CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: Gr 38,4-6.8-10; Dt 12,1-4; Lc 12,49-53
——-
1. Thập giá và niềm vui (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Tình yêu bắt nguồn từ đâu? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
3. Lửa tình yêu. (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Phấn đấu (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
5. Mang lấy lửa thiêng (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Ngọn lửa tình yêu. (Annna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Nhân chứng đức tin (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
8. Ngọn lửa yêu thương (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
9. Cuộc chiến triền miên (PM. Cao Huy Hoàng)
10. Lửa cháy – Sự thật tỏ bày (Lm. Nguyễn Văn Nghĩa)
11. Lửa an bình (Lm. Bùi Quang Tuấn)
12. Thầy không đến đem sự bình an nhưng đem chia rẽ (Lm. Vũ Mộng Thơ)
13. Bình an, niềm vui, ơn cứu độ (An Phong)
14. Nghe danh thánh Chúa Giêsu là cớ mâu thuẫn (Lm. Trần Bình Trọng)
15. Chúa Nhật XX Thường niên_C (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
16. Đốt lửa tin yêu (Trầm Thiên Thu)
17. Ngọn lửa tình yêu- (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
18. Chúa Giêsu mang lửa đến trái đất (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
19. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 20 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
20. Ước mơ và chọn lựa (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
21. Nhịp cầu (Lm. Vũ Đình Tường)
22. Bùng cháy lửa tình (Lm. Nguyễn Xuân Trường)
1. Can đảm và kiên vững (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Ánh sáng và bóng tối (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Giữ lửa yêu thương (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Thắp lửa cho đời (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
5. Ngọn lửa tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Sức mạnh của lửa (Trầm Thiên Thu)
7. Phải chi lửa ấy đã bùng lên (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
8. Lửa tình yêu (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
9. Sứ mệnh (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
10. Lửa trời (AM. Trần Bình An)
11. Lửa yêu thương (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
12. Bình an đích thực (Lm. Giuse Nguyễn)
13. Bình an chỉ có khi sự thật lên ngôi (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
14. Góp phần làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu (Lm. Đan Vinh)
15. Ném lửa vào trái đất (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
16. Ước mong lửa yêu thương bùng lên (Dã Quỳ)
17. Chuyền lửa cho lửa bùng lên (Lm. Vũ Xuân Hạnh)
18. Chúa Nhật 20 Thường niên_C (Lm. Antôn)
.
.DẪN NHẬP
Lời Chúa: “Thầy phải chịu một phép rửa và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất” (Lc 12, 50).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đòan phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 20 thường niên hôm nay mời gọi chúng ta hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Bấy giờ đêm của sự nhỏ nhen, ích kỷ, chia rẽ, hận thù mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà yêu thương:
Cho dù đau khổ vây quanh,
Giê-mi vẫn cứ trung thành giảng rao.
Giê-su Ngôn sứ tối cao,
Khổ hình thập giá, đỉnh cao trung thành.
Còn người môn đệ đích danh,
Biết mang thập giá Chúa dành vinh quang.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa đốt lên trong ta ngọn lửa tình yêu của Chúa và biến đổi tâm hồn cứng cỏi của chúng ta bằng chính lửa yêu mến Chúa. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đã chịu treo trên thập giá để trở nên nguồn ơn cứu độ cho chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã chiến thắng sự chết để làm cho chúng con được sống đời đời. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa đã đến trần gian để đem lửa tình yêu thắp lên trong lòng chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Cuộc sống con người đâu phải chỉ dừng lại ở của cải vật chất nhưng chính là tình yêu. Người ta có thể dùng tắc trà ly rượu để mua lòng trung thành, tình bạn, sự chú ý, thậm chí có thể là lòng trắc ẩn, nhưng tình yêu bản thân nó không thể mua được. Tình yêu nói lên công lý và phản kháng khi có sự xâm hại xảy ra. Tình yêu chỉ ra hậu quả của việc làm tổn thương bản thân mình và người khác nhưng đau khổ cũng không kém phần. Vị Ngôn sứ được mời gọi sống cho tình yêu. Vì thế, bị đe dọa, giam cầm, khổ hình là thân phận của một vị Ngôn sứ.
Thưa anh chị em, các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy thân phận của các Ngôn sứ. Giêrêmia sinh ra và hoạt động trong một giai đoạn lịch sử đen tối nhất của dân tộc Do thái, cũng là thời kỳ xáo trộn nhất của Trung Đông. Hai lần Giêrêmia chứng kiến cảnh thành Giêrusalem bị vây hãm và thất thủ vào những 597 và 587 (trước công nguyên). Trong giai đoạn bi đát này của lịch sử dân Do thái, Giêrêmia phải truyên bố lời Thiên Chúa. Trước những lời tuyên báo về số phận của thành, phe chủ chiến tố cáo Giêrêmia chủ hại, làm hoang mang và nản lòng chiến sĩ. Ông bị thả xuống giếng cạn để chờ chết đói dưới lòng giếng. May mắn thay, nhờ có Abdemêlech biện hộ nên ông được cứu sống. Còn bao gian khổ khác ông đã phải gánh chịu vì là Ngôn sứ của Thiên Chúa. Dù vậy, Giêrêmia đã đi đến cùng con đường sứ mệnh: đồng hành với dân tộc và chấp nhận mọi gian khổ vì sứ mệnh được trao. Hình ảnh Ngôn sứ Giêrêmia báo trước thân phận đại Ngôn sứ Giêsu. Hơn ai hết, Chúa Giêsu ý thức rõ thân phận bọt bèo này của Ngôn sứ. Người đã công bố: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”. Phép rửa ở đây chính là những gian khổ Người sẽ phải chịu. Cái gian nan đau khổ của vị Ngôn sứ, cũng như Giêrêmia, trước tiên là sự chống đối của các vị lãnh đạo tôn giáo Do thái. Các vị này từ ngấm ngầm đến công khai chống đối Chúa Giêsu: từ những bắt bẻ về nghi lễ, về lời giảng dạy đến những việc làm. Tất cả đều bị theo dõi và tìm sơ hở để hại nhục Chúa Giêsu trước mặt dân chúng. Không thành công, họ dùng đến vũ lực của đế quốc Roma và cuối cùng họ đã giết Người. Tưởng như thế là xong, nhưng vấn đề lại trở nên với cấp độ nhảy vọt khi mà niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh trở thành lời loan báo của các Tông đồ và sức sống của người tín hữu.
Có câu chuyện kể rằng, một đạo sĩ Ấn Độ hỏi các đệ tử: “Này các con, các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện không?”. Các môn đệ thi nhau trả lời nhưng không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ nói: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Đêm tàn và ngày xuất hiện, là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em, phải chăng đó lửa tình yêu. Sự trăn trở và ước mong sao ngọn lửa ấy bừng lên dường như vẫn đang là lời mời gọi thiết tha mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta: “Phải chi lửa ấy đã bừng lên”. Ngọn lửa ấy có lẽ rất cần chạm đến cuộc đời của chúng ta, gia đình chúng ta, vào nơi môi trường chúng ta đang sống bừng cháy lên niềm vui và chứa chan hạnh phúc, dẫu có gặp phải chống đối từ trong gia đình: “cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng”. Vì thế, tác giả thư gửi Do thái khuyến cáo: “Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất”, vì dẫu chúng ta có chịu cực hình nào cũng “chưa đến nỗi phải đổ máu”.
Nguyện xin ngọn lửa tình yêu của Chúa Kitô đốt lên trong lòng chúng ta, để chúng ta biết sống theo lời Chúa dạy, và đừng bao giờ để cho lòng ghen ghét và sự hận thù ảnh hưởng đến mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Theo tâm lý thông thường, ai trong chúng ta cũng thích nghe những lời ngọt ngào êm tai và đem lại niềm vui. Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay lại gồm những ngôn từ xem ra khó chấp nhận: “Anh em tưởng Thày đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thày bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem chia rẽ”. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta không khỏi lúng túng khi tìm cách hiểu đoạn Tin Mừng này. Tuy vậy, nếu suy tư về hành trình đức tin, mỗi chúng ta đều công nhận một điều, để đến với Chúa Giêsu, phải chấp nhận nhiều hy sinh cố gắng. Có những người theo Chúa Giêsu phải vượt qua nhiều trở ngại. Những trở ngại đến từ nhiều phía: cha mẹ, anh em, họ hàng và bạn bè. Như thế, để có thể theo Chúa Giêsu, phải chấp nhận những buông bỏ, để lựa chọn và gắn bó với Người. Và thế là, vì theo Chúa Giêsu mà xảy ra mâu thuẫn, thậm chí xung đột căng thẳng giữa những thành viên trong cùng một gia đình.
Có thể nói, Giêrêmia là một ngôn sứ trải qua nhiều cực nhọc gian nan nhất. Vì trung thành chuyển tải sứ điệp của Chúa mà người đồng hương đã gọi ông là tên “tứ phía kinh hoàng”. Đoạn sách thánh được đọc hôm nay kể lại việc người Do Thái căm ghét ông và lập mưu bỏ ông xuống giếng sâu, nhằm giết chết ông. Nhờ lòng thương cảm của một người khác là ông Evét Mêléc, ông Giêrêmia đã được đưa lên khỏi hầm. Trong lúc người Do Thái thích nghe những lời ngọt ngào, Giêrêmia lại tuyên bố những lời cảnh cáo, trách móc và đe dọa. Tuy vậy, lời ông nói không phải là của cá nhân ông, mà ông chuyển tải ý định của Thiên Chúa. Những lời ấy vừa nhằm giúp cho quốc dân tránh tai họa, vừa uốn nắn giúp họ tìm được sức mạnh nơi Thiên Chúa. Ngôn sứ là người nói lời của Chúa. Ngôn sứ cũng là người gánh chịu những hậu quả do lòng thù ghét của dân. Tuy vậy, những ai trung thành với sứ mạng loan báo sứ điệp của Chúa sẽ được Ngài thương và cứu chữa. Giêrêmia được cứu sống, đó là bằng chứng ơn phù trợ của Chúa dành cho những ai trung tín với Ngài.
Như thế, con đường theo Chúa vừa ngọt ngào vừa chông gai. Chính Chúa Giêsu cũng đã đi trên con đường thập giá và đã tự nguyện chết trên thập giá để bày tỏ tình thương của Thiên Chúa. Chúa đã đau khổ để nâng đỡ cảm thông những người đau khổ. Thập giá mang muôn màu sắc và muôn hình muôn vẻ. Thập giá cũng hiện diện mọi nơi trong đời sống của chúng ta. Có thể đó là những khác biệt trong suy nghĩ của những thành viên trong một gia đình hay một cộng đoàn; có thể đó là một người bạn đời hay một người hàng xóm có tính nết không mấy dễ chịu; có thể đó là một sự kiện xảy đến làm chúng ta gặp nhiều điều bất tiện… Người Kitô hữu đón nhận thập giá không phải như con trâu mang cày ì ạch bước đi, nhưng như một người chia sẻ gánh nặng của người khác một cách vui vẻ và với mục đích xây dựng cuộc sống bình yên an hòa.
Tác giả thư gửi giáo dân Do Thái đã khẳng định: “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Tác giả cũng khuyên chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu khổ hình để không sờn lòng nản chí khi gặp đau khổ gian nan (Bài đọc II).
“Thày đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đem đến cho trần gian, đó là lửa tình yêu và sức mạnh, là lửa nhiệt huyết rao giảng tình thương Thiên Chúa đối với con người. Hôm nay, Người vẫn mong cho ngọn lửa ấy sáng lên nơi cuộc đời này. Dẫu biết rằng giáo huấn của Chúa Giêsu sẽ được đón nhận nhiều cách khác nhau, nhưng chúng ta không vì thế mà nản chí ngã lòng. Hãy thắp lên ngọn lửa có tên Giêsu, để chiếu rọi mọi nơi tăm tối và mọi góc khuất của cuộc sống. Hãy là một đốm lửa, dù nhỏ nhoi và mong manh yếu ớt, giữa những tăm tối bủa vây xung quanh, hầu sưởi ấm và thắp sáng cho những người lân cận.
Thập giá là biểu tượng của đau khổ, nhưng thập giá cũng đem lại hạnh phúc và niềm vui. Chúa Giêsu đã vác thập giá và đã chết trên thập giá, nhưng Người đã sống lại vinh quang. Thập giá chỉ là một chặng đường, dùng có nặng nề đến mấy cũng chỉ là nhất thời chứ không phải là đích điểm. Đích điểm cuộc đời chúng ta chính là hạnh phúc viên mãn nơi Thiên Chúa. Người có đức tin vững vàng sẽ làm cho thập giá nở hoa và tỏa hương thơm ngát. Đó chính là hương thơm của sự thánh thiện, của lòng yêu mến và trung thành.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nếu có ai hỏi tôi tình yêu bắt nguồn từ đâu? Tôi xin trả lời tình yêu bắt đầu từ một trái tim biết sống vì người mình yêu! Trái tim đó biết cho đi mà không hề tính toán. Trái tim đó biết chạnh lòng thương những mảnh đời khổ đau mà họ gặp trong cuộc sống. Khi ta gặp được người có trái tim như vậy thì ta sẽ gặp được niềm vui của hạnh phúc.
Trái tim biết yêu thương còn là lực hấp dẫn kéo con người ta xích lại gần nhau, đến nỗi có thể hợp nhất nên một với người mình yêu. Thị Nở với tình yêu thương của một người đàn bà đã kéo Chí Phèo từ vực sâu của tội lỗi trở lại làm người với khát vọng lương thiện cháy bỏng.
Ngày 15/1/2018, bé Hải An 7 tuổi nhập viện, được chẩn đoán mắc bệnh ung thư thần kinh thể sao – một thể bệnh hiếm gặp. Dù đã nỗ lực chữa trị, những khối u quái ác khiến em yếu đi từng ngày. Hải An qua đời vào ngày 22/2/2018
Trong những giờ phút tỉnh táo ngắn ngủi cuối cùng, em đã tâm sự với mẹ về việc hiến mô tạng của mình: “Con cũng muốn hiến tặng những bộ phận cơ thể của con cho các bạn đang cần đến nó”. Và rồi người mẹ trẻ đã âu yếm hôn lên vầng trán con lần cuối, nhỏ giọng thì thầm với con: “Con tặng lại ánh sáng cho bạn khác nhé.”
Tình yêu là vậy. Nó không so đo tính toán. Tình yêu đích thực là chỉ biết cho đi và cho đi mãi mãi như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói: “Sống ở trên đời cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi”.
Đây chính là ngôn ngữ tình yêu của Đức Giê-su.Chính Ngài đã để gió cuốn đi và mang lòng thương xót của Ngài đến với mọi ngõ ngách của cuộc đời. Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”. Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết. Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu được vui lòng. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không có tình yêu sẽ không có tặng ban.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Bởi thiếu trách nhiệm người ta giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn đổ nát tựa như cơn lũ sau khi tàn phá môi trường chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc. Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Thế giới hôm nay đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen
.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Nói đến lửa có chúng ta thường nghĩ tới lửa gió và nước.Có thể gọi đây là ba sức mạnh khủng khiếp của Tạo Hóa giữa đất trời bao la, mênh mông. Khi đề cập đến lửa, chúng ta thường liên tưởng đến sự bùng cháy, đến những đám cháy lớn lao tiêu diệt, rồi chúng ta đâm ra lo âu, sợ hãi…Phải chăng đây là lửa đã thiêu rụi thành Sôđôma và Gômôra ? Phải chăng đây là thứ lửa mà Giacôbê và Gioan đã vì căm tức một làng xứ Samaria không chịu đón tiếp Chúa và các môn đệ, mà hai tông đồ này muốn khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi ? Hay là thứ lửa mà chúng ta thường đọc thấy hoặc được học, được xem trong các bức tranh nói về lửa hỏa ngục!
Dù là thứ lửa nào thì nó cũng đáng gờm, đáng sợ! Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã nói đến một thứ lửa :” Thầy đã đến để ném lửa vào mặt đất và Thầy ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên “ ( Lc 12,49 ). Nghe những lời này của Chúa chúng ta đâm ra ngao ngán, sợ sệt. Tuy nhiên, chúng ta phải thay đổi tư duy, thay đổi cái nhìn để hiểu rõ hơn ý của Chúa Giêsu.
Vâng, lửa mà Chúa Giêsu nói ở đây là đức tin. Đức tin có được, hun đức, trui luyện, đức tin đó mới bền vững, mới trưởng thành. Đức tin như ông đại đội trưởng, như người nữ bị băng huyết. Đó là đức tin bền chặt, đức tin vững chắc. Bởi vì, thánh Phaolô đã nói:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết “ hoặc “ Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi “. Chúa Giêsu cũng nói đến sự đau khổ, sự chết khi đề cập đến “ chén đắng “. Chén đắng mà hai ông Giacôbê và Gioan sẽ uống, chứ không phải là việc ngồi bên hữu bên tả của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cho chúng ta hay đau khổ là con đường, là cách thức Chúa Giêsu đã chọn để cứu độ con người, cứu vớt loài người. Nên, con đường đó, cách thức đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta đi theo “ Tôi tớ không lớn hơn Thầy “. Chúa Giêsu đã chọn cách thức duy nhất này để làm gương cho nhân loại, làm gương cho chúng ta.
Chúa Giêsu còn nói đến một ý nghĩa khác nữa trong đoạn Tin Mừng này :” Chúa báo trước cho những ai tin theo Ngài là vì đức tin, vì theo đạo, vì theo Người, họ có thể bị chính những người thân yêu của mình khinh chê, ghen ghét, ruồng bỏ vv…” . Lịch sử Giáo Hội cho thấy rất rõ, có nhiều người vì theo đạo, theo Chúa đã bị bách hại, đã bị giết chết. Máu của nhiều thánh tử đạo đã đổ ra rất nhiều nơi các Giáo hội địa phương. Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta hiểu rất rõ về nhiều cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Gia đình nào có người theo đạo, tin Chúa, người ấy liền bị những người trong gia đình khinh chê, ruồng bỏ vv…
Lịch sử cứu độ cho thấy suốt trong dòng lịch sử con người từ khi Thiên Chúa sáng tao vũ trụ, con người cho đến thời nay đã có biết nhiêu người đã dùng đức tin để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh, minh chứng cho Chúa là Đường, là Sự thật và Sự sống. Lửa cũng có nghĩa là lửa thiêng liêng Chúa thắp sáng nơi tâm hồn chúng ta để chúng ta luôn nhận ra Chúa, tin theo Chúa và làm tất cả mọi sự vì lòng yêu mến Chúa và tha nhân hầu làm sáng danh và làm vinh danh Chúa. Lửa tình yêu, lửa cứu độ làm cho chúng ta luôn biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa vì muôn hồng ân Chúa ban cho chúng ta. Dù chúng ta đang sống giữa những gian nan thử thách, những cạm bẫy bủa vây của ma quỷ, của sự dữ, nhưng chúng ta một mực tin tưởng nhờ lửa tình yêu, nhờ lửa cứu độ mà Thiên Chúa giải thoát chúng ta.
Công đồng Vaticanô II là Công đồng của Chúa Thánh Thần, đã thổi một luồng gió mới vào Giáo Hội, tuy nhiên cũng có nhiều người không muốn canh tân, đổi mới, nên cũng gây ra sự phân hóa, chia rẽ như lời Tin Mừng hôm nay. Tuy nhiên, sau cùng mọi người đều nhận ra rằng chỉ có “ Tình yêu của Đức Kitô thúc bách chúng ta “ và như thánh Augustinô nói :” Tốt đẹp biết bao vì Thiên Chúa là ngọn lửa bùng cháy làm cho chúng ta biết yêu mến Người”. Chúa Thánh Thần chính là ngọn lửa tình yếu đến hiệp nhất, thánh hóa, ban bình an cho Giáo Hội, cho chúng ta để chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đốt lên trong tâm hồn chúng con ngọn lửa tình yêu để chúng con biết luôn “ mặc lấy Đức Kitô “, hầu chúng ta mau mắn chuyền ngọn lửa đức tin, ngọn lửa cứu độ mà Chúa đã đem đến cho nhân loại, để chính ngọn lửa ấy cứu vớt loài người.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Lửa theo Chúa Giêsu có ý nghĩa gì ?
2.Chén đắng Chúa nói có nghĩa gì ?
3.Tại sao Chúa lại nói đem sự chia rẽ ?
4.Sự bình an có cần thiết không ?
5.Lửa cứu độ là gì ?
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thầy đem lửa xuống thế gian,
Mong sao lửa cháy, tràn lan khắp miền.
Tình yêu nung nấu triền miên,
Tỏa lan khắp chốn, ân thiêng dạt dào.
Chúa mong phép rửa Cha trao,
Chu toàn thánh ý, thiên cao cứu đời.
Lòng Thầy khắc khoải khôn vơi,
Đến khi hoàn tất, sáng ngời ước mong.
Bình an nước chảy xuôi dòng,
Cho người tâm thiện, trong lòng ước mơ.
Tại sao chia rẽ hững hờ?
Mẹ cha con cái, nghi ngờ lẫn nhau.
Con trai con gái sầu đau,
Thành viên chống đối, trước sau gây thù.
Ghen tương oán ghét dập trù,
Phân chia đối phó, gương mù khắp nơi.
Lửa thiêng soi chiếu rạng ngời,
Tình yêu thập giá, gọi mời hy sinh.
Theo Thầy từ bỏ thân mình,
Đắng cay khổ nạn, cực hình cũng cam.
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa ấy cháy lên. Chúa muốn cho lửa tình yêu và lửa chân lý được tỏa lan khắp nơi. Ánh sáng của lửa sẽ dọi chiếu vào đêm tối. Chúng ta biết rằng đêm đen không luôn chấp nhận ánh sáng bởi vì sự sáng sẽ dọi tỏ lòng của con người. Nhiều người ta sẽ chối từ ánh sáng và chân lý phúc âm của Chúa.
Giữa ánh sáng và đêm tối có một khoảng cách về sự thánh thiện và tội lỗi. Lời chân lý của Chúa khuấy động cuộc sống của nhiều người. Giai cấp quản trị trong đạo bắt đầu cảm thấy bị mất ưu quyền, nên họ tỏ ra khó chịu. Các thầy tư tế và các vị tai mắt trong dân bị lời Chúa lột trần mặt nạ. Họ bị mất quyền lợi. Họ bị chạm tự ái vì họ luôn nghĩ mình là người công chính. Họ đã chu toàn đầy đủ các lề luật của cha ông. Họ căm phẫn chống lại Chúa. Họ không muốn chấp nhận ánh lửa mà Chúa đem xuống trần gian.
Sống trong đêm tối là sống trong bóng đêm của sự dữ. Những người làm điều gian ác thường chọn đêm tối để hành động. Người nói hành, nói xấu người khác cũng thế, họ không dám công dám đối diện nhưng rỉ tai, dấu diếm và lén lút. Chúa đến mang lửa mới để soi dọi vào chính tâm hồn của chúng ta, chứ không phải những hình thức bên ngoài.
Chúa Giêsu còn nói mạnh mẽ rằng: Ngài không đến đem bình an mà là chia rẽ. Đây là một tư tưởng mới lạ làm chúng ta ngạc nhiên. Chúa xuống trần mang bình an cho nhân loại. Tại sao Chúa lại mang chia rẽ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái? Sự chia rẽ có ý nghĩa gì? Chia rẽ vì có sự giằng co giữa ánh sáng và đêm tối, giữa sự thật và gian trá. Khi sai các môn đệ đi rao giảng tin mừng, Chúa biết các ngài sẽ bị chống đối và bị bách hại như chính Chúa.
Ngựa quen đường cũ. Con người cũng giữ thói quen của mình và không muốn thay đổi. Đôi khi chúng ta khư khư giữ tư tưởng và cách sống đạo của chúng ta. Chúng ta không muốn ai khấy động hoặc thay đổi cách sống của mình. Trong đời sống gia đình cũng thế, sẽ có những phân rẽ vì niềm tin và tâm thức riêng của mỗi thành phần. Chính Chúa Giêsu bị kết án vì Ngài đã mang lửa chân lý và lửa yêu thương đến cho nhân loại.
Chúng ta học biết rằng ngay từ buổi sơ khai của Giáo Hội, người ta đã bách hại đạo, ruồng bắt, tù đầy và giết chết các Kito hữu. Các môn đồ đã gặp phải biết bao nhiêu sự thù ghét và chống đối ngay trong gia đình và cộng đoàn. Thù ghét nhau không phải họ làm điều xấu mà thù ghét vì chỉ họ tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Lịch sử Giáo Hội đã minh chứng hùng hồn những mẫu gương của các Thánh Tử Đạo. Các Ngài không làm hại ai cả, chỉ đơn sơ tin vào Chúa Kitô cũng đã đủ để bị thù ghét, bị ruồng bỏ và bịgiết. Lạy Chúa, xin cho lửa tình yêu sưởi ấm tâm hồn chúng con để chúng con phấn đấu ra đi làm nhân chứng cho Chúa giữa đời.
.
Bông hồng nhỏ
Giữa tiết trời giá lạnh, còn gì hơn khi ta được khoác một tấm áo ấm hay được ngồi sưởi bên bếp hồng, được nép vào lòng mẹ cho ấm áp yêu thương. Cái lạnh của tiết trời thật đáng sợ nhưng nó vẫn không đáng sợ cho bằng sự lạnh lùng giữa người với người. Tình yêu là lửa hồng sưởi ấm những trái tim băng giá. Chúa Thánh Thần chính là lửa yêu thương bừng cháy trong tâm hồn mỗi người.
Chúa Giêsu đã tâm sự cùng các môn đệ lời này: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 49-50). Trên thập giá, trái tim Thầy Giêsu đã để cho lưỡi đòng đâm thâu. Ngay lúc này, ta có cảm nhận được nỗi đau đang giẫy lên trong trái tim của Thầy khi lời Thầy vang lên đầy thổn thức. Khi lắng nghe tâm sự của Thầy, lòng ta cảm nhận một nỗi đau của Tình Yêu bị con người từ khước. Đó là nỗi đau của một người cha khi lặng nhìn người con yêu dấu lạc vào con đường của bóng đêm tội lỗi. Thầy Giêsu là người tôi trung của Thiên Chúa. Ngọn lửa yêu thương mà Ngài đã trao ban cho nhân loại đã làm ấm lên bao tâm hồn lạnh giá giữa dòng đời, đã chữa lành bao tâm hồn thương tích, đã dọi sáng một lối đường dẫn đến hạnh phúc cho bao người tội lỗi biết tìm về nẻo chính đường ngay. Ngọn lửa ấy phải được bùng lên để bao người được thấy ánh sáng tình yêu của Chúa, được hưởng nếm ngọn lửa ấm áp của yêu thương. Giữa bóng đêm mịt mù, cần lắm một ánh sáng soi đường. “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105). Bước theo Thầy Giêsu, ta sẽ tìm thấy một lối đường dẫn đến hạnh phúc, một con đường của phục vụ trong yêu thương và hiến dâng đến cùng. Để khi ấy, lòng ta mang lấy nỗi thổn thức của Thầy, mang lấy nỗi khắc khoải của Thầy mà bước vào thế giới, để con tim yêu thương thúc bách hành động trao ban cách quảng đại. Ta có nhìn thấy ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng ta ngày ta được lãnh Bí tích Rửa tội, ngọn lửa ấy đang cháy lên mạnh mẽ hay leo lét giữa sóng đời bủa vây? Ta hãy chạy đến bên Chúa và tha thiết khẩn cầu Thần Khí Chúa đến thổi bùng ngọn lửa trong trái tim ta, thiêu rụi hết bao nhiêu tội lỗi, những ích kỷ và hư danh giả trá để tâm hồn ta lại được bừng cháy hân hoan.
Thầy Giêsu đã nói với các môn đệ rằng “Ngài đến để đem sự chia rẽ”. Ngài đã mang ánh sáng đến trần gian và những kẻ chuộng bóng tối đã chống đối Ngài. Vì Tin Mừng, ta có sẵn sàng để chấp nhận bị từ khước và đe dọa? Bản thân ta được Chúa mời gọi trở nên muối và ánh sáng cho trần gian. Ta hãy từng ngày mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu, bước vào đời với một tâm hồn tín thác nơi tình yêu và sự dìu dắt của Thiên Chúa. “Thập giá hằng ngày làm con xao xuyến nhưng mang lại cho con niềm hy vọng phục sinh”. Lời của ai đó đã từng nhắn gửi ta, đã hơn một lần giúp ta vững bước hơn trên con đường bước theo Đấng Chịu- Đóng- Đinh. Chúa Giêsu sẽ mãi mãi là điểm tựa vững chắc và là người Thầy tuyệt vời nhất, là Đấng khơi dậy nơi tâm hồn ta nỗi khắc khoải về sứ mạng trở nên ánh sáng cho trần gian.
Lạy Chúa Giêsu! Xin ban Thánh Thần Lửa mến trong tâm hồn con để Người dạy con yêu mến Chúa. “Xin làm cho trái tim con có lửa, xin đặt Lời của Chúa nơi môi miệng con và ban cho con có cái nhìn của ngôn sứ và biết sống sứ vụ ngôn sứ”. Amen.
.
Anna Cỏ May
Đi vào các công ty hay các nhà chung cư, chúng ta dễ bắt gặp những ống chữa cháy tại mỗi khu vực, phòng khi có sự cố xảy ra. Tuy nhiên, chúng ta vẫn biết lửa không thể thiếu trong việc nấu ăn hay dùng để đốt những gì chúng ta muốn bỏ. Lửa còn mang lại ánh sáng, là niềm hy vọng cho chúng ta những khi ở trong bóng tối. Trong Kinh Thánh, lửa còn được con người dùng để diễn ta trái tim đang nóng lên như ngọn lửa bùng cháy (x.Tv 39,4). Đối với Thiên Chúa, lửa là biểu tượng tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu tác động thanh tẩy mọi người khỏi dơ nhớp. Ngoài ra, lửa là biểu tượng của Chúa Thánh Thần.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12,49). Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho thế gian. Ngài không ngừng khao khát làm cho ngọn lửa ấy bùng lên. Ngài không còn ở thế gian trong bao lâu nữa. Ngài đi vào Cuộc Thương Khó để mọi người được rửa sạch tội lỗi và nhận lấy Chúa Thánh Thần. Ngài muốn ngọn lửa tình yêu được bùng cháy trong trái tim mỗi người. Ngài yêu từng người bằng tình yêu riêng như mỗi người là đối tượng tình yêu của Ngài. Ngài không ngừng yêu chúng ta mỗi ngày, ngay cả khi chúng ta vô ơn hay phạm tội. Ngài yêu bằng một tình yêu vô điều kiện. Trái tim Ngài luôn khắc khoải về ơn cứu độ cho mọi người. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để đem bình an cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem chia rẽ” (Lc 12, 51).
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nói đến sự chia rẽ giữa người cha và con trai; người mẹ với con gái; mẹ chồng và nàng dâu (x Lc 12,53). Vì Tin Mừng, có khi chúng ta sẽ phải đứng trước nghịch cảnh: sự rạn nứt tình thân khi giữa mỗi người có một niềm tin khác nhau, lối sống khác nhau. Nếu chúng ta quyết tâm chọn Chúa và sống thái độ vâng phục đức tin, chúng ta vẫn mong mỏi một sự hàn gắn tình thân. Chúng ta hãy mang lấy nỗi khắc khoải của Thầy Giêsu, tình yêu sẽ dẫn chúng ta đến hiệp nhất. Hãy cầu nguyện cho chính cha mẹ, anh em của mình nếu như họ chưa có cùng một đức tin. Nhờ ơn Chúa, chúng ta hãy dùng đôi mắt đức tin và tìm hiểu Lời Chúa để hiểu được thánh ý Thiên Chúa. “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). Bởi đó, Chúa Giêsu hằng khao khát lửa Chúa Thánh Thần bùng cháy trong chúng ta, để Chính Ngài sẽ giúp chúng ta hiểu biết về tình yêu Chúa, hiểu hạnh phúc ngay ở đời này. Để tình yêu sẽ dẫn chúng ta đến hiệp nhất. Tâm hồn chúng ta có sẵn sàng mở ra trước ngọn lửa ân sủng của Thần Khí Chúa, để Ngài thổi bùng ngọn lửa trong lòng chúng ta?
Lạy Chúa Giêsu! Xin cho chúng con đắm mình trong ngọn lửa tình yêu và tràn đầy lửa Chúa Thánh Thần, để chúng con không ngừng phấn đấu cho phần rỗi và hạnh phúc của mọi người. Amen.
.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Gr 38:4-6, 8-10; Dt 12:1-4; Lc 12:49-53)
Khi nói tới ý nghĩa cuộc đời, chúng ta có rất nhiều suy nghĩ khác nhau tùy hoàn cảnh sống và tùy mức độ hiểu biết của ta. Tuy nhiên đối với Ki-tô hữu, mẫu số chung của mọi ý nghĩa cuộc đời đều nằm trong ý tưởng cốt lõi là làm nhân chứng đức tin. Qua lối sống, chúng ta nói lên những giá trị Tin Mừng mà Chúa Giê-su dạy chúng ta bằng lời giảng và đời sống của Người. Để làm chứng nhân cho sứ mệnh, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã phải chịu muôn vàn chống đối và nguy hiểm cho cả mạng sống. Trong đoạn thư gửi tín hữu Do-thái, tác giả cũng nhắc đến các “nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh” chúng ta, để nhắc nhở ta rằng khi làm chứng nhân cho Chúa, ta không cô đơn lẻ loi. Đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su chia sẻ với chúng ta rằng sứ mệnh của Người là đến “ném lửa vào mặt đất” (tức làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa) và Người “khắc khoải” mong đợi sứ mệnh ấy được hoàn tất.
Trong lịch sử Cựu Ước, có nhiều câu chuyện làm chứng cho đức tin vào Thiên Chúa, nhất là cuộc đời của các vị ngôn sứ. Trong số các chứng nhân ấy, chúng ta phải nói tới ngôn sứ Giê-rê-mi-a, một con người đã chịu bao cay đắng tủi nhục vì muốn trung thành với sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó. Bài đọc 1 hôm nay kể lại câu chuyện ngôn sứ đã bị các thủ lãnh của nước Giu-đa (vương quốc miền Nam của Ít-ra-en) “điệu đi và thả xuống một cái hầm nước”. Hầm đã hết nước, chỉ còn bùn, nên Giê-rê-mi-a bị lún sâu xuống bùn. Ngôn sứ bị họ đối xử tàn ác chỉ vì ngài “đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành cũng như toàn dân” khi ngài truyền đạt lại sứ điệp của Thiên Chúa rằng: “Ai ở lại trong thành này (Giê-ru-sa-lem) sẽ phải chết vì gươm đao, đói kém và ôn dịch; ai chạy ra ngoài đầu hàng quân Can-đê, thì ít ra cũng sống và bảo toàn được tính mạng… Chắc chắn thành này sẽ bị nộp vào tay đạo quân của vua Ba-by-lon; chúng sẽ chiếm được thành.” Các thủ lãnh coi Giê-rê-mi-a là một mối họa cho toàn dân. Ở đây, rõ ràng ngôn sứ có thể chọn con đường dễ đi, là nói ngược lại điều Chúa truyền để cho các thủ lãnh tin tưởng và tôn vinh ngài. Nhưng ngài không muốn làm trái ý Thiên Chúa, bất chấp sẽ bị bách hại và nguy hiểm tính mạng. Cuối cùng Chúa đã cứu mạng vị ngôn sứ của Người.
Phụng vụ Lời Chúa lấy câu chuyện ngôn sứ Giê-rê-mi-a làm hình bóng ám chỉ Chúa Giê-su, Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến để “ném lửa vào mặt đất” và phải chịu một “phép rửa”. Ném lửa vào mặt đất là sứ mệnh Chúa Giê-su phải thi hành. Lửa là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Tuy nhiên Chúa Giê-su không chỉ “nói” cho nhân loại biết sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa, mà Người còn “hành động” để chứng tỏ chân lý này. Người đã “chứng minh” tình yêu vô điều kiện này của Thiên Chúa bằng cách vui lòng chịu chết khổ giá. Lúc sinh thời thi hành sứ mệnh rao giảng, tâm hồn Chúa Giê-su đã bừng lên ngọn lửa nhiệt thành. Lúc nào Chúa Giê-su cũng canh cánh bên lòng nỗi lo lắng sao cho sứ mệnh được hoàn tất và sinh hoa kết quả. Người rất thực tế nhận ra những chống đối và khó khăn trước mặt. Người biết con đường lên Giê-ru-sa-lem mỗi ngày một ngắn dần và sẽ dẫn Người tới đỉnh đồi Canvariô. Không những Người biết số phận tương lai của bản thân mình, mà cả tương lai của những ai sẽ theo bước chân chứng nhân của Người nữa. Các môn đệ Người rồi đây cũng phải chịu chống đối bắt bớ, chịu thiệt thòi vì làm chứng cho giáo lý của Người. Như thế, việc làm môn đệ Chúa chẳng những không đem lại “hòa bình” trần thế cho các môn đệ, mà còn gây cho họ những mâu thuẫn với những kẻ không theo Chúa, thậm chí cả những người trong chính gia đình họ. Chúa Giê-su luôn mong rằng các môn đệ sẽ trung thành theo Người và vững lòng tin vào Người. Người bảo: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà” (Mt 10:24-25). Lời Chúa nhắn nhủ đã làm nức lòng biết bao người. Lịch sử Giáo Hội để bao nhiêui là tấm gương chứng nhân của các Ki-tô hữu đã theo bước chân Thầy mình để làm chứng rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại chúng ta.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Hôm nay tác giả thư Do-thái gửi đến chúng ta lời khích lệ tuyệt vời về việc làm chứng nhân đức tin. Trước hết tác giả đề cao tấm gương của Chúa Giê-su, “Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin”. Đúng vậy, Chúa Giê-su đã khai mở cho chúng ta biết chân lý tình yêu Thiên Chúa để chúng ta tin. Rồi Chúa Giê-su đã kiện toàn lòng tin ấy bằng cái chết minh chứng của Người. Nhất là tác giả nêu lên tấm gương của Chúa Giê-su, “Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế”, tức là chống đối đến độ đóng đinh Người vào thập giá. Cuối cùng, đoạn thư khích lệ chúng ta rằng: Chúng ta tưởng nhớ đến gương mẫu Chúa Giê-su cốt là để khỏi sờn lòng nản chí, khi chúng ta phải chiến đấu với tội lỗi hầu giữ vững đức tin và làm chứng nhân cho Chúa trong gia đình, học đường, xã hội và thế giới chúng ta. Hơn khi nào hết, Giáo Hội hôm nay càng cần đến chứng từ của các Ki-tô hữu trước một thế giới xuống dốc về đức tin và luân lý.
.
Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Lời Chúa chúng ta vừa nghe: “Thầy mang lửa xuống thế gian và Thầy ước mong ngọn lửa ấy bừng cháy lên”, đó là tâm nguyện của Đức Giêsu. Thế giới này ví tựa như một ngôi đền thờ rộng lớn, bổn phận mỗi người cần phải đặt vào đó một ngọn lửa, để thế giới này bừng sáng lên tình Chúa tình người.
Thế thì, ngọn lửa mà Đức Giêsu mang vào thế giới này là ngọn lửa nào? Thưa, chính là ngọn lửa tình yêu bừng cháy từ trái tim của Ngài. Thật vậy, vì yêu thương nhân loại sống trong bóng tối sự chết, Đức Giêsu từ bỏ từ trời cao xuống đất thấp để thắp lên ngọn lửa yêu thương; ngọn lửa của lòng thương xót; ngọn lửa phục vụ đến nỗi hiến thân mình chịu chết, để rồi từ cõi chết sống lại, Ngài xua tan bóng tối tử thần đem lại sự sống mới cho nhân loại.
Thời Cựu ước, Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với ông Môsê trong bụi gai bốc cháy, và trao sứ mạng cho ông dẫn đưa dân Israel ra khỏi ách nô lệ Aicập – thì nay Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta ra đi thắp sáng niềm tin cho những người chưa nhận biết Chúa.
Đức Giêsu đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh, và sai các môn đệ đi làm chứng cho Tin mừng – nay Chúa cũng sai chúng ta ra đi xua tan bóng tối của bất công, hận thù, chia rẽ, để thay vào đó ánh sáng của tình thương.
Xưa kia ngọn lửa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ, biến đổi họ trở thành chứng nhân Tin mừng – ngày nay chúng ta cũng được mời gọi mang ngọn lửa tình yêu để sưởi ấm những tâm hồn đau thương khốn khổ.
Xưa kia tâm hồn hai môn đệ đi làng Emmau đã bừng cháy lên khi nghe Chúa giải thích Thánh kinh, ước gì tâm hồn chúng ta cũng được ấm áp lên mỗi khi nghe lời Chúa dạy bảo.
Nếu nhân loại ngày hôm nay cần cơm bánh để sống còn, thì cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần tấm áo để che thân, thì cũng cần tình thương để sưởi ấm cho nhau.
Khi người Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng tình thương đã bừng lên như tình anh em ruột thịt. Ước gì, chúng ta hãy là những Samaria nhân hậu, đưa những nạn nhân về quán trọ của lòng mình, bằng đôi tay rộng mở, với tấm lòng yêu thương giúp đỡ, hay ít nhất là một lời cầu nguyện cho những người kém may mắn đó.
Anh chị em thân mến,
Ngọn lửa yêu thương Đức Giêsu đã thắp sáng trần gian, và Ngài ước mong chúng ta tiếp tục thắp lên ngọn lửa yêu thương ấy cho thế giới.
Giáo hội hơn 2.000 năm qua, đã có nhiều tấm lòng vàng như thánh Gioan Thiên Chúa; như mẹ thánh Têrêsa Cancutta, như thánh Gioan Phaolô II, như các chiến sĩ truyền giáo, những người âm thầm phục vụ trong các mái ấm tình thương… Như vậy, ngọn lửa ấy đã có rồi, nhưng còn nhiều giới hạn.
Thật vậy, chúng ta đang sống trong một thời đại, mà dường như không thiếu thứ gì, duy chỉ có tình yêu, tình người và lòng thương cảm đối với nhau ngày càng thiếu vắng, vì “căn bệnh vô cảm” đang lan tràn khắp nơi. Tin tức mỗi ngày cho chúng ta nghe thấy, đó đây vẫn còn chiến tranh, hận thù, nạn kỳ thị chủng tộc màu da và tôn giáo. Như vậy, nhiều nơi bóng tối thiếu tình người vẫn còn che phủ.
Trong một thời đại như thế, lời mời gọi của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay vẫn còn mang tính thời sự, như một hồi chuông gióng lên, thức tỉnh xã hội, cách riêng những người mang danh mình là Kitô hữu, hãy cùng nhau xây đắp một nền văn minh tình thương và lòng thương xót.
Bởi vì, chỉ có lòng thương xót mới thực sự là ngọn lửa thắp lên để sưởi ấm lòng người; chỉ có lòng thương xót mới có thể vực con người đứng dậy, trở về với Thiên Chúa sau những vấp ngã, đau thương trên cuộc đời này.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, hãy mở rộng tâm hồn và thắp lên ngọn lửa yêu thương, xoá đi những ích kỷ nhỏ nhen, để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự con cùng một Cha trên trời.
Ước gì, chúng ta hãy siêng năng đến kín múc ngọn lửa yêu thương từ nơi Thánh Thể Chúa, để rồi chúng ta đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Lạy Chúa, xin đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Xin Chúa soi sáng những tâm hồn còn ngồi trong bóng tối tăm, sưởi ấm những tâm hồn lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để mọi người trên trái đất này cảm nghiệm được ánh lửa yêu thương của Chúa. Amen.
.
PM. Cao Huy Hoàng
Hậu quả của tội nguyên tổ thật là khủng khiếp! Satan thật giả dối, gian ngoa, quỷ quyệt! Con người khi đã chấp nhận theo sự hướng dẫn của Satan thì chắc hẳn phải đi vào chỗ chết, chết ngàn thu. Đáng buồn thay, cái chết ngàn thu ấy được Satan phát họa bằng một sự sống đầy tham vọng, giàu sang phú quí, đầy dư khoái lạc ở đời này.
Nếu Chúa Giê-su không xuống thế gian này để dùng Lời Ngài và chính cái chết của Ngài mà cứu con người được sống, thì con người vẫn mãi mãi chìm trong cái chết kinh hoàng ấy, trong cái vỏ bọc của một sự sống tưởng như là tuyệt vời!
Rõ ràng là Chúa Giê-su đã đến và khởi xướng một cuộc chiến tranh triền miên trong cõi đất này, cuộc chiến giữa Sự Sống Vĩnh Cửu và Sự Chết Ngàn Thu.
Trong khi Chúa Giê-su, Sự Sống Vĩnh Cửu, muốn cho tất cả con người được sống không chỉ đời này, mà còn đời sau nữa, và đời đời trong Nước Thiên Chúa, thì Sa-tan ‘Sự Chết Ngàn Thu’ lại lôi kéo con người ta về phía chỉ sống sung túc khoái lạc ở đời này, không cần có đời sau, đời đời. Càng nhiều người quên đi, hoặc không cần có đời sau, thì Satan càng mãn nguyện, vì chúng luôn là chống lại Thiên Chúa.
“Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”.
Chính Lời Ngài đã mở lòng trí con người phân biệt Thiện, ác; sống, chết; thật, giả… và cũng chính Lời Người là sự Thiện, Sự Thật, Sự Sống làm cho cái ác, cái chết, cái giả dối phải hổ người bẽ mặt.
Cuộc chiến ấy, trước tiên ngay trong lòng mỗi người, và từng giây phút, từng ngày. Con người phải tự chia rẽ chính mình. Cũng trong một con người mà cái thiện cái ác, cái thật cái giả vẫn cùng nhau canh cánh. Bao lâu hãy còn sống đây, trên cõi đất này, thì dù là người có học cao, học rộng, có chức, có quyền, có nhiều đời nhiều năm theo đạo, sống đạo…, có ai dám vỗ ngực xưng tên rằng mình đang hoàn toàn thuộc về sự thiện, sự thật, sự sống đời đời.
Thăm viếng và giúp đỡ cụ Gia-cô-bê trong những ngày cụ lâm bịnh nặng, chúng tôi nghe rõ lời tâm sự của cụ với từng đứa con lúc riêng tư ngồi bên cha, chăm sóc cho cha, cũng chỉ một nội dung: “Hành trình Đức Tin là một cuộc chiến triền miên nghe con. Nhớ là: ma quỷ sàng con như sàng gạo. Ma quỷ rất ác độc nhưng cũng rất dễ thương, rất hung dữ nhưng cũng rất hiền lành, rất thô lỗ cộc cằn nhưng cũng rất ngọt ngào, nịnh nọt… Không cảnh giác, con rất dễ thua cuộc đó. Con phải chiến thắng. Nhưng phải nhờ đến tình yêu và sức mạnh của Chúa Giê-su mới chiến thắng được con à”.
Thiết nghĩ cụ đang nói đến cuộc chiến triền miên trong mỗi con người. Tôi vẫn tâm đắc nhất là câu kết của cụ: “Con phải chiến thắng. Nhưng phải nhờ đến tình yêu và sức mạnh của Chúa Giê-su mới chiến thắng được con à”.
Tôi có cảm giác đây là cả một kinh nghiệm chiến trường của cụ, khi cụ dùng hai từ “tình yêu và sức mạnh” của Chúa Giê-su.
Tình yêu ấy được Chúa Giê-su đề cập trong đoạn đầu Tin Mừng hôm nay: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!”.
Ngọn Lửa của Thiên Chúa Cha được Chúa Giê-su mang đến cho trần gian, là lửa của Thánh Thần Chân Lý, lửa của Thánh Thần Tình Yêu: “Ai yêu mến sự Thật, thì nghe tiếng tôi”. “Ai sống trong Tình Yêu là thực sống trong Chúa”.
Như vậy, phàm ai không yêu mến sự thật thì không nghe tiếng Chúa Giê-su, thì chống đối Chúa Giê-su. Từ đó, trong thế giới loài người xảy ra sự phân rẽ giữa những người theo Chúa và người không chấp nhận theo Chúa, theo giáo lý của Chúa, theo con đường của Chúa. Cũng vậy, ai không sống trong Tình Yêu đích thực của Thiên Chúa thì chống lại Thiên Chúa. Không phải là một sự phân chia rõ ràng, một cuộc chiến triền miên đấy sao. Cụ thể hơn, ngay chính trong lòng mỗi người, mỗi người luôn phải ra sức chiến đấu để được sống đời đời, thì hẳn nhiên phải sẵn sàng tuyên chiến với cái giả trá điêu ngoa, với cái ác tiềm ẩn trong lòng, do ma quỷ điều khiển. Không ai có thể ỡm ờ, lấp lững giữa thiện ác, giữa Thiên Chúa, và ma quỷ. Phải dứt khoát với điều Ác để đón nhận cái Thiện của Thiên Chúa.
Ghi nhận cảm nghiệm về một hành trình Đức Tin đã đi qua của một cụ già, thiết tưởng mỗi người chúng ta phải ngộ ra chúng ta đang là những người lính anh dũng trong cuộc chiến tranh triền miên và hơn thế nữa, phải chiến thắng để bảo vệ Đức Tin, làm chứng cho Sự Thật, cho Sự Sống đời đời. Và chỉ trong Giê-su, chúng ta mới chiến thắng trong cuộc chiến triền miên ở cõi đất này, để chúng ta dành lấy một nền hòa bình là chính sự bình an tâm hồn khi hãy còn sống và chiếm hữu một chỗ trong Nước Thiên Chúa, Nước Hòa Bình.
Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu, chân lý. Xin chính Ngài trở nên sức mạnh của mỗi chúng con trong cuộc chiến triền miên gian khó này. A men.
.
Lm Nguyễn Văn Nghĩa
“Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Thoạt nghe những lời trên của Chúa Giêsu hẳn nhiều người giật mình. Một tôn sư lỗi lạc, một vị đại ngôn sứ, một Đấng Thiên sai mà tuyên phán những lời ấy thì thật chướng tai, khó nghe. Là người, ai cũng đều khát mong được sống trong an bình. “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết” là một sự thật hầu như hiển nhiên. Thế thì chúng ta phải hiểu nội hàm lời tuyên bố của Chúa Giêsu trên đây như thế nào?
Để hiểu đúng và tương đối chính xác lời một ai đó thì cần thiết phải xem xét ngữ cảnh khi người ấy nói. Tin mừng thánh Luca tường thuật ngữ cảnh trước đó là việc Chúa Giêsu khử trừ một tên quỷ câm ra khỏi người bị nó ám và người câm nói được (x.Lc 11,14-23). Tiếp đến Người tuyên bố rằng ai nghe và giữ lời Thiên Chúa mới là người có hạnh phúc thật. Rồi Người tự cho mình hơn cả Ngôn sứ Giona khi thẳng thắn công bố sự thật. Tiếp đến Chúa Giêsu nói về sự nhận thức như là ánh đèn dẫn lối chúng ta đi (x.Lc 11,37-36). Sau đó Người khiển trách nhiều người Pharisiêu và nhiều nhà thông luật đã sống và hướng dẫn kẻ khác trong sự lầm lạc cho dù biết họ sẽ tức tối tìm cách hảm hại Người (x.Lc 11,37-54). Rồi Người khuyến dụ các môn đệ đừng sợ và hãy can đảm công bố sự thật (x.Lc 12,1-12), đừng lo thu tích của cải đời này nhưng hãy tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa và luôn sống trong tinh thần tỉnh thức và sẵn sàng là chu toàn bổn phận với nhưng người được giao phó cho mình chăm nom (x.Lc 12,13-48).
Trong ngữ cảnh này, Chúa Giêsu đã long trọng tuyên bố: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa ấy cháy lên!” (Lc 12,49). Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đem xuống thế gian chính là ánh sáng chân lý như lời Người khẳng định với Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37).
Ánh sáng chân lý đã bừng lên thì sự thật, sự giả, điều tốt, điều xấu sẽ được phân biệt rõ ràng. Ánh sáng chân lý đã chiếu soi thì sự thiện hảo nhất thời, chóng qua và hạnh phúc đích thực, vĩnh tồn sẽ được biện phân. Cảnh mập mờ của buổi thời hổn mang sẽ bị xoá dần và con người chúng ta cần phải chọn lựa dứt khoát. Chọn lựa là hy sinh. Đau đớn là chuyện thường tình khi phải bỏ cái này để chọn cái kia, nhất là khi cái này đã từng gắn bó với mình và nó chưa hẳn là xấu.
Sự xâu xé trong tâm hồn luôn có đó khi chúng ta phải chọn lựa giữa điều lành và điều dữ, giữa một điều tốt và một điều tốt hơn, giữa hạnh phúc nhất thời và hạnh phúc vĩnh cửu. Bị giằng co, bị xâu xé là một lẽ rất tự nhiên vì điều tốt hơn chưa thực sự ở trong tầm tay và hạnh phúc vĩnh cửu vẫn đang còn ở phía chân trời xa. Đây chính là sự chia rẽ mà Chúa Giêsu muốn đề cập.
Ai đến với tôi mà không từ bỏ cửa nhà, ruộng nương, cha mẹ, vợ con…và không vác thập giá mình thì không thể làm môn đệ của tôi (x.Lc 14,26-27). Dù là một lối nói kiểu so sánh nhưng Chúa Giêsu đã thẳng thừng đưa ra một đòi hỏi có tính triệt đễ rằng phải chọn Người trên hết và trước hết. Tất cả chỉ vì lý do này: Người chính là Thiên Chúa thật, nhờ Người mà mọi được tạo thành. Dĩ nhiên khi đã can đảm chịu xâu xé, chịu bắt bớ để chọn Người làm Thầy và làm Chúa của mình, chúng ta sẽ lại nhận được mọi sự như trên cách gấp bội và nhất là sự sống trường sinh (x.Mc 10,28-30).
Lửa đã cháy lên. Ánh sáng đã đến thế gian, Sự thật đã được tỏ bày. Vấn đề còn lại là sự chọn lựa của chúng ta. Chọn lựa là phải hy sinh. Thiện hảo nào cũng có giá của nó. Dù là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa ban cho, nhưng hạnh phúc vĩnh cửu dứt khoát không phải là thứ hàng hoá rẻ tiền.
.
Lm. Bùi Quang Tuấn
Nếu khẳng định Đức Giêsu là “Hoàng tử Bình an”, người ta sẽ nói sao trước lời tuyên bố thẳng thừng của Ngài về chính mình: “Các ngươi nghĩ: Ta đến để ban bình an trên mặt đất ư? Không đâu! Ta bảo thật các ngươi, không gì khác ngoài sự chia rẽ! Vì từ nay, trong một nhà có năm người, sẽ có chia rẽ: ba với hai, hai với ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha với con, con với cha…”?
Làm sao có thể hiểu được khi một người vốn tự xưng là “hiền lành và khiêm nhường” lại gây nên bao nỗi phân ly trong gia đình, một cấu trúc cần được hiệp nhất hơn bất cứ một cấu trúc hay tổ chức nào trên thế giới?
Người ta sẽ phải hiểu thế nào câu nói của Đức Giêsu: “Ta đến ném lửa xuống đất và Ta mong sao lửa đó được cháy lên”? Đây có phải là thứ lửa mà anh em nhà Zêbêđê từng đề nghị Chúa đổ xuống đốt trụi dân thành Samari hỗn láo, hay thứ lửa đã thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra tội lỗi xưa kia chăng?
Khi nhìn vấn đề qua lăng kính “Lưỡi là lửa” trong thư của Thánh Giacôbê, thì lửa của Đức Kitô đã tương phản với thứ lửa hoen ố “do chính hoả ngục nhóm lên” (Gc 3:6). Ngài chính là “Chiếc Lưỡi”—Ngôi Lời của Thiên Chúa, làm phát sinh bao “lời hằng sống”, nung đốt tâm hồn thế nhân và thúc đẩy một hành trình rao giảng. Lời Chúa phải được toả lan đến khắp mọi nơi và sưởi ấm cho hết mọi người.
Lời của Thiên Chúa đã từng thúc bách ngôn sứ Giêrêmia, một con người có tâm hồn diệu hiền và nhạy cảm, sinh ra để yêu mến, thích yên lành hơn gây phiền phức, thành một con người mang sứ mạng ra đi “để nhổ và lật đổ, để huỷ và để phá, để xây cất và để cấy trồng” (Gr 1:10).
Dù luôn cảm thấy mình như một đứa trẻ, nhưng Lời Chúa đã bắt ông đứng dậy, mở miệng ra nói những lời đanh thép và quyết liệt hầu thức tỉnh con cái Israel đang trong cảnh u mê lầm lạc. Thiên Chúa muốn cứu độ Israel qua việc vạch trần các thói hư nết xấu của dân chúng, sự lật lọng giả hình của hàng tư tế, thói bội phản thất ước của hạng quan quyền để từ đó Ngài đòi buộc họ phải có một sự chọn lựa phân minh: phúc hay hoạ, sống hay chết, bình an hay bất hạnh, cậy dựa Thiên Chúa hay con người.
Vì trung thành với sứ mạng truyền đạt Lời Chúa mà ngôn sứ Giêrêmia đã bị dân chúng đối xử tệ bạc. Có lần người ta tìm cách ném ông xuống một giếng bùn cho lún sâu đến chết, hầu không còn tuyên sấm những lời của Giavê nữa. Nhưng một vị hoạn quan người ngoại là Abđêmêlech biết chuyện, đã tìm cách cứu ông ra khỏi giếng bùn. Về sau vì không nghe lời ông, người Do thái đã phản lại vua Babylon và cấu kết với Ai cập. Thế nên chẳng bao lâu, đất nước Giuđa đã rơi vào sự tàn phá kinh hoàng của dân Babylon. Vị ngôn sứ đã bị một nhóm người bắt đưa sang Ai cập. Có lẽ ông đã chết tại đây, giữa những kẻ hằng chống đối giận ghét, vì cớ ông không ngừng nói Lời Chúa để cảnh báo và thúc dục họ.
Theo nhận xét của một nhà chú giải Kinh Thánh là cố linh mục Nguyễn Thế Thuấn,: “Sứ vụ của Giêrêmia quả đã thất bại lúc ông sinh tiền, nhưng dung mạo của ông không ngừng lớn lên sau khi ông chết. Bởi giáo lý của ông về một Giao ước mới, đặt nền tảng trên lòng đạo, tôn giáo nội tâm, ông đã là cha của Do thái-giáo trong cái nhìn tinh ròng nhất… Đặt giá trị tinh thần lên hàng đầu, nêu cao những liên lạc thân mật mà tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa, Giêrêmia đã chuẩn bị cho Giao ước mới, và cuộc quên mình chịu đau khổ để phục vụ Thiên Chúa đã biến ông thành một dung mạo của Đức Kitô”.
Như vậy, Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa, đã phô bày trọn vẹn dung mạo của người ngôn sứ khi phân rõ ánh sáng và tối tăm, điều tốt và điều xấu, chân thật và giả trá, cùng kêu gọi một thái độ rõ ràng: đón nhận hoặc khước từ, bước theo hay chống đối.
Lời ông Simêon nơi Đền thờ đã được xác nhận: “Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người té nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên chống đối” (Lc 2:34). Như thế tất có sự đối kháng, mâu thuẫn. Trong một gia đình, cộng đoàn, hay dân tộc, sẽ có người tin nhận và có người chống cự, có người tìm được bình an đích thực, nhưng cũng có người tự ru mình bằng thứ bình an giả tạo.
Bình an là nỗi khát khao trầm lặng của nhiều tâm hồn. Nhưng để có bình an đích thật lắm khi tôi phải trả giá bằng chiến đấu và hy sinh. Đây là một trong những điểm “nghịch lý” của Tin Mừng, nơi mà người ta thường bắt gặp những giá trị “trái ngược” như: cho chính là nhận, thu tích là mất đi, ai tìm sự sống sẽ phải chết, ai đành chết thì lại có sự sống…
Thực tế, có biết bao chân lý của Tin mừng đã không được nói ra vì sợ gia đình bất thuận, có bao sự thoả hiệp nghịch luân đã không được nhắc tới vì sợ cộng đoàn bớt người, và có biết bao nhập nhằng tội lỗi xấu xa vì sợ phải mang một vết thương rướm máu trong tâm hồn. Tất cả đều là những nguỵ trang giả dối và bình an trá hình.
Bình an thật sự chỉ có được khi con người biết “đặt giá trị tinh thần lên hàng đầu” và “nêu cao những liên lạc mật thiết mà tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa”. Bằng việc nhận chân và nêu cao giá trị tinh thần, cùng sự liên lạc thẳm sâu với Thiên Chúa, mà người môn đệ chân chính của Đức Kitô dám hy sinh những mối quan hệ cao quí trong cuộc đời. Dù đó có là quan hệ ruột thịt thân thương như cha mẹ với con cái.
Chắc hẳn lịch sử Giáo hội không bao giờ quên được hình ảnh của một Phanxicô Assisi, người dám lột bỏ hết mọi giàu sang nhung lụa, trả lại cho người cha trần thế, để chỉ chú tâm kiếm tìm các giá trị thiêng liêng nơi người Cha trên trời. Lịch sử cũng không thể quên được hình ảnh của một Giêrađô Majella quyết liệt trốn nhà ra đi sau khi ghi vội cho mẹ dòng chữ: “Mẹ ở lại. Con đi làm thánh.”
Lại còn nữa hình ảnh của một Charles Cornay đã can đảm bước qua mình song thân, lên đường đi truyền giáo tại Việt Nam, chấp nhận biết bao khốn khó nguy nan, để rồi cuối cùng, dù bị kết án lăng trì, vẫn không dập tắt được ngọn lửa khát khao: làm cho Tin mừng Phúc âm được cháy lên trên mảnh đất xa xôi và nghèo nàn này. Và còn nhiều… còn nhiều lắm các mẫu gương hào hùng của những con người đang tiếp nối việc thực hiện nỗi mong của Chúa Giêsu.
Là người Kitô hữu, tôi cũng được mời gọi dấn bước không ngừng trên hành trình loan báo các giá trị Tin mừng, để lửa yêu thương và bình an được bừng sáng khắp nơi trên thế trần.
.
THẦY KHÔNG ĐẾN ĐEM BÌNH AN NHƯNG ĐEM CHIA RẼ
Lm. Vũ Mộng Thơ
Thoạt nghe những điều Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay, ai trong chúng ta cũng cảm thấy ngạc nhiên và tự hỏi: Tại sao Chúa Kitô lại mang đến sự chia rẽ… Ngài đã chẳng giảng dậy cho các môn đệ: “các con hãy học với Ta sự hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng thì tâm hồn các con sẽ có được sự bình an” sao? Chúa Giêsu còn nói: “Ta là Đường là Sự Thật và là Sự Sống!”. Vậy nếu Chúa là Sự Thật, tức là Chân Lý thì Lời của Ngài không thể sai lầm được, không thể đi ngược hay mâu thuẫn với Sự Thật được. Tại sao và tại sao?
Là có lẽ tại vì chúng ta chưa suy niệm cho đủ và cho sâu Lời Chúa… cũng như trong cuộc đời chúng ta thường có thói quen kết luận “nhanh chóng và gọn nhẹ” những người chung quanh mình nhất là những người không cùng một lập trường với chúng ta, những người mà chúng ta không thích. Tục ngữ Việt Nam đã nói: “Sự Thật thì bao giờ cũng mất lòng”. Ít ra hôm nay chúng ta có thể suy niệm hai điều trong bài Tin Mừng:
– Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
– Là người Công giáo (con của Chúa) chúng ta cũng có bổn phận phải bảo vệ cho Sự Thật.
– Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống
Nếu sự thật bao giờ cũng mất lòng thì Chúa Kitô không ngại làm mất lòng trước hết những Đạo sĩ và Biệt phái kiêu căng tự phụ thời của Ngài để rao giảng chân lý cho dân chúng, để lột mặt nạ giả hình của họ: ra luật nhưng không giữ luật, để họ không còn ăn chặn đầu chặn cổ toàn dân, bóc lột xương máu nhân dân… mà vẫn lên mặt dạy đời là “người công chính trước mặt Giavê, là người lo lắng cho quốc gia và vận mạng của dân tộc… Chúa Kitô cũng không như những người tâng bốc chế độ, ve vãn những người có quyền hành trong một quốc gia, một đoàn thể để hưởng lợi và được che chở. Họ chủ trương “gió chiều nào theo chiều ấy” để họ lừa dối lương tâm, quên hết hay mặc kệ lẽ phải, luật của Chúa của Giáo hội để làm những điều sai quấy, những điều thất đức mà ngay chính lương tâm họ cũng không dám tự hào và đêm về cũng không ngủ cho yên. Chúa Kitô còn chấp nhận chính cái chết, một cái chết nhục nhã nhất để làm chứng cho Sự Thật. Vì chính Ngài cũng là Sự Sống và là Đường cho chúng ta nối gót theo Ngài. Sự Thật thì muôn đời vẫn chiến thắng và tồn tại, còn sự gian trá hay những tay sai của sự gian trá chống lại sự thật… thì dù có quyền phép có khôn ngoan như Luccifer, như Lênin, như Hitler… cũng rất chóng bị tan rã. Cũng thế đối với những giáo phái (secte), những chế độ cầm quyền gian trá bóc lột nhân dân trái với lòng Trời thì cũng rất chóng bị tan rã, hạ bệ.
– Là người Công giáo (con của Chúa) chúng ta cũng có bổn phận phải bảo vệ cho Sự Thật.
Trước hết chúng ta hãy tự hỏi chính mình là đã có bao nhiêu lần tôi đã tự lừa dối chính lương tâm mình… thì đủ biết chúng ta còn rất nhiều thiếu sót trong lãnh vực này. Ai cũng muốn dễ dãi với chính mình nhưng lại rất nghiêm khắc với những người khác. Ai cũng muốn nghe người khác nói tốt về mình, khen tặng mình và không thích những ai chỉ trích phê bình mình. Ta phải tôn trọng sự thật và dám nói lên sự thật đó với con cái, với những ngưòi chúng ta có bổn phận dẫn dắt, dạy dỗ dù sự thật bao giờ cũng mất lòng. Cũng cần phải có “đắc nhân tâm”, sự tế nhị và suy tư cũng như cầu nguyện để thực hiện điều này. Không phải dễ. Chúng ta cần học với Tiên tri Giêrêmia hôm nay dù cho “Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ”, dù biết là toàn dân không thích mình một tí nào ca, vì theo Lời Giavê, Tiên tri loan báo toàn những ăn chay hãm mình… nếu không sẽ án phạt. Nhưng Giêrêmia đã phải chiến đấu với chính mình để trung thành với sứ mạng của Giavê của Sự Thật dù với cái chết. Xưa kia các bạo quyền đã giết sạch các Tiên tri, lên án tử hình ngay chính Con Thiên Chúa… thì ngày nay họ vẫn tiếp tục ám sát Gandhi, Luther King, Don Romco, bỏ tù các nhà truyền giáo, bắt giam cha Nguyễn Văn Lý… nhưng chính những vị ấy đã và sẽ chiến thắng… còn bạo lực sẽ rất mau chóng tan rã. Bạn có đồng ý như thế không?
.
An Phong.
Tin mừng chúa nhật 20 thường niên C thuật lại những lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Những lời này gợi lên một viễn cảnh bi thảm cho sứ vụ của Người trên trần gian: đó là cuộc Thương khó trong tương lai, những đấu tranh làm phân rẽ con người với nhau.
Khi vào trần gian, Đức Giêsu đã đưa lửa vào, và Người ước mong lửa đó bùng lên. Theo Kinh thánh, Lửa là biểu tượng hình phạt của Thiên Chúa, nhất là vào lúc tận cùng thời gian. Lửa còn là biểu tượng cho sự thanh tẩy và làm đổi mới. Chúa Giêsu sẽ thực hiện cuộc thanh tẩy tâm linh nhờ Chúa Thánh Thần.
Đức Giêsu cũng nói đến phép Rửa mà Người sẽ phải chịu. Đây là biểu tượng của việc dìm vào đau khổ – cuộc Thương khó. Người sẽ phải “cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình” (Dt 12,4).
“Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban bình an cho trái đất sao?… Không phải thế đâu, nhưng đúng hơn là để gây chia rẽ”. “Sự chia rẽ là đối cực của sự bình an. Nhưng đây là sự chia rẽ vì Chúa, một sự chia rẽ đi vào qui luật của thập giá: Khi mất đi là khi tìm thấy, khi chết đi là khi được sống muôn đời. Hơn nữa, Đức Giêsu đã hứa: Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Bởi thế Đức Giêsu không đến trần gian để gieo sự bất hòa, nhưng là đem đến sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng nghĩa với sự bình an. Sự bình an Đức Giêsu mang đến là sự bình an phải chiến đấu trong chân lý, phải được xây dựng trong khó nhọc, trước hết ở trong chính bản thân ta rồi lan tỏa chung quanh ta: đó là dám chấp nhận những mệt nhọc, đói khát, thua lỗ, nhường nhịn vì những điều lành, biết tách mình ra khỏi những đố kị và muôn vàn những cái vừa vụn vặt vừa tầm thường của cuộc sống. Lương thực của sự bình an luôn là một thách thức” (Văn Hòe).
Trong lịch sử nhân loại, Đức Giêsu Kitô quả thực là một nghịch lý. Người đã nên dấu chỉ cho người ta chống đối. Người đã đóng ấn chứng từ của mình bằng việc tự nguyện hy sinh bản thân trên thập giá. Cuộc sống và cái chết của Người đã trở thành dấu chỉ của tình yêu, hy vọng và sự sống.
Trong một thế giới thiếu vắng hơi ấm tình người, thiếu vắng một niềm hy vọng đích thực và tình yêu, Đức Giêsu đã mang đến lửa tình yêu của Người. Ngọn lửa đó sưởi ấm cõi lòng con người, thắp sáng niềm hy vọng. Đó là ngọn lửa Tình Yêu Cứu Độ, nơi đó tất cả chúng ta được thanh tẩy.
Người kitô hữu là người được “vầng đông từ chốn cao vời tỏa xuống hào quang sáng chói, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,78-79). Thiên Chúa chiếu soi chúng ta, để chúng ta được bình an. Khi cuộc sống có những lo âu, buồn chán, tuyệt vọng, chúng ta hãy tìm đến với ơn Chúa; “ơn Chúa sẽ lôi cuốn bạn, cho tới khi bạn tìm lại được nguồn vui” (thánh Bênađô). Người kitô hữu đích thực là người sống trong niềm vui, bình an và ơn cứu độ của Chúa. Người kitô hữu đích thực thắp lên ngọn lửa tình yêu của Thánh Thần trong lòng mình và nơi người khác.
Phải chăng chúng ta đang sống trong bình an, niềm vui và ơn cứu độ của Thiên Chúa?
Phải chăng chúng ta đang thắp lên ngọn lửa tình yêu, hy vọng và cứu độ để sưởi ấm trần gian?
Lạy Chúa,
Xin đừng để chúng con thất vọng
khi đứng trước khổ đau thử thách.
Xin giúp chúng con nhận ra
giữa những tăm tối vẫn còn ánh sáng,
giữa những đau buồn chóng qua luôn có niềm vui đích thực,
và nhất là giữa những thăng trầm biến đổi
luôn có những hồng ân và sự hiện diện đầy yêu thương.
.
NGHE DANH THÁNH CHÚA GIÊSU LÀ CỚ MÂU THUẪN
Lm Trần Bình Trọng
Trải qua suốt dòng lịch sử nhân loại, người ta đã dùng lửa để nấu ăn và thiêu đốt, để chiếu sáng và sưởi ấm, để chạy máy và bắn phá. Lửa mang nhiều ý nghĩa khác nhau trong Thánh kinh. Lửa trong Thánh kinh Cựu ước ám chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa như khi ông Môsê thấy Chúa trong bụi cây bốc lửa cháy (Xh 3:2).
Lửa còn được dùng như là hình phạt khi thành Sôđôma bị thiêu hủy (St 19:24). Trong Thánh kinh Tân ước, lửa ám chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa (Cv 2:3). Trong đêm thánh Vọng Phục sinh, lửa mới được làm phép và thắp vào cây nến phục sinh, tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô. Trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu phán: Thầy đã đến đem lửa vào mặt đất, và Thầy ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên (Lc 12:49).
Lửa Phúc âm mà Ðức Kitô mang đến đã là cớ cho người ta chia rẽ và chống đối ngay từ khi Chúa giáng sinh. Trong Phúc âm hôm nay, Chúa phán: Anh em tưởng rằng Thày đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ (Lc 12:51). Lời Chúa trên đây xem ra có vẻ mâu thuẫn với sứ mệnh và đường lối của Chúa cứu thế.
Khi Chúa cứu thế sinh ra tại Bêlem, các sứ thần ca hát vang dội: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (Lc 2:14). Khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi từng hai người một, Chúa bảo các ông chúc bình an cho nhà mà các ông vào (Lc 10:5). Khi Chúa sống lại từ cõi chết, lời đầu tiên Chúa nói với các môn đệ là lời chào bình an (Mt 28:9; Lc 24:36; Ga 20:19, 21, 26). Và trước khi về trời, Chúa hứa ban bình an (Ga 15:27) cho các tông đồ.
Vậy làm sao người ta giải quyết được những mâu thuẫn này? Nếu hiểu bình an theo quan niệm người đời, người ta sẽ thấy lời Chúa mâu thuẫn. Còn bình an theo nghĩa Thánh kinh không hiểu theo nghĩa vắng bóng chiến tranh. Bình an theo nghĩa Thánh kinh là không thoả hiệp với sự dữ và tội lỗi. Bài trích sách Giêrêmia cho thấy vị ngôn sứ được Chúa sai đến cảnh giác là thành Giêrusalem sẽ bị phá huỷ vì tội lỗi dân thành. Ngôn sứ Giêrêmia bị tố cáo là phản bội vì làm nhụt chí của dân thành với thái độ chủ bại. Kết quả là ngôn sứ Giêrêmia bị bắt và tống ngục. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do thái bảo ta: Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu đâu (Dt 12:4). Ngụ ý lời thánh Phaolô là người tín hữu phải sửa soạn đổ máu trong cuộc chiến đấu với tội lỗi. Ðó là việc mà có những vị tử đạo trong Giáo hội đã làm.
Từ khi mới sinh, Chúa Giêsu đã là cớ cho người ta chống đối. Vua Hêrôđê khi nghe tin Chúa cứu thế giáng sinh, vì sợ mất ngai vàng nên đã ra lệnh giết các trẻ em từ hai tuổi trở xuống (Mt 2:16). Khi Ðức Mẹ dâng Chúa vào Đền thờ, ông Simêon tiên báo là con trẻ sẽ nên cớ cho nhiều người vấp ngã (Lc 2: 34). Cuộc đời Chúa cứu thế trong ba năm giảng dạy là những chuỗi ngày bị người ta chống đối, bách hại và cuối cùng bị lên án tử hình trên thập giá. Như vậy phải chăng Chúa đến gây ra ngọn lửa bất hoà và chia rẽ trong thế gian?
Ngay cả trong một gia đình, cũng có sự chia rẽ vì danh Chúa. Ðọc lịch sử các thánh giúp ta hiểu được tại sao những phần tử trong một gia đình lại phân rẽ, chống đối nhau. Có những vị thánh khi tận hiến đời mình cho Chúa đã bị gia đình phản đối và tẩy chay. Trong cùng một gia đình khi có những người tin theo Chúa, nghe lời Chúa giảng dạy, còn những người khác không tin theo, cũng có thể gây bất hoà và chia rẽ. Ðọc lịch sử Giáo hội, ta thấy đạo Chúa thường bị chống đối. Những cuộc bách hại đạo là bằng chứng của việc chống đối. Khi người Kitô hữu muốn cải cách Giáo hội, muốn đem lửa Kitô giáo làm bừng cháy trong lòng thế giới (Lc 12:49), tẩy chay và chống đối sẽ đến ngay từ trong lòng Giáo hội. Ðó là trường hợp thánh Têrêsa thành Avila, thánh Jean d’Arc, thánh I-nha-xi-ô đã bị lên án và chống đối chỉ vì chỉ muốn cải cách Giáo hội.
Như vậy người ta thấy càng theo sát gót chân Chúa bao nhiêu, người ta càng bị chĩa mũi giùi bấy nhiêu. Tại sao người ta bị chống đối khi mang lửa Phúc âm vào thế gian? Lí do là vì người khác không muốn chấp nhận hi sinh cố gắng, không muốn thay đổi cách sống, không muốn trả giá cả để làm môn đệ Chúa. Khi người ta muốn sống theo đường lối Phúc âm, khác đường lối thế gian, người ta sẽ bị nghi ngờ, tẩy chay và kì thị. Giáo lý của Chúa giảng dạy, đường lối của Chúa đi đã đem lại tẩy chay và chống đối, nghĩa là đem lại chia rẽ ngay cả giữa các phần tử trong một gia đình.
Sự hiện diện của Chuá, lời Chúa giảng dạy, đường lối Chúa đi, thường làm xáo trộn tâm trí loài người trước đã. Chỉ khi nào người ta bất mãn với con người cũ, với lối sống hiện tại, người ta mới có thể chấp nhận giáo lí của Chúa, sống theo đường lối Phúc âm và coi Chúa là trung tâm điểm của đới sống. Lúc đó bình an mới đến trong tâm hồn. Kết quả của việc chấp nhận đường lối Phúc âm là bình an. Ðó là điều mà thánh Âu-tinh đã có cảm nghiệm được khi thốt lên: Lạy Chúa, tâm hồn con còn lo âu khắc khoải mãi, cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được bình an trong tâm hồn:
Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một Chúa đến
giao hoà loài người với Thiên Chúa,
và đem bình an đến cho người thiện tâm.
Vậy sao sứ điệp của Chúa cứ làm xáo trộn tâm trí loài người?
Xin cho con được nhận thức rằng:
chấp nhận sứ điệp Phúc âm và sống theo đường lối Chúa đi,
con mới có được sự bình an trong tâm hồn. Amen.
.
Lm Giuse Đinh tất Quý
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”(Lc 12,49)
Những lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng này thật kỳ lạ khác thường. Chúng ta còn nhớ có lần hai môn đệ xin Ngài sai lửa từ trời xuống thiêu đốt một làng Samaria không tiếp rước Ngài, thì khi đó Ngài đã mắng hai ông và dùng đường khác mà đi. Vậy mà hôm nay Chúa Giêsu lại nói “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian”. Hay như một lần khác, khi Phêrô đã tuốt gươm ra để bênh cho Chúa lúc quân dữ đến bắt Ngài thì Ngài lại bảo Phêrô hãy xỏ gươm vào bao vì ai dùng gươm thì sẽ chết vì gươm. Vậy mà hôm nay Ngài lại nói “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, + Thầy đến để đem sự chia rẽ !”.
1. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!
Vậy thì Lửa mà Ðức Giêsu mang lại là lửa nào?
Phải chăng là thứ lửa trời đã thiêu hủy Sôđôma, hay thứ lửa mà Giacôbê và Gioan định sai xuống để thiêu hủy một ngôi làng Samari? (Lc 9,55)
Phải chăng là thứ lửa mà cây không trái (Mt 3,10), hay những cành nho khô héo bị quăng vào (Ga 15,6)?
Lửa này có phải là lửa kinh khủng của ngày phán xét?
Trong cái nhìn của thánh Luca, lửa mà Ðức Giêsu muốn làm bùng lên trên toàn cầu, chắc là thứ lửa của Phép Rửa trong Thánh Thần (Cv1,5). Lửa này đã ngự xuống từng người vào lễ Ngũ Tuần (Cv 2,3).
Lễ Ngũ Tuần quả là Phép Rửa trong lửa, nhưng đó mới chỉ là một khai mở ban đầu. Còn cần vô số những lễ Ngũ Tuần khác trên thế giới.
Trái đất này càng lúc càng nóng lên. Nhưng lòng con người lại nguội lạnh như hai môn đệ Emmau.
Chúng ta cần cảm thấy chút lửa ấm (Lc 24,32) của người đồng hành xa lạ, nói cho ta về Lời Chúa.
Chúng ta cần cảm thấy ngọn lửa trong tim như Giêrêmia, thúc bách ông phải nói Lời Chúa dạy (x. Gr 20,9).
Ðức Giêsu đã bắt đầu nhóm lửa trên địa cầu. Ðừng làm tắt đi ngọn lửa ấy, nhưng hãy để nó lan ra.
Lửa thiêu hủy những cằn cỗi.
Lửa thanh lọc những ô nhơ.
Lửa làm ấm lại cõi lòng băng giá.
Lửa sáng soi trên bước đường kiếm tìm sự thật.
Chúng ta cần làm cho mong muốn của Ðức Giêsu thành tựu. Nhưng trước hết chúng ta phải là người mang trong tim ngọn lửa của Thánh Thần tình yêu.
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền Ấn Giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên.
Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong đền thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp là lửa yêu thương cho trần thế.
Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy dùng lửa yêu thương để xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói c3a những anh chị em chúng ta.
Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưới lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”. (TP)
2. “Thầy đến để đem sự chia rẽ”
Thực ra Chúa Giêsu đến trần gian không phải để gây chia rẽ và xáo trộn. Tuy nhiên nhiều khi chính vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xảy ra! Điều này đặc biệt đúng trong thời kỳ Giáo Hội sơ khai. Khi đó, ai bỏ đạo cũ (đạo Rôma, đạo Do thái) để theo đạo Chúa Kitô thì bị gia đình, bạn bè và hàng xóm ghét bỏ, bách hại. Nhưng những Kitô hữu ấy biết làm gì khác hơn được: chọn bên này thì phải bỏ bên kia, và bên bị bỏ sẽ thù ghét mình.
Dù Chúa Giêsu rất hiền lành nhưng, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ: Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống lại Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà hãy tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giàu nổi giận v.v.
Trong Tin Mừng có đầy dẫy những lời chói tai như thế của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta chỉ lựa ra những lời thuận tai để đọc thì Tin Mừng chẳng mang lại ích lợi gì cho chúng ta. Ngược lại, chính những lời làm ta khó chịu, những lời có tính cách quấy rối lương tâm chúng ta mới là những lời giúp chúng ta hoán cải và tìm được ơn cứu độ.
Perpetua là một người phụ nữ vừa mới sinh được một đứa con. Chị sống vào thời hoàng đế Septimô Sevêrô. Gia đình Perpetua là một gia đình danh giá. Perpetua đang học giáo lý với Satunô thì bị bắt. Thấy học trò của mình bị bắt, Satunô cũng tự ra nộp mình.
Cha của Perpetua là một người thờ ngẫu tượng. Ông đến xin con bỏ đạo Chúa mà quay trở về với các thần tượng của ngoại giáo. Perpetua đưa tay chỉ vào một cái bình rồi nói với Cha: “Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không? Đối với con cũng vậy, con không thể cho con một cái tên nào khác ngoài cái danh hiệu là Kitô hữu của con”
Tức giận quá ông đánh cho Perpetua một trận rồi bỏ đi. Sau đó Perpetua không thấy cha trở lại. Chính trong thời gian này Perpetua được rửa tội cùng với một số bạn bè khác. Ngày được trở thành Con Thiên Chúa, Perpetua chỉ cầu xin có một điều. Nàng xin cho có được đủ sức mạnh để chịu đựng nổi những đau khổ của cuộc tử đạo.
Trong nhà giam, Perpetua nhớ đứa con của mình. Chị rất phải đau khổ vì phải xa con. Nhưng rất may, đứa bé vì không có mẹ nên kiệt sức. Người ta phải trả lại đứa be cho mẹ của nó. Nhận lại được đứa con, Perpetua vui sướng, quên hết mọi khổ đau.
Vì biết con mình sắp bị án tử, cha của Perpetua đến gặp con và năn nỉ thảm thiết: “Con ơi! Hãy thương mái tóc bạc của ba. Hãy nhớ đến đôi tay này đã nuôi dưỡng con bao ngày. Hãy thương mẹ của con, anh em con và đứa con nhỏ con đang bồng ẵm trên tay. Không có con, cháu sao sống được. Con hãy bỏ đạo, bỏ điều quyết định làm cho chúng ta mất tất cả.
Mặc dầu rất cảm động và đau khổ trước những lời của cha nhưng Perpetua chỉ biết trả lời: “Thưa cha, tại tòa án sẽ xảy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình”.
.
Trầm Thiên Thu
Bốn chất kết hợp thành vạn vật trong thiên nhiên là Lửa, Đất, Khí và Nước. Thật kỳ lạ trong Việt ngữ, vì cả bốn chất đều phát âm với thanh trắc, cho thấy điều gì đó “sắc bén” lắm. Thật vậy, bốn chất đó rất cần trong cuộc sống, thiếu thứ gì thì khổ thứ đó – nghĩa là không thể thiếu.
LỬA thể hiện tuổi trẻ, với niềm đam mê hừng hực, sôi nổi, không đắn đo đôi khi liều lĩnh, có thất bại rồi lại cháy lên lửa lạc quan với ước mơ và hoài bão. ĐẤT thể hiện sống có trách nhiệm, ý thức hơn, cẩn trọng và thực tế hơn. KHÍ (Gió) thể hiện sự an toàn, hướng ra thế giới rộng lớn, muốn kết nối với mọi người, mọi vật, để trải nghiệm cuộc sống. NƯỚC thể hiện sự khép lại cuộc đời dần dần, như xuôi theo dòng chảy tìm một chốn an nghỉ.
Bốn chất đó gọi là “tứ đại”. Chúng có vẻ “đối nghịch” nhau nhưng lại lại luôn hài hòa. Trong cuộc sống cũng vậy, có những điều tưởng xuôi mà hóa ngược, tưởng ngược mà lại xuôi; và cũng có nhiều điều tưởng chừng là nghịch lý, nhưng thực ra lại là thuận lý – gọi là nghịch-lý-thuận. Đối lại là thuận-lý-nghịch, tưởng xuôi mà lại ngược, tưởng hên mà hóa xui. Triết lý cuộc đời khá nhiêu khê, không hề đơn giản!
Đó là khái niệm của loài người về vấn đề dạng đối lập (phải – trái, trên – dưới, trước – sau, xuôi – ngược, lên – xuống,… ), đối với Thiên Chúa thì khác hẳn, không lệ thuộc bất cứ thứ gì. Chính Chúa Giêsu đã cho biết: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được” (Mt 19:26; Mc 10:27).
Lửa đa dụng: thắp sáng, làm khô, làm chín, thiêu hủy,… Sử dụng đúng thì lửa hữu ích, sử dụng không đúng thì lửa tác hại. Ánh nắng là một dạng lửa rất cần thiết cho mọi loài, mọi vật. Lửa là chất hữu hình mà như chất khí, không thể cắt đứt, nhỏ mà to, to mà nhỏ, càng chia sẻ càng thêm nhiều chứ không bị giảm bớt. Thật kỳ lạ! Ngày xưa, Thiên Chúa dùng “cột lửa” để dẫn đường cho dân đi đúng hướng vào ban đêm (Xh 13:22) trong suốt thời gian họ đi qua sa mạc để về miền đất hứa. Cả màn đêm dày đặc cũng không thể dập tắt được một đốm lửa nhỏ. Lại thêm một sự kỳ lạ nữa.
Từ xưa, Kinh Thánh đã đặt vấn đề và xác định: “Thiên Chúa làm cho đất trổ sinh dược liệu; những thứ đó, người khôn chẳng dám coi thường. Chẳng phải nhờ khúc gỗ mà xưa nước ra ngọt khiến cho người ta thấy hiệu năng của khúc gỗ hay sao? Cũng chính Thiên Chúa cho con người được hiểu biết để tôn vinh Người vì những việc lạ Người làm” (Hc 38:4-6). Quả thật, “tất cả đều là hồng ân” (Rm 4:16), đúng như Thánh Vịnh đã so sánh: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127:1). Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Tác giả sách Huấn Ca kết luận: “Như thế công việc của Người vẫn tiếp tục cho đến khi thiên hạ được an lành” (Hc 38:8). Và rồi còn đưa ra lời khuyên thực tế: “Con ơi, khi đau ốm, con chớ coi thường, nhưng hãy cầu xin Đức Chúa, Người sẽ chữa lành cho. Hãy từ bỏ lỗi lầm, hành động cho đúng đắn, thanh tẩy tâm hồn sạch mọi tội khiên” (Hc 38:9-10). Tâm an thì thân khỏe, tâm rối thì xác loạn. Khoa học cũng đã chứng minh đúng như vậy. Những người hay ghen ghét, hờn giận, thù hằn,… dễ bị bệnh hơn những người hiền dịu, yêu thương, cảm thông, tha thứ,… Tính xấu “tích tụ” nhiều hóa tâm bệnh, tâm bệnh dẫn tới thể bệnh.
Chắc hẳn ai cũng đã từng trải nghiệm nhiều nỗi khốn khó trong cuộc sống đời thường hoặc tâm linh, và cũng có thể cảm nhận như Thánh Vịnh gia: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu. Người kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi vũng lầy nhơ nhớp, đặt chân tôi đứng trên tảng đá, làm cho tôi bước đi vững vàng. Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa” (Tv 40:2-4). Thiên Chúa yêu thương và chúc phúc cho chúng ta (Đnl 7:13), luôn ở với chúng ta và không bỏ rơi chúng ta (Đnl 31:8).
Thế nhưng vẫn luôn có nhiều thứ nghịch lý trong cuộc sống, có thể chúng ta lại gặp bất trắc, bởi vì đau khổ luôn xuất hiện để tôi luyện chúng ta, và cũng là “lời nhắc khéo” để chúng ta không “ngủ quên trên chiến thắng” mà hóa kiêu ngạo. Do đó mà phải kiên trì và tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót bằng cách không ngừng tha thiết cầu nguyện: “Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, nhưng Chúa hằng nghĩ tới. Ngài là Đấng phù trợ, là Đấng giải thoát con, lạy Thiên Chúa con thờ, xin đừng trì hoãn!” (Tv 40:18). Cứ an tâm, vì Ngài nghe từ sáng sớm (Tv 5:4).
Từ khi có loài người tới nay, có lẽ Thánh Gióp là người “trắng tay” giống Chúa Giêsu nhất. Ông chịu những nỗi đau khổ đến tột cùng, bị người đời nguyền rủa, kể cả người vợ yêu quý, vì họ cho rằng ông bị đủ thứ hoạn nạn là do ông thế này thế nọ. Và rồi khi các con ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả, bỗng có một trận cuồng phong thổi tới xoáy mạnh khiến căn nhà sập xuống đè họ chết hết, chỉ có một người thoát nạn về báo cho ông hay. Lạ thay, ông Gióp trỗi dậy, không buồn giận, thản nhiên xé áo mình, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Khổ tột cùng mà vẫn tạ ơn Chúa, đức tin của ông Gióp thật vĩ đại. Giả sử chúng ta bị hoạn nạn như vậy thì sao? Liệu đức tin còn vững vàng hay bị lung lay? Đã từng có những người dám nguyền rủa trời đất chỉ vì chuyện nhỏ chứ chưa phải chịu nỗi đoạn trường quá đỗi như ông Gióp. Có qua gian nan mới biết ai thế nào, đồng hay thau sẽ rạch ròi ngay.
Người ta ví cuộc sống là thương trường, và còn hơn thế nữa, mà như chiến trường, vì luôn phải chiến đấu với đủ thứ đau khổ, và cam go nhất là chiến đấu với chính mình, thế nên rất cần đức tin mạnh mẽ. Thánh Phaolô nói: “Phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa” (Dt 12:1-20). Đức Tin thực sự rất cần thiết cho hành trình tâm linh xuyên suốt cuộc lữ hành trần gian này, và người ta nên công chính là nhờ đức tin mạnh mẽ (Cv 13:39; Rm 3:22, 26, 28, 30). Chính Tổ phụ Ápraham cũng đã nhờ tin mà được công chính hóa (Rm 4:11-13).
Trong cuộc chiến trần gian này, muốn chiến đấu ngoan cường thì nghe lời khuyên của Thánh Phaolô: “Anh em hãy TƯỞNG NHỚ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí. Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu đâu. Thiên Chúa lấy tình cha mà giáo dục” (Dt 12:3-4). Chúng ta có “máu chảnh” nên thường viện đủ cớ để tự biện hộ cho mình.
Theo lẽ thường, chúng ta không thể nào chấp nhận những nghịch lý cuộc sống, nếu không vững tin. Chính cuộc đời Chúa Giêsu cũng đã đầy những nghịch lý. Và có lẽ chúng ta khá “sốc” khi nghe Ngài xác định: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất! Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12:49-51). Bình an và chia rẽ, “chỏi” nhau lắm!
Lại nói về Lửa. Lửa rất mềm nhưng lại rất mạnh, không gì có thể cưỡng lại. Một đốm lửa thì gió thổi tắt, thậm chí hơi thở của chúng ta cũng có thể thổi tắt, nhưng ngọn lửa lớn thì gió càng to càng làm lửa cháy bùng lên. Trong đó cũng có điều nghịch lý. Lạ thật! Những vụ hỏa hoạn và cháy rừng đủ minh chứng sức mạnh của lửa, mà bắt đầu chỉ là một chút lửa – bởi một que diêm hoặc một tia lửa điện.
Lĩnh vực tâm linh cũng tương tự. Lửa mến leo lét thì dễ bị tắt ngúm khi gặp gian nan, nhưng lửa mến mạnh mẽ thì không gì cản nổi – kể cả tử thần, vì thế chúng ta rất cần nỗ lực nhiều để có thể xác tín như Thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Chính ngọn lửa cháy bỏng đó đã tạo nên những thánh nhân, rõ nét là các thánh tử đạo, cụ thể là Thánh PT Lôrensô (tử đạo ngày 10-8-258).
Sự bình an và sự chia rẽ – đối mà không nghịch, đặc biệt là ý nói của Chúa Giêsu: “Từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng” (Lc 12:52-53). Ôi chao, xem chừng rất nghịch lý, thế nhưng lại không phải vậy. Ngài chỉ nói sự thật, mà sự thật thì vĩnh hằng, như Ngài có lần minh định: “Sự thật sẽ giải thoát quý vị” (Ga 8:32). Đêm tối không che nổi đốm lửa, gian ác không thể đánh bại công lý. Cây kim sự thật sẽ có lúc lòi ra từ chiếc bao độc ác.
Chắc chắn bất cứ ai dám sống theo Cách Giêsu, đi trên Đường Giêsu, nói Lời Giêsu, làm theo Kiểu Giêsu,… đều bị coi là dại dột, ngu xuẩn, điên rồ, thậm chí còn bị ghen ghét hoặc bị bách hại. Cuộc sống đã và đang cho thấy rất rõ ràng. Có loại nghịch lý hóa thuận lý: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Lc 9:50). Tương tự, nghịch cảnh vẫn có thể trở thành thuận cảnh để chúng ta gặp được chính Đức Kitô, Đấng đã chuyển bại thành thắng, dùng nhục hình thập giá để làm bàn đạp tới vinh quang. Đau khổ là một loại đòn bẩy hiệu quả.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin ban thêm đức tin cho chúng con (Lc 17:5) và củng cố đức tin còn yếu kém của chúng con (Mc 9:24), xin khơi lửa yêu mến để chúng con đủ sức vượt qua mọi nghịch cảnh và đi xuyên qua đau khổ hằng ngày. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Đức Giêsu hay có kiểu nói nghịch lý làm cho người ta ngạc nhiên khi mới nghe và chưa hiểu hết ý nghĩa tàng ẩn trong đó. Chẳng hạn trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu nói :”Thầy đã đến ném lửa vào trần gian… Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian ? Thầy bảo cho các con biết : không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”(Lc 12,49.51). Nếu Đức Giêsu được gọi là “Hoàng tử của Bình an”, hiền lành và khiêm nhường không mang sự hòa bình cho trần gian mà chỉ đem đến sự chia rẽ. Như vậy Ngài muốn nói gì ?
Đức Giêsu muốn nói cho chúng ta biết rằng sứ mạng của Ngài là xuống trần gian chịu chết để đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người và thanh luyện con người. Thi hành được sứ mạng đó không phải là dễ vì những lời rao giảng của Ngài phải nói lên chân lý và nói lên chân lý thì sẽ đụng chạm đến nhiều người đang chà đạp lên chân lý vì như người ta nói :“sự thật mất lòng”. Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc 1 hôm nay là hình bóng Đức Giêsu. Ông nói sự thật cho dân chúng, nhưng họ không muốn nghe, lại còn hành hạ và muốn giết chết ông. Đức Giêsu cũng phải đi theo con đường đó và Ngài muốn cho việc thi hành sứ mạng đó chóng hoàn tất.
Ngài đến để đem hòa bình cho nhân lọai, nhưng không phải là thứ hòa bình ru ngủ của trần gian mà là thứ hòa bình thật của Thiên Chúa. Thứ hòa bình này chỉ có thể lãnh được khi người ta đã nỗ lực thi hành Lời Chúa và phải tôi luyện bằng Thập giá. Vì thế, Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa nhiều người, ngay những người trong một gia đình. Sở dĩ có sự chia rẽ là vì có người tin theo Chúa, có người không tin theo, lại còn chống đối nữa. Vậy là có sự chia rẽ giữa người tin và không tin. Đức Giêsu đòi chúng ta phải xác định lập trường, phải có sự lựa chọn : tin theo hay không tin theo. Nếu đã chấp nhận tin theo thì cũng phải chấp nhận con đường của Chúa đã đi : phải hy sinh tất cả để trung thành với Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gr 38,4-10.
Thời tiên tri Giêrêmia, dân Do thái phạm tội nhiều, nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylon bao vây. Là người hiền lành, nhạy cảm, yêu quê hương, Giêrêmia phải tuân lệnh Thiên Chúa, đi nói những lời nguyền rủa trên dân mình để khuyến khích họ ăn năn sám hối và quay về nương tựa vào Chúa, nhưng họ cứ tiếp tục đi theo con đường sai lầm đó. Ôâng còn bị cáo giác là chủ bại và cộng tác với quân địch. Vì những lời nói thật đó, ông bị kết án vứt xuống giếng sâu, nhưng Chúa đã cho người cứu vớt ông.
Hôm qua cũng như hôm nay, vị tiên tri phải trải qua kinh nghiệm xương máu để biết được rằng “Sự thật thì mất lòng”. Đó là số phận của nhà tiên tri, người làm chứng về sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngoài ra, việc Giêrêmia bị bỏ xuống giếng là hình ảnh tử nạn của Đức Giêsu và việc Giêrêmia được thóat chết là hình ảnh của Chúa sống lại.
+ Bài đọc 2 : Dt 12,1-4.
Trong khi chúng ta dấn thân cho Nước Chúa, được nghe đoạn thư gửi cho người Do thái sau đây, chúng ta cảm thấy được an ủi và nâng đỡ rất nhiều. Hồi ấy, các Kitô hữu gốc Do thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do thái cũ thù ghét và coi họ là những người phản đạo, mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma.
Thánh Phaolô đôi khi ưa dùng ngôn ngữ thể thao, Ngài ví cuộc sống của Kitô hữu như một cuộc chạy đua, cần phải có nhiều sức dẻo dai, mắt nhìn thẳng vào Đức Giêsu, chính Ngài cũng gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.
+ Bài Tin mừng : Lc 12,49-53.
Bài Tin mừng hôm nay có hai ý chính :
a) Đức Giêsu có sứ mạng xuống trần gian để thanh luyện trần gian và Ngài ước cho việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành. Ngài cũng báo trước sẽ phải qua một cuộc khổ nạn và việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
b) Đức Giêsu dùng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ” để kêu gọi người ta phải có thái độ lựa chọn trước Tin mừng của Ngài. Sứ mạng của Ngài là chịu chết để chuộc tội cho loài người. Ngài tự hiến mình chịu chết, không còn lựa chọn nào khác khi Ngài muốn hoàn thành đến cùng sứ mạng được giao phó. Nhưng một quyết định như thế càng thêm những chống đối và sẽ gây chia rẽ trong chính lòng dân tộc được chọn : một số người sẽ hoán cải, một số người khác thì không, một số người tin theo, một số người không.
Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ còn xẩy ra ngay trong lòng một gia đình.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. ĐỨC GIÊSU ĐEM LỬA XUỐNG TRẦN GIAN.
Khi đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta không khỏi thắc mắc : Nếu khẳng định Đức Giêsu là “Hòang tử của Hòa bình”, người ta sẽ nói sao trước lời tuyên bố thẳng thừng của Ngài về chính mình :”Thầy đến đem lửa xuống trần gian… Thầy đến không phải để đem hòa bình, nhưng là đem sự chia rẽ”? Làm sao có thể hiểu được khi một người vốn tự xưng là “hiền lành và khiêm nhường” lại gây nên sự xáo trộn, gây nên nỗi phân ly trong gia đình, một cấu trúc cần được hiệp nhất hơn bất cứ một cấu trúc nào hay tổ chức nào trên thế giới ?
Người ta phải hiểu thế nào câu nói của Đức Giêsu :”Thầy đến đem lửa xuống trần gian và Thầy muốn sao lửa đó được cháy lên” ? Vậy lửa Đức Giêsu đem đến trần gian là thứ lửa nào?
Trong Thánh Kinh lửa được dùng để chỉ ý nghĩa của hai khía cạnh tích cực và tiêu cực : ngọn lửa ở thiên đàng và ở hỏa ngục. Ngọn lửa là hình ảnh của sự hiện diện thiêng thánh của Thiên Chúa khi ông Maisen gặp gỡ Ngài giữa bụi gai đang cháy (Xh 3,2), hay cột lửa đã hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (Xh 13,21), và ngọn lửa từ trời xuống thiêu hủy thành Sôđôma và Gômôra (St 19,24).
Sức mạnh của Lời Chúa như lửa nơi miệng tiên tri Giêrêmia (Gr 5,14), và ngọn lửa tiên tri Isaia nhìn thấy trong đền thờ đã thanh tẩy môi miệng ông (Is 6,6) trở nên thanh khiết để ngài loan báo sứ điệp cho dân chúng. Tiên tri Eâlia được ví như ngọn lửa, và lời giảng của Ngài như đuốc cháy (Hc 48,1).
Ngọn lửa của Thần Khí đậu trên các Tông đồ và ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3). Mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (Lc 17,29). Lửa là những thử thách (1Pr 4,12).
Trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 12,49-53), Đức Giêsu phán cùng các môn đệ rằng :”Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”(Lc 12,49). Tôi tin rằng lửa mà Luca muốn nói ở đây chính là “ngọn lửa của Thần Khí” đã được ban xuống trên các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3-4) với sức mạnh và tình yêu Thiên Chúa để đi rao truyền Tin mừng khắp muôn dân (Cv 1,8). Ngọn lửa của Thần Khí thanh luyện linh hồn chúng ta khỏi sự ích kỷ và kiêu căng, nguồn gốc gây ra tất cả mọi sự thù nghịch và báo oán.
(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 282-283).
Đức Giêsu mong uớc “ban Thần Khí” cho thế gian. Ngài nói rằng đó là nhiệm vụ duy nhất của Ngài :”Thầy đến vì việc đó”. Chúng ta hãy thử tưởng tượng Đức Giêsu như một người đang ước mong, mang trong mình một dự án lớn lao. Đức Giêsu hăng say với dự án đổi mới toàn thể địa cầu. Lấy lại hình ảnh ấy, một bài ca hiệp lễ hát rằng :”Là kẻ ăn mày lửa, tôi nắm tay Chúa trong tay tôi, như người ta cầm trong tay mình ngọn lửa cho mùa đông và Chúa trở thành đám cháy thiêu đốt thế gian”. Đức Giêsu trở thành một sức mạnh nhiệt thành mới mẻ cho nhiều người hôm nay. Ở giữa những việc tầm thường hằng ngày, chúng ta có thể đốt lên “ngọn lửa nồng nàn của tình yêu”.
Đức Giêsu nói :”Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an đến thế gian ư ? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ”. Với tư cách là một người hiền lành và khiêm nhường trong lòng, làm sao Đức Giêsu đã đến trần gian để gây chia rẽ và xáo trộn ? Tuy nhiên, nhiều khi vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xẩy ra.
Chúng ta cần hiểu rằng : bằng hai chữ hòa bình và chia rẽ, Đức Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin mừng của Ngài (Lc 51-53) : Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9,5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm : chữ “Hòa bình” có nhiều nghĩa : hòa bình kiểu thế gian và hòa bình của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hòa bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài.
Thực tế cho thấy là sứ vụ của Đức Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xẩy ra ngay trong lòng một gia đình (Carôlô, Hạt giống nảy mầm, Chúa nhật năm C, tr 141).
Dù Đức Giêsu rất hiền lành, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ : Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống đối Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giầu nổi giận v.v…. Trong Tin mừng không thiếu gì những lời nói chói tai như thế, nhưng Đức Giêsu cũng cứ nói, vì “thuốc đắng đã tật”.
II. ĐỨC GIÊSU ĐÓN NHẬN SỰ CHỐNG ĐỐI.
Khi nói về Đức Giêsu thường chúng ta chỉ chú trọng vào thiên tính mà quên đi nhân tính của Ngài. Vì thế mà không thấy tính gần gũi, dễ thương, dễ mến cách tuyệt vời của Ngài. Nguyên về mặt nhân bản, Đức Giêsu quả là một con người đặc biệt. Chúng ta đã từng thấy Đức Giêsu nhạy cảm như thế nào khi Ngài chạnh lòng thương trước đám đông, khi Ngài xúc động khóc trước mồ Lazarô. Bài Tin mừng Giáo hội đọc trong phụng vụ hôm nay, giúp chúng ta khám phá thêm về Đức Giêsu : cùng với một tâm hồn tinh tế và nhạy cảm ít ai có, Ngài còn có một hệ thần kinh thép và trong lòng ấp ủ những hoài bão lớn lao :”Thầy đã đem lửa vào thế gian và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên ! Thầy còn có một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.
Hoài bão của Đức Giêsu là gì nếu không phải là biến đổi thế giới này thành Trời mới Đất mới ? Thao thức của Đức Giêsu là gì nếu không phải là thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa là xây dựng Nước Thiên Chúa, Vương quốc và Triều đại của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội con người ? Trời Mới Đất Mới là không gian trong đó con người vui hưởng hạnh phúc thật là nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương nhau. Nước Thiên Chúa, Vương Quốc và Triều Đại của Thiên Chúa là thế giới của Sự Sống, của Yêu Thương, của Bình An và Hoan Lạc.
Để thực hiện hoài bão lớn lao và cao đẹp ấy Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh mất mát, thậm chí cả sự hủy diệt bản thân mình. Hơn nữa, Ngài còn nóng lòng mong đợi cuộc Khổ nạn mau tới như mong đợi những ngày tốt đẹp, tuyệt vời nhất của đời mình.
Bài đọc 1 hôm nay mô tả cuộc bách hại tiên tri Giêrêmia. Các Kitô hữu luôn coi ông như một hình bóng của Đức Giêsu. Ôâng là tiên tri ngay thời còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình trong một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel, sự tàn phá thành Giêrusalem và đền thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ôâng thương yêu tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Ngài. Trước những lời nói tiên tri chân thật của ông, nhiều người thù ghét ông và tìm cách giết hại ông. Nhưng cuối cùng ông đã được cứu.
Đức Giêsu cũng thế : ngay từ những trang đầu của Tin mừng chúng ta đã thấy Đức Giêsu bị các nhà lãnh đạo đương thời bấy giờ đối xử như thế nào. Ngài đến với những lời chân thật, hằng sống, nhưng người nhà không tiếp rước Ngài, vì cho rằng Ngài là mối nguy cơ đe dọa địa vị, quyền lợi tôn giáo, xã hội và chính trị (dĩ nhiên bao gồm cả kinh tế) của họ. Thật ra Ngài chỉ là “tiêu chuẩn” để con người chọn lựa : theo và đón nhận hoặc không theo và từ chối Thiên Chúa. Người ta không có quyền không chọn lựa ! Nhưng người ta có quyền chọn không đón nhận Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa Tình thương. Và chính do chọn lựa này mà mỗi người mỗi ngả.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đã vạch ra điều sẽ dẫn Ngài đến cái chết, và những người môn đệ bước theo Ngài cũng sẽ phải gặp đủ thứ đụng chạm xung khắc (Mt 10,22). Đức Giêsu đã bị chết không chỉ vì những lời rao giảng yêu thương, nhưng còn vì Tin mừng tự do của Ngài đã xung khắc với các nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị. Họ coi Ngài chỉ là con người gây rối và họ nhìn thấy Ngài chỉ là một sự đe dọa cho những địa vị và quyền hành của họ.
Không phải Đức Giêsu không muốn bình an vì Ngài Là “Hòang Tử của Bình an”, nhưng khi Ngài bênh vực cho những giá trị tinh thần, phục vụ cho công lý và giải phóng nhân lọai khỏi những ràng buộc của tội lỗi, thì chắc chắn phải đụng chạm với quyền lực đang muốn duy trì chúng lại.
Đức Giêsu bị người ta ghen ghét. Lòng ghen ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không phù hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà.
Chính vì thế mà Đức Giêsu khuyến cáo các Kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị giết bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình :”Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…” Tình trạng này đã xẩy ra trong Giáo hội sơ khai và vẫn xẩy ra luôn mãi. Lịch sử các vị tử đạo đã chứng minh : những người theo đạo thường bị chính quyền hoặc đồng đạo mình ghét bỏ. Hoặc là trong một gia đình ngoại giáo, có một người trở lại đạo, là để kết hôn với người có đạo chẳng hạn, cha mẹ không bằng lòng. Thế là có sự xung khắc giữa cha mẹ và chính người con của mình.
Truyện : Chấp nhận bị chửi.
Trong một buổi huấn đức tại đại chủng viện Mundelein vào khoảng năm 1992, Đức cố hồng y Joseph Bernadin của tổng giáo phận Chicago đã tâm sự rằng, từ ngày ngài về lãnh trách nhiệm ở Chicago, mỗi ngày đều đặn, không sót một ngày, có một lá thư gửi đến chửi ngài là “son of bitch” –“chó đẻ” ! Vì sao ? Vì ngài theo giảng huấn của Giáo hội chống lại các thứ tệ đoan xã hội, làm mất quyền lợi của bọn tư bản vật chất. !
Đức tin và những giá trị tôn giáo đặt chúng ta vào tư thế đụng chạm, xung khắc với xã hội. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu đã nói :”Các con tưởng rằng Thấy đến để đem sự bình an đến cho thế gian ư ? Thầy bảo thật các con : không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Đó là những sự thù ghét đáng chấp nhận vì nếu không chấp nhận thì có nghĩa là phản bội lý tưởng Tin mừng của mình.
III. ĐỨC GIÊSU ĐÒI SỰ LỰA CHỌN CỦA TA.
Nếu đặt câu hỏi : là người Kitô hữu, bạn đã lựa chọn Đức Kitô và đạo của Ngài chưa ? Chắc có người cho là thừa và có thể là một câu hỏi ngớ ngẩn vì khi đã được chịu phép rửa tội chúng ta đã thề hứa bỏ ma qủi mà chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa, tin theo Đức Giêsu Kitô, do đó, mới được mang danh là “Kitô hữu”. Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, và được mang tên của Ngài.
Đồng ý vậy, đã là Kitô hữu thì dĩ nhiên chúng ta đã chọn Đức Giêsu và đạo của Ngài rồi, nhưng không phải chọn một lần là đủ, là xong. Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi giai đọan của cuộc đời chúng ta phải chọn lại. Chọn lại là kiểm điểm xem chúng ta đã thực sự chọn lựa Chúa chưa, vì nhiều khi, trong nhiều tình huống chúng ta sống theo thế gian, xác thịt và ma qủi mà chúng ta không ý thức. Để kiểm chứng lại sự chọn lựa của chúng ta, hằng ngày chúng ta phải đặt cho mình một câu hỏi :”Đối với tôi, Đức Giêsu là ai” ? Chắc chúng ta sẽ thưa được Đức Giêsu là thế nọ, thế kia… nhưng thể hiệân chứng minh những lời ấy thì không dễ.
Cuộc sống con người hiện nay quá phức tạp và đa đoan khiến cho tâm tư bị phân tán, xé mỏng – ý chí và nghị lực cũng vì đó mà suy yếu. Một đội quân mạnh cũng dễ gì đánh thắng cùng một lúc 3, 4 mặt trận, phải có tinh thần mạnh mẽ mới vào được Nước Trời (Mt 11,12). Các thánh Tử đạo đã can đảm thực hiện Lời Chúa (Mc 8,38; Lc 9,26). Lời Ngài đâu phải không rõ ràng hoặc chúng ta có thể thực hành hay không là tùy ý ? Tình yêu và chân lý luôn đòi hỏi sự lựa chọn dứt khóat, mạnh mẽ. Dù phải hy sinh – Không thể vừa muốn một đời sống dễ dãi, nhàn hạ (hay lười biếng) đồng thời lại muốn vào Nước Trời. Hai cái muốn đó làm sao có thể đi đôi với nhau (Mt 10,36t)? Chính Đức Kitô còn không sống theo ý Ngài (Mt 4,4; Ga 4,34). Thế nên khi dứt khóat chọn Đức Kitô, ta phải nỗ lực sống theo Lời Ngài và đồng thời luôn vững tin vào tình yêu và sự quan phòng của Ngài (Mt 6,25t; Lc 12,22t).
Truyện : Thánh nữ Perpetua.
Perpetua thuộc gia đình quí tộc, bị bắt vì đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngọai, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình, nàng lễ phép nói với cha :”Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không ? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu”. Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới. Perpetua có một đứa con đang bú, rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.
Vì biết con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết :”Con ơi, hãy thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả”.
Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ nghẹn ngào trả lời :”Thưa cha, tại tòa án sẽ xẩy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình”. Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ :”Con hãy thương đến đứa con nhỏ của con”.
Tuy nhiên trước tòa án, cùng với các bạn khác, Perpetua đã công khai tuyên bố trung thành với Chúa và bằng lòng hy sinh tất cả.
Mỗi người tin Chúa phải quyết định hoặc yêu mến gia đình hơn hoặc yêu Chúa Giêsu hơn. Bản chất của Kitô giáo là phải đặt sự trung thành với Chúa Giêsu lên trên tất cả các sự trung thành khác của thế gian. Người ta phải sẵn sàng coi mọi sự như thua lỗ vì cớ cao trọng tuyệt đối của Chúa Giêsu.
Đức Giêsu đã nói :”Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khỏai biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Một phép rửa mới đang chờ đợi Đức Giêsu : tử đạo, cái chết ! Đức Giêsu quả quyết rõ ràng nếu chính Ngài phải trải qua cơn thử thách thì những ai theo Ngài cũng sẽ gặp thử thách trên bước đường họ đi.
Nếu Ngài đến đem bình an của Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã công bố (Is 9,5-6; Mk 5,4; Lc 2,13) thì đây không phải là sự bình an dễ dãi do các tiên tri giả loan báo, sự bình an mà con người không ngừng mơ tưởng; nhưng là bình an Nước Trời mà người ta chỉ đạt được qua Thập giá. Mỗi người được mời lựa chọn thái độ của mình đối với Đức Giêsu, hoặc theo Ngài, hoặc chống Ngài như ông Simêon đã nói tiên tri (Lc 3,35).
Truyện : Họ đã chọn một phép rửa.
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thấy có biết bao gương sáng của những vị anh hùng. Họ mang lửa nhiệt tình can đảm trong tim để làm chứng cho sự thật Phúc âm. Họ cũng đã phải chịu “một phép rửa” của đau khổ như Đức Giêsu đã chịu.
Chẳng hạn như cựu Tổng thống Nam phi Nelson Mendela, người được giải thưởng Nobel về Hòa bình, đã bị tù 27 năm vì đấu tranh chống lại nạn kỳ thị chủng tộc ở Nam phi.
Yitzak Rabin, cựu thủ tướng Do thái, bị ám sát chết vì lập trường hòa bình của mình.
Đức Tổng Giám mục Oscar Rômêrô ở El Salvado bị bắn chết lúc dâng Thánh lễ vì bảo vệ người nghèo chống lại quyền lực.
Và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bị ám sát hụt, như một hậu quả của những giá trị Ngài bênh vực.
Chúng ta có thể sống ung dung để tránh né “ngọn lửa” thanh luyện mà Đức Giêsu đề cập tới không ? Nếu Đức Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những lời “dễ nghe”, hẳn Ngài đã trở nên một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Ngài đã chọn cách làm cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối.
Chúng ta sẽ phản bội Tin mừng nếu chúng ta giản lược nó thành một sứ điệp dịu dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những sự khác nhau giữa người giầu và người nghèo, giữa người có quyền và người cùng khổ, giữa người tốt và người xấu. Một Tin mừng nhạt nhẽo như thế không thể nào thành men làm dậy bột thế gian.
Có một xu huớng “thuần hóa” Tin mừng, giản lược nó thành những lời hay ý đẹp và những kinh nghiệm an tòan dễ chịu. Khi điều ấy xẩy ra thì lửa tàn lụi, men mất hết sức mạnh, muối mất hết vị, ánh sáng trở nên mù mờ. Nếu chúng ta sống như vậy, e rằng đến ngày sau hết Đức Giêsu sẽ đem “ngọn lửa phán xét” từ trờ xuống mà phán rằng :”Ngày ông Lót ra khỏi Sôđôma, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng sẽ xẩy ra như thế, ngày Con Người được mạc khải”(Lc 17,29). Hãy làm cho ngọn lửa nhiệt tình bùng cháy lên như thánh Phanxicô Assisi đã làm. Ngài đã dám lột bỏ hết mọi sự giầu sang nhung lụa, trả lại cho người cha trần thế, để chỉ chú tâm kiếm tìm các giá trị thiêng liêng nơi người Cha trên trời.
Truyện : Ozanam, ngọn lửa nhiệt tình.
Năm 1843, thành phố Paris đang bị xáo trộn, Đạo Công giáo bị đe dọa, các cơ sở tôn giáo bị phá phách. Tại Lyon, bọn thợ thuyền cũng kéo cờ đỏ, hát những bài phạm đến Chúa và phản đạo. Năm ấy Ozanam học luật tại Paris. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc bác ái để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc âm, rước lễ. Cậu thụ giáo với giáo sư Ampère về học thức và đạo đức. Và cậu mạnh bạo bênh vực Giáo hội. Với Ozanam các sinh viên, trước đây rụt rè lo sợ, bây giờ mạnh bạo. Các giáo sư đại học cũng phải kiêng nể Công giáo. Cậu tổ chức các buổi diễn thuyết làm sống lại Đạo Công giáo. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn giúp đỡ các người nghèo khổ. Hồi 18 tuổi, cậu đã thề :”Nhất định hy sinh đến thí mạng cho dân nghèo”. Đồng thời với Ozanam, Montalembert tranh đấu cho tự do giáo dục của Giáo hội, tại nghị trường. Dù là giáo sư đại học, Oznam vẫn hàng tuần đi các khu nghèo khó để dạy giáo lý cho những người công nhân nghèo khổ.
Ngày nay Giáo hội cũng cần nhiều tâm hồn có lửa nhiệt tình như Ozanam.
.
CHÚA GIÊSU MANG LỬA ĐẾN TRÁI ĐẤT
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1. Đoạn này chẳng liên hệ mật thiết với dụ ngôn người quản lý nói trước đây. Nhưng vẫn mang một giọng văn trịnh trọng của cả chương 12. Khi đã cho các môn đệ biết ý kiến về các ngày bắt bớ, Chúa Giêsu lại gợi lên những hình ảnh hãi hùng của sứ mệnh Ngài trên mặt đất này, cái chết đau đớn của Ngài, những chống đối làm cho con người chia rẽ vì Ngài.
2. Câu 49 (Chúa Giêsu nói về lửa mà Ngài sẽ mang đến trên trái đất) đã được chú giải khác nhau. Có người cho đó là thứ lửa đã được đốt lên và dịch là: “Tôi đã mang lửa đến trên mặt đất và tôi còn ước muốn gì nữa, nếu lửa ấy đã được thắp lên? (Crampon, Jounn..). Như thế Chúa Giêsu không còn ước muốn gì nữa và không còn gì để chu toàn sứ mệnh ngoài việc phải chịu thương khó (c.50). Nhưng phần lớn các tác giả đều nghĩ rằng Chúa Giêsu diễn tả một ước muốn và dịch là: “Tôi đã đem lửa đến trên trái đất, và tôi ước ao biết bao lửa ấy được đốt lên!”. Bản Vulgata, có thể đã đọc ei.mê (nisi) thay vì ei.edê (si jam) nên nói lên ý nghĩa sau đây: “tôi muốn gì, nếu không phải là nó trong đốt lên?” Cách dịch thứ hai này (Segon, Khabanbauer, Zorell, klostermann, Legrange, Bille du Kentaine, Buzy, BJ, TOB…) hình như phù hợp với văn mạch hơn, vì ánh sáng rực rỡ mà Chúa Giêsu nói đến hình như còn đang lệ thuộc vào một điều kiện chưa thực hiện được, đó là rửa bằng máu của cái chết Ngài. Hơn nữa, vì luật song đối của người sêmit thích lập lại cùng một ý tưởng hay một ý tưởng tương tự, nên có thể cho rằng nhắc đến tương lai trong câu 50 thì phù hợp với câu 49b hơn. Người ta thắc mắc vì sao lối chú giải thứ hai gán cho chữ Ti ý nghĩa tương tự của tiếng Hy bá bao nhiêu (combien étroit) trong Mt 7,14; hay tiếng Hy lạp Ti cala (cômbien beau).
3. Các nhà chú giải không những bằng lòng về cách dịch câu 49, mà còn thay đổi ý nghĩa của tiếng lửa mà Chúa Giêsu đã đem đến trên mặt đất. Nhiều Giáo phụ có uy tín cho đó là Thánh Thần (Th. Grégoire le Grand, Th. Ambrosiô, th. Syrille d’Alexandie, th. Jérome). Cách chú giải này thấy trong phụng vụ cũ của lễ hiện xuống (lời nguyện thánh lễ ngày thứ 7 lễ hiện xuống), nhưng không phải mọi người đều chấp nhận, có vài tác giả (Maldonat) so sánh câu 49 và 51, dựa vào sự chia rẽ mà Đức Kitô gây nên trong thế gian và thấy lửa mà Chúa Giêsu nói đến là hình ảnh của những cuộc thử thách đang chờ các môn đệ, những thử thách người mong ước vì có sức thánh hóa. Nhưng nếu thế, tại sao Chúa Giêsu lại ao ước thực hiện các thử thách đó như vậy? Có những tác giả khác (Knabenbauer, BJ) thích hiểu lửa của sự nghiệp Đức Kitô trong trần gian, là sự nghiệp thanh luyện và đổi mới nhắc nhở lại hành động lửa tôi luyện vàng và bạc khỏi han rỉ. Nếu người bảo rằng hành động của Thánh Linh, thì lối chú giải ấy rất gần với lời chú giải của các giáo phụ. Các giáo phụ cắt nghĩa rằng lời sấm ngôn của Chúa Giêsu về ánh sáng đã ném xuống thực hiện rồi, chứ không phần nào bị che dấu, như mạch văn cho thấy.
Vì thế người ta cho rằng khi nói đến ánh sáng ấy, Chúa Giêsu nói đến một thứ lửa tượng trưng ở trong tâm hồn (Lc 24,32, các lữ hành thành Emmaus và nó rất tuyệt hảo, vì Chúa Giêsu muốn nó phải được đốt lên. Các giáo phụ đã không lầm khi nhận ra đó là công việc của Thánh Linh hay là Đức Ái, nhưng tốt hơn là nên để cho lời nói có vẻ úp mở như kiểu nói của các tiên tri (Lagrange).
4. Việc thực thi ý muốn của Chúa Giêsu phải tuân phục theo một điều kiện: Con Người phải lên Giêrusalem và chịu thương khó ở đó. Chúa Giêsu so sánh sự thương khó với phép rửa mà Ngài phải chịu, phải bị dìm xuống, vì Ngài sẽ như bị nhận chìm trong những đợt sóng đắng cay và phiền não (Mc 10,38). Tâm hồn Ngài phải chịu dằn vặt vì nhãn quan ấy. Người ta chú giải cơn dằn vặt ấy như là một vết thương đầu tiên của cơn khắc khoải sẽ đè xuống trên Ngài ở Giêtsimani, hay như một ước vọng mãnh liệt trong sứ mạng Cứu thế của Ngài đạt đến tột đỉnh (TOB).
5. Cũng như con người Chúa Giêsu, sự nghiệp của Ngài cũng đem lại sự trái nghịch: “Các anh có nghĩ rằng tôi đem đến hòa bình cho mặt đất không?”. người ta có thể đã tưởng thế vì lời phúc âm của Ngài là sứ điệp hòa bình (Is 9,5tt; Za 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15) và hòa giải. Nhưng khi thế giờ bị lửa thánh linh đốt lên qua lời giảng dạy của các tông đồ, thì phúc âm sẽ không luôn luôn được con người thiện tâm bình thản đón tiếp. Phúc âm sẽ bị con cái bóng tối đánh bật, xô đẩy, và như thế bình an của Đức Kitô không phải là thứ bình an của thế gian, con người sẽ phân rẽ vì Chúa Giêsu, “để tư tưởng của nhiều tâm hồn phải bày tỏ ra” (Lc 2,35). Ngay trong gia đình, tự bản chất là nguyên lý của sự hiệp nhất cũng sẽ xuất phát mối bất hòa bất thuận.
KẾT LUẬN
Sự cứu độ của thời cuối cùng sẽ không đến mà không cần có cố gắng và đau khổ. Mối mong chờ ơn cứu độ bao hàm lòng can đảm chịu đựng gánh nặng và lo lắng khổ sở. Muốn lên trời phải qua thánh giá (pâque: passage). Nhưng thánh giá, mà các môn đệ sống là dấu hiện tiên báo các biến cố thế mạt đã bắt đầu, các biến cố đó đòi hỏi con người từ đây phải có một lập trường dứt khoát đối với Đức Kitô và sứ điệp của Ngài.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 20 TN_C
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên năm C mời gọi các Ki-tô hữu phải kiên vững đức tin trong sứ mạng của mình dù gặp phải những chống đối, thù nghịch.
Gr 38: 4-6, 8-10
Vì trung thành với sứ mạng của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị mọi người thù ghét và bách hại. Các Ki-tô hữu coi vị ngôn sứ này là hình bóng của Đức Ki-tô.
Dt 12: 1-4
Tác giả khuyên những Ki-tô hữu gốc Do thái của ông phải kiên trì đức tin trong mọi gian nan thử thách bằng cách noi gương các bậc tiền nhân, nhất là mẫu gương tuyệt hảo của Đức Ki-tô.
Lc 12: 49-53
Giáo huấn của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ đạt đến tuyệt đỉnh khi Ngài báo trước sứ mạng của các môn đệ sẽ đồng nhất với sứ mạng của Ngài trong cùng một tình yêu tận mức dành cho con người.
BÀI ĐỌC I (Gr 38: 4-6, 8-10)
Đây là một trong những bài trình thuật kể về những đau khổ mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a phải chịu vì trung thành với sứ mạng của mình. Ngôn sứ đã tuyên sấm rằng thành đô Giê-su-sa-lem sẽ bị điêu tàn nếu dân chúng vẫn cứ bất trung với Thiên Chúa của mình. Dĩ nhiên, đối với các thủ lãnh, lời tuyên sấm này phản ảnh tinh thần chủ bại và phản quốc, vì thế họ tìm cách bịt miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a bằng cách thả ông xuống “hầm không có nước mà chỉ có bùn”. Nhưng ngôn sứ được cứu nhờ viên thái giám người Cút là ông E-vét Me-léc.
Để có thể hiểu những nỗi đau giằng xé trong tâm khảm của vị ngôn sứ, chúng ta đừng bỏ qua những lời tâm sự đến xé lòng của ông theo hình thức cầu nguyện như:
“Con vô phúc quá, mẹ ơi, mẹ sinh con ra làm gì,
để cho người ta chống đối, cho cả nước gây gỗ với con?
Con chẳng cho ai vay, cũng không mượn của người,
thế mà vãn cứ bị nguyền rủa.
Quả vậy, lạy Đức Chúa,
con đã chẳng đem thiện chí phục vụ Ngài hay sao?
Nào con đã chẳng cầu khẩn với Ngài cho thù địch
khi nó gặp hoạn nạn, lúc nó phải gian truân?” (Gr 15: 10-11),
nhất là:
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.
Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.
Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,
phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’
Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày.
Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”.
Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim,
ầm ỉ trong xương cốt.
Con nén chịu đến pahri hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20: 7-9).
Thật ra, ngôn sứ Giê-rê-mi-a vốn là một con người hiền lành, không muốn làm mất lòng bất kỳ một ai. Trung thành chuyển giao lời Thiên Chúa mà ông trở nên kẻ thù địch của mọi người, vì những thông điệp của ông đi ngược lại những mong ước của mọi người. Vì thế, đoạn trích dẫn hôm nay không nên nhấn mạnh sự giải thoát cho bằng sứ mạng trung thành chuyển giao lời của Đức Chúa mà ông bị loại trừ và chịu đau khổ. Quả thật, sự đau khổ của Giê-rê-mi-a tiên trưng sự đau khổ của Đức Giê-su, được phác họa trong Tin Mừng hôm nay.
BÀI ĐỌC II (Dt 12: 1-4)
Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục đọc Thư gởi tín hữu Do thái mà chúng ta đã khởi sự đọc vào Chúa Nhật trước. Trong đoạn trích hôm nay, chúng ta đọc lời khuyến dụ kết thúc danh sách các bậc anh hùng Cựu Ước. Các ngài là những “chứng nhân” về niềm tin sắc son kiên vững trong mọi gian nan thử thách. Tác giả Thư gởi tín hữu Do thái mời gọi chúng ta noi gương các bậc tiền nhân kiên trì giữ vững đức tin trong mọi gian nan thử thách. Như một vận động viên, để có thể đạt được vòng nguyệt quế chúng ta phải chấp nhận cởi bỏ khỏi bản thân mình bất kỳ thứ gì làm vướng víu cuộc chạy đua của mình.
Đối với người Ki-tô hữu, Đức Giê-su còn vĩ đại hơn gấp vạn lần các bậc anh hùng Cựu Ước. Khi sống tại thế, Ngài đã không chỉ “khai mở” con đường đức tin nhưng còn “kiện toàn” lòng tin bằng cách “cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Chính nhờ hướng về Ngài, người Ki-tô hữu sẽ thành toàn cuộc đời mình qua những gian nan thử thách của cuộc đời này.
TIN MỪNG (Lc 12: 49-53)
Giáo huấn của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ đạt tới cao điểm khi Ngài mặc khải rằng việc họ thuộc về các môn đệ Ngài sẽ đặt họ vào những cảnh ngộ không yên thân thoải mái đâu. Thực vậy, ý nghĩa sứ vụ của Chúa Giê-su được đề cập ở 12: 49-50 có những phản hồi trực tiếp đến các môn đệ ở 12: 51-53. Tin Mừng hôm nay có hai ý được gợi lên qua hai cặp hình ảnh: “lửa và phép rửa” (12: 49-50), “hòa bình và chia rẽ” (12: 51-53).
Bằng cặp hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giê-su nói đến sứ mạng sắp đến của Ngài. Trước hết, “Thầy đã ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”: Trong Kinh Thánh, hình ảnh “lửa” thường mô tả tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa cho con người (x. Đnl 4: 24; Xh 13: 22; vân vân). Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Người tận mức ở nơi biến cố Nhập Thể của Con Ngài (Ga 3: 16). Qua hình ảnh “lửa”, Đức Giê-su tự nguyện hiến dâng mạng sống mình vì chúng ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15: 13). Vì thế, Chúa Giê-su những ước cùng mong đến giờ thực hiện tình yêu tận mức của Ngài đối với con người được bừng cháy trên Thập Giá.
Tiếp đó, Đức Giê-su mô tả cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài qua hình ảnh phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!”, nghĩa là Ngài sẽ dìm mình vào trong cái chết, nhưng từ cái chết Ngài sẽ sống lại trong vinh quang để không bao giờ chết nữa. Qua hình ảnh “phép rửa”, Đức Giê-su tha thiết ước mong được hiến dâng mạng sống mình vì yêu thương chúng ta. Cũng thế, chúng ta chịu phép rửa, nghĩa là chúng ta dìm mình vào trong cuộc Tử Nạn của Đức Ki tô, tức là chết cho tội lỗi mình, và được tái sinh vào một đời sống mới chan chứa muôn vàn ân phúc: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 4).
Qua cuộc sống mới này, chúng ta, những người Ki-tô hữu, phải bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu theo cùng cách thức như Đức Giê-su đã châm ngọn lửa ở nơi các môn đệ Ngài, như lời của thánh Phao-lô: “Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1: 24).
Con Thiên Chúa đã giáng trần với một sứ điệp hòa bình: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2: 14) và hòa giải: “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5: 11). Các ngôn sứ cũng đã loan báo sứ mạng của Đấng Ki-tô là sứ mạng hòa bình (x. I s 9: 5tt; Dcr 9: 10) và thánh Phao-lô cũng xác quyết chính Đức Giê-su “là bình an của chúng ta”(Ep 2: 14-15). Tuy nhiên, vì cưỡng kháng lại công trình cứu độ của Đức Ki-tô do tội, con người trở thành những đối thủ của Ngài: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao?”. Bất công và lầm lạc dẫn đến chia rẽ và chiến tranh: “Bao lâu con người còn là những kẻ tội lỗi, hiểm họa chiến tranh còn đe dọa và vẫn sẽ còn đe dọa cho tới khi Chúa Ki-tô đến. Tuy nhiên, nhờ kết hiệp trong bác ái, con người vượt thắng tội lỗi và cũng vượt thắng bạo động cho tới khi lời sau đây được hoàn tất: ‘Họ sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thánh lưỡi liềm. Các dân tộc sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ không tập luyện để chiến đấu’ (Is 2: 4)” (Vatican II, Gaudium et spes, 78).
Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên, dù rằng “Người đã đến loan Tin Mừng bình an” cho hết mọi người (Ep 2: 17-18), tuy nhiên, suốt cuộc đời tại thế, Đức Giê-su đã là dấu chỉ của sự mâu thuẫn (x. Lc 2: 34). Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết rằng sự bất đồng và chia rẽ đồng hành với công việc truyền bá Tin Mừng (x. Lc 6: 20-23; Mt 10: 24). Ngay cả trong gia đình vốn là nơi yêu thương và đùm bọc nhau, đôi khi vì niềm tin vào Ngài và vào Tin Mừng của Ngài lại trở thành cuộc bách hại ngay trong gia đình mình. Vì thế, Chúa Giê-su nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình theo kiểu thế gian, nghĩa là không có chiến tranh, bách hại, mà là hòa bình của Thiên Chúa, một thứ hòa bình ngự trị trong cõi thâm sâu của lòng người, đó là hòa bình mà thế gian không thể nào ban cho được.
“Lời Chúa Giê-su nói về sứ mạng của Người cũng là một lời khuyến cáo các môn đệ Người: Sự kiện Nước Thiên Chúa đến không phải để các môn đệ hưởng thụ một cuộc sống bình an một cách thụ động. Họ sẽ hưởng bình an đấy, nhưng là một thứ bình an mà phải cố gắng chiến đấu mới đạt được, chiến đấu trong gian truân thử thách, chiến đấu với cả những người thân không cùng niềm tin với mình. Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba đã hiểu như thế, nên đã khuyên các tín hữu rằng: ‘Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa’ (Cv 14: 22). Hòa bình Chúa ban là kết quả của những cố gắng để giải quyết tình trạng ‘chia rẻ’: a) Nơi bản thân mỗi người, chỉ có hòa bình thật khi không còn xung đột giữa cái tôi hướng thiện với cái tôi hướng ác; b) Nơi gia đình, nơi xã hội và bất cứ nơi nào cũng thế, chỉ có hòa bình thật khi mọi người đều một lòng một ý với nhau”(“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
.
Lm. Jos. DĐH.
Mơ ước của con người là được sống vui sống khoẻ, các nhà lãnh đạo thì hướng tới mục tiêu: dân giầu nước mạnh, các đấng bậc sinh thành lại mang chung một thao thức, ta phải làm gì để có được gia đình hạnh phúc, con cháu nên người hữu ích. Hoà chung với vòng xoay ở đời này, mơ ước của chúng ta là gì ? Cơm áo gạo tiền, giầu sang phú quý, hay được sung sướng an nhàn ? Câu trả lời sẽ tuỳ thuộc vào tự do của mỗi người chọn lựa, dù tương lai ra sao thì hiện tại chính là lúc ta đang đầu tư. Cuộc sống có vui có buồn, có nhiều trải nghiệm riêng tư: con đường dẫn tới thành công, không bao giờ thành lối, sống có ước mơ, nhất định phải để đôi chân mình cất bước. Vì bất luận người ta chăm chỉ, lười biếng hay sống cẩu thả, họ đều thấy một kết quả: hấp tấp vội vàng chỉ làm hỏng cơ duyên ; hoặc muốn gặt may mắn, ắt phải gieo ơn lành.
Chúa Giêsu hôm xưa đã gợi lên mơ ước hạnh phúc của Ngài và mời gọi mỗi người suy xét, chọn lựa, bằng chính sự tự do của mình: “Thầy đã đến ném lửa vào thế gian, và Thầy ước mong sao cho lửa ấy bừng cháy lên” ! “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống cho thế gian ư ?”. Trước hết, và trên hết, xưa nay gì cũng cần phải hiểu thứ lửa mà Chúa Giêsu nói đến là gì, bình an của Chúa và bình an nơi cuộc sống này có khác nhau gì không ? Theo tự nhiên, chẳng ai mơ ước mình phải đau khổ, chẳng ai muốn chọn lựa một tương lai mù mịt. Do đó, người không tin trời phật sẽ ao ước: được an nhàn, được thụ hưởng niềm vui ở hiện tại ; người tin theo Chúa: bây giờ và mai sau đều muốn chọn Chúa và tin tưởng sẽ được hạnh phúc trong Chúa.
Theo phạm vi siêu nhiên, Thiên Chúa vẫn ban ơn cho con người một khả năng để hiểu: lửa mà Đức Giêsu nói là lửa yêu thương, lửa yêu thương có sức tẩy rửa, biến đổi tâm hồn xấu xa tội lỗi nên thánh thiện, hạnh phúc trường tồn. Lửa yêu thương là thứ lửa được Đức Giêsu thanh tẩy bằng sự vâng phục thánh ý Chúa Cha, bằng cuộc tử nạn và phục sinh, vì thế, lửa yêu thương sẽ mang ý nghĩa mời gọi tin và sống niềm tin để được thiêu đốt tội lỗi và làm cho ta thật sự được sống hạnh phúc. Thứ lửa hận thù ghen ghét, là lửa tiêu diệt, lửa giết chết theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thứ lửa đáng sợ ấy ngay trong gia đình, xã hội, đã có chia rẽ, bất hoà rồi, không có tiếng nói chung, vì quyền lợi vật chất làm đảo lộn, vì ích kỷ hơn thiệt, thiếu sự hy sinh tha thứ !
Thầy đã đến và đem lửa vào thế gian, thoáng nghe chúng ta có cảm giác Đức Giêsu “thích chơi trò mạo hiểm quá” ! Nếu nghe tiếp, chúng ta sẽ có ý nghĩ khác về thứ lửa yêu thương được Ngài lý giải: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất ! Lửa yêu thương mới đủ đốt cháy được tội lỗi của con người, lửa yêu thương mới đủ ấm áp hoà hợp được tình đệ huynh, mang lại bình an cho các tương quan gia đình, xã hội. Nhiều câu hỏi được đặt ra, nhiều thắc mắc dường như bế tắc không có đáp án: tại sao cứ yêu là khổ, tại sao thật thà thường thua thiệt, vì sao cứ biết nhiều, cứ yêu nhiều là sẽ khổ nhiều ? Tại sao theo Chúa thì phải tuân giữ lề luật, phải sống giáo huấn của Chúa một cách nghiêm túc ? Tại sao ăn gian nói dối, mánh lới lừa đảo, họ vẫn có danh có phận ở đời ; trong khi sống ngay thẳng, sống đúng với tinh thần yêu thương của Chúa, thì đầy khó khăn, bất trắc ? Chỉ một vài gợi ý như thế, có thể ít nhiều chúng ta cũng thấy: mơ ước và chọn lựa luôn phải “có tri và hành”, mơ ước và chọn lựa ấy mới có giá trị.
Người trẻ hôm nay có những câu “tự tình” đáng để chúng ta phải suy nghĩ: thất tình mới biết yêu là khổ, say tình mới biết khổ vì yêu ! Nói lên định nghĩa về tình yêu, không khó, sống đúng sống đẹp, với lời gọi yêu thương bao giờ cũng phức tạp hơn. Làm cho ngọn lửa “nấu bếp” cháy lên không khó, chỉ cần một cái “quẹt ga” là ổn ; trong khi chỉ vô tình vô tâm một chút, là làm tắt cả tình nghĩa anh chị em mình ! Thực ra thì hoa có thơm là nhờ nhuỵ, người “có tâm có tầm” là nhờ đạo đức, uy tín ; tương quan yêu thương có bền chặt, là do biết cảm thông, đón nhận cả tính tốt tính xấu của nhau. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cùng Chúa làm cho lửa mến yêu ở trong lòng gia đình xã hội lớn lên, cháy lên, cũng có nghĩa là hãy làm cho mơ ước và chọn lựa của mình được mạnh mẽ hơn bằng tình yêu và gương sáng đức độ. Có bột sẽ gột nên hồ, có tình yêu Giêsu mới cư xử bác ái giống như Chúa được. Xin tình yêu Giêsu ở mãi trong ước mơ và chọn lựa của mỗi người đang tin tưởng cậy trông vào Chúa. Amen.
.
Lm Vũđình Tường
Sông rộng, núi cao, rừng rậm, sa mạc và đại dương đều là những trở ngại trong việc di chuyển, bởi chúng chia cắt đất đai, khoanh vùng thành những nơi thời tiết, mưa nắng khác nhau. Nhờ thế mà có những nơi bên này núi khí hậu ôn hoà mát mẻ, bên kia núi khí hậu khắc nghiệt. Để vượt qua những trở ngại trên, người ta dùng thuyền hay phà di chuyển qua sông, tầu thủy vượt đại dương và ngày nay máy bay chuyên chở hành khách từ lục địa này sang lục địa khác. Đó là công trình sáng tạo của thiên nhiên.
Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế, nhưng là đem sự chia rẽ Lc 12,51
Theo cách của thiên nhiên, ngăn cách không xấu bởi việc ngăn cách mang lại kết quả tốt, điều hoà khí hậu và đôi khi còn ngăn chặn nước lũ tràn lan. Ngoài ngăn cách thiên nhiên ra, còn có những cách trở do con người tạo ra. Thí dụ như đường xá, công viên, đường rầy xe lửa và đại lộ ngăn cách vùng này với vùng khác, tạo nên sự phân biệt giá trị đất đai, và ngay cả nếp sống, tình trạng an toàn cũng khác biệt. Để vượt qua những ngăn cách trên con người xây dựng những con cầu, thuận tiện cho việc di chuyển ngày đêm.
Về phương diện văn hoá và tâm linh con người cũng có những khác biệt. Ở những quốc gia có nhiều sắc tộc khác nhau, văn hoá khác biệt. Khi gặp phải văn hoá khác biệt người ta thường dè dặt, cẩn trọng sợ đụng chạm văn hoá, không giám bác nhịp cầu thông cảm mà e dè xử dụng phương pháp ‘dùng phà di chuyển’ cổ điển. Phương pháp này rất chậm và bị hạn chế. Bác nhịp cầu thông cảm, việc hiểu nhau sẽ nhanh hơn và tiện hơn. Điều này có thể áp dụng cho tâm linh. Khi gặp phải các niềm tin khác nhau thì nhịp cầu thông cảm giúp tìm hiểu các niềm tin khác nhau nhanh hơn và tiện lợi hơn. Đây chính là điều Đức Kitô nói với các môn đệ khi Ngài sai họ đi rao giảng cho muôn dân, làm phép rửa cho họ trong Chúa Ba Ngôi: Ngôi Cha, Ngôi Con và Thánh Thần Mat 28,19. Rao giảng cho muôn dân và làm phép rửa cho họ chắc chắn sẽ gặp chống đối từ mọi phía, từ gia đình đến xóm làng, và ngay cả trên bình diện quốc gia.
Họ sẽ chia rẽ nhau, cha chống lại con trai … mẹ chồng chống lại nàng dâu c.53
Đối với Đức Kitô, sự sống trường sinh là điều tối quan trọng nên không thể nhập nhằng mà cần phải rõ ràng, ngăn cách, phân biệt rõ đâu là điều cần phải tin theo, và đâu là điều phải dứt khoát từ bỏ. Khi làm công việc đó chắc chắn có chia rẽ, chống đối. Cần bác nhịp cầu thông cảm, giải quyết vấn đề cách ổn thoả, dịu dàng trong lời nói, nhịp nhàng trong hành động và nhẹ nhàng tránh bạo động, chống đối. Tất cả đều phải làm trong tinh thần cầu nguyện, bởi thiếu cầu nguyện ta có thể không biết mình đang đi sai đường. Sức mạnh cầu nguyện tạo nhịp cầu thông cảm. Sức mạnh cầu nguyện uốn thẳng tư tưởng cong queo. Sức mạnh cầu nguyện sưởi ấm tâm hồn nguội lạnh. Sức mạnh cầu nguyện soi sáng bóng tối tâm linh. Sức mạnh cầu nguyện trong sáng hoá tư tưởng vẩn đục bởi dục vọng, chủ thuyết. Sức mạnh cầu nguyện hàn gắn rạn nứt, làm hẹp lại cách biệt. Sức mạnh cầu nguyện hoà giải bất đồng. Sức mạnh cầu nguyện tẩy rửa phong tục tồi bại thành phong tục tốt lành đặt nền tảng trên chân lí Chúa, yêu thương và tha thứ. Đây chính là ý nghĩa của việc rửa tội bằng lửa mà Đức Kitô nói đến tác dụng thanh tẩy của lửa. Sau đám cháy là sự sống mới, sức sống mới mang lại khung cảnh mới, tươi đẹp, an bình đầy nhựa sống.
.
Lm Nguyễn Xuân Trường
Người ta đang lo sợ hiện tượng ấm lên toàn cầu làm biến đổi khí hậu gây nhiều thảm họa thiên tai cho thế giới. Ngược lại, người ta thấy còn đáng sợ hơn nữa là hiện tượng lạnh lẽo của tình người làm mất đi tình liên đới, và tạo nên sự vô cảm trong xã hội hôm nay. Một thế giới lạnh nhạt tình thân.
Trước thực trạng ấy, lời Tin Mừng hôm nay như tia nắng ấm chiếu vào mùa đông lạnh giá tình người, làm nên một mùa xuân ấm áp yêu thương: Chúa Giêsu đã đến ném lửa vào thế gian và ước mong lửa ấy bùng cháy lên.
Đó là lửa tình yêu đốt cháy những hận thù ghen ghét. Lửa lung linh tình Chúa để sưởi ấm lòng người và đem mùa xuân yêu thương cho đời.
Đó là lửa lòng Chúa thương xót bao trùm mọi yếu đuối lỗi lầm, lan tỏa lòng bao dung tha thứ và chữa lành, để mọi tội nhân có thể làm lại cuộc đời tươi sáng.
Đó là lửa ánh sáng chân lý xóa tan những bóng tối gian dối lọc lừa, những đêm đen của nghi ngờ, mở ra một lối sống chân thật tin tưởng.
Đó là lửa ánh sáng hy vọng chiếu rọi những mảnh đời tuyệt vọng. Lửa ánh sáng Chúa Phục sinh đã soi sáng một lối nhìn mới: Cái chết không phải là nỗi tuyệt vọng đóng lại đời người, mà là cánh cửa mở ra cho ta bước vào đời sống mới.
Trên hết, chính Chúa là ngọn lửa tình yêu cứu độ. Chúa đã cháy hết mình vì yêu thương nhân loại khi hy sinh trên thánh giá.
Xin ngọn lửa tình yêu Chúa soi sáng cuộc đời, sưởi ấm tâm hồn và bừng cháy lên trong lòng mỗi chúng ta. Nhờ ngọn lửa ấy chúng ta được tăng nhiệt: nhiệt huyết, nhiệt thành, nhiệt tâm, nhiệt tình trong việc sống đạo và truyền lửa Tin Mừng yêu thương thắp sáng thế giới này. Amen.
.
Chúa nhật 20 thường niên năm nay nhằm ngày 14-8, lễ nhớ thánh Maximilianus Maria Kolbe, linh mục người Ba Lan, dòng Hiến sĩ Đức Mẹ, tử đạo trong trại tập trung của Phát xít Đức. Tháng 7 vừa qua, nhân dịp đến Ba Lan gặp gỡ các bạn trẻ đến từ khắp nơi trên thế giới để dự Đại hội Giới trẻ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm Auschwitz, nơi trước đây là trại tập trung. Vị Chủ chăn của Giáo Hội đã thinh lặng cầu nguyện trong căn phòng nhỏ bé dưới tầng hầm, là nơi cha Kolbe cùng với 9 tù nhân khác bị giam giữ và chết vì hơi độc. Cha Kolbe đã tự nguyện chết thay cho một tù nhân. Hành động này khiến những viên cai tù ngỡ ngàng. Sau khi cha Kolbe bị giết chết trong phòng hơi ngạt, những viên cai tù trở nên trầm ngâm ít nói và hành động của họ bớt đi sự dữ dằn, ác nghiệt. Cha Kolbe đã hành động dũng cảm, vừa chết thay cho một tù nhân, vừa làm cho những cai tù bớt tàn ác. Ngài đã nêu gương Chúa Giêsu, chấp nhận khổ hình để đem cho nhân loại hạnh phúc, chấp nhận thập giá để thay cho bạo lực, mời gọi con người sống với nhau nhân ái hơn. Cái chết của ngài là một chứng từ về Đức yêu thương: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13). Tình yêu của Cha Kolbe là tình yêu ở mức hoàn hảo nhất. Sống ở đời, ai cũng muốn một cuộc sống tiện nghi, an bình, mạnh khỏe và trường thọ, nhưng Chúa lại dạy: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 14,25). Cha Kolbe đã chấp nhận hy sinh mạng sống mình, và ngài chắc chắn sẽ tìm lại nó trong vương quốc vĩnh cửu.
Lời giảng của Chúa Giêsu hôm nay xem ra như một nghịch lý khó chấp nhận. Người tuyên bố, Người đem cho trần gian sự chia rẽ. Những ai đón nhận Lời Hằng sống, phải can đảm chọn lựa. Sự chọn lựa này rất quyết liệt, có khi đòi hỏi chúng ta phải hy sinh những mối liên hệ thiêng liêng thân thiết như vợ chồng, cha con, anh em ruột thịt, người thân kẻ nghĩa. Chúa muốn tình yêu mà chúng ta dành cho Chúa phải là một tình yêu ưu tiên, vượt lên trên tình yêu mà chúng ta dành cho người thân, không để những mối liên hệ ấy ngăn cản chúng ta theo Chúa. Vì thế, con đường theo Chúa là con đường thập giá hy sinh.
Những hy sinh để theo Chúa không phải là những việc làm vô nghĩa. Nếu chúng ta chấp nhận đánh đổi mọi thứ để chọn Chúa Giêsu, thì Người sẽ bù đắp cho chúng ta gấp trăm ở đời này. Người sẽ cho chúng ta được niềm vui và hạnh phúc ở đời này và đời sau.
Ông Giêrêmina là một ngôn sứ sống trong bối cảnh xã hội rất phức tạp, trước khi người Do Thái bị bắt đi lưu đày ở Babylon. Vì trung thành với sứ mạng ngôn sứ, ông đã bị một số gian thần trong triều đình nhà vua xúc xiểm, vu oan. Ông đã bị bỏ xuống giếng sâu nguy hiểm. Tuy vậy, giữa bao nhiêu chống đối thử thách, ông vẫn trung thành với Chúa, và Chúa đã giải thoát cho ông qua một quan cận thần khác. Ngôn sứ Giêrêmia phải chịu khổ nạn vì dân tộc mình và do những người thân gây ra. Cả đời của ông đã trở nên dấu chỉ cho vận mệnh của dân tộc. Ông là vị ngôn sứ trung thành, tận tụy và cam đảm đối diện với sự ác. Ông là hình ảnh của Đấng Cứu thể chịu khổ nạn.
“Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận, hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất, vì trông mong niềm vui đang chờ đợi mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn…”. Tác giả thư Do Thái khích lệ chúng ta trong trận chiến cuộc đời để duy trì đức tin. “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”, những phong ba bão tố trần gian sẽ tôi luyện chúng ta trở nên vững vàng trong hành trình làm môn đệ Đức Giêsu.
Lửa mà Chúa Giêsu đem đến trần gian là ngọn lửa của yêu thương bác ái. Người mời gọi các tín hữu hãy làm cho lửa ấy bừng cháy lên nơi cuộc đời còn nhiều tăm tối và hận thù. Cũng nhân dịp Đại hội Giới trẻ vừa qua tại Ba Lan, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói, ngài có một giấc mơ, mong ước có một triệu bạn trẻ trở thành những người sống Tin Mừng và nỗ lực truyền giáo trong môi trường sống cụ thể của họ, dù là công nhân hay nông dân, dù là học thức hay bình dân, dù là doanh nghiệp hay trí thức, tất cả đều cố gắng sống giáo huấn của Chúa Giêsu và giới thiệu Người với thế giới hôm nay. Mong cho lửa yêu thương bừng cháy, đó cũng chính là giấc mơ của Chúa Giêsu. Người gửi gắm nơi chúng ta để làm cho giấc mơ ấy trở thành hiện thực, nhờ vậy, vương quốc tình yêu sẽ bao trùm thế giới này.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Một đạo sĩ Ấn Độ hỏi các đệ tử: “Này các con, các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện không?”. Các môn đệ thi nhau trả lời. Có người hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi mà nhìn một đoàn vật từ xa người ta có thể phân biệt được con nào là con bò, con nào là con trâu không?”. Thày lắc đầu: “Không phải”. Một đệ tử khác lại hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui, là khi từ xa nhìn vào vườn cây người ta có thể phân biệt cây nào là cây xoài, cây nào là cây mít không?”. Thày vẫn lắc đầu. Không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ nói: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.
Thật kỳ lạ. Chúng ta đã biết nhiều loại ánh sáng như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ánh sáng đèn điện, đèn pin, ánh sáng đèn dầu, đèn cầy. Cả những ánh sáng tinh vi như tia hồng ngoại, tia X. Tất cả chỉ soi sáng cho thấy sự vật như nó là. Không có ánh sáng nào soi vào mặt một người xa lạ có thể biến người đó thành anh em mình cả. Thứ ánh sáng ấy ở đâu?
Mẹ Têrêxa có thể trả lời câu hỏi này. Một hôm, Mẹ ghé thăm một người đàn ông tội nghiệp. Ông sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong lều là cả một bãi rác mênh mông. Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám. Nhà cửa, đồ đạc phủ một lớp bụi dầy. Thế mà ông lão tự giam mình trong đống rác ấy. Ông ghét bỏ mọi người nên không lui tới với ai. Ông sống cô độc. Mẹ Têrêxa và các chị vào chào ông. Ông làm thinh không đáp. Thấy căn lều hỗn độn, bụi bặm, các chị xin phép ông dọn dẹp, ông không trả lời. Mặc kệ! Các chị cứ bắt tay vào dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn, mẹ Têrêxa lấy ra lau chùi. Chùi sạch lớp bụi, mẹ kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá!”. Ông lão bỗng lên tiếng: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới”. – Ông không thắp đèn lên sao?”. – Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn”. – Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn cho ông không?”. Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý. Từ đó, mỗi chiều các chị đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời. Ông nói chuyện cởi mở với các nữ tu. Ông đi lại thăm viếng hàng xóm. Mọi người đến với ông. Căn lều hiu quạnh trở lại ấm áp. Trước kia, căn lều tăm tối không phải vì ông không thắp đèn, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông lịm tắt. Nay căn lều sáng lên niềm vui không phải vì ánh sáng ngọn đèn dầu, nhưng vì ánh sáng trong trái tim ông bừng lên. Trước kia ông thù oán, xa lánh mọi người vì ánh lửa trong trái tim tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa trong trái tim ông bừng lên và ông cảm thấy tha thiết yêu mến mọi người và mọi người cũng tha thiết yêu mến ông.
Thứ ánh sáng kỳ diệu ấy phát xuất từ trái tim. Ánh sáng ấy ta thấy thấp thoáng khắp các trang sách Tin Mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng bừng lên. Hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em.
Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thày đã đến ném lửa vào trái đất, và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lời ước mong thật tha thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.
Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông… ánh sáng vẫn chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người anh em vẫn còn chém giết nhau.
Nhìn vào bản thân mình, ta thấy trong ta cũng còn nhiều vùng mà ánh sáng Tin Mừng chưa soi dọi tới. Trong lòng ta vẫn còn những ngõ ngách chứa đầy bóng tối ghen ghét, hận thù. Nên ta nhìn ra chung quanh mà ít gặp được anh em mình.
Lời Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà yêu thương.
Lạy Chúa, xin hãy nhóm lên trong trái tim con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
2) Bạn có muốn góp phần đem ánh sáng của Chúa đi gieo rắc khắp nơi không?
3) Bạn bắt đầu chiếu sáng bằng cách nào?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một bài hát thật phũ phàng về tình yêu mà sao vẫn được nhiều người hát: “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề nuối tiếc”. Phải chăng con người ngày nay hay thay đổi và muốn thay đổi? Phải chăng con người ngày nay không còn khả năng giữ ngọn lửa tình yêu để rồi nó vội cháy, vội tàn? Và có thật với lòng mình tình yêu đến và đi không hề nuối tiếc?
Thực ra tình yêu khởi phát từ con tim, tình yêu sẽ xoáy vào tim qua thời gian thì làm sao khi mất nó lại không làm ta đau lòng? Yêu và mất chắc chắn sẽ là nỗi quặn đau trong trái tim con người. Điều quan trọng là hãy biết giữ lửu yêu thương. Hãy biết chăm chút cho tình yêu từng ngày qua từng nghĩa tử quan tâm, chăm sóc vỗ về lẫn nhau. Nhưng đáng tiếc, người ta thích nhóm lửa tình yêu mà lại không đủ kiên nhẫn để gìn giữ nên dễ tàn lụi theo thời gian.
Người ta nói rằng, nhìn một đôi trả tiền trong quán ăn, có thể biết quan hệ của họ. Nếu người đàn ông trả tiền, thì họ là tình nhân. Còn ngược lại, khi đàn bà trả tiền – đó là vợ chồng. Khi còn yêu nhau, họ quấn quýt hết giờ hết buổi, mà vẫn thấy thời gian trôi nhanh như chớp mắt. Cưới nhau, thời gian là vô tận, nhưng có những ngày chẳng ai nói với nhau câu nào, thậm chí cả câu chào cũng không!
Nguyên nhân chình là ngọn lửa tình thiếu chăm sóc nên cũng nguội dần theo thời gian. Ngọn lửa ấy phải được thắp sáng mãi mới có thể mang lại mái ấm gia đình ngập tràn hạnh phúc hân hoan. Nếu tình yêu không được hun nóng từng ngày thì gia đình sẽ lạnh vắng cô đơn.
Chúa Giê-su khi vào trần gian Ngài cũng ném ngọn lửa yêu thương vào cuộc đời. Ngọn lửa ấy Ngài đã thắp lên trên cây thập tự là biểu tượng cho mọi tình yêu bất diệt trên thế gian. Ngọn lửa Đức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ trên đường Emmau đang tuyệt vọng. Lửa dẫn lối cho những ai đang lạc lối và hun nóng cho những mảnh đời lạnh giá của cô đơn, thất vọng.
Ngọn lửa yêu thương của Chúa ném vào thế gian vẫn mong được bừng cháy trong thế giới hôm nay. Lửa yêu thương cần phải luôn thắp sáng trong mỗi gia đình. Ngọn lửa ấy cần được lan tỏa trong mọi môi trường của cuộc sống. Vì nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm. Nếu lòng hai môn đệ Em mau đã bừng cháy lên khi nghe Lời Chúa, thì nhân loại hôm nay cũng cần nghe lời yêu thương cảm thông để thoát khỏi những u sầu, tuyệt vọng trong cuộc sống.
Thế nên, người Kitô hữu cần phải giữ ngọn lửa yêu thương trong trái tim mình. Đừng để sự ích kỷ, dối gian dập tắt ngọn lửa yêu thương trong tim mình. Hãy thắp sáng ngọn lửa yêu thương trong lòng mình. Đừng dập tắt ngọn lửa ấy bằng đam mê lười biếng, bằng ích kỷ tham lam. Đừng dập tắt hy vọng, niềm tin nơi tha nhân khi chúng ta đối xử thiếu tình yêu.
Ước mong nơi các gia đình hãy theo lời Chúa mà giữ mãi ngọn lửa yêu thương. Ước mong các gia đình hãy để cho ngọn lửa tình yêu Chúa chiếm hữu để nhờ đó gìn giữ gia đình luôn rộn ràng niềm vui và hân hoan. Amen.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Cuối tháng Bảy vừa qua, trong ngày Quốc Khánh của Pháp, một cuộc khủng bố đẫm máu đã xảy ra giết chết hơn 85 người và nhiều người khác bị thương. Kẻ khủng bố đã dùng ô tô lao vào đám đông đang tụ tập tại Nice để ngắm pháo hoa và vui chơi trong ngày lễ. Đứng sau cuộc khủng bố này là những người Hồi Giáo quá khích cực đoan. Chắc chắn không một tôn giáo nào dạy người ta làm điều ác. Với lương tri con người, ai cũng thấy việc giết chóc và gây đau khổ cho người khác là một tội ác. Mục tiêu của những kẻ khủng bố này là gieo rắc sự chết chóc và sợ hãi. Những kẻ này mang trong mình ngọn lửa thù hận, lửa hủy diệt, lửa chiến tranh ; lửa này không thể sưởi ấm tâm hồn con người nhưng chỉ gieo sợ hãi và tang tóc mà thôi.
Hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sứ mạng của Ngài là : Mang lửa xuống thế gian. Ngài ước ao cho lửa ấy bùng cháy lên. Lửa Chúa Giêsu đem đến thế gian là lửa gì ? Trước hết, đó là lửa của khao khát sự nhiệt thành. Lòng nhiệt thành với sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ nung đốt tâm hồn Chúa Giêsu. Ngài thao thức trăn trở và miệt mài để mời gọi và giúp mọi người có thể đón nhận được ơn cứu độ, được sống trong yêu thương và hạnh phúc. Ngọn lửa khao khát này đã thôi thúc Đức Giêsu thực hiện trọn vẹn sứ mạng cứu chuộc nhân loại bằng con đường thập giá. Chúa Giêsu đã so sánh con đường này như là một phép rửa mà Ngài sẽ trải qua để thể hiện trọn vẹn tình yêu đối với Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài và trọn vẹn tình yêu với nhân loại mà Ngài yêu thương.
Lửa Chúa Giêsu mang đến là lửa của tình yêu, một thứ lửa làm dịu mát tâm hồn và không làm bỏng ai. Lửa này giúp cho người đau khổ, cô đơn được an ủi, được ấm lòng ; giúp người mệt mỏi, uể oải với cuộc sống được thôi thúc, nung nấu để phấn chấn, mạnh mẽ vươn lên. Hơn nữa, lửa của Chúa Giêsu còn là lửa của Thánh Thần, là chính Chúa Thánh Thần, Đấng canh tân đổi mới vũ trụ địa cầu, nâng đỡ những tâm hồn yếu đuối, sưởi ấm những tâm hồn băng giá vô cảm, Đấng hướng dẫn con người bước đi trong ánh sáng chân lý và sự thật.
Chính từ ý tưởng này mà Chúa Giêsu đã dùng cách so sánh khiến nhiều người thắc mắc : Thầy đến không đem hòa bình nhưng là đem sự chia rẽ. Vậy Chúa Giêsu có phải là người gây chia rẽ, chiến tranh hoặc khủng bố không ? Chắc chắn Chúa Giêsu không gieo chiến tranh, cũng không gieo khủng bố, nhưng Ngài đem lửa chân lý và sự thật đến thế gian. Sự chia rẽ xảy ra là do giằng co giữa tin và không tin, đón nhận hoặc từ chối. Sự chia rẽ này trước hết là sự chia rẽ nội tâm trong mỗi người, là cuộc chiến xảy ra trong tâm hồn mỗi người khi đón nhận sự thật và chân lý của Chúa.
Con người cũ là con người sống theo bản năng, chiều theo tự do của xác thịt, bị cuốn hút vào những hấp dẫn của thế gian, điểm cuối cùng của chọn lựa con đường này là sự suy thoái và sự chết. Con người mới là con người hướng thượng, cố gắng vươn lên đến Chân, Thiện, Mỹ. Con người mới này được mời gọi bước theo sự hướng dẫn của Tin Mừng, để cho Chúa Giêsu dẫn dắt. Từ sự đối nghịch giữa con người cũ và con người mới đã dẫn đến sự phân rẽ trong nội tâm con người, khiến cho con người luôn phải giằng co và chiến đấu với chính mình. Kẻ thù nguy hiểm chưa phải là kẻ thù trước mặt, nhưng là kẻ nằm ngay trong chính mỗi người, nó có thể tấn công ta bất cứ lúc nào, đó cũng là kẻ thù mà ta dễ thua nhất.
Cũng từ việc chon lựa tin hay không tin, theo hay không theo đã xảy ra chia rẽ ngay trong các gia đình. Có những người quảng đại đón nhận giáo lý Tin Mừng của Chúa Giêsu, có những người nấn ná hay từ chối khiến cho sự chống đối xảy ra. Sự chống đối Chúa Giêsu nói ở đây không phải là sự phản đối nhau bằng bạo lực hoặc súng đạn, cũng không phải là chiến tranh nhân danh tôn giáo theo kiểu ngày nay, nhưng là cuộc chiến đấu âm thầm mà liên lỉ của chân lý, của tình yêu.
Người môn đệ khi lãnh nhận ngọn lửa tình yêu, lửa Tin Mừng của Chúa, được mời gọi bước vào một cuộc chiến vượt lên chính mình và cũng là cuộc chiến từng ngày đẩy lùi sự ác, sự dữ và bất công. Cuộc chiến này đòi hỏi kiên trì nhẫn nại để làm cho lửa tình yêu lan tỏa trong thế giới độc ác này, để cho ánh sáng chân lý đẩy lùi bóng tối của bất công, gian dối, giúp cho sự thật lên ngôi và tình yêu được triển nở. Như thế, sự chống đối trong gia đình giữa cha mẹ, con cái, anh em, không phải là một cuộc nội chiến, nhưng là một cuộc tâm chiến, tức là chiến đấu trong tâm hồn và trong sứ vụ.
Trong xã hội từ xưa đến nay, chúng ta thấy dường như sự dữ và sự ác vẫn thắng thế, con người vẫn thích nghe và đi theo sự giả dối hơn là sự thật. Tiên tri Giêrêmia là vị tiên trị đau khổ nhất, ông phải chiến đấu liên tục với chính mình và chiến đấu liên tục cho chân lý. Ông nói lời sự thật, nói lời của Thiên Chúa, thì dường như vua quan và dân chúng không muốn nghe ông, vì cho là ông nói điều bất lợi. Họ muốn nghe theo lời giả dối đường mật của các ngôn sứ giả, họ còn tìm cách thủ tiêu ông vì không muốn ông nói lời của Chúa.
Vì thế, để có thể sống ngay thẳng thật thà theo lương tâm, sống công minh chính trực theo Tin Mừng trong một xã hội gian dối lọc lừa không phải là điều dễ. Người ta thường biện minh cho mình : Người ta sao, tôi làm vậy, hoặc cho rằng sống thẳng thắn thật thà thường thua thiệt. Vì thế mà nhiều người Công Giáo đã đầu hàng trong cuộc chiến đấu bảo vệ chân lý đức tin của mình. Họ đầu hàng không phải vì những viên đạn hay vũ khí, nhưng đầu hàng trước những món lợi nhuận, dù biết là bất chính, nhưng vẫn không dám từ chối.
Nhiều cha mẹ đã hoàn toàn buông xuôi để cho kẻ thù là sự tự do dễ dãi, là vật chất hưởng thụ bước vào giày xéo gia đình mình. Cùng với kẻ thù này là những viên đạn ích kỷ, vô cảm, độc ác đang từng ngày sát hại tâm hồn của các thành viên trong gia đình, biến gia đình trở thành một lò thuốc súng, một ổ chiến tranh. Các thành viên khác của gia đình cũng đang phải từng ngày chiến đấu với chính mình, giữa công bằng và bất công, sự thật và gian dối trong công việc làm ăn cũng như trong các tương quan với những người khác.
Để có thể chiến thắng trong cuộc chiến này, thư Do Thái đã chỉ cho chúng ta : Chúng ta phải loại bỏ gánh nặng và tội lỗi trói buộc, từ bỏ các thứ vũ khí của thế gian để bước vào một cuộc chiến và cũng là cuộc đua mà đích điểm luôn là Chúa Kitô. Chúa Giêsu là Đấng đã đem lửa đến thế gian, Ngài muốn mỗi chúng ta sẽ là những cộng tác viên, là người thắp lửa cho thế giới hôm nay. Muốn cộng tác với Chúa Giêsu và trở nên chiến sĩ của Người, chúng ta phải thắp cuộc đời mình, không bằng một thứ lửa nào khác, mà phải là lửa tình yêu, lửa Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trước hết, hãy để cho ngọn lửa này đốt nóng tâm hồn mỗi chúng ta, biến chúng ta trở thành người nhiệt thành đem ánh sáng cho anh chị em. Kế đến là để cho lửa tình yêu, lửa Thánh Thần đốt cháy và biến đổi chúng ta, để chúng ta trở nên những con người mới, con người thuộc về Chúa Giêsu, thấm nhuần Tin Mừng tình yêu của Chúa Giêsu để khi tiếp xúc gặp gỡ chúng ta, người khác có thể cảm nhận được sức nóng từ lòng yêu mến lan tỏa đến họ, khiến họ cảm nhận được an ủi và chữa lành từ Tin Mừng của Chúa.
Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta tham gia thực hiện khao khát của Ngài. Để có thể trở thành những người thực hiện khao khát của Chúa Giêsu, làm cho ngọn lửa Tin Mừng, lửa thương xót được bùng cháy lên, đòi chính mỗi chúng ta phải không ngừng chiến đấu với bản thân để làm cho lửa Tin Mừng và lửa thương xót lan tỏa và thiêu đốt tâm hồn và cả cuộc sống chúng ta.
Xin Chúa thêm sức mạnh để mỗi chúng ta sẽ là những người cộng tác với Chúa, tiếp lửa cho đời. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về sứ mạng của Ngài là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!”.
Lửa ấy là gì?
Trong Kinh Thánh, từ “lửa” được đề cập 480 lần. Lửa mang nghĩa biểu tượng thánh thiêng chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Môsê giữa bụi gai cháy rực cháy (x. Xh 3,2). Thiên Chúa lập giao ước dưới chân núi Sinai (x. Đnl 1,33; 4,11-12.36; 5,4.22). Lửa là hình ảnh Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (x. Xh 13,21).
Trong Tân Ước, lửa là hình ảnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các Tông đồ dưới dạng hình lưỡi lửa vào ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 3,2). Lửa là sức mạnh của Thánh Linh, khi các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên con người hoàn toàn mới: Can đảm ra đi rao giảng Tin Mừng (x. Cv 1,8), làm chứng, hy sinh vì Tin Mừng và vì tình yêu của Đức Kitô Phục Sinh. Lửa chính là tình yêu nồng cháy của Đức Giêsu (x. Lc 12,49).
Lửa còn tượng trưng cho sự thanh luyện, thiêu huỷ và phán xét. Đó là ngọn lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra (x. St 19,24), mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (x. Lc 17,29); hay là lửa soi sáng trong Ngày của Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,13; Mt 3,11-12).
Theo các nhà chú giải Kinh thánh, lửa ấy chính là: Chân lý, là Tin Mừng, là Thần Khí và là Tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chân lý và Tình yêu của Thiên Chúa.
Dùng hình ảnh lửa, Chúa Giêsu có ý nói đến nội dung và đặc điểm sứ mạng của mình. Lửa bừng cháy và tỏa sức nóng, lửa đem lại ánh sáng xua tan bóng tối, thiêu đốt thành tro, nung nấu tan chảy và làm cho biến đổi.
Bằng ẩn dụ lửa, Chúa Giêsu gợi lên nội dung sứ mạng của mình là mang ánh sáng chân lý từ trời cao ném vào mặt đất, để soi sáng con đường cứu nhân loại thoát khỏi bóng tối nô lệ tội lỗi, đồng thời thiêu hủy sự dữ và thanh luyện con người nên tinh tuyền.
Khởi đầu sứ vụ, trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng về lửa được Ngài ném vào thế gian. Đó là lửa của những mối phúc (x.Mt 5,3-12; Lc 6,20-26), đặc biệt lửa của những phép lạ, lòng khoan dung tha thứ tội lỗi và của trái tim nhân từ cảm hóa kẻ lầm lạc.
Người môn đệ cũng phải tiếp tục mang lửa của Chúa Giêsu vào trần gian bằng cách loan báo và làm chứng từ chính cuộc sống bừng lửa của mình. Lửa của những mối phúc thật. Lửa của sự sống phục sinh. Lửa đã tỏa sáng và thanh luyện những người bước theo Chúa Giêsu.
“Thầy ước mong ngọn lửa ấy bùng lên!”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
Thế giới này được ví như một ngôi đền thờ rộng lớn, mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng trong tâm hồn chúng ta.Trách nhiệm mỗi người là thắp sáng ngọn lửa ấy bằng đời sống chứng nhân.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.
Thông điệp mới của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với tựa đề “Ánh sáng đức tin” muốn nói truyền thống của Hội thánh, cho thấy hồng ân lớn lao do Chúa Giêsu mang đến, được trình bày trong Tin mừng thánh Gioan: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12, 46). Cả thánh Phaolô cũng diễn tả tương tự như sau: “Xưa Thiên Chúa đã phán: ‘Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm’, Ngài cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi” (2Cr 4, 6).
“Ai tin, sẽ thấy” vì ánh sáng đức tin xuất phát từ Thiên Chúa và vì nó có khả năng chiếu rọi mọi khía cạnh trong cuộc hiện sinh của con người, nên nó diễn tiến không những từ quá khứ, từ ký ức về cuộc đời Chúa Giêsu, mà còn từ tương lai khi nó mở ra nhiều chân trời rộng lớn.
Một vài trích dẫn sau đây từ Thông điệp “Ánh sáng đức tin” cho thấy Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng, ai tin vào Người sẽ sống trong ánh sáng của Sự Thật và Tình Yêu.
“Ánh sáng đức tin có một đặc tính khác thường, vì có thể soi sáng toàn thể hiện hữu của nhân sinh. Bởi có một năng lực như thế, nguồn cội của ánh sáng đức tin không thể phát xuất từ chính chúng ta, mà phải đến từ một Nguồn nguyên thủy nhất, xét cho cùng, là đến từ chính Thiên Chúa. Đức tin nảy sinh trong cuộc gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mạc khải Tình yêu của Ngài cho chúng ta, một tình yêu đi bước trước chúng ta và làm nền tảng cho ta đứng vững và xây dựng cuộc sống mình”.
“Các tác giả Phúc âm đã đặt giờ Chúa chịu treo trên Thánh Giá như là chóp đỉnh của cái nhìn đức tin, vì trong giờ ấy chiếu tỏa rực rỡ chiều cao và chiều rộng của Tình yêu Thiên Chúa. Thánh Gioan đưa ra lời chứng long trọng của ngài khi ngài cùng với Đức Mẹ, Mẹ của Đức Giêsu chiêm ngắm Đấng Bị Đâm Thâu (x. Ga 19, 37): “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19, 35). Chính khi chiêm ngắm Đức Giêsu chịu chết mà đức tin của chúng ta được củng cố và có được một ánh sáng chói lọi, chính khi nó mạc khải cho chúng ta như một niềm tin vào Tình yêu không lay chuyển của Người dành cho chúng ta, một tình yêu có thể đi vào cái chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này, vốn không tự miễn chước sự chết để bộc lộ Người yêu thương ta dường nào, là một tình yêu có thể tin được. Tình yêu ấy bộc lộ ra trong toàn thể thắng vượt mọi nghi ngờ và cho phép ta đặt hoàn toàn tin cậy vào Đức Kitô.
“Nếu như tình yêu cần đến sự thật, thì sự thật cũng cần đến tình yêu. Tình yêu và sự thật không thể tách biệt nhau. Không có tình yêu, sự thật trở thành lạnh lùng, phi ngã vị, áp bức trên đời sống cụ thể của con người. Sự thật mà chúng ta tìm kiếm, sự thật đem lại ý nghĩa cho những bước đường ta đi, sự thật ấy sẽ soi chiếu chúng ta khi ta được tình yêu chạm đến. Ai yêu thương sẽ hiểu rằng tình yêu là kinh nghiệm sự thật, rằng chính tình yêu mở mắt chúng ta ra để nhìn thấy toàn thể thực tại một cách mới mẻ, trong khi kết hiệp với người mình yêu”.
“Đức Chân phước Gioan Phaolô II, trong thông điệp Fides et Ratio, đã cho thấy đức tin và lý trí củng cố cho nhau như thế nào. Khi ta có ánh sáng viên mãn của tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra rằng trong mỗi tình yêu của ta đã có mặt một tia của ánh sáng ấy rồi và chúng ta hiểu đâu là cùng đích của nó”.
“Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giêsu cũng soi sáng hành trình của tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, và góp phần mình cho Kitô giáo trong cuộc đối thoại với các tín đồ của các tôn giáo khác”.
“Người tin thì hoàn toàn dấn thân sống đức tin mình tuyên xưng. Đức Maria nhờ kết hợp với Chúa Giêsu, sống sát với những gì mà chúng ta tin”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta nhìn lên Đức Maria, “mẫu mực hoàn hảo” của Đức Tin, Đấng, vì là Mẹ Chúa Giêsu, đã tượng thai “đức tin và niềm vui”.
Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những ai đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Người Hy Lạp cổ đã cho rằng lửa là một trong các nguyên tố chính của vũ trụ – cùng với đất, nước, và khí. Bốn yếu tố này kết hợp với nhau tạo ra vạn vật trong thiên nhiên. Chúng ta có thể nhìn thấy và cảm nhận được lửa, cũng có thể nhìn thấy và cảm nhận được đất, nước và khí vậy.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng lửa là “cái gì đó” rất khác. Đất, nước và khí được cấu tạo bởi hàng tỷ nguyên tử, và luôn giữ nguyên dạng như vậy. Lửa thì không như vậy: lửa có thể chuyển sang các dạng khác vì nó là một phần của các phản ứng hoá học.
Lửa là quá trình ôxy hóa nhanh chóng của một vật liệu trong phản ứng hóa học tỏa nhiệt, giải phóng nhiệt, ánh sáng, và các sản phẩm phản ứng khác. Để tạo ra lửa, phải cần và đủ 3 yếu tố, đó là: chất cháy, ôxy và nguồn nhiệt. Thiếu một trong các yếu tố này không thể xảy ra sự cháy. Mỗi chất khác nhau có nhiệt độ bốc cháy khác nhau.
Lửa rất có ích nếu biết cách sử dụng hợp lý, lửa rất nguy hiểm nếu sử dụng sai mục đích. Thật vậy, tối thiểu nhất và đơn giản nhất là lửa làm chín thực phẩm để chúng ta dùng hàng ngày, không chỉ ngon miệng mà còn duy trì sự sống. Lửa thật là kỳ diệu!
Lửa rất mềm mà lại rất mạnh. Một ngọn lửa nhỏ có thể dễ thổi tắt, nhưng một đám cháy thì khó có thể dập tắt. Lửa bùng cháy sẽ thiêu rụi mọi thứ trong chốc lát. Lửa là một loại vũ khí đáng sợ, với sức tàn phá khủng khiếp. Lửa cũng có đặc tính lạ: chỉ có một đốm lửa, nhưng càng chia sẻ thì càng thêm nhiều, bản chất lửa không hề giảm sút chút nào. Lửa đối nghịch với bóng tối, vì có lửa là có ánh sáng, và bóng tối bị đẩy lui.
Chính Chúa Giêsu đã đích thân đến thế gian và ném lửa vào thế gian. Ngài mong cho lửa đó bùng cháy lên khắp nơi. Đó chính là Lửa của Tình Yêu Thương, Lửa của Lòng Trắc Ẩn, Lửa của Lòng Thương Xót. Chính Ngài là “Lửa” soi đường dẫn lối, như Ngài đã xác nhận với người Do Thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”(Ga 8:12).
Trình thuật Gr 38:4-6, 8-10 cho biết rằng, các thủ lãnh ngày xưa đã thưa với vua về ngôn sứ Giêrêmia: “Xin ngài cho giết con người ấy đi, vì những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này, mà chỉ gây tai họa”. Vua Xít-ki-gia-hu nói rằng ông ta đang ở trong tay họ; nhà vua cũng chẳng có thể làm gì trái ý họ được. Thế là họ liền điệu ông Giêrêmia đi, lấy dây thừng cột ông và bỏ ông xuống một cái hầm nước của hoàng tử Man-ki-gia-hu trong sân vệ binh. Hầm này không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia bị lún sâu.
Thái giám E-vét Me-léc (người Cút) đi ra khỏi đền vua và nói: “Thưa đức vua, chúa thượng tôi, những người này làm toàn những chuyện tai ác cho ngôn sứ Giêrêmia. Họ đã thả ông xuống hầm, và ông đang chết đói ở dưới ấy, vì trong thành không còn bánh nữa”. Vua liền truyền cho ông E-vét Me-léc: “Ngươi hãy đem theo ba mươi người ở đây, đi kéo ngôn sứ Giêrêmia lên khỏi hầm, kẻo ông chết mất”.
Thái giám E-vét Me-léc thật là nhân đạo, nhưng vua Xít-ki-gia-hu cũng tốt, vì nhà vua đã tôn trọng lẽ phải mà nghe lời thái giám. Đó là công lý, là nhân đạo, là yêu thương, là hệ quả tốt lành của lòng thương xót. Thoát chết là một hồng ân. Thoát chết là còn sống. Nhưng sống tiếp để làm gì? Tác giả Thánh Vịnh xác định: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17). Điều đó cũng có nghĩa là “loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa”.
Bất cứ ai trông cậy Thiên Chúa sẽ được Ngài đã độ trì, ai kiên trì van nài thì được Ngài cứu nguy, không phải thất vọng giờ (x. Tv 22:6). Chắc chắn như vậy!
Với niềm xác tín và mãn nguyện, tác giả Thánh Vịnh minh chứng: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu. Người kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi vũng lầy nhơ nhớp, đặt chân tôi đứng trên tảng đá, làm cho tôi bước đi vững vàng. Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa” (Tv 40:2-4). Làm chứng về Chúa không nhất thiết phải làm việc gì to lớn, chỉ cần chứng tỏ bằng cách sống chân thật, hiền từ và nhân hậu. Đơn giản mà hiệu quả: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35).
Tác giả Thánh Vịnh xác nhận thêm: “Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, nhưng Chúa hằng nghĩ tới. Ngài là Đấng phù trợ, là Đấng giải thoát con, lạy Thiên Chúa con thờ, xin đừng trì hoãn!” (Tv 40:18). Rất rõ ràng, rất rạch ròi! Đó là niềm tin mến – đức tin và đức mến không thể tách rời, và đó cũng là loại “lửa” cần cháy bùng lên trong mỗi chúng ta hàng ngày, mọi nơi và mọi lúc.
Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy CỞI BỎ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy KIÊN TRÌ CHẠY trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã KHƯỚC TỪ niềm vui dành cho mình mà CAM CHỊU khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa” (Dt 12:1-2).
Đọc mấy câu ngắn gọn này khiến chúng ta phải giật mình và xấu hổ, bởi vì đôi khi chúng ta vẫn ù lì, than thở và đòi hỏi. Chợt nhớ có câu chuyện kể về con Lừa thế này…
Bác nông dân nọ có một con lừa. Một hôm, nó bị rơi xuống giếng khi đang chạy nhảy trong khu vườn sau nhà. Thấy nó kêu la rất thảm thiết, bác nông dân tìm cách cứu nó mà không biết làm sao. Bác ta nghĩ rằng dù sao thì con lừa này cũng già rồi, mà cái giếng kia rồi cũng phải lấp đi để khỏi nguy hiểm.
Nghĩ rồi làm ngay. Bác nông dân đi nhờ vài người hàng xóm sang giúp lấp cái giếng. Mọi người cùng nhau xúc đất đổ xuống giếng. Lúc đầu, con lừa nhận ra điều gì đang xảy ra với nó nên càng rống lên dữ dội hơn. Nhưng một lúc sau, tiếng kêu của nó nhỏ dần đi và rồi im bặt. Ai cũng nghĩ là nó đã bị đất lấp.
Nhưng không phải vậy. Đất cứ đổ lên nó thì nó lại rũ đất xuống và dẫm lên đất. Cứ thế và cứ thế… Chẳng bao lâu, nó trồi lên và bước ra khỏi miệng giếng. Và rồi nó thản nhiên chạy đi trước sự ngạc nhiên của mọi người.
Con lừa không than thân trách phận, không thúc thủ dù ở trong thế bí, nhưng nó can đảm và khéo léo trút bỏ mọi thứ ô uế trĩu nặng để có thể vượt lên, tự giải thoát. Cuối cùng, nó đã chiến thắng chính mình và chiến thắng nghịch cảnh. Hãy tự giúp mình rồi Trời sẽ cứu. Thật chí lý! Chúa Giêsu muốn cũng chúng ta hành động như con lừa. Vả lại, chính Ngài đã nêu gương: “KHƯỚC TỪ niềm vui dành cho mình màCAM CHỊU khổ hình thập giá”.
Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể: “Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí. Quảthật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu đâu” (Dt 12:3-4). Quả thật, chúng ta thường ngồi nguyền rủa bóng tối mà không chịu quẹt que diêm hoặc bật quẹt để thắp sáng lên một ngọn lửa.
Lửa luôn có sẵn, chỉ tại chúng ta không khơi lên. Chúa Giêsu đã xác định với mỗi chúng ta: “Thầy đã đến ném LỬA vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã BÙNG lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy KHẮC KHOẢI biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12:49-50).
Chúa Giêsu luôn đưa ra những điều “trái khoáy”, với con người chúng ta thì đó là nghịch lý, nhưng với Thiên Chúa lại lý nghịch-lý-thuận. Một triết lý sống kỳ diệu vô cùng, nếu không lý giải bằng lòng thương xót thì không thể hiểu bằng lý lẽ nhân loại.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã từng thẳng thắn nói: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng làđem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng” (Lc 12:51-53).
Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), là Đấng giàu lòng thương xót (Ep 2:4), chắc chắn Chúa Giêsu không khuyên chúng ta chia rẽ hoặc bất hòa với nhau, vì như vậy là đối lập với lòng thương xót. Quả thật, Thánh Phaolô cũng đã khuyến cáo: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, vàhãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4:31-32).
Cháy hoặc thiêu đốt là bản chất của lửa. Khi lửa cháy, có gì đó biến đổi – hoặc hư hại (cháy rừng, cháy nhà,…), hoặc lợi ích (làm chín thực phẩm, làm tan chảy đồng, chì, sắt hoặc thủy tinh để đúc khuôn,…). Tương tự, khi ngọn lửa tình yêu thắp sáng, lửa lòng thương xót bùng cháy cũng có tác dụng khác nhau – có thể tích cực với người này hoặc tiêu cực với người khác. Vì thế mà có sự “chia rẽ” giữa người này với người kia, thậm chí là giữa các thành viên trong gia đình.
Lạy Thiên Chúa, xin biến đổi con trở thành “ngọn đuốc” thắp sáng Lòng Thương Xót của Ngài để soi đường sống cho chính con và cho tha nhân. Xin giúp con dám tự đốt mình trong Lửa Tình của Ngài, với nồng độ của Ngài, mọi nơi và mọi lúc, hôm nay và suốt đời. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Nhiệt độ của trái đất có chiều hướng nóng dần lên. Đó là một điều đáng sợ. Nhưng điều đáng sợ hơn lại là sự lạnh lùng giữa người với người.
Con người cần cơm bánh và giải trí, nhưng con người còn cần sự nâng đỡ cảm thông.
Nhân loại sống được là nhờ tình thương ấm áp. Vậy mà băng giá của lạnh đạm dửng dưng vẫn tồn tại khắp nơi trên mặt đất. Băng giá nằm ngay nơi lòng con người.
Đức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài: Ngài đến để ném lửa trên mặt đất, và Ngài ước mong, phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Ngọn lửa Đức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng.
Chúng ta cần được ngọn lửa của Đức Giêsu chạm đến, cần được Ngài làm bừng sáng lên những sức mạnh tiềm ẩn nơi ta, để chúng ta trở thành ánh lửa cho thế giới.
“Phải chi lửa ấy đã bùng lên!”
Chúng ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong mà Đức Giêsu đã suốt đời ôm ấp, đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau.
Gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng là chấp nhận bị từ khước và đe dọa. Đức Giêsu linh cảm những gì sẽ xảy ra cho đời mình. Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng, sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau.
Hôm nay, Ngài mời chúng ta ném lửa trên mặt đất và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối.
Khi Đức Giêsu bị treo trên thập tự, khi Ngài bị giam trong mồ tối, bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Ngài. Nhưng ngọn lửa phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen.
Đó là niềm hy vọng của chúng ta, những người vẫn còn phải hăng say chiến đấu để đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ, bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng, bóng tối của hận thù, của nạn mù chữ, bóng tối của nghèo nàn lạc hậu… Bóng tối do khép lại cánh cửa của lòng mình. Bóng tối ở ngay trong lòng tôi.
Có lúc chúng ta sợ hãi bóng tối dầy đặc, mà ngọn lửa của mình lại yếu ớt.
Nếu một tỷ Kitô hữu đều là những ngọn lửa thì bóng tối sẽ bị đẩy lùi khỏi mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thế giới hôm nay vẫn còn nhiều bóng tối. Theo ý bạn, đâu là những bóng tối đáng được chúng ta quan tâm hơn (những bóng tối nơi gia đình, ngoài xã hội và trong Giáo Hội)?
Bạn có kinh nghiệm gì khi phải đương đầu với bóng tối của sự dữ, ở ngoài bạn và ở trong bạn? Có khi nào bạn thắng được bóng tối không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa,
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được
Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy mang lửa xuống trần gian, thầy mong ước gì, nếu không phải là muốn lửa ấy cháy lên”. Nhóm lên, và làm ngọn lửa tình yêu bừng cháy, là sứ mạng của Đức Giêsu và của mỗi người môn đệ Ngài.
Phải chọn lựa giữa Đức Giêsu và thế gian
Đừng tưởng thầy tới mang hòa bình, nhưng ngược lại, thầy tới mang chia rẽ. Chia rẽ ở đây hiểu theo nghĩa, người ta phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu và giá trị trần gian. Những ai theo trần gian, có thể có ngày họ phản bội và làm hại thậm chí cả anh em hay cha mẹ mình; còn những ai theo Đức Giêsu, phải sống theo luật tình yêu. Qua Đức Giêsu, con người phải chọn lựa, phải có thái độ dứt khoát. Theo nghĩa này, Đức Giêsu mang chia rẽ.
Ở một chỗ khác Đức Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an cho anh em. Bình an Thầy ban cho anh em, không như thế gian ban tặng”. Bình an của Đức Giêsu, không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra; đúng hơn, bình an là thái độ sống mà không gì có thể làm mất được. Bình an do xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài làm những điều tốt nhất cho mình, Ngài biến cả những điều xấu người khác làm cho mình trở thành ích lợi cho mình.
Bình an Đức Giêsu ban tặng, người ta tìm thấy nơi các tông đồ. Dù bị bách hại nhưng các ngài vẫn kiên vững loan truyền Tin Mừng cứu độ “Thiên Chúa yêu thương con người”. Bình an này các thánh tử đạo là những người cảm nghiệm và làm chứng bằng chính cuộc sống của các ngài.
Lửa tình yêu đã thiêu đốt Giêrêmia
Giêrêmia đã nhân danh Chúa nói với dân chúng những điều mà những người lãnh đạo cùng chính dân chúng không ưa thích. Và điều này đã làm cho tiên tri bị ghét, và người ta tìm cách hãm hại tiên tri.
Đã có lúc tiên tri bỏ cuộc, không muốn nói nhân danh Chúa nữa, những lúc đó lòng tiên tri bừng bừng như lửa thiêu đốt, và cuối cùng tiên tri đã trở lại với Chúa, để tiếp tục sứ mạng Ngài trao phó. “Vì nhiệt thành với luật Chúa, mà con phải thiệt thân”. Thiên Chúa ban lửa tình yêu cách đặc biệt nơi một số người, để họ thành chứng nhân của Chúa, để họ trở thành dụng cụ làm bùng cháy ngọn lửa tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với con người nơi nhiều tâm hồn.
Lửa tình yêu với Thiên Chúa trong lòng Giêrêmia, lửa tình yêu đối với con người nơi người đến xin vua Zedekiah giải cứu Giêrêmia, và ngọn lửa tình yêu nơi tâm hồn vua, đã làm tất cả những người này hành động theo tình yêu, theo lương tâm, theo Lời Chúa. Giêrêmia sống theo lửa tình yêu thúc đẩy, và chính Giêrêmia cũng được cứu bởi lửa tình yêu.
Lửa Thánh Thần tình yêu
Thánh Thần là lửa tình yêu. Thánh Thần tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, làm nhiều người can đảm đáp trả tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng sống chết cho tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Trên đường trần không thiếu những gai góc và gian nan vất vả, nhưng với tình yêu của Thánh Thần, biết bao người đang tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, đang nỗ lực làm bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu. Nhìn lên Đức Giêsu như người mẫu và lý tưởng, Kitô hữu hiên ngang sống giữa đời, đem tình yêu đến với mọi người bằng sống yêu thương, ngay cả với những người thù ghét mình.
Tình yêu chiến thắng hận thù. Yêu thương làm cuộc đời đẹp hơn, tươi hơn, thoải mái và hạnh phúc hơn. Lửa tình yêu Đức Giêsu mang xuống trần đã bùng cháy trong tim mỗi người, và mỗi người được gọi để làm ngọn lửa tình yêu lan rộng mãi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Giêrusalem khoảng năm 627 tới sau năm 587 trước Công Nguyên. Tiên tri đã cảnh báo thần dân, vì tội lỗi mà họ đã phạm đến Chúa. Dân thành sẽ bị phá hủy bởi vua Nebuchadrezzar, người Babyon. Khi nghe cảnh cáo, nhiều nhà chức trách đạo đời cảm thấy khó chịu và muốn diệt trừ tiên tri Giêrêmia: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉtìm tai hoạ”(Gr 38, 4). Tuy nhiên, trong số đó có những người trung thành và biết lắng nghe lời sự thật. Thay vì bỏmặc tiên tri để chết trong giếng cạn, vua đã truyền cứu ngài ra khỏi giếng: Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: “Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết” (Gr 38, 10). Sống ở đời luôn có kẻ ưa người ghét là thế!
Trong cuộc sống, chúng ta luôn phải đối diện với hai chọn lựa: Tốt xấu, phải trái, lành dữ,đúng sai, yêu ghét và tội phúc… Dù tốt hay xấu, phía nào cũng có người phò theo. Phe lành và phe dữ song hành trong cuộc sống như bóng tối và ánh sáng. Làm sao chúng ta có thể rút ra những nhận định đúng đắn trong xã hội vàng thau lẫn lộn? Vì mỗi bên, mỗi phía đều có chia sẻ ít nhiều sự tốt lành và xấu dữ.Đâu là chân lý? Mỗi xã hội con người có những chủ trương riêng biệt. Văn hóa này có thể thích hợp ở đây, nhưng không thể thực hành nơi khác. Tất cả những nền văn hóa do con người kết cấu thành đều là tương đối. Các luật lệ do con người đặt ra cũng rất tương đối. Sự phán đoán về sự đúng sai của con người xã hội cũng bị ảnh hưởng bởi quan niệm sống mỗi vùng, nên dân luật hay tục lệ có thể thay đổi.
Cảm giác về tội lỗi phai nhạt dần. Chủ nghĩa cá nhân được đề cao. Con người xã hội tìm kiếm và thỏa mãn những gì mình ưa thích. Nhiều người chủ trương sống hưởng thụ và đáp ứng mọi nhu cầu cảm xúc thể xác. Những nét đẹp của Công Dung Ngôn Hạnh từ từ biến mất. Chúng ta không thể ngồi ung dung tự tại mặc cho con tạo xoay vần. Là các bậc phụ huynh, những người giáo dục và thầy dậy, chúng ta cố gắng khơi lên ngọn lửa cháy sáng soi đường. Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đem lửa xuống thế gian và ước mong lửa bừng cháy: Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên (Lc 12, 49). Lửa của tình yêu và lửa của sự thật. Chúa là tình yêu. Chúa là sự thật và là sự sống.
Chúa Giêsu không dấu diếm sứ mệnh, Ngài nói: Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ (Lc 12, 51). Sự chia rẽ giữa sự thánh thiện và tội ác. Sự chia rẽ giữa người công chính và kẻ gian ác tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu không bỏ rơi một ai. Ngài hiện diện đó không phải để kêu gọi người công chính mà là kẻ tội lỗi. Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến, Chúa sẽnâng đỡ bổ sức cho. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Ngài đến để đoàn chiên được sống và sống dồi dào.
Đối diện với cuộc sống đa dạng, đa văn hóa và đa tôn giáo của thời đại hôm nay, chúng ta cần học hỏi và nhận định rõ ràng hơn. Rất nhiều chính thể chủ trương triết thuyết tương đối. Họ cho rằng không có gì tuyệt đối là đúng hay sai và tốt hay xấu hoàn toàn . Theo họ, đúng hay sai, dựa vào sự quyết định của đa số áp đặt. Trước tiên, sự tốt xấu và lành dữ được đánh giá qua vấn đề lợi nhuận kinh tế. Chúng ta đang va chạm với những chủ trương cởi mở và qúa cấp tiến. Những điều đang xảy ra hằng ngày về vấn đề đạo đức luân lý. Thí dụ: Một số Tiểu Bang ở Hoa Kỳ, các nhà Lập Pháp đã bỏ phiếu đa số đồng thuận về hôn nhân đồng tính, về sự ngừa thai, phá thai không giới hạn, về án tử và trợ tử…
Về sự sống con người: Phe phò phá thai (pro-abortion) chủ trương bảo vệ tự do và quyền bình đẳng của phụ nữ, trong khi hủy diệt sự sống của thai nhi. Tuy nhiên, Phong trào phò sinh (pro-life) vẫn tiếp tục đấu tranh cho quyền tự do lương tâm và tựdo tôn giáo. Chúng ta căn cứ vào lương tâm và lời Mạc Khải để tìm đến sự thật. Sự thật có thể áp dụng chung cho mọi người, mọi dân và mọi nước. Chúng ta gọi là luật tự nhiên hay luật lương tâm đã được in ghi tận đáy tâm hồn.
Càng ngày càng có nhiều tệ nạn xảy ra trong xã hội con người. Các học viên được huấn luyện trở thành bác sĩ để cứu chữa con người, nhưng một số lại tìm cách hủy diệt mạng sống con người. Các công ty dược phẩm chế tạo thuốc để chữa lành, nhưng đồng thời cũng chế tạo các loại thuốc giết người. Các tòa án Tối Cao Pháp Viện, phải là nơi công lý được thể hiện, nhưng cũng lại đưa ra những chỉ thị và phán quyết độc hại hủy phá sự sống con người. Biết tin vào ai? Đâu là điều tốt hay điều xấu vàđiều lành hay điều dữ. Mỗi quan tòa đều có những lý luận sắc bén để biện luận và đôi khi ngụy biện để dấu diếm sự thật. Nhiều chính phủ dùng quyền lực của luật pháp để áp chế người dân đi ngược dòng đạo đức luân lý. Dù với quyền lực, họcũng không thể giết đi tiếng nói của lương tâm. Sự thật vẫn luôn là sự thật.
Thánh Phaolô khuyên dạy: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa (Dt 12, 2). Chúng ta tìm về nguồn chân thiện mỹ. Đức Kitô là Đấng trung gian giữa đất trời. Ngài là Lời của Thiên Chúa. Ngài mạc khải cho chúng ta về con đường cứu độ qua thập giá. Ngài đã chấp nhận cái chết đau thương trên khổ giá để minh chứng cho lời rao giảng và sự thật Nước Trời. Muốn đạt được quê trời, chúng ta cũng phải phấn đấu một cách kiên vững và gian khổ. Bước qua cửa hẹp. Từ bỏ mình và vác thập giá theo Chúa. Muốn bước theo Chúa, chúng ta không thể bắt cá hai tay. Cần có sự chọn lựa dứt khoát.Tránh kiểu sống nửa vời tương đối vô thưởng vô phạt.
Nhắm hướng nhìn lên. Suy gẫm sự khổ đau của Chúa Kitô trên thập giá để tìm hướng đi. Chúng ta có thể hỏi rằng tại sao Chúa phải chịu khổ nhục như thế? Chúa có thể chọn cách khác nhẹ nhàng hơn chứ! Không, Chúa Kitô đã ước ao hoàn tất chén đắng mà Cha đã trao đề kéo lôi chúng ta ra khỏi vực sâu của tội lỗi và sự chết: Anh em hãy tưởng nghĩ đến Đấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng (Dt 12, 3). Mầu nhiệm Chúa Kitô chịu chết và sống lại là một chân lý. Chân lý của sự giải thoát. Để tìm câu trả lời cho sự lành sự dữ, sự tốt sự xấu, tội hay phúc, chúng ta hãy tìm câu trả lời nơi Chúa Kitô chịu đóng đinh.
Các nhà làm luật phán đoán và quyết định những điều đối nghịch với đạo đức luân lý nhưng họ đâu có chịu trách nhiệm. Sự dữ, sư xấu và sự sai trái đổ trên đầu người dân thấp cổ bé miệng. Các nhà lập pháp đâu có cảm thông và hiểu thấu những sầu khổ oan khiên trong thâm tâm của mỗi người. Các quan tòa vui mừng mở rượu vang chúc mừng nhau, khi thành công bỏ phiếu thành luật về một vấn đề luân lý nghịch đạo. Họ đâu có lường được những hệ lụy khổ đau kéo theo từ dòng dõi này qua dòng dõi khác. Biết bao tâm hồn bị tổn thương và rơi vào cô đơn giá lạnh. Chỉ có một Người cảm thông nỗi đớn đau tuyệt vọng và có uy quyền chữa lành tâm hồn là chính Chúa Kitô trên thập giá.
Lạy Chúa, Chúa đang giang tay chờ đón chúng con. Chúa nới với chúng con rằng ai yêu nhiều sẽ được tha nhiều. Chúng con chạy đến với Chúa, xin Chúa dủ lòng thương xót chúng con.
.
AM. Trần Bình An
Cha Manuel Dorantes, linh mục thuộc tổng giáo phận Chicago Hoa Kỳ, phụ tá tiếng Tây Ban Nha cho Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, đã thuật lại cho thông tấn xã Công Giáo CNA rằng, sau khi Đức Hồng Y Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, tuyên đọc sắc lệnh của Đức Thánh Cha Phanxicô, công nhận Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero là vị tử đạo vì đức tin và tuyên phong Chân Phước cho ngài… Lúc ấy, “một hiện tượng rất kỳ lạ đã xảy ra”. Cha Manuel cho biết tiếp: “Khi thánh tích được rước ra, và chúng tôi đang hát Kinh Vinh Danh, thì bất ngờ, trời như mở ra trên chúng tôi, mặt trời ló dạng. Một vòng tròn hào quang tuyệt hảo hình thành phía trên mặt trời, mà khoa học gọi là hiện tượng “solar halo.” Ngài cho biết, mọi người không ai bảo ai đều nhìn lên. “Có những linh mục bắt đầu khóc. Tôi cũng khóc, nhiều linh mục khóc. Các Giám Mục đứng trong khán đài có mái che không thấy nên bước hẳn ra ngoài để nhìn cho rõ chuyện gì đã xảy ra.”
Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero sinh ngày 15/08/1917 trong một gia đình có 8 người con. Ngài được thụ phong linh mục tại Rôma vào ngày 04/04/1942. Sau khi thụ phong linh mục cha Romero tiếp tục ở lại Roma để theo học chương trình tiến sĩ thần học. Nhưng vì cuộc nội chiến tại El Salvador và Giáo Hội tại nước này thiếu linh mục, ngài được gọi về nước. Và trong hơn 20 năm sau đó, ngài làm cha xứ và thư ký cho Tòa giám mục San Miguel. Năm 1970, cha Oscar Romero được tấn phong giám mục và làm phụ tá cho Đức Cha Chavéz, Tổng Giám Mục San Salvador và ngày 23/02/1977, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của San Salvador. Ngày 12/03/1977, một linh mục dòng Tên, là cha Rutilio Grande, một trong những linh mục đầu tiên được ngài truyền chức và là một người can đảm đấu tranh cho những người nghèo, bị sát hại. Ðức cha Romero đã phản ứng rất mạnh. Ngài đã ra lệnh đóng cửa trường học do Giáo Hội điều hành trong ba ngày và đình hoãn mọi thánh lễ trên toàn quốc trong tuần lễ kế tiếp, ngoại trừ một thánh lễ đặc biệt tại nhà thờ chính tòa San Salvador. Trong bài giảng tại thánh lễ đặc biệt đó cũng như trong các thánh lễ các Chúa Nhật tiếp theo, ngài đã lên tiếng tố cáo những tội ác, bất công do giới cầm quyền gây nên. Để phản đối việc chính phủ liên quan đến hay thinh lặng trước các vụ bắt bớ, giết hại, ngài đã không tham dự lễ nhậm chức của tân tổng thống của nước này. Ngài tuyên bố: “Giáo Hội không được đo lường bằng sự hỗ trợ của chính phủ, mà bằng chính tính trung thực, tinh thần cầu nguyện theo tinh thần Tin Mừng, lòng tin tưởng, sự chân thành và công lý, nhất là khi Giáo Hội chống lại các lạm dụng”. Một cử chỉ khác được coi là mạnh dạn là việc ngài quyết định cho mở cửa chủng viện tại trung tâm thủ đô San Salvador và ngày thứ hai Phục Sinh năm 1978 để đón tiếp bất cứ nạn nhân nào của các vụ bạo động. Hàng trăm người vô gia cư, đói rách và bị hành hung đã đến chủng viện. Và một quyết định nữa nói lên việc ngài toàn tâm toàn lực đấu tranh cho công lý, cho người nghèo là việc ngài cho ngưng xây cất nhà thờ Chính tòa San Salvador. Ngài nói: “Khi nào chiến tranh chấm dứt, những người đói khổ được ăn uống đầy đủ và trẻ con được giáo dục, lúc đó chúng ta sẽ tiếp tục xây cất nhà thờ chính tòa”. Chính vì sự cương quyết và can đảm đó, ngài đã trở thành cái gai trong mắt những người có quyền, có thế lực tại El Salvador. Ngài luôn bị đe dọa, luôn phải đối diện với nguy hiểm. Biết vậy, ngài vẫn không im lặng, hay tìm một nơi khác an toàn. Chiều ngày 24/3/1980, Đức Cha Romero cử hành Thánh lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn, tại nguyện đường của một bệnh viện ở thủ đô San Salvador. Ngài bị bắn chết ngay sau bài giảng nảy lửa của mình.
Án phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám mục Romero đã vấp phải những quan ngại cho rằng, ngài đã bị giết vì tham gia chính trị, chứ không phải vì đức tin của mình. Năm 2013, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã khai thông mọi bế tắc trong tiến trình phong Chân Phước. Ngài nói rằng Đức Tổng Giám Mục Romero “đáng được phong Chân Phước, tôi không bao giờ hồ nghi về điều đó” (Đặng Tự Do, Những hiện tượng siêu tự nhiên trong Lễ Phong Chân Phước cho ĐTGM Oscar Romero, Vietcatholicnews)
Những bài giảng của Đức TGM Oscar Romeo rực lửa tình yêu, bênh vực những người nghèo khổ bị áp bức. Sứ mệnh ngôn sứ đã không cho phép ngài im lặng, đồng loã, thoả hiệp với sự dữ. Ngài thực sự noi gương Đức Giêsu, đem Lửa Trời thanh luyện thế gian, cùng sẵn sàng đón nhận phép Rửa trong Thánh Thần và lửa.
Trong Tin Mừng Chúa nhật 20 Thường niên hôm nay, Đức Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên.” Với Lòng Thương Xót vô biên, Người tha thiết mong muốn ngọn lửa tình yêu nồng nàn, lửa chân lý rạng ngời và lửa hồng ân tái sanh, cho con người được hưởng phúc vĩnh cửu.
Lửa tình yêu
Lửa chính là biểu tượng cao cả chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Từ ngọn lửa bừng cháy trong bụi cây tại núi Khôrép, Thiên Chúa đã thương yêu phán dạy cùng ông Môsê (Xh 3, 2). Kinh Thánh có lẽ dựa vào đó, để khái quát phác hoạ tính siêu việt tột đỉnh: “Thiên Chúa của anh em là một ngọn lửa thiêu.” (Đnl 4, 24 & Dt 12, 29) Lửa còn là hình ảnh Thiên Chúa hướng dẫn dân Do Thái trong sa mạc (Xh 13, 21). Tóm lại theo Cựu Ước, lửa là hình ảnh biểu lộ quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. (Is 1, 25; Dcr 13, 9)
Lửa cũng còn là tình yêu nồng cháy của Đức Giêsu nhập thể. Vì tình yêu, Người đã xin vâng Thánh Ý, đến cứu độ nhân loại. Yêu thương tất cả mọi người, Người không phân biệt, kỳ thị, loại bỏ bất kỳ ai. “Ta chẳng phải đến gọi người công bình, nhưng gọi kẻ có tội.”(Mc 2, 17) Người đặc biệt quan tâm chăm sóc, cứu vớt những ai nhỏ bé, khiêm nhường, ưu sầu, nghèo khổ, bệnh hoạn, tật nguyền, lầm lạc, tội lỗi, bơ vơ, cùng khốn, tù đầy, bị từ khước và bị bỏ rơi. “Vì Con người đã đến để tìm sự đã hư đi.” (Lc 19, 10)
Chính Đức Giêsu đã mạc khải cho ông Nicôđêmô rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3, 16) Bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu.”(1Ga 4, 8), nên ngọn lửa cũng ẩn dụ hình bóng tình yêu nồng nhiệt của Chúa dành cho nhân loại. “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu.” (Ga 15, 13) Lửa tình yêu của Chúa cao cả tuyệt đỉnh, vô song, chói lọi, rực sáng, xua tan bóng đêm thù hận, oán ghét, chia rẽ, đố kỵ giữa nhân loại. “Tình yêu là ngọn lửa của Đức Chúa, mà những dòng nước lũ không thể dập tắt được.” (Dc 8, 6)
Lửa chân lý
Thời Tân Ước, lửa trở thành biểu tượng của Chúa Thánh Thần, như ông Gioan Tẩy Giả đã trân trọng giới thiệu: “Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt 3, 11) Vì thế, Đức Giêsu muốn ngọn lửa tình yêu đốt cháy cả thế gian, đang vô cảm, vô tình, bất nhân, bất nghĩa, xơ cứng, đông lạnh vì thói vị kỷ, lãnh đạm, dửng dưng trước nỗi đau đớn của đồng loại.
“Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên.” Lửa Chúa Thánh Thần chính là chân lý, sự thật, sẽ đốt cháy những gì giả dối, gian manh, trá hình, dẫn đưa mọi người về đường ngay nẻo chính. Nhưng chính ý muốn chân thật, thánh thiện này lại trở nên nguyên cớ gây bất bình, chia rẽ, chống đối, báng bổ, như người công chính Simêon đã công khai tiên báo: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.” (Lc 2, 34)
Lửa chân lý phân minh xua tan bóng tối giả hình, lật tẩy những kẻ tà tâm, soi dọi ánh sáng vào những mưu toan đê hèn, bất nhân, lên án thói háo danh, háo lợi. “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Mt 4, 16)
Những ai không chấp nhận chân lý, không dám đối diện sự thật, thường tìm mọi cách che giấu, ém nhẹm, bưng bít những hành xử xấu xa, những thủ đoạn gian manh,.. Đồng thời bằng mọi cách ám hại những ai can đảm lên tiếng cảnh tỉnh, bịt miệng những tiếng nói lương tâm. Đức Giêsu không hề sợ hãi quyền lực sự dữ. Người thẳng thắn vạch mặt chỉ tên những ai lạm dụng chức tước, địa vị và quyền uy để mưu lợi. “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.” (Mt 23, 14)
Chính vì bảo vệ chân lý, Đức Giêsu trải qua bao âm mưu sát hại. Người bị vu oan cáo vạ cũng vì sự thật. Người chẳng hoạt động chính trị, chẳng mộng phục quốc, chẳng mưu đồ bá vương. Nhưng sau cùng vẫn bị kết án chính trị.“Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ.” Chính lửa chân lý gây chia rẽ giữa thiện và tâm, chính sự thật làm phân hoá, khuynh đảo toàn thể xã hội, đang điên cuồng mê say thói thực dụng và gian xảo.
Lửa tái sinh
Lời Chúa còn tựa như lửa tái sinh dành cho những ai biết lãnh nhận, lắng nghe, và đem ra thực hành, sẽ cảm biến cuộc đời, rồi sau này qua cái chết, sẽ được hưởng phúc vĩnh cửu: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.(Ga 5, 24)
Ngay các Tông đồ đã cảm nghiệm sâu sắc tác động của Lời Chúa: “Dọc đường, khi Ngài nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24, 32) Lửa Lời Chúa luôn đem lại cho người nghe niềm vui, bình an và hy vọng.
Đức Giêsu còn mong muốn những Tông đồ, những tín hữu theo Người, đem ngọn lửa Tin Cậy Mến chiếu giãi thế gian, để cho mọi người đều được chung hưởng phúc trường sinh. Hiệp ý cùng, thánh Phaolô đã khuyến khích giáo dân Philipphê: “Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống, để tôi được hiên ngang hãnh diện trong ngày Ðức Kitô quang lâm, vì tôi đã không chạy uổng công và đã không lao nhọc vô ích.” (Pl 2, 15-16)
“Chiếu sáng đời con bằng đức tin và đức ái. Đốt cháy thế gian với ngọn lửa Chúa đặt trong tim con.” (Đường Hy Vọng, số 226)
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa,
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta)
Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng con trở thành ngọn lửa nhiệt thành tràn đầy tình yêu Chúa và tha nhân, để chúng con có thế chiếu sáng cho thế gian. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH
Lửa hay nước đều có thể làm chết người, thời tiết nóng bức hay lạnh quá cũng là nguyên nhân gây nên khổ đau cho con người. Điều kiện làm cho cuộc sống có ý nghĩa và hạnh phúc là gì ? Nhất định đó phải là được niềm vui, được chan chứa yêu thương và bình an tâm hồn. Là con người ai cũng sợ chia rẽ, cô đơn, sợ các mối quan hệ bị rạn nứt, làm mất đi vẻ đẹp của tấm lòng, sự thân thiện bị đổ vỡ. Cho dù hoàn cảnh, thời gian, điều kiện mỗi người mỗi khác, nhưng ai cũng có tự do để chọn lựa phần tốt nhất cho mình.
Vua An Dương Vương tốn rất nhiều công sức xây thành Cổ Loa, thế mà chỉ vì “ngọn lửa tình” của công chúa Mỵ Châu, bí mật bị bại lộ, vua cha mất “nỏ thần”, mất nước, mất tất cả ! Giêrêmia vì “lửa tình” có sẵn trong tâm hồn mà ông dám nói lên sự thật, cho dù tính mạng ông bị đe dọa. Đức Giêsu vì lửa yêu thương, Ngài chia sẻ với các học trò về mơ ước sao cho ngọn lửa sự thật sẽ bừng cháy lên trong lòng mỗi người. Để lửa yêu thương mang lại ơn cứu độ, Đức Giêsu đã lấy Máu Mình mà rửa nhân loại tội lỗi, “ngọn lửa tình” của Ngài sẽ được minh chứng trên cây thập giá.
Trong khi người đời vẫn đang tranh giành lợi lộc vật chất, các gia đình vẫn bất ổn vì cho rằng tài sản không được phân chia công bằng ! Chúa Giêsu lại tha thiết kêu gọi hãy để cho thứ lửa yêu thương trong cuộc sống mỗi người lớn lên, bừng cháy lên. Duy chỉ có thứ lửa yêu thương mà Chúa Giêsu mang tới mới đủ sức thanh luyện, biến đổi, làm rõ hình ảnh Thiên Chúa nơi tâm hồn mỗi người. Chính do hiểu sai về sự thật, hiểu không đúng về tình yêu, quá ham mê tiền của vật chất mà ngay trong gia đình có sự chia rẽ, bất ổn, nguy cơ mất đi sự sống thật trong Đức Kitô.
Dù đạo lý ở đời người ta đã thuộc lòng : con hiếu thảo, cha mẹ vui, nhà hòa thuận, muôn việc thành ; hoặc anh em như thể tay chân, rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần. Thực hành yêu thương, sống có tình làng nghĩa xóm, là áp dụng “lửa yêu thương” trong các tương quan, là sống lời dạy : chín bỏ làm mười, để qua đó, làm sống động tình nghĩa anh chị em hơn. Hiểu và sống tích cực hơn, thì phải đầu tư, phải thực thi tinh thần người môn đệ mến Chúa yêu người, chịu phép rửa trong Đức Kitô.
Trong tương quan xã hội luôn có kẻ xấu người tốt, có hiền lành có hung dữ, có kẻ gieo “quả độc trái ác” thì cũng có người trồng trái ngọt quả thơm. Con dao là dụng cụ không thể thiếu nơi nhà bếp, thì con dao cũng là vũ khí giết người đáng sợ. Lửa tự nhiên đốt cháy, thiêu rụi, lửa yêu thương sẽ đốt cháy được tội lỗi, và còn có tác dụng sưởi ấm được mọi tâm hồn con người. Thế gian này có nhiều con đường, nhưng không phải con đường nào cũng đưa tới sự sống. Mỗi người đều độc lập tự do, nhưng tự do yêu thương và áp dụng chọn điều tốt cho bình an hạnh phúc không thể tùy tiện theo ý thích riêng của mình.
Sự chia rẽ, cô quạnh mà Chúa Giêsu nói đến là gì ? Hẳn không chỉ đơn giản chia rẽ là chết, đoàn kết thì sống, mà đó là sự phân rẽ giữa thiện và ác, giữa tối tăm sự chết và ánh sáng chân lý sự sống. Bất kể là ai muốn tìm kiếm cho mình hạnh phúc thật, đều phải biết đến một chọn lựa căn bản, một quyết đoán khôn ngoan, minh bạch, con đường dẫn tới sự sống đời đời. Tìm kiếm, chọn lựa thế gian là tiền là quyền là lạc thú ở đời này ; theo Chúa, chọn Chúa, thì tình yêu thương, chính là trung tâm điểm để giúp ta sống và đạt tới hạnh phúc đời đời. Kinh nghiệm của người thông thái cho rằng : thế giới chìm đắm trong đau khổ không chỉ vì cái ác của kẻ xấu, mà còn vì sự im lặng của người tốt. (Napoleon)
Chân lý yêu thương mà Chúa Giêsu hôm nay nhắc nhớ người ta chọn lựa, đâu chỉ là biết mến Chúa yêu người, mà mỗi người phải thực hành điều Chúa dạy bằng khả năng điều kiện của mình. Cha ông chúng ta có câu : trăm năm soi chiếc gương mờ, không bằng một phút soi nhờ gương trong. Trí tuệ, hành động của con người dù khôn ngoan bậc nhất, cũng đều nhằm mưu cầu hạnh phúc ở trần gian. Chỉ những ai ở trong tình yêu Đức Giêsu, chỉ những ai nhờ phản chiếu gương sáng Đức Kitô, mới hiểu và cảm được giá trị của tình yêu vĩnh cửu mà Ngài mời gọi đón nhận.
Chân lý đức tin, sức mạnh nội tâm, không thể tìm đâu ngoài tình yêu Đức Kitô, mọi người đều được ơn ban để tự do chọn lựa. Chúa Giêsu có là đối tượng duy nhất của cuộc đời chúng ta không ? Mỗi người, mỗi gia đình chính là phần tử quan trọng mà Chúa Giêsu luôn mời gọi hãy cùng Ngài thắp lửa yêu thương đến khắp mọi miền quê hương đất nước. Xin “lửa yêu thương” của Chúa tiếp tục thấm nhập vào tâm trí mỗi mỗi người, để qua đó ơn Chúa tiếp tục rửa sạch những mưu mô tội tỗi bất xứng của từng tâm hồn chúng ta nên con cái sự sáng của Ngài. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Tự thâm tâm con người vốn khao khát hòa bình. Vì vậy người ta luôn cầu chúc và mong ước cho nhau được bình an. Nhưng nhiều khi họ không hiểu biết bản tính của điều mà họ hết lòng mong ước, và những con đường họ theo để tìm kiếm bình an không phải lúc nào cũng là những đường lối của Thiên Chúa.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài đọc I cho chúng ta thấy thân phận ngôn sứ của Giêrêmia. Ông được kêu gọi khi còn rất trẻ, vào năm 19 tuổi, tức khoảng năm 626 TCN, vào lúc đất nước ông đang ở trong thời kỳ khủng hoảng cả về chính trị lẫn niềm tin. Ông được sai đi để kêu gọi dân chúng sám hối, ăn năn quay trở về. Nhưng thay vì họ ăn năn sám hối quay về với Chúa, thì họ vẫn tiếp tục phạm tội. Đặc biệt hơn là họ còn muốn giết chết cả tiên tri Giêrêmia, người thay Thiên Chúa đến nhắc nhở họ; để họ khỏi phải áy náy về hành động sai lầm của mình. Rõ ràng, thứ bình an mà con người tìm kiếm khác với bình an đích thực mà Thiên Chúa mong muốn, vì vậy mà lời rao giảng của Giêrêmia không được đón nhận, ngược lại còn bị chống đối.
Tác giả thư Do Thái mời gọi hãy “kiên trì trong đức tin”, vì “Đức Giêsu Kitô đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình”, nên “đã được ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Người môn đệ Chúa nếu biết kiên trì cam chịu những chống đối trong đời sống đức tin giống như các ngôn sứ, thì chắc chắn cũng sẽ được phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ. Hay nói cách khác, nếu biết tìm kiếm bình an đích thực do Thiên Chúa ban, thì sẽ được; ngược lại, tìm kiếm bình an theo kiểu thế gian thì sẽ mất tất cả.
Đức Giêsu cho các môn đệ biết con đường Ngài đang đi và sẽ tiến tới chính là con đường thập giá. Nhưng phía sau con đường này là niềm vui, là ơn cứu độ, là Hòa Bình đích thực. Ngài biết các môn đệ cũng như những ai bước đi trên con đường này phải chiến đấu hằng ngày, phải gặp chống đối ngay cả với những người thân, vì đơn giản một số người không chấp nhận con đường thập giá của Đức Giêsu.
II. CUỘC CHIẾN VÌ HÒA BÌNH
Thế giới hôm nay đang nhân danh hòa bình để chiến đấu, nhưng chính lúc đó họ lại gây nên chiến tranh. Vì thế hòa bình họ có được không phải là hòa bình đích thực. Hòa bình đích thực chỉ được xây dựng trên nền tảng của tình yêu thương mà Đức Giêsu đã dùng để kiến tạo cho nhân loại.
26/7/2016, hai tên khủng bố thuộc nhóm Hồi Giáo qúa khích ISIS đã xông vào một nhà thờ Công Giáo ở Saint-Etienne-du-Rouvray thuộc Normandy Pháp Quốc, giết chết vị linh và bắt làm con tin 4 người. Tin này đã làm chấn động thế giới. Đức Thánh Cha Phanxicô đau buồn sâu sắc về điều này. Tuy nhiên tuyên cáo của Tòa Thánh cho biết Giáo Hội sẽ không đáp trả khủng bố bằng bất cứ loại vũ khí nào mà chỉ kêu gọi cầu nguyện và thực thi tình huynh đệ giữa mọi người.
Rõ ràng cuộc đời là một cuộc chiến để tìm kiếm bình an theo nhiều cách thức khác nhau. Đôi khi người ta thỏa hiệp để có được bình an tạm thời.
Bình an cơ bản nhất của con người là cuộc sống ổn định với cơm áo gạo tiền. Chính điều này đã làm cho nhiều người thỏa hiệp với cuộc sống để có được bình an giả tạo. Người ta tất bật suốt ngày không có giờ nghỉ ngơi cũng chỉ vì kiếm tiền. Người ta làm ăn gian dối cũng chỉ để có tiền. Người ta phạm tội ác cũng chỉ vì đồng tiền… Về cơ bản người ta có tiền, nhưng sâu thẳm bên trong người ta không có bình an. Vì thế thứ bình an của họ chỉ là bình an thỏa hiệp với cuộc sống mà thôi.
Có một loại bình an rất nguy hiểm mà tôi tạm gọi là bình an vô trách nhiệm. Bình an này có được do điều kiện thuận lợi của cuộc sống nên người hưởng dùng hưởng thụ một cách vô tội vạ. Họ không có trách nhiệm với đồng tiền, họ “xài xả láng” vì nghĩ rằng tiền của họ nên họ có quyền. Cơ ngơi của họ được bao bọc, được đóng khung như người phú hộ trong Tin Mừng… Quả thật họ không làm gì sai trái, nhưng họ đã chi xài quá phung phí, họ không có trách nhiệm với những người nghèo. Hơn thế nữa, vì quá chú tâm đến gia sản của mình, nên họ không còn thời gian dành cho người khác. Vì vậy họ có được bình an trong sự hưởng thụ cho riêng họ, trong khi những người xung quanh đang mong chờ được họ bố thí hoặc chỉ đơn giản là đến viếng thăm. Bình an của họ là bình an ích kỷ.
Tuy nhiên có những người biết tìm kiếm bình an đích thực. Nó không hệ tại ở tiền bạc, của cải, vật chất, hay những thứ bên ngoài, nhưng hệ tại ở cuộc sống gắn bó với những giá trị cao cả, và con tim của họ biết mở rộng để đến với mọi người.
Để có được bình an này, quả thật họ phải chiến đấu hằng ngày đúng như lời Đức Giêsu nói. Có những cô vợ muốn đi lễ nhưng chồng không cho. Có những ông chồng muốn phục vụ giáo xứ nhưng vợ không đồng ý. Có những cô gái muốn giữ lại đứa con ngoài ý muốn, nhưng bạn trai ép buộc phá bỏ… Nhưng họ đã chiến đấu và họ đã chiến thắng để dù mất đi nhiều thứ, nhưng đổi lại họ có được bình an đích thực.
Có những người nghèo, nhưng hằng ngày sau khi vất vả làm lụng vẫn dành thời gian để đi lễ vì họ biết đâu là giá trị thật.
Có những người rất giàu có, nhưng cuộc sống của họ rất bình dị. Họ không chi xài phung phí để lấy tiền giúp người nghèo. Họ phải hy sinh mua một món đồ quý cho mình để dâng cúng cho nhà thờ…
III. ĐỂ CÓ ĐƯỢC BÌNH AN ĐÍCH THỰC
Vâng, cuộc sống của người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên lỉ để sống gắn bó với Chúa và yêu thương anh em. Khi có được những điều đó là chúng ta có được bình an đích thực.
Trong cuộc chiến này đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu và phải hy sinh. Phấn đấu để vượt lên trên những dính bén của giá trị thuộc về thế gian này. Hy sinh để từ bỏ những niềm vui riêng tư hầu biết quan tâm đến người khác.
Trong cuộc chiến này, chúng ta có Đức Giêsu cùng đồng hành, vì chính Người đã đi trước, dẫn đường lên Giêrusalem. Và qua cuộc tử nạn đó Ngài bước vào vinh quang Phục sinh.
Chính vì thế, chúng ta phải gắn bó với Đức Giêsu để hiểu được những tâm tư của Ngài. Ngài muốn chúng ta phải đi theo Ngài trên con đường thập giá. Vì thế khi thấy những cám dỗ ngọt ngào, chúng ta phải biết từ khước vì một nền hòa bình đích thực. Khi thấy mình muốn kiếm tìm niềm vui riêng tư, hãy nhớ rằng Đức Giêsu đã sống cho hạnh phúc của người khác.
Lạy Chúa, Bình an đích thực chỉ có ở nơi Chúa mà thôi, vì Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Xin cho con biết chạy đến với lòng thương xót của Chúa để có được bình an đích thực.
.
BÌNH AN CHỈ CÓ KHI SỰ THẬT LÊN NGÔI
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Nếu Tin Mừng Chúa Nhật XVIII, Đức Giêsu kêu gọi hãy dùng tiền của bất chính để mua lấy Nước Trời để được hạnh phúc thật, và Chúa Nhật XIX, Ngài nhấn mạnh đến thái độ “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón chờ Chúa đến trong ngày Quang Lâm…,thì Chúa Nhật XX này, Đức Giêsu chuyển sang một hướng khác, một đề tài liên quan trực tiếp đến sứ mạng và chương trình cứu độ của Ngài, khi loan báo về cuộc thương khó cũng như cái chết.
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:
Phần I, Đức Giêsu muốn nói đến sứ mạng Thiên Sai của Ngài;
Phần II, Ngài tiên báo về những hệ lụy do sứ mạng của mình mang lại.
Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Ngài đến để cứu độ con người, nhưng Ngài cứu độ không bằng quyền bính, mà bằng chính cái chết của mình để cứu độ nhân loại. Thật thế, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết về sứ mạng của Mình: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.
Phép rửa mà Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự thương khó và cái chết của Ngài. Đồng thời những ai muốn bước theo Ngài thì cũng phải đón nhận phép rửa như Ngài đã chịu, tức là từ bỏ ý riêng, để vâng theo ý Chúa, sẵn sàng hy sinh và chấp nhận cả cái chết để sống và làm chứng về những giá trị Tin Mừng.
Phép rửa và sứ mạng ấy, Đức Giêsu mong muốn cho mau đến: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”. Ngọn “Lửa” ấy chính là Chúa Thánh Thần. Người đến để thanh luyện những tâm hồn sỏi đá, phân biệt sự thật và giả dối. Người đến còn là để xét xử trần gian.
Ngọn “Lửa” ấy cũng chính là ngọn “Lửa” của Tình yêu, Sự Thật, Công Bình.
Như vậy Đức Giêsu ao ước cho “Lửa” ấy bùng cháy lên để biến đổi trái đất này thành Trời mới Đất mới. Những tâm hồn trai cứng thành mềm dẻo, biết yêu thương nhau, nâng đỡ và đồng hành với nhau để làm chứng cho Chúa trong sự thật, để yêu thương mọi người như anh em một nhà.
Làm được điều đó là chúng ta đã đi vào trong quỹ đạo của Thiên Chúa, một quỹ đạo của sự thật, yêu thương, bình an và hoan lạc.
Nhưng để đạt được điều đó thật không dễ, bởi vì nó đòi hỏi ta phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh, thử thách, đau thương; phải chấp nhận hủy mình ra không để thánh ý Thiên Chúa được thể hiện, chấp nhận hủy diệt bản thân mình như hạt lúa gieo vào lòng đất, tức là chấp nhận cái chết: chết đi cho con người cũ là con người tội lỗi, để thay vào đó là một con người mới, tâm hồn mới và thái độ mới theo hình ảnh của Đức Kitô.
Sau khi đã nói về sứ mạng của mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của người môn đệ, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (x. Lc 12,49.51). Mới nghe, chúng ta có cảm tưởng rất nghịch lý và mâu thuẫn nội tại. Tức là mâu thuẫn với chính Đức Giêsu, bởi vì Ngài được mệnh danh là “Hoàng Tử Hòa Bình”, hơn nữa, Ngài đến để đem bình an cho nhân loại! Ấy vậy mà hôm nay, Ngài lại bảo: “Tôi đến để đem chia rẽ?
Nhưng không! Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta hiểu một cách sâu xa hơn rằng: con đường bình an của Ngài là con đường hy sinh, của từ bỏ; con đường của sự chết vì chân lý. Và, muốn có được bình an thì phải đi trên con đường đó, để làm chứng cho sự thật, bảo vệ cho công lý, và xây dựng hòa bình.
Chính Đức Giêsu cũng chỉ vì sự thật mà phải chết. Ngài không bị kết án vì đã dạy cho con người sống tốt; Ngài cũng không bị kết án vì đã làm ơn cho kẻ khác; nhưng Ngài bị kết án chỉ vì dám nói, sống và làm chứng về sự thật.
Như vậy, bình an đích thực chỉ có thể đến được với những người có tâm hồn thật thà, ngay thẳng, biết lắng nghe, và thực hành Lời Chúa. Bởi vì, bình an của Đức Giêsu không phải là một thứ bình an theo kiểu người đời trao tặng cho nhau, cũng không phải là một thứ bình an làm cho con người ngủ mê… Nhưng bình an của Đức Giêsu đem đến cho nhân loại chính là thứ bình an chỉ có được qua hy sinh, được tôi luyện bằng những thử thách, và được lớn lên trong khuôn khổ thập giá.
Quả thật, hôm nay, lời của Đức Giêsu như là một lời tiên tri cho chính Ngài và sứ vụ của các môn đệ: sẽ có nhiều người chống đối vì họ không thể chấp nhận và thay đổi. Họ không muốn sống theo sự thật. Vì thế, ngay trong gia đình cũng luôn xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng vì có người theo và có người không theo; sẽ xảy ra những sự chia rẽ giữa những người tin và những người không tin: “Năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng”. Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn dạy rằng: bình an chỉ có thể có khi sự thật, công lý được lên ngôi.
Tuy nhiên, trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta không dám nói lên sự thật chỉ vì chúng ta sợ mất lòng và bị người ta ghét bỏ. Hơn nữa, có khi chúng ta lại còn đứng về phía bất công để kết án những người lương thiện chỉ vì họ sống thật thà với một lương tâm ngay thẳng.
Trong buôn bán, có nhiều kẻ ghét những người buôn bán thật thà; người hay nói dối thì lại ghét những người nói thật…trong gia đình, những đứa con hay nịnh bợ thì lại được cha mẹ nuông chiều, còn những đứa con thật thà thì lại không được yêu…
Nhưng là Kitô hữu, chúng ta muốn được bình an thực sự của Chúa, chúng ta không có con đường nào khác, đó là con đường thập giá, con đường của chính Đức Giêsu đã đi. Khi đứng về phía sự thật, là chúng ta chấp nhận những hệ lụy như chính Đức Giêsu đã chịu. Hậu quả đó có thể do ghen tức, trục lợi, hoặc chỉ vì dám nói lên những điều ngay thẳng… Đọc chuyện các thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta thấy rất rõ điều này: có những đấng bị chính con cái tố cáo, bỏ tù chỉ vì ghen ghét; có những đấng bị bắt chỉ vì người nhà, bạn bè, học trò ham tiền, trục lợi… Khi bị bắt rồi, các ngài không chịu nói dối để được tha, thậm chí còn nhân cơ hội ấy để nói và làm chứng cho vua chúa quan quyền thời bấy giờ về sự thật, thế nên các ngài đã phải đón nhận cái chết như một sự trả lẽ cho sự thật.
Như vậy, muốn có bình an thực sự là khi và chỉ khi chúng ta đã quyết liệt chiến đấu để lựa chọn. Bình an chỉ có được khi nó thực sự tách biệt khỏi gian dối, hận thù và ghen tương; tách bóng tối ra khỏi ánh sáng nhờ ngọn “Lửa” của Chúa Thánh Thần mà Đức Giêsu đã ban xuống cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho ngọn lửa của tình yêu, sự thật và lòng mến thiêu đốt tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con được bình an và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu trong cuộc sống mai hậu. Amen.
.
GÓP PHẦN LÀM BÙNG CHÁY NGỌN LỬA TIN YÊU
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
(49) Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên ! (50) Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !”. (51) Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao ? Thầy bảo anh em biết : Không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. (52) Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau : ba chống lại hai, hai chống lại ba. (53) Họ sẽ chia rẽ nhau : cha chống lại con trai, con trai chống lại cha ; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng”.
– SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU : là đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Sứ vụ của Đức Giêsu là còn phải chịu một phép Rửa tức là chấp nhận trải qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh để ban ơn cứu độ cho lòai người.
– NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỐI VỚI MÔN ĐỆ : Người đòi môn đệ phải sẵn sàng chia sẻ sự đau khổ mà Người sắp phải chịu. Vì thực tế sẽ có sự chia rẽ từ trong các gia đình : trong cùng một nhà có những người tin Chúa và có kẻ không tin. Nhưng ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu độ.
– C 49-50 : + Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất : Trong Thánh kinh, Lửa biểu tượng sự phán xét của Thiên Chúa, nhất là trong ngày tận thế, để thiêu hủy những kẻ gian ác và thanh luyện số ít người trung tín còn sót lại (x. Lv 10,2 ; Lc 3,9). Lửa cũng là biểu tượng của Thần Khí Thiên Chúa, đã làm cho lòng hai môn đệ làng Emmau phải nóng lên, khi cùng đi đường đàm đạo với Chúa Phục Sinh (x. Lc 24,32). Lửa Thần Khí cũng đậu xuống trên các Tông đồ để thánh hóa các ông vào lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,3-19). Lửa còn ám chỉ những đau khổ mà Đức Giêsu phải chịu để thanh luyện con cái Ítraen giống như vàng được thanh luyện trong lửa (x. Mc 13,1-4 ; Is 1,25). + Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên : Đức Giêsu mong ước ban Lửa Thần Khí cứu độ cho thế gian. Đó là nhiệm vụ duy nhất của Người. + Thầy còn một phép Rửa phải chịu : Phép Rửa là sự dìm mình dưới mặt nước. Thời Giáo hội sơ khai người chịu phép Rửa phải được nhận chìm toàn thân trong một hồ nước và sau đó trồi lên. Phép Rửa này tượng trưng cho sự chết như trong cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu: Người cũng đã chết và được an táng trong lòng đất, rồi ngày thứ ba Người đã trỗi dậy vinh quang. + Lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất : Đức Giêsu thao thức chu toàn sứ vụ được Chúa Cha trao phó là phải trải qua cuộc tử nạn và phục sinh để ban ơn cứu độ cho loài người.
– C 51-53: + Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao ? : Hòa bình hay bình an (Shalom) là mức sung mãn của sự sống, là quà tặng tuyệt vời của Đấng Mêsia (x. Is 9,5-6 ; Lc 1,79). + Không phải thế đâu : Thứ bình an Chúa ban không phải là thứ bình an dễ dãi, như Người đã nói : “Thầy ban bình an của Thầy không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Cũng không phải là thứ “bình an vô sự” mà các ngôn sứ giả đã mơ tưởng (x. Gr 6,16 ; Ed 13,10.16). + Nhưng là đem sự chia rẽ : Đứng trước Đức Giêsu, người ta phải lựa chọn dứt khoát : Tin theo hay chống lại Người. Sự lựa chọn này là nguyên nhân gây ra chia rẽ ngay trong nội bộ từng gia đình. + Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau : cha chống lại con trai…: Theo lời các ngôn sứ thì sự chia rẽ là một đặc điểm của thời kỳ sau hết (x. Mk 7,6 ; Ml 3,24). Vào thời Giáo hội sơ khai, các tín hữu chỉ là một thiểu số ở giữa một thế giới ngoại giáo lớn lao. Họ luôn bị giằng co giữa tin hay không tin, chọn Chúa hay chọn thế gian. Đức Giêsu đòi những ai tin Người phải sẵn sàng vượt lên trên tình cảm gia đình ruột thịt để dứt khóat chọn Chúa và bước theo Người (x. Lc 14,26 ; 18,29-30).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1) LỄ MỪNG NGÂN KHÁNH MANG LẠI HIỆU QUẢ THIẾT THỰC :
Tại một giáo xứ kia, sắp đến ngày mừng ngân khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của cha sở. Giáo dân trong xứ đã âm thầm mở một cuộc lạc quyên để có tiền tổ chức liên hoan và biếu cha tiền vé máy bay và các chi phí khác cho một tháng nghỉ hè sắp tới của cha. Biết được ý định của giáo dân, cha sở đã phát biểu như sau : “Anh chị em thân mến. Tôi biết anh chị em lúc nào cũng quảng đại đối với tôi. Anh chị em đã dâng cúng tiền của để chi phí các khỏan sinh hoạt cho nhà thờ và cho tôi. Hiện nay tôi biết anh chị em đang quyên góp để cho tôi phương tiện đi nghỉ hè nhân dịp kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của tôi. Tôi xin cám ơn lòng tốt của anh chị em. Nhân dịp này tôi xin chia sẻ với anh chị em nguyện ước tha thiết nhất trong cuộc đời linh mục của tôi là : làm thế nào để đưa được nhiều người về làm con Thiên Chúa; Làm thế nào để những anh chị em công giáo siêng năng đến nhà thờ tham dự các thánh lễ Chúa nhật. Vậy nguyện vọng của tôi nhân dịp mừng ngân khánh linh mục không phải là tiền bạc vật chất, nhưng là làm sao có được 25 người quay về với Chúa. Cộng đoàn giáo xứ hiểu ý cha sở, nên trong ngày mừng ngân khánh linh mục của cha, họ đã chọn 25 người có quá khứ tội lỗi xếp hàng vào đòan dâng lễ vật hôm ấy. Những người này mặc quần áo trắng khi lên dâng lễ trên bàn thờ. Trong phần Lời nguyện Cộng đoàn, họ cũng nêu lên quyết tâm sẽ đi theo Chúa tới cùng và xin Chúa giúp họ từ bỏ những thói hư tật xấu như rượu chè, bài bạc…
2) NGỌN LỬA NHIỆT TÌNH TIN YÊU CHÚA CỦA OZANAM :
Vào năm 1843, khi Thủ đô Paris nước Pháp đang xáo trộn do cuộc cách mạng. Đạo Công giáo bị đe doạ, nhiều cơ sở tôn giáo bị cướp phá. Năm ấy Ozanam đang học ngành luật. Dầu mới chỉ là một thanh niên 17 tuổi, nhưng Ozanam đã can đảm dùng ngòi bút và việc làm để bênh đỡ Hội Thánh đang gặp nguy nan. Cậu năng đọc Kinh Thánh, năng đến nhà thờ dự thánh lễ và rước lễ mỗi ngày. Cậu được thụ huấn với một vị giáo sư nổi tiếng là Ampère về mặt học thức cũng như về mặt đạo đức. Cậu mạnh mẽ phục vụ Hội Thánh. Cùng với Ozanam, các sinh viên trước kia bị rụt rè lo sợ bao nhiêu thì nay lại nhiệt thành và hăng say bấy nhiêu. Các vị giáo sư trong trường đều phải kiêng nể. Cậu tổ chức những buổi diễn thuyết, những cuộc nói chuyện làm sống lại một bầu khí đạo đức trong nhà trường. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác thành lập hội Bác ái Vinh sơn để thăm viếng chia sẻ bác ái cho những người nghèo khổ bệnh tật. Năm 18 tuổi, cậu cùng các bạn trong hội đã thề hứa: Nhất quyết hy sinh và sẵn sàng hiến cả mạng sống của mình cho người nghèo. Ozanam đã trở nên một ngọn lửa hồng rực sáng của Đức Kitô. Hội Thánh hôm nay cũng rất cần những tín hữu có tâm hồn nhiệt thành yêu mến phục vụ Chúa và tha nhân giống như Ozanam.
3) HÃY THẮP SÁNG CÂY ĐÈN TIN YÊU TRONG LÒNG MỖI NGƯỜI :
Một hôm, Mẹ Têrêsa ghé thăm một người đàn ông đang sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong căn lều là cả một bãi rác : Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám. Mọi đồ đạc trong lều đều được che phủ bằng một lớp bụi dầy. Ông sống cô độc và không chịu lui tới với ai nên ông cũng đã bị mọi người chung quanh xa lánh. Mẹ Têrêxa và các chị nữ tu đã vào trong lều và lên tiếng chào hỏi, nhưng ông làm thinh không đáp lại. Thấy căn lều hỗn độn và bụi bặm, các chị đã xin phép ông được dọn dẹp, nhưng ông cũng chẳng trả lời. Mặc kệ ! Các chị cứ bắt tay vào việc dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn dầu, mẹ Têrêxa đã lấy ra lau chùi. Khi lớp bụi được chùi sạch, mẹ đã kêu lên:
– Ồ, cây đèn đẹp quá !
Ông lão bỗng lên tiếng :
– Đó là cây đèn tôi đã tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới. Mẹ hỏi :
– Ông không bao giờ thắp đèn lên sao ?
– Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn cả.
– Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn lên cho ông không ? Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý.
Từ đó, mỗi chiều các chị nữ tu đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn lên cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời hơn. Ông bắt đầu nói chuyện cởi mở với các nữ tu và khi được khuyến khích, ông cũng đã đi lại thăm viếng các nhà hàng xóm. Mọi người khác cũng bắt đầu đến thăm ông. Căn lều hiu quạnh của ông lão giờ đã trở nên ấm áp hơn. Trước kia, căn lều tăm tối không những vì ông không thắp đèn lên, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông đã bị lịm tắt nên ông không nghĩ đến việc thắp sáng nó lên. Nay căn lều đã bừng lên niềm vui không phải do ánh sáng của ngọn đèn dầu, mà do ánh sáng tin yêu trong trái tim ông đã bùng cháy lên. Trước kia ông tỏ ra thù ghét xa lánh mọi người là do ánh lửa trong trái tim đã tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa tin yêu ấy lại bùng cháy lên. Ông đã biết nghĩ đến người khác và đến thăm nhà hàng xóm, và ông cũng được mọi người chung quanh đến thăm và giúp đỡ ông.
Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ vụ ban ơn cứu độ cho loài người. Tin mừng hôm nay cho thấy : Để thi hành sứ vụ Thiên Sai ấy, Người luôn thao thức đi theo ơn soi dẫn của Thánh Thần và vâng phục thánh ý Chúa Cha. Người cũng muốn các môn đệ là các tín hữu chúng ta hôm nay tích cực cộng tác trong sứ vụ cứu độ này.
1) SỨ VỤ CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊSU:
Đức Giêsu đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Thao thức của Đức Giêsu là mong sớm hoàn tất công cuộc Tử nạn và Phục sinh theo ý Chúa Cha để cứu độ lòai người.
-Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên ! (Lc 12,49):
Lửa do Đức Giêsu ném vào mặt đất là gì ?
+ Là Lửa Thánh Thần được đổ xuống trên Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai vào lễ Ngũ Tuần để gia tăng sức mạnh, giúp Hội Thánh vượt qua nỗi sợ hãi, và can đảm làm chứng cho Chúa, hăng say loan báo Tin Mừng đi khắp thế gian (x Cv 2,1-13).
+ Là Lửa Tin Yêu được Đức Giêsu mang vào thế giới tội lỗi, hận thù, giết hại lẫn nhau…, để làm bùng cháy lên tình thương “tứ hải giai huynh đệ”- bốn bể đều là anh em với nhau, hầu cho mọi người biết yêu thương và tạo niềm vui hạnh phúc cho nhau.
Đức Giêsu ước mong cho ngọn Lửa cứu độ ấy bùng cháy lên để thế giới sớm biến thành “Trời Mới Đất Mới” như sách Khải Huyền đã diễn tả như sau : “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa… Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ: Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Cv 21,1.4). Khi ấy mọi dân nước đều nhận biết tôn thờ một Thiên Chúa là Cha và sống chan hòa hạnh phúc với nhau trong đại gia đình của Thiên Chúa có “Thiên Chúa là Tinh Yêu” ngự trị (1 Ga 4,8).
–Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !” :
Phép Rửa dìm mình trong nước thanh tẩy là hình ảnh diễn tả mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Giêsu. Người luôn vâng theo ý Chúa Cha là chấp nhận cứu chuộc nhân loại bằng con đường « qua đau khổ vào vinh quang » như ba lần Người đã báo trước với các môn đệ (x Mt 16,21 ; 17,22-23 ; 20,18-19).
Về sau, thánh Phaolô Tông đồ cũng diễn tả ý nghĩa mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu hàm chứa trong nghi thức phép Rửa dìm mình trong nước của các tín hữu như sau: «Anh em không biết rằng : Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại» (Rm 5,3-5).
Đức Giêsu được Chúa Cha trao sứ vụ cứu chuộc tội lỗi nhân loại bằng con đường « Qua đau khổ vào trong vinh quang » như Người đã chia sẻ với hai môn đệ làng Emmau để động viên họ : « Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? » (Lc 24,26). Trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu luôn thao thức và mong sớm hoàn tất công việc cứu độ bằng cuộc tử nạn và phục sinh ấy theo thánh ý Chúa Cha.
2) NHỮNG ĐÒI HỎI CỦA TIN MỪNG ĐỐI VỚI TÍN HỮU HÔM NAY :
– Ý thức sứ vụ làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu :
Để chu toàn sứ vụ làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu nơi bản thân, gia đình và môi trường mình đang sống, thì ngoài việc năng cầu xin Thánh Thần ban ơn qua lời cầu nguyện, chúng ta còn phải năng học sống Lời Chúa bằng việc tham dự các buổi sinh hoạt hằng tuần noi gương Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai. Nhờ đó chúng ta sẽ được gia tăng đức tin để dễ dàng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu mỗi lần dự lễ và rước lễ, nhất là sẽ nhiệt thành giới thiệu Chúa đến cho tha nhân, như hai môn đệ làng Emmau xưa : sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã lập tức quay lại thủ đô để loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ (x Lc 24,13-35). Rồi các Tông đồ và môn đệ sau khi đón nhận ngọn lửa Thánh Thần vào lễ Ngũ Tuần, đã lập tức làm cho ngọn lửa tin yêu ấy bùng cháy bằng việc hăng say rao giảng Tin Mừng Phục Sinh và làm chứng cho Chúa tại Giêrusalem và đến những miền đất xa lạ khác.
– Sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin : Không phải chỉ những người xấu xa tội lỗi mới bị thù ghét, mà cả những người lương thiện cũng có thể bị thù ghét bách hại. Sự thù ghét này là do bất đồng quan điểm, hoặc do gây ra bất lợi cho họ. Chẳng hạn : Cain đã thù ghét giết hại Abel vì ganh tị với em; Các đầu mục dân Do thái đã thù ghét giết hại Đức Giêsu dù Người vô tội vì Người đã dám phê phán hành động sai trái của họ; Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã khuyến cáo các môn đệ sẽ bị người đời bách hại, và kẻ bách hại có thể lại chính người thân của mình : “Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…” Đó là cái giá người môn đệ phải trả nếu muốn trung thành với đức tin, và cũng là điều kiện để người tín hữu nhận được ơn cứu độ ở đời sau. Trên thế giới cũng đã có nhiều tín hữu can đảm thi hành sứ vụ ngôn sứ và chấp nhận trả giá bằng chính cái chết của mình : Mục sư Martin Luther King đã can đảm rao giảng Tin Mừng để bênh vực quyền bình đẳng cho người da đen và đã bị bọn phân biệt chủng tộc ám sát. Đức Giám mục Helder Camara cũng đã can đảm đấu tranh cho người nghèo và cuối cùng đã bị những thế lực thù đich giết hại. Nhưng chính nhờ cái chết của các ngài, trở thành ngọn lửa thiêng làm bùng cháy lên sự thật và giúp nhiều người khác thức tỉnh cộng tác.
– Chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng : Ngày nay Chúa Phục Sinh cũng sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng tình thương, để góp phần xua tan bóng tối văn hóa sự chết là những bất công hận thù, nghèo đói, tội ác… bằng cách làm bùng lên ánh sáng văn hóa sự sống là lối sống yêu thương khiêm nhường phục vụ vô vụ lợi. Sở dĩ ngày nay sau hơn hai mươi thế kỷ loan báo Tin Mừng mà nhân loại vẫn còn nhiều sự ác, một phần cũng do lỗi của các tín hữu chúng ta đã thiếu nhiệt tình thi hành sứ vụ làm bùng lên ngon lửa tin yêu, như MAHATMA GANDHI, vị thánh của dân tộc Ấn Độ đã nhận định : “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa chưa đủ mạnh”.
Mỗi tín hữu chúng ta hãy cố gắng sống Tin Mừng Tình Thương và cầu xin ơn Chúa trợ giúp, noi gương mẹ Têrêsa Canquýtta đã cầu nguyện như sau : “Lạy Chúa Giêsu thương mến. Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy làm tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.”
– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin giúp chúng con tỏa hương thơm tình thương đến mọi nơi mà Chúa sai chúng con tới. Xin hãy đổ đầy tâm hồn chúng con bằng ngọn Lửa của Thánh Thần. Xin Chúa hãy ngự trị trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn chiếu tỏa ánh sáng của Chúa trước mặt người đời, qua thái độ và hành động đầy tình người của chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được sự hiện diện của Chúa. Xin cho chúng con luôn nhiệt thành rao giảng Tin mừng của Chúa, không những bằng lời nói, nhưng còn bằng hành động chứng tá, bằng trái tim đầy tình yêu thương của Chúa.
– LẠY CHÚA GIÊSU. Lời Chúa hôm nay đòi chúng con phải chọn lựa dứt khoát. Xin cho chúng con biết chọn theo Chúa, sẵn sàng tuyên chiến với các đam mê tội lỗi. Như hạt lúa cần phải bị mục nát đi, mới có thể mọc lên thành cây lúa. Như bác nông dân cần phải chịu vất vả một nắng hai sương nơi đồng lúa, mới có thể có được một mùa gặt bội thu. Xin Chúa cho chúng con sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ khi loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ có thể phát sinh nhiều hoa trái bác ái giữa gia đình và hoa trái đức tin nơi nhiều người chưa nhận biết Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Đoạn Tin Mừng này xem ra có vẻ ít tin mừng nhất, khi Đức Giê-su đề cập tới các vấn đề gai góc và nghịch lý như ‘ném lửa vào mặt đất’, ‘một phép rửa phải chịu’, ‘Thầy đến để… đem sự chia rẽ’, ấy thế mà những lời công bố trên lại rất nghiêm túc, rất đi thẳng vào trọng tâm và xác định rất rõ mục tiêu và sứ mệnh của Người nơi trần thế hơn bất cứ lời tuyên bố nào khác. Vì thế, nếu hiểu đúng ý nghĩa của ‘lửa’, ‘phép rửa’ và ‘chia rẽ’ trong bối cảnh Tin Mừng, chắc chắn ta sẽ có thể kiện cường niềm tin của mình nơi Đức Ki-tô Giê-su, và quảng đại dấn bước theo sát Người hơn nữa.
Trong Phúc Âm Mát-thêu (Mt 3:11) ta thấy: Gio-an Tiền Hô khảng định sứ mạng của Đấng phải đến sẽ là: “làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa”. Thật khó có thể hình dung ra ý nghĩa đích thực của hình ảnh này! Trong kiểu cách ngôn sứ của Gio-an thì, lửa đó chắc chắn phải là lửa thiêu hủy, lửa tôi luyện và thanh lọc, “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân; thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (3:12). Tự nó phép rửa của Gio-an cũng mang một nội dung tiêu cực tương tự (dìm cho tới chết trong dòng nước…) Chắc chắn cũng trong nội dung cổ điển đó người ta sẽ hiểu: sứ mệnh của đấng Mê-si-a, dầu tối hậu có là mang hòa bình đến cho toàn nhân loại, nhưng trước cả khi nền hòa bình đó được thiết lập, Ngài cần kinh qua một thời kỳ chinh phạt, phân rẽ bạn thù, và chiến tranh. Có lẽ trong ngôn từ và quan niệm phù hợp với các thính giả Do Thái đó, mà Đức Giê-su thuyết giảng cho các môn đệ xin theo Người (lưu ý: đoạn từ Lc 12:22 cho tới Lc 12:53 Người nói cho các môn đệ, vì trước và sau đoạn này Lu-ca xác định Người nói cho đám đông). Đối với Gio-an tiền hô, ‘Thánh Thần và lửa’ có lẽ là tương đồng, vì đều là những biểu tượng cho sức mạnh và quyền lực của Đức Chúa; mà sức mạnh đó tất nhiên mang theo cả khía cạnh chinh phạt hay tiêu diệt.
Còn từ môi miệng Đức Giê-su và trong nội dung Người rao giảng về Tin Mừng cứu độ thì: Thánh Thần và lửa phải mang một ý nghĩa hoàn toàn khác; nếu Thần Khí của Đức Giê-su không giống với thần khí của Đức Chúa trong Cựu Ước thế nào, thì lửa của Người cũng không giống lửa hủy diệt như vậy. Trong cuộc trao đổi với Ni-cô-đê-mô (Ga 3:21) Đức Giê-su khảng định: Thần Khí mà môn đệ Người nhận được không phải là thần khí tiêu diệt mà là Thần Khí sự sống, không phải là thần khí kết án hủy diệt nhưng là Thần Khí cứu độ; “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần… Cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí… Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án…” (Ga 3:5 – 6:16-17). Phải chăng chính là Thần Khí và ngọn lửa đó mà Đức Giê-su tuyên bố muốn ‘ném vào mặt đất, và … những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên…”? Phải chăng ‘phép rửa phải chịu’ mà Người ‘khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất’ chính là phép rửa Thập Giá, khi mà lòng thương xót cứu độ được thể hiện trọn vẹn (consummatus est) trong tất cả sức mạnh vô địch của nó? “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng cũng chính vì giờ này mà con đã đến!” (Ga 12:27); chính khi gần tới giờ tử nạn, khi mà lo âu và sợ hãi tràn ngập tâm hồn, Đức Giê-su đã cầu nguyện cùng Cha Người như thế.
Rồi cũng trong mạch tư tưởng đó, đối với Tin Mừng Đức Ki-tô, hòa bình hay tĩnh lặng (pacifist) cho một trần gian tội lỗi là điều không thể chấp nhận được. “Thầy đến không phải để ban hòa bình cho trái đất… nhưng là đem sự chia rẽ”. Đứng trước ngọn lửa xót thương của Thần Khí, hoặc con người sẽ chấp nhận ‘sinh ra một lần nữa bởi ơn trên’, hoặc cứ tiếp tục ‘bởi xác thịt sinh ra là xác thịt’; kể từ đó cũng bắt đầu xuất hiện sự phân rẽ nơi thâm sâu nhất của cõi lòng, ngay giữa những người coi như gần gũi nhau nhất xét về mặt gia đình và xã hội; ‘năm người trong cùng một nhà, cha và con trai, mẹ và con gái, mẹ chồng nàng dâu…’ Quả thật ông già Si-mê-ôn trước đây đã tiên báo chính xác điều này về Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng…” (Lc 2:34). Đứng trước Tin Mừng từ nhân của một Thiên Chúa cứu độ, loài người sẽ tự tách thành hai phe: hoặc phe những người chân thành nhìn nhận sự yếu hèn của mình để đón lấy ơn thứ tha cứu độ, hoặc phe những người mong được người đời đề cao tôn trọng trong tất cả năng lực vật chất cũng như tinh thần của mình… và đương nhiên hạng người này sẽ không thấy cần tới ơn cứu rỗi. Sự giằng co giữa hai phe này xảy ra trong nội tâm mỗi người, nhưng đồng thời cũng trong cả tập thể xã hội nữa; vì ở thời đại nào thì cũng sẽ có những người đứng lên chống báng một sự cứu rỗi mà họ cho là tiêu cực, là hạ đẳng, là thụ động… như ‘thuốc phiện của quần chúng’. Tin Mừng do đó không cho phép tồn tại một sự yên ổn bình thân; Tin Mừng luôn đòi một cuộc đấu tranh và cách mạng toàn diện. Có lẽ ngay cả tu đức hay khổ chế cũng không dám đòi hỏi một cuộc đảo lộn tới tận gốc rễ như thế.
Nhưng mấy ai trong chúng ta xác tín được điều này, rằng đòi hỏi của Tin Mừng cứu độ lại tận căn và sâu sắc tới mức độ đó nhỉ?
Lạy Chúa từ nhân, xin cho con hiểu: tin theo Chúa là dấn bước trên con đường khổ giá, là đấu tranh cam go với chính mình, không phải vì để tuân giữ một nền luân lý khắt khe, nhưng là vì Tin Mừng buộc con phải cúi mình khiêm hạ xưng thú sự yếu hèn tội lỗi, điều làm con cảm thấy hãi hùng kinh tởm. Chỉ khi nào ngọn lửa Thần Khí của Thiên Chúa từ nhân bùng lên trong con, khi đó con mới làm được điều trên; cũng như chỉ khi nào con chịu phép rửa của Thập Giá, khi đó ơn cứu rỗi mới phát huy được tất cả sức mạnh nơi con. Xin cho con quyết tâm lao vào cuộc chiến này không chút ngơi nghỉ, nhất là đôi khi phải chấp nhận cả những nỗi cô đơn, hay bị người đời hiểu lầm, đàm tiếu. A-men.
.
ƯỚC MONG LỬA YÊU THƯƠNG BÙNG LÊN
Dã Quỳ
Khi nói về lửa, chúng ta liên tưởng đến tình yêu, sự nồng nhiệt và nóng ấm. Thật vậy, lửa là biểu tượng của Tình yêu. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần-Ngôi Ba Tình Yêu đã ngự xuống trên các Tông đồ dưới hình lưỡi lửa (x. Cv 2, 3). Nhưng lửa cũng nói về sự hiện diện của Thiên Chúa như nơi bụi gai cháy mà Môsê đã gặp gỡ và đối thoại với Ngài (x. Xh 3,2-6). Lửa cũng là biểu tượng của sự thanh lọc trong ngày Cánh Chung qua cuộc xét xử (x. Mt 13, 40)
Chúa Giêsu đã đến “Ném lửa vào mặt đất.” Đó là ngọn lửa tình yêu từ trong trái tim của Người. Chính tình yêu đã thúc đẩy Chúa đến với nhân loại, ở cùng và yêu nhân loại với trọn cả tấm lòng. Vì thế, Chúa mong lửa tình yêu của Người bừng cháy trong mỗi tâm hồn Kitô hữu-những người được Chúa yêu thương cứu độ. Chúa cũng mong ước lửa của Người nơi chúng ta được bùng lên, lan tỏa ra bằng đời sống nhiệt thành với sứ mệnh làm chứng nhân cho tình yêu Chúa trong cuộc sống đời thường, sưởi ấm thế giới giá băng lạnh lẽo, thiếu vắng tình yêu và hy vọng.
Chúa muốn làm mới lại thế giới này bằng lửa tình yêu của Người và bằng sự thanh tẩy. Chúa cũng ước mong xua tan đi bao tăm tối, bao đau thương, chiến tranh hận thù của gian trần. Vì thế, “phép rửa” Chúa phải chịu chính là để dìm thế giới vào trong tình yêu hiến tế của Người. Nhờ những đau đớn và cái chết của Chúa mà nhân loại được cứu. Chúa đã trả giá đắt để cứu độ chúng ta, Người chỉ mong cho chúng ta được sống, được yêu thương và bình an, một bình an đích thực mà nhân loại chúng ta đang thiếu.
Bình an là một trong những ân huệ lớn lao mà chúng ta ước mong. Không có hòa bình, chúng ta sẽ sống trong bất an. sợ hãi. Người Do thái xưa đã chờ đợi Đấng Mêsia và Ngài được gọi là Hoàng Tử Hòa Bình (x. Is 9,5). Vậy khi Chúa Giêsu- Đấng Mêsia đến trần gian, ngay đêm Người giáng sinh, các thiên thần đã hát vang “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”(Lc 2,14) Trong những lần Chúa rao giảng và chữa lành, Người thường nói với các tội nhân hay bệnh nhân: “Con hãy đi bình an.”( Lc 8,48;7,50) Và khi sai các môn đệ đi rao giảng, lời nhắn nhủ của Người là cần phải chào chúc bình an cho những nhà mà các ông vào.(x. Lc 10, 5) Thánh Phaolô cũng khẳng định “Chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên dân Do thái và dân ngoại thành một.”(Ep 2,14)
Như thế, lời Chúa Giêsu nói “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ.”(Lc 12,51) có làm cho chúng ta lo âu và sợ hãi chăng? Chúa Giêsu không đem hòa bình đến thế gian, nhưng chính Người là Hòa Bình, là sự Bình An đích thực. Sự Hòa Bình mới này đến làm đảo lộn và thay đổi hòa bình của thế gian. Bởi vì, đó không phải là một hòa bình của dễ dãi, không có rắc rối khó chịu. Nhưng là hòa bình được xây dựng trong sự khó khăn, chiến đấu. Bình an mới này cần phải vượt qua chính mình, dám từ bỏ những gì là trái với tinh thần của Chúa Kitô và không theo Tin Mừng. Vậy từ đó, những chia rẽ là hệ lụy sẽ xảy ra.
Chúng ta nhìn thấy hằng ngày trong các gia đình, đầy dẫy những thách đố mà chính Chúa đã loan báo. Sẽ có một ngày chúng ta cần phải quyết định theo Chúa hay khước từ Chúa, và điều này diễn ra trong một mái nhà thì ắt sẽ có sự chia rẽ hình thành, sẽ có đau đớn. Đó là lúc mà ngọn lửa tình yêu Chúa thanh luyện lòng chúng ta và đem cho chúng ta một bình an đích thực.
Khi chúng ta chọn theo Chúa, dám chấp nhận những hệ lụy theo sau, ta sẽ đạt được bình an chân thật là chính Chúa. Chúng ta cũng sẽ gặp những thách đố khi chọn sống sự thật, công bằng, bác ái, yêu thương và tha thứ… Chắc chắn đời sống của Kitô hữu luôn là một cuộc chiến đấu với chính bản thân, với môi trường, hoàn cảnh, công việc và những người xung quanh…, để thực thi Tin Mừng và giữ vững đức tin. Có Chúa Kitô trợ giúp, chúng ta hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta mà không sờn lòng nản chí, vì chính Chúa đã là mẫu gương cam chịu để cho người tội lỗi chống đối. Còn chúng ta, chúng ta chưa chống trả đến mức đổ máu đâu.(x. Dt 12,1-4)
Ước gì mỗi Kitô hữu cũng có được can trường và bền chí như thánh Phaolô “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa, đã chạy hết chặng đường và đã giữ vững đức tin.”( 2Tm 4,7) Hạnh phúc cho chúng ta nếu cuối hành trình trần gian, ta có thể công bố những lời này. Xin cho chúng ta luôn biết kín múc nguồn Tình yêu nơi Thánh Thể Chúa, và thắp lên ngọn lửa tin yêu trong chính tâm hồn ta, trong cuộc sống và chiếu sáng cho mọi người thân trong gia đình, nơi lối xóm, giáo xứ, công xưởng…và bất cứ ai ta gặp gỡ hằng ngày. Để khi nhìn vào đời sống của Kitô hữu, người ta có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa Tình Yêu. Và rồi ngọn lửa yêu thương của Chúa sẽ được bùng lên trên mặt đất này như lòng Chúa mong ước.
Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong trái tim chúng con ngọn lửa tình yêu của Chúa và xin cho chúng con lòng nhiệt thành làm chứng nhân cho tình yêu. Amen.
.
Lm. Vũ Xuân Hạnh
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Chúa: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên”. Trong Thánh Kinh, lửa vừa trượng trưng cho sự lành, sự thánh thiện, vừa tượng trưng cho sự hủy diệt.
Lửa tượng trưng cho sự lành, sự thánh thiện: Một lần Chúa hiện ra với ông Môisen qua hình ảnh lửa cháy ngùn ngụt giữa bụi gai để sai Môisen đi cứu dân của Người (Xh 3, 2). Lưỡi lửa đậu trên đầu các thánh tông đồ, tượng trưng cho ơn Chúa Thánh Thần trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 2, 3-4)…
Lửa tượng trưng cho sự hủy diệt: Lửa đốt cháy thành Sôđôma và thành Gômôra, lửa hỏa ngục…
Hôm nay, khi nói về lửa: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất”, Chúa Giêsu nói đến lửa nào? Lửa của sự lành hay hủy diệt?
Trong cái nhìn hết sức khoan hậu, dịu dàng của Tin Mừng theo thánh Luca, ta tin chắc rằng, thánh nhân nói về lửa của ơn Chúa, lửa của sự thánh thiện. Lửa ấy là chính Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu “ném Lửa” vào thế gian, nghĩa là Chúa ban ơn Thánh Thần cho thế gian.
Ơn Chúa Thánh Thần là sức mạnh thần linh của Chúa được đổ trong tâm hồn ta, làm cho ta được tác thánh, giúp ta sống trong chính sự sống của Thiên Chúa.
Ơn Chúa Thánh Thần được ban, để tất cả những ai thành tâm đón nhận Chúa Thánh Thần, họ sẽ không còn đắm mình trong u tối, lòng không còn chất chứa nỗi sợ hãi khi phải sống đức tin ở giữa đời, người với người không còn thù hận, nhưng yêu thương nhau hơn.
Là môn đệ của Chúa, chúng ta có nhiệm vụ đón nhận Lửa Thánh Thần bằng đời sống cầu nguyện và gắn bó với Chúa suốt đời mình.
Chúng ta không được làm tắt Lửa Thánh Thần, nhưng hãy để Lửa ấy lan ra bằng chính đời sống bác ái, yêu thương. Vì khi lòng ta có ơn Chúa Thánh Thần, và đời sống thắm đượm tình yêu của Chúa Thánh Thần, ta sẽ gây ảnh hưởng tốt nơi môi trường xung quanh bằng nghĩa cử bác ái yêu thương. Lúc mà ta có thể gây ảnh hưởng tốt, chính là lúc ta đã cộng tác với Chúa Giêsu làm cho “lửa ấy cháy bùng lên”, nghĩa là làm cho ơn Chúa Thánh Thần lan rộng trong tâm hồn mọi người.
Làm cho Lửa Thánh Thần cháy bùng lên trong tâm hồn con người là ta đã hoàn tất mong ước của Chúa Giêsu, hoàn tất chính sứ mạng Kitô hữu mà Chúa Giêsu trao cho.
Bởi chỉ nơi chúng ta, trong chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu mới có thể hoàn tất chương trình của Người, mới có thể làm cho ước mong “phải chi lửa ấy cháy bùng lên” của Người trở nên hiện thực.
Một tấm gương quý giá và cũng là bài học cụ thể để ta học lấy mà làm cho Lửa Thánh Thần bùng lên nơi cuộc sống quanh mình như “ước mong” của Chúa Kitô. Tấm gương và bài học ấy chính là cái chết của Cha Mychal Judge để lại.
Sáng ngày 11.9.2001, cả thế giới kinh hoàng sửng sốt trước biến cố đau thương, thấm đẫm nước mắt: Hai tòa nhà Tháp Đôi cao 110 tầng của Trung tâm Thương mại Thế giới ở new York bị bọn khủng bố bất ngờ đánh sập.
Người ta ghi nhận nhiều tấm gương anh hùng của nhiều con người đã xả thân cứu người trong cảnh tan nát đầy máu lửa này. Trong số đó, người ta cũng nhắc tới và ghi ơn Cha Mychal Judge. Cha là linh mục dòng Phanxicô, tuyên úy Công giáo cho lính cứu hỏa thành phố New York. Cha đã hy sinh đang khi giải tội và xức dầu cho các anh em đang làm nhiệm vụ chữa lửa và cứu các nạn nhân đang mắc kẹt bên trong tòa nhà.
Một linh mục khác, cha Joe Hertel, cũng là tuyên úy nhưng sống sót sau thảm họa, đã chứng kiến cái chết của Cha Mychal Judge. Cha Joe kể lại rằng, khi chiếc máy bay đầu tiên tông vào tòa Tháp Đôi, Cha Mychal Judge đã nhanh chóng đến hiện trường.
Bất chấp nguy hiểm, một khi xông vào vòng vây máu lửa, Cha Mychal Judge đã không bỏ chạy. Chứng kiến tận mắt quá nhiều người chết và bị thương, cha đã đứng lại ban các phép bí tích sau cùng cho nhiều người.
Khi Cha Mychal Judge đang cử hành bí tích, tòa nhà sụp xuống, đè lên cha và vô số anh em cứu hỏa đã xông vào bên trong. Cái chết của cha và của nhiều người vì hy sinh cứu người, đã làm mọi người thương tiếc.
Cha cũng như nhiều anh em có thể bỏ chạy, nhưng đã không chạy. Chấp nhận nguy hiểm, cha đã nên giống Chúa Kitô, chết cho con người để cứu giúp con người.
Cha đã nên giống Chúa Kitô, người Thầy mà cha yêu mến, và rao giảng suốt đời. Cha đã làm lan tỏa Lửa Thánh Thần tình yêu của Chúa Giêsu bằng chính cái chết anh dũng của mình. Cha chính là hình ảnh cụ thể của Lửa Thánh Thần mà Chúa Giêsu “ném” vào trần gian.
Lịch sử Hội Thánh ghi nhận rất nhiều bằng chứng sống động về việc Chuyển “Lửa” của Chúa Giêsu nơi nhiều vị thánh và rất nhiều anh chị em khác. Cha Mychal Judge chỉ là một trong nhiều những tấm gương làm bùng ngọn Lửa Thánh Thần.
Vậy, như những anh chị em ấy, chúng ta hãy trở nên chứng nhân cụ thể cho Lửa Thánh Thần tình yêu nơi trần thế. Như Chúa Thánh Thần đã ngự trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa, biến họ nên những nhân chứng Nước Trời, Người cũng muốn ta là những môn đệ của Chúa Giêsu trong thời đại mới, hãy thắp lên trong tâm hồn ta ngọn Lửa Thánh Thần tình yêu, để rồi mang Lửa Tình Yêu Thánh Thần ấy đến khắp nơi.
Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất ổn. Là môn đệ của Chúa, chúng ta hãy ý thức nhiều hơn vai trò làm bùng Lửa Thánh Thần tình yêu trong thế giới.
Thế giới bất ổn, vì thế, thế giới cần bình an. Chúng ta mang Lửa Thánh Thần tình yêu, chính là mang bình an của Chúa ném vào thế giới. Nơi đâu có tình yêu, nơi đó tràn ngập bình an. Nơi đâu đã tràn ngập bình an, nơi đó tình yêu càng lớn mạnh.
Hãy nhớ rằng, Lửa Thánh Thần tình yêu mang lại bình an. Nhưng ơn bình an mà ta lãnh nhận không bao giờ là một sự an nhàn, một lối sống cam chịu, nhưng luôn luôn là sự phấn đấu, là đồng hành, là lên đường, là thi hành sứ vụ, là trở nên chứng nhân cụ thể chuyển Lửa của Chúa Giêsu.
Lửa muốn cháy bền, cháy lâu, lửa phải lan ra. Người Kitô hữu chuyển Lửa là cách tốt nhất cho Lửa bùng lên. Lửa ấy chính là ơn Chúa Thánh Thần. Làm bùng Lửa lên là làm cho ơn Chúa Thánh Thần trở nên mạnh mẽ trong lòng người. Lòng người bùng lên ơn Chúa Thánh Thần, nghĩa là làm thỏa mãn “ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên” mà Chúa Giêsu ngỏ cùng mỗi môn đệ của Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin đổ tràn ngập tâm hồn chúng con Lửa Thánh Thần Chúa, để chúng con biết tỏa sức sống của Chúa và can đảm sống chứng nhân giữa đời hầu làm chứng cho Chúa trong mọi môi trường chúng con sống. Xin cho chúng con biết nói về Chúa bằng chính đời sống bác ái yêu thương của chúng con. Amen.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Các bài Kinh thánh Chúa nhật tuần này hình như không có sự mừng rỡ. Trước hết trong bài đọc 1, chúng ta nghe đề cập đến tiên tri Giê-rê-mi-a một người trung thành với Thiên Chúa trong mọi mặt, và là người mang sứ điệp của Chúa đến cho dân Ngài. Nhưng tiên tri đã bị vu khống và lãnh nhận “phần thưởng” bằng cách bị nén xuống giếng sâu và bị bỏ đói cho đến chết. Vì sự ác độc của những người thù oán, của những người a dua theo lời dụ dỗ và sự từ chối không lắng nghe lời khuyên bảo của ngôn sứ, dân Do thái đã bị quân Ba-bi-lon xâm lăng, tàn phá nhà cửa kể cả thành Giê-ru-sa-lem, và bắt đi làm nô lệ.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta nghe đề cập đến Chúa Giê-su, một tiên tri vĩ đại nhất. Thánh Lu-ca cho chúng ta biết Chúa Giê-su đang trên đường đi lên Giê-ru-sa-lem, và Ngài biết rõ những gì sẽ xảy ra trước mắt. Chúa Giê-su tuyên bố sự kiện này qua 3 cách: thứ nhất như một ngọn lửa mà Ngài đã đem đến thế gian và mong muốn ngọn lửa đó cháy lên; thứ hai như một phép rửa mà Ngài sẽ lãnh nhận; và thứ ba điều đó sẽ là nguyên nhân đem đến sự chia rẽ.
Chúng ta thấy lửa và phép rửa mà Chúa tuyên bố có phần hơi khó hiểu. Lửa có nhiều biểu tượng trong Kinh thánh. Tôi xin chỉ đưa ra một vài biểu tượng mà thôi. Thứ nhất, lửa tượng trưng cho sự thanh luyện, thiêu huỷ và phán xét. Đó là ngọn lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra, mưa lửa từ trời xuống như một phần trong ngày tận cùng của thế giới, hay lửa soi sáng trong ngày phán xét của Thiên Chúa. Chúng ta thấy lửa trong Kinh thánh Cựu ước biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa như Chúa tỏ mình ra cho ông Môsê giữa bụi gai cháy rực cháy. Trong Tân Ước, lửa là hình ảnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các Tông đồ dưới dạng hình lưỡi lửa vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần trở nên con người hoàn toàn mới, sốt sắng ra đi rao giảng Tin Mừng và can đảm làm chứng cho Chúa. Cuối cùng lửa còn tượng trưng cho tình yêu của Thiên Chúa mà chính Chúa Giê-su đã vâng lời và trung thành đem đến cho mọi người mọi thế hệ trên trái đất này qua cái chết đau thương trên thập giá.
Chúa Giê-su còn tuyên bố về phép rửa mà Ngài sẽ lãnh nhận. Đây là biểu tượng hơi khó hiểu vì như chúng ta biết Chúa Giê-su đã lãnh nhận phép rửa từ Gioan Tẩy giả tại sông Gio-đan. Nhưng nếu chúng ta đặt phép rửa trong câu Chúa Giê-su hỏi Gia-cô-bê và Gioan khi các ông đòi hỏi Chúa dành cho 2 ông chỗ bên phải và bên trái Chúa trong vinh quang: “Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc. 10.38), thì chúng ta có thể hiểu phép rửa ở đây có ý chỉ về sự thương khó và cái chết khổ nhục của Chúa trên thập giá.
Cuối cùng, Chúa Giê-su tuyên bố Ngài sẽ đem đến sự chia rẽ: “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ.” Câu này tiên báo về những đau khổ, kể cả bị áp bức và tử đạo mà những người tin theo Chúa sẽ phải lãnh nhận. Nhưng chúng ta thấy ở đây Chúa nhấn mạnh đến sự chia rẽ giữa những người thân thuộc trong gia đình, vì gia đình là mối giây liên hệ mật thiết và quan trọng trong xã hội. Chúa dùng sự chia rẽ trong gia đình để muốn diễn tả, nhấn mạnh và cho chúng ta hiểu biết thật minh bạch và rõ ràng: gia nhập vào cộng đồng trong Nước Chúa còn quan trọng hơn mối giây liên hệ trong gia đình.
Chúng ta tự hỏi “Có phải Chúa Giê-su đem bình an đến không?” Thật chắc chắn! Trong giây phút Chúa giáng trần nằm trong máng cỏ, thiên thần Chúa đã đồng thanh ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm.” Khi Chúa Giê-su sai các môn đệ ra đi rao giảng, Ngài dặn dò rằng: “Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: ‘Bình an cho nhà này’.” Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su đã hứa với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng.” Sau khi sống lại, lời đầu tiên Chúa Giê-su Phục sinh nói với các môn đệ khi Ngài hiện ra: “Bình an cho các con.”
Ông bà anh chị em thân mến. Tôi phải thú nhận rằng nguồn bình an to lớn nhất của tôi là sự liên hệ mật thiết với Chúa. Chúng ta nhận biết bình an sâu sa hơn là không có chiến tranh, mà còn là điển hình cho những ơn sủng và sứ mệnh của Ngài đem đến cho nhân loại. Do đó, khi Chúa đề cập đến chia rẽ, Ngài muốn nói đến cuộc chiến liên tục giữa sự lành và dữ; giữa ánh sáng sự thật và bóng tối gian dối; giữa thiện và ác; giữa thánh thiện và tội lỗi; giữa những ai tin theo Ngài và những ai từ chối Ngài. Sự mong ước của Chúa là đem ơn sủng tình yêu, tha thứ, cũng như lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho những ai chấp nhận Ngài. Vì vậy, chia rẽ sẽ xảy ra khi người ta từ chối không muốn nhận ơn sủng Chúa ban.
Chúng ta nhận biết cuộc chiến liên tục này xảy ra ngay trong chính con người chúng ta, khi một bên con người chúng ta muốn yêu mến và sống lời Chúa dạy, và một bên muốn làm hay muốn sống theo ý chúng ta, ngược lại với thánh ý Chúa. Cuộc chiến này tiếp tục xảy ra ngay chính trong gia đình của chúng ta, khi chúng ta phải đối diện với những hoàn cảnh đòi hỏi chúng ta phải có những quyết định chọn hay đặt Chúa trên hết và trước hết trong đời sống giữa những người thân thuộc, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau.
Ông bà anh chị em thân mến. Bài đọc 2 trích thư gởi người Do thái hôm nay đem đến cho chúng ta nguồn ơn sủng và sức mạnh của Chúa. Bài Kinh thánh khuyến khích chúng ta là những người tin theo Chúa, hãy can đảm, kiên nhẫn và cương quyết sông pha chiến trận với tội lỗi, sự dữ và gia dối, luôn hướng nhìn thẳng về Chúa Giê-su Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, là niềm vui và hy vọng của chúng ta. Chúng ta đem đến đây trong Thánh lễ những lo lắng hay sự đối nghịch trong con người của chính chúng ta, hay với những người thân thuộc trong gia đình, hay với xã hội bên ngoài. Trong sự hiện diện của Chúa và qua ơn sủng của Ngài, chúng ta tìm được một chút bình an và lắng đọng trong tâm hồn, nhưng chúng ta biết cuộc sống vẫn còn những thử thách và khó khăn. Chúng ta cầu xin Chúa ban sức mạnh và luôn hướng dẫn chúng ta.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn