự tập trung không phân tán vào nhiệm vụ đã được chọn. Chúng ta sẽ hoàn toàn phó thác. Chúng ta sẽ toàn tâm toàn ý. Điều đó sẽ cho chúng ta sức mạnh to lớn. Tất cả mọi tiềm năng của chúng ta sẽ được tập họp và triển khai cho nhiệm vụ. Chúng ta sẽ không bị chệch hướng. Và do đó chúng ta có một cơ hội tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Những người toàn tâm toàn ý vào công việc sẽ tìm thấy niềm vui, bất chấp gian khổ. Những người không toàn tâm toàn ý sẽ không có được niềm vui ấy. Vậy sứ điệp là: Đừng quay đầu lại; cũng đừng nhìn lại đàng sau.
Bài đọc một cho thấy Êlisê đã nghe theo lời gọi của Êlia như thế nào. Sự đáp lại của ông thì toàn diện, và bằng việc giết bò, đốt cày ngăn cản mình quay về đời sống cũ. Trong Tin Mừng chúng ta thấy gương mẫu tốt nhất trong chính Đức Giêsu. Người hướng đến Giêrusalem dù biết rằng sự loại trừ, phản bội và cái chết đang chờ đợi Người ở đó. Người không muốn đào thoát khỏi con đường đó. Người đã đem lại một gương sáng cho các môn đệ của Người về loại dâng hiến mà Người được đòi hỏi.
Loại dâng hiến ấy là một thách đố lớn. Nó có thể dễ dàng lúc khởi đầu. Nhưng để giữ được sự kiên định, chúng ta cần có ân sủng của Thiên Chúa. Ân sủng này sẽ giữ chúng ta trung tín với Thiên Chúa và với nhau. Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta kiên trì trên con đường đã chọn, bền bỉ trong nhiệm vụ đã chọn. Lúc đó chúng ta sẽ hiểu được niềm vui của người tận hiến và đến thời gian thuận lợi, chúng ta thấy mình đã phù hợp với Nước Trời.
Suy Niệm 2. GIỮ LÒNG TRUNG TÍN
Viktor Frankl, người đã trải qua ba năm dài ở các trại cải tạo Auschwitz và Dachau, kể lại câu chuyện sau đây. Là một bác sĩ, ông dành phần lớn thời gian để săn sóc cho các tù nhân bị bệnh hấp hối trong trại. Khi chiến tranh gần chấm dứt, ông cùng một bạn tù lên kế hoạch để trốn trại.
Ông bắt đầu thu thập một ít vật dụng: một bát đựng lương thực, một đôi găng tay bị rách, những ghi chú cho một cuốn sách mà ông hy vọng sẽ viết ra. Rồi ông nhìn một lần cuối cùng những bệnh nhân của ông đang nằm trên những tấm ván dài bằng gỗ mục ở mỗi góc của căn lều. Ông bước đến bên một người đàn ông sắp chết, Frankl cố che giấu hành động chạy trốn của ông. Nhưng người đàn ông không bị đánh lừa. Và một giọng nói buồn rầu, mệt mỏi vang lên: “Vậy ra ông cũng bỏ đi sao?”. Frankl chối bỏ điều đó. Nhưng những lời “Vậy ra ông cũng bỏ đi sao?” ngắt lời ông và lên án ông. Sau khi đi hết một vòng, ông trở lại với người đàn ông. Một lần nữa, ông được đón chào bằng một cái nhìn tuyệt vọng chiếu thẳng vào ông. Ông cảm thấy đã phản bội người đàn ông ấy. Thình lình ông quyết định nắm lấy số phận trong đôi tay mình. Ông chạy ra khỏi căn lều và nói với người bạn ông hãy ra đi đừng đợi ông nữa. Ông sẽ ở lại với các bệnh nhân. Lập tức cảm giác bất hạnh của một kẻ phản bội rời bỏ ông. Và ông nói rằng cho dù ông không có ý niệm gì về những ngày phía trước đưa ông đến đâu, ông có được sự bình an nội tâm mà trước đó chưa bao giờ ông cảm nghiệm. Và ông vẫn còn sống khi được giải thoát khỏi trại cải tạo.
Tin Mừng hôm nay bắt đầu với việc loan báo Đức Giêsu cương quyết tiến về Giêrusalem. Người biết rõ điều đang chờ đợi Người ở đó –loại bỏ, phản bội, và cái chết. Nhưng đối với Người, không có việc quay đầu lại. Chúa Cha đã trao cho Người nhiệm vụ mang ơn cứu độ đến cho các em trai, em gái của Người. Người không có chọn lựa nào khác.
Karen Blixen (tác giả cuốn Out of Africa) nói: “Có lẽ luôn luôn có một lúc trong đời khi vẫn có hai khả năng để theo đuổi và một lúc khác khi chỉ còn có một khả năng. Vào lúc cuối cùng này, tôi đã đốt những chiếc thuyền của tôi và sau đó, không còn con đường để rút lui”. Đức Giêsu đã đạt đến điểm đó.
Với những người muốn trở thành môn đệ của Người, Người nói: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn quay lại nhìn đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Điều này đi ngược với sự cam kết và dâng hiến với nhiệm vụ đã chọn. Lúc khởi đầu, nhiệm vụ ấy có thể dễ dàng. Nhưng với năm tháng đi qua, những khó khăn gia tăng. Những công việc đều đặn mỗi ngày lấy đi sự kiên trì. Chúng ta bắt đầu nhìn lại đàng sau. Trong những lúc khó khăn chúng ta dễ dàng không giữ những điều mà chúng ta đã hứa trong những lúc vui tươi hơn. Một cái chảo càng mau nóng thì cũng càng mau nguội. Ngày này, chúng ta sống trong thời đại “ăn xổi ở thì”.
Lời trung tín không phải là một con đường dễ dàng. Đức Giêsu không giấu giếm điều đó, với các môn đệ của Người. Người khuyên chúng ta sống trung tín và chính Người nêu gương sáng cho chúng ta và hứa sẽ giúp đỡ chúng ta.
Đức Chúa vẫn còn kêu gọi người ta hôm nay và vẫn còn có những người đáp lại. Theo Đức Kitô có nghĩa là gì đối với một con người bình thường? Nó có nghĩa là được kêu gọi làm người Kitô hữu ở nơi bạn sống và trong nghề nghiệp bạn đã chọn. Có nhiều cách để phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Trong lúc ban đầu, ơn gọi là để trở nên một môn đệ hơn là một Tông đồ.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Dostoyevsky kể lại câu chuyện một thiếu niên bị cha cậu đưa ra khỏi thành phố. Khi còn trẻ, cậu có nhiều mơ ước và hy vọng về một đời sống mới đang mở ra trước mắt cậu. Tuy nhiên, không lâu sau, cậu có được bài học khắc nghiệt về thực tế. Họ dừng lại một quán trọ để nghỉ ngơi, giải khát. Trong lúc môt viên chức của chính phủ bước vào và nốc một cốc rượu Vốt-ka. Rồi ông ta chạy đến chiếc xe ngựa và không một lời giải thích, nhào vô người đánh xe ngựa nghèo nàn, bất hạnh là một anh nông dân và đấm anh này túi bụi. Rồi ông ra lệnh cho người đánh xe ngựa cho xe đi. Người đánh xe đáp lại bằng cách quất cái roi vùn vụt trên lưng mấy con ngựa với hết sức lực. Vừa hoảng sợ vừa đau đớn, những con vật chồm lên kéo chiếc xe chạy lao tới.
Bạo lực nuôi dưỡng bạo lực. Nhưng Đức Kitô thách đố chúng ta đáp trả bóng tối bằng ánh sáng, đáp trả điều xấu nhất nơi người khác bằng điều tốt nhất trong chúng ta. Vấn đề quan trọng nhất trong thời đại chúng ta là làm thế nào vượt qua điều xấu mà không làm thêm điều xấu trong quá trình ấy.
Trên bước đường Chúa đi, nhiều thanh niên muốn theo làm môn đệ Ngài, vì họ muốn theo gương Ngài khăng khít hơn. Họ cảm phục Ngài đức độ cao dầy, vì giáo huấn trong sáng, vì những phép lạ kỳ diệu, vì sức mạnh việc Ngài thực hiện, và vì dự định quả cảm của Ngài. Họ nôn nóng và tỏ ra sẵn lòng theo Ngài, lên đường với Ngài.
Người thứ nhất.
Anh tỏ ra dứt khoát, hết sức sẵn sàng ‘tôi xin theo Thầy bất cứ Thầy đi đâu’. Anh muốn theo Ngài bất chấp nghịch cảnh, hy sinh tất cả, dù hoàn cảnh nào chăng nữa. Thật là tiếng đáp trả quyết liệt, vô điều kiện.
Nhưng chắc là anh còn ảo tưởng, nên Đức Giêsu khẳng định mạnh mẽ: ‘Chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu’.
Bình thường, ai cũng thích một nơi ăn chốn ở an toàn, thật bảo đảm, nơi họ được tự do định đoạt mọi chuyện, tha hồ thoả mãn nhu cầu riêng, được sống ‘hết sức thoải mái’, muốn làm gì thì làm, còn mặc ai nấy sống. Dù ở nơi tầm thường, dù chỉ là một túp lều tranh sập sệ, nhưng có tự do và thoải mái vẫn hơn.
Nhưng đi theo Chúa Kitô không đem lại cho ta thứ tình cảm an toàn ấy. Đức Kitô vốn lang thang, nay đây mai đó. Ai quyết chí theo và vững tâm phục vụ Ngài ắt phải như Ngài không đóng đô ở đâu cả, không ham lối sống an cư lạc nghiệp. Có tiếng mời gọi, tức khắc cất bước lên đường, dứt khoát cả nội tâm lẫn ngoại giới. Nơi an toàn của ta ở bên kia thế giới. Nơi nương ẩn của ta đặt ở nơi Chúa. Và an bình thư thái thực sự lại thuộc về đời sau.
Không thể như con chồn được: chọn hang sâu hốc hiểm làm nơi an thận bình phận: thù bất nhập, mà an toàn khỏi mọi thời khí độc hại. Cũng không thể như con chim tự làm cho mình một tổ ấm an lành. Bởi vì đời sống luôn có những giông bão nổi lên, tàn phá và làm tan những chòm cây an toàn đã khổ công xây dựng cho riêng mình thay vì cho những người khác. Theo gương Đức Kitô, bước đi theo Ngài, có nghĩa là hiến thân cho con người và sống trong sự bấp bênh.
Người thứ hai
Anh không tự quyết theo Chúa, song được Ngài mời gọi ‘hãy theo Ta’. Anh thưa: ‘xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã’.
Theo đó, vấn đề không chỉ là việc chôn cất cho bằng anh tự cho rằng mình còn phải có trách nhiệm với cha mình và vì tình cốt nhục mình phải ở lại phung dưỡng cha già đến ngày ông mất. Khi ấy anh mới sẵn sàng theo. Điều này cũng tự nhiên thôi; có lẽ, còn thuộc về bản chất tốt của người Công giáo nữa.
Dù sao, ta không thể để song thân lâm cảnh cơ cực. Phải để ý đến anh em và phụ giúp gia đình, bỏ đi như vậy là không được. Vì công cha nghĩa mẹ, phận làm con là phải đáp đền. Tuy hôn nhân là một bí tích, gia đình là cơ cấu do Chúa an bài. Hơn nữa Đức Kitô đã chẳng sống ba mươi năm tại Nagiarét và thánh hoá gia đình đó sao?
Tất cả thật là chí lý, vậy sao Đức Giêsu lại nói ‘để kẻ chết chôn kẻ chết, phần anh hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa’.
Thiên Chúa là Tôn sư tối cao. Ngài đã cất tiếng mời gọi thì phải đáp lại dứt khoát. Yêu sách của Ngài phải được ưu tiên hơn mọi nhu cầu khác. Luật Chúa phải sáng chói hơn hẳn luật con người. Ơn gọi trên cao đòi tha phải tích cực đáp trả vô điều kiện.
Mẹ Ngài trách Ngài: ‘Tại sao con lại làm thế với cha mẹ’. Ngài đã thưa lại: ‘Mà tại sao cha mẹ lại tìm con, cha mẹ không biết là con phải lo công việc Cha con sao?’. Ngài không thể khép vào thế giới bé bỏng Nagiarét nhưng thuộc về vương quốc bao la của Cha Ngài.
Ai muốn rao giảng nước Thiên Chúa ắt phải từ bỏ vợ con và gia đình. Phải có một tâm hồn quảng đại và đôi tay thong dong, không bị ràng buộc bởi bất cứ một trở lực nhân loại nào. Phải hy sinh cái thế giới gia đình, tuy đẹp nhưng nhỏ bé và phấn đấu cho cái vũ trụ lớn lao là nước Thiên Chúa. Lời mời gọi của Chúa Kitô là một lời động viên. Ai đã dứt khoát dấn thân phục vụ Thiên Chúa, không thể để mình dan díu với những gì thuộc thế giới chết chóc được.
Người thứ ba.
Người này xem ra đắn đo hơn. Anh phát biểu sự ưng thuận của anh với điều kiện: ‘Thưa Ngài, tôi xin theo Ngài nhưng cho phép tôi quay về từ biệt gia đình trước đã’. Như vậy, anh ta đã sẵn sàng chưa? Hẳn là chưa. Anh tạm hoãn quyết định của anh. Trước khi dứt khoát, anh còn có việc khác phải làm: anh xin được trở về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn để cáo từ cha mẹ và thân thuộc.
Qua đó, ta thấy có chút mơ mộng và tình cảm. Nhưng Đức Giêsu đáp lại cách quả quyết: ‘Kẻ vưà tra tay cầm cày vừa ngó lại sau, không xứng đáng với Nước Thiên Chúa’. Ta thấy ngay một lối sắp xếp giả tạo. Theo Chúa Kitô không phải là nhìn lại phía sau mà nhìn phía trước, cứ nhắm Đấng kêu gọi mà tiến bước, cứ dõi theo mục tiêu của con đường ta đi qua. Tình cảm sẽ làm tê liệt. Cứng đầu cứng cổ sẽ chẳng đem lại lợi ích gì cho việc theo Chúa. Chúa là tôn sư, Ngài đòi ta phải hy sinh trọn vẹn, nguyên tuyền và vui vẻ sẵn sàng.
Ai muốn đồng hành với Ngài, phải có quyết định gan dạ và chấp nhận dặm trường. Ai dừng chân ở mỗi khúc quanh để ghi nhớ những hình ảnh vừa đi qua, ngoái cổ nhìn lại, thì chính họ sống bằng quá khứ hơn là tương lai; họ không hề biết dặm trường hiểm nguy. Nếu mỗi chặng đường đều có sẵn một chiếc ghế dài thoải mái, hẳn họ sẽ dừng lại nghỉ ngơi và chẳng đặt vấn đề theo Chúa nữa.
Cần lưu ý nữa là ba đòi hỏi của Đức Kitô thật phù hợp với đời sống gia đình. Với người này, Ngài nói phải từ bỏ cuộc sống an toàn của tổ ấm; với người kia, sẽ chỉ ở lại nhà cho đến lúc anh có thể tự thoát khỏi những ràng buộc mà không phẫn nộ. Và người thứ ba sẽ hành động mà chẳng chú ý gì đến gia đình cả.
Nếu cùng một vấn đề được đề cập tới trong ba câu đáp thì ắt không phải do tình cờ ngẫu nhiên. Cha mẹ và thân thuộc dễ nghĩ rằng mình được quyền định đoạt theo quyền lợi mình. Họ không ngừng phẫn nộ khi một người trong họ nghe theo tiếng Chúa từ bỏ gia đình cất bưóc ra đi. Có nhiều cha mẹ, anh chị em không thông cảm nổi mỗi khi có người con trai hay gái theo tiếng gọi ấy. Nhưng những người con này vẫn đành chấp nhận… Thiên Chúa lớn lao hơn.
Khi Ngài đặt tay trên ai thì người này hoàn toàn thuộc về Ngài. Không có chuyện chia sớt, gây tổn hại. Rõ ràng từ bỏ là ray rứt, chia lìa là khổ đau, Chúa diễn tả minh bạch. Chỉ có một cách giải quyết: Ai muốn đi với Ngài, phải thành tâm theo Ngài. Và dứt khoát chỉ theo một Thày. Đó là lý do môn đệ phải dự phần vào sự đơn độc của Ngài.
Trước khi trở thành người sáng lập Dòng truyền giáo mới, gọi là những nhà truyền giáo của Đức Bác Ái, Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã là nữ tu khấn trọn của dòng các nữ tu Côlôrentô và đang sống an nhàn, tiện nghi của một giáo viên trường trung học tại Calcutta, nhưng bỗng chị như cảm thấy sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, từ bỏ nếp sống an lành đang có để ra đi đến một nơi khác, dấn thân phục vụ người nghèo nhiều hơn.
Trong tập sách có tựa đề là: “Mẹ Têrêxa thành Calcutta” hay “Cây Viết Chì Trong Tay Thiên Chúa”, kể lại giây phút thay đổi tận căn này trong cuộc đời của Mẹ Têrêxa. Đó là vào sáng ngày 01/08/1946, Mẹ Bề Trên cộng đoàn các nữ tu Côlôrentô nhận được bức thư của Đức Giáo Hoàng Piô XII giải lời khấn cho chị nữ tu Maria Têrêxa để được tự do ra đi theo tiếng gọi mới của Chúa. Phản ứng của mọi người lúc đó là ai nấy đều ngạc nhiên không biết mình có làm gì gây phiền cho chị Maria Têrêxa hay không để chị phải ra đi như vậy. Mọi người đều khóc khi phải chia tay chị Têrêxa, vì thật sự chị được mọi người trong cộng đoàn yêu mến.
Phần chị Maria Têrêxa sau khi nhận được bức thư thì chị rất bình tĩnh và nói một câu vắn tắt: “Bây giờ tôi có thể đi đến xóm nghèo”. Lúc đó chị Maria Têrêxa Calcutta đã phải cương quyết, dứt khoát lắm để có thể bỏ lại mọi tiện nghi vật chất đang hưởng và mọi tình thân thương của cộng đoàn. Sách tiểu sử của chị sau này ghi lại rằng, chị ra đi khỏi cộng đoàn với đôi chân không, hành trang của chị là một sâu chuỗi, một vé xe lửa và năm đồng Rubi trong túi, chị đã dứt khoát từ bỏ mọi sự để theo Chúa trên con đường Chúa muốn.
Mẹ Têrêxa ra đi bắt đầu công việc phục vụ người nghèo với năm đồng Rubi trong túi, một món tiền không đủ sống cho một ngày bình thường, Mẹ đã thực hiện tinh thần theo Chúa như được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay.
Sự dứt khoát, nhất là quyết ra đi như Mẹ Têrêxa mà trong túi chỉ có năm đồng tiền là điều mà Chúa muốn những ai theo Ngài phải thực hiện và từ bỏ những cái đang quyến rũ hay níu kéo chúng ta trở lại phía sau, không tiến lên theo Chúa trọn vẹn hơn. Chúa có phải là người tôi yêu mến nhất hay không?
Truyện cổ Hy Lạp có kể lại câu chuyện của vua Ả rập lên đường chu du khắp nơi, với đoàn tùy tùng đông đảo và những con lạc đà chở theo nhiều của cải phân phát cho dân chúng; dĩ nhiên có nhiều đầy tớ theo phục vụ nhà vua. Khi đi được một ngày đàng, nhà vua dừng lại phân phát của cải cho dân nghèo và chỉ giữ lại một ít của cải cho đoàn tùy tùng rồi tiếp tục lên đường. Một số những người theo phục dịch nhà vua không tiếp tục cuộc hành trình theo nhà vua qua sa mạc nữa, nhưng dừng lại để nhận những thùng lương thực mà nhà vua để lại phân phát cho dân chúng.
Đi qua nửa sa mạc, nhà vua truyền dừng lại và để lại những thùng đựng vàng, bạc, châu báu mà ban phát rồi nhà vua tiếp tục lên đường. Nhưng lần này thì hầu như tất cả những người theo nhà vua đều ở lại để chia nhau những thùng vàng ngọc châu báu, ngoại trừ một người phục vụ duy nhất đi theo, dù nhà vua không còn gì để phân phối cho nữa. Lấy làm lạ, nhà vua quay lại hỏi anh ta: – “Sao nhà ngươi theo ta mà không ở lại để chia những thùng của cải ta để lại đó?”. Người phục vụ trả lời: “Thưa nhà vua, con theo nhà vua vì lòng yêu mến kính phục nhà vua chứ không phải vì tiền bạc giàu sang, nhà vua là tất cả của con”.
Trong cuộc đời ta có bao giờ ta đã thưa với Chúa như vậy chưa? Lạy Chúa, con muốn theo Chúa vì yêu mến Chúa chứ không phải vì điều gì khác, có Chúa là phần gia nghiệp của con thế là đủ cho con rồi. Khi dấn bước theo Chúa, trong niềm sốt sắng chúng ta hân hoan dâng bài ca: “Chúa là gia nghiệp đời con”, lúc đó xem ra như không còn gì phân lìa ta ra khỏi tình yêu của Chúa. Thế nhưng tại sao với thời gian tình yêu của ta đối với Chúa bị nhạt dần, bị phai mờ đi vì những thử thách, vì những bám víu, vì những mưu toan lo cho bản thân mà chối bỏ Chúa, chối bỏ không dấn thân sống sứ điệp của Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ lại một số điều kiện căn bản để sống theo Chúa: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy bất cứ nơi nào Thầy đi”. Đây là mộ phản ứng nồng nhiệt, tình cảm, nhưng Chúa Giêsu cảnh tỉnh anh về cuộc sống theo Chúa là không có sự an toàn êm ả trong một căn nhà êm ấm đâu, mà phải chịu thiệt thòi, phải chấp nhận hy sinh từ bỏ, kể cả những gì con người tự nhiên có quyền hưởng. Chúa muốn chúng ta phải có thái độ dứt khoát theo Ngài, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài và vì Ngài mà thôi. Chúa sẽ bù lại gấp trăm nhưng theo cách thức mà Chúa muốn, theo ý Chúa an bài, chứ không phải theo ý riêng của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được dứt khoát theo Chúa cho đến cùng. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa Nhật thứ XIII thường niên, với chủ để chính là: “Chúa cất tiếng gọi”. Ngỏ lời là sáng kiến của Thiên Chúa và con người đáp trả. Êlia và Êlisê là hai nhân chứng. Chúa đã dùng Êlia gọi Êlisê, Êlisê đáp trả (x.1 V 19,16b.19-21). Vì là sáng kiến của Thiên Chúa nên Chúa gọi người Chúa muốn: “Hãy theo Ta” (Lc 9, 51-62). Hôm qua cũng như hôm nay, Thiên Chúa vẫn đến gọi con người ngay giữa dòng đời. Chúa gọi Êlisê khi ông đang cày ruộng (x.1 V 19, 19). Tiếng gọi của Thiên Chúa là nhất. Chúa gọi, Êlisê không thể trốn được, đến nỗi ông không nói được gì. Tiếng gọi của Thiên Chúa là bắt buộc. Êlia làm điều tốt cho Êlisê khi ông đòi trở về nhà để hôn chào cha mẹ. Êlisê bỏ bò lại và chạy theo Êlia mà nói rằng: “Tôi xin đi hôn cha mẹ tôi, rồi tôi theo ngài” (1 V 19, 20).
Khung cảnh thật đơn sơ, nhưng đầy xúc động, không giấu được. Khi Chúa gọi con người, con người không thể cưỡng lại, Ngài không dùng sức mạnh để áp đặt. “Êlisê con ông Saphát, đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp thứ mười hai” (1 V 19, 19) nghĩa là công việc gần xong. Thiên Chúa đến ra cho ông một chân trời mới. Qua trung gian Êlia, Thiên Chúa gọi Êlisê một cách rất kín đáo: “Khi Êlia đến trước ông, thì đặt áo choàng mình trên ông” (1 V 19, 19). Không một lời chiêu mộ, không một huấn lệnh để bắt ông vâng theo. Êlisê thấy sự công chính và hành động ngôn sứ của Êlia, ông hiểu theo lòng mình. Tiếng Chúa gọi lay động lòng người.
Để đáp lại tiếng Chúa, con người phải có tự do là lẽ đương nhiên. Tự do này do Đức Kitô mang lại cho chúng ta. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô giải thoát chúng ta để chúng ta thực sự tự do” (Gl 4, 31b). Chúng ta chỉ thực sự tự do khi chúng ta hoàn toàn đáp lại tiếng Chúa. Từ lúc Thiên Chúa gọi đến lúc con người đón nhận ân sủng để đáp trả cách tự do là cả một thời gian dài để đắn đo và cân nhắc. Như Êlisê, hành động trước tiên là ông thu mình vào trong dĩ vãng, và tìm kiếm sự an toàn nơi gia đình. Đây là người chắc chắn, nhưng ơn của Thiên Chúa là không đổi. Êlia từ chối sự trốn chạy của Êlisê, dù Êlisê không lượm áo choàng Êlia tặng cho. Khi Êlisê tìm gặp được sức mạnh, ông nắm bắt ngay, ông bỏ lại tất cả những gì mình đang có để dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Tương tự như bài Tin Mừng, có ba người được gọi (x. Lc 9, 51-62). Nhưng lịch sử cuộc đời của mỗi người khác nhau. Vấn đề là tiếng Chúa gọi và sự đáp trả của con người.
Câu hỏi được đặt ra cho người thứ nhất khiến chúng ta suy nghĩ. Trước hết, anh không được Đức Giêsu gọi, anh đến xin làm môn đệ Người (x. Lc 9, 57). Giống như ở trường các thầy Rabbi, học trò đến xin theo học. Đức Giêsu không ở trong trường đặc biệt này, Người không có điều kiện ổn định, Người đang trên đường. Bước vào trường Giêsu là lên đường, từ bỏ tất cả những gì ổn định, ngay cả gia tài và địa vị. Theo Đức Giêsu là gắn bó với Người, lên đường tiến về phía trước, cần phải tự mình quyết định, nhưng không thể tiến bước một mình.
Người thứ hai là một ngoại lệ. Chính Đức Giêsu gọi anh. “Hãy theo Ta” (Lc 9, 59). Người này được kêu gọi cách đặc biệt đi vào trong giao ước tình yêu gắn kết với Thầy. Đối với anh, Đức Giêsu yêu cầu từ bỏ cách triệt để, không trở về chôn cất mẹ cha. Khi anh thưa: “Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã”. Nhưng Người đáp: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 59 – 60). Chúng ta không biết anh đáp lại ra sao. Nhưng đòi hỏi ở đây cho thấy, phục vụ Nước Trời luôn kéo theo một sự từ bỏ tận căn. Từ bỏ chính là thước đo tình yêu của ta đối với Đức Giêsu.
Người thứ ba xin theo Đức Giêsu với điều kiện (x. Lc 9, 61). Như trong bài đọc I, thái độ là điều cần phải suy nghĩ. Đối với Đức Giêsu tra tay vào cầy, nghĩa là đang phục vụ người khác chuẩn bị cấy cầy, ngoái lại sau là bỏ dở việc. Quyết định này làm sáng tỏ điều trên. Từ bỏ gia đình không phải là một từ bỏ, vì nó mở ra một gia đình khác. Theo Chúa không loại trừ gia đình đầu tiên nhưng là vượt qua. Gia đình Thiên Chúa là gia đình có Thiên Chúa hiện diện, liên kết hết mọi người lại với nhau một cách chặt chẽ sâu xa hơn gia đình tự nhiên.
Tóm lại, nhân đức đầu tiên của trang Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống chỉ đẹp khi thực sự sống tự do. Chính tự do, Đức Giêsu “dứt khoát ” lên đường đi Giêrusalem nơi Người biết rằng mình sẽ chết. Giá trị của cuộc sống lớn lao hơn khi người ta sử dụng tự do để phục vụ sự sống cho người khác. Cần bước qua những thử thách trong đời, lằng nghe tiếng Chúa gọi và đáp trả. Lịch sử nhân loại chúng ta đang sống, người này liên đới với người kia. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Ước chi tự do của anh em không phải là cái cớ để làm thoải mãn tính ích kỷ của anh em, trái lại, anh em hãy phục vụ mọi người trong tình yêu” (Gl 5,13).
Công Ðồng Vaticanô II quả quyết rằng “kẻ được Thiên Chúa Cha kêu gọi… theo ý định của ân sủng Ngài” (Lumen Gentium, số 40). Đúng thế, theo Chúa là ra khỏi ý định riêng tư, để đặt mình trong bàn tay và ý định nhiệm mầu của Chúa. Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa là đặt mình trên đường theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con thưa với cả cuộc đời: “Lạy Chúa, này con đây, con xin đến để thi hành thánh ý Chúa” (x. Dt 10,7).
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Thánh sử Luca trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, đang khi trên đường hướng về Giêrusalem đã gặp một vài người, có lẽ là đang tuổi thanh xuân, họ hứa sẽ đi theo Người khắp nơi. Chúa Giêsu đã tỏ ra rất yêu sách đối với người bắt gặp dọc đường đến xin: “Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy” (Lc 9, 57), Chúa cảnh báo cho người ấy biết rằng “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người, tức là Ðấng Mesia – không có chỗ gối đầu” (Lc 9, 58), nghĩa là không có một nơi thường trú, và ai đã chọn làm việc với Người trong cánh đồng của Thiên Chúa thì không được quay trở lại (x. Lc 9,57-58.61-2). Với một người khác, Chúa Giêsu nói: “Hãy theo Ta”, và yêu cầu anh cắt đứt mọi ràng buộc với gia đình (x. Lc 9,59-60).
Chúa Nhật tuần trước, Chúa Giêsu đã phán với chúng ta rằng: “Kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất…” (Lc 9,23). Hôm nay tương tự như thế Chúa đòi hỏi tất cả: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62). Yêu cầu của Chúa Giêsu thật quá khắt khe, vì tất cả những điều người ta giữ thật rất tự nhiên và phù hợp với đạo lý gia đình mà bất ai làm người cũng phải phải có như “hôn chào cha mẹ” và nhất là “chôn cất mẹ cha”. Còn gì tự nhiên và ý nghĩa hơn lòng biết ơn đối với người thân chúng ta như cha như mẹ, ấy vậy mà cử chỉ cuối cùng của tình yêu là “chôn cất cha” cũng phải từ bỏ.
Những đòi hỏi trên xem ra quá đáng, nhưng thực ra chúng diễn tả sự mới mẻ và ưu tiên của Nước Thiên Chúa hiện diện ở nơi bản thân của Chúa Giêsu. Nói cho cùng, tính cách triệt để bắt nguồn từ Tình yêu của Thiên Chúa mà Đức Giêsu là kẻ đầu tiên đã vâng theo. Phàm ai từ bỏ mọi sự, kể cả bản thân mình, thì đi vào một chiều kích mới của tự do, được thánh Phaolô định nghĩa như là “bước theo thần trí” (xc. Gl 5,16). Thánh Phaolô viết: “Chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta”, và ngài giải thích rằng hình thái mới của sự tự do mà Đức Kitô đã chinh phục cho chúng ta hệ tại việc “phục vụ lẫn nhau” (Gl 5,1.13). Tự do và yêu thương trùng hợp với nhau. Ngược lại, việc tuân theo tính ích kỷ dẫn tới hiềm khích và xung đột.
Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta suy nghĩ về cách chúng ta theo Chúa. Điều quan trọng là chúng ta phải biết theo Chúa với cách thức Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Giacôbê và Gioan vẫn chưa học được sứ điệp tình yêu và sự tha thứ nên các ông mới thưa cùng Chúa: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu hủy chúng không?” (Lc 9,54). Các môn đệ thì Chúa mời gọi từ bỏ gia đình và người thân. Để theo Chúa Giêsu Kitô và thi hành sứ mạng chúng ta được trao phó, tất cả chúng ta phải thanh thoát khỏi những ràng buộc hầu xứng đáng với Nước Thiên Chúa (x. Lc 9,62)
“Hãy theo Thầy”. Lời mời gọi trên của Chúa Giêsu vẫn thật cấp bách gửi đến mỗi người chúng ta. Theo Thầy, trở nên môn đệ Thầy để mở mang Nước Chúa. Kẻ đi theo làm tông đồ cho Chúa cần ý thức về sứ mạng của mình là truyền giảng Tin Mừng của Chúa Kitô. Vì, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa mới có thể qui tụ những con người thuộc đủ mọi sắc tộc, màu da, tiếng nói, khác nhau về văn hóa thành một gia đình, lúc ấy mới có thể hàn gắn những vết thương đau bởi chia rẽ, khác nhau về ý thức hệ, bất bình đẳng kinh tế và những cuộc tấn công bạo lực đàn áp nhân loại cho đến hôm nay. Qua việc truyền giảng Tin Mừng, người tín hữu giúp mọi người nhận ra mình là anh chị em với nhau.
Theo Chúa Giêsu không chỉ có từ bỏ mà còn vác thập giá (x. Lc 9, 22). Từ bỏ cũng có nghĩa là từ chối nhiều điều kiện “thuận lợi ” trong cuộc sống giúp thăng tiến bản thân. Khi lựa chọn bước theo Chúa Giêsu, như các Tông đồ, bỏ buông thuyền lưới, gia đình, nghề nghiệp. Con đường theo Chúa Giêsu không trải đầy nhung lụa mà là những gai nhọn và gian nan. Con đường đó dẫn lối về hạnh phúc cho những ai dám từ bỏ mọi sự để sống cho Chúa, dám sống đời hèn mọn, dám sống đời tận hiến với quyết tâm thuộc trọn về Chúa suốt đời. Đó là Ơn Gọi cho những người bước đi theo Thầy Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhận ra những tiếng gọi mời của Chúa, giúp chúng con bước theo và thực thi cách trung thành. Xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo hội luôn là tiếng gọi chúng con phải quan tâm để ý. Lạy Đức Trinh Nữ Maria Nữ Vương và là Mẹ chúng con, xin cầu cho chúng con. Amen.
Con đường ngắn nhất để lên Giêrusalem, đó là con đường đi ngang qua xứ Samaria. Thế nhưng, dân chúng ở đây thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét thật tệ hại, đã có từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn ở trong tư thế đối nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc thảm sát dã man và đẫm máu, nhất là khi người Do Thái có công chuyện phải đi ngang qua vùng đất này.
Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Giócđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem.
Hôm ấy, Chúa Giêsu trở về thủ đô. Ngài muốn đi qua xứ Samaria. Vì phải ngủ qua đêm, nên Ngài đã sai Gioan và Giacôbê đi trước để chuẩn bị. Ngài hy vọng mọi sự được tốt đẹp, bởi vì toàn cõi Samaria đã biết đến danh tiếng Ngài. Làm gì mà họ lại không được nghe nói tới những việc lạ lùng Ngài đã làm ở Capharnaum và ở nhiều nơi khác.
Thế nhưng, chỉ một lúc sau, hai môn đệ được sai đi trở về, lòng đầy căm tức. Các ông nói:
– Thưa Thầy, nếu Thầy muốn, chúng con sẽ sai lửa trời xuống thiêu hủy họ.
Sở dĩ như vậy, vì các ông đã bị họ từ chối, không cho được một chỗ trú ngụ qua đêm.
Chúng ta có thể tưởng tượng ra câu trả lời đầy mỉa mai của họ:
– Nếu Thầy các ông muốn lên Giêrusalem, thì hãy đi thẳng vào những làng mạc của dân Do Thái. Chúng tôi chẳng có liên hệ gì với ông ấy và cũng chẳng cần ông ấy làm phép lạ, bởi vì chúng tôi chẳng có người nào đau yếu bệnh tật.
Rồi họ lại còn đe dọa, khiến cho hai ông cảm thấy cần phải tường trình lại sự việc cho Chúa Giêsu được rõ. Họ đã không tuân giữ khoản luật về việc cho khách đỗ nhà, lại còn miệt thị dân Do Thái và coi thường đền thờ. Hành động như vậy phải chăng là đã đổ dầu vào lửa. Và hơn thế nữa, họ đã không đón tiếp Thầy mình, là Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Như vậy, phải áp dụng cho họ một hình phạt nặng nề nhất mà tiên tri Elia ngày xưa đã dùng đến, đó là sai lửa trời xuống thiêu hủy họ.
Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu đã thực sự đi ngược lại với lòng mong đợi của họ:
– Các con không hiểu gì hết. Con người đến không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu vớt.
Ai sống tinh thần của Chúa sẽ không bẻ gẫy cây sậy đã bị dập nát và không thổi tắt tim đèn còn khói.
Cho tới lúc bấy giờ, các ông có lẽ cũng chưa hiểu thấu được ý nghĩa của dụ ngôn về tên đầy tớ độc ác, được chủ tha cho món nợ khổng lồ, nhưng lại cư xử hà khác với người bạn mình.
Không kết án những người Samaria, Chúa Giêsu đi tới một làng khác và thực hiện đúng như lời Ngài đã dạy:
– Nếu người ta từ chối không tiếp đón và nghe lời các con, thì các con hãy ra khỏi nhà của họ, rồi phủi bụi dưới chân các con.
Với chúng ta cũng vậy, nhiều khi chúng ta bị cám dỗ hành động một cách nóng nảy và vội vã như các môn đệ. Nhìn thấy tội lỗi tràn lan và những kẻ chống đối Giáo hội không ngừng tìm mọi cách để bôi bác và hạ nhục Giáo hội, chúng ta cũng muốn sai lửa trời xuống tiêu diệt họ.
Thế nhưng, Chúa Giêsu có lẽ cũng muốn nói với mỗi người chúng ta:
– Các con không hiểu gì hết. Con người đến không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu vớt.
Bổn phận của chúng ta là phải cứu vớt những kẻ sa ngã vấp phạm, là phải tìm kiếm những kẻ lầm đường lạc lối, là phải đem Tin mừng đến cho những người chung quanh bằng lời cầu nguyện và nhất là bằng những hành động bác ái, là phải lấy tình thương xóa bỏ hận thù.
Hãy bắt chước Chúa vì Ngài là Đấng nhân hậu, chậm bất bình và đầy lòng khoan dung.
(Suy niệm của Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa)
Theo Chúa Kitô, không được phàn nàn vì những chọn lưạ lớn lao của cuộc đời mình, đừng quay lại đằng sau nữa. Triết gia Alain nói: “điều quan trọng không phải là bạn đã chọn lựa tốt, nhưng là bạn hãy làm cho điều chọn lựa đó trở nên tốt. Bạn đã đáp trả lời mời gọi của Chúa và bạn không cảm thấy hạnh phúc ư? Bạn hãy tự hỏi mình xem đã tiến xa trong tình yêu Thiên Chúa chưa? Bạn đừng khéo léo lấy lại cái mà mình đã cho đi. Hãy tiếp tục cho đi hơn nữa hoặc cho đi một cách tốt hơn”.
Cách đây trên dưới 2000 năm, sau khi suy nghĩ cân nhắc, Chúa Kitô đã biết điều đang chờ đợi Người là quyết định lên Giêrusalem. Người biết lên Giêrusalem là sẽ phải chịu treo trên thập giá nhuốc nha, trong khi đó thì các môn đệ cứ tưởng rằng Người lên Giêrusalem để nắm vương quyền và đập tan thế lực ngoại bang Roma xâm chiếm. Người bình tĩnh tiến bước. Mãi về sau này các ông mới hiểu được sự bình tĩnh ấy là dấu chỉ của lòng can đảm. Người đi trước, thủ lãnh của tất cả những ai theo Người cũng sẽ can đảm chịu chết vì tin mừng hoạc vì công lý. Thầy làm gương để anh em cũng làm như vậy.
Chúa Kitô biết rằng mình phải đi chịu chết. Sau khi suy nghĩ chín chắn chính Người đã muốn biết cái chết mà người không cần phải biết và ngay cả cái chết dữ dằn. Chúng ta hãy chiêm ngắm Chúa bước đi lên thành phố mà Người phải lãnh án tử hình như thế nào. Chúa Kitô can đảm, Chúa Kitô dũng cảm, Chúa Kitô kiên cường. Đó là mẫu gương Người để lại cho tất cả những ai muốn bước đi theo Người. Vì vậy theo Chúa Kitô, chính là: Chuẩn bị đương đầu với thất bại và thập giá
Hãy đọc lại bài phúc âm hôm nay:
Để đi từ Galilea đến Judea, cần phải qua Samaria, người samaria thường bị người Do Thái khinh bỉ.. Dù sao Chúa Giêsu vẫn sai một số môn đệ báo tin trước rằng Người sẽ đến đó. Nhưng khi đến, các môn đệ thấy người Samaria đóng sập của lại không thèm tiếp mình. Vì thế, họ trở về nổi giận lôi đình và thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa tù trời xuống thiêu huỷ thành này không?” Nhưng Chúa Giêsu quát mắng họ nặng lời. “Này, tụi con đừng có cái kiểu muốn đổi hướng đi mà thầy đã chọn: chiến thắng chỉ có được nhờ thập giá chứ không phải nhờ sức mạnh, nhờ tình yêu chứ không phải nhờ bạo loạn. Tụi con không hiểu đó là lối sống của Thầy ư?”.
Kitô giáo không phải là một con đường trải hoa hồng đón thưởng những ai say mê Đức Kitô. Kitô giáo cũng không phải là một tôn giáo cho những ai yên phận không dám đi ngược dòng với thói đua đòi của môi trường chung quanh. Kitô giáo cũng không phải là một đảm bảo may rủi chống lại những nỗi buồn của cuộc sống.
Theo Chúa Kitô, là đi vào hiện tượng của thập giá: chấp nhận thất bại, chấp nhận trở nên điên rồ trước mắt người đời, chấp nhận nói những câu nói đi ngược dòng với trào lưu tư tưởng đương thời và từ chối vuốt ve quảng cáo và bôi trơn.
Theo Chúa Kitô là bắt đầu trở về trước khi muốn làm cho người khác trở về; chấp nhận trỗi dậy trước khi muốn người khác trỗi dậy. Theo Chúa Kitô là cậy dựa vào sức mạnh của tình yêu, là đi gặp gỡ anh em bằng chính sự tốt lành của Chúa Kitô.
Theo Chúa Kitô là bắt chước Chúa tôn trọng mọi người, không phải là giáng đòn chân lý bằng những tai vạ bất ngờ, nhưng bằng sự hiền lành như chim bồ câu, bằng sự nhẫn nại của người môn đệ biết rằng chính Thiên Chúa làm cho trở về nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần “gió muốn thổi đâu thì thổi”.
Trở lại bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu gặp một người sẵn sàng theo Chúa khắp nơi. Chúa Giêsu làm gì đối với anh? Người sẽ làm giảm sự nhiệt tình của anh: “Này bạn yêu quí, tôi phục thiện chí của bạn, nhưng bạn đừng bị mắc lừa. Nhất là bạn đừng đợi chờ tìm được một công việc béo bở, một đảm bảo vật chất nào đâu nhé”.
Đúng vậy, Chúa Giêsu không muốn quyến rũ các tân binh của Người bằng những món lợi vật chất hoặc một sự danh tiếng nào. Kitô giáo không phải là một sự béo bở gì, một Tabor liên tục. Kitô giáo cũng không phải là một tôn giáo cho những người yếu ớt và nhát đảm. Theo Chúa Giêsu là chấp nhận lời mời gọi liên tục của Phúc Am sống khó nghèo.
Bài Phúc Âm hôm nay còn cho chúng ta thấy Chúa Giêsu mời một chàng thanh niên khác theo Người, nhưng anh này xin Chúa gia hạn: “Thầy biết rõ, cha tôi vừa mới qua đời… còn một số giấy tờ cần phải điều chỉnh lại… và cả gia tài, của hồi môn cần có thời gian để phân chia. Tốt hơn là tôi có mặt ở nhà khoảng 15 ngày hoặc một tháng thì càng tốt.” Không, Chúa Kitô không phải là một con quái vật không biết bổn phận của những người trong gia đình, nhưng trong bài phúc âm hôm nay, Người gửi cho anh một sứ điệp quan trọng: “Đúng, anh nghĩ đến cha anh là một việc đáng khen, nhưng anh thấy đó, cha anh đã chết, anh không thể làm được gì hơn nữa cho cha anh. Điều thúc bách anh bây giờ đó là tất cả những người còn sống đang chờ đợi Tin Mừng”. Đúng vậy Kitô giáo không phải là định cư trong những tiện nghi và tình cảm gia đình. Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo của một Thiên Chúa nhu nhược và cho phép tất cả. Kitô giáo là một tôn giáo nâng đỡ, trợ lực và thức tỉnh người tín hữu và nói với họ rằng: Rao giảng tin mừng là công cuộc khẩn cấp. Khẩn cấp về giáo lý trong một thế giới bị vật chất hoá, khẩn cấp về quyền bình đẳng, khẩn cấp về tình yêu.
Vì thế, theo Chúa kitô là cần phải trao ban mạng sống mình như Chúa. Đối với một gia đình, theo Chúa Kitô là vượt qua đau khổ và sống đức tin nếu có một đứa con phải chết, là chấp nhận cho con gái vào dòng tu hoặc vui mừng cho con trai vào chủng viện làm linh mục để phục vụ Giáo Hội. Theo Chúa Kitô là sẵn sàng tứ chối mọi tương quan tình cảm đi ngược với chương trình của Thiên Chúa.
Trở lại bài phúc âm hôm nay, chúng ta thấy một nhân vật khác nữa. Anh say mê Chúa Kitô và nói với Chúa: “Con sẵn sàng theo Thầy ngay, nhưng thầy để cho con về nhà một thời gan để nhìn lại ngôi nhà tuổi thơ ấu của con, kỷ niệm của con và được ôm hôn mẹ một lần nữa. Elia, khi gọi Elise thay thế mình, đã chẳng cho phép Elise thăm lại người thân thuộc đó sao?” Chúa Kitô trả lời: “kéo dài tạm biệt chính là kéo dài chia ly. Nếu anh ra đi thì đừng hối tiếc gì và đừng muốn trở về với quá khứ của anh nữa”.
Đúng vậy, ktô giáo không phải là một lời cam kết chỉ phục vụ Chúa Kitô 3 năm thôi. Kitô giáo cũng không phải là một lời cam kết có điều kiện: “Lạy Chúa, nếu con thích, con sẽ theo Chúa. Bằng không, nếu sau này con sẽ quay lại với chọn lụa của con, Chúa sẽ tha lỗi cho con, vì con có thể sai lầm về vấn đề này”.
Theo Chúa kitô, không được phàn nàn vì những chọn lưạ lớn lao của cuộc đời mình, đừng quay lại đằng sau nữa. Triết gia Alain nói: “điều quan trọng không phải là bạn đã chọn lựa tốt, nhưng là bạn hãy làm cho điều chọn lựa đó trở nên tốt. Bạn đã đáp trả lời mời gọi của Chúa và bạn không cảm thấy hạnh phúc ư? Bạn hãy tự hỏi mình xem đã tiến xa trong tình yêu Thiên Chúa chưa? Bạn đừng khéo léo lấy lại cái mà mình đã cho đi. Hãy tiếp tục cho đi hơn nữa hoặc cho đi một cách tốt hơn”.
Thánh Luca dẫn nhập vào bài Phúc Âm hôm nay bằng một câu thật trang trọng nhưng cũng bi thảm: “Vì gần đến lúc Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Ngài cương quyết lên đường đi Giêrusalem”.
Chúa Giêsu như bị giằng co giữa hai cảm quan. Theo bản tính nhân loại, Ngài cảm thấy lo sợ vì “lên Giê-ru-sa-lem” là đi chịu chết và chết trên cây Thập giá, nhưng Ngài đã tự vượt thắng để tuân phục Thiên Ý của Đức Chúa Cha, đã sai Con Một Ngài xuống thế để cứu chuộc nhân loại. Cuộc day dứt nội tâm này còn ám ảnh Ngài trong những ngày cuối đời và sẽ lên đến tột độ trong cuộc hấp hối dưới ánh trăng mờ của vườn Giêtsêmani.
Từ đây, mỗi tín hữu cũng có đoạn đường lên Giêrusalem của mình; là Kitô hữu, chúng ta phải vác Thập giá để đi theo Chúa Kitô.
Trên đường lên Thành Thánh, Chúa Giêsu đã gặp bốn sự kiện, gợi ý những bài học Chúa dạy chúng ta phải thực hiện khi lên đường theo Chúa.
Trước hết, Chúa sai một số môn đệ, trong đó có hai anh em Giacôbê và Gioan đi trước dọn chỗ cho Ngài và các môn đệ sẽ đến sau. Nhưng dân làng Samaria không chịu đón tiếp, khiến cho hai anh em “con của sấm sét” tức mình, đến xin Chúa cho quyền khiến lửa trên trời xuống thiêu rụi quân vô đạo ấy. Chúa Giêsu trả lời: “Con người đến không phải để giết mà để cứu chữa”. Chúa muốn dạy chúng ta rằng con đường theo Chúa không phải luôn thẳng tắp, không gặp trắc trở. Vậy người muốn theo Chúa phải nhẫn nại hiền lành, lấy tinh thần của Chúa hiền lành khiêm tốn, để đối xử lại, để chinh phục lại các linh hồn. Thánh Phanxicô Salesiô nói: “Một thìa mật lôi kéo nhiều ruồi hơn là một xe dấm”.
Sau đó, Chúa gặp ba người đến muốn làm ứng viên đi theo Chúa, trở nên môn đệ.Người thứ nhất tuyên bố sẵn sàng xin đi theo Ngài mọi nơi. Chúa Giêsu đọc trong tâm hồn kẻ ấy và thoáng thấy ít nhiều vụ lợi nào đó, nên Ngài trả lời thẳng thừng để dạy cho những ai muốn theo Chúa: phải nhắm mắt tận hiến, không tìm một mối bảo đảm nào. Theo Chúa là từ bỏ một nếp sống có qui củ, là nhận lãnh mọi nghịch cảnh: “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không có lấy hòn đá gối đầu”.
Người thứ hai xin theo làm môn đệ Chúa, nhưng xin được về lo tang sự cho thân sinh đã. Chúa trả lời: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần con, hãy đi rao giảng Nước Trời”. Chúa không bãi bỏ giới điều thứ tư, nhưng Chúa dạy rằng có những lúc phải đặt việc phụng sự Chúa trước, và trên hết (14, 26). Phải có can đảm cắt đứt mọi giây mơ rễ má để theo Chúa. Thánh Neron, tử đạo tại Sơn Tây, Việt Nam, trên đường xuống hải cảng Marseille để đi truyền giáo, đã cố tình tránh cha mẹ bà con ra tiễn tại sân ga. Nữ Thánh Chantal nước mắt tràn trụa bước qua con nằm chận cửa, không cho mẹ đi lập Dòng Thăm Viếng.
Với người thứ ba, có thái độ chần chừ, Chúa phán: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn quay mặt ngó lui, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”.
Thánh Phaolô đã thực thi lời Chúa: “Quên phía sau mà lao mình tới trước, tôi nhắm đích chạy đến giải thưởng của ơn kêu gọi Chúa ban” (Phil. 3, 13-14).
Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của tôi.
Tôi luôn đặt Chúa ở trước mặt, tôi sẽ không phải nao núng.
Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo
Bài Tin mừng ngày hôm nay nói đến việc đi theo Đức Giêsu. Thế nhưng mở đầu bài Tin mừng lại đề cập đến sự kiện Đức Giêsu bị một làng người Sa-ma-ri từ chối đón tiếp. Điều đó báo hiệu cho thấy hành trình đi theo Đức Giêsu không phải là việc dễ dàng.
Thực vậy, người thứ nhất chạy đến thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Lời nói có vẻ dứt khoát, cương quyết. Thế nhưng Đức Giêsu lại trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Câu nói như một lời từ chối khéo léo! Vì sao Đức Giêsu lại làm giảm lòng nhiệt thành của anh ta như vậy? Có lẽ Người nhìn thấy bên trong sự hăng say đó là một sự bồng bột, cao hứng nhất thời. Câu nói của Đức Giêsu không hẳn là một lời từ chối cho bằng là một lời khẳng định. Người khẳng định thực tại mà chính Người đang trải qua và muốn anh ta ý thức rõ lời cầu xin của mình. Theo Đức Giêsu không phải để được một chỗ ở yên ổn, được bảo đảm lương thực hằng ngày, được theo Người đi giảng dạy và làm phép lạ cho người ta. Trái lại, theo Đức Giêsu là chấp nhận một cuộc sống bấp bênh, nay đây mai đó. Theo Người là bước vào cuộc hành trình cam go với nhiều rủi ro nguy hiểm. Đức Giêsu không từ chối anh ta nhưng mời gọi anh ý thức rõ việc theo Người trước khi quyết định.
Đó cũng là lời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta. Theo Đức Giêsu không phải là một quyết định nông nổi theo cảm xúc nhất thời nhưng là một lựa chọn đòi hỏi đắn đo cân nhắc. Đặc biệt là ý thức rõ con đường theo Đức Giêsu là con đường lắm chông gai, đòi hỏi người đăng trình phải luôn sẵn sáng đón nhận mọi nghịch cảnh.
Trường hợp thứ hai do chính Đức Giêsu chủ động mời gọi. Thế nhưng người ấy lại chần chừ, trì hoãn. Anh xin cho được “về chôn cất cha trước đã”. Điều đó không có nghĩa là cha anh vừa mất và anh cần chôn cất cha trước, nhưng nó có nghĩa là anh xin về phụng dưỡng cha, cho đến khi nào cha qua đời thì anh sẽ đi theo Người. Ý định của anh thì tốt vì anh muốn chu toàn bổn phận của người con trước đã, trước khi theo Đức Giêsu. Thế nhưng Đức Giêsu không đồng ý điều đó. Người không chấp nhận một sự nhượng bộ. Bổn phận đối với Thiên Chúa phải là bổn phận được ưu tiên hàng đầu. Ngay cả bổn phận đối với cha mẹ cũng không được xếp trên. Đó là một đòi hỏi dứt khoát.
Trong đời sống, nhiều khi chúng ta phải đắn đo suy nghĩ giữa hai sự lựa chọn: bổn phận đối với Thiên Chúa và các công việc khác. Chẳng hạn việc lựa chọn giữa đi lễ chiều Chúa Nhật với ở nhà xem một trận bóng đá hay đi gặp gỡ, hội họp với bạn bè; giữa việc dành một ít thời gian cho giờ kinh gia đình với việc xem một chương trình truyền hình; giữa việc sống theo lời dạy của Đức Giêsu với việc chiều chuộng thân xác buông theo một ham muốn dục vọng. Và còn rất nhiều sự lựa chọn khác nữa đòi hỏi chúng ta phải quyết định hàng ngày. Giữa những lựa chọn đó, ta có luôn ưu tiên cho công việc, bổn phận với Thiên Chúa?
Lại có một trường hợp khác, anh đến gặp Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Anh muốn đi theo Đức Giêsu nhưng còn luyến tiếc gia đình nên xin về từ biệt gia đình trước đã. Trường hợp của anh rất giống với trường hợp của ngôn sứ Ê-li-sa (1V 19, 16-21). Nếu như trong Cựu ước, thầy Ê-li-a đã nhượng bộ, cho phép Ê-li-sa về thì ở đây, Thầy Giêsu cương quyết hơn nhiều. Thầy Giêsu đòi hỏi một thái độ dứt khoát, quyết liệt. Ngoái lại đàng sau, luyến tiếc quá khứ thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.
Lời mời gọi theo Chúa luôn đòi hỏi một thái độ mau lẹ, dứt khoát. Đi theo Đức Giêsu là hướng về phía trước, nơi chân trời tươi sáng đang vẫy gọi. Muốn vậy, ta phải gạt bỏ những gì thuộc con người cũ, con người của tính xác thịt, để mặc lấy con người mới của Thần Khí. Theo Đức Giêsu là không ngừng tiến lên phía trước để ngày một hoàn thiện hơn như Cha trên trời. Ước gì lời Chúa ngày hôm nay giúp cho ta nhìn lại quãng đường theo Chúa của mình để kịp thời sữa chữa và thích ứng cho phù hợp với đòi hỏi của Đức Giêsu.
Nếu chỉ đọc lướt qua hay nghe sơ qua bài Tin Mừng, có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên: không hiểu tại sao Chúa Giêsu lại có thái độ khắt khe đối với những người muốn theo Chúa như vậy? Tin Mừng kể lại trường hợp của ba người khác nhau.
Người thứ nhất,
Theo Tin Mừng Matthêu, là một kinh sư, tự thân hành đến xin theo Chúa. Anh phấn khởi và tuyên bố sẵn sàng theo Chúa khắp nơi, vì anh thấy nơi Chúa có thể thỏa mãn được những tham vọng của anh, một thứ tham vọng theo kiểu trần thế: giàu có, bảo đảm danh vọng, địa vị. Chúng ta hiểu như vậy là nhờ vào câu trả lời của Chúa. Chúa đưa ra điều kiện làm anh chưng hửng: “Chồn cáo có hang, chim trời có tổ. Còn Con Người không có chỗ tựa đầu:, nghĩa là Chúa cho anh biết: Chúa không có gì bảo đảm cho cuộc sống trần gian, vì nghèo đến nỗi còn thua con chim có tổ, con chồn có hang, và nghèo đến nỗi không có nơi dựa đầu, tức là không có mái nhà để ở. Chúa nghèo như thế đó. Theo Chúa anh cũng phải sống như vậy, anh có chấp nhận được không? Tin Mừng không cho biết anh ta có chấp nhận điều kiện của Chúa không? Tức là anh có đi theo Chúa không?
Người thứ hai,
Chính Chúa kêu gọi anh. Anh xin phép về nhà để chôn cất cha già rồi đến theo Chúa. Nhưng Chúa không chấp nhận. Chúa cho anh biết: chôn cất cha già là bổn phận cao quí, nhưng còn có một bổn phận cao quí hơn, đó là xây dựng Giáo Hội, tôn vinh Thiên Chúa, cứu vớt các linh hồn. Vì thế, Chúa bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, anh hãy đi loan báo Triều đại Thiên Chúa”, nghĩa là hãy để cho những kẻ trần thế lo công việc của họ, còn anh được ủy thác cho một sứ mệnh cao cả hơn, thì anh hãy đi theo Ngài. Tức là việc phụng dưỡng cha mẹ là cần, nhưng việc rao giảng Tin Mừng lại cần hơn, nên phải ưu tiên hơn. Tin Mừng không cho biết anh ta có đi theo Chúa không?
Người thứ ba,
Cũng như người thứ nhất, anh tự mình đến xin theo Chúa. Anh cũng khéo léo nối kết thêm một yêu cầu: xin về từ giã gia đình. Thật ra yêu cầu này cũng chính đáng, nhưng Chúa bảo anh: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Chúa đã dựa vào công việc người đi cày để trả lời cho người thứ ba này về điều kiện đi theo Chúa. Người cầm cày khi cày ruộng, thì luống cày phải thẳng, vì thế, không được ngoái cổ về đàng sau kẻo làm luống cày vênh vẹo, khiến cho đất không cày đều, làm cho đất không tốt cho hạt giống gieo xuống. Cũng vậy, người đã đi theo làm môn đệ Chúa phải có một thái độ dấn thân dứt khoát, không được do dự, ngập ngừng hay chần chừ khiến cho việc theo Chúa bị cản trở, tức là phải quay lưng lại với quá khứ và hướng mắt nhìn về tương lai. Một khi tâm hồn thanh thản, con người dễ dành trọn con tim cho Chúa và tha nhân. Tin Mừng cũng không cho biết người này có đi theo Chúa không?
Qua những tìm hiểu trên, có người đã thắc mắc: tại sao muốn theo Chúa, muốn làm môn đệ Chúa, phải chấp nhận từ bỏ nhiều thứ, kể cả những điều rất tự nhiên, rất hợp lý như vậy? Vì thế, nhiều người cho rằng: những điều Chúa dạy bảo ở đây chỉ hiểu về những người đi tu thôi. Nhưng theo các thánh Giáo phụ và các nhà giải thích Kinh Thánh, thì những điều này có thể áp dụng cho tất cả mọi tín hữu. Đúng vậy, chúng ta đã đi theo Chúa, đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ tất cả mọi sự, nhưng chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện tại lúc này, chúng ta có coi Chúa Giêsu và nước trời hơn tất cả mọi người, hơn tất cả mọi sự không, hay chúng ta còn ngoái cổ lại đàng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa và nước trời? Chúng ta có thái độ dứt khoát và rõ ràng đó không hay chúng ta muốn ôm đồm tất cả và tiếc rẻ tất cả?
Rồi theo Chúa, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ những gì không phù hợp với Tin Mừng, với giới răn của Chúa, chúng ta có thấy mình cần phải từ bỏ gì không? Như đời sống tội lỗi, thói hư tật xấu, những hành động gương mù, lòng độc miệng dữ, những ý nghĩ sai trái, những lời nói chua cay độc địa… chúng ta có thấy mình cần phải từ bỏ nhiều thứ không? Tóm lại, Chúa muốn những ai theo Chúa thì phải có thái độ dứt khoát và quảng đại.
Xin kể cho anh chị em câu chuyện mà thánh Gioan Bôscô thường kể để dạy cho thanh thiếu niên về lòng quảng đại: Một hôm, Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại và bảo hai ông cùng leo núi với Ngài. Dọc đường, Ngài bảo hai ông, mỗi người hãy mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một viên đá bỏ vào túi. Gioan, do lòng quảng đại tự nhiên, vác cả một tảng đá lớn. Đường dài, vác nặng, Gioan thở hỗn hển. Còn Phêrô, vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan: “Sao anh lại nhọc công vác một tảng đá lớn như thế?” Chúa Giêsu nghe tất cả, nhưng Ngài thinh lặng. Khi lên tới đỉnh núi, Chúa muốn dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống, rồi đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành ra bánh mì. Phêrô tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành mẩu bánh mì nhỏ không đủ thỏa mãn cơn đói cồn cào trong bụng ông.
Lần khác, Chúa Giêsu lại cũng gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan, bảo leo núi với Ngài một lần nữa. Lần này Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm lần trước, Phêrô liền đi tìm tảng đá lớn để vác theo. Đường xa, Phêrô phải cố gắng hết sức mới mang được tảng đá cồng kềnh lên đỉnh núi. Ông chờ đợi một phép lạ mà Chúa sẽ làm để tưởng thưởng ông. Thế nhưng, vừa lên tới đỉnh núi, Chúa chỉ nói với họ: “Nào chúng ta hãy ngồi lên tảng đá chúng ta vừa mang theo. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh đâu”. Phêrô cảm thấy xấu hổ. Ông thưa Chúa: “Thì ra Thầy đã chơi khăm con”. Nhưng Chúa Giêsu mỉm cười bảo ông: “Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại có tính toán và vụ lợi”.
Chúng ta hãy nghĩ xem: chúng ta theo Chúa thế nào? Chúng ta cầu nguyện, chúng ta hy sinh hãm mình, chúng ta làm những việc từ thiện bác ái với thái độ và ý hướng thế nào? Chúng ta có đặt điều kiện hoặc trả giá với Chúa không? Xin mỗi người hãy suy nghĩ.
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể lại, việc Chúa Giêsu quyết định lên Giêrusalem để nộp mình, để thi hành thánh ý của Chúa Cha. Trên đường đi, Ngài ghé vào thành Samaria, nhưng dân chúng không tiếp Ngài, cho nên các môn đệ nổi nóng, đòi xin lửa từ trời tiêu diệt họ. Nhưng, các môn đệ đã bị Chúa Giêsu khiển trách. Bởi vì, sứ vụ của Ngài đến không phải để tiêu diệt, nhưng để cứu vớt. Và đang khi đi trên đường, có ba người muốn xin đi theo làm môn đệ Ngài. Chúng ta không biết sau này, những người này có trở thành môn đệ của Ngài không, nhưng lời của Chúa, có vẻ như là điều kiện quá khắt khe cho những ai muốn theo làm môn đệ của Ngài.
Theo Chúa phải trở nên nghèo khó.
Bởi vì, câu trả lời của Chúa cho người muốn biết Ngài ở đâu. Ngài cho thấy: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, còn Con Người thì không có nơi gối đầu”. Cuộc đời của Chúa sống nghèo khó, Ngài không lợi dụng quyền năng để làm giàu cho mình, để lo cho mình. Nhưng Chúa đã cứu giúp và dành cho người nghèo, kẻ đau khổ và tội lỗi. Khi mới sinh ra, Chúa đã chọn nơi nghèo nàn nhất để sinh ra, nơi hang bò lừa, sinh ra ở nơi chẳng xứng cho một người. Cho nên, Ngài đã đồng hóa với người nghèo, người đau khổ. Ngài cũng dạy các môn đệ, khi đi rao giảng, thì đừng mang theo gì. Người ta cho ăn thì anh em ăn những thứ đó. Chính cuộc đời của Ngài và các môn đệ Ngài, là sống nghèo khó, không tạo cho mình văn phòng, không tích lũy của cải dành riêng cho mình. Bởi vì, ai đến với Ngài, đều được đón nhận lời Chúa, được chữa trừ mọi bệnh tật, không một điều kiện, không đòi hỏi gì. Ngài và các môn đệ sống lay lắt, ngủ đường, ngủ chợ. Khi rao giảng rày đây, mai đó.
Theo Chúa, đòi phải từ bỏ.
Người thứ hai xin theo Chúa, nhưng muốn về chôn cha. Ngài bảo: “Hãy theo Ta, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết”. Câu nói này có đi trái ngược với giáo lý Ngài dạy hay không? Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Ngài dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ”. Còn trong Cựu ước thì nói, kẻ bất hiếu với cha mẹ thì đáng bị xử tử. Còn lời dạy trên đây Chúa không nghiêm khắc đến nỗi không cho người con về chôn cha. Nhưng có lẽ, người cha của chàng thanh niên đó đang bị đau nặng. Nhưng, đòi hỏi của Chúa, tính cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng, là điều cấp bách, còn hệ trọng hơn cả việc chăm sóc bệnh nhân nữa. Khi theo Chúa, thì phải biết hy sinh, phó thác cho Chúa, biết từ bỏ đi những quyến luyến riêng tư của mình, mà quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa. Trường hợp thứ ba, anh muốn về từ giã gia đình. Cũng vậy, Chúa không cấm việc từ giã người thân, nhưng Chúa muốn kẻ theo Ngài thì biết hy sinh, biết đáp trả lại ơn gọi là điều cần thiết hơn, quan trọng hơn. Cho nên, theo Chúa thì phải biết từ bỏ, từ bỏ những gì quyến luyến với mình, từ bỏ những cản trở để đến với Chúa, luôn sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa “hãy theo Ta”. Theo Chúa, đáp lại lời mời gọi của Ngài, biết phó thác mọi sự cho Ngài. Dù có gặp nghèo khổ, dù có gặp những khó khăn hay thử thách, nhưng người môn đệ biết luôn trung thành với Ngài. Cho nên, muốn trở nên môn đệ Đức Kitô, thì hãy vác thánh giá hằng ngày, để theo Chúa.
Theo Chúa, phải chịu thiệt thòi.
Mỗi người Kitô hữu đều là môn đệ Chúa. Chúng ta biết rằng, mình theo Chúa phải chịu nhiều thiệt thòi lắm! Thiệt thòi là bởi vì sống ơn gọi Kitô hữu thì phải lội ngược dòng. Tôi không được chiếm đoạt của người khác, tôi cũng không có quyền sống buông thả, chiều theo những dục vọng của tội lỗi. Tôi phải sống tha thứ, ngay cả cho kẻ thù. Còn bổn phận phải chu toàn đối với Chúa nữa. Thay vì bây giờ, tôi có thể lựa chọn ở nhà, để lai rai với bạn bè, có thể ngồi đánh bạc, hay tán gẫu với bạn bè khác hàng giờ ở các quán cà phê, thì tôi lại đến với Chúa, để tham dự thánh lễ, để nghe Lời Chúa. Anh chị em nghĩ coi, theo Chúa làm cho tôi bị hạn chế rất nhiều. Nhưng mà chính trong cái hạn chế đó, tôi biết tôi là ai, và tôi hiện diện ở cõi đời này để làm gì. Không phải là tôi chỉ biết tôi, sống cho tôi, lo cho tôi mà thôi, nhưng tôi còn có bổn phận đối với anh chị em sống chung quanh tôi nữa và tôi cũng phải có trách nhiệm với gia đình của mình với khu xóm. Sống tôn trọng người khác. Chính đời sống đó làm cho cuộc đời tôi trở nên có ý nghĩa, và có mục tiêu rõ ràng. Chính khi anh chị em và tôi đã là Kitô hữu, là môn đệ Đức Kitô, thì những cản trở đó, sự dấn thân đó không còn làm cho tôi mất đi tự do, mà trái lại, còn làm cho tôi có được tự do đích thực hơn nữa là đàng khác. Nếu tôi sống trong tự do của lề luật của Chúa thì lại càng làm cho cuộc sống này trở nên có ý nghĩa hơn, tốt hơn và không những tình yêu của Chúa lan tỏa trong tôi mà còn lan tỏa đến mọi người nữa. Cũng như trong Thánh vịnh 18 nói rằng: “luật pháp Chúa quả là chính trực, làm hoan lạc tâm can”. Cho nên, luật của Chúa chính là sự sống, là con đường dẫn ta đến với Chúa và anh chị em của mình, chứ không như sự chết thì dẫn người ta đến ngõ cụt.
Muốn trở nên môn đệ của Chúa, đòi hỏi ta phải vác thập giá hàng ngày để theo Chúa. Có nghĩa là biết chấp nhận sống nghèo như Chúa. Nghèo ở đây tức là mình biết sống chia sẻ cho anh chị em túng thiếu xung quanh mình, biết phục vụ, giúp đỡ anh chị em mình. Đó chính là sống nghèo khó thật sự là lời chứng sống động và hùng hồn nhất của người môn đệ Chúa Kitô. Hình ảnh những người muốn theo làm môn đệ Chúa hôm nay, còn là lời mời gọi của Chúa với chúng ta là hãy biết từ bỏ những rào cản, những gì nó gắn bó, nó thiết thân, thân quen với mình, đã cản trở, làm cho mình lỡ đi những cơ hội để theo Chúa… Những quyến luyến đó là gì? Đó là những ích kỷ, những kiêu ngạo, hận thù, ngăn cách ta đến với Chúa. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta, biết quí trọng ơn gọi làm Kitô hữu của mình, và sống đáp lại tình thương của Chúa dành cho mình.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Một thiền sư nổi tiếng đã kể giai thoại sau đây về cuộc đối thoại dí dỏm giữa Đức Phật và ác thần Mara:
Ngày nọ, Đức Phật đang bận việc dưới hầm, còn Ananda, đệ tử thân tín của Ngài đứng ngoài cửa. Thình lình Ananda thấy Mara xuất hiện, Ananda cứ tưởng rắng Mara bị lạc lối. Nhưng Mara tiến lại gần Ananda và yêu cầu cho được gặp Đức Phật, Ananda ngạc nhiên trước yêu cầu của Mara nên hỏi lại:
– Ngươi còn đứng đây để làm gì? Ngươi không nhớ là Đức Phật đã nhiều lần đánh bại ngươi dưới gốc cây bồ đề rồi sao? Ngươi còn vác mặt tới đây làm gì? Ngươi không biết xấu hổ sao? Cút đi, Đức Phật không muốn thấy mặt ngươi nữa đâu, ngươi là đồ ác, ngươi là kẻ thù của Ngài.
Nghe thế, Mara liền cười ngất: Sao, ngươi bảo là sư phụ ngươi cũng có kẻ thù ư?
Ananda cảm thấy bối rối, anh biết Đức Phật chưa bao giờ nói rằng ngài có kẻ thù. Đuối lý, Ananda liền xuống hầm báo tin cho Đức Phật biết Mara xin được gặp Ngài. Anh hy vọng Đức Phật sẽ sai anh lên nói với Mara rằng: Ngài đang bận, không thể tiếp hắn được. Nhưng trái với những dự đoán của Ananda, Đức Phật rất vui mừng khi nghe tin có Mara muốn gặp, cứ như thể hắn là một người bạn chí thân của Ngài, và Ngài liền thân hành đến gặp Mara. Ananda hết sức thất vọng khi thấy Đức Phật đến trước mặt Mara cung kính bái chào hắn, rồi nhiệt tình bắt tay hắn. Ngài niềm nở: Chào ông bạn, ông bạn có khoẻ không? Mọi việc đều tốt đẹp cả chứ?
Nhưng Mara im lặng, không trả lời. Đức Phật mời hắn xuống hầm và sai Ananda pha trà. Ananda bực bội lắm, anh nghĩ trong bụng: ta có thể pha trà cho sư phụ mỗi ngày một trăm lần cũng được, nhưng pha trà cho Mara, thì ta thấy không vui chút nào, nhưng vì đó là lệnh của Đức Phật thì làm sao có thể từ chối được. Trong câu chuyện nghe lỏm giữa Đức Phật và Mara, Ananda nghe Mara thú nhận một cách chản nản như sau:
– Mọi việc diễn ra không tốt đẹp chút nào, tôi quá mệt mỏi vì phải làm Mara, tôi muốn được làm một cái gì khác cơ. Ngài biết đấy, đóng vai Mara không phải là chuyện dễ, có nói thì nói gian nói dối, cón có làm thì làm điều dữ điều ác. Tôi mệt mỏi lắm rồi. Nhưng điều làm cho tôi khó chịu hơn cả chính là các môn sinh của tôi. Ngày nay, cứ mỗi lần mở miệng ra thì họ nói tới công bình xã hội, hoà bình, bình đẳng, giải phóng, bất bạo động. Tôi nghe quá nhàm tai rồi, tôi nghĩ đến đã đến lúc tôi xin bàn giao chúng lại cho Ngài, tôi chỉ muốn làm một cái gì khác thôi.
Đức Phật lắng nghe với tất cả chú ý và cảm thông. Cuối cùng Ngài nói:
– Bộ anh tưởng rằng làm Phật thì dễ hơn sao? Anh không thấy những gì các môn sinh của tôi làm cho tôi sao? Họ đặt trên miệng tôi những lời mà tôi chưa bao giờ thốt ra, họ xây chùa chiền cho tôi, tạc tượng tôi và đặt tôi lên bàn thờ để thu nhặt cam chuối, tiền bạc cho riêng họ. Tôi và giáo huấn của tôi đã trở thành đối tượng để đổi chác. Này ông bạn Mara, nếu ông biết được thế nào là làm Phật, tôi tin chắc ông chẳng muốn làm Phật chút nào đâu.
Giai thoại trên cho thấy một nghịch lý trớ trêu nhưng lại là một thực tế bi thảm: môn đệ của ác thần thì toàn nói chuyện nhân nghĩa, còn đệ tử của Đức Phật lại chỉ mãi mê nghĩ đến chuyện khấn vái và cúng tế để thu nhặt cam chuối và tiền bạc thay vì chuyên tâm tự giác giác tha. Sự thiếu nhất quán và óc thực dụng này đã bóp méo và làm biến chất không biết bao nhiêu giáo huấn tôn giáo cao siêu! (x. Nguyễn Thái Hợp, Chút này làm tin, Dấn Thân, Houston, 2003, tr. 203.)
Câu chuyện trên đây gợi lên hình ảnh hai môn đệ của Đức Giêsu qua trang Tin mừng Chúa Nhật hôm nay. Gioan và Giacôbê đã nổi giận đùng đùng đòi sai lửa từ trời xuống thiêu rụi cả làng Samaria chỉ vì dân làng không tiếp đón Thầy của mình.
Thầy trò Đức Giêsu lên Giêrusalem ngang qua Samaria. Dân Samaria lại thù ghét người Do Thái. Mối hận thù đã có từ lâu đời, hai dân tộc luôn đối nghịch nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc thảm sát dã man đẫm máu. Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Giócđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu trở về thủ đô. Ngài muốn đi qua xứ Samaria. Ngài đã sai sứ giả Gioan và Giacôbê đi trước để chuẩn bị với hy vọng dân làng sẽ đón tiếp Thầy trò. Thế nhưng, hai môn đệ trở về, lòng đầy căm tức thốt lên lời giận dữ:Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống thiêu hủy chúng nó không? Phải áp dụng cho họ một hình phạt nặng nề nhất mà tiên tri Êlia ngày xưa đã dùng đến, đó là sai lửa trời xuống thiêu hủy họ (2 V 1,10-12). Chúa đã nặng lời khiển trách, rồi Thầy trò sang làng khác. Không kết án những người Samaria, Chúa Giêsu đi tới một làng khác, thực hiện đúng như lời đã dạy: nếu người ta từ chối không tiếp đón và nghe lời các con, thì các con hãy ra khỏi nhà của họ, rồi phủi bụi dưới chân các con. Hai môn đệ “con cái của thiên lôi” quá đổi ngỡ ngàng về thái độ của Thầy trước sự “vô lễ” của dân Samaria. Họ càng kinh ngạc hơn khi Chúa tuyên bố: anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào,vì Con Người đến không phải để hủy diệt, nhưng đến để cứu sống.
Trong não trạng của các môn đệ cũng như nỗi khát khao hàng thế kỷ của dân Do thái là mong đợi một Đấng Messia giải phóng dân tộc, phục hồi sức mạnh trần thế của Israel. Chúa Giêsu thận trọng để không bao giờ đồng hoá với hình ảnh một Đấng Thiên sai đã bị “chính trị hoá”. Chúa khai mở một con đường cứu độ bằng yêu thương, khổ đau, hy sinh, nhẫn nhục…
Sự kiện Chúa chống lại cám dỗ Satan trong sa mạc là khởi đầu một cuộc đấu tranh cam go và kiên trì kéo dài trong suốt hành trình dương thế. Chúa đã qưở trách Phêrô khi ông đóng vai trò Satan dụng tâm cám dỗ Ngài bỏ con đường cứu độ theo chương trình của Thiên Chúa: “Satan, xéo đi! vì tâm tư ý nghĩ của ngươi không phải là của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 8,32). Chúa đã bỏ trốn lên núi một mình khi dân chúng tôn Ngài lên làm vua sau phép lạ hoá bánh (Ga 6,5-15). Nhiều lần Chúa từ chối lời yêu cầu một dấu lạ nhãn tiền vì người ta muốn thử tài Ngài (Mt 12,38; Mc 8,11) hay để thoả mãn óc hiếu kỳ của người đời (Lc 23,8). Chúa chẳng bao giờ chấp nhận việc dùng phép lạ để hù doạ hay trừng phạt dân chúng. Ngay cả giây phút bi đát nhất bị quân binh vây bắt, một môn đệ vung kiếm chém đứt tai tên đầy tớ thượng tế, Chúa liền truyền lệnh:”Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy mười hai đạo binh thiên thần! Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được?” (Mt 26,52-54).
Đạo của Chúa là đạo tình thương, bao dung, nhân ái. Tin mừng cứu độ được gửi đến mọi người, đặc biệt là những người nghèo và tội lỗi. Hình ảnh người Mục tử tuyệt đẹp, bỏ lại 99 con chiên để vất vả ngược xuôi đi tìm con chiên lạc và khi tìm được thì vui mừng vác chiên lên vai, hân hoan mời mọi người chia sẻ niềm vui (Lc 15, 4-7). Con đường Chúa chọn là con đường yêu thương của vị Mục tử nhân lành, dám hy sinh cuộc đời và tính mạng cho đàn chiên (Ga 10,11). Nơi Ngài, sứ vụ Messia và thân phận đau thương của Người Tôi Tớ Giavê đã quyện lẫn với nhau, như Isaia đã diễn tả trong “Bài ca về Người Tôi Tớ” (Is 52,13-53,12). Ngài là người Tôi tớ trung tín của Giavê ”bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, Ngài bị đánh phạt”(Is 53,8); “Ngài cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng hề mở miệng”(Is 53,7) và tuyệt đối từ chối mọi hình thức sử dụng bạo lực.
Xuyên suốt dòng lịch sử, người Công Giáo Việt Nam sống Tin Mừng Chúa Giêsu bằng gương sáng bác ái đến nỗi đã giới thiệu được hình ảnh Đạo Công Giáo như “Đạo Yêu Nhau” cho những người đồng thời. Sống đạo là dựa vào sức mạnh của Thánh Thể và Lời Chúa, và thể hiện ra bên ngoài bằng những hành động bác ái yêu thương, khiêm nhường hy sinh. Sống đạo đúng mức cũng là chấp nhận lội ngược dòng. Sống đạo thẳng thắn cũng là chấp nhận phải thua thiệt so với những người khác. Sống đạo trọn vẹn cũng là một cách nào đó tử đạo hằng ngày.
Hình ảnh Đấng Thiên Sai đau khổ nơi Đức Giêsu diễn tả một cách thật hùng hồn điểm độc sáng của Kitô giáo: Thiên Chúa của Đức Giêsu không hù doạ hay ép buộc một ai. Ngài mời gọi con người sám hối, nhưng luôn tôn trọng phẩm giá và tự do chọn lựa của họ. Ngài tình nguyện đồng hành với anh em nhân loại trong cảnh ngộ của cuộc sống trần thế, kể cả thất bại, khổ đau và cái chết (x.sđd tr 217).
Chúa Giêsu không muốn sử dụng phép lạ quyền uy để thu phục nhân tâm. Ngài dùng tình thương để cảm hoá lòng người. Chúa Giêsu không xây dựng giáo thuyết trên quyền bính trần thế mà là ở sự từ bỏ và con đường thập giá. Chúa Giêsu đã chết để giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lỗi. Ngài đã phục sinh để đem lại cho nhân loại cuộc sống viên mãn, nâng con người lên địa vị cao quý làm con Thiên Chúa.
Bước theo Chúa Giêsu, người tín hữu tìm được lẽ sống, ý nghĩa và cùng đích cho cuộc đời mình. Đó là một cuộc sống tràn đầy yêu thương hướng đến trọn lành.
Giữa một xã hội đang chạy theo nền kinh tế thị trường, khuynh hướng cá nhân và hưởng thụ duy vật chất, chúng ta sống Đạo Yêu Nhau với lòng bao dung, nhân hậu, thắp sáng lửa Tin Mừng để trở nên ánh sáng, nên muối nên men cho cuộc đời.
(Suy niệm của Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 9:51-62 khởi đầu phần thứ hai của Tin Mừng Luca.
Trước đây, Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng tại Galilêa. Người đã tỏ mình ra như là Đấng Cứu Thế, Đấng Kitô (9:18-24), Con Thiên Chúa.
Bây giờ, Người làm cuộc hành trình lên Giêrusalem, để thực hiện cuộc thương khó do vai trò cứu thế của Người đòi hỏi.
Hành trình nầy bao gồm 10 chương (9:51-19:27).
Ở câu 19:27-28, Luca ghi nhận là Chúa Giêsu đã đến Bêthphagê và Bêthania, cạnh núi Cây Dầu. Từ đó Nguời sai hai trong số các môn đệ đi đem về cho Người con lừa con, để Người vào thành Giêsuralem và thi hành sứ vụ cuối cùng của Người trong thành nầy (19:28-31:38).
Hành trình lên Giêrusalem có thể chia làm ba giai đoạn, dựa trên ghi nhận “Người lên Giêrusalem” (9:51-13:21; 13:22-17:10; 17:11-19:27).
Trong phần đầu của giai đoạn một, Luca nói đến việc tuyển chọn và sai đi các môn đệ (9:51-10:24).
Đoạn 9:51-62 gồm hai đoạn kế tiếp nhau: – Câu chuyện khi đi ngang qua làng Samaritanô (9:51-56); – Những đòi hỏi nơi người theo Chúa (9:57-62).
Chúa Giêsu đã ở Galilêa để chữa bệnh và giảng dạy (x. 9:10b). Giai đoạn nầy đã hoàn tất. Sứ vụ của Người chuyển sang hướng khác là lên Giêrusalem (9:51-56).
Để đánh dấu việc khởi đầu nầy, Luca dùng cách nói trọng thể: “khi đã đến ngày” (x. Cv 2:1), “hướng mặt đi lên Giêrusalem”. Động từ “đi lên” và “mặt Người” (cc. 51-53) được dùng kết hợp với nhau cho thấy hành vi có tính cách quyết liệt và nhắm đạt đến đích. Anal#mpsis “đưa lên” vừa có nghĩa là “lên trời”, vừa là “ra đi”. Trong Kinh Thánh chữ nầy chỉ xuất hiện duy nhất ở đây. “Ngày của Chúa được đưa lên” có nghĩa không chỉ là ngày Người sẽ chịu chết trên thánh giá, mà còn là ngày Người được chỗi dậy và lên trời. Tất cả những sự việc nầy sẽ xảy ra cách liên kết với nhau.
Để đi lên Giêrusalem, họ phải đi ngang qua Samaria (9:51; x. Mt 19:1-2; Mc 10:1).
Chỉ Luca ghi lại sự kiện xảy ra tại một làng nào đó ở Samaria: sự không hiếu khách và phản ứng của hai môn đệ Gioan và Giacôbê.
Có nhiều lý do để đặt chú tâm vào hai môn đệ hơn là sự không hiếu khách: 1- câu chuyện nầy nằm trong văn mạch liên quan đến việc tuyển chọn và sai các môn đệ đi. Ngay sau đoạn nầy là những đòi hỏi dứt khoát nơi người môn đệ.
Câu chuyện một người nào đó nhân danh Chúa Giêsu của họ mà trừ quỷ (x. 9:49-50) và câu chuyện nầy muốn nêu lên phần nào cá tính và khuyết điểm của họ, cũng như những người sẽ đến đi theo Chúa (x. 9:57-62). 2- Chúa Giêsu sẽ dùng những cơ hội nầy mà chỉ dạy và đòi hỏi họ thay đổi. 3- “Samaria” xuất hiện 2 lần trong tin mừng Luca với cái nhìn tích cực: hình ảnh người Samaritanô nhận hậu (10:33), người phong cùi biết ơn (17:16). Do đó, có thể nói Luca dùng sự kiện nầy như là khung cảnh mở đầu cho hành trình, và cũng là cơ hội cho việc bộc lộ cá tính của các môn đệ của Người. Người Samaria không hiếu khách vì họ biết mục đích hành trình của Chúa Giêsu (9:52).
Liên kết với đoạn trước, đoạn nầy cũng nằm trong bối cảnh Chúa Giêsu “trên đường đi” lên Giêrusalem (c.57a).
“Trên đường đi” diễn tả cách tượng hình sự vận chuyển không ngừng tiến về phía trước. Hình ảnh nấy gắn liền với chủ đề “đi theo” của cả đoạn nầy (cc. 57.59.61). Đoạn nầy gồm ba cuộc gặp gỡ và đối thoại (9:57-62); trong khi Matthêô chỉ ghi lại hai (x. Mt 8:18-21).
Chương 9 nầy nói nhiều lần nhất đến việc “đi theo” Chúa: dân chúng (9:11), những ai muốn (9:23), người không theo Chúa mà trừ quỷ (9:49), và ba người trong đoạn nầy (9:57.59.61). Hầu hết việc “đi theo” Chúa đều đặt ra những điều kiện và đòi hỏi. Đòi hỏi “vác thánh giá” (9:23) là đòi hỏi tổng quát và căn bản nhất. Ba đòi hỏi tiếp theo là cụ thể tùy theo từng cá nhân.
Trong cuộc đối thoại với người thứ nhất (9:57-58), Chúa Giêsu nói rõ là Người không có một chỗ ở nào cả. Hình ảnh cái hang của con cáo và tổ ấm của con chim, và nơi tựa đầu, chỉ một nơi cư ngụ. Nơi cư ngụ là đòi hỏi căn bản nhất không chỉ của con người, mà cả muôn loài trên mặt đất. Ai cũng lo lắng cho chuyện nầy trước tiên. Có được nó, chính là sự an toàn (x. 16:9). Cụm từ “Người Con của Nhân Loại” trong bối cảnh “đi lên Giêrusalem” ám chỉ đến cuộc thương khó. Người “không có nơi tựa đầu”, vì phải đi cho đến khi hoàn tất sứ mạng. Như thế, đi theo Người “trên đường” là tiến về phía trước vì sự cấp bách của sứ mạng, và bỏ lui đằng sau mọi sự an toàn. Chúa Giêsu sẽ chỉ dạy cho các môn đệ thái độ không dính bén khi vào nhà nào đó khi họ được sai đi: ở lại, ăn uống hay ra đi khỏi nhà đó (x. 10:1-12). Sứ mạng là quan trọng, chứ không phải nơi cư ngụ. Chúa Giêsu là nơi cư ngụ và sự an toàn của người môn đệ.
Cuộc đối thoại thứ hai gồm một lời mời gọi (c. 59a), một lời yêu cầu bị từ chối (cc. 59b-60a), và một lời sai đi (9:60b). So với Matthêô, Luca thêm câu “ra đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (c. 60b), tạo nên sự song song với lời yêu cầu “ra đi chôn cất cha tôi”. Luca dùng đại danh xưng “tôi”(c. 59) và “anh” (c. 60) để nhấn mạnh là cả hai lời yêu cầu của người nầy lẫn lời sai đi của Chúa Giêsu đều quan trọng, mạnh mẽ và cấp bách; và người nầy phải chọn lựa. Chữ “trước” không chỉ có nghĩa về thời gian, mà còn có nghĩa “ưu tiên”, “trước mọi sự”, nhất là khi chữ nầy được dùng với “Nước Thiên Chúa” (x. Mt 6:33). Như thế, có thể hiểu là người nầy đặt tương quan gia đình ưu tiên hơn lời mời gọi của Chúa, “Hãy theo tôi” (c. 59).
Cần khẳng định là lời từ chối của Chúa Giêsu không nghịch với lề luật dạy thảo kính cha mẻ, nhất là đối với người chết (x. Tobia 1:17; 4:3; 6:15; Sirach 7:33; 22:11-12; 38:16-23).
Không thể hiểu câu Chúa nói theo nghĩa đen, vì người chết không thể đi chôn kẻ khác. Khi nói với các môn đệ về sự chọn lựa tương quan giữa Chúa Giêsu và gia đình, Chúa Giêsu thường dùng cách nói phóng đại “Ai đến cùng Tôi mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả sự sống đời nầy, không thể là môn đệ của Tôi” (14:26). Điều nầy chỉ có nghĩa là phải yêu mến Người hơn tất cả (x. Ez 24:15-24).
Cũng phải được hiểu tương tự như thế trong trường hợp nầy. Ra đi rao giảng Nước Thiên Chúa (x. 8:1; 9:2.11; 10:9) thì ưu tiên hơn ra đi chôn cất người chết, dù đó là cha mình.
Kết cấu của cuộc đối thoại thứ ba tương tự như cuộc đối thoại trước (9:60-61). Ở đây Luca đề cập đến tương quan gia đình rộng hơn, không chỉ là với “nơi cư ngụ” (c. 58), “cha” (c. 59), mà “những người trong nhà” (c. 61).
Apotassomai có nghĩa là “giã từ”, và “bỏ đi”. Như người trước, người nầy đặt những tương quan nầy “trước” tương quan với “Nước Thiên Chúa”. Hậu cảnh của câu trả lời của Chúa Giêsu là câu chuyện Êlisêô đang cày với 12 đôi bò (1V 19:20).
Ý nghĩa chính của lời khôn ngoan nầy: “Đã tra tay vào cày” là đã khởi đầu việc cày. “Nhìn lại đàng sau” theo nghĩa đen là nhìn những luống đất đã cày. Động từ “nhìn” ở thể phân từ hiện tại chỉ hành động đang diễn ra. Vì “đang nhìn” đàng sau, thì không thể tiến lên phía trước và cày ngay hàng thẳng lối. Do đó, chính việc “đang nhìn lui đàng sau” nầy cản trở cho mục đích của việc đi theo Chúa là loan báo Nước Trời.
Euthetos, có nghĩa là “hữu dụng”, “thích hợp” như hình ảnh hạt muối (x. 14:35). Vậy, người không đặt ưu tiên cho việc đi theo Chúa thì không thích hợp cho việc rao giảng Nước Trời.
Tâm điểm của đoạn nầy là đặt ưu tiên tương quan của người môn đệ với Chúa Giêsu trên mọi sự.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Cho tới nay Đức Giêsu chỉ thực sự thực thi tác vụ của Người ở Galilê. Bắt đầu từ đây, trong suốt mười chương (9,50- 19,20), chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu lên Giêrusalem. Lên Giêrusalem là một khúc ngoặt, là một quyết định tối quan trọng đối với Người. Bởi thời gian mà Chúa Cha ban cho Người, để thực hiện công trình tại thế sắp kết thúc và việc Đức Giêsu ra đi đã gần kề. Đức Giêsu lên Giêrusalem để kiện toàn sứ vụ. Như Êlia, ông chỉ được rước về trời sau khi đã hoàn tất sứ vụ (2V 2,9-11). Đức Giêsu cũng chỉ được siêu thăng hay được rước về trời sau khi đã chịu đau khổ và phải chết. Ý thức rõ điều đó, nên khi đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã phải can đảm, phải nhất quyết. Đúng hơn Ngài phải rắn khuôn mặt lại, làm cho khuôn mặt chai cứng, để vượt qua nỗi sợ hãi. Giống như người tôi tớ Giavê, Isaia loan báo trong bài ca thứ ba (Is 50,7).
Lên Giêrusalem, Đức Giêsu không chỉ đi một mình. Cùng đi có Nhóm Mười Hai, bảy mươi hai môn đệ, các cảm tình viên, các bà đạo đức… Bởi thế, Đức Giêsu sai mấy sứ giả đi trước, họ có phận sự tìm lương thực, sắp xếp chỗ ở. Trong số những người được sai đi, có Giacôbê và Gioan. Họ lên đường vào một làng người Samaria, chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem.
Giữa người Dothái và người Samaria, có những xung khắc trên bình diện quốc gia và trên bình diện tôn giáo. Người Samaria là miêu duệ của các bộ lạc Đông Á, đến định cư vùng này vào thời vương quốc phương Bắc của người Dothái, bị người Assyri chiếm đóng năm bảy trăm hai hai trước công nguyên, cũng là miêu duệ của những người thổ dân bản xứ. Họ đã theo Dothái giáo thờ Đức Giavê, nhưng đã xây đền thờ riêng trên núi Garizim. Họ khác với dân Dothái về nhiều điểm trên bình diện tôn giáo. Chẳng hạn, ngoài Đức Giavê họ còn thờ các thần riêng, có bộ lạc còn giết con trai, để tế thần riêng của mình. Người Dothái khinh dể người Samaria, cho họ như một dân nửa lương nửa giáo, tránh tiếp xúc với họ (Ga 4,9). Nhiều lần vì thù ghét, giữa hai dân tộc đã có những cuộc tấn công lẫn nhau, có lần người Samaria đã quẳng xương các loài vật vào đền thờ Giêrusalem, để đền thờ bị ô uế. Nay họ nghe biết Đức Giêsu lên Giêrusalem để dự lễ, họ đã chống đối và từ chối đón tiếp Người. Nếu Đức Giêsu không lên Giêrusalem, chỉ đến với họ, họ đâu có từ chối. Họ đã chẳng mời Ngài ở lại hai ngày, khi Ngài gặp một phụ nữ của họ ở giếng Giacob đó sao?
Trước sự từ chối đó, Giacôbê và Gioan, biệt danh là con của sấm sét, đã nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Êlia đã hai lần xin lửa từ trời xuống, thiêu hủy hai sỹ quan và năm mươi binh lính của vua Akhátgia, đến gặp nhà tiên tri đang ngồi trên núi đòi ông xuống để hỏi xem vua có khỏi bệnh hay không? (2V 1,10). Giờ đây, Giacôbê và Gioan cũng muốn xin Đức Giêsu cho các ông thực hiện điều đó, để thiêu huỷ dân làng Samaria, mà các ông cho là “hỗn láo” dám khước từ đón tiếp Đấng Messia của Thiên Chúa. Giacôbê và Gioan tưởng, làm như thế là đẹp ý Thiên Chúa và được Đức Giêsu tán đồng. Các ông lầm, Thiên Chúa đâu hẹp hòi như các ông nghĩ. Ngài là Thiên Chúa toàn năng nhưng không thích trừng phạt ai cho dù họ xúc phạm đến Ngài. Ngài là người cha nhân từ, một người mẹ hiền dịu, sẵn sàng chờ đợi tội nhân hối cải. Thiên Chúa không trừng phạt, Người luôn tha thứ. Đức Giêsu không đến để lên án, nhưng để cứu độ (Lc 19,10). Bởi thế, Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
ĐỨC KITÔ MẪU GƯƠNG VÀ TIÊU CHUẨN SỐNG
Trên đường lên Yêrusalem, Đức Yêsu linh cảm những gì đang chờ đợi Ngài. Những gì xảy đến cho Đức Yêsu và các môn đồ của Ngài trong thời điểm này, soi sáng những tình huống và cách cư xử của mỗi người chúng ta.
Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã
Ngày xưa khi Chúa truyền cho Êlia gọi Êlisa tiếp tục sứ mạng Chúa trao cho ông, ông đã vứt áo choàng trên người Êlisa. Êlisa đã cắm cày, và xin Êlia được phép về hôn cha mẹ để từ giã, trước khi đi theo Êlia; và Êlia đã cho phép.
Với người “tôi xin theo Thầy nhưng xin được phép về từ biệt gia đình trước”, Đức Yêsu trả lời: “ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Dường như Đức Yêsu đòi hỏi hơn Êlia với những người đi theo các Ngài? Với cái nhìn của Đức Yêsu, những người do dự, dùng dằng không dứt khoát, nuối tiếc quá khứ, không thích hợp với Nước Thiên Chúa.
Những người được mời gọi đi theo Chúa ngày nay, cũng phải xét lại thái độ của mình đối với Đức Yêsu, xem mình có dứt khoát theo Chúa không? Nếu thái độ của mình không dứt khoát, còn ngoái lại đằng sau, còn quá quyến luyến gia đình, e rằng khó có thể theo Chúa. Xin Chúa cho những người theo Ngài, được ơn chọn Ngài là tất cả để theo Ngài.
Con người không có chỗ tựa đầu
Nếu ai muốn đi theo Đức Yêsu để có một nơi ở yên ổn, để được bảo đảm về vật chất, thì người đó sẽ thất vọng, vì Ngài chẳng có gì: “chồn cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Đức Yêsu nghèo, nhưng Ngài có Thiên Chúa là tất cả. Gia tài của Đức Yêsu, là Thiên Chúa. Lương thực của Đức Yêsu, là làm theo ý Thiên Chúa.
Số phận của Đức Yêsu, tuỳ thuộc thái độ sống của Ngài. Nếu Ngài “khôn ngoan” theo kiểu người đời, chắc không đến nỗi phải chết “ô nhục” trên thập giá. Đức Yêsu đã sống theo lẽ phải, sự thật bất chấp tất cả. Và Đức Yêsu đã sống thật với chính Ngài và Thiên Chúa, đến độ Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết. Số phận của Đức Yêsu vắn vỏi.
Theo tiêu chuẩn người đời, Đức Yêsu không “khôn”, không đạt được những gì con người ngày nay đòi hỏi. Nếu có ai muốn theo Đức Yêsu, muốn “đồng hình đồng dạng” với Ngài, người đó phải tự hỏi xem họ có sẵn sàng nên giống Đức Yêsu trong cách hành xử trong chọn lựa, trong tư tưởng, lời nói, hành động không?’
Đức Kitô giải phóng chúng ta
“Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải phóng chúng ta”. Người đời ham tiền bạc, danh vọng, chức quyền…, Đức Yêsu tự do với tất cả những điều đó, và Ngài trở thành mẫu gương để những ai muốn theo Ngài, cũng được tự do với tất cả.
Nhìn những người nghiện rượu, nghiện xì-ke, mới hiểu thế nào là “nô lệ” khi cơn nghiện hoành hành. Tiền bạc, danh vọng, trai gái, xì-ke ma tuý, có sức hấp dẫn và trói buộc của nó, mà một khi đã vướng vào không dễ gì thoát ra được. Có bao người quyết định bỏ thuốc, bỏ rượu nhưng không dễ để bỏ; những điều này giúp để hiểu những người nghiện ma tuý hơn, vì chuyện nghiện hút thuốc hay nghiện rượu là những “chuyện nhỏ” so với nghiện ma tuý. Tội lỗi cũng có những trói buộc của nó và con người không dễ gì thoát ra được. Tội lỗi trói buộc con người, không để con người được tự do sống theo điều lý trí nhận thấy là đúng. Tội lỗi làm suy nhược ý chí của con người, trói buộc con người vào con đường ác. Ai có thể làm cho người nghiện ma tuý thoát khỏi cảnh nghiện đó? Những người thân rất muốn, nhưng không làm được. Phải chính đương sự muốn, mới có thể làm được (cũng có những người muốn, nhưng họ không thể vượt được khi cơn nghiện đến).
Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương và tha tội cho con người; Ngài cũng là đường giúp con người thoát khỏi ách nô lệ của tội. Qua chính con người và cách sống của Ngài, Ngài dạy cho con người biết đâu là giá trị đích thực: giá trị của cuộc sống nghèo, giá trị của một cuộc đời bình dị. Cuộc sống và cái chết và sống lại của Đức Yêsu, có sức giải phóng con người khỏi tội và ách nô lệ của tội.
Đức Yêsu luôn sống theo Thần Khí, Ngài sẵn sàng để Thần Khí hướng dẫn Ngài trong mọi sự. Ngài ban Thần Khí cho con người, và chính Ngài luôn hiện diện với con người cho đến ngày Ngài lại đến trong vinh quang. Để có sự tự do từng ngày, con người cũng phải sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí như Đức Yêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Chủ đề: “Bí quyết để không nhìn lại là hướng về Đức Giêsu”
Vào năm 1924, ông Eric Liddell là lực sĩ chạy bộ 100 thước nhanh nhất nước Anh. Ai ai cũng tin rằng ông sẽ giựt huy chương vàng Thế Vận Hội ở Balê vào năm đó. Nhưng đột nhiên có vấn đề làm xôn xao dư luận.
Khi chương trình Thế Vận Hội được quảng bá, cuộc chạy đua 100 thước lại xảy ra vào ngày Chúa Nhật. Với ông Eric, giới răn “giữ ngày Chúa Nhật thánh thiện” có nghĩa ông không được chạy đua vào ngày Chúa Nhật. Ông thật buồn.
Khi tin đồn khắp nơi là ông Eric sẽ không dự cuộc đua 100 thước, bao nhiêu áp lực đổ lên ông. Ngay cả Hoàng Tử xứ Wales cũng cố can thiệp vào lương tâm của ông. Khi ông quyết định từ chối tham dự cuộc đua, báo chí Anh quốc gọi ông là kẻ phản quốc. Nhưng ông Eric vẫn từ chối không muốn đi ngược với điều ông tin tưởng.
Ông gặp các huấn luyện viên và đề nghị một toán lực sĩ sẽ thay ông chạy đua 100 thước. Còn ông sẽ tham dự cuộc đua 400 thước, dù rằng chưa bao giờ trong đời ông tham dự loại này.
Để rút ngắn câu chuyện, không những ông Eric đã đoạt huy chương vàng cuộc đua 400 thước mà toàn đội của ông cũng đoạt huy chương vàng cuộc đua 100 thước. Thay vì chỉ được một huy chương vàng, các lực sĩ chạy đua của nước Anh đã đoạt được hai huy chương vàng.
Một vài năm sau Thế Vận Hội, ông Erich làm thế giới ngạc nhiên khi ông tình nguyện sang Trung Quốc truyền giáo. Sau đó, người yêu của ông cùng tham gia với ông. Họ kết hôn và có được ba người con xinh đẹp.
Sau đó Thế Chiến II xảy ra, khi nước Nhật tham dự cuộc chiến, ông Eric đưa gia đình sang Gia Nã Đại. Sau đó không lâu, Nhật xâm lăng Trung Quốc. Ông Eric bị bắt và bị đưa vào trại tập trung của Nhật. Ở đây ông tiếp tục sứ vụ, làm việc với các tù binh khác.
Một vài năm sau, ông từ trần một cách anh hùng trong trại tù.
Sau cái chết của ông, vợ ông nhận được rất nhiều lá thư nói về cử chỉ anh hùng của ông Eric khi ở trong trại. Trong các thư khác, có hai người viết là nhờ ông Eric mà họ đã không tự tử.
Vào năm 1980 có người muốn thực hiện cuốn phim về ông Eric và Thế Vận Hội 1924. Khi vợ ông nghe được, lúc ấy bà đang sống ở Toronto, bà nói, “Có ai để ý đến một biến cố xảy ra đã quá lâu về một người không muốn chạy đua vào ngày Chúa Nhật chỉ vì đức tin Kitô Giáo?”
Kết quả không ngờ là cả hàng triệu người muốn lưu ý. Cuốn phim, được gọi là Chariots of Fire, không chỉ phá kỷ lục số vé bán mà còn chiếm Giải Academy năm 1982.
Câu chuyện của ông Eric Liddell cho thấy khía cạnh tích cực của lời Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay. Chúa Giêsu nói:
“Ai bắt đầu cầy cấy mà còn nhìn lại thì không phục vụ cho Nước Trời.”
Ông Eric Liddel không bao giờ nhìn lại. Một khi ông đã quyết định theo Chúa Giêsu, ông luôn nhìn tới trước. Ông không bao giờ nhìn lại, ngay cả khi phải đương đầu với áp lực của quần chúng. Ông không bao giờ nhìn lại ngay cả khi bị gọi là kẻ phản quốc.
Bí quyết nào giúp ông Eric can đảm không bao giờ nhìn lại?
Bí quyết nào giúp ông trung thành với Chúa Giêsu, ngay cả khi phải đương đầu với sự chống đối trùm lấp?
Bí quyết này nằm trong sự nhận xét của bà quả phụ Eric khi được tờ Toronto Star phỏng vấn. Nói về ông Erich, bà cho biết, “Ông ta luôn luôn dùng giờ phút đầu tiên, thật sớm của một ngày để đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và hoạch định chương trình trong ngày.”
Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự can đảm của ông Eric. Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự trung thành của ông đối với Chúa Giêsu. Ông Erich Liddell là một người siêng cầu nguyện. Ông đã có thể luôn cầm lấy cái cầy và không nhìn lại đằng sau vì mỗi sáng ông đều gặp Chúa Giêsu trong sự cầu nguyện.
Vào năm 1982, cùng năm cuốn phim Chariots of Fire được Giải Academy, có một bài báo đăng trong tờ Reader’s Digest. Bài này nói về một giám đốc quảng cáo người Công Giáo, dù rất thành công, bà vẫn cảm thấy cuộc đời trống rỗng.
Một sáng kia, trong cuộc họp với ông cố vấn về tiếp thị, bà đề cập đến sự trống rỗng này.
Ông cố vấn hỏi, “Bà có muốn lấp đầy nó không?” “Dĩ nhiên là có,” bà trả lời. Ông nhìn thẳng vào mắt bà và nói, “Hãy bắt đầu mỗi ngày với một giờ cầu nguyện.”
Bà nhìn ông và nói, “Này ông Don, ông không đùa đấy chứ. Nếu tôi làm như vậy thì còn thời giờ đâu để nghỉ ngơi.” Ông mỉm cười và nói, “Đó cũng là điều mà tôi đã nói cách đây 20 năm.” Sau đó ông nói thêm vài điều khiến bà phải suy nghĩ. Ông nói, “Bà chỉ muốn Thiên Chúa phải phù hợp với chương trình của bà. Thật ra, bà phải thay đổi cuộc đời bà theo chương trình của Thiên Chúa.”
Bà rời cuộc họp trong sự bối rối. Mỗi sáng bắt đầu bằng sự cầu nguyện sao? Mỗi sáng bắt đầu bằng một giờ đồng hồ cầu nguyện sao? Tuyệt đối không thắc mắc!
Dù vậy, vào sáng hôm sau bà đã thi hành đúng như vậy. Và kể từ đó trở đi bà luôn luôn cầu nguyện vào sáng sớm.
Bà thú nhận là lúc đầu điều đó không dễ. Có những sáng bà cảm thấy bình an và vui sướng. Nhưng cũng có những sáng bà chẳng thấy gì ngoài sự buồn chán. Và chính những sáng mệt mỏi này bà nhớ lại những điều mà ông cố vấn tiếp thị đã nói: “Có những lần khi tâm trí bà không muốn đi vào cung thánh của Thiên Chúa. Đó là khi bà phí một giờ đồng hồ trong phòng chờ đợi Thiên Chúa. Tuy nhiên, bà vẫn cố ở đó, và Thiên Chúa quý trọng sự cố gắng của bà. Điều quan trọng là lời hứa.”
Câu chuyện của ông Eric Liddell và bà giám đốc quảng cáo đã thách đố chúng ta. Chúng ta không thể chỉ nghe qua những câu chuyện này và không cảm thấy một tiếng nói bên trong mời gọi chúng ta thi hành điều gì đó tương tự trong đời sống chúng ta.
Nếu chúng ta có khó khăn khi phải để ý đến Chúa Giêsu, nếu chúng ta có khó khăn nắm chặt cái cầy và đừng nhìn lại đằng sau, nếu chúng ta cảm thấy cuộc đời trống rỗng, có lẽ chúng ta phải nghĩ đến lời hứa hằng ngày với Chúa Giêsu.
Lời hứa đó phải là gì? Không ai có thể trả lời câu hỏi đó cho chúng ta. Chúng ta phải tự trả lời. Nhưng chúng ta phải thi hành điều gì đó. Như ông cố vấn tiếp thị đã nói, “Điều quan trọng là lời hứa.”
Hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin dạy con biết quảng đại.
Xin dạy con biết phục vụ Chúa cách xứng đáng;
biết cho đi mà không quan tâm đến giá cả;
biết tranh đấu mà không để ý đến thương tích;
biết cần cù mà không tìm sự an nhàn;
biết lao nhọc và không tìm phần thưởng,
ngoại trừ được biết là con đang thi hành thánh ý Chúa.“
Chúa Giêsu biết rằng thời gian mình bị cất khỏi thế gian này đã gần đến, đó chính là thời gian Ngài chịu đau khổ để thực hiện công cuộc cứu độ…
Chính vì thế mà Ngài đã đi lên Giêrusalem, để thực hiện cuộc hành trình này, Ngài đã sai các môn đệ, là những sứ giả của Ngài đi trước, để chuẩn bị nơi ăn chốn ở tại những nơi mà Ngài sẽ đi ngang qua. Cuộc hành trình sẽ phải đi ngang qua xứ Samaria. Người Do Thái thì khinh bỉ dân Samaria vì coi họ chỉ là những kẻ lai căng, bỏ mất truyền thống của cha ông, chạy theo những thứ tôn giáo nhảm nhí khi tiếp xúc với dân ngoại.
Còn những người Samaria lại nhìn dân Do Thái với một cặp mắt thù hận, nhất là những người hành hương về Giêrusalem. Bởi vì đối với họ phải thờ kính Thiên Chúa tại Sichem, chứ không phải tại Giêrusalem.
Chính vì mối thù nghịch sâu xa và lâu đời này mà họ đã tỏ ra thờ ơ lãnh đạm cũng như đã không tiếp đón các môn đệ và cả chính Chúa Giêsu. Thái độ này đã làm cho Gioan và Giacôbê tức tối, đến nỗi muốn sai cả lửa trời xuống thiêu rụi họ. Phải chăng sự hiền lành của Phúc âm đã không đem lại kết quả mong muốn? Thế nhưng Chúa Giêsu đã trách cứ các ông thiếu tinh thần bác ái.
Bài học Chúa muốn nhắn gửi các ông cũng như nhắn gửi mỗi người chúng ta, đó làđừng vội nóng giận, nhưng hãy cư xử một cách nhân từ, kiên nhẫn và yêu thương, bởi vì giận quá mất khôn, hãy lấy tình thương mà xóa bỏ hận thù, nếu như chúng ta muốn cảm hóa và dẫn đưa họ về cùng Chúa, bởi vì mật ngọt thì chết ruồi, chúng ta có thể giết được nhiều ruồi bằng một giọt mật hơn là bằng cả một thùng dấm chua.
Tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đối thoại với ba người.
Với người thứ nhất, Chúa Giêsu cho biết theo Ngài thì phải long đong vất vả, bởi vì Ngài không có nhà cửa, không có cơ sở và không có một chốn để gối đầu, để ngả lưng. Như thế Chúa muốn nói, để trở thành môn đệ của Ngài, thì phải từ bỏ bản thân, từ bỏ tiền bạc vật chất, nghĩa là phải từ bỏ mọi sự.
Với người thứ hai muốn theo Chúa nhưng lại muốn về từ giã những người thân yêu, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời: Phải dứt khoát lập trường, phải ra đi ngay lập tức, không chần chừ, không lưỡng lự. Bởi vì ai đã tra tay vào cày mà còn quay lại đằng sau thì không xứng đáng với nước trời.
Sau cùng đối với người thứ ba, Chúa Giêsu lên tiếng gọi: Hãy theo Ta. Thế nhưng trước lời yêu cầu rất tự nhiên và rất chính đáng của anh đó là lo chôn cất cho người cha mới qua đời, Chúa Giêsu đã trả lời: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn ngươi hãy đi rao giảng nước Thiên Chúa.
Như thế, qua những câu trả lời của Chúa Giêsu chúng ta thấy như có vẻ cứng cỏi, nghiêm khắc và đi ngược lại với những thói quen của chúng ta. Thế nhưng đó lại là sự thật, đó lại là sự đòi hỏi của Chúa.
Đứng trước lời mời gọi của Ngài, chúng ta phải mau mắn đáp trả không chần chừ, không so đo tính toán. Phục vụ Chúa, đó phải là nỗi ưu tư số một, còn ngoài ra, tất cả chỉ là phụ thuộc, chỉ là thứ yếu mà thôi.
Kỳ kèo là động thái mặc cả, trả giá hoặc ngã giá. Kỳ kèo cũng là so đo, suy hơn tính thiệt. Kỳ kèo đôi khi còn được người ta “biến thể” thành kèo nèo. Thực ra kèo nèo là một loại thực vật ăn được, nhưng nhiều người “đồng hóa” kèo nèo với động từ kỳ kèo, rồi còn biến thành cù nèo. Đúng là “phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”!
Người ta có thể kỳ kèo trong mọi lĩnh vực, không chỉ trong lĩnh vực “mua bán” mà ngay cả trong lĩnh vực tình cảm. Thậm chí là trong vấn đề tâm linh, đôi khi người ta cũng vẫn kỳ kèo với Chúa trong khi cầu nguyện. Thế mới lạ!
Về vấn đề theo Chúa, có lần Chúa Giêsu đã nói rạch ròi: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9:62). Rất thẳng thắn và dứt khoát.
Khi ngôn sứ Êlia phải trốn chui trốn nhủi trong một cái hang vì bị người ta tìm giết, Đức Chúa hiện ra nói với ông: “Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước qua sa mạc cho tới Đa-mát mà về” (1 V 19:15). Và Đức Chúa căn dặn: “Còn Giêhu, con của Nimsi, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ítraen. Êlisa con Saphát, người Avên Mơkhôla, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi” (1 V 19:16).
Kinh Thánh cho biết thêm rằng ông Êlia bỏ đó ra đi và gặp ông Êlisa là con ông Saphát đang cày ruộng; trước mặt ông Êlisa có mười hai cặp bò; chính ông thì đi theo cặp thứ mười hai. Ông Êlia đi ngang qua, ném tấm áo choàng của mình lên người ông Êlisa. Ông này liền để bò lại, nhưng chạy theo ông Êlia và nói: “Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông”. Ông Êlia trả lời: “Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu?” (1 V 19:21). Được gọi và sẵn sàng đi theo, nhưng ông Êlisa vẫn kỳ kèo một chút là về từ giã cha mẹ.
Chúng ta vẫn thường thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 16:1-2). Cách nói phủ định như vậy là để xác định mạnh mẽ hơn. Thế nhưng đôi khi chỉ hứng chí mà nói theo cảm tính, chứ thực ra thì có thể lại… “gãi đầu” và kỳ kèo điều gì đó. Con người là vậy, còn “đời” lắm! Chính hai con ông Dêbêđê cũng đã kỳ kèo cho mỗi người được kề cận bên Thầy Giêsu (x. Mt 20:20-23; Mc 10:35-40).
Chúa hiểu và luôn thông cảm cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải cố gắng hết sức để bớt dần “chất đời” trong những công việc đạo đức, phục vụ thật chứ không dùng sự phục vụ làm “chiêu bài” để đạt mục đích nào đó. Điều này thường thấy trong những người mệnh danh là Kitô hữu. Hãy cố gắng dùng cả tâm hồn và thể xác mà cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5).
Hãy luôn nhớ có Chúa trước mặt, được Ngài ở bên thì an tâm, chúng ta chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, “tâm hồn sẽ mừng rỡ và lòng dạ hân hoan, thân xác cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:9). Chắc chắn “Chúa chẳng đành bỏ mặc ai trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung phải hư nát trong phần mộ, chính Ngài sẽ dạy chúng ta biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-10-11)
Chúa biết chúng ta yếu đuối, tham quyền cố vị, “chất đời” vẫn nhiều hơn “chất đạo”, thế nên Ngài mới bảo chúng ta phải cố “hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48), nhờ đó mà có thể thoát “nhà tù trần tục”. Thánh Phaolô nói: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa” (Gl 5:1).
Chúng ta đã được Thiên Chúa kêu gọi để hưởng tự do. Thánh Phaolô căn dặn: “Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau.14 Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5:13-14). Và thánh nhân cảnh báo: “Nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!” (Gl 5:15). Cảnh “cắn xé” này vẫn thấy xảy ra trong các cộng đoàn, rất đa dạng: phe cánh, kiêu ngạo, ích kỷ, giả hình, khinh người, “nổ” và “chảnh”…
Thời nào cũng có cảnh “cắn xé” đó, nhưng ngày nay người ta “cắn xé” nhau tinh vi hơn nhiều! Thánh Phaolô khuyên: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa” (Gl 5:16-18).
Chắc chắn không dễ chút nào, nghĩa là khó lắm. Nhưng lại rất lô-gích: Vì khó nên mới phải cố! Ca dao Việt Nam nói: “Thế gian lắm kẻ mơ màng, thấy người toét mắt tưởng vàng ăn ra”. Chí lý! Quả thật, đâu phải cứ đẹp là tiên, đâu phải ai tu cũng hiền, đâu phải tên cướp nào cũng ác, đâu phải tội nhân nào cũng xấu,… Cái gì dũng có cái ngoại trừ, như người ta thường nói: “Đừng vơ đũa cả nắm”.
Chính Chúa Giêsu đã xác định Ngài là người-không-có-chỗ-tựa-đầu. Thật te tua, không ai có thể nghèo hơn Ngài, vì người ăn mày hoặc kẻ lang thang cũng có cục gạch làm gối đầu. Có những người mệnh danh là môn đệ của Chúa Giêsu mà chẳng thấy giống Thầy chi cả: Sống ung dung, sang trọng, giàu có, đầy đủ tiện nghi,… thậm chí còn “đòi hỏi” phải thế này hoặc thế nọ, bắt người khác phải phục vụ mình. Đòi hỏi tức là kỳ kèo vậy!
Thánh sử Luca kể: Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến.53 Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9:54). Bất nhân quá! Kiêu ngạo quá! Chảnh quá! Thế nhưng Đức Giêsu liền quay lại quở mắng các ông, rồi Thầy trò đi sang làng khác. Chúa Giêsu chả kỳ kèo gì cả, họ không thích mình thì thôi. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Thế mà trong chúng ta cũng vẫn có những người đầy “thâm ý” giống như hai anh em nhà Dêbêđê kia!
Đang khi Thầy trò đi đường, có kẻ thưa với Đại Sư Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo” (Lc 9:57). Ngài thản nhiên trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9:58). Chu choa! Khổ rứa hỉ, răng mà theo nổi? Đức Giêsu nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!”. Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã” (Lc 9:59). Lại kỳ kèo! Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9:60). Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã” (Lc 9:61). Đức Giêsu thẳng thắn đưa ra nghiêm luật: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9:62).
Ba người có ba kiểu kỳ kèo khác nhau, Chúa Giêsu cũng có ba kiểu nói khác nhau. Chúng ta cũng chẳng hơn gì, chín người mười ý, vì chúng ta vẫn thường kỳ kèo với Chúa trong những lời cầu nguyện, thế nhưng chúng ta cứ tưởng vậy là hợp lý. Chúa khổ thật, vì hằng ngày phải nghe biết bao lời kỳ kèo của những người mà Ngài đã cứu thoát án tử!
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì chúng con đã kỳ kèo quá nhiều. Xin biến đổi chúng con để chúng con trở thành những môn đệ đích thực của Đức Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài, không hề so đo gì. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Sư Giêsu, Thiên Chúa cứu độ chúng con. Amen.
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Với 9,51, Tin Mừng Lc bắt đầu mộtphân đoạn quan trọng và là phần thứ ba của TM, đó là bài tường thuật chuyến đi lên Giêrusalem, Thành định mệnh (9,51–19,28). Khác với TM Mc, tác giả Lc nhiều lần nói rõ tên Giêrusalem ra trong chuyến đi này (9,53; 13,22.33-34; 17,11; 18,31; 19,11, luôn luôn là Ierousalêm, ngoại trừ 13,22, Hierosolyma). Ta nhận ra phân đoạn này được coi là trọng yếu qua việc tác giả nêu tên thành ra trong liên hệ với việc Đức Giêsu “được rước lên trời” (analêmpsis) và qua việc nhắc tới sự hoàn tất (“Thời gian đã mãn, đến buổi Người siêu thăng” – NTT). Nói cách khác, trong TM Lc, Đức Giêsu đi từ Galilê lên Giêrusalem không qua Pêrê (như Mc và Mt), nhưng Người chỉ nhắm thẳng tới Thành định mệnh bằng cách băng ngang miền đất tượng trưng cho sự đối nghịch, đó là Samari.
Cuộc hành trình lên Giêrusalem (9,51–19,28) có thể được chia ra làm bốn phần, ba phần đầu của riêng TM Lc, mỗi phần được đánh dấu bằng mộtlời nhắc đến mục tiêu Giêrusalem; phần cuối có chung với các TMNL khác, có câu kết nhắc lại mục tiêu:
(1) 9,51–13,21: bắt đầu bằng “Người cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem”;
(2) 13,22–17,10: bắt đầu bằng “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem”;
(3) 17,11–18,14: bắt đầu bằng “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem”;
(4)18,15–19,28: tương ứng với bài tường thuật về hành trình của các TMNL khác; kết thúc bằng “Nói những lời ấy xong, Đức Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem”.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị, mộtcâu mở với hai phân đoạn khá khác nhau:
1) Mở: Hành trình lên Giêrusalem (9,51);
2) Sự đón tiếp tại mộtlàng Samari (9,52-56);
3) Những đòi hỏi đặt ra cho ai muốn làm môn đệ (9,57-62).
3.- Vài điểm chú giải
– Khi đã tới ngày (51): dịch sát là “việc làm đầy các ngày”. Tác giả đã tạo ra công thức này để giúp hiểu là nay chương trình của Thiên Chúa bắt đầu chuyển sang mộtgiai đoạn mới trong tiến trình thực hiện.
– được rước lên (51): Analêmpsis có nghĩa là “hành vi cất đi; sự nâng lên”.
– Người nhất quyết (51): dịch sát “Người đanh/làm chai (stêrizein) mặt lại để đi lên…”. “Mặt” trong văn chương Do Thái chỉ cả con người. Ý nói là Đức Giêsu cương quyết đối đầu với định mệnh của Người, Người can đảm thắng vượt nỗi sợ hãi. Ta nghe ra được âm vang của Is 50,7. Nhưng cũng có thể câu này nhắm tới sứ mạng của ngôn sứ Êdêkien tại thành Giêrusalem (Ed 8–11).
– người Samari (52): dân cư Samari. Samari là kinh đô của vương quốc phía Bắc do vua Omri sáng lập vào khoảng năm 870 tCN. Sau này, tên gọi “người Samari” (Hl. Samaritês) trở thành mộttên gọi mang tính chủng tộc và tôn giáo để chỉ những người cư ngụ trong miền đất giữa Giuđê và Galilê, về phía tây sông Giođan. Sự đoạn tuyệt giữa người Samari và người Do Thái được giải thích khác nhau tùy mỗi bên. Thường người ta cho rằng có sự chia lìa đó là do có việc đế quốc Átsua đưa người Do Thái đi lưu đày sau khi chiếm được đất nước năm 722 tCN và đưa những người không phải là Do Thái vào làm thực dân ở trong miền đó (2 V 17,24). Có lẽ cũng do đó mà sau này những người ở lại quê nhà đã phá những người Do Thái hồi hương khi những người này xây lại thành và Đền Thờ Giêrusalem (x. Er 4,2-24; Nkm 2,19; 4,2-9). Dù thế nào, những người Samari chỉ chấp nhận Bộ Ngũ Thư là Kinh Thánh và đã xây mộtđền thờ trên núi Garidim (Tell er-Râs) vào thời Hy Lạp (đền này đã bị phá hủy dưới thời Gioan Hiếccanô, khoảng năm 128 tCN).
– vì Người đang đi về hướng Giêrusalem(53): dịch sát là “mặt Người đang hướng tới Giêrusalem”. Mục tiêu của cuộc hành trình của Đức Giêsu chính là lý do khiến người Samari từ chối đón tiếp Ngài.
– Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?(54): Mặc dù Lc dùng analôsai (aor. act. inf. analyô, “tháo gỡ; tiêu hủy”) thay vì kataphagein (aor. act. inf katesthiô, “ăn ngấu nghiến, thiêu hủy, phá hủy”) của Bản LXX, câu văn vẫn là một lời nhắc rõ ràng đến 2 V 1,10 (hay 12). Các môn đệ muốn chia sẻ quyền lực của Đức Giêsu để làm mộtphép lạ trừng phạt.
– quay lại (55): xem cả 10,23; 14,25. Tác giả cho thấy là Đức Giêsu dẫn đầu nhóm môn đệ.
– quở mắng (55): Đức Giêsu sửa các môn đệ vì các ông vẫn chưa hiểu sứ mạng của Người nhắm điều gì (x. 9,45). Người không chấp nhận cho người ta coi Người là ngôn sứ Êlia, nhà cải cách được ví với lửa. Người không chấp nhận phản ứng theo kiểu thường tình loài người (x. 6,29).
– chôn cất cha tôi (59): Theo truyền thống kinh sư sau này, bổn phận chôn cất cha mẹ qua đời bó buộc với các na-dia (nazir), tư tế, và cả với thầy thượng tế, cho dù tiếp xúc với mộtthi hài thường được coi như là cớ gây nhiễm uế (x. Ds 6,6-7; Lv 21,11).
– Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ (60): Câu này được giải thích nhiều cách, nhưng dựa vào mộtcâu tục ngữ, giáo sư J.A. Fitzmyer cho rằng ý nghĩa của câu này là “Cứ để kẻ chết (về thiêng liêng) chôn kẻ chết (về thể lý) của họ”.
– xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã … Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau (61-62): xem truyện ngôn sứ Êlia gọi Êlisa (1 V 19,19-21). Nhưng Đức Giêsu đòi hỏi hơn Êlia, vì vị ngôn sứ còn cho phép môn đệ về từ giã bà con thân thuộc, còn Đức Giêsu thì không cho phép.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở: Hành trình lên Giêrusalem (51)
Câu mở với giọng long trọng của bài tường thuật chuyến đi lên Giêrusalem có ba điểm:
* Sự đón tiếp tại một làng Samari (52-56)
Cũng như sứ vụ tại Galilê được dẫn nhập bằng mộttruyện Đức Giêsu bị loại trừ (Lc 4,16-30), chuyến đi lên Giêrusalem cũng được dẫn nhập bằng mộttruyện như thế. Có một làng Samari đã không đón tiếp Người vì Người lên Giêrusalem, chứ không lên Garidim là nơi có đền thờ của người Samari. Sự từ khước này không làm cho lòng Người ra chua chát. Người quở mắng hai môn đệ Giacôbê và Gioan vì các ông đã đề nghị chuyện bạo lực. Người yêu cầu người ta nghe Người, nhưng Người để cho người ta tự do, chứ không muốn ép buộc người ta phải đón tiếp Người. Người không thể diễn tả quyết định của Người ra bằng những biện pháp hà khắc, bất kể hoàn cảnh cụ thể của người khác.
* Những đòi hỏi đặt ra cho ai muốn làm môn đệ (57-62)
Trên con đường này, Người nhắc lại những điều kiện để đi theo Người. Có ba người đến để xin đi theo Người. Không biết là điều gì đã thúc đẩy họ xin như thế. Chắc chắn là họ đã bị Người thu hút, nên muốn ở với Người. Chúng ta cũng không biết là sau đó họ có thật sự đi theo Người chăng. Nhưng chúng ta biết những hoàn cảnh và những điều kiện cần thiết để có thể đi theo Người.
Người thứ nhất diễn tả mộttình trạng sẵn sàng vô điều kiện. Đức Giêsu cho anh ta biết rõ điều gì đang chờ đợi anh nếu anh bước theo Người. Đặc điểm con đường Người đang theo là những bất ngờ và sự nghèo khó. Người không thể cung cấp sự an toàn và tiện nghi nơi ăn chốn ở. Chính Người đã cho thấy điều đó khi đi qua Samari: Người lệ thuộc vào sự tiếp đón của kẻ khác. Người chấp nhận bị từ chối và lại bắt đầu tìm chỗ khác. Người từ chối những tiện lợi của mộtnơi ở cố định. Như thế Người tự giải thoát khỏi dây ràng buộc với mộtnơi cố định và trở thành hoàn toàn tự do mà thi hành nhiệm vụ. Người cũng yêu cầu kẻ muốn theo Người phải có sự từ bỏ ấy, sự tự do ấy và dây liên hệ ấy.
Hai người khác nêu ra các điều kiện (chôn cất cha; từ giã người thân). Cho cả hai trường hợp, Đức Giêsu không chấp nhận những điều kiện ấy, trong đó luôn liên hệ đến gia đình. Đức Giêsu cho thấy rõ ràng là Người đòi hỏi người ta bước theo Người vô điều kiện.
+ Kết luận
Khi bước theo Đức Giêsu, người ta không được nhìn lại đàng sau, nhưng phải dứt khoát nhìn tới trước, nhìn vào chính Đức Giêsu và tất cả những gì được hàm chứa trong quan hệ với Người. Không những trong lãnh vực của cải vật chất, cả trong lãnh vực các tương quan người với người, liên hệ với Người đòi hỏi mộtsố những từ bỏ đau đớn. Nhưng phải biết vấn đề ở đây là gì: đó là gắn bó với Người, phục vụ Người, sống thân tình với Người. Phần Người, Đức Giêsu đề nghị, nhưng luôn tôn trọng tự do của từng người.
MỘT LÀNG MIỀN SAMARI KHÔNG ĐÓN TIẾP
Từ ngữ 9,51 rất phong phú về mặt thần học. Trước hết Luca nói: “Khi đã tới ngày Ngài được rước lên trời”. Từ Nước Trời đã nhắc lại bảy lần, ở Luca 1-2, việc thực hiện lời hứa của Chúa (x.1,57), nơi đó tôi giải thích từ này; đây không chỉ một chú thích thuần tuý có tính thời gian! Còn chữ được rước lên (trời) sẽ được Luca dùng ba lần để chỉ cuộc thăng thiên về với Cha (Cv 1,2; 11-12). Tiếp theo, tác giả nói là Chúa Giêsu cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Diễn ngự hiếm hoi này muốn nói lên quyết định của Chúa Giêsu sẽ chạm trán với với cuộc thụ nạn đang chờ đợi Ngài, bởi vì có lẽ nó phản dội lại thái độ của người Tôi tớ ở Is 50,7, nhờ một lối chơi chữ cương quyết / trơ ra. Nếu người Tôi tớ của Chúa không giấu mặt khỏi lăng nhục và khạc nhổ, chính là vì người đã trơ mặt ra như đá. Để được rước lên bên cạnh Chúa Cha, trước hết người Tôi tớ phải trải qua đau khổ và cái chết.
Một nhập đề như thế cho đoạn văn nói lên tầm quan trọng mà Luca muốn đặt vào dịp lên Giêrusalem duy nhất này của Chúa Giêsu trong suốt thời gian thi hành sứ vụ. Chắc hẳn một cuộc hành trình lên Giêrusalem này đã có trong bản văn của Marcô –còn truyền thống của Tin Mừng thứ tư thì nói đến nhiều lần lên Giêrusalem. Nhưng biến cố chỉ hiếm có một chương ở Marcô (và hai ở Matthêu) thì ở đây lại tới mười chương! Để tìm chất liệu cho một đoạn dài như thế, Luca đặc biệt khai thác nơi Nguồn các lời cũng như nơi tư liệu riêng của ông, trước khi sử dụng trình thuật của Marcô về cuộc hành trình từ 18,15 đến 19,44. Thực ra, những giai đoạn của cuộc hành trình, theo địa lý, không làm cho Luca quan tâm; những ghi chú hiếm hoi mới có lại không rõ ràng, thậm chí còn thường nữa (17,11). Điều quan trọng, đó là Chúa Giêsu đang lên đường, không nơi cố định (9,57) và Ngài tiến về định mệnh của Ngài, ở Giêrusalem, kinh thành nơi mà, trong tư cách ngôn sứ, Ngài phải chết (13,33), nơi mà Ngài sắp hoàn thành cuộc xuất hành của Ngài (9,31), việc Ngài được nâng lên (9,51). Việc nhắc đến thành Giêrusalem sẽ làm cho toàn bộ đoạn văn này được nhịp nhàng và, để sắp xếp đoạn này cách thuận lợi, chúng ta sẽ dựa vào những”điệp khúc” chính nhắc lại rằng Chúa Giêsu lên đường tiến về Giêrusalem (13,22; 17,11) và dựa vào lời loan báo rõ ràng về cuộc thụ nạn ở Giêrusalem (18,31). Chúng ta sẽ xác minh đúng lúc nếu phải ấn định phần kết của đoạn văn khi Chúa Giêsu vào Đền Thờ (19,44).
Samari ngăn cách Galilê với Giuđê và thủ đô Giêrusalem khi yêu cầu các môn đệ chuẩn bị cho Ngài đến một làng của người Samari (9,52-55), Chúa Giêsu muốn cắt đứt mối thù địch của người Do Thái đối với dân tộc không còn thuần chủng này nữa, họ lấy Ngũ thư làm Kinh Thánh, nhưng địa điểm thờ phượng của họ là ở Garizim là một thách đố thường trực đối với Đền Thờ Giêrusalem. Nhất là Ngài tiên báo sứ vụ của Giáo Hội mà tính cách phổ quát đại đồng sẽ bắt đầu chính tại Samari (Cv 8,5tt). Trình thuật Chúa Giêsu bị những người đồng hương ở Nagiaret khước từ đã khai mở giai đoạn bằng đề tài khước từ. Đó là tính cách phổ quát đại đồng được loan báo trong bài giảng mà các người ở Nagiaret từ chối; ở đây những người ở Samari từ chối Chúa Giêsu thì ít, mà Giêrusalem, đích điểm của cuộc hành trình của Ngài thì nhiều. Khi Chúa Kitô sẽ được rao giảng ở đó, đám đông một lòng chú ý đến những lời của Ngài rao giảng (Cv 8,5-6).
Chính hai trong số các môn đệ thân tín nhất (x.9,28) trong trường hợp ấy cảm thấy mình phải đóng vai trò của sứ ngôn Êlia! Để cho người ta nhìn nhận sứ vụ của mình là người của Thiên Chúa, Êlia đã làm cho từ trời xuống tiêu diệt cả trăm người kéo đến để bắt ông (2V 1,10-12). Nhưng Chúa Giêsu đâu có đến để làm người cải cách mạnh mẽ các phong tục tập quán như vị Tẩy Giả mong chờ (3,16-18). Và nếu Ngài quở mắng các môn đệ – một động từ thường được dùng khi Chúa Giêsu nói với ma quỷ (4,35)- chính là vì các ông không hiểu tí gì về sứ vụ của Ngài (loan báo việc Ngài bị khước từ: 9,22) cũng chẳng hiểu giáo huấn của Ngài (lòng yêu kẻ thù: 6,29). Và cũng như sau khi bị những người Nagiaret khước từ, Chúa Giêsu lại tiếp tục lên đường.
NHỮNG YÊU SÁCH CỦA CHÚA GIÊSU ĐỐI VỚI KẺ ĐI THEO NGÀI
Đề tài của đoạn văn này là nỗi khó khăn khi theo Chúa Giêsu và gồm ba hoạt cảnh nhỏ. Cảnh chót giống với cảnh đầu tiên: những người vô danh tự nguyện xin làm môn đệ, trong khi chính Chúa Giêsu lên tiếng mời gọi trong cảnh giữa; nhưng cũng như trong cảnh giữa này, người ở cảnh thứ ba cũng đặt điều kiện.
Ở những câu 57-58 –như ở câu 61- chúng ta tham dự một cảnh cổ điển trong Do Thái giáo: người học trò chọn Thầy mà mình muốn theo học, bỏ gia đình hoặc nhiều năm để đến trú ngụ trong nhà Thầy (x. Ga 1,37-39). Câu trả lời cho thấy Chúa Giêsu không giống như những Kinh sư khác: cuộc sống của Ngài lưu động bởi Ngài là một kẻ bị khước từ. Bị truy nã, Ngài không có chỗ dựa đầu để nghỉ ngơi cho yên ổn mà phải trốn lánh. Để ám chỉ mình, Chúa Giêsu nói về Con Người, một diễn ngữ để vừa chỉ sự bất lực của kẻ bị ruồng bỏ và bị giết (9,22-44; chính là trường hợp ở đây) vừa chỉ quyền lợi mà Ngài sẽ thừa hưởng khi Ngài được nâng lên trên trời (9,26; 12,8). Như vậy, những ai muốn đi theo Ngài, muốn làm môn đệ, sẽ san sẻ cuộc đời của một kẻ vô gia cư, không biết ngày nào sẽ có được mái nhà để qua đêm.
Trong những câu 59-60 Chúa Giêsu chủ động khởi xướng (x. các trình thuật ơn gọi 5,27). Yêu cầu của người ẩn danh chứng tỏ rằng đối với ông ra có một ưu tiên (trước hết): việc thi hành bổn phận hiếu thảo là chôn cất cha ưu tiên hơn việc đi theo Chúa Giêsu và chỉ cần vài tiếng đồng hồ… Chúa Giêsu đáp lại bằng một châm ngôn gây sửng sốt gắn liền với hoàn cảnh đó:”Cứ để kẻ chết –những kẻ khước từ Chúa Giêsu và Tin Mừng Nước Thiên Chúa- chôn kẻ chết của họ!”. Điều này dẫn đến chuyện”làm bật rễ” giới răng của Chúa về sự hiếu thảo (Xh 20,12), chính là sự cấp bách phải loan báo Triều Đại Thiên Chúa; việc phục vụ Tin Mừng này là trước hết và vượt qua cả những liên hệ gia đình, tuy vẫn được Chúa chúc phúc (x. 14,26).
Cảnh chót (cc. 61-62) nhắc đến việc Êlisê trở thành đệ tử của ngôn sứ Êlia (1V 19,19-21), trong khi ông cày với một đôi bò, ông đã xin phép về ôm hôn cha mẹ ông trước khi theo Êlia. Sau khi giết bò và sau bữa tiệc từ giã người thân ông bắt đầu theo Êlia. Nhưng Chúa Giêsu lại đòi hỏi hơn vị đại ngôn sứ xưa kia; ở đây lời dạy của Ngài cũng gắn liền với mạch văn (ở đây, câu chuyện 1V) và đưa ra lý do của việc đòi hỏi quyết liệt ấy: khi đã bắt đầu cày bừa cánh đồng của Thiên Chúa, trong đó Chúa làm cho khai mở triều đại của Ngài; người ta không có thể ngoái lại đàng sau. Chính gia đình cũng thuộc những thứ người ta bỏ lại đàng sau (x. 18,29). Phải coi chừng:”Quyết định theo Chúa Giêsu không chỉ là kết quả nhất thời của phấn khởi nhiệt tình; điều đó đòi hỏi một quyết định có tính cách kiên quyết” (J. Fitzmyer).
Vì không phải là trình thuật về ơn gọi nên bản văn không chú ý chút nào đến cách thức mà những kẻ ẩn danh này đáp lại lời Chúa Kitô. Thực ra đó là ba lời ở trung tâm của trình thuật, nhưng có lẽ ta sẽ sai lầm khi coi những lời ấy như những chỉ thị có tính quy luật. Các môn đệ đã chôn cất xác của Đấng bị đóng đinh (23,55-56) và Giáo Hội thời xưa đã luôn luôn hết sức tôn trọng việc an táng kẻ chết (“khi con gặp người chết, con hãy lo chôn cất họ và ghi dấu thánh giá trên họ, và Ta sẽ ban cho con chỗ nhất trong ngày Phục Sinh của Ta” Chúa Kitô tuyên bố như thế trong quyển thứ tư sách Esdras 2,23). Và nếu Phêrô và các bạn của ông đã lìa bỏ gia đình trong thời gian Chúa Giêsu thi hành sứ vụ, thì sau này các ông sẽ cho các bà vợ đồng hành trên con đường truyền giáo (1Cr 9,5). Ở đây Tin Mừng Luca đòi hỏi chúng ta phải không ngừng khám phá ra một cách thức để đặt việc loan báo Tin Mừng bằng lời nói và việc làm vào trung tâm cuộc sống hằng ngày của ta.
Bài Tin Mùng cua Luca Chúa Nhật này bắt đầu một giai đoạn mới trong đời sống của Đức Giêsu. Cho đến nay. Đức Giêsu chỉ thực thi tác vụ cua Người ở Galilê. Trong suốt mười chương bắt đầu từ đây. Chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu “lên Giêrusalem”. Đây là một lộ trình về địa dư (Lc 9, 51; 13, 22, 22; 17, 11).
Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời…
Cách trình bày thật trang trọng. Bản văn sát nghĩa tiếng HyLạp cảm động hơn nhiều: “Vì những ngày Người được rước lên hoàn tất…”
Cái chết đang đến gần ấy không phải là một việc ngẫu nhiên, đó là một sự hoàn tất, một thành tựu, việc thực hiện sau cùng, việc làm tỉ mỉ sau cùng của một đời sống rất trọn vẹn.
Nhưng đó cũng là một sự “rước lên”. Ở đây, Luca dùng cùng một từ để nói về sự Thăng Thiên: Đức Giêsu sẽ được rước lên trời (Cv 1, 2-11-22)… như ngôn sứ Êlia cũng đã được rước lên (2 V 2, 8-11) Điều “sắp tới”… đối với Đức Giêsu, cũng như đối với mỗi người chúng ta cùng với Người. Đó là một biến cố vừa đau thương, vừa hạnh phúc: Phục sinh, với hai mặt của nó, cái chết và đi vào sự sống của Chúa Cha.
Người nhất quyết đi lên Giêrusalem.
Bản văn Hy-lạp của Luca chứa đựng một hình ảnh: “Người làm khuôn mặt chai cứng lại để đi hướng về Giêrusalem”… như ngày hôm nay, chúng ta thường nói: Người siết chặt hàm răng để cương quyết dấn thân về nơi mà Người biết rằng Người sắp chết. Các Tin Mừng hiếm khi nhấn mạnh những trạng thái tâm hồn của Đức Giêsu. Điều đáng lưu ý là ngày hôm đó Người phải vượt qua nỗi sợ hãi và lấy hết sự can đảm của một con người.
Mỗi người chúng ta phải dành thời gian cùng với Đức Giêsu gợi lại khó khăn hiện tại của mình, đối với một thanh niên có thể là thi rớt, một nỗi đau khổ vì tình cảm cô đơn, một sự xung đột trong đời sống lứa đôi, một sự bất ổn nghề nghiệp, một bế tắc xem ra không vượt qua nổi, một căn bệnh không chữa khỏi, một cái tang vừa phải chịu v.v…
Thay vì buông xuôi, tại sao chúng ta không cùng với Đức Giêsu làm cho khuôn mặt mình chai lại để giữ vững bằng bất cứ giá nào… theo gương người “tôi tớ của Thiên Chúa” đã nói: “Có Đức Chúa là Chúa thương phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt chai ra như đá. Tôi biết mình sẽ không thẹn thùng” (Is 50,7)
Giê-ru-sa-lem hỡi! Nơi duy nhất trên cả hành tinh này: cái hố ấy nơi trồng cây thánh giá… cái ngôi mộ trong huyệt đá ấy nơi cái chết đã thất bại, nơi mà Thiên Chúa kêu khát và làm cho một suối nguồn sinh ra từ cạnh sườn Người. Mọi đời sống Kitô hữu là một con đường lên Giê-ru-sa-lem!
Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem.
Chúng ta luôn luôn có khuynh hướng giảm nhẹ Tin Mừng, như thể thời đại của chúng ta là thời đại đầu tiên chứng kiến những xung đột về chủng tộc, chính trị, tôn giáo xã hội.
Những người Samari bị những người Do Thái giáo trung kiên coi như những kẻ ly giáo, từ khi họ đã xây dựng một ngôi đền thờ trên đỉnh núi Ga-ri-dim để cạnh tranh với đền thờ Giê-ru-sa-lem. Phải tránh tiếp xúc với những kẻ “lầm lạc” ấy (Ga 4, 9.20).
Bị những người Do Thái khinh bỉ, họ trả đũa lại và gây ra mọi thất phiền nhiễu cho các đoàn hành hương mượn con đường ngắn nhất để đi từ Galilê về Giê-ru-sa-lem qua các mỏm núi miền Samari. Đức Giêsu không quay lưng lại mảnh đất bị sự phân biệt chủng tộc và sự khinh bỉ lẫn nhau tàn phá. Và hơn thế nữa, Người từ chối bước vào sự hẹp hòi bế tắc ấy của dư luận quần chúng. Trước hết Luca mô tả với chúng ta một Đức Giêsu hoàn toàn độc lập và làm nổi rõ đức bác ái trọn hành động của người Samari tốt lành (Lc 10, 30). Lòng biết ơn của người bệnh bằng được chữa lành (Lc 17,16) Đức Giêsu yêu thương tất cả mọi người kể cả những người bị cám dỗ nguyền rủa Người.
Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?
Đó là hành phạt mà Êlia đã bắt các đối thủ của ông phải chịu (2 V 1,10). Hai người “con trai của thiên lôi” (Mc 3,17), Giacôbê và Gioan muốn xứng đáng với biệt danh của mình! Nhưng họ chưa hiểu gì về sứ điệp và công việc của Đức Giêsu. Và điều nghiêm trọng hơn là họ đã tạo ra cho mình một ý tưởng về Thiên Chúa hoàn toàn sai lầm: họ tưởng rằng mình là những người giải thích Thiên Chúa và họ chắc rằng mình sở’ hữu chỉnh lý! Thiên Chúa toàn năng có thể nào tha thứ việc Đấng Mêsia của Người bị con người khước từ’ và đối xử tùy tiện? NGÀY NAY cũng thế, chúng ta cũng muốn thực hiện các dự án của “con trai Thiên Lôi”: Thiên Chúa phải can thiệp để tiêu diệt những kẻ thù của Người!
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức Giêsu không đến để kết án những người tội lỗi nhưng để cứu họ (Lc 19,10) Thiên Chúa không trùng phạt, Người tha thứ (Lc 23,34).
Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
Ở đây Đức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh đích thực về Thiên Chúa, Người vốn là Đấng Toàn Năng nhưng không can thiệp như một ông vua chuyên chế để bắt các bề tôi và kẻ thù quỳ móp nhưng chúng ta có thể nói rằng một cách khiêm nhường và nghèo khó, Người chờ đợi sự hoán cải, như một người cha, như một người mẹ, đồng ý cho gia hạn và chờ đợi hành trình chậm rãi của chân lý trong lòng con người. Và Thầy trò đi sang làng khác như những người nghèo hèn ra đi khi người ta không chịu tiếp họ: Tôi nhìn ngắm Đức Giêsu ra đi sang làng khác… Và tôi tự hỏi về sự thiếu nhẫn nại của tôi… trước những tội lỗi của tôi, trước những tội lỗi hoặc sự khước từ của những người khác, trước sự chậm chạp hoặc nặng nề của Giáo Hội… Lạy Chúa xin ban cho con sự nhẫn nại Thánh thiêng của Người.
Thầy trò đang đi trên đường thi có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Người trả lởi: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”.
Đúng vào lúc người ta từ chối tiếp đến” Đức Giêsu đang trên đường Giêrusalem, thì có một người xin theo Người một cách quảng đại và có điều kiện. Hẳn người ta có thể mong Đức Giêsu chấp nhận ngay lập tức. Vả lại thay vì chiều theo nhiệt tình của ơn gọi này, Đức Giêsu đã đặt ra phía trước mọi khó khăn thái độ này hoàn toàn trái ngược với mọi cách quảng cáo của chúng ta khoe khoang các sản phẩm của mình đến độ che giấu đi các khuyết điểm. Đức Giêsu không tìm cách tuyển mộ với bất cứ giá nào. Trái lại, Người nhấn mạnh phải chấp nhận sự thiếu thốn, sự nghèo khó, sự bất trắc… để theo Người.
Điều đó làm nổi rõ điều mà Đức Giêsu đã ý thức khi lên Giê-ru-sa-lem. Người tiến về một số phận bi thảm. Ai muốn theo Người cũng phải sẵn sàng chịu ruồng bỏ. Theo sở thích tâm linh của chúng ta, chúng ta có thể suy niệm về cuộc sống lang thang và bấp bênh của Đức Giêsu, “kẻ lang thang không nơi trú ẩn” ấy! Đọi với một con người, không có một mái nhà để trú ẩn và một cái giường để ngã lưng thì quả là khắc nghiệt. Vào những buổi chiều mệt mỏi, điều đó phải trĩu nặng trong lòng. Đức Giêsu. Người lưu ý chúng ta rằng ngay cả thú rừng còn có một nơi trú ẩn an toàn. Lạy Chúa, xin cho chúng con lòng can đảm trong những lúc mệt nhọc thể xác hoạt tinh thần.
“Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo!” kẻ nói câu đó có lẽ không biết rằng con đường của Đức Giêsu sẽ dẫn người lên Gôn-gô-tha. Nhưng chúng ta thì biết. Và chúng ta cũng biết rằng “Qua cuộc khổ nạn và Thập giá, chúng ta đi đến vinh quang của sự Sống lại” ánh sáng nhất định sẽ chiếu giải trên những thử thách’ của chúng ta: Giê-ru-sa-lem!
Đức Giêsu nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chọn cất cha tôi trước đã ” Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”.
Đây là một trong những lời nghiêm khắc nhất trong toàn bộ Phúc âm… một lời khiêu khích, nổi loạn. Sự mai táng những người thân của chúng ta là một bổn phận thiêng liêng, đặc biệt lành thánh vì dựa vào một điều răn rõ ràng của Thập giới: “ngươi phải yêu mến cha mẹ ngươi”. Lời nói quá đáng của Đức Giêsu đặt chúng ta trước một song luận:
– hoặc là Đức Giêsu là một người điên không nhận thức điều mình đòi hỏi.
– hoặc là Đức Giêsu thuộc về một bình diện khác bình diện trần ri thế, bên trên con người…
Sự thật là Đức Giêsu đi đến chỗ cho rằng ai không tìm kiếm Triều Đại của Thiên Chúa là một “người chết”. Bởi vì rõ ràng trong cùng một câu, từ “kẻ chết” không có cùng một ý nghĩa: trong một trường hợp, nó có nghĩa thông thường tức là “những người đã qua đời” nhưng trong trường hợp kia, nó có nghĩa là tất cả những người đã không gặp gỡ Đức Giêsu và Người dám nói rằng họ là “những người chết”? Đối với Đức Giêsu người nào không lo lắng những sự việc của Thiên Chúa không sống theo nghĩa mạnh nhất của từ ấy. Phải, đó là lời khó nghe nhưng là mạc khải về sự sống chân thật và duy nhất sự sống của Thiên Chúa, của Triều Đại Thiên Chúa.
Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với nước Thiên Chúa”.
Vậy, Đức Giêsu, Ngài là ai mà đòi hỏi chúng con sự từ bỏ ấy? Tuy nhiên Ngài cũng đã đòi hỏi chúng con yêu mến cha mẹ mình và Ngài đã làm gương bằng một tình cảm gắn bó tinh tế với mẹ Ngài là Đức Maria khi trao phó bà cho người bạn tốt nhất của Ngài.
Nhưng sự phục vụ Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi tất cả và ngay lập tức. Thiên Chúa bác bỏ những ưu tiên của chúng ta: “Để tôi về chôn cất cha tôi trước đã… Để tôi từ biệt gia đình trước đã…” Đó là những yêu cầu rất chính đáng. Thật vậy đó là những Người rất nghiêm túc, đứng đắn, hiểu lý. Họ đã “lên kế hoạch” của họ trước tiên, những công việc: của cá nhân tôi, kế đó là những công việc của Thiên Chúa. Tôi vừa kết thúc năm học của tôi. Tôi dự trù lập kế hoạch cho kỳ nghỉ hè: khoảng giữa tháng chín tôi sẽ tìm lại Thiên Chúa… sau đó! Mỗi chúa nhật, nghỉ ngơi trước đã, giải trí trước đã, dành thì giờ cho gia đình và bạn bè trước đã: sau đó… nếu còn thời gian hãy đi dự thánh lễ.
Trước ngưỡng của mùa hè đang bắt đầu, Đức Giêsu Kitô cảnh giác tôi về thời gian biểu của tôi! Thang giá trị của con là gì’? Những điều cấp thiết của con là thứ bậc nào. Con đi tắm biển trước đây phải không? Sức khỏe của con trước đã phải không? Hoặc là trước tiên là điều chủ yếu? Thánh Phaolô mời gọi chúng ta “hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa” (Gl 5,1).
Các việc này chứng tỏ Chúa Giêsu lựa lọc rất cẩn thận những kẻ muốn theo Ngài, và rất thành thật trong thái độ của Ngài. Ngài có những lời cho ba loại người theo Ngài.
Hạng người: “Thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào” mà không nghĩ tới công sức phải đầu tư vào. Với những người như vậy Chúa Giêsu bảo: “Trước khi theo Ta, ngươi hãy tính kỹ giá phải trả”. Không bao giờ người ta có thể nói rằng mình bị dụ dỗ theo Chúa Giêsu, bởi những lý lẽ giả dối. Chúa Giêsu khen những người biết đánh giá cao hết mức những đòi hỏi của Ngài. Có thể chúng ta đã làm hại Hội Thánh rất nhiều, khi bảo người ta gia nhập Hội Thánh không khó khăn gì. Cần nói rõ với họ rằng đó là việc khó khăn nhất trên đời. Có thể, sẽ có ít người gia nhập Hội Thánh hơn, nhưng những người mà chúng ta có sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa.
Được Chúa gọi, anh ta thoái thác, rất có thể cha anh chưa chết, cũng chưa gần chết, anh viện lẽ, bổn phận thiêng liêng để thoái thác lời gọi theo Chúa.
Chúng ta cần nghe câu chuyện sau:
Chàng thanh niên nọ rất muốn từ giã thế gian để đi tu, nhưng anh tuyên bố: gia đình anh quá thương yêu anh, do đó, họ không để anh thực hiện ý nguyện.
Ông thầy của anh biết chuyện bảo anh: “Yêu anh hả! Thật thế sao?” và ông bày cho anh một bí mật của Yoga: giả chết. Ngày hôm sau, anh ta chết. Cả nhà chạy lui chạy tới than khóc thảm thiết.
Lúc đó, vị thầy xuất hiện và nói với gia đình rằng ông có quyền lực làm cho chàng trai này sống lại với điều kiện có một người nào trong gia đình tình nguyện chết thay. Ông lần lượt hỏi mỗi người trong gia đình.
Trước sự ngạc nhiên của xác “chết”, các thành viên trong gia đình lần lượt người này đến người khác đưa ra lý do để từ chối hy sinh thế mạng. Vợ anh tóm gọn tâm tình của tất cả các người trong gia đình bằng những lời sau: “Thực ra không cần thiết có ai đó thế mạng chồng tôi. Chúng tôi sẽ đủ sức xoay xở mà không cần anh ta”.
Thật ra nếu câu trả lời của anh ta thành thật, anh cũng vẫn đáng trách, vì không có một bổn phận lo cho con người chết nào quan trọng cho bằng việc đáp lại lời mời gọi của Chúa hằng sống. Không có một ràng buộc nào dầu cao đẹp đến đâu có thể xem như là một lý do chính đáng để từ chối đi theo Đức Kitô. Chúa Giêsu đang đi qua đây lần cuối cùng. Nếu không theo ngay sẽ không còn dịp khác. Những người đã chết về phần tâm linh và không nghe lời hiệu triệu của Chúa Kitô có thể lo việc chôn cất ấy, nhưng những người đã được Đức Kitô kêu gọi có thể làm một việc thiêng liêng ca cả hơn: rao giảng Tin Mừng về sự cứu rỗi và sự sống.
Không bao giờ có người nông dân nào có thể cày một luống thẳng trong lúc cứ ngoái nhìn lại đằng sau. Thế mà có nhiều người chân bước theo Chúa mà lòng còn đặt vào việc thế tục đã qua, lòng họ bị chia sẻ… Đối với hạng người này Chúa Giêsu không bảo “Hãy theo Ta” cũng không bảo “hãy trở về”, nhưng Ngài bảo “Ta không chấp nhận một sự phục vụ hâm hẩm”. Thái độ hâm hẩm ấy chứng tỏ anh ta chưa nhận thức được cái đặc ăn vinh hiển được Chúa kêu mời hay vẫn còn cân nhắc đặc ân ấy với hy sinh phải chịu.
Chúa thấy anh không dứt khoát, và Ngài đưa ra câu trả lời có giá trị cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đã nhận được lời mời gọi theo Chúa và chúng ta phải làm tất cả mọi sự để đừng phí phạm ơn Chúa: “chúng ta nhận ơn Chúa cách ích khi chúng ta nhận ở cửa lòng, chứ không nhận tận đáy lòng. Như thế là chúng ta nhận mà không giữ, nghĩa là chúng ta nhận mà không kết quả, vì cảm nhận gợi hứng thì đâu lợi ích gì, nếu không chứng nhận làm theo”. (Phanxicô đệ Salê)
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến – ‘Bước theo’)
Vâng! Kính thưa quý vị, giải thoát là một động từ cần thiết để bước theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu luôn khuyên bảo các môn đệ về sự từ bỏ, vì chỉ có sự từ bỏ con người mới nên cao trọng. Muốn bước theo Chúa Giêsu mà không từ bỏ chính mình, thì không thể đi theo Chúa được. Vâng! Thưa quý vị, sự từ bỏ một cách dứt khoát là sự đáp trả triệt để đối với Lời mời gọi của Tin Mừng. Thiên Chúa cứu thoát những ai biết từ bỏ. Từ bỏ chính mình là quên mình đi, ngày nay nếu làm như vậy thì bị coi là lội ngược dòng. Nhưng điều kiện để được bước theo Chúa Giêsu thì không bao giờ lỗi thời. Dù nhân thế cố công gạt bỏ Thiên Chúa qua một bên, nhưng rồi họ cũng thất bại. Đoạn Tin Mừng Lc 9, 51-62 hôm nay, có hai phần , phần đầu thuật lại việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem, nhưng trên đường đi một làng của người Samaria không đón tiếp Chúa. Điều nầy mang tính hiềm khích trong lịch sử giữa hai bên của người Israel và người Samaria. Vì vậy , họ xem Chúa Giêsu là thù địch của họ. Nhưng Chúa Giêsu không nổi cơn thịnh nộ đẩ đáp trả, nhưng các môn đệ của Người thì nổi giận. Đòi khiến “lửa từ trời xuống thiêu đốt”. Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu quở mắng các ông. Điều nầy cho thấy, Tân Ước không phải là thời kỳ luận phạt mà là thời gian cứu độ, vì vậy không giống như Cựu Ước khi bị luận phạt thì Thiên Chúa khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt. Như trường hợp thành Sodoma, và người bất tuân đã biến thành tượng muối.
Như vậy thời Tân Ước là thời kỳ cứu độ của Thiên Chúa, và hiện thân của sự cứu độ chính là Đức Kitô, vì vậy lửa từ trời không thiêu đốt như nghĩa đen, mà là thánh hóa và thiêu đốt theo nghĩa bóng, đó là tình yêu cứu độ. Chúa Giêsu chính là hy lễ duy nhất và vĩnh cửu, chính là hy lễ toàn thiêu. Theo đó bài đọc 2, (Gl 5, 1), thánh Phaolo đã xác quyết rằng: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kiô đã giải thoát chúng ta…), và dường như chúng ta thấy bài đọc 2 không logic với Đoạn Tin Mừng hôm nay theo câu chữ, nhưng ý nghĩa thì hoàn toàn phù hợp, vì thánh Phao- lô cho chúng ta biết về Thần Khí và xác thịt, điều gì để cho Thần Khí hướng dẫn thì hoàn toàn có tự do. Vâng, tự do chính là một sự giải thoát, nhưng giải thoát chính là để đem lại bác ái cho tha nhân. Nên chi phần đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy nổi bật lên tính bác ái: “ Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” mà thánh Phaolô đã nhắc lại (Gl 5,14).
Phần 2 của đoạn Tin Mừng: Là sự từ bỏ (phần chính của đoạn chia sẻ hôm nay).
Khởi đi từ bài đọc 1, thuật lại việc tiên tri Elise bỏ mọi sự công việc đồng áng của mình mà đi theo tiên tri Elia, nhưng khác vời Chúa Giêsu, tiên tri Elia cho phép Elise từ biệt song thân trước khi đi theo Elia. Như vậy sự khác nhau giữa sự lưu luyến và từ giã người thân trước khi đáp lại tiếng Chúa gọi giữa Cựu và Tân Ước là gì? Thưa đó là sự trực tiếp và gián tiếp. Khi xưa tiên tri Elia chỉ là ngôn sứ, người gián tiếp khi tiếp nhận Elise, còn Tân Ước chính là Chuá Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Như vậy sự kêu gọi hôm nay là sự kêu gọi trực tiếp, nên chi khi đáp lại tiếng Chúa thì phải có thái độ dứt khoát không do dự, không lo âu, không quyến luyến người thân và của cải. Phần 2 của đoạn Tin Mừng hôm nay từ câu 57- 62 là một chủ đề từ bỏ, từ bỏ là một sự giải thoát, những người muốn xin đi theo Chúa Giêsu nghĩ rằng: sẽ có một địa vị, danh vọng,tài sản để vinh thân, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng CON NGƯỜI không có chổ tựa đầu.” Vâng , Chúa Giêsu là Người nghèo nhất trong số những người nghèo, vì không có người nghèo nào mà nghèo đến nỗi thua cả con chim, con chồn, con cáo.
Nhưng cái nghèo của người môn đệ theo Chúa làcái nghèo tự nguyện từ bỏ để hiến dâng cho việc loan báo Tin Mừng đến độ không dính bén đến tình thân. Như vậy, Chúa Giêsu đòi hỏi phải dứt khoát khi chọn đi theo Người. Nghĩa là một sự chọn lựa dấn thân vô vị lợi, khi Chúa mời gọi: “ để kẻ chết chôn kẻ chết” , là có ý cho biết việc nào quan trọng hơn và việc nào ít quan trọng hơn. Một khi chính Chúa đã từ bỏ ngôi Trời để ở với con người, thì không còn điều gì quan trọng hơn. Khi nói điều nầy ,Chúa Giêsu muốn cho chúng ta đặt hết niềm tin vào Người. Theo đó, Người muốn cho biết không việc nào quan trọng hơn việc loan báo Tin Mừng đối với người Tông đồ. Nhưng thực tế, thì không phải quá khắt khe như vậy. Câu nói nầy không thể hiểu theo nghĩa đen, vì nếu hiểu theo nghĩa đen, thì không thể đủ nghĩa được, như vậy, những người đi tu thì quá bất hiếu sao? Chúa Giêsu muốn đặt sự dứt khoát, sự triệt để đối với công việc nhà Chúa và là một nội qui Tông Đồ trong sáng và trọn vẹn đúng nghĩa. Theo đó, “Ai đã tra tay cầm cày, mà còn ngó lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn dạy chúng con phải biết từ bỏ mọi sự mà theo Chúa, vì như vậy chúng con mới nên Tông đồ đích thực của Nước Trời. Xin cho chúng con biết giá trị của Lời Chúa dạy mà làm theo. Amen.
Đời người là một chuỗi liên kết giữa những chọn lựa và quyết định.Chọn lựa luôn đi kèm theo một trách nhiệm, sự liên đới với những người khác.Chọn lựa đúng, đời sẽ hạnh phúc, nếu không sẽ là bất hạnh. Những người Do Thái không chọn Chúa, vì họ không tin Ngài. Các môn đệ cũng vậy, một số bỏ đi khi Chúa nói về Bí Tích Thánh Thể. Chỉ một số ở lại, vì họ tin Chúa Giêsu có Lời ban sự sống. Thế nhưng, để làm môn đệ của Chúa, thì phải dứt khoát, hy sinh và đành chấp nhận thiệt thòi, vì theo Chúa sẽ không có nơi gối đầu, không ngoái nhìn đằng sau.
Thử thách trong chọn lựa
Có một chủ nông trại nọ thuê một người thanh niên đến nhặt khoai tây cho nông trại. Công việc hết sức đơn giản, hằng ngày anh này chỉ có một việc là ngồi phân lọai các củ khoai tây và cho vào sọt. Lớn theo lớn, trung bình theo trung bình và nhỏ theo nhỏ. Sau một thời gian, anh thanh niên đến gặp ông chủ và xin nghỉ việc. Được hỏi lý do, anh ta giải thích:công việc ông giao phó không phải là công việc nặng nhọc, nhưng điều làm cho tôi nhức óc đó là phải chọn lựa.
Dân Do Thái chọn Chúa
Cách đây gần ba ngàn năm, Giôsuê cũng bảo tòan dân Israel phải dứt khóat chọn lựa: Hôm nay các ngươi phải chọn, hoặc thờ các thần, họăc thờ Thiên Chúa (Gs24,15).Thú vật dường như không có chọn lựa và quyết định, chúng chỉ sống theo bản năng. Con người có lý trí và tự do, nhất là con người biết chọn lựa hướng đi cho cuộc đời của mình. Ê-li-sê-ô cũng được thầy là Ê-li-a kêu mời đi theo Chúa, ông đã bỏ lại cha, mười hai cặp bò và lên đường theo Chúa. Ba người trong Tin mừng đến xin theo Chúa, nhưng ai cũng bịn rịn muốn từ giã gia đình, muốn chôn cất người thân, và muốn có một nơi an toàn cho bản thân. Đức Giê-su Ngài đề nghị hoàn toàn ngược lại với những mong muốn của họ. nước mắt của chọn lựa. Quả vậy, sai lầm lớn lao của con người là thay vì chọn Thiên Chúa để tôn thờ, họ lại đi chọn các thụ tạo để suy tôn. Danh vọng, tiền tài, lạc thú, chúng chỉ là những phương tiện, giúp cho con người hòan thành sứ mạng của mình trên trần gian này.Chúng không phải là cứu cánh, càng không phải là đích điểm của cuộc đời.
Con người chọn lựa
Chọn lựa bao giờ cũng phải mất mát và hy sinh. Khi tôi quyết định chọn cuộc đời sống độc thân để tôn thờ Thiên Chúa, và phụng sự anh em, thì đồng thời tôi phải hy sinh cả một đời sống gia đình bình thường như bao người khác. Hoặc khi anh chọn một người phụ nữ làm vợ mình thì anh phải dứt khóat với những người đàn bà khác, nếu không gia đình sẽ tan vỡ và hôn nhân trở thành đại họa.Thiên Chúa ban cho con người có tự do, chính vì điều đó mà con người có quyền chọn thiên đàng hay hỏa ngục. Một khi khước từ Thiên Chúa, con người sẽ không còn xem người khác là anh em mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chọn Chúa làm gia nghiệp của đời mình. Chọn Chúa chứ không phải là công việc hằng ngày. Bởi nếu chọn công việc của Chúa thì lúc thất bại con sẽ dễ dàng bỏ Chúa. Còn khi con chọn Chúa, thì không gì có thể làm con xao động. Mục vụ thì đầy ắp những công việc, bề bộn những chương trình, kế họach thì đan kín thời gian. Sẽ là vô ích, nếu như con không nhận ra thánh ý Ngài là tất cả, có Ngài đời sẽ tràn trề niềm hoan lạc tuổi xuân.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn