CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: Kn 11,22-12,2; 2 Tx 1,11-2,2; Lc 19,1-10
——-
1. Da-kêu: Chứng nhân của lòng thương xót (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Ánh mắt yêu thương (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Dám nhận cái sai để sửa (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Hãy thương xót như Cha trên trời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Cây sung Giakêu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
7. Hành trình trở về: Biết Chúa-Biết người-Biết mình (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
8. Sám hối cụ thể như Zakêu (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
9. Quyết tâm (Trầm Thiên Thu)
10. Tìm và cứu (P. Trần Đình Phan Tiến)
11. Gặp Chúa đổi đời (AM. Trần Bình An)
12. Chúa là Đấng giải thoát (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)
15. Nghệ thuật cảm hóa lòng người của Chúa Giêsu (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
16. Gặp gỡ và biến đổi (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
17. Tình yêu đến (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
18. Đón nhận lòng xót thương (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
19. Ánh mắt xót thương (JM. Lam Thy, ĐVD)
20. Sức mạnh hoán cải của tình thương (Lm. Đan Vinh)
21. Chúa Nhật 31 Thường niên_C (Lm. Antôn)
DA-KÊU: CHỨNG NHÂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi đọc câu chuyện ông Giakêu, tôi ngỡ ngàng trước ánh mắt của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn lên ông Giakêu trên cây sung. Ánh mắt ấy có sức mạnh kỳ lạ. Ánh mắt ấy chất chứa bao tâm tình. Chỉ trong một ánh mắt cuộc đời Giakêu hoàn toàn biến đổi.
Đó là ánh mắt quan tâm. Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Giêricô là một thành phố rộng lớn, người đông đúc, buôn bán sầm uất. Một đám đông lớn đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó ông Giakêu thật bé nhỏ. Nên ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Thật lạ lùng. Giữa đám đông mênh mông ấy, Chúa vẫn nhìn thấy ông Giakêu, dù ông thấp lùn. Giữa muôn người, Chúa chỉ tìm Giakêu. Lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Giakêu, dù ông bé nhỏ trong một đám đông hỗn độn. Giakêu chắc chắn cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa.
Đó là ánh mắt khiêm nhường. Hãy tưởng tượng cảnh Chúa ngước lên nhìn Giakêu. Chúa nhìn lên. Giakêu nhìn xuống. Thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên mới gặp ánh mắt người thấp bé. Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân. Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời. Tạo hóa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được thụ tạo. Đấng Cứu Độ phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được cứu. Đấng tha tội phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Thật là một sự khiêm nhường thẳm sâu. Giakêu chắc chắn phải choáng váng vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.
Đó là ánh mắt tha thứ. Nguyên một việc quan tâm tìm kiếm cũng đã chứng tỏ Chúa tha thứ cho ông rồi. Huống hồ Chúa còn khiêm tốn ngước nhìn lên. Hơn thế nữa Chúa còn ngỏ lời muốn đến thăm nhà ông. Giakêu chưa tìm Chúa thì Chúa đã tìm Giakêu. Giakêu chưa gọi Chúa thì Chúa đã gọi Giakêu. Giakêu chưa mời thì Chúa đã ngỏ ý đến nhà. Giakêu chưa xin lỗi thì Chúa đã tha thứ. Ánh mắt tha thứ mới khoan dung độ lượng và ấm áp làm sao. Giakêu chắc chắn tràn đầy niềm hối cải khi nhìn vào ánh mắt tha thứ của Chúa.
Đó là ánh mắt tin tưởng. Chúa Giêsu nhìn Giakêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng nên không nhìn về quá khứ mà chỉ hướng về tương lai. Chúa quên hết tội lỗi của ông. Hơn thế nữa Chúa tin rằng ông sẽ nên người tốt. Chúa tin rằng ông sẽ làm lại cuộc đời. Chúa tin vào tương lai của ông. Nên Chúa đã nhìn ông. Nên Chúa tha thứ cho ông. Nên Chúa kết thân với ông. Trước ánh mắt tin tưởng của Chúa, chắc chắn Giakêu sẽ cương quyết làm lại cuộc đời.
Đó là ánh mắt yêu thương. Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan tâm tới Giakêu vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai. Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng. Chúa tin tưởng vì Chúa yêu thương ông, như người mẹ không khi nào nói rằng con mình xấu, dù nó phạm tội trăm lần. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương. Ngập tràn trong yêu thương, trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Đời ông được đốt cháy trong yêu thương. Nên ông đã đáp lại tình yêu thương của Chúa. Vì yêu mến Chúa mà ông yêu thương đồng loại. Yêu thương nên đền bù thiệt hại. Yêu thương nên chia sẻ chân thành.
Lạy Chúa, Chúa luôn nhìn con bằng ánh mắt yêu thương. Xin cho con biết nhìn vào mắt Chúa, nhận ra tình yêu thương của Chúa và biến đổi cuộc đời như ông Giakêu.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa nhìn Giakêu bằng ánh mắt thế nào?
2) Giakêu đã đáp lại ánh mắt của Chúa ra sao?
3) Bạn có bao giờ nhìn thấy ánh mắt Chúa nhìn bạn chưa?
4) Bạn có muốn nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa không?
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Xã hội hôm nay sao kiếm được con người tử tế thật khó! Người tử tế biết nhận cái sai để sửa, biết nhận lỗi lầm mình mà ăn năn hầu sống đẹp hơn. Trái lại, người không tử tế dầu biết sai nhưng vẫn cố chấp, vẫn tìm cách bào chữa bản thân và không bao giờ nhận tội về mình.
Có một câu chuyện vui về Người Tử Tế như sau:
“Ði mua bao thuốc lá 20k đưa chủ tiệm 50k, được thối lại 40k, đút túi bỏ về. Anh chủ tiệm chạy theo kêu:
– Chú em, chú để quên không lấy bao thuốc lá nè.
Trên thế gian vẫn còn nhiều người tử tế, tôi nghĩ mình thật tồi tệ. Xúc động rút tờ 10k ra đưa lại cho anh:
– Lúc nãy anh trả dư em 10k này!
Anh chủ tiệm cũng cảm động:
– Thôi, chú đưa lại anh bao thuốc lá, anh đổi cho bao thuốc lá thật.
Hành động của anh lại làm tôi mủi lòng. Trên thế gian sao lại có người cũng thật thà như mình. Tôi tỏ vẻ hận:
– Anh đưa tờ 50k hồi nãy cho em, em đổi cho anh đồng tiền thật.
Cầm tờ giấy bạc, anh chủ tiệm rơm rớm nước mắt:
– Thôi chú đưa anh tờ 10 ngàn lúc nãy, anh đổi cho tờ thật.
Híc! Người ta tốt thế mà mình tồi tệ quá… Tôi rụt rè móc cái điện thoại ra:
– Cái này của anh, lúc nãy em lỡ tay… xin trả lại.
Anh chủ tiệm cảm động, tay run run… Anh rút ra một cái ví:
– Cái này của em, anh cũng xin trả lại em.
Dầu là người xấu nhưng thấy sai dám nhận, dám sửa vẫn đáng kính trọng biết bao. Xét cho cùng “nhân vô thập toàn” ai mà chẳng có lúc sai nhưng chỉ đáng xấu hổ là không dám nhận cái sai mà sửa, đôi khi còn “vừa ăn cướp vừa la làng” hay “cả vú lấp miệng em” để che lấp tội lỗi của mình.
Hôm nay tin mừng cho ta thấy hình ảnh thật đẹp của Gia-kêu. Ông đã từng lún sâu trong tiền bạc. Ông đã từng tham lam vô độ đến nỗi chỉ lo vun quén cho bản thân và lỗi công bình với tha nhân. Nét đẹp của ông là khi gặp được Chúa ông đã thay đổi cái nhìn về cuộc sống. Ông không coi của cải là lẽ sống. Ông không tìm thỏa mãn nơi tiền tài. Ông dám nhìn nhận cái sai mà sửa. Ông nhìn nhận mình đã tham lam nên dùng nửa số tiền để đền bù. Ông đền bù cả lãi lẫn lời lên tới gấp 4 lần. Ông còn tiến tới đức ái hoàn hảo là làm việc phúc đức cho người nghèo với mong phần nào đền bù tội lỗi quá khứ của mình.
Xem ra người tử tế phải là người thấy sai là sửa. Người tử tế không cố chấp ở lì trong tội. Người tử tế dám nhận lỗi, dám chuộc lỗi và làm lại cuộc đời. Thực ra, không có cuộc trở về nào là quá muộn, chỉ cần quay trở về thì chúng ta đã bước ra ánh sáng và khuôn mặt chúng ta sẽ đẹp trước mặt Chúa và tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta biết ăn năn sám hối lỗi lầm của mình, biết can đảm chuộc lại lỗi lầm bằng sự đền bù, bằng sự dấn thân sống có ích cho cộng đoàn và xã hội. Xin đừng vì cố chấp mà đánh mất đi cơ hội làm lại cuộc đời, nhưng luôn trỗi dạy sau những lần vấp ngã để kiện toàn con người mình mỗi ngày một tốt hơn. Amen.
.
HÃY THƯƠNG XÓT NHƯ CHA TRÊN TRỜI
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Vào lúc Giáo hội đang chuẩn bị đóng Cửa Thánh bế mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót, phụng vụ Lời Chúa lại vang lên như tiếng chuông nhắc bảo chúng ta chiêm ngắm Lòng Thương Xót và thực thi lòng thương xót.
Chúa thương xót mọi loài, và yêu thương mọi tạo vật (x.Kn 11,21-26). Thương xót đến đô “nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người …không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa tác thành” (Kn 11, 23). Lòng thương xót ấy được cụ thể hóa nơi hành động của Chúa Giêsu đối với tội nhân và những người cùng khổ, Ðấng đã khẳng định rằng Người đến không phải để kêu gọi những người công chính, nhưng để kêu gọi những người tội lỗi (x. Lc 5,32). Trình thuật về cuộc hoán cải của ông Giakêu trong phụng vụ Chúa Nhật hôm nay là một bằng chứng (x. Lc 19, 1-10).
Giakêu, người thấp bé. Đây không phải là một chuyện nhỏ, nhưng là một nỗi đau đối với ông. Trong trí ông luôn mang trong mình sự ảm ảnh mình bị chế giễu và loại trừ, ông là người đau khổ. Ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trả miếng : thậm chí trở thành người thu thuế cho ngoại bang. Đây là nghề không lành mạnh, dễ bị loại ra khỏi đời sống tôn giáo và xã hội, vì thông đồng với người Rôma, kẻ chiếm đóng và bóc lột đồng bào. Nhưng điều đó không quan trọng đối với ông, ông biết, ông có thói quen bị loại trừ. Trở thành một viên thu thuế quyền thế giàu có. Giakêu, như những người khác, đã thu về một khoản tiền lớn từ bàn thu thuế, nhưng sự yêu mến tiền bạc không phải là động lực chính của ông, ông muốn có được sức mạnh trên những kẻ coi thường ông. Vì thế, ông xa cách họ, tránh xa các cuộc tấn công của họ, và ở trên họ.
Nhưng điều trên không làm cho Giakêu chìm vào bóng tối. Con người biết tính độc ác đích thực của mình. Trong sâu thẳm của coi lòng, có cái gì đó lợi hơn : khát khao Thiên Chúa. Giakêu là người con của lời hứa và Thiên Chúa đã không quên ông. Thế là, Chúa Giêsu rảo khắp các ngả đường, giảng dạy trong hội đường. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu thấu đến tai Giakêu như cá gặp nước, củi khô gặp lửa. Người đã nhóm lên trong lòng Giakêu ngọn lửa không hề bị dập tắt từ Thiên Chúa. Giakêu, kẻ thu thuế đã nghe nói về các phép lạ của Đấng Tiên Tri, và rằng Chúa Giêsu không bao giờ từ chối những người tội lỗi. Ông chộp lấy cớ hội, quyết định tiến lại gần Chúa Giêsu.
Để đến được với Chúa Giêsu không phải là dễ, ông gặp phải sự cản trở của bản thân vì thấp bé, của đám đông. Họ sẽ nhận ra và lại chế giễu ông thấp bé, quyền lực, giàu có, bóc lột đồng bào. Họ sẽ khinh thường ông, làm cho ông xấu hổ, báo thù khơi dậy báo thù. Nhưng Giakêu không bỏ lỡ cơ hội, ông sẽ thấy Chúa Giêsu đang đến gần, không gì có thể cản trở ông được.
Vì thế, ông trèo lên cây, ẩn mình trong những tán lá để xem Chúa Giêsu mà không bị ai nhìn thấy, ông tìm cách tiếp cận, với hy vọng những tán lá sẽ bảo vệ ông khỏi đám đông. Nhưng Chúa Giêsu đi ngang qua. Người tiến lại gần, ngước mắt nhìn ông và gọi “Giakêu”. Giakêu có nghĩa là “Chúa nhớ lại”. Thiên Chúa nhớ đến kẻ yếu người nghèo, với lòng thương xót “Giakêu, hãy xuống mau” (Lc 19,5).
Cố gắng của con người xem ra vô dụng, khi dùng cả sức mạnh của mình để vươn lên tới Chúa, tới Trời : “các ngươi sẽ nên như các thần” con rắn cám dỗ Ađam như thế. Giakêu khi ở trên cao, ông khám phá ra rằng để có được điều ông tìm kiếm, ông phải đi xuống. Thiên Chúa đã hạ mình xuống với con người. Thiên Chúa đã trở nên thấp và nhỏ bé, ở dưới gốc cây. Giakêu vui sướng thấy Chúa.
Chúa Giêsu đã giao hòa Giakêu với Thiên Chúa, và với mọi người. Tiếng gọi của Chúa Giêsu đặt Giakêu vào giữa cộng đoàn, khiến ông quên đi sự báo thù, mở lòng ra để đón nhận ơn tha thứ, niềm vui này Giakêu chia sẻ với anh em. Chúng ta đừng có nhầm : Giakêu không vứt bỏ tiền vì đã gặp được Chúa, ông không còn thích nữa. Chính sự dâng cúng này, Giakêu cho thấy ông không còn cần quyền lực để bảo vệ mình giữa mọi người nữa. Cuối cùng, ông đã nhận ra họ là anh em. Trước kia ông sống trong cô đơn, nay ông khám phá ra niềm vui của một tình yêu sâu thẳm vô điều kiện ở nơi Chúa Giêsu. Vì vậy, hạnh phúc của ông là đáp lại anh em mình, bằng cách chia sẻ tài sản của ông, mở ra một mối quan hệ mới với họ, dựa trên công lý.
Trong một văn bản khác của Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định rằng, người giầu rất khó vào Nước Trời (x. Mt 19,23). Trong trường hợp của ông Giakêu, điều xem ra không thể, lại được thực hiện: thánh Girolamo giải thích rằng “ông Giakêu đã cho đi sự giầu có của ông và lập tức thay thế nó bằng sự giầu có của nước trời” (Bài giảng 83,3). Và thánh Massimo thành Torino nói thêm: “Ðối với những người dại dột, của cải giầu sang dưỡng nuôi sự bất chính, trái lại đối với những người khôn ngoan chúng trợ giúp nhân đức; cơ may cứu rỗi được cống hiến cho những người khôn ngoan, còn đối với những người dại dột sự vấp ngã khiến cho họ hư mất” (Bài giảng, 95).
Chúa Giêsu kết thúc: “Con người đến tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10), “điều đã hư mất” chứ không phải là “kẻ bị mất”. Đây không phải là Giakêu đã mất. Khi cô lập với anh em mình, ông đã mất niềm hy vọng tìm thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu mang lại cho ông niềm hy vọng khi nói với ông : “Giakêu, hãy xuống mau!”.
Thiên Chúa không loại trừ ai hết, người nghèo cũng như người giầu. Thiên Chúa thấy nơi mỗi người một linh hồn cần cứu vớt. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta : hãy noi gương Chúa và thực thi lòng thương xót như Cha trên trên! Hôm nay ơn cứu độ của Chúa đến với chúng ta ; “Hôm nay, Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19,5). Mỗi ngày, hãy đến với Chúa Giêsu, là chủ nhà của tâm hồn chúng ta và là Thầy của đời ta. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đi hành hương Đất Thánh, ai cũng muốn đến Giêricô thăm “Cây sung Giakêu” và thưởng thức trái chà là. “Cây sung Giakêu” to lớn gần hai người ôm. Cây sung này được trồng lại cách đây hơn 700 năm. Tôi đi dịp tháng 4 nên sung nhiều trái. Các bà thích lắm, hái ăn và tin rằng trái từ “cây sung Giakêu” chữa lành mọi thứ bệnh.
Giêricô trở nên nổi tiếng với câu chuyện ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu đi ngang qua.
Giêricô chính là miến Đất Hứa, khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy. Sách Giosuê chương 6 kể lại cuốn đánh chiếm thành Giêricô.
Giêricô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía sông Giođan.
Giêricô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giêricô là “thành cây chà là”. Sử gia Do thái Josephus gọi là “Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Phalettin”. Người La mã chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới.
Chúa Giêsu đi qua Giêricô, tiến về Giêrusalem với đoàn người hành hương đông đảo, chuẩn bị bước vào khổ nạn. Ông Giakêu leo lên cây sung để nhìn cho được Chúa sắp đi ngang qua. Chúa nhìn lên cây sung thấy Giakêu. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương.Trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Ông đáp lại tình thương của Chúa và thể hiện bằng việc đền bù thiệt hại, chia sẻ chân thành cho tha nhân. Tình thương của Chúa đã cảm hóa Giakêu và biến đổi cuộc đời ông.
Giakêu là một người thu thuế và là một người giàu có. Ông đã từng nghe biết Chúa Giêsu đã chọn ông Lêvi, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ (Mt 9,9). Nay ông rất muốn có dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này.
Lần kia, biết Người sắp đi ngang Giêricô quê hương ông, Giakêu ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn, nên ông leo lên một cây sung để nhìn cho rõ. Ðường đường một người “đứng đầu những người thu thuế”, một công chức có địa vị, nhưng ông vẫn không sợ mất mặt, vẫn trèo lên cây cao.
Chúa ngước mắt lên cây sung, ánh mắt Chúa và ánh mắt Giakêu gặp nhau. Ánh mắt Giakêu bộc bạch tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế, một người bị vạ tuyệt thông cách ly, một tâm hồn khát khao muốn gặp Chúa, một con chiên lạc đang tìm lối về. Lòng Chúa xao xuyến, thương mến vô vàn, một tâm hồn mà Chúa đang muốn tìm về đây. Chúa nói: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông“. Giakêu cười sung sướng, nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý. Và đó phải là một bữa tiệc linh đình, có đông bạn bè trong ngành thuế tham dự, giống như ông Lêvi đã làm trước kia (x. Lc 5,29).
Không phải bốc đồng, nhưng từ đáy lòng Giakêu cuộn lên một niềm sám hối mãnh liệt khiến ông cất tiếng thưa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phần nửa tài sản tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn“. Ông Giakêu tự buộc mình làm một việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức đòi hỏi của luật lệ. Ðiều ấy chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi Ngưới phán: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này“.
Trước đây Giakêu chỉ nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho riêng mình, không nghĩ đến người khác.Trước đây Giakêu vốn tham lam, bất lương, lòng quảng đại bị chôn vùi qua bao năm tháng. Hôm nay, gặp được Chúa Giêsu, ông đã biết sống trao ban cho người khác, quan tâm đến người nghèo, sống công bằng với mọi người. Lòng quảng đại đó được bộc phát cách rõ ràng: “Tôi xin bố thí phần nữa của cải của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn”. Quả là mùa xuân về trong tâm hồn Giakêu. Ngập tràn ánh nắng. Ngây ngất niềm vui. Bình minh Ơn Cứu Ðộ chan hoà lòng trí ông, gia đình ông.
Trong sách (Lv 5, 20-26; Xh 21, 37; Ds 5, 6) đều nói đến khoản luật phải trả lại, đền bù cho người nghèo, cho kẻ bị thiệt hại một số của cải. Ðó là luật trong Cựu Ước. Giakêu trình bày ngay vấn đề, điều đó cho thấy có lẽ ông đã nghiên cứu Thánh Kinh, biết được các luật lệ đó. Tiếng lòng hồi sinh và như vậy ông đã có thao thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi. Trong cuộc sống dư giả vật chất, bân rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư, để rồi hôm nay có cơ hội ông tìm kiếm Chúa mong làm lại cuộc đời mới.
Thánh Luca đã nói rõ: ông là thủ lãnh của những người thu thuế. Giêricô bấy giờ là hải cảng, thu thuế nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Trong nghề nghiệp đó, bạn bè của ông phải là những người thu thuế, các sĩ quan Rôma. Vậy tại sao ông lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Giêsu, kẻ hoàn toàn khác địa vị xã hội với ông? Là người giàu có, sang trọng, tại sao ông bỏ cả thể hiện sẵn sàng trèo lên cây sung như một đứa trẻ để nhìn cho được Chúa Giêsu đi qua? Hơn nữa, vốn bị dân chúng thù ghét, ông có thể bị nguy hiểm tính mạng khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Như thế ông phải liều, và bỏ ngoài tai mọi phê bình.
Ðộng lực nào thúc đẩy ông đi tìm Chúa Giêsu? Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động.Tâm hồn mong hoán cải đã thúc bách ông lên đường tìm Chúa ! Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu, một ưu tư thao thức tìm kiếm. Hoán cải là từ bỏ. Bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi phải từ bỏ. Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Giakêu tích cực đi tìm Chúa: “Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung“. Khi nghe tiếng Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: “Ông vội vàng tụt xuống“. Ông còn “vui mừng đón rước Ngài về nhà“. Ông nhìn nhận tội lỗi của mình.Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác. Ông còn lấy tài sản bố thí cho người nghèo. Hoán cải là một hành trình: từ bỏ những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và canh tân đời sống. Giakêu hoán cải đem lại niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông san sẻ cho phân nửa tài sản, nhóm bị oan ức (nếu có) được giải oan và nhận huê lợi hơn bốn lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người.
Giakêu lùn về thể lý nhưng tâm hồn không thấp chút nào. Giá trị một người hệ tại nơi tâm hồn. Gía trị của một việc làm ở nơi lòng mến. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Giakêu đã trở nên cao thượng nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người. Chiều cao thân xác Giakêu vẫn thấp nhưng chiều cao tâm hồn bây giờ ngất cao nhờ tình thương chiếu rọi.
Chúa Giêsu là bậc Thầy cảm hoá lòng người. Tôn trọng, yêu thương có sức cảm hoá đến kỳ diệu. Ánh mắt, lời nói và thái độ của Chúa Giêsu đem mùa xuân về cho tâm hồn Giakêu. Những gì xưa nay trói buộc ông, làm cho ông say mê kiếm tìm giờ trở nên vô vị. Giakêu trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông lại hạnh phúc hơn xưa nhiều lần. Thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người đáng khâm phục. Bởi lẽ, Ông đã gặp được Chúa, được nhận lãnh Ơn Cứu Ðộ của người Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên lạc.
Kho tàng văn học Thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!”. Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Câu chuyện về ông Giakêu cho thấy, thái độ lên án và tẩy chay thường chỉ khiến người có tội thu mình lại và càng dễ dấn sâu hơn vào con đường sai trái của mình; chỉ có một thái độ tích cực có thể giúp họ hồi tâm hoán cải, đó là cởi mở, cảm thông, kính trọng và tùy hoàn cảnh mà nhắc nhở hay sửa dạy với đầy lòng yêu mến.
Giakêu rất cảm động trước sự trân trọng và yêu thương của Chúa Giêsu.Giakêu quyết tâm trở về con đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng. Cung cách đối xử chan chứa tình người mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong công việc tông đồ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu.
Lạy Chúa Giêsu, tình thương của Chúa đã làm nên bao điều kỳ diệu. Xin dạy chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, sống với người khác bằng tình thương, hy vọng vào lòng tốt của mỗi người và tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.Amen.
.
NGƯỜI NÀY CŨNG LÀ CON CHÁU TỔ PHỤ ÁP-RA-HAM
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Việc chủ động xin vào trọ trong nhà ông Da-kêu, một thủ lãnh nhóm thu thuế, một lần nữa lại cho thấy, đời Đức Giê-su luôn gắn liền với các người tội lỗi… Có thể Ki-tô hữu chúng ta đã dần quen và xem thường hình ảnh này, nhưng không phải vậy đối với các Biệt Phái và đám quần chúng Do Thái; “Mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Lý do duy nhất Đức Giê-su đưa ra để biện minh cho quyết định táo bạo này là: “Bởi vì người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”, cho dầu ông ta có tội lỗi bất xứng tới đâu.
“Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”! Bằng nhiều cách nói khác nhau, Đức Giê-su đã không ngừng xác định sứ mệnh của Người khi đến trần gian là: để cứu vớt. Đó là mục tiêu chính và lẽ sống của Người! Do đó, tin và chấp nhận Đức Ki-tô sẽ không là gì khác hơn: chân thành nhìn nhận rằng mình đáng bị hư mất. Ai không nhìn nhận như thế sẽ không thể là Ki-tô hữu, đơn giản vì họ cho là mình không có lý do gì để đón nhận ơn cứu độ Người mang đến. Nhưng để giải thích được điều rất mới mẻ này, tối hậu Đức Giê-su chỉ trưng ra được có một lý giải duy nhất; Người long trọng tuyên bố: “người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”. Câu nói này mang tính cách mạng ghê gớm! vì trong đầu óc và ngôn ngữ Do Thái thì câu này cũng tương tự như nói với người Công Giáo về một người phạm trọng tội đáng bị rút phép thông công rằng: “vì người tội lỗi này cũng đang là con cái Thiên Chúa!”
Đối với quần chúng Do Thái, nhất là các luật sĩ và nhóm Biệt Phái, thì các người thu thuế nói riêng, và mọi kẻ tội lỗi nói chung, không còn là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham nữa: họ đã phản bội Giao Ước, họ phải bị khai trừ, họ đáng bị khinh miệt và ghét bỏ, họ sẽ bị coi như người dân ngoại. Mọi người Do Thái chân chính đáng danh con cháu tổ phụ Áp-ra-ham buộc phải xa tránh họ và nếu có thể…, tiêu diệt họ bằng cách ném đá cho chết. Do đó bất cứ ai tiếp xúc với họ (huống hồ tới trú ngụ trong nhà họ) đều bị coi là đã ‘mắc ô uế’. Lối suy nghĩ tương tự như thế là hoàn toàn hợp lý, và rất phổ biến trong bất kỳ tập thể xã hội hay tổ chức nào dựa trên luật lệ, kể cả xã hội Ki-tô giáo chúng ta hôm nay xét theo diện một tổ chức (thử nghĩ tới thái độ đối với các bè rối với những vạ tuyệt thông…). Vậy mà Đức Giê-su đã xác định ngược lại: thu thuế hay tôi lỗi tới đâu cũng vẫn là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, và vì thế cần phải đi tìm và cứu vớt họ. Câu hỏi được đặt ra là: dựa trên tiêu chuẩn nào mà Người lại đòi hỏi như thế?
Suy nghĩ thông thường vẫn là: anh sai phạm thì anh phải cải tà qui chính để may ra được chúng tôi thứ tha và được nhận trở lại chăng; nếu anh thành tâm sám hối và sửa lỗi mình thì anh mới được tha, và được cho hội nhập trở lại. Rất thường khi, sự tha thứ này còn kèm theo nhiều điều kiện hoặc thử thách khắc nghiệt khác nữa. Trường hợp của Da-kêu cho ta thấy một tiến trình trái ngược: Đức Giê-su chủ động xin tới với ông ta trước, Người vào nhà chia sẻ cuộc sống với ông; điều này xảy ra trước cả khi ông hứa sẽ đền bù thỏa đáng những lầm lỗi của mình. Đối với Người, trình tự này là hoàn toàn hợp lý với lời giải thích: “hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi vì người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham!”. Nếu sau đó ông Da-kêu có thưa với Người: “Đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” thì đó vẫn không phải là lý do tại sao Đức Giê-su quyết định vào nhà ông; đó chẳng qua chỉ là hậu quả của việc Người chủ động xin đến trú ngụ mà thôi. Nếu vậy thì ta phải đi tới kết luận: khi Đức Ki-tô có quyết định đến với bất cứ tội nhân nào thì không phải là vì họ đã có công trạng gì trước, kể cả có lòng thống hối chân thành. Người cứu chuộc chúng ta chỉ vì Người là Con Thiên Chúa từ nhân, và muôn đời Người sẽ còn tiếp tục hành sử với chúng ta như thế. Cho dầu tội lỗi đầy mình tới mấy, chúng ta vẫn luôn mãi là con cái của Thiên Chúa, là con cái của tình yêu tha thứ xót thương. Đối với Người, con chiên dầu có đi lạc thì vẫn là chiên của chủ chăn, đồng bạc dầu có bị mất thì cũng vẫn là đồng bạc của bà chủ, và đứa con có đi hoang thì vẫn luôn là con của ‘cha già’. Vì như Người khảng định: “Con Người đến để tìm và cứu những gì (Người) đã mất”.
Một trong các tư tưởng căn bản của nền thần học Ki-tô giáo là: ơn cứu độ của Thiên Chúa hoàn toàn là một quà tặng biếu không (gratuitous). Chúng ta chỉ có thể khiên tốn đón nhận với lòng tri ân sâu xa chứ không bao giờ xứng với nó. Nếu có ai cho rằng mình xứng đáng được hưởng ơn cứu độ, hoặc vì lắm công nhiều nghiệp, hoặc vì đầy dẫy các nhân đức, thánh thiện, trung thành tới mức tử đạo, hoặc tối thiểu, vì đã chân thành thống hối ăn năn, thì, trong tiêu chuẩn của Đức Giê-su, người đó đã mắc sai lầm cực kì nghiêm trọng. Ngay cả Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta, vị nữ tu cả đời chỉ làm toàn việc thiện và bác ái, được người đương thời bất luận thuộc tôn giáo nào tán dương như một vị đại thánh, một vĩ nhân, cũng vẫn phải chân thành nhìn nhận: “Thiên Chúa yêu thương tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành, vì biết rằng Chúa thương yêu tôi”. Thế đấy, khi nói lên các việc đền bù mình sẽ làm, Da-kêu cũng đang cố gắng trở nên tốt hơn, chỉ vì nhận thức ra rằng: Thầy Giê-su đã chủ động yêu thương và tha thứ cho mình trước. Do đó ta có thể kết luận: nỗ lực sửa mình và cố gắng vươn lên không phải là điều kiện để được Chúa tha thứ và thương mến, nhưng chỉ là hiệu quả của niềm tin đó mà thôi; và đương nhiên việc vươn lên đó còn tùy thuôc rất nhiều vào mức độ ta nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương đến đâu. Hình như có một tỷ lệ thuận nào đó giữa hai vế, nhưng thứ tự lại ngược hẳn với lối suy nghĩ thông thường: không phải ‘ai yêu nhiều thì được tha nhiều’, nhưng là “Ai được tha nhiều (và nhận thức rõ điều đó) thì yêu nhiều hơn” (xem bình giải Lc 7:47 trong Christian Community Bible) .
Ôi sức mạnh của việc nhận biết lòng thương xót Chúa: vừa rất êm dịu, lại vừa mãnh liệt xiết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, xin cho con không ngừng nhận biết lòng Chúa xót thương, nhất là trong các dịp xét mình hay đi xưng tội. Ngay cả trước khi bước vào tòa giải tội để xưng thú tội lỗi, trước cả khi giục lòng thống hối ăn năn và quyết tâm sửa mình, con biết Chúa đã tha thứ cho con vô điều kiện rồi. Với niềm thâm tín này, xin cho các nỗ lực vươn lên của con luôn xuất phát từ niềm tin vào tình yêu tha thứ của Chúa, để ngay cả những lúc thấy mình tội lỗi và thấp hèn nhất, niềm tin của con vẫn luôn hòa quyện trong tâm tình tri ân cảm tạ sâu xa. A-men.
.
HÀNH TRÌNH TRỞ VỀ: BIẾT CHÚA – BIẾT NGƯỜI – BIẾT MÌNH
Lm. GB. Trần Văn Hào
Tin Mừng Luca nói rất nhiều về lòng thương xót của Chúa đối với các tội nhân. Bài Phúc âm hôm nay là một ví dụ tiêu biểu. Tuần trước, Chúa Giêsu đề cao gương khiêm nhường của một người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện với tâm tình sám hối. Tuần này, Thánh Luca cũng thuật lại cuộc hành trình trở về của Giakêu, cũng là một người thu thuế với bao tội lỗi. Giakêu không chỉ là một viêc chức quèn, nhưng còn là một cán bộ cao cấp và có thế giá trong ngành thuế vụ. Với chức vụ đó, đương nhiên ông ta rất giàu (c.2). Ông là người có dáng vóc nhỏ bé. Có lẽ Thánh Luca còn hình tượng hóa, không phải chỉ nói về sự nhỏ bé thể lý, nhưng cũng diễn bày sự bé nhỏ nơi tâm hồn của ông, khi ông ý thức được những lầm lỗi của chính mình. Cuối cùng, Giakêu đã hoán cải sau khi gặp được Đức Giêsu. Lộ trình trở về của Giakêu gồm 3 yếu tố: Biết Chúa – Biết người – và Biết về chính mình.
Biết Chúa.
Khởi đầu Giakêu muốn biết Chúa chỉ vì tò mò. Chúa Giêsu khá nổi tiếng lúc bấy giờ và được dân chúng nể phục. Nhân lúc Đức Giêsu sắp đi ngang qua, Gia kêu trèo lên một cây sung để xem rõ mặt mũi nhân vật nổi tiếng ấy như thế nào. Đây là điểm khởi đầu để dần dần ông được Chúa biến đổi, cho dẫu sự bắt đầu chỉ thuần mang tính nhân loại.
Ông Pchychari khi còn là dự tòng và đang trên con đường tìm kiếm Chúa, vẫn chân thành dâng lên Chúa lời cầu nguyện : “Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, xin hãy tỏ ra cho con biết Chúa là ai.” Biết Chúa không phải là động thái của tri thức, nhưng trên hết, đó là thái độ của tâm hồn. Đi vào thế giới của mầu nhiệm, không cần chúng ta phải vắt óc để lý luận, nhưng cần mở rộng cõi lòng để ánh sáng chân lý soi chiếu. Nhiều triết gia lỗi lạc đã nặn óc suy tư với những lý luận sắc bén, nhưng đã không tiếp cận được và biết về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện với Chúa Cha : “Lạy Cha, Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn (Mt 11,25). Cuộc hành trình trở về của Giakêu bắt đầu từ việc ông khao khát biết Chúa, cho dầu động cơ nơi ông có như thế nào chăng nữa.
Biết người.
Sau khi Chúa gọi Giakêu lúc ông đang ở trên cây, ông đã vui mừng tụt xuống ngay và tiếp đón Đức Giêsu đến nhà mình cách trọng thị (c.6). Điều này cho thấy rằng cho dù ông đã làm nhiều điều xấu, đã thu quén tiền bạc một cách bất chính, nhưng căn gốc sự thiện vẫn còn nơi tâm hồn ông và nay được dịp bùng phát. Chúa Giêsu đã khơi dậy sự thiện hảo nơi ông, vốn đã bị vùi lấp từ lâu do sự cuốn hút của tiền bạc. Kết quả là ông đã được biến đổi. “Thưa Thầy, tôi xin lấy phần nửa tài sản của tôi cho người nghèo. Nếu tôi chiếm đoạt của ai cái gì , tôi xin đến gấp bốn”. Từ chỗ biết Chúa, Giakêu đã đi đến việc biết người. Biết người tức là biết chia sẻ, biết lưu tâm đến cận nhân nghèo khổ sống chung quanh. Một người giàu có đã từng chỉ biết thu gom tiền bạc để hưởng thụ cách ích kỷ, bây giờ can đảm chia một nửa tài sản cho người nghèo, là một con người rất đáng trân quý. Sự cao quý nơi Giakêu ở chỗ, ông đã can đảm phá vỡ pháo đài ích kỷ vốn đã xơ cứng nơi tâm hồn mình, bây giờ trở thành trái tim thịt mềm, một trái tim biết rung lên những giai điệu đồng cảm và yêu thương. Giakêu đã được biến đổi vì ông đã biết Chúa và biết người.
Biết mình.
Căn gốc của sự hoán cải chính là tự biết mình. Giakêu biết rõ mình là con người tội lỗi và bị mọi người khinh ghét. Nhưng ông còn biết rõ hơn, là chính Thiên Chúa không ghét bỏ ông. Đức Giêsu đã tuyên bố cho mọi người cũng như cho ông biết rằng : “Con người đến để tìm kiếm những gì đã hư mất”. Chúng ta vẫn thường đi xưng tội, và trước khi xưng tội, chúng ta phải xét mình. Xét mình không phải chỉ là liệt kê một bản danh sách các tội một cách máy móc và điền đại vào đó số lần để xưng cho xong. Khi xét mình, chúng ta cần phải đi sâu vào tĩnh lặng để bới tìm những bẩn thỉu ẩn kín sâu tận bên trong. Chúng ta rất dễ bới móc cái rác trong mắt của tha nhân mà vẫn không nhận ra cái đà to đùng nơi con mắt của mình (Mt 7,3). Chúa Giêsu nói điều đó với chút cường điệu để dạy chúng ta phải khiêm tốn nhìn vào nội tâm, chứ đừng vội vã kết án người khác. Đây là phương thức để chúng ta biết về mình cách thực sự.
Tiến trình trở về của Giakêu là như thế. Tiến trình này được thể hiện do chính Đức Giêsu chủ động và lôi kéo. Thiên Chúa luôn đi bước trước để gọi mời, còn chúng ta hoàn toàn tự do để đáp trả hay từ chối. Giakêu đã nghe tiếng Chúa gọi. Ánh sáng từ đôi mắt Chúa đã hắt dọi vào tâm hồn ông và ông đã được biến đổi hoàn toàn. Ông đã gặp Chúa, đã tiếp đón Chúa tại nhà và đã được biết Chúa là ai, là ‘Đấng đến tìm kiếm và cứu chữa những gì hư mất’. Chúa đã soi sáng để ông cũng biết đến tha nhân bằng cách mở rộng cõi lòng chia sẻ. Nhưng quan trọng nhất, ông đã biết về chính mình với bao yếu đuối và tội lỗi. Sự biến đổi nội tâm nơi Giakêu là mô hình để chúng ta thực hiện cuộc trở về mỗi ngày.
Kết luận
Xin được kết luận bằng một câu chuyện dân gian Việt Nam. Một chàng thư sinh rất tự mãn về kiến thức của anh ta. Trên đường trở về quê, anh chàng phải đi qua một con sông lớn và bác lái đò quê mùa ở đó vẫn ngày ngày chở khách qua sông. Trên thuyền, chàng sinh viên khoe khoang hỏi bác lái đò : “Bác ơi bác có biết đọc biết viết hay không? – Cậu ơi, tôi không biết. Chàng thư sinh nói tiếp : “ Thế là bác chết một phần tư đời người rồi”. “Bác ơi, bác có biết về khoa học hay kỹ thuật gì không?”. Bác lái đò vẫn bình thản trả lời : “Cậu ơi, tôi quê mùa có biết gì về văn minh khoa học tí nào đâu” – Tiếc cho bác, thế là bác chết thêm một phần tư đời người nữa rồi”. Chàng thanh niên tiếp tục khoe khoang : “Thế, bác có biết chút gì về nghệ thuật hay không ? -Tôi đã bảo là tôi mù tịt, không biết gì cả. – “Thế là bác chết thêm ¼ cuộc đời nữa, tội nghiệp bác quá”. Đi đến giữa sông, trời bỗng nổi cơn giông rất mạnh. Bác lái đò hỏi chàng thanh niên :“Cậu ơi, cậu có biết bơi không”. “Thưa bác, không”. Chàng thanh niên run sợ trả lời. Bác lái đò nhẹ nhàng nói : “Thôi, thế là cậu sắp chết cả đời người rồi, tiếc cho cậu quá”.
Triết gia Socrates đã nói: “Khởi đầu của sự khôn ngoan là hỡi người, hãy ‘biết’ về chính mình.” Chúng ta hãy học lấy thái độ của Giakêu để thực hành cuộc sám hối trở về, bằng cách biết Chúa, biết người và biết rõ về mình.
.
Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Để hiểu bài Tin mừng Chúa nhật tuần này về câu chuyện Zakêu người thu thuế, cần bắt đầu với chủ đề của sách Khôn ngoan về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Một cách rất hiện thực và trong một cái nhìn tổng thể, sách Khôn ngoan cho thấy điều kiện của nhân loại rất là mong manh yếu đuối trước mắt Thiên Chúa, ví được như là hạt gạo trên đĩa cân, hay sương sa trên mặt đất, nó chẳng là gì cả, dễ tan biến vào hư vô. Nhưng bởi vì Thiên Chúa là Đấng yêu thương vô bờ bến, Người yêu thương nhân loại vô cùng nên rất nhẫn nại và chờ đợi con người sám hối tội lỗi để trở về với Thiên Chúa. Bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với mọi loài là ý định tạo dựng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa tạo dựng, có nghĩa là Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại và có ý định ban tặng sự sống cho mọi loài. Và điều quan trọng, đó là lần hồi, nhờ thần trí của Thiên Chúa tốt lành, Chúa sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn những người tội lỗi để họ trở về với Thiên Chúa và từ bỏ con đường tội ác của mình mà được sống hạnh phúc sung mãn.
Điều này được cụ thể hoá qua hình ảnh cụ thể của người thu thuế Zakêu, một người tội lỗi, được Chúa Giêsu viếng thăm tại nhà và vui mừng thay đổi đời sống đón nhận ơn cứu độ. Điều rất cao đẹp và quí giá mà Thiên Chúa thực hiện cho con người, đó là từ tình trạng xấu xa tội lỗi và hậu quả là phải chết tủi nhục, Thiên Chúa biến đổi để con người trở nên thánh thiện và xứng đáng đón nhận sự sống đời đời. Sự biến đổi và thánh hóa của Thiên Chúa thực là kỳ diệu, và con người luôn được Thiên Chúa mời gọi và tìm kiếm, bởi vì Thiên Chúa luôn nhớ đến mỗi người và thành tín yêu thương vô cùng. Zakêu là một khuôn mặt tiêu biểu đáng nêu lên bởi vì sự biến đổi mà Thiên Chúa thực hiện nơi ông đã diễn ra một cách rất nhẹ nhàng và đầy niềm vui. Ông là một ông trùm trong số những người thu thuế giàu có, một người tội lỗi công khai vì nghề thu thuế tai tiếng. Đàng khác, vóc dáng nhỏ thó, lùn tịt của ông cũng làm cho ông bị người khác coi thường. Khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêrikô là nơi ông ở, Zakêu đã có một cử chỉ thực là hồn nhiên, là leo lên cây để được nhìn Chúa Giêsu đi ngang qua. Đáp lại, Chúa Giêsu quyết định đến gặp Zakêu tại nhà để đáp lại cách cụ thể ước muốn của ông, nên người nhìn lên và nói với ông: “Zakêu! Xuống mau đi, vì hôm nay tôi muốn tới ở nhà ông”. Và điều kỳ diệu bất ngờ đã xảy ra, vượt mọi dự đoán của mọi người. Trong khi mọi người khác vẫn còn đóng kín trong những phê phán hẹp hòi chật hẹp thiếu hiểu biết của mình, nói rằng Chúa Giêsu đến nhà người tội lỗi. Zakêu đã có những quyết định rất táo bạo cương quyết : “Thưa thầy, tôi xin bố thí nửa phần tài sản của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đến gấp bốn”. Ông không nói bố thí hết tài sản, mà chỉ chia một phân nửa, phần còn lại giữ lại cho mình và đền bù gấp bốn lần cho những người mà ông đã làm thiệt hại. Thế nhưng đó đã là một cuộc hoán cải đầy đủ và trọn vẹn, nhắc lại phần nào lời giải đáp xưa kia của Gioan Tẩy giả khi rao giảng ở sông Giorđan. Cuộc gặp gỡ và hoán cải hiện thực là như thế, không viễn vông ảo tưởng nhưng chân thành hiện thực. Zakêu phải can đảm chấp nhận cho đi những của cải của mình. Đó không phải là điều dễ dàng. Nhưng phải chăng cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cứu độ là như thế, không dừng lại ở cái nhìn tò mò, nhưng là đón nhận chính Đấng cứu thế vào trong nhà mình và can đảm mở lòng để đền bù lại những thiệt hại mà mình gây cho người khác, giúp đỡ cho những người nghèo khổ túng thiếu.
Trên con đường Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, tin mừng theo Luca cho chúng ta được khám phá nhiều điều mới mẻ về ơn cứu độ. Chúa Giêsu đi đến gặp gỡ từng người trên con đường người đi qua. Một cách nghịch lý, những con người tội lỗi, bị ghét bỏ trong xã hội, bị đánh giá thấp lại là những người gặp gỡ được tình yêu thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Và lời nói tiêu biểu của Tin mừng Luca được lặp lại như đã được công bố ở hội đường Nazarét: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi vì người này cũng là con cái Abraham”. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu dẫn đến ơn cứu độ thực sự, đầy tràn niềm vui, đầy tràn sức sống. Ơn cứu độ trả lại cho con người phẩm giá làm con Thiên Chúa. Zakêu, một con người bình thường như những người khác, lại có điều gì đó mà chúng ta cần phải học hỏi. Không yếu ớt, không tự phụ, không thu mình trong địa vị của hàng tư tế hay biệt phái tự cho mình là những người thánh thiện trong sạch, nhưng dám quyết định và hành động mạnh mẽ chia sẻ chính tài sản của mình, đền bù lại những thiệt hại đã gây ra cho người khác. Đồng thời ơn cứu độ mà Zakêu nhận được là điều rất cao quí. Từ nay, ông lại được đón nhận thừa hưởng gia nghiệp của con cái Abraham. Từ tình trạng tội lỗi và thân phận phải hư mất đời đời, ông được chữa lành và được đón nhận vào trong sự sống sung mãn của Giao ước với Thiên Chúa. Lời mà Chúa Giêsu đã tuyên bố khởi đầu ở hội trường Nazarét, giờ đây lại được công bố cách mạnh mẽ: “Hôm nay ơn cứu độ lại đến với nhà này”.
Cộng đoàn Kitô giáo thời thánh Phaolô là cộng đoàn những người đã bắt đầu tin vào Chúa Giêsu và dấn thân trên con đường đón nhận ơn cứu độ của đời sống mới. Họ có thể bị chao đảo bởi những hoàn cảnh lịch sử mà họ đang phải trải qua. Họ vẫn tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại gần kề, nhưng nghịch lý là Chúa Giêsu vẫn chưa đến như mọi người mong đợi. Thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn hãy vững vàng trong ơn gọi của mình. Thái độ tỉnh thức và chờ đợi Chúa trở lại là thái độ cụ thể, không phải chỉ là những tâm tình chờ đợi hốt hoảng lo âu vì những tuyên bố của người này người khác không có thẩm quyền chính thức của tông đồ. Ngược lại, thái độ chờ đợi Chúa đến thực sự là luôn vững vàng trong lòng tin của mình và sống thánh thiện theo ơn Chúa kêu gọi.
.
Trầm Thiên Thu
Quyết định là điều khó khăn nhất để có thể bắt đầu hành động, phần còn lại là có kiên trì hay không. Cần phải mạnh mẽ và dứt khoát để có thể quyết tâm mau chóng, nhưng cần phải nhận thức tinh tế mới khả dĩ quyết tâm đúng đắn.
Edward Bulwer-Lytton (1803-1873, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia và chính khách người Anh) nhận xét: “Ai thận trọng quan sát và kiên quyết vững vàng sẽ tự nhiên dần trở thành bậc anh tài”. Còn William Arthur Ward (1921-1994, nhà giáo dục người Mỹ) nhận định: “Sự kiên nhẫn của ngày hôm nay có thể biến những nản lòng của ngày hôm qua thành khám phá của ngày mai. Những mục đích của ngày hôm nay có thể biến những thất bại của ngày hôm qua thành quyết tâm của ngày mai”.
Càng về cuối năm Phụng Vụ, Lời Chúa càng “xoáy sâu” vào tâm hồn chúng ta – rõ ràng hơn, thẳng thắn hơn, mạnh mẽ hơn, và cũng… “gay gắt” hơn. Cuối năm là thời điểm cần thiết để xem lại chính mình, luôn có nhiều điều cần quyết tâm hoặc tái quyết tâm – cả về đời thường và tâm linh.
Vì yếu đuối, phàm nhân luôn cần phải cố gắng quyết tâm và tái quyết tâm. Thật hạnh phúc vì chúng ta có một Vị Thiên Chúa vô cùng nhân từ và kiên nhẫn: “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kn 11:23). Chắc chắn không có thần linh nào như Thiên Chúa của chúng ta. Trong St 18:20-32, Tổ phụ Abraham đối diện Thiên Chúa với mối quan ngại về điều sẽ xảy ra cho thành Xô-đôm. Tổ phụ Abraham đã “mặc cả” với Thiên Chúa, và Ngài sẵn sàng tha thứ cho Xô-đôm nếu thành này có được 10 người công chính.
Kinh Thánh xác định: “Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì? Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11:24-26). Thật vậy, Thiên Chúa là ĐẤNG HẰNG SINH (Đnl 5:26; Gs 3:10; Tl 8:19; R 3:13; 1 Sm 14:39 & 45; 1 Sm 17:26 & 36; 1 Sm 19:6; 1 Sm 20:3 & 21; 1 Sm 25:26 & 34; 1 Sm 26:10 & 16; 1 Sm 28:10; 1 Sm 29:6; 2 Sm 2:27; 2 Sm 4:9; 2 Sm 12:5; Tv 42:3; Tv 84:3; Mt 16:6; Mt 26:63; Ga 6:57; Cv 14:15; 2 Cr 3:3; 2 Cr 6:16; 1 Tx 1:9; 1 Tm 3:15; 1 Tm 4:10; Dt 7:24-25) và là ĐẤNG CẦM QUYỀN SINH TỬ (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), nhưng Ngài lại luôn GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT và RẤT MỰC YÊU MẾN chúng ta (Ep 2:4).
Quả vậy, sinh khí bất diệt của Ngài ở trong muôn loài muôn vật. Vì thế, “những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ; Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (Kn 12:1-2). Nếu Thiên Chúa không đại lượng như vậy thì chúng ta chết từ lâu rồi. Chỉ riêng một điều là chúng ta còn hít thở không khí ngày hôm nay cũng đủ cả đời để chúng ta cảm tạ Ngài – dù chúng ta còn khỏe hay đau yếu!
Là thụ tạo, chúng ta không chỉ có bổn phận tôn thờ ngài, mà còn có bổn phận chúc tụng và tôn vinh Ngài. Bức tượng không có quyền đòi hỏi gì ở nhà điêu khắc. Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, hãy noi gương tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời” (Tv 145:1-2).
Thiên Chúa mà chúng ta nhận biết và tôn thờ là Thiên Chúa của tình yêu, của lòng trắc ẩn, của lòng thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng” (Tv 145:8-11).
Vì bản chất của Ngài là yêu thương, Ngài không thể đứng nhìn các thụ tạo của Ngài chịu đau khổ. Ngài sẽ ra tay kịp thời để bảo vệ chúng ta: “Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Ai quỵ ngã, Chúa đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên” (Tv 145:13cd-14). Mặc dù giờ của Ngài chưa đến, nhưng lời cầu nguyện chân thành của chúng ta có thể thay đổi số phận, càng hiệu quả hơn nếu chúng ta biết cầu xin Đức Maria. Sự việc đã xảy ra ở tiệc cưới Cana, miền Galilê, là một ví dụ điển hình (x. Ga 2:1-12).
Lời cầu nguyện thành tâm không chỉ có hiệu quả đối với chính mình mà còn đối với người khác – những người chúng ta cầu nguyện cho, đồng thời còn sinh ích lợi cho chính mình: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Thánh Francis Assisi). Thánh Phaolô đã áp dụng cách cầu nguyện “hai chiều” đó: “Lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin. Như vậy, danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô” (2 Tx 1:11).
Đức tin sinh ra yêu thương, yêu thương sinh ra hành động, và hành động vì đức tin. Đức tin của chúng ta không mơ hồ, không hão huyền, mà chính xác: “Tin xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Vả lại, chính Chúa Giêsu đã phục sinh, điều này giúp chúng ta thêm xác tín.
Thánh Phaolô nói: “Về ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ” (2 Tx 2:1-2). “Ngày ấy” có thật và sẽ xảy ra, nhưng chúng ta không tin những kẻ lợi dụng thời cơ để gây náo động. Tin phải có cơ sở đúng đắn, cần có lý trí lành mạnh. Tin để sống tốt hơn chứ không theo kiểu “phong trào”. Quyết tâm canh tân đời sống luôn là điều cấp bách.
Không ai biết ngày giờ tận thế, và cũng không biết chúng ta có được chứng kiến “ngày ấy” hay không, nhưng chắc chắn ai cũng chứng kiến ngày tận thế của cuộc đời mình: Chết. Vì thế mà luôn phải sẵn sàng – thay đổi và dứt khoát. Đó là quyết tâm vô cùng cần thiết, càng sớm càng tốt!
Trình thuật Lc 19:1-10 cho biết về một nhân vật đặc biệt: trưởng trạm thuế vụ Da-kêu. Ông là người có dáng dấp thấp bé, ngắn ngủn, lùn tịt, nhưng đức tin của ông lại cao vòi vọi. Ông là người thông minh, can đảm, dứt khoát, có quyết định mau mắn và chính xác.
Một hôm, Chúa Giêsu vào thành Giê-ri-khô. Ở đó có một trưởng trạm thuế vụ giàu có là Da-kêu. Nghe người ta nói về Chúa Giêsu, ông tìm cách để xem cho biết Ngài Giêsu là ai, nhưng ông không thể nhìn thấy Chúa Giêsu vì ông lùn quá, trong khi dân chúng chen chúc đông như kiến. Vốn thông minh và nhanh trí, ông chạy tới phía trước và leo lên một cây sung, vì Chúa Giêsu sắp đi qua đó.
Tới chỗ cây sung, Chúa Giêsu nhìn lên và nói: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Lạ nhỉ, chưa gặp mà Ngài đã biết tên ông ta là Da-kêu. Có lẽ cũng vì thế mà ông Da-kêu càng tâm phục khẩu phục. Nghe Chúa Giêsu nói vậy, ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Ghen ăn, tức ở, những con người như thế thật là xấu xa. Trong chúng ta cũng vẫn có những con người nhỏ nhen và hèn hạ như thế, có vẻ biết rõ người khác nhưng lại mù lòa về chính mình!
Chúa Giêsu biết người ta xì xầm, bàn ra tán vào, nhưng Ngài không nói gì vì chưa cần thiết, chưa đến lúc. Cũng có thể chính ông Da-kêu cũng biết người ta ghét và nói xấu mình, nhưng ông cứ mặc kệ, việc mình thì mình làm, cứ là chính mình, ai nói sao thì nói.
Hãy quyết tâm điều này: “Đừng bận tâm về những điều người ta nói xấu sau lưng bạn, vì họ là những người chỉ bới móc sai lầm trong đời bạn thay vì lo sửa sai lỗi lầm của chính mình” – kiểu giống như ông Pharisêu tự tôn nên chê trách ông thu thuế (x. Lc 18:9-14). Kể cũng lạ, có những kẻ chuyên gièm pha, ưa thọc gậy bánh xe, khoái ngậm máu phun người, thấy mình không ăn được thì phá cho hôi,… Họ là dạng “siêu nhân” thế nào? Văn sĩ Dale Carnegie (1888-1955, tác giả cuốn “Đắc Nhân Tâm” nổi tiếng) nhận định: “Bất cứ kẻ ngu nào cũng có thể chỉ trích, chê trách và phàn nàn – và phần lớn những kẻ ngu xuẩn đều làm như vậy” (Any fool can criticize, condemn and complain – and most fools do).
Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Ông này nhanh trí nên quyết tâm được ngay, nhanh mà chính xác chứ không liều lĩnh hoặc bốc đồng. Đức Giêsu nói về ông Da-kêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để TÌM và CỨU những gì ĐÃ MẤT”. Nghe Chúa Giêsu nói vậy, chắc chắn những kẻ lẻo mép kia vuốt mặt không kịp, đành phải câm họng mà thôi. Biết mắc cở mà sám hối thì tốt, nhưng khốn thay có những kẻ vẫn cố chấp, không phục thiện, chỉ tỏ ra bằng mặt mà không bằng lòng!
Biết mình, biết người mới có thể quyết tâm đúng đắn. Kẻ thù lớn nhất là chính mình, chiến thắng chính mình mới thực sự là dũng cảm. Không mặc kệ lời người ta nói về mình, nhưng đừng sợ vì người ta ghét mình, cần xét xem mình có sai như họ nói hay không để tự chấn chỉnh. Đa số chưa chắc hơn thiểu số. Có một nhận xét rất hay: “Nếu có bất cứ ai làm bạn tổn thương, bạn hãy coi họ như TỜ GIẤY NHÁM. Giấy nhám CHÀ XÁT và làm bạn ĐAU ĐỚN, nhưng bạn sẽ trở nên SÁNG BÓNG, còn họ thành miếng giấy VÔ DỤNG, chỉ BỎ ĐI thôi”.
Trong cuốn “Tự Thuật” (Confessions III, 6, 11), Thánh GM TS Augustinô (354-430) đã chia sẻ kinh nghiệm tâm linh: “Deus intimior intimo meo – Chúa còn thân mật với tôi hơn chính tôi thân mật với tôi”. Cuối cùng chỉ còn Chúa, chính Ngài mới là người mà chúng ta phải sợ, vì Ngài là Đấng “thấu suốt mọi sự” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6).
Quyết tâm đúng thì phát ngôn đúng và hành động đúng, quyết tâm sai thì phát ngôn sai và hành động sai. Đó là điều tất yếu. Trong những ngày trung tuần tháng 10-2016, cơn bão dữ Sarika đã làm cho dân miền Trung điêu đứng – đặc biệt là hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh. Trong khi đó, người ta lại cho xả đập để “nhận chìm” dân lành, rồi còn nói rằng làm vậy chỉ tính “đúng quy trình” chứ chưa tính đến hậu quả. Thật tồi tệ!
Có người còn phát ngôn “vô tư” rằng mong cho bão lụt nữa để tẩy rửa chất độc của Formosa thải ra. Không hề có chút yêu thương nào! Chưa hết, khi người ta xót xa đồng bào mà làm từ thiện thì lại bị cấm, chỉ có nhà nước mới có “quyền” đó – tức là để có dịp “chia chác” chăng? Một cán bộ của “trung tâm nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng” đã tuyên bố bất nhân thế này: “Làm từ thiện là làm mất bản sắc dân tộc”. Khốn thay, vì người ta dám cấm người khác thể hiện lòng yêu thương!
Tiền nhân đã dạy rằng: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Thế nhưng lời dạy này không được người ta coi trọng. Buồn thay, vì còn đâu là tình nhân loại và nghĩa đồng bào! Một danh nhân đã nói: “Chỉ có những ai có lòng yêu thương mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Thật đúng như vậy!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết chính con và người khác, đặc biệt là xin cho con nhận biết Ngài. Xin giúp con luôn có quyết tâm đúng đắn, dứt khoát và chính xác theo Thánh Ý của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Kính thưa quý vị, Lời Chúa trong trang Tin Mừng Chúa Nhật cuối tháng Mân Côi hôm nay ( Lc 19, 1-10), xác tín cho chúng ta một lần nữa, Đức Giêsu- Kitô là : “ Đấng giải thoát ”.
Vậy , ai cần Người “TÌM và CỨU “, tức được giải thoát thì hãy chạy đến với Người, như người thu thuế Giakeu trong Tin Mừng. Vâng, và như vậy, hình ảnh ông Giakeu hôm nay là một tấm gương cho chúng ta, hầu đón nhận được ơn Cứu Độ bởi Thiên Chúa qua Đức Giêsu- Kitô.
Chúa Giêsu khẳng định : Người đến thế gian để TÌM và CỨU những gì đã mất. ( Lc 19, 10). Vậy, điều kiện để được đón nhận “ƠN CỨU ĐỘ” là gì ? thưa, đó là “ Tâm hồn Giakeu ”. Vâng, thật vậy, chúng ta phải có tâm hồn như Giakeu :
Rõ ràng, với những tâm tình ấy của Giakeu, Chúa Giêsu đã nói : “ Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này…”( Lc 19, 9)
Chúng ta thấy, qua đoan Tin Mừng hôm nay, thuật lại biến cố trên đường truyền giàng Tin Mừng Cứu độ, Chúa Giêsu đã đón nhận một tâm hồn như lòng Chúa mong ước: đó là Giakeu, một con người có tài sản, có tất cả, nhưng chưa có Thiên Chúa. Dù người đời gièm pha, nhưng với ơn cứu độ, Chúa Giêsu đã mặc khải cho biết sứ vụ của Người đến trần gian là “TÌM và CỨU “những gì đã mất.
Đến đây, chúng ta hiểu rõ ràng về sứ vụ Thiên Sai của Đấng Cứu Thế là “TÌM và CỨU” những gì đã mất. Vâng, trước khi cứu thì phải đi tìm, tìm thấy và cứu chữa. Tìm thấy lý tưởng của Đấng Cứu Thế trong trang Tin Mừng hôm nay, mà Đức thánh cha Phanxico đã có những lời giáo huấn , về vác chiên lên vai, hay muc tử phải có mùi chiên, hoặc truyền giáo trực tiếp từ Đức Kitô- Giêsu, ra những vùng ngoại vi đến với muôn dân
Vâng, TÌM và CỨU là hai động gói gọn dễ nhớ, nhưng không dễ thực thi, nếu không có ”TRÁI TIM NHÂN TỪ QUẢNG ĐẠI “ của Thiên Chúa là Cha.
Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên nhân lành, chính Người đã sống và thực thi. Xác tín một cách minh định nầy là nhân vât Giakeu, tâm hồn ông đã cảm nghiệm, xác tín Lời Chúa Giêsu, mà chúng ta được suy niệm qua trang Tin Mừng hôn nay.
Giakeu, một chứng nhân, đã cảm nghiệm Lời rao giảng của Đấng Cứu Thế, Đấng đã đến vì để “TÌM và CỨU “ những gì đã mất. Trải qua bao thế hệ,. những Giakeu như các vị đại thánh, đến những ai bước theo Đức Kitô đều phải thực thi. Nếu tất cả những ai mang tâm hồn Truyền giáo biết thực thi sứ vụ của Đứcc Kitô là : “TÌM và CỨU “ những gì đã mất, thì thật tuyệt vời
Vâng , thưa quý vị bài đọc I hôm nay (Kn 11, 22- 12 , 2) sách Khôn ngoan cho chúng ta hiểu được điều đó, bởi vì, Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan, Người thực thi sự khôn ngoan bởi chính Thiên Chúa, để kẻ kiêu ngạo, tự đắc vì mình thánh thiện, sẽ phải cúi đầu thuần phục suy tôn Thiên Chúa. Vì hành động THƯƠNG XÓT của Thiên Chúa chính là : NÂNG CAO MỌI KẺ KHIÊM NHƯỜNG.
Vâng, khiêm nhường chinh là hành động , là thái đội ăn năn, hối lỗi, nhìn nhận thận phận bụi tro, thấp hèn của con người thế nhân, là thụ tạo. Như vậy, tai sao, Chúa Giêsu hành động theo hai động từ “TÌM và CỨU “đó. ? Thưa, bởi vì đó là hành động khôn ngoan của Thiên Chúa.
Qua trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta học được bài học bởi Giakêu, là lắng nghe lời Chúa, mau mắn thực thi, và luôn khát khao chân lý. Vì khi thân xác bị thương, ốm đau bệnh tật, thì nhờ đến thầy thuốc để chữa bệnh thân xác. Nhưng , khi linh hồn bệnh tật hoặc bị lầm lạc, thì cần đến ai ? Há, chẳng phải là Đức Kitô – Giêsu hay sao? ! Vì , Người chính là Vị Lương Y của linh hồn.
Cũng vậy, theo đó, Bài đọc II hôm nay, thánh Phaolo trong ( 2 Tx 1, 11- 2, 2) khuyên chúng ta luôn vững tìn vào Đức Kitô, và Giáo Hội luôn cầu nguyện cho chúng ta. Cùng với những mặc khải mà được loan báo về ngày Chúa ngự đến, dù có những dấu lạ, điềm thiêng, chúng ta cũng đừng dao động.
Trở lại ý nghĩa Lời Chúa hôm nay , chúng ta thấy, tại sao, Thiên Chúa muốn tìm kiếm kẻ tội lỗi? Thưa, là bởi vì : “Lòng Thương xót ” của Thiên Chúa phù hợp với sự sám hối của tội nhân. Điều quan trọng là tội nhân phải biết sám hối. Điều nầy là căn nguyên mà Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian. Chúng at thấy, kẻ tội lỗi chính là những kẻ không nhận biết Thiên Chúa, không có Thiên Chúa, nó chỉ sợ luật pháp trần gian trừng phạt. Nhưng, luật pháp trần gian luôn bị giới hạn, bởi sự hữu hạn của nó. Theo đó, những kẻ cầm quyền bất minh, nghĩ rằng luật pháp ở trong tay nó, thì nó tha hồ thao túng. Mặc nhiên, khi ấy những kẻ nầy hoàn toàn không có Thiên Chúa, nó chỉ dựa vào sự bất minh để hưởng lợi và thăng tiến. Hữu nhiên, ơn cứu độ không đến với nó, nhưng , nếu như nó nhận thức bởi lương tâm và sự thúc đẩy nội tâm , khi có dịp nghe nói đến Thiên Chúa và muốn cải tà quy chánh như Giakeu , thì nó cũng nhận được ơn cứu độ của Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến trần gian không phải để kêu mời người công chính, nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi ăn năn. Xin cho những kẻ tội lỗi biết lắng nghe Lời Chúa, nhận thức bởi sự thúc đẩy của Thánh Thần, hầu biết đáp trả chân lý và hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa./. Amen.
.
AM. Trần Bình An
Sinh ra trong một trong những gia đình giàu nhất của Indonesia, Maria Donna Dewiyanti Darmoko, người Indonesia gốc Trung hoa, đã rời bỏ những xa hoa nhung lụa để dâng hiến đời mình phục vụ cho những người nghèo ở Hồng kông, ở Hoa kỳ và hiện nay ở Đông Timor. Chị vào dòng Mẹ Têrêsa với tên Lucy Agnes.
Maria Donna sinh tại Kudus, trong một gia đình Công giáo giàu có, sở hữu ngành công nghiệp thuốc lá PT Djarum. Cô đã theo học tại Úc và sau đó tốt nghiệp tại Hoa kỳ. Lần đầu tiên cô gặp các nữ tu Thừa sai Bác Ái là khi cô tham gia vào việc chăm sóc các người vô gia cư ở Illinois. Rồi một lần kia khi cô đang nghỉ hè với gia đình ở Hồng kông, trong một khách sạn sang trọng, cô cảm thấy khó chịu khi nhìn thấy quá nhiều người không nhà cửa trên các con đường của Hồng kông, những người nghèo khổ, thấp bé, dơ dáy, bệnh tật. Bản năng tình cảm đầu tiên của chị là muốn chạy khỏi cảnh tượng gây buồn nôn. Rồi khi chị tránh những người này, đã có điều gì đó ngăn chị lại, dường như bảo chị trở lại với họ, để làm điều gì đó tốt cho những người kém may mắn này.
Maria Donna đã quyết định vào dòng các Thừa sai Bác Ái với tên khấn dòng Lucy Agnes. Cha mẹ của chị phản đối mạnh mẽ chọn lựa của chị. Từ ngày đó chị Lucy bắt đầu làm việc với người nghèo và những người thấp bé nhất trong xã hội, tránh sự quan tâm của báo chí. Hiện nay chị đang phục vụ ở Đông Timor, một trong những đất nước nghèo nhất Á châu. Rất khó liên lạc với chị, vì chị không cho nhiều người biết địa chỉ email cũng như số điện thoại của chị; giống như các Thừa sai Bác Ái ở Indonesia, vì họ hoạt động trong âm thầm và không quảng cáo về mình. (Từ bỏ giàu sang để theo Mẹ Têrêsa Calcutta, Asia News 05/09/2016)
Tuy là đạo gốc, nhưng chị Lucy Agnes chỉ tìm thấy Chúa qua những người nghèo khó, bần cùng, khi đang nghỉ hè tại khách sạn sang trọng. Còn Tin Mừng thánh Luca hôm nay, ông Giakêu khao khát tìm Chúa, được toại nguyện, Chúa đến thăm tận nhà.
Tìm Chúa
Vượt qua khó khăn thể lý, cơ thể thấp bé, vượt qua khó khăn khách quan, đám đông che chắn, vượt qua khó khăn tinh thần, thiên hạ dị nghị, chế giễu, Giakêu cứ hăng hái, vô tư trèo lên cây sung, để nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang. Khao khát tìm Chúa, bất chấp khó khăn thử thách, Giakêu đã không uổng công tìm kiếm.“Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gõ, cửa sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin, sẽ nhận được; ai tìm, sẽ thấy; ai gõ, cửa sẽ mở ra.” (Mt 7, 7-8)
Trong cuộc đời, biết bao chướng ngại vật che khuất Chúa, nào bản năng xác thịt đòi hỏi, nuông chiều, nào thế gian đồng loã nhạo báng, khai trừ Chúa, nào áp lực nặng nề ngẫu tượng bò vàng. Tất cả đều ra sức bưng bít, ngăn cản con người tìm Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ những ai thiện chí, thiện tâm mới khám phá ra sự hiện diện của Ngài, tưởng xa xăm, hoá ra rất gần gũi qua Tin Mừng, Bí tích Thánh thể, qua Hội Thánh, các mục tử, chứng nhân và qua chính những người bé nhỏ, khốn khó, bệnh tật, bị bỏ rơi. “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25, 40) Liệu lương tâm mỗi người có thức tỉnh, tâm hồn có khao khát chân thiện mỹ, tinh thần có dũng cảm, quyết tâm tìm Đấng Toàn Năng, đầy Lòng Thương Xót chăng.
Chúa gặp
Đáp lại nguyện vọng nóng bỏng, chính đáng, thánh thiện, đáng ca ngợi của Giakêu, Đức Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi.”
Với những tâm hồn chân thành tìm đến, Chúa không đành làm ngơ, làm thất vọng. Chính Người sẽ đích thân đáp lại, gặp gỡ, chủ động tạo điều kiện hội ngộ, bất chấp hoàn cảnh xứng đáng hay không. Vì Người đã phán: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc 2,17)
Hơn nữa, Người còn mời gọi, mở rộng cánh tay, ôm lấy an ủi, vỗ về, cứu thoát bất cứ ai đang sầu khổ, thất vọng, cơ cực, khốn khó trong thung lũng đầy nước mắt, đắm chìm trong dục vọng, tội lỗi. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.”(Mt 11, 28)
Đổi đời
Khi được gặp Chúa, ông Giakêu hoàn toàn đổi đời, được tái sinh. Một sự thay đổi tận căn, hay đúng hơn một phép lạ cả thể, nhãn tiền. Từ con người tham sân si, tôn thờ ngẫu tượng bò vàng, chỉ biết say mê mùi tanh tưởi đồng bạc, bỗng dưng ngộ ra phép công bằng, lòng nhân ái, tình yêu tha nhân, Giakêu mau chóng đền bù gấp bốn lần cho những ai bị bóc lột, cùng quảng đại giúp đỡ kẻ nghèo.“Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Gặp gỡ Đức Kitô là canh tân đổi mới, như thánh Phaolô nhắn nhủ tín hữu Êphêsô: “Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hỏng, buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên tạo theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật.”(Ep 4, 22-24)
Gặp gỡ Đức Kitô, không chỉ biến đổi mình, mà còn biến đổi cả thân nhân, tha nhân, môi trường chung quanh mình. Gặp gỡ Người, sẽ trở nên muối và ánh sáng cho đời, “để thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời.” (Mt 5, 13-16)
Lời chào của Thiên Thần: “Kính mừng Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà…” và lời chào của Hội Thánh: “Chúa ở cùng anh chị em” có mang một ý nghĩa sâu xa, khả dĩ biến đổi cuộc đời con không? (Đường Hy Vọng, số 238)
Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh. Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình. Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh. (Lm Tiến Lộc, Gặp Gỡ Đức Kitô)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường luôn gặp Chúa trong kinh nguyện, trong thánh lễ, nhất là trong Lời Chúa và Thánh thể, cũng như gặp Chúa nơi anh chị em khốn khổ, nhưng chúng con chưa hề biến đổi như ông Giakêu. Xin Chúa thức tỉnh, hồi phục, cảm biến tâm hồn chúng con biết mẫn cảm, nhạy bén nhận ra Chúa đang trông mong, tìm kiếm chúng con trở về đoàn chiên.
Khấn xin Mẹ Mân Côi xoá tan đi những chướng ngại vật, che chắn, khó dễ, cản trở chúng con tìm gặp Chúa, để chúng con sớm được tái sinh trong vòng tay yêu thương của Người. Amen.
.
Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
Ngày ấy, ông Môsê đang đi chăn đàn vật tại núi Sinai. Bất ngờ, ông nhìn thấy bụi gai bốc cháy phừng phực, nhưng bụi gai thì không hề bị thiêu rụi. Quá lạ thường, ông chạy đến để nhìn cho rõ sự tình.
Đến gần, ông nghe tiếng phán từ trong bụi gai rực lửa ấy: “Môsê, bỏ dép ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh”. Môsê bạt vía kinh hồn, càng không thể hiểu nổi điều mình đang chứng kiến tận mắt. Nhưng Đấng ngự giữa bụi gai diệu kỳ ấy chính là Thiên Chúa của tình yêu. Ông khám phá ra rằng, Người là tác giả của ơn giải thoát.
Người ban cho ông mệnh lệnh giải thoát dân của Người ra khỏi tình trạng nô lệ Aicập. Người sai ông đến gặp Pharaô, vua Aicập và nói cho nhà vua biết: Hãy để cho dân tôi đi, hãy giải thoát dân tôi khỏi cảnh nô lệ lầm than, hãy để cho dân tôi đi về miền đất tự do…
Thiên Chúa là Thiên Chúa giải thoát. Người đã ngỏ lời với ông từ trong bụi gai, giữa một cảnh tượng hùng vĩ. Người là Thiên Chúa giải thoát. Người ngự trong bụi gai, đã không làm bụi gai bị thiêu rụi. Và vì là Thiên Chúa giải thoát, ngự giữa đám dân nô lệ, Người trao ban tình yêu, trao ban sức mạnh, trao ban tự do và bình an.
Là Thiên Chúa giải thoát, Người ngự nơi nào, nơi ấy được giải thoát. Nơi Đức Maria, Thiên Chúa mà ngày xưa phán từ giữa bụi gai để giải thoát dân Người, trở nên gần gũi với con người hơn bao giờ hết.
Người không chỉ ngự vào tâm hồn Mẹ, mà còn hóa nên nhục thể, chấp nhận một thân xác lấy từ chính thân xác của Mẹ. Bằng cách ấy, Người đã ngự hoàn hảo nhất, trọn vẹn nhất nơi tâm hồn và cung lòng Mẹ, đến nỗi không thể có bất cứ cuộc ngự trị nào khác sánh ví.
Mẹ đón nhận Người bằng tâm hồn yêu mến, đức tin và một niềm trông cậy không dễ gì lay chuyển. Chẳng những Chúa yêu thích ngự vào lòng Mẹ, mặt khác Mẹ còn vui sướng đón nhận Người, vì thế Người đã giải thoát Mẹ khỏi mọi vướng bận của tội lỗi và thế gian. Một cuộc giải thoát tuyệt vời trên mọi cuộc giải thoát: tinh tuyền, trong trắng và rực sáng giữa triều thần thánh, giữa muôn loài, qua muôn thế hệ.
Hôm nay, Tin Mừng lại mang đến cho bạn và cho tôi một bằng chứng mới về việc Thiên Chúa giải thoát. Ông Giakêô, người thu thuế, đã khôn ngoan mở rộng lòng đón nhận Chúa Kitô.
Chúa Kitô đã vui mừng ngự đến nơi ông. Qua ông, Người sung sướng ngự vào gia đình ông. Người đã ban tặng cả gia đình ông những lời quá sức ngọt ngào, đó cũng chính là ơn cao cả mà mọi người chờ mong: “Hôm nay, ƠN CỨU ĐỘ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
Mặc dù ông chỉ nhìn thấy Chúa như mọi người nhìn thấy. Nhưng ngay việc ông tiếp nhận Chúa, không phải một cuộc tiếp đón xã giao, nhưng là sự đón nhận trong lòng yêu mến của tâm hồn, đã là một sự hiện diện và ngự trị trọn vẹn của Chúa nơi tâm hồn ông. Chỉ cần có thế thôi, chỉ cần lòng người đừng khép lại, nhưng có một chút quảng đại, một chút thiện chí, là Chúa đã có thể ngự vào.
Chúa là Thiên Chúa giải thoát như đã từng giải thoát dân của Người và giải thoát tâm hồn Đức Maria, đã ngự đến trong lòng, đến trong gia đình Giakêô giải thoát ông, giải thoát gia đình ông.
Những hình ảnh thật cảm động mà thánh Luca đã diễn tả qua lời đối thoại của Chúa Giêsu và hành động của Giakêô: “Một người tên là Giakêô, đứng đầu những người thu thuế… chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Chúa Giêsu… Người nhìn lên và nói với ông: ‘…Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông’. Ông vội vàng tụt xuống, mừng rỡ đón rước Người… Ông Giakêô đứng và thưa với Chúa: ‘…Phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo… Tôi xin đền gấp bốn…”, cho thấy hạnh phúc của kẻ tội lỗi là biết nhận ra mình tội lỗi.
Ông hạnh phúc đến độ, đường đường là quan chức, trưởng của cả một đội thu thuế, vậy mà hành động như một đứa bé: lăng xăng chạy về phía trước để thấy Chúa bằng được. Không thể nhìn thấy, ông trèo lên cây, ngồi trên đó mà nhìn xuống.
Đến khi nghe Chúa gọi, ông lại tụt xuống mừng rỡ trước mặt Người. Ông ngỡ chắc chẳng ai thấy mình vắt vẻo trên nhánh sung. Nhưng ông lầm. Chúa đã thấy ông. Người thấy ông trước khi ông thấy Người. Chỉ với lòng ham muốn gặp gỡ Chúa, Giakêô quên hết, và gác một bên mọi danh dự, chức bậc mình đang có.
Niềm hạnh phúc bất ngờ làm ông ngây ngất. Đường từ gốc sung về nhà ông xa hay gần, ta không rõ. Nhưng chắc chắn đó là con đường đầy ắp niềm vui.
Kể từ đó, ông ý thức thân phận nhỏ nhoi, không phải vì thấp bé, nhưng vì ông biết mình chỉ là người bất xứng; dưới mắt mọi người, chỉ là kẻ tội lỗi, gian ác.
Nhưng suy cho cùng, người bị coi là tội lỗi, gian ác như ông, lại nhận biết mình đến vậy, vẫn là người tốt hơn bất cứ ai chỉ thấy mình cao trọng trong sự thanh sạch, khỏe khoắn trong đường nhân đức, mạnh mẽ trong cơn cám dỗ, lớn lao trong đời sống đức tin, để rồi ngủ vùi trong tự mãn, không thấy bản chất thật của thân phận yếu đuối.
Phía Thiên Chúa, chỉ cần Giakêô có một thoáng nhận ra thân phận mình thôi, Người đã đến với ông.
Ta cũng được như thế, nếu biết mang lấy tâm tình của Giakêô. Thực ra, Chúa vẫn có đó, Chúa chờ ta mở lòng mình để Người xóa khoảng cách tưởng xa vô cùng của Đấng là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối với con người tội lỗi.
Chúa cao sang là thế lại vui mừng quá đỗi khi được ta đón nhận và được trú ngụ trong nhà tâm hồn ta. Vì nếu Chúa nói với Giakêô: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”, Người cũng nói với ta như thế, khi ta biết để Chúa ngự trong ta. Vì Người là Đấng giải thoát, Người ngự nơi đâu, nơi đó được giải thoát.
Nhưng trong lịch sử cứu độ đâu chỉ có dân Chúa, hay Đức Maria, hay ông Giakêô được Chúa giải thoát. Thánh Mathêô, thánh Phaolô, thánh Maria Mađalêna, thánh Augustinô… và không biết bao nhiêu người con của Hội Thánh đã vươn lên từ trong những chặng đường tối tăm nhờ ơn giải thoát của Thiên Chúa.
Cũng vậy, hôm nay nếu có Chúa ở cùng, bạn và tôi sẽ được Người giải thoát khỏi mọi vướng bận của trần gian, của những u mê lầm lạc. Hãy để Chúa ở cùng. Thực ra, Chúa vẫn ngự trong tâm hồn mỗi người. Chỉ cần gìn giữ Thiên Chúa trong cuộc đời mình, ta sẽ hạnh phúc, mạnh mẽ, đáng yêu như Chúa muốn.
Cách hay nhất để giữ ơn Chúa trong đời mình, chẳng cao xa hay khó thực hiện, mà vẫn chỉ là những gì Hội Thánh dạy: chuyên chăm cầu nguyện, siêng năng lãnh bí tích, giữ luật Chúa, luật Hội Thánh, thực hiện bác ái yêu thương với mọi anh em… Ước mong ơn giải thoát của Chúa luôn sống mãi trong ta để ta luôn thuộc về Chúa.
.
Lm Gia-cô-bê Tạ Chúc
Một cuộc gặp chẳng hẹn mà hò, hay có thể nói cuộc hội ngộ quá bất ngờ giữa Chúa Giê-su với viên thuế vụ Gia-kêu. Không biết vô tình hay hữu ý mà Chúa Giê-su đi ngang qua thành Giê-ri-kô, nơi làm việc của ông giàu có Gia-kêu. Từ đây câu chuyện thêm li kỳ và có thể là hiếu kỳ, khi có quá nhiều bất ngờ xảy ra.
Bất ngờ với Gia-kêu
Ông không nghĩ mình sẽ có diễm phúc để gặp được Chúa, khi Ngài đi ngang qua. Vốn là một viên thu thuế mà lại là trùm nữa. Dưới cái nhìn của những người Do Thái. Gia-kêu là người tội lỗi, ông bị mọi người ghét bỏ, lên án và xa lánh. Có lẻ cũng đôi chút mặc cảm, nhưng cũng có khi do hoàn cảnh, công ăn việc làm mà ông đành chấp nhận vậy. Đã vậy, ông còn có một chiều cao hơi khiêm tốn, trước đám đông đang bủa vây Chúa Giê-su, làm sao có thể nhìn thấy Chúa, nếu không đứng ở một vị thế cao hơn mọi người. Nực cười cái sáng kiến hết sức “ hai lúa” của Gia-kêu. Trèo lên nhành cây sung để nhìn Chúa Giê-su khi Ngài đi ngang qua. Và cũng thật thi vị, Đức Giê-su dừng lại và nhìn lên Gia-kêu. Lúc này đám đông như khựng lại, có lẻ không ai ngờ Chúa Giê-su lại dừng lại cách đột ngột như thế. Xem ra có điều gì đó từ bốn ánh mắt gặp gỡ, và cấu thành dòng điện chạy vào con tim. Lúc này đây, vị thế, cách thức, hay mọi ánh nhìn thành kiến xung quanh, không còn ý nghĩa gì. Đức Giê-su không đi nữa Ngài quyết định dừng lại, và lưu lại nhà của Gia-kêu.
Bất ngờ với những người xung quanh
Một pha cứu thua trông thấy, nếu Chúa Giê-su không đứng lại và mở lời: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !” (Lc 19,5), thì chắc Gia-kêu bẽ mặt vô cùng. Mọi người sẽ được phen ném gạch đá dư luận về ông. Vốn đã xấu thi giờ lại xấu hơn nữa. Nhưng không, Đức Giê-su thấy rõ lòng dạ của con người, và những kiếp người. Điều ngược lại đã xảy ra, đám đông dân chúng không thể tin vào mắt mình: Đức Giê-su đã bỏ lại đằng sau, 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc. Ngài vào nhà và cùng ăn uống với gia đình ông Gia-kêu. Hôm đó chắc các ông kinh sư, Pha-ri-siêu, luật sỹ…giận Chúa Giê-su lắm, vì quá bất ngờ khi Ngài lưu lại nơi gia đình của một người tội lỗi.
Bất ngờ vì được ơn cứu độ
Như trong một giấc mơ, Gia-kêu đâu dám mơ cao, nhưng nào ai có thể biết được, ơn cứu độ đã được mang đến cho ông : “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Một ngày hồng phúc cho Gia-kêu, chắc ông đã nở một nụ cười viên mãn, sau bao nhiêu năm tháng đợi chờ, và “ Hôm nay”, một từ ngữ hết sức quen thuộc trong Kinh Thánh lại thuộc trọn về viên thu thuế Gia-kêu.
Tìm thì sẽ gặp, gõ thì sẽ mở cho, trong cuộc sống hằng ngày, xin cho mỗi chúng con biết đi tìm Chúa, qua ơn gọi mà Chúa ban cho từng người. Đối với Chúa, chúng con là vô giá, duy nhất và không thể thay thế. Chúa luôn đi tìm chúng con, xin cho lòng chúng con khắc khoải cho tới khi được an nghỉ trong Chúa. Amen.
.
NGHỆ THUẬT CẢM HÓA LÒNG NGƯỜI CỦA CHÚA GIÊ-SU
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Đứng trước tội nhân hay những người sa ngã, hư hỏng, dư luận xã hội thường lên án, khinh miệt, loại trừ… Đó là thái độ vốn có của những người Do-thái có tiếng là đạo đức như các thầy tư tế, các luật sĩ và biệt phái đối với những người tội lỗi như Gia-kêu.
Ngay cả Chúa Giê-su, dù Ngài chỉ tiếp đón những người tội lỗi thôi thì cũng đã bị tai tiếng rồi. Khi “Các người thu thuế và các người tội lỗi lui tới với Đức Giê-su để nghe Ngài giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” (Lc 15, 1-2)
Chính thái độ khinh thị và loại trừ người tội lỗi như thế lại càng xô đẩy người sa ngã lún sâu hơn trong tội lỗi của mình. Cư xử như thế là dìm xuống chứ không phải là nâng lên. Còn về phần Chúa Giê-su, Ngài có cách cư xử rất đẹp đối với người tội lỗi và chính cách cư xử cao nhã nầy có một sức cảm hoá thần diệu. Cung cách đối xử của Chúa Giê-su là niềm nở tiếp đón và trân trọng họ, coi họ như bạn bè. Thế nên dư luận hồi ấy đã xem Ngài “là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11,19)
Chúa Giê-su thừa biết Gia-kêu là ai và thuộc hạng người nào, nhưng Chúa Giê-su không nhìn Gia-kêu bằng ánh mắt khinh miệt của người Do-thái, nhưng đối xử với ông bằng tấm lòng trân trọng và yêu thương.
Khi thấy Gia-kêu vắt vẻo trên cành cây chờ xem Chúa Giê-su đi qua, Chúa vui vẻ thân mật vẫy chào ông trước: “Này ông Gia-kêu…”
Chúa Giê-su gọi đích danh ông như đã từng quen biết từ lâu. Việc gọi tên thân mật nầy khiến ta nhớ lại lời Chúa Giê-su nói về quan hệ gắn bó giữa người chăn chiên tốt và đoàn chiên của mình: “Chiên nghe tiếng của anh và anh gọi tên từng con chiên” (Ga 10,3).
Rồi Chúa Giê-su tiếp: “Xuống mau đi!” Đây không hẳn là lời thúc giục mà chỉ là lời thân mật giữa bạn bè. Rồi Chúa Giê-su lại muốn thắt chặt mối tình bằng hữu qua việc cùng ăn uống đồng bàn với Gia-kêu, và hơn thế nữa, đề nghị ở lại tại nhà ông để rộng giờ hàn huyên tâm sự: “Hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông.”
Sáng kiến tình yêu của Chúa Giê-su lúc đó chắc hẳn phải khiến cho Gia-kêu sửng sốt. Một bậc thầy khả kính và danh tiếng như Đức Giê-su mà lại đến trọ tại nhà một người tội lỗi như Gia-kêu ư? Chuyện thực mà tưởng như mơ! Thế là Gia-kêu vô cùng sung sướng đón tiếp Đức Giê-su vào nhà mình.
Thái độ yêu thương, trân trọng và quý mến của Đức Giê-su đối với Gia-kêu đã làm cho ông đổi đời thật sự, một sự thay đổi tận căn ít ai ngờ tới.
Bấy giờ Ông Gia-kêu đứng lên thưa với Chúa rằng : “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Dám đem nửa phần gia sản lớn lao của mình trao ban cho người nghèo khó, lại chấp nhận đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra… quả là một quyết định anh hùng! Thế là từ một người đáng khinh, Gia-kêu bỗng trở thành một người rất đáng khâm phục!
Kho tàng văn học thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.
Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!” Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.
Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người rất khôn khéo mà Chúa Giê-su đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Gia-kêu, biến cải một con người tưởng là ‘hết thuốc chữa’ trở thành một người mới rất đáng khâm phục.
Lạy Chúa Giê-su, trước người lầm lỗi,
Xin cho chúng con thay thế những lời kết án bằng những lời lẽ yêu thương;
Xin cho chúng con biết thay đổi cái nhìn khinh khi bằng cái nhìn tôn trọng;
Xin cho chúng con biết thay thế thái độ xa lánh bằng thái độ tiếp đón ân cần…
Nhờ đó, chúng con sẽ tạo cơ hội cho nhiều anh em lầm lỗi có cơ may phục thiện và đổi mới cuộc đời.
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Điệp khúc trong ca khúc ‘ Gặp Gỡ Đức Kitô’, Lm nhạc sĩ Tiến Lộc đã cảm nhận: “ Gặp gỡ Đức Ki tô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình, Gặp gỡ Đức Kitô, nẩy sinh tình đệ huynh.” Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu hôm nay biểu lộ những tâm tình qua điệp khúc ấy.
Trước tiên, ông Giakêu là ai? Ông là người đứng đầu những người thu thuế. Ông giàu có. Nhưng đối với dân chúng ông là một người tội lỗi, vì ông là người tiếp tay với đế quốc Lamã để bóc lột người ghèo và có thể ông trở nên giàu có vì những việc bất chính trong nghề nghiệp của ông. Nhưng trong địa vị xa hoa, giàu sang ấy, hình như ông vẫn chưa thỏa mãn với chính mình. Tự nơi thâm sâu của lòng mình, ông vẫn cảm thấy có một sự trống vắng. Người ta lánh xa thù ghét ông như một phường tội lỗi. Ông nghe dân chúng nói nhiều về ông Giêsu nào đó có quyền lực làm được những việc lạ như cho kẻ chết sống lại, chữa nhiều tật bệnh mà các thầy thuốc đều bó tay… Thế rồi một lần nghe nói ông Giêsu sẽ đi qua thành phố Giêri khô, ông quyết định phải xem cho được nhân vật nổi tiếng ấy.
Ông Giakêu âm thầm trong đám đông để tìm gặp Chúa. ông không dám xuất đầu lộ diện trước quần chúng, hơn nữa ông lại lùn; đám đông sẽ che khuất tầm nhìn của ông. Khi thấy Chúa sắp đi qua, ông liền chạy đến phía trước, leo lên một cây sung. Có thể ông tìm biết Chúa vì tò mò, nhưng từ sự tò mò ấy, ông đã nhận được ơn hoán cải cuộc đời.
Ông đi tìm biết Chúa, nhưng Chúa lại là người đi bước trước. Chúa đã xóa bỏ ranh giới giữa người tội lỗi và người công chính. Dù chưa một lần quen biết, nhưng Ngài đã biết tên ông; và giữa đám đông đang bao quanh, dù ông leo lên cành cây cao, Ngài vẫn thấy ông, đã gọi đúng tên ông và còn gợi ý với ông: “ Hôm nay tôi sẽ ghé nhà ông.” Làm sao một Đấng thánh thiện lại bất kể dư luận để ghé đến nhà một người mà ai cũng cho là tội lỗi, đáng khinh bỉ như thế! Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Ngài. Còn đám đông lại xầm xì : “ Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Chúa thì xóa bỏ ranh giới giữa người tội lỗi, còn dân chúng lại phân cách với người tội lỗi! Ông mau chóng nhận ra Đấng ấy không phải là một người xa lạ, nhưng là một Đấng gần gũi, khoan dung. Qua việc ghé thăm nhà ông, ông đã đón nhận được ơn cứu độ, được trở thành con cháu Ápraham. Ông đã quyết định chia phân nửa gia tài cho người nghèo và đền bù gấp bốn lần cho những ai ông đã làm thiệt hại. Làm sao một người thu thuế bị mang ta mang tiếng như thế mà trong chốc lát đã có những hành động cách mạng đổi đời. Tiền bạc, địa vị gây cho ông tội lỗi, thì ông lại lấy chính kết quả ấy mà đền bù tội lỗi của ông. Tất cả cũng phát xuất từ lòng thương xót và bao dung của Thiên Chúa. Ông đã nhận ra ân huệ ấy. Giữa ông và Đấng Giêsu không còn gì ngăn cách. Ông tìm và ông đã gặp Thiên Chúa qua lòng yêu thương và khoan dung của Ngài.
“Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên.” (Kn 11:24) “ Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.”( Kn 12:2). Đáp lại khát vọng muốn tìm gặp Chúa, Chúa đã đi bước trước để đến với ông. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô đã mau chóng biến đổi cuộc đời ông qua cái nhìn yêu thương, tha thứ và khoan dung của Thiên Chúa.
Là những người Kitô hữu, chúng ta cũng đã gặp Chúa, nhưng chúng ta đã biến đổi hay vẫn cứ sống theo nếp sống cũ như người chưa gặp Ngài! Cuộc gặp gỡ Chúa đã làm biến đổi cuộc đời ông Giakêu. Ông đã đón nhận ơn tái sinh và từ đó ông đã nẩy sinh đệ huynh. Còn chúng ta thì sao?
.
Lm. Jos. DĐH.
Đôi mắt, trái tim, sẽ phản ứng rất nhanh nhạy, khi chúng lên tiếng yêu thương, ví như các nhạc sĩ biết hòa trộn lời ca vào âm giai mùi mẫm : đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn ; và con tim đã vui trở lại. Tình yêu đến, có thật là làm cho “mắt sáng” và “tim rung” lên vì sung sướng không ? Ở đây tình yêu nơi “chú lùn”, Đức Giêsu và cả số đông hôm xưa hôm nay, đều ngỡ ngàng bởi lời nói và hành động của ông. Chúng ta đôi lúc vẫn lẫn lộn giữa tình ái và tình yêu, thực ra, tình đời hay tình người cũng dễ biến ta nên dại khờ, lãng mạn, trước tình yêu thật đang lý giải tâm trạng nơi tâm hồn ta.
Cách tiếp cận khá ngộ nghĩnh về “chữ tình” được tỏ bày nơi chú lùn tên Giakêu, Đức Giêsu đã lấy tình yêu để đáp đền cho hành động rất “trẻ con” của ông. Khi đến nơi, Chúa Giêsu nói : “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông !” Nét độc đáo giữa hai người yêu nhau, họ hiểu, họ nhận biết việc phải làm qua ánh mắt, sự rung động của trái tim, không cần phải dùng đến ngôn ngữ hoa mỹ nào cả. Tục ngữ có câu : xanh vỏ đỏ lòng. Đức Giêsu mời gọi đám đông chúng ta, hãy cùng Ngài nhìn Giakêu bằng ánh mắt nhân từ, yêu thương, đừng nhìn ông là tên thu thuế tội lỗi gian tham, bớt xén hại dân…
Tình yêu đến, tình yêu làm thay đổi hình ảnh Giakêu người thu thuế, tình yêu nơi ông trở nên dại khờ, xứng tầm với hình ảnh mới : xem mặt đặt tên. Tình yêu đến, tình yêu không thể im lặng khi người ta nhận mà quên cho đi, tình yêu thật biến đổi ông Giakêu trưởng thành trong đức tin và đức ái. “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản tôi, tôi xin chia cho người nghèo, và nếu tôi chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Tình yêu đến nơi người thu thuế, sẽ không còn là “rung rinh”, với ý nghĩ làm cho két sắt to lớn hay thu tích thêm tiền tài. Chữ tình ở Giakêu sẽ thơm và mùi bền vững hơn từ sâu thẳm tâm hồn, được ông xem là trách nhiệm, là công bằng.
Tình yêu thật không có ranh giới giầu nghèo, không “loáng thoáng” bởi vẻ đẹp hay tính hào phóng bề ngoài ; tình yêu thật không cần thỏa thuận hay điều kiện, mà là cho đi, là chia sẻ. Chúa Giêsu không đến để kêu gọi người thánh thiện đạo đức, Chúa không đến vì người giầu có địa vị, cũng không đến vì ông Giakêu thấp bé, Ngài đến ban “tình yêu cứu độ” cho muôn dân. Cuộc gặp đầy tình yêu thương giữa Đức Giêsu và cuộc hoàn lương trở lại nơi ông Giakêu sẽ còn là giai điệu rung động mọi thời, các bạn đừng lầm tưởng cứ trái đỏ là chín, cứ trái thơm đều là quả mít.
Tiền đến, thần tài đến, tình yêu đến, đều mang chung một ý là vận may đang tới, Đức Giêsu có vô tình đi ngang qua chỗ Giakêu hay không, nếu nghi ngờ, hãy hỏi các nhà chuyên môn. Nơi Giakêu, tự câu truyện đã cho biết ông rất muốn được nhìn xem Thầy Giêsu, vì sợ không nhìn được Thầy, ông đã chủ ý trèo lên cây sung với hy vọng nhìn thấy rõ. Lộ trình Đức Giêsu đi không hề mờ ảo trước đám đông dân chúng, nhưng với Giakêu, cường độ bất ngờ mỗi lúc một tăng dần, từ ánh mắt Chúa dõi nhìn, đến việc gọi tên, và tỏ ý ở lại nhà ông.
Thực hư của quan niệm : nhất lé nhì lùn, mẫu người bị tiếng là xấu người xấu nết, dịch nghĩa rộng hơn, không thể tìm ra người hiền tài trong số “bần nông”, khó thấy người tốt nơi hình ảnh khó coi. Ca dao cũng có câu đáng để ta bớt hồ đồ : tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. Người thấp bé không thẩm mỹ, không áp đặt được “đại chúng”, nhưng chú lùn Giakêu đã minh chứng ông không tầm thường, không thể để cái đẹp hình thức đè bẹp nét đẹp tâm hồn của ông. Tình đến, tình đi, hay tình ở lại, tùy tự do của mỗi người. Tình yêu đến với Giakêu, ông đã trân trọng đón nhận, cộng tác và làm cho Tình Giêsu thực sự biến đổi ông nên người toàn diện trong công bằng của đức ái.
Nếu đặt câu hỏi, vì cớ gì Thầy Giêsu đến đồng bàn với người thu thuế, ta sẽ có câu trả lời của Thầy : vì Ta mang tình yêu đến thế gian để cứu chữa những gì đã hư mất. Nếu hỏi Giakêu, ông “tỉnh hay say đó”, cớ sao ông hào phóng đến độ bỏ phân nửa tài sản, bỏ nghề, chỉ vì một lần gặp Vị Thầy Giêsu ? Nếu được trả lời, ông sẽ trả lời ngắn gọn súc tích : bỏ tiền của chưa là gì đâu, tôi còn muốn bỏ mình vì tình yêu Ngài mang tới cho tôi. Vì gặp Ngài tôi sung sướng như thể Rồng đến nhà tôm, như tôi đang sắp chết chìm trong “biển trần” gặp được “phao cứu hộ”. Các bạn hãy mang tình yêu của mình đến với Ngài, các bạn cũng sẽ có cảm nghiệm về tình yêu của Đấng cứu độ, các bạn sẽ vui sướng hạnh phúc và từ bỏ như tôi. Amen.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong những tuần vừa qua, cả nước hướng về miền Trung để chia sẻ với đồng bào những khốn khó do nhân tai và thiên tai gây ra khiến cho hàng chục ngàn người bị ngập lụt, đói khát. Nhờ các trang mạng xã hội, chúng ta có thể thấy, người dân Việt Nam có một tấm lòng hết sức quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với đồng bào ruột thịt. Một anh chàng MC Phan Anh kêu gọi trên facebook chỉ một ngày mà số tiền mọi người nhờ anh chuyển ra miền Trung đã gần 20 tỉ. Còn rất nhiều các cá nhân, tổ chức tư nhân khác nữa cũng đem những nhu yếu phẩm ra cho đồng bào. Những thông tin ấy cho thấy tấm lòng quảng đại chạnh thương của rất nhiều người. Ngược lại cũng có những người đã ăn chặn những đồng tiền đóng góp đó. Một số cán bộ tìm cách cho con cháu, người nhà của mình được nhận quà, còn người nghèo thực sự thì không được, hoặc bị ăn chặn dưới nhiều hình thức. Hành động này cho thấy sự gian dối, vô cảm và ác tâm của những người có trách nhiệm.
Ông Giakêu ngày xưa, dù là một quan chức chính quyền giàu có, là đội trưởng đội thu thuế, nhưng trong cộng đồng Do Thái, ông đã bị coi thường, bị tẩy chay, loại trừ. Ông bị coi là hạng tội lỗi, bởi vì ông thường xuyên tiếp xúc với dân ngoại, đã gian tham để trở nên giàu có. Ông bị khinh coi như những kẻ tham ô phản quốc.
Dù trong mắt người Do Thái, ông là kẻ tội lỗi, nhưng ông lại có một tâm hồn rất đẹp và thiện chí. Ông chỉ nghe đồn về thầy Giêsu nhưng chưa có dịp gặp Ngài. Hôm nay có cơ hội, thầy Giêsu đi ngang qua, không phải vì tò mò cho bằng ông đã nuôi trong lòng sự khát khao tìm kiếm Ngài, ông đã quyết định xem cho biết Đức Giêsu là ai. Lọt trong một đám rất đông, lại vì thấp bé, ông không mặc cảm tự ti hay tự ái, ông quyết định trèo lên cây sung bên đường để xem Đức Giêsu sắp đi ngang qua.
Trong lúc mọi người không quan tâm đến sự hiện diện của ông, thì Chúa Giêsu đã nhìn thấy ông. Ánh mắt của lòng xót thương đã chạm đến tâm hồn Giakêu. Ngài thấu suốt thiện chí thành tâm của ông, Ngài gọi ông: Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay, tôi phải ở lại nhà ông. Chúa Giêsu đã đáp ứng hơn cả sự khát mong của Giakêu. Ngài không chỉ nhìn và gọi tên ông, nhưng Ngài còn muốn bước vào nhà ông và ở lại đó.
Thánh Luca cho thấy, lòng xót thương của Chúa Giêu như dòng suối tuôn trào, đã gặp được một mảnh đất khô cằn nứt nẻ đang khát khao dòng nước. Dòng nước đem lại sự tươi mát, hồi sinh cho mảnh đất và còn làm cho mảnh đất trở nên màu mỡ và trổ sinh hoa thơm trái ngọt. Giakêu đã mở lòng để Chúa Giêsu bước vào tâm hồn khô cằn của ông và biến đổi ông. Không quan tâm đến những lời xì xèo của đám đông, Giakêu như một mảnh đất đã hồi sinh, ông đã được biến đổi hoàn toàn nhờ tình thương Chúa dành cho ông.
Trước đây làm nghề thu thuế, Giakêu chỉ biết vơ vét về cho mình ; trước đây chưa biết Chúa, ông hành xử gian tham dối trá để được lợi ; trước đây cuộc đời ông, tâm hồn ông khép kín bởi chức vị, tiền bạc, của cải, nay khi đón nhận lòng thương xót của Chúa, ông đã được biến đổi, đã mở lòng mình, đã để cho tình yêu tuôn chảy đến người khác. Ông đứng lên công khai thưa với Chúa Giêsu: Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa gia sản tôi có để phân chia cho người nghèo; nếu tôi chiếm đoạt của ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn. Với hành động này, ông đã khai thông được sự bế tắc trong tâm hồn, khai thông được ao tù ích kỷ đã tích tụ lâu ngày trong cuộc đời ông. Từ nay, tâm hồn ông như một dòng chảy, đón nhận nguồn nước tình thương từ nơi Thiên Chúa, và để qua ông, dòng chảy tiếp tục lan tràn tình thương đến với người khác, đặc biệt là những người nghèo và những người bị thiệt hại.
Chúa Giêsu đã thấy thiện chí của ông, đã biến đổi ông, Ngài cũng không chịu thua lòng quảng đại của ông. Chúa Giêsu đã tuyên bố: Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Apbraham, vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất. Với lời tuyên bố này, Chúa Giêsu cho thấy ơn cứu độ Ngài đem đến, hôm nay, đã khởi đầu và đã sinh hiệu quả cho Giakêu và gia đình ông. Sự khởi đầu này bắt đầu từ những con người bị coi là tội lỗi, bị loại trừ khinh miệt, nhưng lại có một tâm hồn rộng mở, đã tin và đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu, đã chấp nhận để cho lời Chúa biến đổi nên những con người mới.
Do sự trợ giúp của Thiên Chúa, ông Giakêu đã bước được một bước dài trong đức tin, ông đã tin thầy Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ. Ông tin rằng, khi ông đón Chúa vào tâm hồn và vào gia đình ông là ông có tất cả. Trước đây, ông tìm niềm vui trong công việc, ông cậy dựa vào tiền bạc và địa vị, nay biết Chúa Giêsu và tin Ngài, những thứ kia chẳng còn giá trị gì nữa, ông không giữ lại cho mình, nhưng cho đi tất cả để được Đức Kitô và ơn cứu độ của Người. Chúa Giêsu còn khẳng định: Bởi người này cũng là con cháu Apbraham. Chúa Giêsu muốn cho những người Do Thái khác thấy rằng, họ tự hào là dòng dõi Apbraham, nhưng họ đã không có đức tin như tổ phụ Apraham, không dám bước theo lời mời gọi của Thiên Chúa như Apbraham. Trái lại, ông Giakêu bị mọi người loại trừ, nhưng Giakêu lại tin vào Thiên Chúa, dám từ bỏ quyền lực địa vị và tiền bạc vì tin vào Chúa Giêsu, như thế, Giakêu mới xứng đáng là con cháu Apbraham.
Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người. Lòng thương xót của Chúa không bao giờ bị giới hạn bởi bất cứ sự cản trở nào. Lòng thương xót của Chúa tuôn trào như sương mai rơi trên mặt đất; Ngài không tìm cách hủy diệt con người, cho dù tội của con người có tràn lan thì lòng thương xót của Thiên Chúa như biển cả nhấn chìm tất cả mọi loài mọi vật trong đại dương yêu thương của Ngài. Sách Khôn Ngoan đã khẳng định như thế. Tác giả còn lý luận rằng: Thiên Chúa yêu thương mọi vật mọi loài, không bao giờ chê bỏ nó, vì nếu Chúa không yêu thương nó, thì Ngài đã chẳng dựng nên nó làm chi.
Ánh mắt cảm thông và trái tim chạnh thương của Thiên Chúa đã đụng chạm đến tâm hồn của Giakêu cũng đang dành cho chúng ta. Cái nhìn của Thiên Chúa không bao giờ là cái nhìn thất vọng, nhưng là cái nhìn khích lệ và nâng đỡ, mời gọi chúng ta chỗi dậy đón Người vào nhà và vào tâm hồn mình. Chúa cũng ngỏ lời với mỗi người như Chúa đã nói với Giakêu : Hôm nay, Ta muốn cư ngụ tại nhà con.
Vì thế, hãy sẵn sàng vượt qua tất cả các mặc cảm tội lỗi và những trở ngại là những lười biếng ngại ngùng để mỗi người vui mừng đón Chúa bước vào tâm hồn qua Bí tích Thánh Thể và Thánh lễ mỗi ngày. Có Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ tìm lại được bình an và niềm vui thật sự. Khi có niềm vui và bình an của Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ không còn những bực bội, nóng nảy, cãi vã nữa, nhưng sẽ sống trong niềm vui, cư xử vui tươi và là người đem niềm vui đến cho người khác. Có Chúa bước vào tâm hồn, giống như Giakêu, chúng ta sẽ không tìm kiếm lợi lộc của thế gian, không thu vén về cho mình, không còn chỉ nghĩ đến bản thân, nhưng biết nghĩ đến, quan tâm đến và chia sẻ cho người khác những gì Chúa đã ban cho mình. Có Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ không còn khép kín trong ích kỷ và cái tôi tự mãn, nhưng biết mở lòng ra với anh em để cảm thông và yêu thương.
Hôm nay, tôi muốn cư ngụ tại nhà ông – Chúa đang muốn vào cư ngụ và dùng bữa với mỗi gia đình chúng ta. Hãy mở rộng cửa nhà để mời Chúa bước vào và dành cho Chúa sự tiếp đón chân thành. Mỗi gia đình hãy dành cho Chúa một vị trí trong bàn ăn và trong sinh hoạt của gia đình, làm cho bữa cơm gia đình đậm đà hơn. Hãy cùng trò chuyện, tâm sự với Chúa mỗi ngày qua các giờ kinh, dù đó là một ngày thành công hay một ngày thất bại. Hãy trao đổi với Chúa về những toan tính, dự định của gia đình và tâm sự với Chúa về những vướng mắc, khó khăn của gia đình. Chúa sẽ giải gỡ những khó khăn cho chúng ta.
Tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, noi gương ông Giakêu, hãy mạnh dạn vứt bỏ khỏi gia đình những nóng nảy cãi vã, sự tham tiền tham việc để có nhiều giờ dành cho Chúa và cho nhau hơn, giúp gia đình mỗi ngày nên tốt hơn, ấm cúng, thuận hòa, hạnh phúc hơn. Amen.
.
JM. Lam Thy
Cách đây 2.000 năm, Do-thái bị đế quốc La-mã đô hộ. Chính quyền La-mã lúc đó đòi hỏi mỗi vùng thuộc địa phải đóng một số thuế đã được định trước, và họ cho bán đấu giá quyền thu thuế trong mỗi vùng. Người mua có thể thu thuế từ dân chúng bao nhiêu tùy ý, miễn là đóng lại cho chính quyền La-mã đủ số tiền đã định trước. Dân chúng bị những người thu thuế bóc lột một cách thẳng tay, rút tỉa đến tối đa, để bỏ vào túi riêng của mình. Người thu thuế là những người làm giàu trên xương máu đồng bào mình, vì thế, họ bị coi là hàng ngũ tội lỗi không thể tha thứ được, là người bị khinh bỉ nhất trong xã hội Do-thái lúc đó. Ông Da-kêu là một người như thế và còn hơn thế nữa, là một đầu sỏ của nhóm người tội lỗi này: ông là Trưởng ban Thuế vụ tại Giê-ri-khô. Có lẽ chính ông Da-kêu cũng nhận ra điều này; đàng khác, chắc chắn ông cũng nghe nhiều người kể lại danh tánh một người tên là Giê-su ở làng quê Na-da-rét, tự xưng là Con Thiên Chúa, đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh cho nhiều người, và một điều đặc biệt là ông Giê-su ấy chỉ chuyên đến với những người nghèo hèn, tội lỗi, tù rạc, bệnh hoạn. Vì thế, Da-kêu muốn tìm cách gặp để xem ông Giê-su là người như thế nào và có thực đúng như những lời đồn đại hay không.
Cơ hội đã tới, khi biết người mình muốn tìm sắp đi ngang qua thành Giê-ri-khô, Da-kêu liền chen vào đám đông thực hiện ý định, chỉ hơi tiếc một điều là dân chúng chen chúc quanh Đức Ki-tô thì quá đông, mà ông lại quá… lùn. Nhưng ông quyết không bỏ lỡ cơ hội, bèn tìm cách leo lên cây cao để nhìn cho rõ, và đó chính là một sáng kiến xuất phát từ lòng ao ước muốn đạt mục đích. Cũng chính từ lòng ao ước ấy mà ông được toại nguyện còn hơn cả sự mong muốn của mình. Đức Giê-su không chỉ đi ngang cho Da-kêu nhìn thấy, mà Người còn gọi đích danh ông và hứa vào tận nhà ông (“Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” – Lc 19, 5). Quả đúng như lời đồn đại về Đức Giê-su, không những thế, Người còn thực hiện đúng những gì Người đã dạy (“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho.” – Mt 7, 7).
Tất cả những sự kiện xảy ra nhãn tiền đã khiến ông Da-kêu, từ một người mới chỉ nghe danh và tò mò muốn biết Đức Ki-tô là ai và là người như thế nào, đã trở thành một người vững tin và quyết tâm sám hối, sửa chữa lỗi lầm của mình (“Thưa Ngài, đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” – Lc 19, 8). Hành động ấy đã khiến Đức Giê-su xúc động và nói về ông Da-kêu thế này: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” (Lc 19, 9-10). Lời dạy này mang ý nghĩa gì ?
Có 2 điều cần suy gẫm: Thứ nhất, ông Da-kêu là con cháu tổ phụ Ap-ra-ham, mà tổ phụ Ap-ra-ham là con cái Thiên Chúa, nên ông Da-lêu cũng là con cái Thiên Chúa. Đã là con cái Thiên Chúa thì tất cả đều bình đẳng trong ân nghĩa Chúa, hay nói khác hơn, đã là con cái Thiên Chúa thì tất cả đều được cứu độ, dù cho có bị lạc đường vì tội lỗi thế nào mặc lòng (xc “Con chiên lạc” – Mt 18,12-14) bởi Chúa đã khẳng định chắc nịch: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19, 8). Tuy nhiên, những con chiên bị lạc đường vì tội lỗi ấy khi được Chúa tìm và vui vẻ vác trên vai trở về, liệu có thực lòng muốn trở về đường ngay nẻo chính hay không? Và đó chính là điểm cần suy gẫm thứ hai: Ông Da-kêu khi được gặp Chúa, được Chúa lại thăm tận nhà, ông đã sáng mắt sáng lòng hiểu ra con người thực của mình chứa đầy tội lỗi nhuốc nhơ, hiểu được chính Con Người mà ông tò mò muốn biết là Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian, nên ông đã thực lòng ăn năn sám hối và đã được cứu độ. Tất cả gói ghém trong Ánh mắt xót thương của Đấng giàu lòng thương xót.
Đó là ánh mắt biểu lộ sự quan tâm đặc biệt: Da-kêu thật thấp bé, nên ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Và thật lạ lung, giữa đám đông người chen chúc, dù Da-kêu thấp bé, Chúa vẫn nhìn thấy ông, lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Da-kêu, chắc chắn sẽ làm ông cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa. Đó là ánh mắt khiêm nhường: Cảnh Chúa ngước lên nhìn Da-kêu, thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên người thấp bé. Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân. Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời. Đấng tha tội phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Da-kêu chắc chắn phải choáng ngợp vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.
Chúa Giê-su còn nhìn Da-kêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng Da-kêu sẽ nên người tốt, sẽ làm lại cuộc đời, nên Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha, quên đi quá khứ tội lỗi của ông, mà hướng về tương lai tốt đẹp. Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan tâm tới Da-kêu vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai. Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng. Nói cách cụ thể thì đó chính là Ánh Mắt Xót Thương của Đức Giê-su – hiện thân Lòng Chúa Thương Xót.
Suy niệm bài Tin Mừng hôm nay (CN XXXI/TN-C), người tín hữu thấy rõ được 2 ánh mắt xuất phát từ 2 phía: Ánh mắt của Da-kêu là ánh mắt tin tưởng, phó thác đã “dán chặt vào Chúa Giê-su”. Đối lại với ánh mắt Da-kêu là ánh mắt Đức Giê-su nhìn thấu tâm can Da-kêu nên đã chủ động tìm ông vì Người không muốn ông sống mãi trong tình trạng tội lỗi; đó là ánh mắt nhân từ thương xót. Vâng, chính “Ánh mắt yêu thương của Chúa đã cứu Da-kêu và Mat-thêu khỏi vòng nô lệ tiền bạc; đã giúp người đàn bà ngoại tình và Ma-đa-lê-na không còn kiếm tìm hạnh phúc nơi thụ tạo; đã khiến Phê-rô khóc lóc vì trót phản bội Chúa, và đã hứa Thiên Đàng cho người trộm cướp có lòng ăn năn.” (Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót). Quả thật “Với đôi mắt của chúng ta dán chặt vào Chúa Giê-su và ánh mắt xót thương của Ngài, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Sứ vụ của Chúa Giê-su được Chúa Cha trao phó là mạc khải mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa trong sự viên mãn của tình yêu ấy. “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 8.16).” (Tông chiếu Dung Mạo Lòng Thương Xót “Misericordiae Vultus”, số 8).
Như vậy là đã rõ, Lòng Thương Xót Chúa tuôn đổ tràn đầy, không phân biệt nội ngoại, giàu nghèo, sang hèn. Vấn đề đặt ra là anh có nhận ra và phân biệt được đâu là thật và đâu là giả giữa cõi đời chân giả khôn phân này hay không mà thôi. Và khi đã phân biệt được chân giả, thì biết tìm đến chân lý với tất cả lòng tin, với tất cả thiện chí. Chỉ đến khi đó, Thiên Chúa sẽ “…dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin” (2Tx 1, 11). Chắc chắn sẽ có một cuộc đổi đời xảy đến với anh cũng như đã xảy đến với ông Da-kêu thủa xưa. Cũng bởi vì “danh của Chúa chúng ta là Đức Giê-su, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giê-su Ki-tô.” (2Tx 1, 1). Ước được như vậy. Xin cùng dâng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã dạy chúng con phải thương xót như Cha trên trời, và cho chúng con biết: ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha. Xin tỏ cho chúng con thấy nhan thánh Chúa và chúng con sẽ được cứu thoát. Ánh mắt yêu thương của Chúa đã cứu Da-kêu và Mat-thêu khỏi vòng nô lệ tiền bạc; đã giúp người đàn bà ngoại tình và Ma-đa-lê-na không còn kiếm tìm hạnh phúc nơi thụ tạo; đã khiến Phê-rô khóc lóc vì trót phản bội Chúa, và đã hứa Thiên Đàng cho người trộm cướp có lòng ăn năn. Xin cho chúng con biết lắng nghe, như chính Chúa đang gửi đến mỗi người chúng con, những lời Chúa đã nói với người phụ nữ Samaria: “Nếu chị biết nhận ra ơn Chúa!”
Chúa là gương mặt hữu hình của Chúa Cha vô hình, gương mặt của Thiên Chúa đang đem lòng xót thương và tha thứ mà biểu lộ uy quyền trên mọi sự: xin cho Hội Thánh được nên gương mặt hữu hình của Chúa nơi trần gian, gương mặt của Chúa sống lại hiển vinh. Chúa đã muốn các thừa tác viên của Chúa cũng phải khoác lên người sự yếu đuối để biết đồng cảm với những người đang sống trong u mê và lầm lạc: xin cho mọi người đến với các thừa tác viên đều thấy mình được Thiên Chúa tìm kiếm, yêu thương và tha thứ.
Xin Chúa gửi Thánh Thần đến và xức dầu thánh hiến mỗi người chúng con, để Năm Thánh Lòng Thương Xót này trở thành năm được Chúa ban ân sủng, để Hội Thánh Chúa được thêm lòng nhiệt thành mang Tin Mừng đến với người nghèo, loan báo tự do cho những người bị giam cầm và áp bức, và cho người mù lại được nhìn thấy. Nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, chúng con nguyện xin Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen. (Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót)
.
SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA TÌNH THƯƠNG
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
(1) Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. (2) Và kìa, có một người tên là Da-kêu. Ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. (3) Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông lại lùn. (4) Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó. (5) Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. (6) Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. (7) Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” (8) Còn ông Da-kêu thì đứng mà thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo. Và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. (9) Đức Giêsu nói với ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham. (10) Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
Bài Tin mừng hôm nay nhằm chứng minh Đưc Giêsu là Đấng Thiên Sai, với sứ mệnh “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Cụ thể là ông Da-kêu thủ lãnh các người thu thuế ở Giê-ri-khô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm, nên ông đã gặp được Người và được Người ưu ái đến ở trọ tại nhà ông. Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã quyết tâm hoán cải, thể hiện qua việc tình nguyện quảng đại chia phân nửa gia sản phân phát cho người nghèo và sẵn sàng đền bù cho những người đã bị ông làm thiệt hại trước đây.
– C 1-4: + Đức Giêsu vào thành Giê-ri-khô và đi ngang qua thành: Giê-ri-khô là một thành phố cách Giêrusalem 37 cây số. Có hai thành Giê-ri-khô: Một thành cũ đã bị ông Gio-su-ê phá huỷ, và một thành mới do vua Hêrôđê xây dựng cách nơi cũ không xa. + Có một người tên là Da-kêu: Tên Da-kêu nghĩa là “Người trong sạch”. Ong đứng đầu ngành thu thuế tại thành Giê-ri-khô, nên bị người Do thái liệt vào hạng người tội lỗi.
– C 5-7: + Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”: Đức Giêsu đã biết rõ về con người của Da-kêu trước khi ông gặp Người. Người đã nhìn thấy ông giữa muôn người, biết tên và công khai gọi tên ông. Nhất là Người còn đến ở trọ tại nhà của ông. + Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người: Cảm động trước tình thương và sự ưu ái quan tâm của Đức Giêsu, ông Da-kêu vội vàng tụt xuống khỏi cây sung và đón rước Người về nhà. Da-kêu chỉ muốn thấy mặt Đức Giêsu, nhưng ông lại được Người thương đến ở trọ tại nhà của ông. Lòng ưu ái của Người vượt quá sự mong ước của ông. + Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !”: Theo quan niệm của người Do thái, ai lui tới giao thiệp với người tội lỗi cũng trở nên ô uế và bị khiển trách (x. Lc 5,30). Ở đây, Đức Giêsu không những đã tiếp xúc nói chuyện, mà còn đến ở trọ tại nhà của ông trưởng ngành thu thuế Da-kêu, nên không tránh khỏi sự xầm xì phản đối của đám đông. Qua hành động này, Đức Giêsu cho thấy sứ vụ của Người là đi tìm và cứu chữa những người tội lỗi mà Da-kêu là đại diện.
– C 8-10: + Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo…: Cảm động trước tình thương của Đức Giêsu, Da-kêu đã biểu lộ quyết tâm hoán cải qua việc đền bù những tội lỗi trước đó. Ông tự nguyện chia nửa tài sản để phân phát cho người nghèo và đền trả gấp bốn lần những thiệt hại đã gây ra, trong khi Luật Môsê chỉ buộc đền gấp bốn cho tội trộm chiên mà thôi (x. Xh 21,37). + Hôm nay Ơn cứu độ đã đến cho nhà này: Nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu mà cả nhà ông Da-kêu đã được cứu độ. + Con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham: Do làm nghề thu thuế nên Da-kêu bị coi là kẻ tội lỗi không còn thuộc về dòng dõi của Áp-ra-ham. Nhưng khi ông đã hồi tâm sám hối, ông lại được Đức Giêsu trả lại quyền được làm con cháu của Tổ phụ Áp-ra-ham như trước. + Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất: Câu này cho thấy sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giêsu là đến để tìm kiếm và giúp những kẻ tội lỗi ăn năn sam hối để được cứu độ.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1) NHỮNG KẺ KHỐN CÙNG (LES MISÉRABLES)
Đây là tựa đề một tác phẩm nổi tiếng của văn hào Vích-to Huy-gô (Victor Hugo), tường thuật câu chuyện về cuộc đời của Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp của giết người đã từng bị ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã phải nếm mùi bị mọi người khinh dể xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; Vào trong nhà trọ thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; Đi qua ổ chó, thấy bộ dạng nhếch nhác râu ria của anh, chúng liền thi nhau sủa inh ỏi… Chỉ khi bước vào nhà Đức giám mục My-ri-ê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa tối thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi lòng tham, nên nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao chuồn mất. Nhìn thay bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền đòi khám xét chiếc túi vải anh đang vác trên vai và nhìn thấy mấy cái chân đèn bằng bạc. Anh liền bị giải đến trước mặt vị giám mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không kết tội, mà còn nhận là đã tặng cho anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu, nhưng con phải sám hối để làm lại cuộc đời”. Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương bao dung của ngài. Anh quyết tâm sám hối và sau đó đã trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau, Văn Giang đã chinh phục được tình cảm của mọi người và còn được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng của thành phố. Sở dĩ ông từ một tên tội phạm trở thành mot người lương thiện và được kính nể là do ông đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục My-ri-ê.
2) SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA TÌNH THƯƠNG:
Trong thiền viện của thiền sư SĂNG–GAI (Sengai) có nhiều đệ tử ở chung. Một đệ tử của vị thiền sư có thói quen thỉnh thoảng nửa đêm leo tường ra ngoài đi chơi với chúng bạn mãi đến gần sáng mới quay lại thiền viện. Một đêm kia, thiền sư Săng-gai đi kiểm tra, thấy một chiếc giường trống, rồi còn thấy một chiếc ghế cao để cạnh bức tường phía bên trong thiền viện. Thiền sư liền dời chiếc ghế kia sang chỗ khác và đứng thế vào chỗ đó. Khi anh đệ tử kia quay về, do không thấy thiền sư đang đứng thế chiếc ghế mọi khi, anh ta đã đặt bàn chân lên đầu thầy Săng-gai làm điểm tựa trước khi nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra sự thể thì anh cảm thấy sợ hãi. Nhưng thay vì trách phạt, thiền sư lại mỉm cười nhỏ nhẹ nói với anh rằng: “Trời về sáng đang trở lạnh. Con mau vào phòng mặc áo ấm vào kẻo bị cảm lạnh nhé !” Cảm động trước tấm long từ bi và tình thương khoan dung của thầy, từ ngày đó người đệ tử kia không bao giờ còn dám tái phạm trèo tường đi chơi nữa. Anh chuyên cần học tập và về sau trở thành một học trò giỏi của thiền sư Săng-gai.
3) SỨC MẠNH CỦA LÒNG SÁM HỐI:
Công tước D’Ossome, phó vương xứ Napoli, nước Ý, Một hôm đi thị sát chiến thuyền Galère do một đội nô lệ ngồi chèo. Họ vốn là các tội nhân nặng bị án khổ sai chung thân. Khi gặp mặt công tước, các tù nhân ai cũng ca thán mình vô tội. Duy chỉ có một tù nhân ở góc phía xa là ngồi cúi đầu không nói một lời. Công tước liền bước đến bên và dịu dàng hỏi han. Anh nói: Thưa ngài, tôi chịu phạt xứng với tội tôi đã phạm và tôi chẳng có gì để bào chữa. Công tước quay sang nói với mọi người đi theo: “Người này đúng là một phạm nhân, anh ta không xứng đáng ngồi chung với những kẻ vô tội. Ta ra lệnh trục xuất tên này ra khỏi nơi đây”. Và thế là, chỉ nhờ vào lòng chân thành hối lỗi mà người tù nhân đã được giải phóng khỏi kiếp sống nô lệ.
Tin mừng Luca Chúa nhật hôm nay thuật lại câu chuyện hoán cải của ông Da-kêu làm nghề thu thuế. Vào thời ấy, những người thu thuế bị xếp chung với bọn trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Hơn nữa, do làm thu thuế phục vụ đế quốc Rôma, nên họ bị dân Do thái đồng hóa với bọn tội phạm và bị khinh dể. Nhưng Đức Giêsu lại có cách hành xử khác đối với những người thu thuế này. Tin mừng hôm nay cho thấy: Người đã gọi đích danh ông Da-kêu, đã đến ở trọ trong nhà ông và còn ngồi đồng bàn ăn uống chung với ông. Việc đó khiến dân chúng có mặt xầm xì phản đối. Tuy nhiên qua lối hành xử như thế, Đức Giêsu cho thấy sứ mạng của Ngài là “đến tìm và cứu chữa những gì bị hư mất”. Cảm động rrước tấm lòng bao dung nhân hậu của Đức Giêsu, ông Da-kêu đã nhìn nhận tội lỗi và quyết tâm sám hối để được nên công chính.
1) “NÀY ÔNG DA-KÊU XUỐNG MAU ĐI”:
Da-kêu là một người giàu có nổi tiếng ở thành Giê-ri-cô. Ông là trưởng ban thu thuế của thành phố này. Dĩ nhiên nếu chỉ là nhân viên làm việc ăn lương thì chắc ông đã không thể giàu có như vậy được. Sở dĩ ông có nhiều tiền là do gian lận móc ngoặc với gian thương trong việc thu thuế. Mọi người đều nhìn Da-kêu như một tội phạm đáng khinh, và chính ông cũng cảm thấy lương tâm bất an. Nghe tin Đức Giêsu sắp đi qua khu vực gần nhà, Da-kêu liền chạy tới gần để nhìn xem mặt Người. Nhưng dân chúng quá đông mà Da-kêu lại lùn thấp, nên ông đã chạy về phía trước, trèo lên một cây sung, hy vọng sẽ nhìn thấy mặt Đức Giêsu khi Người đi ngang qua. Khi tới chỗ Da-kêu núp, Đức Giêsu dừng lại ngước nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Da-kêu không ngờ lại được Đức Giêsu ưu ái biết rõ tên và còn ngỏ ý muốn đến ở trọ tại nhà ông là một người tội lỗi ! Ông cảm thấy rất vui khi được Đức Giêsu phục hồi danh dự trước mặt đám đông luôn ác cảm và khinh dể ông. Còn Đức Giêsu cũng bỏ ngoài tai những lời xì xầm phản đối của nhiều người để đến ở trọ tại nhà một kẻ tội lỗi.
Ơn Cứu độ là kết quả của sự gặp gỡ hai chiều: Thiên Chúa đi tìm và tội nhân tiếp nhận. Nếu Đức Giêsu không đi tìm tội nhân thì chẳng ai có thể được ơn cứu độ: “Vì chưng, Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10). Nhưng dù Đức Giêsu có đi tìm mà tội nhân lại né tránh, thì họ cũng không thể nhận được ơn cứu độ. Trong câu chuyện hôm nay, Đức Giêsu đã đi bước trước khi nhìn lên cây sung tìm kiếm Da-kêu đang ẩn núp và nói chuyện với ông và ông đã mau chóng đáp lại. Cuối cùng ông và cả gia đình đã nhận được ơn cứu độ.
2) “NÀY ĐÂY PHÂN NỬA TÀI SẢN CỦA TÔI, TÔI CHO NGƯỜI NGHÈO…”:
Chính ánh mắt bao dung, lời nói âu yếm và thái độ yêu thương của Đức Giêsu đã đánh động tâm hồn chai lì của Da-kêu, thổi bùng lên ngọn lửa hướng thiện còn đang leo lét trong lòng ông. Quả thật, hoán cải là kết quả của một sự cảm nhận về tình yêu của Chúa. Da-kêu bỗng chốc cảm thấy tâm hồn hân hoan và không còn yêu thích tiền bạc như trước. Ông đã sẵn sàng hiến phân nửa tài sản chia cho người nghèo, đồng thời tự nguyện đền trả gấp bốn những thiệt hại đã gây cho kẻ khác. Xin đền gấp bốn nghĩa là Da-kêu nhận biết tội của ông quá nặng và quyết tâm thực thi công bình bác ái. Dù Da-kêu đã trở nên nghèo hơn, nhưng ông lại cảm thấy hạnh phúc hơn vì đã được Đức Giêsu yêu thương đến ở trọ tại nhà ông và ban ơn cứu độ cho cả gia đình ông. Người còn trả lại cho ông tư cách là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham giống như bao người Do thái lương thiện khác khi phán: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 19,9). Trong bữa tiệc vui hôm đó, tuy không còn giàu có như trước, nhưng Da-kêu đã cảm thấy hạnh phúc hơn. Chắc chắn thân thể ông vẫn còn lùn thấp như trước, nhưng tâm hồn ông đã hóa nên cao thượng hơn gấp bội phần.
3) LIÊN QUAN GIỮA HOÁN CẢI VÀ TỪ BỎ:
Bất cứ một cuộc hoán cải nào cũng đòi phải có sự từ bỏ: Một người lương muốn theo đạo Công giáo thì phải từ bỏ ma quỉ, bỏ các điều mê tín dị đoan, các đam mê tội lỗi… để chỉ tin thờ một mình Thiên Chúa và tin vào Đấng Ngài sai đến là Đức Giêsu Kitô. Một người mắc thói xấu cờ bạc, rượu chè, trai gái, hút sách… muốn hồi tâm sám hối cũng phải quyết tâm chừa bỏ các thói hư ấy. Một người buôn gian bán lận, muốn hoán cải quay về với Chúa cũng phải quyết tâm từ bỏ lối làm ăn gian dối ấy… Con tim của Da-kêu đã được hoán cải nhờ sự quan tâm và đối xử nhân hậu của Đức Giêsu. Thi hào người Đức Goethe (1749-1832) đã viết như sau: “Nếu đối xử với một người như “người ấy là”, thì người ấy sẽ trở nên xấu hơn. Nếu đối xử với người ấy như “người ấy phải là”, hoặc như “người ấy muốn là”, thì người ấy sẽ trở nên tốt hơn”. Đức Giêsu hiểu rằng trong tâm hồn Da-kêu còn có phần tốt, muốn làm điều tốt và có khả năng làm điều tốt, nên Người đã khơi phần tốt ấy lên. Mỗi người chúng ta cũng hãy tự hoán cải bằng cách để Đức Giêsu quan tâm đến ta, nói với ta, đến ở trọ trong lòng ta và đánh động con tim của ta.
4) HIỆN NAY VẪN CÒN NHIỀU DA-KÊU:
Đó là những người bị người khác khinh thường loại trừ như: những kẻ mang tiền án tiền sự, những trẻ em bụi đời lang thang không nhà, những cô gái đứng đường đón khách lúc đêm tối, những người nghiện sì-ke ma túy, những người đang tìm hưởng lạc thú trong những quán bia ôm, mượn rượu giải sầu… Họ cần những người có trái tim bao dung nhân ái như Đức Giêsu giúp họ hoàn lương giống như Da-kêu trong Tin mừng hôm nay. Vậy trong những ngày này chúng ta có thể làm gì cụ thể để tỏ lòng khoan dung yêu thương và giúp họ trở về với Chúa?
– LẠY CHÚA GIÊSU. Ngày nay Chúa vẫn thường đến với chúng con trong hình hài của những người nghèo khó ăn xin, những bệnh nhân liệt giường không tiền chữa trị, những người đau khổ cần được ủi an. Chúa cần chút nước giếng của người phụ nữ Samari để uống cho đã khát; Cần năm chiếc bánh và hai con cá của một bé trai dâng hiến để nhân ra nhiều nuôi năm ngàn người ăn no; Cần căn nhà của Da-kêu để nghỉ qua đêm… Chúa khiêm tốn xin chúng con một chút tiền bạc, một chút lòng hảo tâm, một chút sự thương cảm… để sau đó Chúa lại đổ xuống trên chúng con muôn ngàn phúc lộc thiêng liêng gấp bội.
– LẠY CHÚA. Xin dạy chúng con biết đến với tha nhân, biết khám phá ra đốm lửa của sự thiện còn đang cháy leo lét nơi tâm hồn những người đang lạc xa Chúa. Ước gì chúng con biết nhìn các tội nhân công khai bằng ánh mắt nhân từ bao dung của Chúa, dám hy vọng vào thiện chí hoán cải của họ, và kêu gọi mọi người cùng hợp tác để xua tan cái xấu cái ác ra khỏi gia đình, khu xóm, trường học, và công sở … Nhờ đó, thế giới hôm nay sẽ được biến đổi ngày một tốt hơn, chan hòa tình người hơn và an bình hạnh phúc hơn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Cuộc đời của chúng ta thường có nhiều cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ mà chúng ta biết trước và cũng có những cuộc gặp gỡ bất ngờ. Có những cuộc gặp gỡ chúng ta cố tránh né, nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ mà chúng ta cảm thấy hồi hộp như đi phỏng vấn tại tòa đại sứ để đi đoàn tụ, hay có những sự háo hức mong đợi như về thăm những người thân yêu tại Việt Nam, hay như hẹn hò gặp người yêu, hay gặp một nhân vật nổi tiếng như tổng thống hay Đức giáo hoàng. Hàng tuần chúng ta đến nhà thờ để gặp gỡ Chúa Ki-Tô một cách đặc biệt và thân tình. Chúng ta thấy cuộc gặp gỡ nào cũng để lại những dư âm, những cảm xúc hay có ảnh hưởng đến đời sống chúng ta. Và có những cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa có sức hoán cải hay thay đổi hoàn toàn cuộc sống.
Ông bà anh chị em thân mến. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay mang nhiều tính cách và có kết quả bất ngờ, tuy cuộc hành trình của Chúa có mục đích rõ ràng. Khi đến thời điểm, Chúa Giê-su cương quyết lên Giê-ru-sa-lem để bày tỏ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa Cha cho nhân loại. Trên con đường và không bao lâu, Chúa biết không thể dùng đường tắt mà đi, cũng như phải đối diện với nhiều cản trở và gặp gỡ nhiều hạng người khác nhau. Trước hết, Chúa phải đương đầu với sự khinh bỉ và thù hằn của người Samaritan chống đối không cho Chúa đi qua thành của họ, vì vậy, Chúa phải đi đường vòng khó khăn, nguy hiểm và xa hơn. Sau đó, Chúa phải đối diện với những sự dận dữ, muốn trả thù của các môn đệ. Nhưng với một cử chỉ sửa trách nhẹ nhàng và quyết định đi đường khác, Chúa đã hóa tan những cản trở, những sự thù hằn và chống đối.
Trong khoảng đường còn lại, Tin mừng thánh Lu-ca cho chúng ta thấy Chúa gặp và đương đầu với những tình cảnh khó khăn và những cản trở to lớn khi những người Pha-ri-sêu và luật sĩ thù hằn đưa ra những câu hỏi cố ý đánh lừa để tìm cách hại Người. Ngoài ra, Chúa còn gặp những đầy tớ bất lương, sự chống đối của bà con thân thuộc, đối diện không những với ma quỉ mà còn tướng của ma quỉ, đó là chưa kể tới những sự chống đối và tẩy chay của dân chúng, cũng như sự lo sợ và yếu kém của các môn đệ theo Chúa. Nhưng thánh Lu-ca cho chúng ta biết, Chúa đã trấn an các môn đệ với những lời tăng thêm lòng xác tín của các ông vào Chúa: “Dân chúng sẽ chào mừng các con”, “Satan sẽ rơi xuống từ trời”, “Các con sẽ trừ được rắn độc, bò cạp và quyền lực của ma quỉ, và không có sự gì làm hại được các con”, “Tên các con đã được ghi sổ trên trời”, “Cha Ta sẽ ở cùng Ta”, “Lời cầu nguyện của các con sẽ được nghe lời”, “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống.”
Tin mừng cho chúng ta biết, ngày hôm đó Chúa đang đi trên lộ trình ngang qua thành Giêricô để lên thành Giêrusalem. Ngài chỉ đi như vậy thôi hay là còn có một mục đích nào khác nữa không? Câu chót của đoạn Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa không phải chỉ đi lang thang, mà có mục đích rõ ràng, đó là để “tìm cứu vớt những gì đã hư hỏng”, và ngày hôm đó Chúa đã gặp Gia-kêu. Câu chuyện gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và ông Gia-kêu là một trong những câu chuyện đẹp trong Tin mừng của Thánh Lu-ca. Cuộc gặp gỡ này đã biến Gia-kêu từ một người rất xấu trở nên đẹp lạ thường.
Chúng ta nhận thấy mở đầu câu chuyện gặp gỡ, hình ảnh của Gia-kêu rất xấu vì ông được diễn tả như là một người gian dối tội lỗi, bị dân chúng thù hằn, khinh bỉ và tránh xa. Lý do là vì ông làm nghề thu thuế và còn là thủ lãnh thu thuế và giàu có. Nhưng sau đó vào cuối câu chuyện ông đã thay đổi, một sự thay đổi tuyệt vời làm cho Chúa Giê-su cũng phải nhìn nhận: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ.” Sự thay đổi như thế nào, thì chúng ta hãy nghe chính Gia-kêu thưa với Chúa: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Ông bà anh chị em thân mến. Gia-kêu đã được gặp Chúa và cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời không những của ông mà còn cả gia đình của ông. Đây không phải là cuộc gặp gỡ tình cờ, vì như chúng ta biết đối với Chúa Giê-su, mục đích của cuộc hành trình của Người lên Giê-ru-sa-lem là đem tình yêu, lòng thương xót và ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người. Thế nhưng, chúng ta tự hỏi do đâu hay nguyên nhân nào mà Gia-kêu đã thay đổi cuộc đời như thế?
Chúng ta nhận ra hai yếu tố thúc đẩy và tạo nên sự thay đổi cuộc sống của Gia-kêu. Yếu tố thứ nhất là sự khao khát và thôi thúc của chính Gia-kêu. Có lẽ ông đã nghe nói về lời rao giảng, những phép lạ và con người của Chúa Giê-su, cho nên, khi nghe nói Chúa đi ngang qua thành của mình thì ông tìm cách xem mặt Chúa Giê-su. Ông vội vã chạy tới phía trước, nhưng vì sự cản trở của đám đông dân chúng, và nhất là vì thân hình ông nhỏ bé, cho nên ông leo lên một cây sung để xem Chúa Giê-su. Như Chúa Giê-su đã tìm mọi cách vượt qua những cản trở để lên Giê-ru-sa-lem, ông Gia-kêu cũng đã tìm mọi cách để vượt qua những cản trở trong con người của mình là tội lỗi, và cản trở bên ngoài là đám đông dân chúng, để xem thấy mặt và gặp được Chúa. Tình yêu, lòng thương xót, ơn tha thứ và cứu độ của Chúa luôn sẵn đó, chỉ cần Gia-kêu hay chúng ta, chịu khó và hy sinh tìm đến để lãnh nhận là có ngay. Quả thực, chúng ta thấy chính Gia-kêu đã đóng góp một cách hết sức tích cực và chân thành vào sự biến đổi cuộc đời của ông.
Yếu tố thứ hai tạo nên sự thay đổi cuộc đời của ông Gia-kêu là lòng nhân từ và thương xót của Chúa Giê-su. Tin mừng cho chúng ta thấy, Chúa Giê-su đã nhìn lên và gọi ông xuống mau đi. Hơn nữa, chúng ta thấy Chúa còn muốn tháo gỡ những cản trở của dân chúng chỉ trích về khía cạnh tội lỗi cũng như sự không xứng đáng của ông Gia-kêu, để tạo sự mật thiết với ông và gia đình ông, và đem tình yêu tha thứ và ơn cứu độ đến cho gia đình ông. Vì vậy. Chúa đề nghị đến nhà ông: “Hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi.” Và còn cho ông biết “Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất.”
Ông bà anh chị em thân mến. Tin mừng thánh Lu-ca khẳng định cho chúng ta biết nếu cuộc hành trình của chúng ta thực sự có sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tháo gỡ được những cản trở, thay đổi cục diện, tình huống từ hoàn cảnh xấu trở thành tốt, đầy hy vọng và ơn sủng của Chúa, cũng như có sức mạnh biến đổi cuộc sống người khác, như Chúa đã biến đổi cuộc sống của ông Gia-kêu trong Tin mừng hôm nay. Xin Chúa cho chúng ta cũng có một tấm lòng nhân từ như của Chúa và tấm lòng quảng đại như Gia-kêu. Một chút nữa đây, Chúa Giê-su sẽ đến và ngự trong tâm hồn chúng ta. Xin Chúa Giê-su Thánh Thể biến đổi cuộc đời chúng ta trở thành sứ giả đem tình yêu và lòng thương xót của Chúa đến cho mọi người chung quanh.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn