CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN_C
Lời Chúa: Hc 35,15b-17.20-22a; 2Tm 4,6-8.16-18; Lc 18,9-14
———
1. Đừng xét đoán (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Trở nên công chính (Lm. Jos.DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Chê nhau được gì? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Đức tin của người Pharisêu (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
5. Hướng về Thiên Chúa (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Nhìn vào chính mình (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Khiêm tốn (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
8. Bông lúa cúi đầu (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
9. Con mắt (Lm. Vũ Đình Tường)
10. Nâng lên và hạ xuống (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
11. Ai là người công chính? (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
12. Chỉ công đức không mua được Thiên Đàng (Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
13. Người Pharisiêu với người thu thuế (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
14. Mãnh lực lời nguyện (Lm. Minh Vận, CRM)
15. Thói giữ đạo thành tích (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
16. .Ai là người công chính? (Thiên Phúc)
17. Hãy nhận ra chính mình (An Phong)
18. Cầu nguyện và khiêm nhường (Jos.Vinc. Ngọc Biển)
19. Khiêm nhường cầu nguyện (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
20. Qùi gối xuống (Lm. Vũ Minh Nghiễm)
21. Đấm ngực cầu nguyện (Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
22. Ngược chiều (Trầm Thiên Thu)
23. Cầu nguyện là thông hiệp với Thiên Chúa (Lm. Bùi Mạnh Tín)
24. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống (Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
25. Cầu nguyện: Chiếc cầu hiệp thông (Lm. Bùi Quang Tuấn)
26. Tự công chính hóa chính mình, một thái độ sai lầm (Lm. Nguyễn Hữu Thy)
27. Lạy Thiên Chúa xin thương xót con… (Fx. Đỗ Công Minh)
28. Khinh chê người khác (P.Trần Đình Phan Tiến)
29. Cầu nguyện trong khiêm nhường (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
30. Thật đáng thương (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
31. Người biệt phái và người thu thuế (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
32. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 30 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
1. Lời cầu nguyện đích thực (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Mũi nhọn xung kích (Gm. Giuse Vũ Duy Thống)
3. Xin thương xót con (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
4. Người Pharisêu và người thu thuế (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Đối với Đức Giê-su, ai mới thực là công chính? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
6. Khiêm tốn trong cầu nguyện (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
7. Vỗ ngực – đấm ngực (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
8. Nhận thức (Trầm Thiên Thu)
9. Lời nguyện đẹp lòng Chúa (AM. Trần Bình An)
10. Tự cao tự đại (JM. Lam Thy, ĐVD)
11. Cầu nguyện khiêm tốn chân thật (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
12. Điểm hẹn tin yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
13. Nâng mình lên sẽ bị hạ xuống (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
14. Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi (P. Trần Đình Phan Tiến)
15. Lạy Chúa, xin thương xót con (Dã Quỳ)
16. Khiêm hạ cầu nguyện để được ơn tha thứ (Lm. Đan Vinh)
17. Chúa Nhật 30 Thường niên_C (Lm. Antôn)
.
TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Tâm lý thông thường, ai trong chúng ta cũng có khuynh hướng và thói quen xét đoán người khác khi người ta vắng mặt. Việc xét đoán và kết luận về một người nào thường mang tính chủ quan phiến diện và nhiều lúc gây ra những hậu quả khôn lường. Khi xét đoán người khác, chúng ta tự coi mình là chuẩn mực, và nếu ai không giống như chúng ta thì đều bị kết án và phê bình. Xét đoán là một thói quen xấu. Người tin Chúa cần loại bỏ thói xấu này.
“Hai người lên Đền thờ cầu nguyện” – Chúa Giêsu bắt đầu câu chuyện với mục đích cảnh báo chúng ta về thói quen xét đoán chỉ trích người khác. Người biệt phái tự coi mình là người công chính. Anh lên Đền thờ cầu nguyện, nhưng thực ra anh đã lợi dụng môi trường thiêng thánh này để khoe mình và để xét đoán người khác. Nội dung lời cầu nguyện của anh toàn là những lời khoe khoang. Không những khoe khoang những việc đạo đức mình làm, anh còn nặng lời kết án người khác. Nhận định của anh về người khác thể hiện rõ sự ghen tỵ, hằn học. Chúa Giêsu kết luận: lời cầu nguyện của người biệt phái không được nhận lời. Bởi lẽ anh không đến Đền thờ để cầu nguyện nhưng để phô trương.
Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng có quyền xét xử. Ngài là thẩm phán công minh – tác giả sách Huấn Ca khẳng định như thế. Truyền thống Kinh Thánh thường diễn tả Thiên Chúa bênh vực và bảo vệ những người nghèo khổ cô thế cô thân. Những ai lợi dụng quyền hành mà bắt nạt và chèn ép những người yếu thế, sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt. Cũng vậy, lời cầu nguyện của người nghèo được Chúa lắng nghe. Tác giả đã dùng hình ảnh “lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm” để diễn tả mối quan tâm của Thiên Chúa. Ngài luôn nhận lời họ khi họ cầu nguyện. Lời cầu nguyện của người thu thuế trong câu chuyện là lời cầu nguyện chân thành. Nội dung lời cầu nguyện của anh là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình để xin Chúa rù lòng thương. Anh không khoe khoang. Anh cũng không lôi người khác vào lời cầu nguyện của mình. Lời cầu nguyện của anh là những lời tâm sự chân thành giữa anh với Chúa, với xác tín Ngài sẽ nhận lời.
Người tín hữu tin Thiên Chúa là Đấng thẩm phán công minh. Họ phải sống thế nào để không bị kết án vào lúc cuối của cuộc đời. Quả vậy, tất cả những hành vi cử chỉ và lối sống của mỗi chúng ta đều được “ghi chép” và sẽ được phơi bày trong ngày phán xét. Ý thức mình sẽ bị phán xét sẽ giúp con người thận trọng hơn trong cách ứng xử và trong đời sống hằng ngày. Tin vào Chúa là Đấng thẩm phán công minh, người tín hữu không hoảng loạn trước đau khổ thử thách. Phaolô đang bị cầm tù và sắp bị đưa ra xét xử. Ông viết cho môn sinh của mình là Timôthê những dòng tâm sự đầy xác tín: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện”. Phaolô đón nhận đau khổ thử thách trong niềm hy vọng, vì ông biết Thiên Chúa sẽ thưởng công cho mình.
“Phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Đó là giáo huấn rút ra từ câu chuyện hai người lên Đền thờ cầu nguyện. Đó cũng là bài học Lời Chúa dạy chúng ta hôm nay. Cuộc sống đầy bạo lực, xung đột và chia rẽ do con người thiếu khiêm nhường, và sẵn sàng được thua mà không nghĩ đến đạo lý làm người. Trong những ngày cuối tháng Mười này, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, mẫu gương của sự khiêm nhường. Chính từ sự khiêm nhường mà Mẹ được tôn vinh: “Muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phúc”. Xin Mẹ giúp chúng ta biết thưa “Xin vâng” như Mẹ. Đó là lời xin vâng có phó thác, cậy trông và khiêm tốn. Từ lời xin vâng tuyệt diệu ấy, đất trời được nối kết, Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
.
Lm. Jos. DĐH.
Biết, hiểu, sống, có đủ để minh chứng về một sự thật nơi mỗi chúng ta là người tốt, là được giáo dục, là đang chuyên tâm xây dựng một gia đình, một xã hội hạnh phúc ? Chăm chỉ làm ăn để kiếm lợi nhuận, chúng ta đã từng nghĩ tới ; hiểu câu nói của tiền nhân: thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn, mấy ai chưa nghe ? Với người lao động bình dân, làm ra tiền để mua sắm chi tiêu, đã khó rồi, sử dụng đồng tiền đúng, hợp lý, để miệng lưỡi thiên hạ không cười vì ta rộng, ta phóng khoáng, không chê vì ta hẹp ta keo kiệt, rất cần đến tính chuẩn mực của khôn ngoan. Bằng lời lẽ thương vợ yêu chồng, có trách nhiệm với con cháu, nếu chỉ sống dựa trên môi miệng lý thuyết, làm cha làm mẹ như thế có gì gọi là đáng tự hào ? Được gọi là trai tài gái sắc, người trẻ nào mà không mơ tưởng ? nhưng đẹp và tài có thể là thảm hoạ: có tài mà cậy chi tài, chữ tài đi với chữ tai một vần. (Nguyễn Du) !
Người kitô hữu chúng ta đến nhà thờ hằng tuần, hằng ngày, minh chứng mình là công giáo đã tốt đẹp rồi, nhưng để mang lại ơn ích cho tâm hồn, cho gia đình, phải tuỳ thuộc vào tâm tình biết và sống lời cầu nguyện với Chúa mỗi ngày. Khi đưa ra hình ảnh khá đặc biệt về hai người tới đền thờ cầu nguyện, Đức Giêsu hé mở cho chúng ta biết: lối sống “hình thức” hay chủ trương đạo “tại tâm” đều bất ổn ! Có kiến thức trình độ, để làm kinh tế, có khả năng giữ tiền của không thất thoát cách vô lý, cả 2 cùng khó ; đúng hơn, làm gì để giữ được hạnh phúc gia đình, điều đó là cần thiết và vô cùng quan trọng ! Các luật sĩ biệt phái đạo đức, những kẻ thu thuế tội lỗi, cả đám đông dân chúng xưa, nay, tất cả đều có cơ hội gặp gỡ và nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, khi mọi người biết sống niềm tin vào Đấng ta kêu cầu.
Để cho thấy sự công bằng, sòng phẳng, trong các tương quan làm ăn, người ta vẫn sử dụng câu thành ngữ: có qua có lại mới loại lòng nhau. Để cho thấy tâm hồn bình an, để trở nên người công chính thật sự, mỗi người phải học lấy tinh thần đạo đức của các biệt phái luật sĩ, phải biết mình biết ta như người thu thuế, thật lòng sám hối ăn năn, ta sẽ xác tín hơn: Chúa chính là Thiên Chúa cứu độ. Vẻ đẹp bên ngoài khiến người ta sững sờ khi “bạn toát lên sự thánh thiện”, nhưng tính chất bên trong của nét đẹp tâm hồn đã để lại cho mọi người phải tâm phục khẩu phục, khi họ biết bạn đã sống lời cầu nguyện. Người luật sĩ biệt phái từng giảng dạy, từng chỉ giúp người khác cầu nguyện, và đám đông dân chúng kính nể, nhưng Đức Giêsu lại hài lòng bởi lời cầu nguyện, và hành động sám hối của người thu thuế: “người tội lỗi này, khi trở về nhà thì đã được trở nên công chính rồi”.
Tại sao Thiên Chúa thương yêu người thu thuế, liệu con người tội lỗi thu thuế ấy có trở nên công chính không, khi mà Đức Giêsu chưa bắt kẻ tội lỗi ấy thề hứa, hãm mình đền tội ? Ai cũng có thể trả lời: Chúa là tình yêu, Thiên Chúa yêu thương hết tất cả mọi người, không phân biệt, kỳ thị tiếng nói mầu da, Chúa không xỉ vả tội nhân, không im lặng làm ngơ với người thánh thiện. Trong đời sống tự nhiên, người luật sĩ biệt phái, kẻ thu thuế tội lỗi, và chúng ta hôm nay, đều phải chu toàn bổn phận của mình trước gia đình xã hội. Trong đời sống siêu nhiên, hiện tại tiến về tương lai, ai cũng phải thực hành sám hối và nhanh chóng sống niềm tin, hầu trở nên công chính, trong ơn gọi và sứ vụ riêng của mình. Trong tương quan xã hội, chẳng ai vui khi phải áp dụng câu thành ngữ cho mình: 1 tiền gà, 3 tiền thóc. Trong tương quan với Chúa và tha nhân, nếu chỉ là hình thức “sáo ngữ”, hẳn việc cầu nguyện của ta đáng bị quở trách vì: thiếu lòng thành, việc tạ ơn chỉ là môi mép.
Tiền nhân chúng ta ví von: con lợn có béo thì lòng mới ngon ; Đức Giêsu đã từng nói thẳng nói thật: “Ta đến để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn…”. Đại đa số ở đời, ai cũng muốn là người dễ nhìn, dễ coi, dễ thu phục bởi hình thức và nội dung ; Đức Giêsu sẽ còn mãi nhắc nhớ: điều cần hơn cả đối với chúng ta là mỗi người phải trở nên công chính. Lương tâm của con người không bao giờ yên ổn mỗi khi trở về gia đình của mình, nếu họ làm điều xấu xa ghê tởm. Tâm hồn người tín hữu làm sao bình an, khi ta hiểu giới luật của Chúa mà không thực hành, chưa sống đức tin và đức ái ! Người luật sĩ biệt phái có thể khiếu nại Chúa về hình thức đạo đức của họ, nhưng họ chắc chắn phải tâm phục khẩu phục, khi mà tâm trí họ đã thốt ra những lời xét đoán anh chị em mình bằng thái độ đầy kiêu căng tự phụ ! Niềm vui của Chúa Giêsu là tất cả những ai tin Chúa, sẽ không sống trong mơ mộng hão huyền, lầm tưởng mình đạo đức hơn người. Hãy sống khiêm tốn, và sớm nhận ra mình bất xứng tội lỗi, hầu được Chúa thương yêu thứ tha, Ngài sẽ dẫn đường chỉ lối cho ta trở nên công chính thánh thiện, đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Amen.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có lần tôi về quê dự đám cưới họ hàng. Đây có thể là dịp để mình gần gũi trò chuyện với người thân. Nhưng hình như nó lại là ngày được nghe những lời chê “vô tội vạ”. Các bạn thử nghe xem:
– Ơ, cha lâu rồi không gặp, gớm kỳ này béo thế!
– Ôi mẹ ơi, giảm béo đi, béo quá rồi.
– Bao nhiêu cân rồi cụ? Trông hai má có nọng luôn rồi.
– Ăn ít thôi, ăn như lợn thì lo gì không béo!
– Hehe . .
Đa số họ không phải là ghét nên chê, mà hình như chê đã thành thói quen nơi cửa miệng nhiều người. Họ chỉ biết chê maà không biết khen nên cách nói chuyện cũng tẻ nhạt là vậy. Vì:
“Khi được khen ai cũng vui tươi,
Khi bị chê ai cũng buồn chán”
Con người thì ai cũng thích được khen, nhưng lạ, là lại thích chê bai người khác cho sướng cái miệng. Nhất là các cô gái thích đăng ảnh facebook và chờ được khen, nhưng lại hay chê các cô khác. Có nhiều lần tôi nghe:
– Con bé này ngoài đời chẳng “hot” như trong hình đâu cha ơi! Rồi đến cô kia dạo này già nhanh quá!, và “Bạn B. lớp con ngày xưa, gớm tự tin thật đấy, body thế này mà chụp hình khoe suốt. Vậy mà cũng nhiều người khen xã giao ghê!”.
Khổng Tử từng dạy rằng: đừng than phiền về tuyết trên nóc nhà hàng xóm khi ngưỡng cửa nhà bạn chưa sạch. Nhiều người thường có thói quen chê bai người khác mà không tự nhìn lại bản thân mình. Họ tưởng rằng khi chê bai một ai đó thì họ trở nên giá trị hơn trong mắt những người xung quanh.
Chúa Giê-su cũng không hài lòng về kiểu nói chê bai người khác của người Phariseu.
“Người Phariseu đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không giống như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia” (lc 18.11)
Nhìn lại mình đôi khi chúng ta cũng từng tranh cãi với người khác: Tôi đúng, anh sai ?
Đôi khi chúng ta cũng từng bỉu môi, lên tiếng chê bai những người mà tôi cho là xấu xa?
Đôi khi chúng ta cũng tự hào hãnh diện khi thấy mình hơn ai đó nhiều mặt đó sao?
Như vậy, chính tôi là những Phariseu đứng thẳng trong đền thờ và khoe với Chúa công trạng của mình.
Chúa chắc chẳng không cần công trạng của chúng ta. Chúa cần tấm lòng khiêm cung ăn năn sám hối của chúng ta mà thôi.
Một trong những sứ điệp nền tảng của Kitô giáo chứa đựng trong lời kêu gọi của Chúa Giêsu:”Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sự sám hối đòi phải có thái độ khiêm nhường. Chính sự khiêm nhường sẽ giúp chúng ta sống đúng với con người thật của mình. Sự khiêm nhường cũng giúp chúng ta không cậy dựa vào sức mình quá đáng nhưng biết cậy dựa vào ơn Chúa và sự trợ giúp của đồng loại để hoàn thiện mình mỗi ngày một tốt hơn. Sự sám hối sẽ giúp ta chân thành nhận ra sự bất toàn, khuyết tật của mình để biết cảm thông với thiếu sót của tha nhân.
Xin Chúa cho chúng ta biết khiêm tốn để nhận ra mình cũng đầy những thói hư tật xấu, để hiểu và thông cảm với anh em và để có thể cất lời ngợi khen Chúa là Đấng thánh, ngàn trùng chí thánh. Xin đừng vì những thói tự cao tự đại mà trở thành kẻ lừa dối Chúa và anh em. Amen
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Đức tin khi quá khích gây nên những thiệt hại bởi tính kiêu căng trỗi dậy. Phán xét người khác, và xem nhẹ những người bị họ kết án là tội lỗi. Chúa Giê su dạy lại cho họ bài học đức tin trong khiêm nhường bằng dụ ngôn hai người lên đến thờ cầu nguyện.
Không tự nhiên xuất hiện nhóm người Pharisêu, Xa đốc, Ê sen, tách biệt ra như những người mang đức tin mạnh mẽ đôi khi đến quá khích. Theo sử gia Josephus thế kỷ thứ 1 sau Công Nguyên. Nhóm người này rất phẫn nộ về việc Đế quốc Roma ra lệnh kiểm tra dân số nam giới theo định kỳ để xác định quyền lợi và thuế thu của người dân. Bối cảnh lịch sử như thế, dẫn nhóm người kể trên đụng chạm đến lòng tin của họ, chỉ có Thiên Chúa mới là chủ nhân đích thực dân tộc, chủ thể quê hương, đất nước của họ.
Nhóm tách biệt, theo sử gia Josephus: “Họ có một nỗi đam mê đối với tự do không thể kềm chế được; vì họ chỉ tin có một mình Thiên Chúa là thủ lãnh, và là tôn sư của họ.” Họ khinh ghét những người làm việc cho đế quốc Roma, đại diện cho Đế quốc Roma cai trị dân, và ghét nhất những kẻ làm thuế vụ. Đóng thuế cho Đế quốc Roma là làm nô lệ cho ngoại bang. Nhóm Xa đốc theo đường lối riêng, nhóm E sen rút vào hoang địa sống đời nhiệm nhặt, có một số người trong nhóm Pharisêu vẫn cuồng tín chống phá tất cả những gì làm nguy hiểm về một “vương quốc tư tế, một dân tộc thánh thiện” (Xh 19, 6)
Những cuộc khởi nghĩa của nhóm nhiệt thành (Zealots) là những xung đột sâu sắc với người cai trị. Họ sẵn sàng chịu chết vì Chúa của họ và họ tin rằng Chúa đứng về phe họ mà chống lại kẻ thống trị. Khi Chúa Giêsu xuất hiện tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là cái gai trong mắt họ, điều ấy cũng dễ hiểu, vì bao đời nay họ chỉ tin nhận Một Thiên Chúa duy nhất không có một Thiên Chúa nào khác, ngay cả danh xưng Con Thiên Chúa là quá xúc phạm.
Đức tin cần có khiêm nhường.
Thiên Chúa của người Pharisêu là một Thiên Chúa đòi hỏi, nên họ sống hết sức với lề luật, dường như lòng nhiệt thành đi quá xa, khiến người Pharisêu xem như mình phải có trách nhiệm với đồng loại. Nêu gương cho người khác, đồng thời cũng xét đoán người khác, người đó không giống như tôi (Pharisêu), cần phải tuân thủ lề luật một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ. Chính vì thi hành lề luật hết sức nghiêm túc như thế mới mong đạt được tới Nước Trời. Đó là một quan niệm sai lầm chết người! Vì Nước Trời vừa là một ân ban vừa cần được cộng tác bằng nỗ lực, cố gắng của bản thân.
Thánh Phao lô cũng nhận mình là người Pharisêu thứ thiệt: “sống theo Lề luật như Biệt phái; nhiệt thành đến nỗi bắt bớ hội thánh; chiếu theo đức công chính trong Lề luật, thì thực vô phương trách cứ!” (Pl 3, 5 – 6). Thánh Phaolô đã nhận ra điều quan trọng: “Chúa Kitô đã chiếm đoạt tôi” (Pl 3, 12). Không phải nhờ cố gắng, nỗ lực sống đạo đức của mình, mà mình đã chiếm đoạt được Thiên Chúa như cách nghĩ của người Pharisêu, cần khiêm nhường để nhận biết như Thánh Phaolô: Chúa Kitô, Ngài đã chiếm đoạt tôi và “Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Ðức Kitô,”(Pl 3, 9).
Tương quan giữa Chúa Giêsu và người Pharisêu có nhiều trường hợp cùng chung nhiều quan điểm, và có những thiện cảm: Như câu chuyện giữa Chúa Giê su và ông Nicôđêmô (Ga 3, 1); một nhà thông luật trao đổi Chúa khen: “ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu” (Mc 12, 34). Ông Gamaliel, một nhà lãnh đạo của những người Pharisêu, đã bảo vệ Phêrô và Gioan (Cv 5, 34-39).
Người Pharisêu không hoàn toàn đối nghịch với niềm tin họ theo đuổi, miễn là họ có lòng nhân từ, như lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy có lòng nhân từ như Cha là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36), để tránh lối sống tự cao, tự đại. Không xét đoán người khác, đưa mình ra như một tiêu chuẩn đạo đức, “nó không được như tôi!”.
Dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, chỉ ra cho con lòng nhiệt thành nhà Chúa cũng cần có cung cách người phục vụ khiêm tốn: “Con chỉ là đầy tớ vô dụng” (Lc 17, 10). “Con được Chúa chiếm đoạt” (Pl 3, 12). Nhờ ân huệ của Chúa mà con được Chúa xót thương để con cũng biết yêu thương người khác với những lầm lỗi của họ.
.
Bông hồng nhỏ
Thiên Chúa biết rõ mỗi người với tất cả những điều tốt đẹp và cả những yếu đuối nơi họ. Thiên Chúa đoái nhìn và xót thương mỗi người, Ngài luôn dành điều tốt nhất cho từng người với một tình yêu của người cha nhân lành. Con người luôn được mời gọi hướng về Thiên Chúa, “Đấng Đầu Tiên và Cuối cùng”, để mỗi ngày được thuộc trọn về Chúa hơn nữa.
Hôm nay, Thầy Giêsu đã kể cho những người tự xem mình là công chính mà khinh chê kẻ khác một dụ ngôn. Dụ ngôn đó kể về hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một người thuộc nhóm Pharisêu còn người kia làm nghề thu thuế. Cả hai đều đến cùng Thiên Chúa để bày tỏ tâm tình của mình. Người Pharisêu đứng thẳng nguyện thầm. Trước hết, ông tạ ơn Thiên Chúa vì biết bao điều tốt đẹp ông làm được. Khi so sánh bản thân với những người khác, ông nhận ra mình đạo đức thánh thiện vượt xa họ (x. Lc 18, 9-12). Thế nhưng, lời cầu nguyện của ông không đẹp lòng Thiên Chúa. Bởi Thầy Giêsu đã khẳng định, ông ra về nhưng không được kể là người công chính. Đứng ở cuối Đền Thờ, có người thu thuế đang run rẩy, cúi mặt chẳng dám nhìn lên. Ông vừa đấm ngực vừa kêu xin: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. (Lc 18,13). Thầy Giêsu khẳng định, ông ra về và đã được nên công chính rồi. Cái kết của câu chuyện quả là bất ngờ cho những người đang lắng nghe lời Thầy Giêsu dạy.
Cuộc sống mỗi ngày đều qua đi với nhiều cung bậc khác nhau. Có nhiều “cái kết” khiến ta quá bất ngờ. Ta bất ngờ khi nhận được một món quà từ ai đó gửi tặng, bất ngờ vì nhận được một tin nhắn của người bạn đã lâu không gặp,… Có bao giờ ta bất ngờ trước lòng thương xót mà Thiên Chúa đã dành cho ta? Đã bao lần, ta đến với Chúa trong tâm thế của một người Pharisêu, lòng đầy hãnh diện về biết bao điều tốt đẹp ta thực hiện. Những việc ấy ta đã làm với tất cả sự cố gắng, nỗ lực của bản thân. Thật bất hạnh cho ta vì ta đã không biết quy hướng về Thiên Chúa để chúc tụng, cảm tạ, ngợi khen và tôn vinh Ngài. Ta ngủ quên trong vinh quang trần thế, tự ở lại trong những thành công và tự tôn mình lên mà ta chẳng hay. Ta cũng tạ ơn Chúa về những gì ta đạt được, nhưng lời tạ ơn ấy không đẹp lòng Chúa vì ta vô tình tự tôn mình lên khi so sánh với người khác. Chính khi so sánh như thế, ta đã vô tình hạ thấp người anh em của mình. Đó là điều làm mất lòng Chúa. Ta hãy có tâm tình sám hối ăn năn như người thu thuế, dám nhìn vào chính lòng mình để thấy được những điều làm mất lòng Chúa, thấy mình tội lỗi cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Ta cần trở nên người đạo đức biết chu toàn luật Chúa như người Pharisêu vừa phải luôn luôn có tâm tình sám hối của người thu thuế khi đến với Chúa. Khi biết quy hướng tất cả con người và đời sống của mình về Thiên Chúa thì chính Ngài sẽ làm cho ta được nên giống Chúa hơn.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu! Cảm tạ Chúa đã cho con được làm con của Chúa, để mỗi ngày con có thể đến với Ngài và bày tỏ con người thật của mình. Dù con có trở nên tốt hơn nhờ tình thương yêu và dìu dắt của Chúa, hay con có nên xấu xa vì những yếu đuối và lỗi lầm của mình, thì con cũng xin tôn vinh, chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa. Con tin rằng, mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Chúa (Rm 8,28). Con xin được yêu mến Chúa hết lòng, bằng toàn thể con người con, bằng tình yêu của Chúa Kitô hiện diện trong con. Amen.
.
Anna Cỏ May
Trong cuộc sống, không ai muốn hạ mình trước người khác, cũng không ai muốn tôn người khác lên trên mình, mà lại luôn muốn hơn người khác. Còn Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18, 14).
Chúa Giêsu kể dụ ngôn về hai người lên Đền Thờ cầu nguyện: một người thuộc nhóm Pharisêu còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác… hoặc như tên thu thuế kia” (x. Lc 18, 11-12). Ông kể toàn những việc đạo đức và những việc bố thí cho Chúa nghe. Ông đến với Chúa trong tâm tình kể lể, khoe khoang và khinh chê người khác. Đối với Chúa, Ngài biết rõ những việc ông làm. Như vậy, ông đã mắc tội kiêu ngạo. Chúa chỉ vui thích tấm lòng chứ không phải của lễ bên ngoài. Còn người thu thuế, ông đến với Chúa với tâm tình chân thật. Ông đã chỉ dám đứng đằng xa, chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Ông chẳng dám ngước mắt lên, nghĩa là ông chỉ dám nhìn thẳng vào con người của mình, nhìn thấy tội lỗi bên trong và thật lòng hối cải về những tội lỗi đã phạm. Ông đấm ngực và kêu xin lòng thương xót của Chúa. Ông kêu xin Chúa là ông đã hạ mình xuống, chỉ cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa và ông đã được Thiên Chúa nhận lời. Ông đã được kể là người công chính. Vì đối với Chúa, hối cải là điều Chúa mời gọi đầu tiên đối với người tội lỗi (Kh 2,5).
Ngày nay, ai là người tôn mình lên? Người tôn mình lên là người hãnh diện về tất cả những gì mình có, hãnh diện về khả năng và những việc làm của mình. Từ đó, họ khinh chê người khác và coi mình tốt hơn cả. Họ chẳng bao giờ để mình thua thiệt trong bất cứ điều gì. Có khi, họ cũng chẳng cần đến Chúa. Do đó, người ấy khó nhận ra tội lỗi của mình, khó có sự kiên trì đến với Bí tích Hòa giải. Nếu cứ sống trong tình trạng ấy, họ sẽ chẳng có hạnh phúc bền vững ngay ở đời này và đời sau. Nhìn lại chính mình, tôi có cậy dựa vào những gì mình có mà khinh chê người khác không? Tôi có thật sự hạ mình vì người khác hay cố ý để người khác tôn mình lên? Mỗi khi đến với Bí tích Hòa giải, tôi có tâm tình và ý thức nào để xứng đáng với lòng thương xót của Chúa? Ngài là Đấng thương xót tôi và nâng đỡ tôi trong mọi lúc.
Lạy Chúa! Xin cho con biết hạ mình khiêm nhường trước mặt Chúa và tha nhân. Để xứng đáng hưởng lòng thương xót của Chúa và đem lại sự bình an và hạnh phúc cho anh chị em mình. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Dụ ngôn Chúa dậy hôm nay,
Xét mình khiêm tốn, thẳng ngay sống đời.
Hai người cầu nguyện dâng lời,
Một thầy Biệt phái, một thời kiêu căng.
Khoe khoang so sánh mà rằng,
Ăn chay bố thí, siêng năng cúng đàn.
Dâng công hoa lợi thí ban,
Sống đời công chính, cầu van mỗi ngày.
Kìa người thu thuế xưng bày,
Sấp mình đấm ngực, mắt cay lệ nhòa.
Đời con tội lỗi mù lòa,
Lạy Ngài thương xót, giải hòa cho con.
Thật lòng sám hối héo hon,
Thứ tha lỗi phạm, sắt son một lòng.
Chúa thương tha thứ sạch trong,
Ra về đổi mới, trong lòng hân hoan.
Ai người kiêu ngạo bất toàn,
Nâng mình cao ngất, lỗi hoàn như xưa.
Khiêm cung hạ xuống không thừa,
Chúa thương chúc phúc, ơn mưa dạt dào.
Cầu nguyện là tâm tình của người con đến với Cha. Chúng ta cần cầu nguyện luôn và đừng chán nản. Hôm nay Chúa Giêsu dạy ta phải có thái độ khiêm tốn khi cầu nguyện. Chúa nêu ra dụ ngôn của hai người lên đền thờ cầu nguyện. Người biệt phái khoe khoang rằng ông không trộm cướp, không tham lam, không lỗi giới luật, ăn chay nhiều ngày trong năm, trả thập phân cho nhà thờ và ông tự hào mình là người công chính. Còn người kia đứng cuối nhà thờ cầu nguyện, ông ta là người tội lỗi, tham lam, trộm cắp, bất công nhưng biết đấm ngực ăn năn: Lạy Chúa xin thương xót tôi là kẻ có tội.
Sau khi cầu nguyện, người có tội được tha, còn người tưởng mình là công chính thì vẫn thế, không được Chúa nhận lời. Đôi khi chúng ta cũng rơi vào thái độ của người tưởng mình thánh thiện trước mặt Chúa. Chúng ta cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì gia đình bằng an, con cái ngoan hiền, học hành giỏi giang, không như con cái người hàng xóm kia đi sớm về khuya và bỏ học nhập vào băng đảng. Người Biệt phái khi cầu nguyện đã so sánh với người tội lỗi, để rồi tưởng mình là người đạo đức. Trước mặt Chúa, chúng ta đều là tội nhân. Người Biệt phái đã không đủ khiêm tốn để nhận biết mình là người có tội, nhưng lại tự hào mình là người công chính trước mặt Chúa.
Chúng ta thường hay so sánh để đoán xét người khác. Đoán xét người khác là phát xuất bởi lòng xấu và thiếu lòng yêu mến Thiên Chúa. Người đoán xét kẻ khác là người hay kiêu ngạo và thiếu sự khôn ngoan thật. Khi chúng ta đeo kính mầu gì thì chúng ta sẽ nhìn thấy mọi vật theo mầu đó. Cũng như lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng. Lòng chúng ta có thiên kiến xấu về một ai thì mắt, trí lòng và sự phán đoán của chúng ta cũng bị hướng chiều theo thiên kiến đó.
Những người hay xét đoán xấu về người khác, thường biết rất ít về mình. Vì sự không hiểu biết chính bản thân mình, nên dễ gây tại hại cho người khác. Muốn biết chính mình cần phải khiêm tốn nhận lỗi mình và thận trọng trong lời nói việc làm. Ông Biệt phái cầu nguyện chỉ là để tự hào về mình và khinh bỉ kẻ khác. Ông đã tách biệt mình ra khỏi kẻ khác và tự đặt mình lên trên mọi người và tự mãn về mình. Nên ông đã không nhận được ơn Chúa thứ tha.
Truyện kể: Có hai vợ chồng đã nhiều lần nghi ngờ đoán xét nhau. Lần này, đang lúc tranh cãi hăng say, người chồng đề nghị: Này, chúng ta đừng cãi nhau nữa. Mỗi người lấy tờ giấy viết tất cả lỗi lầm và tật xấu của nhau rồi trao cho nhau. Người vợ đồng ý. Người chồng cầm tờ giấy, nhìn vợ rồi cúi xuống viết. Người vợ thấy chồng viết cũng hối hả viết và kể lể mọi sự xấu xa của chồng. Người vợ xem ra hả dạ. Sau đó, họ trao bản kết tội của nhau. Khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét mặt vợ bỗng đổi sắc vì xúc động. Bà vội vã đòi lại giấy đã đưa cho chồng và có thái độ làm hòa. Trong tờ giấy người chồng chỉ viết có một câu duy nhất: Anh yêu em.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của chúng con. Chúng con xin Chúa thương xót và tha thứ.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Một người cha dẫn đứa con nhỏ ra thăm đồng lúa đang độ chín vàng chờ ngày thu hoạch. Lần đầu tiên được tung tăng giữa cánh đồng bao la và được nhìn tận mắt những bông lúa mà bé chỉ được nghe kể bằng lời, cháu bé tỏ ra thích thú và lên tiếng hỏi ba:
-Bố ơi! Tại sao có những bông lúa cúi đầu xuống và cũng có những bông lúa khác vểnh đầu lên?
Người cha đáp:
– Những bông lúa cúi đầu là những bông lúa no đầy, chắc hạt, sẽ trở thành những hạt gạo ngon lành; còn những bông vểnh đầu lên là những bông lúa lép, chẳng có gì bên trong, chỉ còn là vỏ trấu.
Hình ảnh bông lúa cúi đầu đã in sâu vào tâm trí người dân Nhật từ rất xa xưa. Người Nhật xem bông lúa cúi đầu là biểu tượng cho những người khiêm tốn, chín chắn, có phẩm chất cao đẹp; còn bông lúa vểnh đầu lên là biểu tượng cho những người huênh hoang, rỗng tuếch.
Thế là từ đó, người Nhật rút ra một câu phương ngôn nhớ đời, in sâu vào tim óc các thế hệ về sau, đó là câu “Bông lúa chín là bông lúa cúi đầu.” hoặc: “Bông lúa cúi đầu là bông lúa chín.”
Qua phương ngôn này, những bậc tiền bối người Nhật muốn dạy con cháu: “Hãy khiêm tốn cúi đầu” trước mọi người, để chứng tỏ mình là người đức hạnh.
Thế là nền văn hóa cúi đầu ăn sâu vào máu thịt người Nhật cũng như người Hàn quốc. Khi gặp nhau, họ chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cách khiêm tốn; ông chủ cúi đầu trước khách hàng vì xem khách hàng là ân nhân; nhân viên phục vụ trên sân ga cúi đầu chào khách khi đoàn tàu chuyển bánh; cô trực thang máy cúi đầu chào khi có người đi vào, đi ra cửa thang máy… Đâu đâu cũng đầy dẫy những người chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cung kính. Bản sắc của người Nhật là như thế và đó cũng là yếu tố làm cho thế giới càng nể phục họ hơn.
Bài Tin mừng hôm nay cũng đề cập đến hai nhân vật, một người cúi đầu và một người huênh hoang ngẩng đầu cao.
Người biệt phái được Chúa Giê-su đề cập trong Tin mừng hôm nay thuộc dạng bông lúa vểnh đầu cao. Ông ta là người đầy tự phụ, huênh hoang, phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác. Ông cầu nguyện với Chúa bằng những lời lẽ trịch thượng như sau: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”
Còn người thu thuế thuộc dạng bông lúa cúi đầu. Ông ta vốn biết thân, biết phận thấp hèn, tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 9-14).
Thái độ khiêm tốn của người thu thuế làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên cho dù ông mang nhiều tội, ông cũng được Chúa Giê-su tuyên dương và chúc phúc; trái lại, thái độ tự phụ tự cao của người biệt phái bị Chúa Giê-su chê trách và lên án.
Tại sao vậy? Chúa Giê-su cho biết lý do: “Vì hễ ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).
Ngoài ra, vì khiêm tốn là đức tính cao đẹp và cần thiết nên Chúa Giê-su cũng đã nhiều lần mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29).
Ngoài ra, Mẹ Maria cũng răn dạy chúng ta phải coi chừng hậu quả của thói kiêu căng, qua câu nói: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.” và Mẹ khuyến khích chúng ta sống khiêm nhường, qua lời dạy: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Ngài nâng cao những kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 51-52).
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa dạy chúng con chớ dại dột nâng mình lên vì “hễ ai nâng mình lên sẽ phải bị hạ xuống” như người biệt phái trong câu chuyện trên đây, cũng đừng tranh dành chỗ quan trọng (như trong dụ ngôn bữa tiệc) kẻo có ngày chủ nhà sẽ mời xuống chỗ cuối (Luca 14, 7-11).
Xin cho chúng con biết cư xử khiêm nhường như Chúa để được Chúa rót đầy ân sủng và đổ đầy tình yêu thương.
.
Lm. Vũ Đình Tường
Mắt là đèn soi cho chúng ta. Mắt giúp quan sát, nhìn sự việc. Có người ví von mắt là cửa sổ của tâm hồn. Rất nhiều trường hợp hai người cùng quan sát một sự việc, cùng dùng mắt kết quả nhìn khác nhau. Trường hợp hai người nghe cùng câu chuyện do một người kể, kết quả nhận định khác nhau. Tai, mắt hay ngũ quan không nắm vai trò chủ động trong mọi quyết định. Mắt thấy, tai nghe là bước mở đường cho bước kế tiếp đưa đến phán đoán. Khi phán đoán tai mắt đóng góp bao nhiêu phần trăm?
NHÌN KHÁC NHAU
Điều chắc chắn hầu như mọi biến cố quan trọng trong đời mỗi người nhìn một cách khác nhau, nhận định sự việc khác nhau mặc dù họ nhìn chung một sự kiện, nghe cùng một câu chuyện, do một người kể nhưng phán đoán mỗi người mỗi khác. Mắt giúp quan sát, nhìn đi nhìn lại cũng chỉ rõ bên ngoài, không thấu suốt nội tình, bên trong. Phán đoán dựa vào quan sát bên ngoài để đoán những gì bên trong đưa đến kết quả có thể là đúng cũng có thể sai. Bởi vì đoán nên không thể quả quyết. Khi quả quyết thì không còn đoán. Nếu đoán thì không thể xác quyết vì có thể còn những chuẩn đoán chính xác hơn, hợp lí hơn.
XÉT MÌNH
Phúc âm đưa ra trường hợp hai người cầu nguyện trong đền thờ. Một được Chúa nhận lời; một không. Cả hai cùng xét mình, nhìn lại cách ăn, nết ở trong thời gian qua. Trong thánh điện kết quả xét mình của hai người đối nghịch nhau.
Một đứng thẳng, ưỡn ngực cầu nguyện; một cúi mặt, đấm ngực ăn năn.
Một đứng gần gian cung thánh; một xa tít cuối đền thờ.
Một tự hào ăn ngay, ở lành; một hối hận vì tội đã phạm.
Một vỗ ngực tự xưng công chính giữ trọn luật; một đấm ngực ăn năn xin Chúa xót thương.
Cả hai đều nhìn vào chính mình, nhận xét về chính mình, cầu nguyện trong đền thờ. Người tự nhận là tội nhân được tôn vinh; người tự tôn vinh bị hạ xuống.
HAI NGỘ NHẬN
Tự nhận mình công chính là một ngộ nhận lớn, bắt nguồn từ kiêu hãnh, tự phụ. Thực thi đức ái và giữ trọn luật là nhiệm vụ chung mọi thành phần trong xã hội, không trừ ai. Làm xong, làm tốt nhiệm vụ được coi là công dân tốt. Trong Giáo Hội họ là người đầy tớ khôn ngoan và trung thành. Hoàn thành nhiệm vụ không biến ta thành công chính. Ta trở nên công chính nhờ Đức Kitô. Nói theo ngôn ngữ Phúc âm hôm nay ta được công chính hoá nhờ lòng thương xót Chúa.
‘Lậy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’.
Nhờ thành tâm thống hối, đấm ngực ăn năn sấp mình trước Thánh Nhan xin chúa thương xót để trở nên công chính. Như thế công chính hoá không phải do tài năng con người tự kiếm mà là đặc ân Chúa ban do khiêm nhường, thống hối, thành tâm và tạ ơn.
Khiêm nhường là con đường mở thêm lối đi dẫn ta đến cùng Chúa, đưa ta tới tha nhân. Kêu ngạo là con đường một chiều, không ngã rẽ. Đường dài mấy cũng có cuối đường. Như thế kêu ngạo là con đường cụt, đường dẫn đến sự chết. Người đi đường cụt bị tắc nghẽn nơi cuối đường. Không lối thoát.
Ngộ nhận thứ hai của ngưòi tự nhận công chính là soi mói, buôn điều. Không biết đang đi trên đường cụt. Đến khi nhận ra đã cuối ngày. Kêu ngạo, tự phụ che mất đường công chính. Tôn mình lên cao đến nỗi chỉ nhìn thấy người, còn mình thì không. Dùng quá nhiều thời gian kháo chuyện thiên hạ. Hãy nghe anh ta nói: ‘con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia’.
Trong lời cầu anh nhắc đến tạ ơn. Tạ ơn chân thành luôn đi với khiêm tốn. Thiếu lòng thành việc tạ ơn chỉ là môi mép. Người tự phụ không cần Chúa vì tin vào khả năng mình.
Nhắc đến việc tốt lành: ăn chay mỗi tuần hai lần và công đức mười phần trăm mức thu nhập.
Không thấy anh nhắc đến việc thương người nghèo, cho kẻ đói ăn, khát uống. Không nhắc đến thăm người đau yếu bệnh tật. Những người này không có trong đời của anh có lẽ vì ‘con không như bao kẻ khác’
PHÚC HỌA
Ngộ nhận xảy ra cho mọi thời đại. Thiếu cẩn trọng phúc biến ra hoạ, rơi vào ngộ nhận.
Thay vì đi xét mình, xét tội mình thì kháo tội người, buôn điều, chỉ trích, phê bình người khác. Tưởng như thế là giúp người, làm đẹp lòng Chúa. Lỗi lầm dễ mắc phải, xét tội người khác, cáo lỗi người khác tưởng làm như thế là làm phúc, giúp người trở về đường ngay nẻo chính.
Chê người là tự phong cho mình hay hơn.
Nói xấu người là tự cho mình tốt hơn.
Chỉ trích người là tự nhận mình đúng, người sai.
Làm thế là tự hại chính mình, đang chích cho mình liều thuốc Pharisiêu.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Trong các bài Tin mừng của các Chúa nhật trước, Đức Giêsu đã dạy các tông đồ phải cầu nguyện với lòng tin tưởng, biết ơn và kiên trì. Chúa nhật này Ngài còn tiếp tục dạy các ông phải cầu nguyện trong tinh thần khiêm nhường và thống hối, vì Thiên Chúa luôn tỏ ra thương yêu những người công chính và nghèo hèn bé mọn. Để nói lên tư tưởng ấy, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện.
Trong khi cầu nguyện hai người có hai thái độ khác nhau và trái ngược nhau. Người biệt phái tự mãn khoe khoang những việc tốt lành của mình. Ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông ơn cứu chuộc, lại còn tỏ ra khinh miệt người thu thuế tội lỗi nữa. Ngược lại, người thu thuế không có gì để khoe khoang. Ông biết ông là một tội nhân, ông nói ít lời, nhưng thái độ của tâm hồn ông đã làm đẹp lòng Chúa. Lời cầu nguyện khiêm nhường của ông làm cho ông nhận được ơn tha thứ.
Qua dụ ngôn này, ta nhận thấy, mặc dù người biệt phái này thích khoe khoang những công đức của mình, lại còn khinh dể người khác, nhưng cái sai trái lớn của ông là ông tự cho mình làm được mọi sự mà không cần đến ân sủng và sự tha thứ của Thiên Chúa. Còn người thu thuế nhận thấy mình thiếu thốn, chỉ biết phó thác cho lòng thương xót của Chúa, kêu xin với lòng khiêm nhường, ông đã được Chúa nhận lời ban ơn tha thứ. Đúng là :
Muôn đời Chúa cự kiêu căng,
Và người khiêm nhượng Chúa hằng ban ơn.
(Gc 4,6)
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hc 35,15b-17.20-22a.
Chúa nhận lời kêu xin của kẻ nghèo hèn. Đây là chủ đề của đoạn sách Huấn ca này. Trong một xã hội, tiền bạc và quyền lực là tất cả, “dân nghèo” không có cơ may. Nhưng bài đọc 1 hôm nay khẳng định Thiên Chúa đối xử tử tế với hết mọi người. Ngài không thiên vị người giầu có và quyền thế. Ngài lắng nghe lời cầu nguyện khiêm nhường của người công chính và bé mọn, vì Ngài là thẩm phán công minh và là người Cha nhân hậu.
+ Bài đọc 2 : 2Tm 4,6-8.16-18.
Thánh Phaolô đang bị cầm tù ở Rôma. Ngài biết cuộc đời của mình sắp được kết liễu. Trong thư gửi cho Timôthêô, Ngài đã nói lên những suy nghĩ rất lạc quan :
– Ngài sung sướng vì mình như một vận động viên sắp về tới đích vì ngài đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho việc rao giảng Tin mừng.
– Ngài cảm tạ Chúa vì đã ban sức mạnh cho ngài được vượt qua những gian lao thử thách phải chịu. Ngài còn nôn nóng mong chờ ngày ngài được gặp lại Đấng mà ngài đã dành trọn cuộc đời mà phục vụ.
– Cái chết của ngài sẽ là một lễ tế dâng cho Chúa và ngài đón chờ vinh quang Chúa sắp ban cho ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 18,9-14.
Bài Tin mừng đưa ra hai mẫu người đối lập nhau về thái độ sống :
a) Người biệt phái: Ông này tự mãn khoe khoang những việc tốt của mình : không có tội gì cả, lại còn ăn chay, dâng cúng 1/10 lợi tức cho Chúa… Ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông ta ơn cứu chuộc. Thực ra, ông ta không có lòng yêu Chúa, chỉ khoe khoang công lênh của mình và Chúa phải yêu thương cũng như ban thưởng cho ông.
b) Người thu thuế: Người này cũng chẳng có gì để khoe khoang, anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Anh biết anh chỉ là một tội nhân, vì thế anh phó thác mình cho lòng thương xót của Thiên Chúa. Anh chỉ nói ít lời :”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Thái độ khiêm nhường của anh làm đẹp lòng Chúa và được nhận lời.
Sau cùng Đức Giêsu kết luận : Chúa không nhận lời cầu xin của người biệt phái mà chỉ nhận lời cầu xin của người thu thuế vì “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. DỤ NGÔN NGƯỜI BIỆT PHÁI VÀ NGƯỜI THU THUẾ.
Dụ ngôn nói về người biệt phái và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện : thái độ của người biệt phái tự mãn về chính mình, về sự thánh thiện của chính mình; còn thái độ của người thu thuế, tuy là một tội nhân, nhưng biết tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Kết quả : một người bị từ chối, một người được chấp nhận. Dụ ngôn này nêu lên hai nhân vật đặc biệt có tính cách tương phản để nói lên hai thái độ khác biệt khi cầu nguyện.
a) Người biệt phái.
Biệt phái thuộc nhóm Pharisêu, bắt nguồn từ nhóm người đạo đức (Hassidin) có từ thời Maccabê. Những người này sống tách biệt thành những cộng đoàn nhỏ để nên thánh. Họ chuyên cần suy niệm Lời Chúa và tuân giữ tỉ mỉ mọi lề luật thành văn cũng như truyền khẩu. Họ tin linh hồn bất tử, tin có sự sống lại, tin Thiên Chúa là Đấng thông suốt duy nhất. Nhưng họ lại quá bảo thủ những tập tục truyền thống của cha ông hơn cả Thánh Kinh. Họ thi hành luật quá đến câu nệ vào hình thức, giữ từng nét, mà thiếu hẳn Đức Ai. Đức Kitô đã không tiếc lời phê phán họ (Mt 23,13t; Lc 11,39; Mc 12,38t).
b) Người thu thuế.
Họ là những người cộng tác với đế quốc Rôma, thu thuế của người Do thái nộp cho người Rôma. Họ thường hà khắc để thủ lợi, để làm giầu cho bản thân mình. Hạng người này bị người Do thái căm ghét, khinh bỉ, coi họ là những tội nhân ngang hàng với gái điếm, cần phải tránh xa.
a) Đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ là nơi cầu nguyện, có tầm quan trọng đối với người Do thái. Người ta tụ tập ở Đền thờ vào những ngày sabát, ngày lễ, ngày chay để nghe Thánh Kinh, hát thánh vịnh và cầu nguyện. Tuy nhiên, mỗi người cũng có thể đến đó vào những lúc khác.
Có lẽ người biệt phái và người thu thuế đã lên Đền thờ cầu nguyện vào buổi sáng hay buổi chiều. Cùng với các tín hữu khác, họ đến tham dự nghi thức tha tội được cử hành mỗi ngày hai lần trong Đền thờ.
b) Người biệt phái cầu nguyện.
Người biệt phái đứng riêng một mình mà cầu nguyện. Ông không muốn đứng gần những người dân thường, sợ mắc phải nhơ uế cuả họ. Ông đứng thẳng người giống người Do thái quen làm khi cầu nguyện.
Lời nguyện của người biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, tiếp theo đó là danh sách những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm và cuối cùng là bản báo cáo thành tích vẻ vang của ông : chẳng những ông đã làm các việc đạo đức như Luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá Tội, nộp 1/10 lợi tức cho Đền thờ, mà ông còn tự nguyện làm những việc đó ở mức độ cao hơn, như ăn chay một tuần hai lần, nộp cho Đền thờ 1/10 tiền mua sắm mọi vật mình sử dụng.
Xét ra, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Ông thật là con người đúng mức, một con người hoàn hảo, không có gì đáng chê trách, một tín đồ trung thành với Lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Đây là một lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Chúng ta thấy ông không xin gì cho bản thân mình, nhưng chỉ là lời tạ ơn.
Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự kiêu tự mãn nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bèo bọt của mình mà trôi ra sông biển hết, lại còn có thái độ khinh bỉ người khác nữa :”Vì con không như bao người khác : tham lam , bất chính, ngọai tình, hoặc như tên thu thuế kia”(Lc 18.11). Nếu ông biết nhìn vào mình và đối chiếu với Đức Kitô thì ông không dám có thái độ ấy.
Còn một cái sai lầm nữa của ông là ở chỗ ông không nhận ra sự công chính là ân huệ Chúa ban (Pl 3,9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó, ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
c) Người thu thuế cầu nguyện.
Người thu thuế cũng đến Đền thờ cầu nguyện. Anh ý thức rằng mình làm cái nghề không tốt đẹp, ai cũng ghét, bị cho là giáo gian, đi cộng tác làm lợi cho ngoại bang. Anh tự cho mình là một tội nhân, ngang hàng với gái điếm (x. Mt 21,31-32). Có lẽ anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người biệt phái (“hay như người thu thuế kia”), nên anh khỏi cần cáo tội mình, anh chỉ đặt mình trước mặt Thiên Chúa, cúi đầu xuống, đấm ngực ăn năn :”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hòa với anh em, nhưng anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình hoàn toàn bất xứng. Ngay lúc đó, anh đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho anh nên công chính.
d) Kết quả sau lời cầu nguyện.
Sau khi đưa ra hai thái độ cầu nguyện của người biệt phái và thu thuế, thì Đức Giêsu đã phê cho một câu :”Người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”(Lc 18,14). Đức Giêsu muốn nói, lời cầu nguyện của người thu thuế với thái độ khiêm tốn và thống hối nên được ơn nghĩa với Thiên Chúa và được ơn tha thứ; còn lời cầu nguyện của người biệt phái với thái độ tự mãn thiếu lòng khiêm tốn và hoán cải, vì ông chỉ để ý đến sự công chính của riêng mình nên không được ơn nghĩa gì trước mặt Chúa và không được tha thứ. Người biệt phái này tuy tốt về phương diện không sai lỗi luật, nhưng ông không nhận ra rằng những ân tứ ông đang có là do Chúa ban cho chứ không phải tự ông mà có. Cái sai lầm của ông ở chỗ ông không nhận ra sự công chính là một ân huệ của Chúa ban, nên ông đã tự mãn về sự công chính của ông.
Chúa đã tha thứ cho người thu thuế, còn người biệt phái thì không “vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 18,14). Người ta thường nói :”Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Người phàm còn biết tha thứ cho kẻ hối lỗi, huống chi Thiên Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại không sao ? Nhiều lần, Đức Giêsu bày tỏ cho chúng ta biết : Thiên Chúa như Mục tử nhân lành, bỏ mọi sự đi tìm chiên lạc; như người Cha đầy lòng thương xót, vui mừng đón rước và mở tiệc ăn mừng đứa con đi hoang trở về (x. Lc 15).
II. THÁI ĐỘ PHẢI CÓ KHI CẦU NGUYỆN.
Trong khi cầu nguyện chúng ta phải làm 4 việc : thờ lạy, cám ơn, xin ơn và thống hối. Ta thường quên việc sau cùng này, nên hay đến với Chúa với tâm tình của người biệt phái. Trái lại, người thu thuế thì nhìn rõ trình trạng tội lỗi, bê bối của mình. Anh ta không quan tâm cái gì khác ngoài việc thấy rõ khoảng cách giữa tình trạng xấu xa với tình trạng lành thánh. Dù biết vậy, nhưng anh ta vẫn cố gắng kiên trì vươn lên, đồng thời chỉ còn biết van nài lòng thương xót của Chúa giúp sức mà thôi. Chính thái độ và cung cách đó của anh ta, lại được Chúa tha thứ và thương yêu. Nhận thấy mình tội lỗi, tìm cầu ơn tha tội và kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, đó chính là khởi điểm cho cuộc sống mới.
Truyện : Qủi không sám hối.
Một hôm có một tên quỉ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng:”Tôi thấy Chúa đối xử không công minh chút nào”! Chúa liền hỏi nó rằng:”Tại sao ngươi dám bảo Ta đối xử không công bằng”? Bấy giờ tên quỉ mới đáp:”Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và con ban hạnh phúc Thiên đàng đời đời cho chúng. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy nhất. Thế mà Chúa không khi nào tha thứ mà còn phạt chúng tôi phải xuống hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đối xử thiên vị và bất công lắm hay sao” ? Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói:”Loài người có phạm tội đi với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho. Còn lũ quỉ các ngươi, có bao giờ các ngươi hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho chưa”? Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỉ liền thét lên rằng :”Ma qủi chúng tôi không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội cho cả”. Nói thế rồi quỉ liền cong đuôi chạy mất.
Cầu nguyện không phải là lúc chúng ta đem mình so sánh với người khác, hay kể lể công trạng, nhưng là đặt mình trước sự thánh thiện và công minh của Thiên Chúa, như lời chia sẻ của thánh Phaolô với giáo đoàn Côrintô:”Phần tôi, tôi không mảy may bận tâm về việc anh em hay phiên tòa nhân loại nào xét xử, mà ngay tôi, tôi cũng không xét xử chính mình nữa. Vì cho dù trước lương tâm, tôi không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là tôi được giải án tuyên công. Đấng xét xử tôi, chính là Chúa (1Cr 4,3-4). Chỉ khi chúng ta đặt mình trước ánh sáng của Thiên Chúa, chúng ta mới thấy rõ sự bất toàn, và thiếu thốn của mình, nhờ đó, chúng ta mới có thể mở lòng mình đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Cầu nguyện còn là mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Cầu nguyện là giây phút chúng ta nhìn lại, để nhận rõ con người yếu đuối của mình. Chúng ta cần biết những thiếu thốn của mình, để có thể mở lòng đón nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tin mừng ghi lại :”Người thu thuế đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng:”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Người thu thuế đã không dám ngước mắt lên, vì anh ta biết mình là kẻ có tội, vì thế anh ta cũng biết rõ mình cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Người thu thuế đã kêu cầu đến lòng thương xót của Thiên Chúa, và anh đã được Thiên Chúa xót thương.
Xem thái độ cầu nguyện của người biệt phái, ta thấy ông ta rất tự hào và tự mãn. Ông ta đem cái kho công nghiệp của ông để trình bầy cho Chúa. Nhưng khốn nỗi, cái kho đó lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy chính mình. Có nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông. Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như thế này, không như người khác. Rốt cuộc, ông biệt phái lại là người quay vào mình, ông ngắm nghía vẻ đẹp của ông trước Thiên Chúa. Ông khép lại trên chính mình, dù chúng ta tưởng ông đã mở ra khi nói :”Lạy Thiên Chúa, con tạ ơn Ngài”. Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được đều do ơn Chúa ban. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Nguồn mạch, là Trung tâm, là Sức sống của cả đời mình, của những việc tốt mình làm được.
Ông biệt phái đã không tạ ơn thực tâm, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người biệt phái không xin Chúa điều gì, bởi vì ông không thấy mình thiếu gì cả. Thiên Chúa chẳng thể cho ông điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình (Augustine).
Tục ngữ ta có câu :”Cái thùng trỗng thì kêu to” hoặc “Biết ít thì khoe khoang, biết nhiều thì khiêm tốn”. Thêm một danh nhân có nói đại ý : người khiêm tốn là người sáng suốt vì biết mình và biết người, còn người kiêu căng thì ngược lại… Vũ trụ thế giới có biết bao điều kỳ lạ. Càng sống, càng học ta phải nhận ra mình còn “dốt”, vì hiểu biết thì hạn hẹp, so với cả thế giới thì chẳng nghĩa lý gì. Huống chi là dám kể công với Chúa, Đấng sáng tạo vũ trụ muôn vật thì quả là một sai lầm biết bao !
Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phó thác vào Chúa Quan phòng, đại lượng vô song, khôn ngoan vô cùng. Sau nữa, khi cầu nguyện ta không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Ta phải luôn nhớ rằng ta thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Thiên Chúa đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho. Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ qùi xuống bằng đầu gối, mới vào được.
Truyện : Hãy qùi gối xuống.
Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói :
– Tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chả thấy gì là đẹp cả.
Một người quì sau lưng ông, nói :
– Ông phải qùi xuống mới thấy đẹp.
Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.
Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, ta cũng phải qùi gối xuống mà van xin.
III. KHIÊM NHƯỜNG TRONG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY.
Trong kinh bảy mối tội đầu, ta đọc thấy ngay : Cải tội bảy mối có bảy đức, thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Qua đó ta thấy kiêu ngạo là nết xấu làm đầu mà không ai tránh được, kẻ nhiều người ít vì nó đã thâm căn cố đế vào trong con người ta.
Liền sau khi con người phản bội, Thiên Chúa hiện đến chỉ vào mặt :
– Hỡi người, hãy nhớ mình xuất thân là một hạt bụi (St 11,19).
Đã là một hạt bụi thì chớ nên tự cao tự đại.
Thế nhưng, người đời mấy ai còn nhớ tới lời dặn bảo của Thiên Chúa !
Tính kiêu căng rõ là một chứng bệnh gia truyền nan trị. Nó nan trị vì nó bắt nguồn từ tính TỰ ÁI.
Tự ái, ích kỷ, ngu muội, là ba chứng bệnh nguy hiểm mà nhà Phật gọi là Tham, Sân, Si.
THAM là vì ích kỷ.
SÂN là vì tự ái.
SI vì ngu muội.
Trong ba chứng bệnh nói đây thì SÂN là khó diệt hơn cả. Bởi vì tự ái là một thói xấu sống dẻo dai bậc nhất, đến nỗi thánh Phanxicô Salêsiô phải nói :”Nó chỉ ngưng hoạt động 15 phút sau khi tôi chết”.
Nếu nói rằng kiêu ngạo có nguy hiểm gì đâu, làm gì bằng tội giết người ? Nhưng thực sự nó nguy hiểm nhất trong các tội, vì nó làm hỏng các tính tốt và làm phát sinh ra các tính xấu khác. Người kiêu ngạo xem mình là trung tâm điểm, thay thế cho Thiên Chúa. Họ quay ra thờ ngẫu thần : đó là họ tôn thờ chính mình. Họ không coi Chúa là trung tâm điểm nữa. Tha nhân không là gì khác mà chỉ là những diễn viên trong một vở kịch, mọi người phải lo phục vụ cho riêng họ. Họ trở nên tự tôn tự đại, muốn cho mọi người để ý đến mình, họ tự tạo ra những hàng rào ngăn cách, tạo ra giai cấp, những chênh lệch trong xã hội, tạo ra xung khắc giữa người này người khác, dân này với dân khác, nước này với nước khác, kỳ thị da trắng da đen…
Họ coi thế giới như là của riêng mình. Mình có thể dùng khoa học để điều khiển được tất cả theo ý mình. Con người có thể tự tạo ra được hạnh phúc, biến thế giới này thành thiên đàng. Họ loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài để thành lập một thứ tôn giáo mới, trong đó con người được tôn thờ chứ không phải là Thiên Chúa nữa.
Ai cũng thích người khiêm nhường, ai cũng ca tụng đức khiêm nhường, nhưng ít người thực hiện được đức khiêm nhường, thậm chí lại có người đả kích tính khiêm nhường. Môn phái của triết gia Nietzsche nói thẳng thừng:”Khiêm nhường là đức tính của kẻ nô lệ”.
Sự thật thì Khiêm nhường tức là hiểu biết mình, là can đảm nhìn thẳng vào sự thật. Vì thiếu can đảm nhìn thẳng vào sự thật, nên người ta ai cũng sợ mình, và sợ mình hơn hết. Kẻ mà tôi tìm cách tránh né nhất là … chính mình tôi. Cần phải là người quân tử mới dám đối thoại với mình. Cuộc đối thoại với chính mình là cuộc đối thoại hồi hộp nhất, dễ sợ nhất. Nhiều lúc bi đát, đắng cay, xỉ nhục vô cùng cho tính tự ái. Nhưng tôi cần nó để tự giác và sống làm người.
Đức Khổng Tử đã nói:”Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri tức tri dã” : Cái gì biết thì cho là biết, cái gì không biết thì chịu là không biết, ấy là biết vậy.
Người ta thường nói :”Cao nhân tức hữu cao nhân trị” hay “Bảy mươi còn học bảy mốt”, đã cho thấy rằng dù ta có giỏi đến đâu cũng có người giỏi hơn. Ta phải tự thấy rằng mình chưa biết, trình độ mình còn kém thì ta mới có thể thâu nhận những lời dạy bảo của người khác, có như thế ta mới tiến bộ và có thể hiểu biết mình nhiều hơn được. Nhà tư tưởng Blaise Pascal nói rất đúng:”Tôi chỉ biết một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nói như thế có vẻ cường điệu, nhưng nó nói lên sự hiểu biết hạn hẹp của con người đối với ngoại vật, nhất là đối với chính mình.
Tâm tính người đời bất cứ ai làm việc gì thường muốn như ngọn hải đăng, càng đặt lên cao, càng chiếu rọi ra xa, nhưng đồng thời chung quanh dưới chân hải đăng tối tăm mờ mịt. Vì thế, một vị Linh mục dòng Tên nói:”Đức khiêm nhường của người công giáo không phải là ngọn hải đăng, nhưng là một ngọn đèn giấu kín giữa bản thân, nó có sức chiếu sáng khắp cùng thân thể, thấu ra bên ngoài, không nơi nào không có ánh sáng”.
Theo tâm lý chung của con người, thì người ta thích là con công hay múa hơn là một con sò im lìm dưới đáy biển. Con công có bộ lông thật đẹp để làm cảnh cho thiên hạ. Suốt ngày con công chỉ biết múa để mua vui cho thiên hạ :
Con công hay múa,
Nó múa làm sao ?
Nó rụt cổ vào,
Nó xòe cánh ra…
Con công chỉ có một công dụng là múa để làm trò cho thiên hạ, ngoài ra không dùng vào được việc gì. Trái lại, con sò tuy im lìm sống dưới đáy biển, không mấy người trông thấy nó, nhất là không bao giờ trông thấy diện mạo cuả nó, nhưng thịt của nó là một món ăn tốt, thơm ngon. Nhất là… đôi khi nó ngậm một hòn ngọc trai ! Con sò mà ngậm hạt trai thì quí hóa biết bao, bao nhiêu con công cũng không sánh kịp.
Đức Hồng y Mercier kể : Cuộc chiến tranh xong, lần thứ nhất gặp thống chế Foch tôi vui mừng bắt tay và nói :”Chào vị tướng lỗi lạc, đã làm vẻ vang nhân lọai”. Nhưng thống chế giơ tay lên, phân bua và nói :”Thưa Đức Hồng y, chúng tôi chỉ là khí cụ mù quáng trong tay Thiên Chúa”.
Càng thánh thiện càng phải khiêm nhường và phải khiêm nhường thật lòng. Benjamin Franklin đã cảnh giác chúng ta như sau:”Giả như tôi đã tập luyện được nhân đức khiêm nhường rồi, không nghi ngờ gì tôi sẽ trở nên hãnh diện vì nó”. Tôi có cảm giác rằng những người khiêm nhường thực sự phải là những người không biết đến sự khiêm nhường ở nơi mình. Ngay khi chúng ta biết rằng mình đang khiêm nhường , cũng là lúc chúng ta đánh mất nó.
Truyện : Thánh Phanxicô Salêsiô.
Khi nghe thiên hạ kháo láo và gọi mình là thánh, thì thánh Phanxicô nói rằng:”Thiên hạ gọi tôi là thánh, vì họ thấy tôi làm việc thánh; nhưng chắc cha linh hướng của tôi không nghĩ như họ đâu”. Còn khi ngài nghe nói : Ông De Belley phê bình và bảo ngài thiếu trí phán đoán. Khi gặp ông, ngài liền ôm lấy, và tỏ vẻ vui suớng và biết ơn.
Khiêm nhường là nhân đức quan trọng nhất trong việc nên thánh. Người ta coi khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện. Tất cả những tài năng, nhân đức dường như không có giá trị tự nó (en soi) trước mặt Thiên Chúa. Chúng chỉ nên có giá trị khi đứng chung với sự khiêm nhường, tự hạ. Cũng như những số 0 (zéro) dù nhiều tới đâu cũng chẳng làm cho con số do chúng tạo thành có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bởi số 1, thì lập tức mỗi số 0 sau đó đều trở nên có giá trị : càng nhiều số 0 đi sau số 1, thì giá trị con số do chúng tạo thành càng tăng lên. Mỗi số 0 sau số 1 đều làm cho con số đã có tăng giá trị lên gấp 10 lần.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
LỜI CẦU CỦA NGƯỜI PHARISÊU
“Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’” (Lc.18,9-12).
Mở đầu cho lời cầu nguyện, sau khi chào Chúa bằng hai tiếng “tạ ơn”, ông liền thực hiện một cuộc so sánh giữa mình và “người thu thuế” để hình ảnh mình được nổi bật, và nhờ đó Chúa “thấy rõ” được sự “công chính” của mình thật “không thể chê vào đâu được”!
Trong cách so sánh này, người Pharisêu thật như một họa sĩ sành điệu. Trước tiên, ông cho gam màu đen tối bao quanh bằng những hình ảnh của phường “tội lỗi”, điển hình như tên thu thuế kia: “con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”, để rồi, ngay sau đó, ông tô đậm hình ảnh của ông với gam màu rực sáng bằng những công đức mà ông đã tự thấy mình đã chu toàn hoàn hảo: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”
Người Pharisêu cố tạo cho mình hình ảnh “rực sáng”, và tất nhiên là muốn “tỏa sáng” giữa “bao kẻ khác”, từ đó, người Pharisêu có dáng đứng đầy tự hào, đầy kiêu hãnh – “đứng thẳng” – khi cầu nguyện. Cung cách cầu nguyện của người Pharisêu tương tự như cung cách của người ngồi vào vòng “đàm phán” với đối phương với tư thế “mạnh” của kẻ đang nắm ưu thế, đầy tự tin, đặt sệt tự tôn.
Cách cầu nguyện như vậy, giống hệt cách cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã từng dạy các môn đệ của Ngài phải xa lánh: “Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy” (Mt.6,5).
Cầu nguyện kiểu như Pharisêu là lời cầu nguyện để “vinh danh chính mình” chứ không phải “vinh danh Thiên Chúa”. Vì họ “tự nhận” và “tự tôn” họ đã nên công chính rồi.
Chính vì thấy mình đã nên công chính, nên họ trở nên mù lòa không còn nhận ra mình là kiếp người tội lỗi nữa. “Nhân vô thập toàn”. “Bảy mươi chưa gọi mình lành”… Những người Pharisêu không còn thấy được những thiếu sót của thân phận con người. Và sự đui mù tệ hại nhất, đó là họ không còn thấy sự kiêu căng nơi con người của họ. Một khối kiêu căng to đùng ở trong chính tâm hồn họ, mà họ vẫn không thấy, họ vẫn cho rằng lòng họ đạo đức và trong sáng. “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn” (Ga 9,40).
Vì họ tự cho mình có công đức, nên họ cho rằng đương nhiên là họ được Chúa ban ơn. Nên lời cầu nguyện của họ tuyệt nhiên không thấy kêu cầu đến lòng thương xót của Chúa, mà chỉ khoe khoang và phô trương công đức.
Vì họ cho mình là người công chính, nên họ khinh thường và loại trừ anh em đồng loại. Họ tự cho mình quyền được hưởng những ơn lộc Thiên Chúa, và xua đuổi anh em đồng loại ra khỏi con tim của họ. Họ từ bỏ anh em đồng loại của họ. Từ bỏ có nghĩa là không thể tha thứ. Không tha thứ cho anh em được, thì Thiên Chúa cũng không tha thứ cho con người. “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt.6,14).
Nếu không được Thiên Chúa thứ tha, con người không thể trở nên công chính. Vì con người chỉ có thể nên công chính, khi con người được là con Thiên Chúa.
LỜI CẦU CỦA NGƯỜI THU THUẾ
“Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc18,13).
Sau khi kêu cầu đến thánh danh Chúa, là lời van xin Chúa thương xót. Thật ngắn gọn. Có thể người thu thuế không còn biết nói gì thêm! Vì anh chắc đã tin rằng Chúa đã hiểu thấu nỗi lòng của anh. “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt.6,7).
Người thu thuế đang cần gì? – Cần Chúa thương tha thứ.
Xin thương xót là khát khao được Chúa thứ tha những lỗi lầm. Khát khao được thứ tha, là khát khao được vẫn là con Chúa.
Khát khao được vẫn là con Chúa, là nhìn ra thân phận bọt bèo, tro bụi, chẳng nghĩa lý gì, nếu không có Chúa. Điều ấy, cũng có nghĩa là nói lên: “con mãi mãi cần đến Chúa”.
Tâm tình ấy từng bước vươn lên, để từ những lời van xin biến thành những lời ca tụng. Từ những giọt nước mắt ăn năn biến thành những nụ cười hạnh phúc. Từ cử chỉ ngại ngùng khép nép “đứng đằng xa”, đến việc được Chúa ôm vào lòng tràn đầy yêu thương tha thứ.
Và thế là tình yêu Thiên Chúa được ca tụng đến muôn đời.
Vậy, lời kêu xin Thiên Chúa thương xót chính là lời ca tụng tuyệt vời, như lời Chúa Giêsu tóm gọn trong giáo huấn của Ngài: “Yêu thương như Thầy”.
Tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và biết múc nguồn tình yêu Thiên Chúa để chia sẻ với tha nhân, con người sẽ không có sự lên án nhau, không có sự loại trừ nhau.
Lời nguyện cầu của người thu thuế được đón nhận. Ông trở nên công chính từ giọt lệ thành tâm sám hối. “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không” (Lc.18, 14).
ĐỂ KẾT LUẬN
Trong dòng đời, ai biết ai công chính, ai biết ai tội lỗi?
Có những người trông thật công chính lại cực kỳ gian xảo! Có những tên trông gian manh nhưng lòng lại rất chân thành! Có những người ở địa vị cao trông rất đạo mạo lại có những hành động lừa đảo, dã tâm. Có những tên vô danh tiểu tốt lại âm thầm làm việc chân thiện hết lòng hết dạ!
Nhận ra thiện ác đã là khó, nhận ra người thiện người ác lại càng khó hơn!
Nhận ra hàng thiệt hàng giả đã là khó, nhận ra người thiệt người giả lại càng khó hơn!
Ai là người công chính? Đừng vội trả lời. Đừng vội xét đoán. (Lc.6,37). Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, mới có quyền kết luận. (Mt.6,4).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện “Thế nào là kẻ trộm” như thế này: Tử Cống được bổ làm quan Tể Tướng ở xứ Tín Dương. Khi sắp đi nhận chức, đến từ biệt Khổng Tử. Khổng Tử nhân bảo Tử Cống: – Phải siêng năng, phải cẩn thận. Chớ cướp, chớ đánh, chớ bạo tàn, chớ trộm cắp…
Tử Cống đáp: – Tứ này ngay từ lúc nhỏ đã theo học thầy là bực quân tử, có khi nào lại trộm cắp để lụy đến thân?
Khổng Tử nói: – Ngươi chưa hiểu nghĩa.
Ôi! đem người hiền đức này để thay người hiền đức kia, thế là cướp. Đem kẻ bất tiếu này để thay kẻ bất tiếu kia, thế là đánh đập. Hờ hững mệnh lệnh mà gấp rút hình phạt, thế là tàn bạo. Nhận ra điều thiện của người để làm ra điều thiện của mình, thế là trộm cắp. Trộm cắp đây không phải là trộm cắp tiền của vậy!
Lạy Chúa, Con yếu đuối quá, xin thương xót con, xin biến đổi sự yếu đuối của con thành sức mạnh cho cuộc đời con, tất cả nhờ lòng thương xót của Chúa. Amen.
.
CHỈ CÔNG ĐỨC KHÔNG MUA ĐƯỢC THIÊN ĐÀNG
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Ngay sau khi dạy cho các môn đệ biết về việc cần thiết phải cầu nguyện luôn luôn và cầu nguyện cách kiên trì, với tất cả lòng tin tưởng (dụ ngôn “Bà goá quấy rầy”), Chúa Giêsu còn dạy các môn đệ biết phải có tâm tình và thái độ nào khi cầu nguyện, qua dụ ngôn “Người biệt phái và người thu thuế”. Đây là một trong những dụ ngôn kinh điển của Tin Mừng Luca. Dụ ngôn đề cập 2 nhân vật chính: người thu thuế và người biệt phái. Cả hai cùng lên Đền Thờ cầu nguyện.
Người biệt phái đã tự hào cho mình là người công chính. Thế ông đã sống thế nào mà tự cho mình là một người công chính, một “á thánh”? Thưa, ông đã thực hành nghiêm chỉnh những gì luật dạy: không trộm cướp giết người, không tham ô hối lộ, không cờ bạc rượu chè, không xì ke ma tuý, không số đề bia ôm… Nói cách khác, ông chẳng làm gì đáng chê, đáng trách. Ông còn làm những việc đạo đức hơn cả những gì luật dạy: “Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần” (Lc 18,12). Trước thời lưu đày Babilon, luật chỉ buộc mỗi năm ăn chay một lần vào dịp Lễ Xá Tội (x. Lv 23,27). Sau lưu đày, người ta đã thêm vào luật một lần ăn chay nữa để tưởng nhớ cảnh Giêrusalem bị tàn phá. Nhưng người biệt phái này tỏ ra rất đạo đức, mỗi tuần tự nguyện ăn chay thêm 2 lần vào ngày Thứ Hai và Thứ Năm (tức là 104 lần/năm) để đền bù những thiếu sót của dân tộc đối với lề luật (x. Tanila Hoàng Đắc Ánh, Bài giảng Chúa Nhật – Tin Mừng theo Thánh Luca, tr. 214). Chưa hết ông còn tự phụ kể lể: “Tôi nộp thuế Thập phân về hết mọi vật tôi mua” (x. Lc 18,12). Luật chỉ buộc dâng một phần mười lợi tức cho các thầy Lê-vi; trong khi đó, người Biệt phái này tình nguyện dâng một phần mười tất cả các thứ, kể cả các thứ ông mua được vốn không buộc phải dâng.
Như vậy, rõ ràng những điều ông làm là rất tốt, tốt hơn điều Thiên Chúa đòi hỏi. Ông là người giữ đạo rất mẫu mực, không có gì đáng chê trách. Có lẽ ông còn mẫu mực hơn nhiều người Công giáo chúng ta gấp bội.
Nhưng vì sao ông lại không đẹp lòng Thiên Chúa? Vì sao Thiên Chúa không nhận lời cầu nguyện của ông? Thưa vì 2 lý do:
– Lý do thứ nhất, vì ông đã tự mãn tự phụ và kể công trước mặt Thiên Chúa, như thể sự công chính ông đang có là nhờ vào công trạng của mình, và như thể Thiên Chúa mắc nợ ông, vì thế Thiên Chúa phải trả công, phải ban thưởng cho ông. Ông lầm tưởng rằng với công đức của mình, ông có thể mua được Nước Thiên Đàng.
– Lý do thứ hai là vì ông tự cao tự đại, cậy dựa vào công đức của mình mà khinh thường người khác. Đại khái ông đã vênh váo: “Lạy Chúa, con không giống như thằng thu thuế khốn nạn đáng sa hoả ngục, đang đứng cuối nhà thờ kia kìa! Chắc là Chúa thấy nó rồi đó”. Rõ là ông không hề biết đấm ngực mình mà chỉ đấm ngực người khác.
Như thế, động cơ của những việc đạo đức ông làm là để tỏ ra mình là người công chính, chứ không phải là do lòng yêu mến. Ông chẳng mến Chúa mà cũng chẳng yêu người. Chính vì thế mà khi ra về, chẳng những ông không được tha thứ mà còn mắc thêm tội: tội kiêu ngạo. Ngược lại, người thu thuế tội lỗi thì được tha thứ và được nên công chính.
Có phải là do anh ta đã có nhiều công trạng đặc biệt không? Có phải do anh ta là người đạo đức và bác ái không? Hoàn toàn không! Anh ta chẳng có công trạng gì, ngoài một “mớ tội” công khai. Bởi lẽ theo cái nhìn thời bấy giờ, tất cả những người thu thuế đều bị liệt vào hạng người tội lỗi công khai đáng khinh bỉ, hạng mọt dân bán nước, tiếp tay với ngoại bang bóc lột chính đồng bào của mình…. Vậy thì do đâu mà anh ta được nên công chính, như lời Chúa Giêsu quả quyết ở đoạn cuối Tin Mừng: “Người thu thuế được nên công chính, còn người pharisêu thì không”? (x. Lc 18,14). Do trước mặt Chúa, anh biết khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Thể hiện qua các cử chỉ: đứng xa xa mà không dám tới gần cung thánh, cúi đầu, đấm ngực… Tất nhiên là đấm ngực chính mình, chứ không phải đấm ngực người khác như người Biệt phái. Hơn nữa, còn do anh biết giục lòng thống hối ăn năn một cách sâu xa, và tha thiết kêu xin lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Chỉ với một lời cầu xin ngắn gọn, có thể nói được là ngắn gọn nhất, mà anh lại được trở nên công chính. Thế mới hay lời Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: “Phàm ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18,14).
Chúng ta nên bắt chước thái độ của người nào khi chúng ta cầu nguyện? Của người biệt phái hay của người thu thuế? Có khi nào tôi rơi vào thái độ của người Pharisiêu không? Có đấy! Đó những lúc tôi đã gân cổ tranh cãi với người khác: “Tao đúng, mày sai; tao có lý, mày vô lý”… Đó là những lúc tôi bỉu môi, lên tiếng chê bai những người mà tôi cho là xấu xa, đáng trách. Đó là những lúc tôi tự cao tự đại vì thấy mình hơn người nào đó về nhiều mặt: đẹp trai hơn, xinh gái hơn, học giỏi hơn, con nhà giàu có hơn, v.v… Như vậy tôi chính là người Biệt phái đứng nghênh ngang trong Đền Thờ và khoe công trạng của mình với Chúa. Chúa không cần những cái đấm ngực thình thịch “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Chúa cũng chẳng cần công trạng của tôi. Chúa chỉ cần tấm lòng khiêm nhường thống hối của tôi.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết khiêm cung để nhận ra mình cũng đầy những thói hư tật xấu, đầy lỗi tội, để hiểu và cảm thông với anh chị em mình hơn, nhất là để biết xin Chúa thứ tha và biết cất lời ngợi khen một mình Chúa là Thiên Chúa, là Đấng Thánh, ngàn trùng chí thánh. Amen.
.
NGƯỜI PHARISIÊU VỚI NGƯỜI THU THUẾ
Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Người ta đếm được 50 dụ ngôn trong các sách Tin Mừng. Còn nhiều dụ ngôn Chúa nói không được các tác giả ghi lại. Riêng Luca có sở thích về dụ ngôn, đã ghi trên dưới 40 dụ ngôn, 15 là của riêng ngài. Dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế chỉ có nơi Luca.
Bắt đầu câu chuyện, Luca cho thấy: Đức Giêsu gửi nó cho những người tự hào là công chính. Công chính theo Kinh Thánh không chỉ có nghĩa như hiện nay là trả cho mỗi người cái gì là của người đó, song còn là người có lòng kính sợ Chúa, không làm điều gì mất lòng Ngài, đồng thời thương yêu người thân cận, không làm hại người khác. Abraham, Giuse, Giacaria, Isave, Đức Maria… được gọi là người công chính, mỗi người tín hữu đòi phải trở nên công chính.
Tuy nhiên, con người không bao giờ là người công chính, song là người được công chính hóa, nói cách khác, con người không phải là người “có giᔑ mà là người “được thi ân”. Vì, “bởi tội không vâng lời của một người, mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người, mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế” (Rm 5,19).
Người Pharisiêu
Thế nhưng, một số người tự hào cho mình là công chính, khinh chê người khác, đó là những người Pharisiêu. Chúng ta đừng vội ác cảm với họ. Thời đó, người Pharisiêu được dân chúng kính trọng, không ai giữ luật Maisen hơn họ, điều đó đã được người Pharisêu tỏ bày khi cầu nguyện. Luật chỉ buộc giữ chay một ngày trong năm vào dịp lễ Yom Kippour, lễ đền tội, người Pharisiêu đã tự nguyện thực hành việc sám hối bằng việc ăn chay hai lần trong tuần. Luật buộc nông dân có nghĩa vụ trích một phần mười hoa mầu, để chăm lo người nghèo và việc tế tự trong đền thờ, người Pharisiêu đã tự ý nộp thuế thập phân cả những thực phẩm nhỏ nhất. Bởi vậy khi lên đền thờ cầu nguyện, người Pharisiêu có lý để tạ ơn Chúa về những việc lành đã làm.
Lời cầu nguyện của người Pharisiêu xem ra tuyệt vời, nó tinh tuyền, không có chút gì vị kỷ. Ông không xin điều gì, ông chỉ cảm tạ Thiên Chúa, đó là lời kinh tạ ơn. Thánh lễ của chúng ta cũng là một lời kinh tạ ơn. Thế nhưng người Pharisiêu có điểm không hay đó là tính kiêu ngạo tự mãn.
Trước hết, Luca lưu ý thái độ đứng sững của ông. Tư thế đứng không có gì đáng trách, người thu thuế cũng đứng cầu nguyện. Nhưng có nhiều cách đứng, cách đứng của người Pharisiêu nói lên niềm tự tin, phấn khởi, không có sự kính sợ Thiên Chúa.
Ông đến, để kể công chứ không cầu nguyện, ông phô trương sự công chính trước mặt Chúa như đã quen khua chiêng đánh trống khi bố thí. Ông không để ý đến Chúa, mà chỉ quan tâm đến mình, đến công trạng của mình. Ông cầu nguỵên nơi mình chứ không cầu nguyện với Chúa. Ông không cần Chúa ban thêm hay làm gì cho ông cả. Ông đủ rồi.
Chẳng những thế, ông còn khinh chê người khác. Đức Giêsu không đồng ý với một tấm lòng khinh miệt. Tấm lòng của Người hoàn toàn dịu dàng và nhân hậu. Thiên Chúa không khinh thị một ai. Một người càng khiếm khuyết, hư hỏng, bệnh hoạn, dị dạng… Thiên Chúa càng yêu người ấy. Một người càng bị khinh bỉ, càng được yêu thương bằng một tình yêu không cần đáp lại.
Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, bị kết án, bị gạt ra ngoài lề, không được yêu thương. Con chiên đi lạc trong bụi gai bỗng nhiên hoàn toàn chiếm chỗ trong lòng người mục tử. Khinh chê! Làm thế nào người mục tử có thể khinh chê dù chỉ một con chiên. Một kinh nghiệm, ai cũng thấy: Một đứa trẻ có tật, không những không bị khinh chê mà còn chiếm trong lòng cha mẹ một vị trí quan trọng hơn cả những đứa con khỏe mạnh.
Ôi thật nghịch lý, tình yêu thuần khiết nhất, vô tư nhất, hướng về con người đang cần nó nhất, và xét trong một giới hạn không thể đáp trả tình yêu! Thiên Chúa lúc nào cũng như thế. Tình yêu không tính toán và không đòi đáp trả. Tình yêu tuyệt đối.
Thế nhưng người Pharisêu lại khinh chê người khác. Ông tưởng, ông công chính, không có tội, nhưng ông lại có tội rất nặng, tội tự kiêu tự đại. Tội của ông không phải là việc làm tồi tệ. Ông có vấn đề về thái độ, nhưng người dân châu Mỹ thường nói.
Trước hết là thái độ với Chúa, ông tự mãn, tự cho rằng mình đã tích trữ được một tín phiếu khổng lồ, ông coi Chúa như người mắc nợ. Sau là thái độ của với người khác, cho rằng ông là người công chính, còn những người khác đều tội lỗi.
Người thu thuế
Phần người thu thuế, ông đứng lẻn đàng xa, không dám ngước mắt lên, nhưng đấm ngực mà rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi”. Phải, ông là người tội lỗi thực sự, ai cũng biết. Với cái nghề, một nghề không mấy tốt đẹp, bị đồng hương, đồng đạo khinh bỉ cho là giáo gian. Chẳng những cộng tác làm việc cho người Lamã, ông còn ăn cướp bóc lột dân. Ông không có quyền là công dân, mọi người tốt lành tránh xa.
Đau khổ hơn nữa, ông thấy mình quá xa Thiên Chúa, hoàn cảnh của ông cũng như gia đình thật vô vọng. Bởi vì để ăn năn hối cải, không phải chỉ từ bỏ đời sống tội lỗi tức nghề nghiệp, còn phải hoàn trả và bồi thường thêm một phần năm những số tiền, đã tham nhũng. Làm sao biết được ông đã biển thủ của ai?
Ông cảm thấy mình bị tội lỗi đè bẹp, ông nói với Thiên Chúa điều đó, ông không có công gì để kể, ông đầy tội lỗi, xứng với sự phán xét của người Pharisiêu. Ông không cậy dựa vào sức riêng mình, tín thác nơi Chúa, khấn xin Thiên Chúa thương xót, lời khấn xin của ông đã được chấp nhận. Đức Giêsu bảo: “Ta bảo các ngươi, người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Thiên Chúa đã tha thứ cho người này mà không tha thứ cho người kia”.
Lời phán quyết của Đức Giêsu đã giáng trên cử tọa lúc bấy giờ như một tiếng sét, chắc chắn không ai trong họ ngờ được điều đó. Đức Giêsu không cho một lời giải thích nào. Ngài chỉ nói cách đơn giản, đó là cách Thiên Chúa xét xử. Nhưng một cách gián tiếp, Ngài cho thấy lý do tại sao Thiên Chúa xem ra bất công, Thánh Vịnh 51,18-19 viết: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát; một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê”.
Vâng, Thiên Chúa là thế đó, Ngài nhận lời người tội lỗi thất vọng và từ chối người chỉ để ý đến sự công chính của riêng mình. Ngài là Thiên Chúa của những người thất vọng, lòng thương xót của Ngài vô biên, Ngài muốn tha thứ. Aharon đúc tượng bò vàng, hối lỗi ăn năn; Đavít giết chồng cướp vợ, đã hết lòng sám hối; Dân thành Ninivê đã nghe lời tiên tri Giona, ăn chay, mặc áo nhặm, bỏ tro trên đầu đền tội… tất cả đã được Chúa tha thứ. Người Pharisiêu tự cho mình là công chính, như cốc nước đầy không cần đổ đầy nữa, không được tha thứ.
Và để kết luận, Đức Giêsu nói: “Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
.
Lm. Minh Vận
Xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người ta thường phân thành hai đẳng cấp cách biệt nhau, đôi khi còn đối nghịch miệt thị nhau, như chúng ta thấy Chúa đề cập tới trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay.
Thượng cấp: Các thầy thông giáo, biệt phái, luật sĩ và phái pharisiêu là bậc thầy được dân chúng tôn là hàng đạo đức, người công chính. Vì thế, họ thường được trọng kính, được bái chào ngoài đường phố, dành chỗ danh dự nơi bàn tiệc, chiếm chỗ nhất nơi hội đường; mang y phục lộng lẫy, tua rua dài, thẻ bài lớn, huy chương đầy ngực.
Hạ cấp: Trái lại, các nhân viên thâu thuế lại bị liệt vào hạng người tội lỗi, kẻ bất lương đáng khinh bỉ; vì họ là những viên chức của chính quyền Roma, như những tay sai của ngoại bang, tôi tớ của đế quốc, những hạng người bị gọi là mọt dân, đục khoét, hối lộ, hà hiếp, bóc lột dân chúng.
I. ĐỂ CẢNH TỈNH NGƯỜI KIÊU CĂNG
Để cảnh tỉnh những con người kiêu căng, tự cao, tự đại, tự tôn mình là người công chính và khinh dể kẻ khác, Chúa đã nêu ra một dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện:
Người biệt phái với điệu bộ huênh hoang, thay vì dâng lời ngợi khen chúc tụng Chúa, ông ta lại liệt kê một loạt những công phúc việc lành ông đã thực hiện; thay vì thống hối xưng thú tội lỗi mình để cầu xin Chúa tha thứ, ông lại phang phui các tội lỗi của người khác. Sau cùng, ông đã tự mãn kết tội: “Tôi không như tên thu thuế khốn nạn tội lỗi dưới kia”. Trái lại, người thu thuế, tự cảm thấy mình là kẻ tội lỗi, khép nép đứng đàng xa mãi cuối Đền Thờ, cúi đầu không dám ngước mắt nhìn lên, đấm ngực khẩn cầu ơn tha thứ: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi”. Để kết thúc dụ ngôn, Chúa đã quả quyết: “Người thu thuế ra về được khỏi tội, còn người biệt phái không đáng lãnh nhận ơn tha thứ “. Rồi Chúa kết luận: “Vì, tất cả những ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống và những ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
II. MÃNH LỰC CỦA LỜI CẦU KHIÊM TỐN
Lời cầu nguyện của những kẻ khiêm tốn có một mãnh lực vô song, vì họ luôn chân nhận mình là một thụ tạo, có nghĩa vụ phải tôn vinh ca ngợi Đấng Tạo Hóa; họ ý thức thân phận thụ tạo của mình là phải hoàn toàn tùy thuộc Đấng dựng nên mình, như những kẻ thụ ân luôn phải cảm tạ Chúa, vì muôn ơn phúc Người đã ban; họ thú nhận mình chỉ là những tội nhân đáng Chúa trừng phạt, nên họ cần phải thống hối ăn năn và khẩn cầu ơn Chúa tha thứ tội lỗi. Sau cùng, họ tự cảm nhận được diễm phúc làm con cái Chúa, nên họ phải luôn dâng lời cảm tạ Chúa là Cha Nhân Từ hằng ban muôn vàn ơn lành cho họ và họ cố gắng sống hết tình con ngoan thảo đối với Chúa.
Vì thế, lời cầu của người khiêm tốn dâng lên được Chúa đoái thương chấp nhận, tha thứ tội lỗi và ban muôn phúc lành cần thiết. Đúng như lời Thánh Phêrô đã quả quyết: “Chúa hằng ban ơn cho người khiêm hạ; nhưng Chúa chống lại kẻ kiêu căng tự phụ”.
Ngoài ra, lời cầu của người khiêm tốn còn có thế lực chinh phục tha nhân trở về với Chúa. Câu truyện sau đây minh chứng điều đó: Bà Dorothy Day từ trần tháng 11, 1980, hưởng thọ 84 tuổi. Khi tường thuật về cái chết thánh thiện của bà, tời báo New York Times đã kể bà là một nhân vật có thế lực nhất trong lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ. Sau ngày bà từ giã cõi đời, người ta đã khơi dậy một phong trào, vận động xin Giáo Hội phong Thánh cho bà, vì cuộc đời thánh đức và các công việc từ thiện bái ái bà đã thực hiện để cứu giúp những người nghèo đói túng thiếu ở thành phố New York.
Trong cuốn sách nhan đề: “From Union Square to Rome”, bà đã tự thuật cuộc trở lại Công Giáo của bà như sau: “Một điều lôi cuốn tôi trước hết, là một hôm, tôi thấy hình ảnh một bà mẹ đang quì đăm chiêu sốt sắng cầu nguyện. Hình ảnh ấy đã lay động lòng tôi cách mãnh liệt và sâu xa, đến nỗi không bao giờ tôi có thể quên được”. Cũng trong cuốn tự thuật đó, bà còn viết: “Trong những ngày đầu khi tôi mới trở lại, tôi thường nghỉ đêm ở quán trọ, để sáng mai tôi có thể tới dự Thánh Lễ sớm tại nhà thờ Thánh Giuse; điều lôi cuốn tôi đến nhà thờ này, là tôi được thấy người ta quì cầu nguyện cách sốt sắng”. Bà còn quả quyết: “Tôi khát khao được Đức Tin như họ, và bỗng nhiên tôi được ơn tin vào Chúa, nên tôi đã quyết tâm gia nhập Giáo Hội Công Giáo”.
III. SỰ SÁNG CÁC CON PHẢI CHIẾU GIÃI
Mãnh lực nào đã chinh phục bà Dorothy Day từ một người ngoại trở lại Công Giáo? Sức mạnh nào đã biến đổi con người của bà, từ một người phụ nữ tầm thường đã trở nên một người thánh thiện, hăng say xả thân phục vụ trong công cuộc từ thiện bác ái, cứu giúp những người nghèo khó cùng khổ? Đó chính là hấp lực gương sáng của những người có Đức Tin vững mạnh khi họ khiêm tốn sốt sắng cầu nguyện.
Một Cha già Việt Nam, dâng Thánh Lễ trong một cộng đồng người Mỹ. Sau Thánh Lễ, một số người đã tới bày tỏ: “We are very happy to attend your Mass”. Ngài hỏi: “Why?” Họ đã trả lời: “You believe what you do”.
Những người đã từng được chứng kiến Đức Thánh Cha Piô XII cầu nguyện, đều đồng thanh quả quyết: “Ngài giống như một Thiên Thần sốt mến”.
Cha Thánh Gioan Maria Vianney thường xuyên thấy một ông già nông dân vào nhà thờ quì gối thầm lặng, mắt đăm chiêu nhìn lên nhà tạm Thánh Thể Chúa cách sốt sắng phi thường. Một hôm, ngài hỏi cho biết ông cầu nguyện thế nào, mà không thấy ông nói gì với Chúa. Ông trả lời đơn sơ: “Je Le vois, Il me voit. Ca suffit”. Xin tạm dịch: “Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con. Thế là đủ rồi”.
Một cụ già nhà quê, là một trong những người được mời đến thẩm vấn, để lập án xin phong Thánh cho Cha Gioan Maria Vianney, đã được ông phát biểu một nhận định thâm thúy về Cha Gioan Vianney như sau: “Tôi nhìn thấy Thiên Chúa nơi con người Cha Gioan Vianney”.
Kết Luận
Khi dâng hay tham dự Thánh Lễ, tham dự các giờ phượng tự hay bất cứ một việc đạo đức nào, chúng ta có cảm nghiệm được rằng: Chúng ta đang được diễm phúc diện kiến với Thiên Chúa, tâm sự với Đấng thánh thiện và uy linh cao cả, Đấng đáng yêu mến vô cùng, Đấng mà các Thần Thánh trên trời, các chính nhân dưới thế và muôn loài muôn vật phải hết lòng yêu mến, phụng thờ, kính tôn?
Khi giao tiếp với tha nhân, nhất là khi chúng ta làm việc phụng sự Chúa, người ta đã gặp thấy Thiên Chúa nơi chúng ta và cảm nghiệm được Thiên Chúa đang tưởng nghĩ, nói năng và hành động nơi con người chúng ta chưa?
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Đã từ lâu, nền kinh tế xã hội, văn hóa giáo dục của chúng ta bị mắc vào căn bệnh, gọi là bệnh thành tích, cấp trên chỉ ngồi ở văn phòng và thỏa mãn với những con số báo cáo thành tích của cấp dưới, mà không biết thực tế như thế nào. Các báo cáo toàn là con số ảo, báo cáo láo và chỉ có dân chúng là người thiệt thòi thật, nghèo đói thật. Cũng nhiều lần từ Quốc Hội đến Trung Ương họp bàn và đưa ra kế hoạch chống lại bệnh thành tích này, nhưng dường như vẫn chưa có gì thay đổi, mà ngày càng trầm trọng hơn. Bệnh này không chỉ ở ngoài xã hội, mà có khi nó cũng đang âm thầm ảnh hưởng trong các sinh hoạt của các giáo xứ, giáo phận và giáo hội, khi người ta cũng thỏa mãn với một số công việc bác ái, mục vụ, truyền giáo và nhất là người ta thỏa mãn với các công trình xây dựng bên ngoài mà quên đến chất lượng đời sống đức tin của mình và của người tín hữu, thì đó cũng là bệnh thành tích.
Thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ và Biệt phái là nhóm người lãnh đạo tôn giáo cũng đã mắc căn bệnh hình thức và thành tích này, chính vì thế đã nhiều lần Đức Giêsu đã thẳng thắn cảnh cáo lối sống đạo hình thức ở nơi những con người này. Họ giữ đạo không phải vì lòng yêu mến Chúa, họ chu toàn lề luật là để tỏ ra cho mọi người thấy sự thánh thiện hoàn hảo của mình, và họ làm các việc phúc đức là để phô trương với mọi người và để tính công tính điểm với Chúa. Vì thế nhiều lần chúa Giêsu đã không ngần ngại gọi những người này là đồ giả hình, là mồ mả tô vôi xanh đỏ bên ngoài, là kẻ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo đi đứng nghênh ngang để người ta bái chào.
Câu chuyện trong bài Tin Mừng cho thấy thái độ của hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người thu thuế và một người biệt phái, người biệt phái khi lên đền thờ cầu nguyện, gọi là cầu nguyện nhưng thực ra anh ta lên đền thờ để đọc một bài báo cáo thành tích dài trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Thái độ của anh rất nghênh ngang và tự mãn, anh đứng thẳng và nói: Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như bao kẻ khác: tham lam, bất công ngoại tình, hay như tên thu thuế kia, tôi ăn chay một tuần hai lần và dâng một phần mười hoa lợi của tôi. Kể ra như thế, cho thấy, bên ngoài cuộc sống của anh thật hoàn hảo tốt đẹp, nhưng đàng sau lời cầu nguyện ấy lại là một sự khoe khoang về thành tích của mình. Anh nhìn thấy mọi người chung quanh đều thua kém mình về đời sống đạo đức, anh thấy mình hơn hẳn mọi người về đời sống luân lý: Tôi không như bao kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình. Anh còn so sánh mình và chà đạp lên danh dự và thân phận của người khác khi anh so mình: tôi cũng không như tên thu thuế đang quỳ đàng kia, so với việc đạo đức và đời sống của anh, thì người thu thế chỉ như rơm rác. Chưa dừng lai ở đó, bản báo cáo của anh còn trổi vượt khi anh kể lể: Tôi ăn chay một tuần hai lần, điều này vượt quá cả những đòi hỏi của lề luật, và dâng một phần mười hoa lợi, lại càng chứng tỏ rằng anh ta rất quảng đại để dâng cúng vào đền thờ, nhưng có lẽ anh chưa bao giờ biết chia sẻ và cho đi. Ở điểm này anh lại càng có dịp để hãnh diện với mọi người, và có địp để ném cái nhìn khinh miệt vào người thu thuế là kẻ chỉ biết tham lam vơ vét.
Thế nhưng bản báo cáo thành tích của người biệt phái này lại không phải là điều Chúa muốn nghe và muốn thấy. Điều Chúa muốn thấy và chờ đợi đó là một tâm hồn khiêm nhường, là những lời cầu nguyện chân thành phát xuất từ đáy lòng, từ con tim, và Chúa muốn thấy những tâm hồn dám đặt mình vào tay Thiên Chúa hơn là những người đặt mình vào những công việc mình đã làm. Trái lại người thu thuế đã có tâm tình khiêm nhường trước mặt Chúa, anh nhận thấy mình nhỏ bé và tội lỗi trước sự cao cả và thánh thiện của Thiên Chúa, anh không dám bước lên, không dám dứng thẳng, mà chỉ dám quỳ sấp mình ở đàng xa xa, và đấm ngực thú nhận về những sự bất toàn tội lỗi của mình: Lạy Chúa xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi. Anh chẳng có công gì trước mặt Chúa, anh cũng chẳng làm được việc gì nổi bật trước mặt người đời, nhưng anh chỉ có một tâm hồn thống hối sâu xa, để xin sự thương xót tha thứ của Chúa. Chúa Giêsu đã kết luận: Người này ra về thì được nên công chính, còn người kia thì không. Vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Thiên Chúa không ưa những kẻ kiêu căng ngạo mạn, Thiên Chúa ngoảnh mặt làm ngơ trước những kẻ cậy dựa vào bản thân, tiền bạc và của cải vất chất, Thiên Chúa không muốn nghe những lời khoe khoang khoác lác của những kẻ giả hình, trái lại Thiên Chúa yêu mến những người bé nhỏ khiêm nhường, và những người biết cậy trông vào tình thương của Chúa. Tác giả của sách Huấn Ca hôm nay đã đúc kết lại những cảm nghiệm của ông về Thiên Chúa, khi nói: Thiên Cúa là Đấng xét xứ, Ngài không thiên vị ai, Ngài không vị nể ai mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng lắng nghe lời kêu xin của kẻ bị áp bức, người mồ côi góa bụa. Lời cầu nguyện của kẻ nghèo hèn thì vượt ngàn mây thẳm.
Thưa quý OBACE, bệnh thành tích, lối giữ đạo kể công, có thể nó cũng đang ảnh hưởng trong đời sống đạo của mỗi người, từ các linh mục đến người tin hữu, từ cấp Ban Hành Giáo đến cấp giáo xứ và giáo phận. Người ta rất dễ rơi vào tình trạng huênh hoang khoe khoang về thành tích của ban mình, của nhiệm kỳ mình, của giáo xứ mình, mà lại quên việc canh tân đời sống đức tin, thăng tiến đời sống đạo. Các linh mục rất dễ rơi vào tình trạng an phận với một vài công việc mục vụ của mình, tập trung nhiều vào những hình thức bên ngoài, những công trình vật chất nhiều hơn là xây dựng đời sống cộng đoàn, chú tâm đến những phần nổi mà không quan tâm thao thức về đời sống thiêng liêng, khi nghĩ rằng: tôi vẫn dâng lễ, tôi vẫn cử hành các bí tích, và coi như thế là đủ trong đời sống đạo của cá nhân và của cộng đoàn.
Còn đối với tín hữu, chúng ta rất dễ rơi vào lối sống đạo kể lể công đức với Chúa với mọi người khi cho rằng: tôi vẫn đi lễ Chúa Nhật mỗi tuần, tôi chẳng trộm cắp giết người hay làm thiệt hại của ai, tôi vẫn dâng cúng đóng góp cho nhà thờ, tôi còn làm ông này bà nọ trong xứ, tôi bỏ bào nhiêu công sức, gia đình tôi đóng góp cái này, ủng hộ cái kia…, mà chúng ta quên không làm mới lại tương quan của chúng ta đối với Chúa, không làm phong phú đời sống đức tin, như thế, thì có khác gì người biệt phái trong cầu chuyện của tin Mừng hôm nay.
Như đã chia sẻ ở trên, điều mà Chúa muốn và chờ đợi ở chúng ta là một thái độ khiêm nhường, nhận ra sự yếu hèn thấp kém và tội lỗi của mình, và đến với Chúa để cầu xin sự thương xót và tha thứ. Nhận thật mình là kẻ tội lỗi yếu đuối, điều đó không làm giảm giá trị con người, trái lại nó giúp chúng ta biết khiêm tốn hơn, chân thành hơn khi đến với Chúa và với anh em. Nhận mình là kẻ tội lỗi và xin sự thương xót như người thu thuế trong câu chuyện, là nhận mình cần đến sự trợ giúp và tình yêu của Thiên Chúa, để mình cố gắng hơn nữa, sống tốt hơn nữa.
Lối sống đạo hình thức, thành tích nó cũng đang thể hiện nơi nhiều gia đình, nơi các bậc làm cha mẹ, nhiều người đến với Chúa mà còn tính toán thiệt hơn, sống đạo chỉ là để tránh không phạm luật, không bỏ lễ, mà quên đi điều tích cực và cần thiết, đó là tấm lòng của chúng ta khi đến với Chúa. Vì chỉ để tránh phạm luật, mà nhiều người đến với Chúa hết sức tính toán từng phút, đi trễ về sớm, hoặc là chỉ đến nhà thờ cho có hình thức qua lần, gọi là có đi lễ ngày Chúa nhật mà không hề có một chút tâm tình tạ ơn hoặc thành tâm sám hối.
Cũng như người biệt phái trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, khi đến nhà thờ anh ta đã chỉ còn mân mê với những thành tích của mình mà không nhìn thấy Thiên Chúa nữa, nhiều bạn trẻ ngày nay cũng vậy, bên ngoài họ tự hào, tự mãn về sự thành công và đẳng cấp của mình trong xã hội, nhiều người nghĩ mình đã làm được nhiều thứ, và tự mình có thể giải quyết được tất cả công việc, và không nhìn thấy Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời của mình, vì thế, họ đến với Chúa với một thái độ hời hợt, như một chương trình đã được cài đặt sẵn, mà không có một tâm tình khiêm nhường sám hối.
Hãy cùng với người thu thuế hôm nay, quỳ gối, đấm ngực mà thưa lên với Chúa: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Chúa sẽ nhìn thấy sự khiêm nhường thành thật của chúng ta và sẽ nhận lời cầu xin và biến đổi chúng ta nên công chính. Amen.
.
Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Ngày kia, Khổng Tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan Hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: “Người học trò tin cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng?” Khi Tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói:
– Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng?
Nhan Hồi liền chắp tay thưa:
– Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bò hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất đi, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng:
– Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ!
Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám dỗ rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn: “Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi”.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra ông đang độc thoại một mình. Ông “tạ ơn Chúa” nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.
Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này: ‘Vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”. Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa ban chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm lỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.
Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ.
Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Kitô là Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen.
.
An Phong
Sứ điệp Lời Chúa
Tin mừng chúa nhật 30 thường niên C là dụ ngôn người thu thuế và người Pharisêu. Mặc dầu hai người này được xem là hai mẫu người tiêu biểu, đại diện cho người tội lỗi (người thu thuế) và người đạo đức (người Pharisêu), nhưng họ không phải là tiêu biểu cho toàn thể những người mà họ đại diện. Chắc chắn là có nhiều người Pharisêu “tốt hơn” người Pharisêu trong câu chuyện này và nhiều người thu thuế khác cũng vậy. Có lẽ Đức Giêsu không muốn nói những con người cụ thể cũng như những cách sống cụ thể. Dụ ngôn này muốn nói đến Thiên Chúa chấp nhận người tội lỗi hoán cải, và không chấp nhận người chỉ tin vào sự công chính của riêng mình. Như thế, tin nhận Thiên Chúa, sấp mình trước nhan Người thì hơn là bằng lòng với những thành quả đạo đức cá nhân.
Suy niệm
Trong xã hội Do Thái, thời Đức Giêsu có ba việc mà người đạo đức phải thực hiện suốt đời mình, đó là: cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Người Pharisêu trong câu chuyện hôm nay là một người đạo đức. Ông hãnh diện về việc chu toàn lề luật, ăn chay… Ông thực là một người đạo đức, được mọi người chung quanh tôn trọng. “Khiêm tốn là dám chấp nhận những gì mình có được để phục vụ cộng đoàn”. Người Pharisêu có thể được coi là “người khiêm tốn”, nhưng ông hết khiêm tốn khi đánh giá những việc làm của mình và khinh khi người khác. Hơn thế nữa, trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là con số zêrô lớn. Ông hết khiêm tốn khi hãnh diện về những việc đã làm và tự đánh giá mình “hạnh kiểm loại A” trước mặt Thiên Chúa. Sự công chính của một người không phải chỉ là những thành quả cá nhân trong đời sống đạo đức, nhưng còn phải tin vào Thiên Chúa và mở lòng đón nhận ơn cứu độ đến từ Người. Nói như thế không phải muốn làm giảm nhẹ những việc đạo đức cá nhân, nhưng việc đạo đức cá nhân đó phải được thực hiện với lòng tin, cậy, mến yêu Thiên Chúa, đồng thời không coi thường người khác.
Đời sống của các vị thánh là một bằng chứng rõ nét. Phong thánh cho một người là đặt người đó làm kiểu mẫu, chuẩn mực, tiêu biểu cho đức tin, cậy, mến Kitô giáo (canonization nghĩa là chuẩn mực hóa, hay còn nghĩa là phong Thánh). Các vị thánh thực hiện các nhân đức như thương người, khổ chế, cầu nguyện… vì các vị tin vào Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”. Nếu không thế, các vị chỉ là những vĩ nhân của cuộc đời. Vả lại, các việc đạo đức các vị làm được không cầu mong được “cấp bằng khen”, “giải thưởng” này khác (chắc chắn Mẹ Têrêsa Calcutta không mong những giải thưởng đời ban tặng, nhưng thực tế, Mẹ có nhiều giải thưởng.).
Người thu thuế trong dụ ngôn là người nhận mình chẳng có nghĩa lý gì trước mặt Thiên Chúa. Ông là người bị xã hội Do Thái đánh giá là người tội lỗi. Những người chung quanh – nhất là “những người đạo đức” coi thường ông. Ông đứng xa xa, cầu nguyện như một người đầy mặc cảm vì bị coi thường, nhưng cũng như một người đầy lòng khiêm tốn “không dám ngước mặt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội’”. Ông cần Thiên Chúa thương xót và cứu độ. Lòng đầy tin tưởng và cần đến Thiên Chúa đã được Thiên Chúa chuẩn nhận “người này ra về được khỏi tội”. Cho dù ông có thực sự tội lỗi đến đâu, lời Đức Giêsu nói đã công chính hóa ông. Thiên Chúa luôn là Đấng đưa tay cứu vớt con người khi họ biết đưa tay cầu cứu Người. Sự công chính của mỗi người cũng bắt đầu từ lúc họ biết đấm ngực, cúi mình xuống và xin Thiên Chúa thương xót.
Phải chăng chúng ta là người “đạo đức” – theo kiểu Pharisêu – hay chúng ta là người “công chính” vì cần đến Thiên Chúa cứu độ – như người thu thuế.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa Giêsu,
là Đức Chúa và là Cứu Chúa của con.
Trong tay Ngài, con được an toàn.
Nếu Ngài gìn giữ con, nào con sợ chi.
Nếu Ngài ruồng bỏ con,
con không còn gì để hy vọng nữa.
Con xin Chúa ban điều tốt nhất cho con,
và con xin phó thác hoàn toàn cho Chúa.
Hồng y Newman
.
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô, ngài đã khẳng định thật mạnh mẽ khi nói: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5, 5). Thật vậy, kiêu ngạo là kẻ thù số một của Thiên Chúa, bởi vì nó là con đẻ của Ma Quỷ. Ngược lại, khiêm nhường là trở nên giống Con Thiên Chúa làm người.
Hôm nay khi nói về đức khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể cho dân chúng và các Tông đồ nghe dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Dụ ngôn được khởi đi từ việc Đức Giêsu nhận định về một tầng lớp trí thức trong dân tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác (x. Lc 18, 9). Họ là những người Biệt Phái, luôn miệng khoe khoang mình là người người đạo đức, chuyên cần suy gẫm Lời Chúa, tuân giữ cách tỉ mỉ từng dấu chấm, dấu phết, rồi thông luật, nắm bắt được mọi vấn đề và, có lòng quảng đại vượt trội. Điều này được thể hiện rất rõ qua hình ảnh của người Biệt Phái hôm nay. Ông ta cùng lên cầu nguyện một trật với người Thu Thuế. Khi ông ta cầu nguyện, thay vì tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ mà họ đã nhận được, thì họ lại kể lể, liệt kê thành tích của mình; đồng thời tố cáo anh em đồng loại. Nào là: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18, 12). Quả thật, những thành tích đó, đã gắn liền với cái tôi ích kỷ của ông, nên cũng từ cái tôi đó mà ông trở nên rỗng tuếch. Đúng là: “cái thùng kêu to là cái thùng rỗng”. Ông đâu biết rằng mọi sự là của Chúa, nếu Chúa không ban cho ông thì ông đâu có của cải để mà làm như vậy… Sự khoe khoang của nhà Biệt Phái đã làm cho ông ta mất phần phúc Nước Trời. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã dạy: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6, 1). Sự khiên nhường của ông chính là một sự khiêm nhường giả tạo. “Khiêm nhường như vậy thì bằng bốn lần kiêu ngạo”.
Hình ảnh người Thu Thuế thì trái ngược hẳn. Ông ý thức mình là người tội lỗi trước mặt Chúa, nên ông chẳng có gì để khoe cả, ông chỉ có con người tội lỗi, tấm lòng thành và tâm tình sám hối của mình mà thôi. Vì vậy, ông Thu Thuế này đã hết lòng tin tưởng và cậy trông vào sự nhân từ của Thiên Chúa. Ông khiêm tốn không dám ngẩng đầu lên vì coi mình không xứng đáng tiến đến gần Chúa. Vì vậy, từ đàng xa, ông này đã thốt lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Tấm chân thành của ông đã đụng tới trái tim, lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, nên ông đã được Chúa thương nhận lời. Nói về sự khiêm nhường, Gióp đã phải thốt lên: “Chúa triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng và cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt” (G 22, 29). Người Thu Thuế hôm nay quả là một người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa. Ông đã nhận ra con người thật của mình để tự hào một cách khiêm tốn, và tự trọng đúng với giá trị của mình (x. Hc 10, 28).
Kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã kết luận bằng lời xá tội và tuyên án “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” bởi vì “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52).
Hình ảnh và thái độ của người Thu Thuế hôm nay đáng để cho mỗi người chúng ta noi theo.
Muốn khiêm nhường thực sự, chúng ta phải sám hối thật lòng, phải nhìn lại quá khứ lịch sử cuộc đời chúng ta để thấy được Thiên Chúa là Đấng yêu thương, tha thứ, trung thành; còn chúng ta thì vô ơn, bội bạc, bất trung… Khi nhìn lại quá khứ của chúng ta như thế, và chúng ta đặt mình trước mặt Chúa để thấy Chúa lớn lao, thấy Chúa là Chúa Tể, ta chẳng có gì, mà nếu có thì cũng là do ơn Chúa. Vì thế, tâm tình sám hối và tạ ơn là dấu chỉ của kẻ khôn ngoan. Thậy vậy, muốn đón nhận được ơn Chúa, ta phải trở nên người bé nhỏ, đơn sơ và khiêm tốn.
Nói về đức khiêm nhường, hẳn chúng ta vẫn còn nhớ Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Khi ngài còn là Khâm sứ Toà Thánh kiêm Đại diện Tông Toà quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Lúc đó có một linh mục bất mãn với ngài, nên viết thư tố cáo ngài nhiều chuyện. Tuy nhiên, thay vì giận dữ, Đức Giáo Hoàng đã trân trọng kẹp thư đó vào trong cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày suy gẫm, để sửa sai và để nhớ đến vị linh mục đó và cầu nguyện cho vị linh mục đã tố cáo và ngài coi là đại ân nhân của mình. Khi gặp lại vị linh mục đó ở Vaticăng, trong một buổi triều yết riêng, vị linh mục này rất sợ, vì biết những việc sai lỗi của mình, nhưng khi gặp, Đức Giáo Hoàng đã chủ động tiến lại, ôm trầm lấy vị linh mục đó và ôn tồn trong khiêm tốn, ngài nói: “Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thơ con viết vào Kinh Thánh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con” (x. Đường Hy Vọng).
Mong thay, mỗi chúng ta hãy có được tâm tình sám hối như người Thu Thuế và thái độ khiêm nhường như Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Được như thế, chúng ta sẽ gặp được bình an, hạnh phúc, và được trở nên giống Thiên Chúa. Thật vậy: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30).
“Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” phải là lời cầu nguyện của chúng ta hằng ngày, mọi nơi, mọi lúc. Khi lời cầu nguyện đó được thốt lên thì cũng là lúc ta nhìn lại chính mình, để cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa nhiều hơn; yêu thương anh chị em và không bao giờ dám tố cáo lỗi lầm của người khác như người Biệt Phái khi xưa. Có lẽ nhiều lúc trong mắt chúng ta vẫn có cái xà thì làm sao trông rõ để lấy cái rác trong mắt anh chị em mình. Ý thức được điều đó, ta phải đấm ngực ăn năm vì đó là lỗi của ta chứ không đấm ngực người khác và bảo lỗi tại ông, tại bà, tại anh, tại chị chứ không phải tại tôi.
Lạy Chúa, xin cho con biết phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Biết sám hối để nhận ra lỗi lầm của mình và khiêm nhường xin ơn tha thứ của Thiên Chúa; đồng thời biết yêu thương anh chị em mình thực lòng chứ không nhân danh đạo đức để tố cáo anh chị em chúng ta như người Biệt Phái khi xưa. Amen.
.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Mỗi khi cầu nguyện, chúng ta tin tưởng và mong ước dẫn tới hiệu quả tốt. Sự thường là như thế, nhưng thực sự nhiều khi lại không phải như thế, bằng chứng là có lần chúng ta cầu nguyện thì được như ý, nhưng cũng không thiếu những lần chúng ta cầu nguyện hoài mà chưa được hay không được. Cũng vậy, có người cầu nguyện thì được Chúa nhận lời, có người thì không. Tại sao vậy? Có phải chúng ta thiếu điều kiện nào chăng? Đúng vậy, một trong những yếu tố hay điều kiện quan trọng, đó là thái độ và tâm tình thích hợp. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và tâm tình thích hợp cần có, đó là khiêm tốn, khiêm nhường.
Để hiểu biết sức mạnh của khiêm nhường, chúng ta hãy tưởng tượng hay hình dung hai cỗ xe: một cỗ xe được kéo bởi hai con ngựa là nhân đức và kiêu ngạo, còn cỗ xe kia được kéo bởi hai con ngựa là tội lỗi và khiêm nhường. Cả hai xe cùng chạy, nhưng chẳng bao lâu cỗ xe tội lỗi vượt trước cỗ xe nhân đức. Tại sao vậy? Chắc chắn không phải do khả năng của chính nó, tức là tội lỗi, nhưng bởi sức mạnh của đức khiêm nhường cùng đi chung với nó. Còn cỗ xe kia bị qua mặt, chẳng phải vì nhân đức yếu đuối mà vì sự kiêu ngạo quá nặng nề và to lớn. Điều ấy bảo cho chúng ta biết: đức khiêm nhường, nhờ cố gắng vươn lên, đã thắng được sức cản của tội lỗi, và lên đến trời trước nhất, còn kiêu ngạo, vì nặng nề và to lớn, nên át cả sự nhanh nhẹn của nhân đức, và dễ dàng kéo nó xuống sâu.
Về hai cỗ xe này, chúng ta đem áp dụng vào hai người Pha-ri-sêu và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện chúng ta sẽ thấy rõ: người Pha-ri-sêu đã cột chung nhân đức với kiêu ngạo: ông đứng thẳng một cách hiên ngang, tự đắc, ngực ưỡn, đầu ngẩng cao, và mắt có lẽ liếc nhìn người thu thuế một cách khinh bỉ và hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. Ông cầu nguyện gì? Ông không cầu gì cả, ông kể công với Chúa, ông tự mãn về những gì ông đã làm, ông lên đền thờ để khoe mình chứ không phải để cầu xin với Chúa, nên lời cầu nguyện của ông chẳng những không đưa ông tới gần Chúa mà còn làm cho ông xa Chúa hơn và làm cho Chúa buồn hơn.
Trái lại, người thu thuế đã cột chung tội lỗi với khiêm nhường: ông khép nép, khúm núm, đứng mãi đàng xa, không dám đến gần bàn thờ, cũng chẳng dám ngước mắt lên trời, tức là ông tự nhận mình bất xứng, chỉ biết cúi đầu, đấm ngực tỏ lòng ăn năn sám hối. Còn về lời cầu nguyện, ông nói với Chúa chứ không nói về mình, ông chẳng có gì hay để kể cho Chúa nghe, chẳng có công gì để khoe với Chúa và cũng chẳng dám xin gì khác ngoài lòng thương xót của Chúa.
Qua đó, chúng ta thấy tại sao cả hai người cùng cầu nguyện, nhưng chỉ có một người đẹp lòng Chúa, được Chúa tha thứ ban ơn, chỉ vì người ấy khiêm nhường, tin tưởng, cậy trông vào tình thương của Chúa, còn người kia tự mãn về những gì ông làm thì ông trở về với những gì ông đã làm, Chúa không ban gì cho ông. Nói rõ hơn, người thu thuế về nhà được công chính hóa, còn người Pha-ri-sêu thì không, đó là kết quả tất yếu: người Pha-ri-sêu đâu có cần đến Chúa, đâu cần Chúa công chính hóa, ông tưởng rằng tự ông có thể mua được sự công chính bằng công trạng của mình, ông đã lầm to, vì được trở nên công chính hay không là một quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho người biết khiêm nhường như người thu thuế đã làm, là ý thức rõ cái tôi tội lỗi, hèn kém, bất lực của mình, thái độ đó Thiên Chúa rất vui lòng, rất đẹp lòng Thiên Chúa.
Từ hai nhân vật tiêu biểu về khiêm nhường và kiêu ngạo, được xác định bằng thái độ của họ trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh em, Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ đựơc tôn lên”. Ai hạ xuống? ai tôn lên? Thưa chính Thiên Chúa. Kẻ tự tôn mình lên thì Thiên Chúa hạ xuống, kẻ tự hạ mình xuống thì Thiên Chúa tôn lên. Đó là lối hành động của Thiên Chúa, đó là cách Thiên Chúa trả lời cho kẻ tự đắc, kẻ cho mình là công chính và khinh chê những người khác. Bởi vì chẳng ai có thể tự đắc trước mặt Thiên Chúa, chẳng ai có gì để kể công với Người. Tình thương của Thiên Chúa là tình thương nhưng không, ai xin thì được, còn ai tự cho mình là có quyền đòi thì Thiên Chúa không cho. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, tất cả đều nghèo hèn, cần đến lòng thương xót của Người.
Chúng ta là người Pha-ri-sêu hay người thu thuế? Chắc chắn không ai nhận mình là người Pha-ri-sêu, nhưng chưa chắc đã nhận mình là người thu thuế. Đúng, chúng ta không tự nhận là người Pha-ri-sêu, dù có khi chúng ta còn tệ hơn người Pha-ri-sêu, nhưng chúng ta có dám bắt chước người thu thuế không?
Chúng ta có thể sánh ví việc cầu nguyện của chúng ta cũng giống như chiếc cầu mong manh dẫn chúng ta tới Chúa. Khi đi qua một chiếc cầu nhỏ, bắt ngang bằng những tấm ván hay những khúc cây mong manh, chúng ta phải hết sức cầm trí và ý tứ cẩn thận thế nào, thì khi cầu nguyện chúng ta cũng phải cầm trí và cẩn thận như vậy, tức là chúng ta phải có thái độ khiêm tốn, tin tưởng, cậy trông.
.
Lm Vũ Minh Nghiễm
Cũng như Chúa nhật trước, Chúa nhật hôm nay Đức Kitô dạy chúng ta phải biết cầu nguyện như thế nào. Chúa Nhật trước, Ngài dạy chúng ta phải noi gương bà góa nghèo kia mà cầu nguyện cho kiên trì. Hôm nay Ngài dạy chúng ta phải noi gương người thu thuế mà cầu nguyện cho khiêm nhượng.
Chúng ta biết rằng người Do thái cầu nguyện một ngày ba lần: 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, và 3 giờ chiều. Lời cầu nguyện được coi là hiệu nghiệm hơn hết là lời cầu nguyện dâng trong Đền thờ.
Hôm nay Chúa dạy dưới hình thức dụ ngôn. Có hai người Do thái cùng lên Đền thờ cầu nguyện. Một người là biệt phái (mà chúng ta quen gọi là Pharisiêu). Người kia là người thu thuế (chúng ta thường gọi là Publicanô). Nhóm Pharisiêu được gọi là biệt phái, vì họ tự đứng biệt lập ra thành một phái riêng. Họ là hạng người được coi là đáng kính, đạo đức. Trong dân chúng, họ là lớp người ưu tú. Họ giữ luật Chúa rất tỉ mỉ. Nhưng do chỗ giữ luật tỉ mỉ, và được kẻ khác coi là thánh thiện, mà có những người trong nhóm, họ sinh ra tự cao tự đại đối với những người chung quanh.
Trong dụ ngôn hôm nay, một người biệt phái như vậy lên đền thờ cầu nguyện cùng một trật với một người thu thuế. Hạng người sau nầy bị dân chúng coi như ngược lại với người biệt phái. Người biệt phái được coi là thánh thiện, thì người thu thuế bị coi là tội lỗi.
Hồi đó, dân Do thái bị người Rôma đô hộ. Chính phủ độ hộ không tự tổ chức thu thuế lấy, như chúng ta thấy ở Hoa kỳ chẳng hạn. Nhưng họ cho đấu thầu. Đã thầu thì ai thầu cao nhứt, sẽ được độc quyền thu thuế. Dĩ nhiên hạng người thu thuế nầy bị dân chúng gớm ghét và coi là hạng người tội lỗi. Tội lỗi phép công bằng. Tội bóc lột, làm giàu trên xương máu đồng bào. Tội làm tay sai cho chính quyền ngoại bang Rôma.
Vậy hôm nay có hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Một là biệt phái, một là thu thuế.
Người biệt phái đứng thẳng người lên cầu nguyện rằng:
“Lạy Chúa con cám tạ Chúa, vì con không giống như những người khác, gian tham, bất công, ngoại tình. Không giống như tên thu thuế đứng kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng cúng vào đền thờ một phần mười tất cả các hoa lợi của con.”
Luật Do thái chỉ buộc ăn chay một năm một lần trong ngày lễ Đền tội. Nhưng có người đạo đức ăn chay trường, mỗi tuần hai lần, trong ngày thứ Hai và ngày thứ Năm. Chúng ta biết rằng hai ngày nầy là hai ngày chợ tại Yê-ru-sa-lem. Nhiều nơi, như tại các vùng quê bên Việt Nam ta, không có những nơi bán thức phẩm thường xuyên, không có các siêu thị sẵn sàng mỗi ngày. Dân chúng chỉ nhóm chợ một vài ngày trong tuần. Một vài ngày trong tuần, họ mang rau cỏ, trái trăng, thịt cá, lúa gạo… ra chợ bán. Và ngày đó mới ngày chợ.
Ở Yêrusalem, hai ngày mà người Do thái đạo đức quen ăn chay cũng là hai ngày chợ. Dân chúng lên nhóm chợ chung quanh đền thờ rất đông. Những người ăn chay lên đó, đi qua giữa đám đông, mặt mày xanh xao tiều tụy, áo quần lếch thếch. Ai cũng phải chú ý đến họ. Và trong số nầy, có ông biệt phái của dụ ngôn hôm nay.
Người Do thái phải dâng vào đền thờ một phần mười hoa lợi ruộng đất của mình. (Tl 14,22). Ông biệt phái hôm nay thì dâng vào đền thờ một phần mười về tất cả mọi thứ hoa lợi, dầu những thứ hoa lợi Luật không buộc đóng thuế.
Ông quả là tốt lành, đại lượng. Ông chỉ có cái tội nầy là tự phụ, khoe khoang và khinh người. Ông lên đền thờ nói là cầu nguyện, nhưng không phải cầu nguyện cùng Chúa, mà cầu nguyện với chính mình. Nói cách khác, không phải để chúc tụng ngợi khen Chúa, mà để chúc tung ngợi khen mình.
“Lạy Chúa, con không tham lam, bất công, ngoại tình. Con không như tên tội lỗi thu thuế kia đâu. Con ăn chay mỗi tuần những hai lần. Con dâng vào đền thờ một phần mười tất cả mọi thứ hoa lợi của con.”
Rõ ràng ông không van xin ơn gì cùng Chúa cả. Ông chỉ chúc tụng mình. Ông lên đền thờ là để dùng nhà Chúa làm diễn đàn, tự tuyên dương công trạng. Ông tự cho mình là người thánh thiện, tự trưng bày công nghiệp và nhân đức của mình, với mục đích là thóa mạ, phỉ báng, lên án người cùng lên đền thờ cầu nguyện với mình.
Ông biệt phái hôm nay giống hệt thầy Rabbi Simeon ben Jocai. Có lần thầy đã tuyên bố: “Nếu trên thế giới có hai người công chính, thì đó là tôi và con tôi. Nếu chỉ có một người công chính, thì người đó chính là tôi.”
Có người biệt phái nào dám khoe khoang trước bàn thờ Chúa như ông biệt phái hôm nay chăng? Dẫu sao Đức Giêsu đã muốn làm nỗi bật giáo huấn của Ngài để chúng ta khó quên dễ nhớ. Lời cầu nguyện chỉ dâng lên cho Chúa, không dâng lên cho ai khác. Lại càng không được dâng lên cho chính mình, như kiểu ông biệt phái hôm nay. Đó là tôn thờ mình. Kẻ tôn thờ mình thì phạm tội kiêu căng, trùm của Bảy mối tội. Đã phạm tội kiêu căng thì lời cầu nguyện ấy không thể đẹp lòng Chúa được.
Còn người thu thuế, nhân vật thứ hai trong bài dụ ngôn hôm nay, thì sao? Anh đứng cuối cửa đền thờ, cúi mặt xuống, đấm ngực, thưa lên cùng Chúa:
“Lạy Chúa, xin thương con là đứa tội lỗi.”
Anh tự biết mình là người tội lỗi, khốn nạn. Nhưng anh cũng biết Thiên Chúa là Đấng nhân lành, đầy tình thương xót. Và anh kêu cầu lòng thương xót Ngài thứ tha cho anh. Anh không dùng ngôn từ quyền thế của người cậy có công lênh, nhưng dùng lời lẽ khiêm nhu của người muốn cải thiện.
Và Đức Yêsu đã kết luận rằng:
“Khi về nhà, người thu thuế trở nên công chính. Còn người biệt phái thì trước sao sau vậy?”
Hơn nữa, ông mắc thêm tội. Tội tôn thờ chính mình. Tội kiêu căng, khinh miệt kẻ khác ngay trước mặt Thiên Chúa.
Bài dụ ngôn hôm nay dạy chúng ta những điều sau đây về sự cầu nguyện.
Trước hết, khi cầu nguyện, đối tượng tôi phải so sánh là chính Thiên Chúa, chứ không phải ai khác, hoặc chính mình tôi. Nếu thay vì nhìn vào chính mình, tôi nhìn vào Thiên Chúa là Đấng tốt lành cao cả vô cùng, tôi mới thấy mình thấp kém, hèn hạ, tội lỗi như thế nào.
Một đấng thánh vĩ đại như Thánh Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp kém nhất (1 Cor 15,9), vì “yếu đuối” (2 Cor 12,9) đã bắt đạo và ngạo ngược(1Tm 1,13; Gl 1,13). Thánh Vincente Phaolô, một ngôi sao chói lọi trong công việc bái ái từ thiện, mà tự gọi mình là người “thấp hèn nhứt trên thế gian.”
Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phú thc vào Chúa Quang phòng, đại lưỡng vô song, khôn ngoan vô cùng.
Thứ đến, khi cầu nguyện, tôi không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Tôi phải luôn luôn nhớ rằng tôi thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Đức Chúa Trời đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho.
Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống, đi bằng đầu gối, mới vào được.
Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói:
– Tôi nghe đồn bức tượng nầy nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chẳng thấy gì là đẹp cả.
Một người quì sau lưng ông, nói:
– Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp.
Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.
Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, tôi cũng phải quì gối xuống mà van xin.
.
Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Một cô gái đang độ thanh xuân, lên đền thờ xưng tội, cô đã than thở với Linh mục rằng: Thưa Cha, con thường dự lễ không nên. Thế con làm gì mà không nên? Thưa Cha suốt buổi lễ, con chỉ biết khóc vì nghĩ đến tội con đã phạm: khi thì ăn bớt tiền chợ, khi thì thích nói chọc ghẹo người ta cho người ta chửi, khi thì liếc trộm mấy cậu con trai, khi thì thích phạm tội.
– Ồ thế thì con cứ tiếp tục dự lễ như vậy, để nước mắt con tẩy sạch tâm hồn con nên trong sáng (Thánh Thể tr. 42). Cô gái này giống với người thâu thuế lên đến thờ đấm ngực cầu nguyện đã được Đức Giêsu nâng lên, và khác với người Pharisiêu cầu nguyện đầy vẻ tự đắc đã bị Đức Giêsu hạ xuống.
Trong kinh nguyện của Giáo Hội, nhất là Thánh lễ, ta thấy: Cầu nguyện gồm bốn việc: Thống hối, thờ lạy, tạ ơn và xin ơn. Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến thống hối.
1- Người Pharisiêu cầu nguyện như đọc bản báo cáo đầy thành tích vẻ vang của mình. Những thành tích như ăn chay mỗi tuần hai lần, còn luật dậy một năm chỉ ăn chay có một lần thôi (Lv. 16, 19-31), nộp thuế tối đa là một phần mười mọi thứ lợi tức, còn luật chỉ buộc một phần mười lợi tức chính, và không bao giờ phạm những tiêu cực như tham lam, bất công, ngoại tình. Rồi Pharisiêu kết luận cho mình hơn hẳn bọn thu thuế và tất cả các người khác. Như vậy, Pharisiêu đã tự khen mình, tự nâng mình lên là người công chính, tự phong thánh, lại khinh chê người khác và coi Thiên Chúa chỉ là khán giả đến xem triển lãm những thành tích công đức của ông.
Đức Giêsu đã phê vào bản báo cáo này như thế nào? Người phê: Làm thì láo, báo cáo thì hay. Cho nên ông bị hạ xuống và tội ông không được tha, còn thêm tội kiêu ngạo. Bao nhiêu lần Đức Giêsu đã cảnh báo Pharisiêu như nấm mồ sơn phết bên ngoài, còn trong đầy ô uế thối tha. Họ xây mồ mả các tiên tri mà cha ông họ đã giết. Rồi đến lượt họ, họ lại giết Đấng Cứu thế trên thập giá (Mt. 23, 4. 27. 34)
2- Người thu thuế cầu nguyện theo lối tự phê, tự kiểm thảo. Ông đã tự xưng thú tội mình, nhận mình là kẻ tội lỗi. Không dám tới gần Thiên Chúa thánh thiện vô cùng, ông chỉ đứng xa xa. ông tự kết án mình trước mặt Thiên Chúa là vị quan tòa tối cao, công minh, nghiêm thẳng, ông không dám ngước mặt lên, ông đã đau đớn đấm ngực ăn năn, thống hối tội lỗi. Ông thâm tín sự khốn nạn của tội lỗi mình. Ông không thấy mình có thành tích nào có thể đền tội ông được, dù ông làm bao nhiêu việc ăn chay, hãm mình, bố thí dâng cúng, cũng chẳng đáng công gì. Ông không thể cậy trông vào đâu được, chỉ có lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa mới cứu ông được thôi, nên ông đã tha thiết van xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con, con là kẻ tội lỗi khốn cùng”. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi ông ngọt ngào biết bao. Ông cảm thấy đầy lòng tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì ông biết rằng: Dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, như đại vương David giết chồng, cướp vợ, đã hết lòng ăn năn sám hối. Thiên Chúa vẫn sẵn lòng tha thứ. Dù cả toàn dân bỏ Chúa, và bị quân thù bắt lưu đầy ở Babilon, lại bị Thủ tướng Aman ra tay diệt trừ. Trong cơn khốn cùng như thế, Hoàng hậu Esthe cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ. Tội lỗi như dân ngoại thành Ninivê, Chúa còn thương bắt buộc ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ để họ biết cải tà qui chính. Chúa liền thương tha thứ cho họ. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung của Thiên Chúa, ông càng đấm ngực hết lòng sám hối.
Đức Giêsu đã phê cho ông: “Người này ra về thì được nên công chính. Trái lại, Pharisiêu thì không, vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Người ta thường nói: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Người phàm còn biết tha thứ cho kẻ hối lỗi. Huống chi Thiên Chúa tốt lành vô cùng. Nhiều lần, Đức Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta biết: Thiên Chúa như Mục tử nhân lành, bỏ mọi sự đi tìm chiên lạc; như người Cha đầy lòng thương xót, vui mừng đón rước và long trọng mở tiệc ăn mừng đứa con đi hoang trở về, vì “Con ta đây đã chết, nay sống lại; đã mất, nay tìm thấy” (Mt. 18, 12-14; Lc. 15, 4-7. 11-32).
Tội nặng tầy trời như tông đồ của Phêrô: chối Thầy. Khi hết lòng ăn năn trở lại, Chúa đã lờ đi như không biết, không trách một lời, lại còn thân mật hỏi: “Này anh Simon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em hay không?”
Thái độ của Chúa thật vô cùng bao dung quảng đại, không miệng lưỡi nào ca ngợi cho xiết.
Thời nay, người ta xa lánh tòa giải tội, không còn lo sám hối, hoặc vì không còn tin vào Thiên Chúa từ bi hay thương xót, nên thất vọng chết như Giuda, hoặc vì quá tự mãn với những tiến bộ khoa học, không cần Thiên Chúa nữa; hoặc vì khô khan lười biếng, thờ ơ lãnh đạm, lòng chai đá, không còn biết tội phúc nữa, đâu còn biết ăn năn sám hối.
Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn nhận ra con là kẻ tội lỗi, yếu hèn như kẻ nghèo khó, bị áp bức, sống mồ côi, góa bụa trong Bài đọc 1 để luôn luôn đấm ngực ăn năn, hết lòng chạy đến cầu khẩn Chúa mọi nơi, mọi lúc.
.
Trầm Thiên Thu
KẺ TỰ TÔN ẮT BỊ HẠ XUỐNG
AI KHIÊM HẠ LIỀN ĐƯỢC TÔN LÊN
Chính Chúa Giêsu đã cho biết hai chiều ngược nhau như vậy (Lc 18:14). Trong đời thường, các con đường thường có hai chiều, nhưng cũng có những con đường chỉ có một chiều. Dù là loại đường nào, người ta cũng chỉ được phép đi xuôi chiều, không thể đi ngược chiều – ngay cả trên đường hai chiều. Người đi ngược chiều là người ngang ngược, chắc là “con ông, cháu cha” nên mới có động thái như vậy. Thi thoảng vẫn thấy có kẻ chảnh như vậy – trên cả đường to và nhỏ.
Đời hay đạo cũng vẫn có những thứ “ngược chiều” – đối nghịch hoặc đối lập nhau, từ dạng đơn giản tới dạng phức tạp, từ điều vô hại tới điều nguy hiểm: Phải – Trái, Thiện – Ác, Đen – Trắng, Giàu – Nghèo, Cao – Thấp, Đẹp – Xấu, Hiền – Dữ, Khiêm Nhu – Kiêu Ngạo (nổ, chảnh, hợm hĩnh),… Nếu tâm tính trái ngược nhau, người ta “nghi kỵ” nhau, đối kháng hoặc chống đối nhau, và rồi gièm pha nhau để hạ bệ nhau – ngụ ý tôn mình lên. Sự tuyên truyền là một dạng đối nghịch – vì phe này nói xấu phe kia, đảng này chê bôi đảng nọ, nhóm này đàn áp nhóm kia,…
Có tình trạng chống đối là do kiểu suy nghĩ không giống nhau, vì cách lựa chọn của người này khác với người kia. Thế là xảy ra xung khắc, xung đột, đôi khi có thể xảy ra ẩu đả hoặc án mạng, thậm chí là chiến tranh. Thế chiến hoặc nội chiến cũng bởi tình trạng “ngược chiều” với nhau. Thân nhân ruột thịt cũng vẫn có thể hóa ra kẻ thù của nhau. Đáng sợ!
Khi đề cập vấn đề liên quan sự trái chiều, có lần người ta bảo Chúa Giêsu cậy quyền lực của quỷ Bê-en-dê-bun, nhưng Ngài nói: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.” (Mt 12:30; Lc 11:23) Khi thấy có người nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ, chính các tông đồ cũng thấy “xốn mắt” nên đã tìm cách ngăn cản, nhưng Thầy Giêsu xác định: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” (Mc 9:1; Lc 9:50) Một dạng “chảnh” vẫn thường xảy ra xưa nay.
Tuy nhiên, đôi khi sự đối lập vẫn khả dĩ hữu ích: Nam châm cùng dấu thì đẩy nhau, trái dấu thì hút nhau. Trong tình yêu đôi lứa cũng vậy, âm – dương trái ngược nhau, nhưng như thế mới là “bình thường”, mới tạo nên hôn nhân hạnh phúc, nếu hôn nhân đồng giới thì… “vô cùng nguy hiểm”, bởi vì như vậy lại hóa “bất thường” mất rồi. Cái Nghịch lại là cái Thuận – và ngược lại. Thật là “mới lạ” – cái gì mới mẻ thì thường lạ lùng.
Có một “vấn đề” cũ nhưng vẫn mang tính thời sự nóng hổi: Trung tuần tháng 10-2013, một giám mục Công giáo đã bị chỉ trích về việc chi tiêu xa xỉ, ở ngôi biệt thự sang trọng, bị cáo buộc là nói dối trước tòa và phải sang Rôma để gặp các viên chức Tòa Thánh. Một phát ngôn viên xác nhận danh tính người đó là giám mục Franz-Peter Tebartz-van Elst, GP Limburg, Đức quốc. Ông đã dùng 31 triệu euro (gần 40 triệu USD, gấp 6 lần so với kế hoạch ban đầu) để nâng cấp và xây dựng mới dinh thự của mình và văn phòng giáo phận. Ôi, lạy Chúa!
Đối với Việt Nam, thiết tưởng cũng không thể khinh suất, nghĩa là cũng nên nghiêm túc “xét mình” lắm, dù mức độ có thể là ít hay nhiều. Nhưng chắc chắn vẫn thực sự cần thiết. Có thể chưa xa xỉ như con người kia, nhưng cũng xa xỉ theo “phong cách” khác.
Đối với Thiên Chúa, lối sống “thoải mái” luôn ngược chiều. Ngược thì Nguy (cặp đôi NG liền kề). Chúa Giêsu là dân nghèo “thứ thiệt”, nghèo “hàng hiệu”, nghèo từ Belem tới Can-vê. Ngài đúng là Đệ Nhất Hàn Vương. Thế mà các môn đệ lại “đi ngược đường” với Ngài, ung dung sống vinh thân phì da, mặc đám dân nghèo khốn khổ sống lay lắt. Càng nguy hiểm hơn vì người sống ngang nhiên đó lại là một giám mục hoặc linh mục, thật bất xứng và đáng hổ thẹn lắm! Như vậy thì đừng chỉ trích và lên án các quan quyền thế tục hối lộ và tham nhũng. Loài đỉa (thủy điệt) rất nguy hiểm, dù to hay nhỏ, bởi vì đó là “chuyên gia hút máu” để cướp sự sống của người khác, dù nhiều hay ít cũng đối nghịch với đạo làm người – chứ chưa nói tới Đạo Yêu Thương của Thiên Chúa.
Nói chung, loại “người đỉa” như vậy chỉ chất thêm gánh nặng cho người nghèo, cách “bòn rút” của họ rất tinh vi, tự “ra giá” cho những công việc mà đáng lẽ là bổn phận và trách nhiệm của họ. Chính họ được học hành đàng hoàng, học đến nơi đến chốn, biết nhiều hơn người, y như giới thông luật xưa. Nhưng Chúa Giêsu “chỉ tận tay, day tận trán” thế này: “Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.” (Lc 11:46) Chúa nói thế mà với họ mà cũng giống như “nước đổ lá môn” vậy. Đỉa sợ vôi. Với “người đỉa” thì phải dùng loại “vôi” nói thẳng, tẩy chay. Kẻ nhút nhát mà nịnh bợ thì tự biến mình thành đỉa như họ.
Chớ có ảo tưởng theo “lối suy nghĩ trần tục” mà cho rằng Thiên Chúa vị nể người có chức có quyền, ưa ăn trên ngồi trước, được tiền hô hậu ủng. Không bao giờ! Thiên Chúa hoàn toàn khác: “Thiên Chúa cứ theo sự thật mà xét xử” (Rm 1:2) bởi vì “Thiên Chúa không thiên vị ai.” (Rm 1:11) Vâng, Thiên Chúa rất công minh và chính trực, nói theo giới bình dân, có thể Chúa sẽ nói 9T cho dễ nhớ: “Tôi thành thật thì tôi thẳng thắn trừng trị.”
Đúng như vậy, bởi vì sách Huấn Ca cũng đã xác định: “Đức Chúa là Đấng xét xử, Người chẳng thiên vị ai. Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức. Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người goá bụa.” (Hc 35:12-14) Thật vậy, Thiên Chúa hoàn toàn “ngược chiều” với quan niệm hoặc cách xử sự của loài người, phàm phu tục tử, đầu và óc luôn ảo tưởng, thường suy diễn theo ý mình vì tư lợi mà thôi.
Tình yêu là bản chất bất biến của Thiên Chúa (1 Ga 4:8 và 16). Lòng nhân từ của Ngài vô hạn, trọn niềm thương xót những kẻ khốn cùng, không “kỵ” người nghèo mà lại rất “hợp” người nghèo, thế mới lạ, họ xin gì Ngài cũng thương ban: “Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây. Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm” (Hc 35:16-17a). Họ tin tưởng cầu nguyện không ngừng, vì đối với họ, Ngài là cứu cánh và là cùng đích: “Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa an lòng. Họ sẽ không rời đi bao lâu Đấng Tối Cao chưa đoái nhìn, chưa xét xử cho người chính trực và thi hành công lý.” (Hc 35:17b-18) Tin tuyệt đối là điều không dễ, nhưng có như vậy mới khả dĩ trở nên công chính.
Vừa bộc bạch vừa kêu gọi mọi người phải biết ca tụng Chúa, nhất là những người nghèo khổ, Thánh Vịnh gia động viên: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.” (Tv 34:2-3) Người nghèo thiếu thốn mọi thứ, có khi thiếu cả những thứ cơ bản nhất, họ cần Chúa hơn và được Ngài ban nhiều thứ, thế nên họ phải biết ơn Chúa. Người giàu đầy đủ vật chất, không cần Chúa ban thêm, thế nên họ dễ lãng quên Ngài. Thật chí lý với lời cầu của tác giả sách Châm Ngôn: “Xin đẩy xa con lời dối trá và chuyện lọc lừa. Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng.” (Cn 30:8) Hai điều trái ngược nhau nhưng đều quan trọng.
Chắc hẳn giữa cái thiện và cái ác có sự đối nghịch rõ ràng nhất: “Chúa đối đầu với quân gian ác, xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời, nhưng để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu.” (Tv 34:16-17) Chúa thẳng tay với ác nhân, lũ “đỉa người” nham hiểm, nhưng Ngài xót thương hiền nhân, đám dân đen thấp cổ bé miệng: “Ai thành tâm kêu xin đều được Chúa đã nhận lời và giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn, nhất là những người hèn mọn, đau khổ, thấp cổ bé miệng.” (Tv 34:18)
Thánh Vịnh gia xác định: “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề.” (Tv 34:19) Quả thật, Chúa Giêsu sẵn sàng bỏ 99 con chiên lành lặn, béo tốt, để rồi nhọc công tìm kiếm con chiên gầy gò, ốm yếu, ghẻ lở, hôi hám. (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7) Lòng Thương Xót của Chúa luôn bao la, vô tận và bất biến. Cuối cùng, Thánh Vịnh gia xác định: “Chúa cứu mạng các người tôi tớ, ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ.” (Tv 34:23) Thiên Chúa trên cả tuyệt vời. Có Ngài là có tất cả, mất Ngài là mất mọi thứ.
Đã từng ngược chiều với Chúa trong quá khứ, nhưng sau cú ngã ngựa chí mạng khiến ông thuận chiều với Ngài. Đến cuối đời, ông có lời trăn trối đầy ắp niềm tín thác: “Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.” (2 Tm 4:6-8) Thánh nhân nào cũng có quá khứ, tội nhân nào cũng có tương lai. Vấn đề không là ngã hay không, mà là có đứng dậy ngay hay không. Đừng lo và đừng sợ!
Như để động viên, Thánh Phaolô cho biết thêm: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử.” (2 Tm 4:16-18a) Niềm hy vọng dâng cao, Thánh Phaolô quả quyết: “Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (2 Tm 4:18b) Ước gì mỗi chúng ta cũng có thể minh định như vậy!
Có một “phong cách” đối lập khá phổ biến: khiêm nhường và kiêu ngạo. Kiêu ngạo hoặc cao ngạo là dạng “tin tưởng hão huyền”, tự mãn, ngày nay gọi là “chảnh”, loại hội chứng ảo tưởng trầm kha, tự đánh lừa mình. Có lẽ họ là những người sinh ra gần kho bom Thành Tuy Hạ (Nhơn Trạch, Đồng Nai), rồi sinh sống gần kho đạn Long Bình (Biên Hòa, Đồng Nai), có thể đã từng đánh bom ở I-rắc, thế nên họ mới có khả năng “nổ” khủng khiếp như thế. Đáng “nể” thật!
Không biết ngày xưa có bom đạn công phá mạnh như ngày nay hay không mà nhóm Biệt Phái “chơi” quá hớp. Thế nên Chúa Giêsu đã phải lên tiếng kể dụ ngôn về một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm chảnh Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế – dạng bị coi là tội lỗi công khai. Người Pharisêu đứng thẳng và thản nhiên cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.” (Lc 18:11-12) Tay không đấm ngực mà xỉa xói người khác, mắt long sòng sọc, liếc xéo sắc như dao cau. Coi bộ rất đúng quy trình của những người ngang ngược.
Nếu thực sự đúng như ông ta nói thì thật thánh thiện, thật tốt lành, thật đạo đức, nói chung là “ngon lành” lắm. Thế nhưng sự thật đâu phải thế, nói vậy mà không phải vậy. Họ quen thói hợm mình, khoe khoang và ỷ quyền cậy thế, ra vẻ “ta đây”, hống hách với người khác, thế nên họ cũng không ngại miệng mà dám “nổ” với Chúa và khoe thành tích. Đúng là gan cóc tía, bởi vì cầu nguyện là khoảng thời gian linh thiêng, thánh đức, kết hiệp và tâm sự với Chúa, thế mà người này lại phạm tội ngay trong thời khắc quan trọng như vậy. Thật là liều lĩnh vì dám hành động ngu xuẩn. Nguy hiểm quá!
Ngược lại, người thu thuế biết thân phận và biết mình là ai, chỉ dám khép nép ở góc cuối nhà thờ, thậm chí còn chẳng dám ngước mắt lên nhìn ai. Ông khúm núm, ngại ngùng, vừa đấm ngực vừa thầm thĩ cầu xin: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18:13) Ngắn gọn mà súc tích. Không lải nhải, không càm ràm, không văn vẻ, không xỉa xói. Dễ thương hết sức! Chúa Giêsu rất khoái con-người-tội-nghiệp này, và Ngài nói rõ: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 18:14)
Tự tôn và tự hạ là hai chiều ngược nhau, tất nhiên phương hướng cũng hoàn toàn trái ngược: Xuống và Lên. Tự tôn là đưa mình lên cao nhưng lại bị hạ xuống thấp, tự hạ là đưa mình xuống thấp nhưng lại được nâng lên cao. Hai chiều và hai hướng lạ lùng lắm!
Lạy Thiên Chúa đại lượng nhưng nghiêm minh, chúng con đã bao lần sống trong ảo giác, xin tẩy rửa ý tưởng và ban lại cho chúng con trái tim tinh tuyền, để chúng con có thể nhận biết mình và nhìn tha nhân bằng ánh mắt yêu thương, luôn sống thẳng – nhìn thẳng, nghĩ thẳng, nói thẳng, làm thẳng,… Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
CẦU NGUYỆN LÀ THÔNG HIỆP VỚI THIÊN CHÚA
Lm. Bùi Mạnh Tín
Chúng ta thường nghe câu định nghĩa quen thuộc: “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa”. Định nghĩa này tuy ngắn gọn nhưng nói lên bản chất và cách thức cầu nguyện.
Dĩ nhiên ở đây, việc “nâng tâm hồn lên” cần được hiểu sâu xa. “Nâng lên” có nghĩa là ý thức mình chỉ là một thụ tạo kém cỏi, thấp hèn, luôn sống trong trần thế, dễ bị ràng buộc vào những truyện “dưới đất”. Và như vậy, khi cầu nguyện, chúng ta cố gắng vươn cao tâm hồn lên, vượt ra khỏi những gì thuộc hạ giới, tạm thời tách rời những liên quan nhân loại, để thiết lâp một liên quan có tính cách hướng thượng, cao hơn, xa hơn, thanh thoát hơn. Cũng chính vì thế, Chúa Giêsu thường tìm nơi vắng vẻ thanh tịnh để có những giờ phút hiệp thông với Cha Ngài. Thánh lễ, cùng với việc rước lễ, là một hiệp thông hoàn hảo nhất, nên trước khi bước vào phần phụng vụ Thánh Thể, chủ tế nói với ngững người dự lễ: “Anh chị em hãy nâng tâm hồn lên”.
Ở đây, yếu tố được nhấn mạnh không phải là những cử chỉ của thân thể, những âm thanh trong lời đọc hay tiếng hát, nhưng chính là trạng thái của tâm hồn. Hiểu như thế, nhiều khi chúng ta đọc kinh lớn tiếng, dang tay cao, mà vẫn không phải là cầu nguyện, vì lòng trí chúng ta chưa thực sự thoát khỏi những ràng buộc của lo toan trần thế. Do đó, lời cầu của chúng ta vẫn chưa tới Chúa, tâm hồn chúng ta vẫn chưa gặp được Ngài.
Trong cuốn “150 More Stories”, Jack Mac Ardle kể một câu truyện:
Một người chìm vào giấc mơ, thấy mình được nâng lên trời và gặp Chúa Giêsu. Chúa đưa anh đi nhiều chỗ khác nhau và sau cùng hai người dừng chân tại một thánh đường giữa lúc đang cử hành thánh lễ. Chàng thanh niên nhìn thấy các ca viên đang mở sách hát, nhưng không nghe thấy tiếng hát; thấy một người đang lướt các ngón tay trêm phím đàn nhưng không nghe thấy tiếng nhạc; thấy mọi ngượi đang mở miệng đọc kinh, nhưng cũng không nghe thấy âm thanh phát ra từ miệng họ. Ngạc nhiên, anh ta hỏi Chúa Giêsu: tại sao chỉ thấy im lặng. Chúa trả lời: “Chúng ta chỉ có thể nghe được tiếng của họ, nếu họ thực sự cầu nguyện với tất cả tâm hồn mà thôi”
“Với tất cả tâm hồn” không chỉ được hiểu là hết sức lực, hết tâm trí, nhưng còn hiểu là cầu nguyện với niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, với lòng khiêm nhượng và tình bác ái.
Qua dụ ngôn hôm nay, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy: dù có đến nhà thờ, dù có giơ cao đôi tay hay lớn tiếng đọc kinh, nhưng không ý thức thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình, trái lại, tự cao tự đại, coi thường anh chị em mình, thì hành động và lời nói của chúng ta chỉ trở thành vô ích, không bao giờ được Chúa lắng nghe và chấp nhận. Người thu thuế, vì ý thức mình tội lỗi, yếu hèn, cần đến ơn tha thứ, nên trong khi cầu nguyện, anh đã được Chúa nhận lời và thứ tha. Anh đã cầu nguyện với tất cả tâm hồn.
Lạy Chúa, mỗi lần trước khi đến với Chúa, trước khi mở miệng cầu nguyện, chúng con xin Chúa hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi các ý nghĩ kiêu căng, ghen ghét, giận hờn và giúp chúng con thoát khỏi những ràng buộc bận tâm trần thế.
.
AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật
Hai mẫu người
Theo cái nhìn bên ngoài, hai nhân vật của dụ ngôn đều bắt đầu từ một khởi điểm. Nhưng…
Người biệt phái bước đi chững chạc, hiên ngang. Ông đang ở trong Đền Thờ nhưng ông cảm thấy thoải mái dễ chịu như đang ở nhà mình: đầu ngẩng cao, mắt nhìn đầy vẻ tự tin. Bản kết toán của ông đầy nét tích cực: ông biết điều đó và ông nói lên. Ông kể ra những con số. Tất cả đều tốt đẹp. Ông tự xếp mình vào số những người suy nghĩ tốt, làm tốt, và có đạo đức: Ông tự nhận mình là người công chính.
Nơi ông không có một kẽ hở, không một sự chờ đợi, không một khoảng cách. Ông chiếm trọn cả lớp kịch: vừa là diễn viên, vừa là khán giả. Trên nguyên tắc, ông thưa với Chúa, nhưng trong thực tế, “ông cầu nguyện nơi chính mình”. Ông chiêm ngắm chính mình, ông nói với chính mình. Thiên Chúa chỉ là công chúng nghe ông nói và vị Thiên Chúa đó được đổng hoá với lương tâm của ông, một lương tâm hoàn toàn tin chắc vào chính mình.
Chỉ có một khoảng cách được thú nhận: ông đứng xa người có tội… tức là những người khác, những người bị ông coi thường.
Đó là một con người đã đạt tới đích. Ông còn có thể làm gì hơn được nữa? Chẳng còn một khoảng trống nào để ông băng qua. Ông chỉ còn đợi lãnh triều thiên. Đó là một con người đã hoàn thành. Làm sao ông có thể tái sinh được?
Trong khi đó, người thu thuế đứng xa xa, phía cuối đền thờ. Trước mắt xã hội, hình ảnh của anh không phải là một hình ảnh dễ thương. Anh không được công nhận là công chính vì đã vi phạm quá nhiều, đã thoả hiệp với tiền tài, với quyền lực. Giờ đây, anh dứng im, không dám ngẩng mặt lên. Anh sẵn sàng chui xuống đất, nếu có thể được. Anh biết rằng mình chưa được sinh ra. Và khi ấy, tất cả đều trở thành có thể.
Anh cầu nguyện, anh thưa với Thiên Chúa: “Xin thương xót con.” Anh nhận thức trọn vẹn khoảng cách giữa tình trạng con người của anh và sự cao cả của Thiên Chúa, khoảng cách giữa sự “công chính” của anh và sự công chính của Thiên Chúa. Anh tìm kiếm sự liên lạc, tìm kiếm sự gần gũi với Thiên Chúa, một sự hiệp thông mặc dù từ căn bản, có một sự khác biệt: “Con không phải như Thiên Chúa! Con chỉ là một kẻ tội lỗi! Chúa có nghe lời con chăng?” Và khi ấy, tất cả đều có thể.
Khi bước vào đền thờ, mỗi người đều quay trở về với chính mình. Nhưng…
Một người thì vênh vang với lương tâm tốt lành của mình, tự hào vì những xác tín của mình. Ông hiện diện trước Thiên Chúa dựa trên nền tảng là cái có: lối sống của ông, Thiên Chúa của ông, quyền lợi của ông.
Còn người kia trở về với sự khốn cùng bên trong của mình. Anh đứng trước nhan Chúa với nền tảng là sự thiếu thốn: bước vào đền thờ, anh đã bỏ lại thế giới tiền bạc, để đi tìm một điều gì khác.
Với hai con người như thế, Thiên Chúa sẽ giải quyết cách nào?
Một kẽ hở cho Thiên Chúa
Người biệt phát trình bày dài lê thê. Ông cám ơn Thiên Chúa, mà ông nghĩ rằng mình biết rõ, vì đã nâng đỡ, trợ giúp ông, để ông “không như bao kẻ khác”. Trong mối tương giao của ông với Thiên Chúa, ông chối bỏ người khác: ông tự loại mình ra khỏi môi trường hoạt động của tình yêu. Đôi tay ông đã đầy những công phúc, đầu óc ông đầy những xác tín của riêng mình. Đó chính là thái độ của niềm tin mù quáng. Mọi cánh cửa đều đóng kín: Thiên Chúa không thể vào được.
Người thu thuế thì kêu cầu. Bị xã hội chê bỏ, anh nhẫn nại chịu đựng: biết mình xa cách Thiên Chúa, anh chờ đợi. Anh chẳng còn biết bày tỏ với ai nữa, và anh xin Thiên Chúa can thiệp. Đôi tay anh trống không, anh đợi chờ: đó chính là thái độ của lòng tin. Mọi cánh cửa đều mở toang: Thiên Chúa có thể vào được.
Trước hai con người này, Thiên Chúa không chút do dự. Người làm bạn với chàng thu thuế, cùng với anh rời khỏi đền thờ, và bỏ mặc người Biệt phái với các việc lành của ông, để ông ra về một mình.
Tại sao thế?
Người biệt phái đã làm những việc đạo đức tốt lành, lại không phải là người công chính; đang khi đó người thu thuế là kẻ tội lỗi thì được nên công chính. Thiên Chúa có bất công quá không?
Một khi đôi tay đã đầy, lòng trí đã thoả mãn, thì Thiên Chúa sẽ không thể chen vào được. Làm sao Người có thể đến được khi không có chỗ cho Người? Bởi đó, Thiên Chúa yêu chuộng kẻ khó nghèo không phải chỉ tại họ nghèo, nhưng hơn thế, vì họ cảm thấy mình luôn thiếu thốn và họ chờ đợi. Như vậy, con người luôn phải nhận ra mình nghèo khó trước Thiên Chúa, luôn cần đến sự trợ giúp, cần sự hiện diện của Người. Và quan trọng hơn, điều thiết yếu là con người không được tự nhốt kín sự nghèo khó của mình, nhưng là sống trong thái độ rộng mở. Người nghèo khó, vì nhu cầu cần thiết, luôn biết trông chờ sự giúp đỡ của người khác. Đó chính là thái độ căn bản của Kitô giáo.
Dĩ nhiên, đây không phải là sự nghèo khó vật chất, nhưng là thái độ nghèo khó trong tinh thần. Vẫn có những người túng thiếu cùng cực, nhưng vẫn là một đời sống khép kín. Vẫn có những người có nhiều tài sản vật chất, nhưng lại biết đón chờ, biết mở rộng tâm hổn. Và quan trọng hơn nữa, đó là một thái độ nghèo khó trong đời sống thiêng liêng. Con người không được quyền cậy dựa vào bất cứ hành vi nào để cho rằng mình là người đạo đức, là người đã đạt tới sự thánh thiện. Con người không thể nghĩ rằng mình đã được nên công chính do các việc mình làm. Một khi có quan niệm cho rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện, tức là không cần đến sự trợ giúp, sự can thiệp của Thiên Chúa. Đó là một thái độ đóng kín, thái độ của con người chỉ biết hướng về mình, chứ không phải về người khác, và nhất là về Thiên Chúa. Con người đó không biết thế nào là sám hối, thế nào là trở về, và như vậy, trong tâm hổn của họ, không có chỗ cho Thiên Chúa.
Dù thế nào, dù đạt tới mức độ nào, vẫn phải là người nghèo trước Thiên Chúa, vẫn phải là người cần trợ giúp. Thiên Chúa cần có những cửa ngõ để đi vào, cho dù đôi khi chỉ là một kẽ hở.
Cả hai đều cần
Như tác giả xác định, Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này với những người tự cho rằng mình là người công chính và khinh miệt người khác. Vào thời Đức Giêsu, đó là những người biệt phái, những người chấp hành luật pháp cách nghiêm ngặt.
Thực ra, các hành vi của người biệt phái thật đáng khen. Có mấy người trong chúng ta thực hành được như ông ta? Thế nhưng, ông thiếu mất một điều, và đó là điều quan trọng nhất: đó chính là thái độ khiêm tốn, biết trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Chính sự thiếu sót này đã phá tan tất cả cố gắng, tất cả mọi hành động của ông.
Ngày nay, trong chúng ta, vẫn có những người nghĩ rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện nhờ những việc tốt của mình, nhờ việc giữ đạo của mình. Tất nhiên, những điều đó rất tốt. Nhưng nếu dựa vào đó để lấy làm thoả mãn, để coi thường người khác thì thật là tai hại. Phải hiểu rằng người Kitô hữu được mời gọi đạt tới sự thánh thiện của Thiên Chúa, và đó là một hành trình dài, hành trình chưa chấm dứt. Một khi tự cho rằng mình đã tới đích, tức là đã ngưng lại, và nguy hiểm hơn nữa, là đã lạc đường, đã mất phương hướng. Mỗi người chúng ta vẫn có thể nhận ra mình, ít là một phần nào đó, qua lời cầu nguyện đầy vẻ tự mãn của người biệt phái.
Tuy vậy, không có nghĩa là Đức Giêsu dạy chúng ta chỉ cần thưa với Thiên Chúa như người thu thuế. Điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu là thái độ trước Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà có quyền bỏ những hành vi đạo đức. Không phải người ta cứ sống theo ý thích của mình, để rổi chỉ cần thưa với Thiên Chúa một câu ngắn gọn là được tha thứ, được nên công chính. Thái độ tin tưởng, trông chờ sự trợ giúp của Thiên Chúa không loại bỏ những nỗ lực của con người.
Như thế, chúng ta có thể nhìn thấy một mẫu người Kitô hữu đích thực, dựa trên hai nhân vật của bài Tin Mừng. Đó là một con người luôn cố gắng chu toàn những lời giáo huấn của Thiên Chúa, một con người thi hành trọn vẹn những gì luật pháp quy định, đổng thời cũng là người biết tin tưởng và phó thác cho tình thương của Thiên Chúa. Càng tiến triển, lại càng phải khiêm tốn. Và người khiêm tốn thì được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa làm cho nên công chính.
Lạy Chúa,
Chúa biết rõ nỗi khốn cùng của con,
Chúa thấu hiểu nỗi cô đơn đang vây bọc quanh con,
Chúa nhìn thấy tình cảnh yếu đuối và bệnh tật của con,
ôi Chúa là Đấng dựng nên con.
Chúa biết tất cả.
Xin nhìn đến con đang hết lòng khiêm nhường và thống hối.
Xin nhìn đến con đang tìm đến bên Chúa.
Ôi Chúa là Đấng thương xót,
xin đừng nghoảnh mặt làm ngơ.
xin đừng quên kẻ đang khao khát tìm Chúa.
…
Trong trái tim Chúa, con tìm được chỗ ẩn thân,
trong lòng thương xót Chúa, con tìm được nơi an nghỉ.
Con kêu lên Chúa cậy nhờ vào tình yêu Chúa dành cho nhân loại.
theo Syméon le Nouveau Théologien.
.
CẦU NGUYỆN: CHIẾC CẦU HIỆP THÔNG
Lm. Bùi Quang Tuấn
Dụ ngôn “Người Biệt Phái và Người Thu Thuế” Chúa Giêsu đưa ra cho thấy sự tương phản giữa 2 thái độ của con người đứng trước tình yêu thương bao la của Thiên Chúa.
Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đạo đức bác ái hơn hẳn người ta. Riêng anh thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát khinh chê, vì là hạng “cõng rắn cắn gà nhà,” tước đoạt tài sản “nhân dân,” làm lợi cho ngoại bang. Hai mẫu người đối lập cùng bước vào đền thờ và cùng làm một công việc: cầu nguyện. Nhưng tại đây sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét, khi tâm tình và thái độ sâu kín được bộc bạch trước Nhan Giavê.
Người Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng và cầu nguyện: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không giống các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi.” Khách quan thì người này không bịa chuyện. Ông chỉ nói điều ông làm. Và những gì ông làm thì không chê trách vào đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối chồng, không đam mê tội lỗi. Thậm chí về phần đạo đức bác ái, ông còn làm quá điều luật dạy. Thường thì người ta chỉ phải ăn chay một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông thi hành chuyện đó mỗi tuần hai lần. Luật buộc các nông dân phải nộp một phần mười sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân trên tất cả mọi thứ hàng hoá mua về.
Hành động của ông thật đáng tuyên dương nhưng thái độ của ông đã làm mất toi công phúc. Tạ ơn Chúa là điều cần thiết, nhưng kể lể công đức như ngầm bảo Chúa đang mắc nợ với tôi là điều chẳng đúng tí nào. Tệ hại hơn là khi ông dùng công nghiệp hay lòng đạo của mình để đè bẹp tâm hồn kẻ khác.
Đáng lẽ cầu nguyện là để gia tăng sự gắn bó giữa mình với Giavê, thì đây, người biệt phái lại làm lung lay nhịp cầu tiến đến với Ngài.
Không những đã không làm chắc thêm nhịp cầu đến với Thiên Chúa, người biệt phái còn làm tan tành nhịp cầu đến với tha nhân. Anh hăng hái lên án phường tham lam, bất chính, ngoại tình, thu thuế. Anh nhất quyết không thoả hiệp với tội lỗi, điều này rất đáng khâm phục. Nhưng anh thiếu cảm thương những người có tội và điều này đã làm cho anh khác xa Thiên Chúa.
Vì không làm vững nhịp cầu đến với Chúa và tha nhân mà lời cầu nguyện của người biệt phái đã rơi vào giòng sông hư không. Anh ra về chẳng nên công chính, cũng chẳng được sạch tội.
Trong khi đó, người thu thuế đi cầu nguyện nhưng lại “không dám ngước mặt lên trời,” anh “đứng xa xa,” đâu đó phía cuối đền thờ, lại còn “đấm ngực” và nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội.” Anh nhìn rõ chính mình trong tình thương của Thiên Chúa. Trước tấm gương của tình thương, anh thấy mình là kẻ tội lỗi. Có lẽ anh đã bao lần cố gắng vươn lên nhưng vẫn cứ bị ngã xuống đau thương. Thế nên lời cầu nguyện của anh chất chứa tâm tình thống hối, khiêm nhu, khẩn thiết, cậy trông, chân thành: “Lạy Chúa, xin thương tôi….” Không dám ngước mắt lên trời nhưng lại thấy được tình Chúa bao la vẫn còn hơn đứng thẳng ngước cao mà chẳng khám phá sự yêu thương đâu cả.
Nhìn vào tha nhân để tự mãn là thất sách. Nhưng nhìn vào Chúa để khẩn nài và bước theo là lối đường tôi được mời gọi đi tới. Bao người thu thuế đã nhìn vào Đức Kitô, gặp gỡ được tình thương, sau đó “ra về và được nên công chính,” như Mathêu và Giakêu. Họ đã làm chắc nhịp cầu với Thiên Chúa khi bước theo Đức Kitô và nối kết nhịp cầu với tha nhân khi “xin bố thí cho kẻ khó nửa phần của cải, và đền bù gấp bốn cho kẻ bị thiệt oan” (Lc 19:8).
Cầu nguyện để tiến sâu hơn vào tình thương và mối hiệp thông với Thiên Chúa và con người chính là bài học mà Đức Kitô muốn trao ban cho nhân loại hôm nay.
.
TỰ CÔNG CHÍNH HÓA CHÍNH MÌNH, MỘT THÁI ĐỘ SAI LẦM
Lm Nguyễn Hữu Thy
Chắc hẳn dụ ngôn người «Pha-ri-sêu và người thu thuế» – mà bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu – đối với tất cả chúng ta đã quá quen thuộc, và có lẽ vì quá quen thuộc nên chúng ta cũng khó nhận ra được ý nghĩa trọng yếu của câu chuyện nữa. Vâng, bình thường chúng ta hay tự đồng hóa mình với người thu thuế từ tốn trong dụ ngôn, bởi vì đối với chúng ta hình ảnh người Pha-ri-sêu quá đậm nét kiêu kỳ và tiêu cực. Nhưng nếu chúng ta tự thành thật với chính mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng cả hai hình ảnh đó – người Pha-ri-sêu và người thu thuế – đều ít nhiều có mặt trong chính bản chất con người chúng ta.
Thực ra, những người Pha-ri-sêu thường là những thành phần tốt và đàng hoàng của xã hội lúc bấy giờ, chứ không xấu như người ta ngày nay thường có ấn tượng về họ. Những ý kiến cho rằng tất cả những người Pha-ri-sêu đều là những kẻ giả hình giả bộ, gian trá, tham lam và chỉ chú trọng đến việc sống đạo theo văn tự và theo hình thức bên ngoài, chứ tinh thần và sự xác tín nội tâm thì hoàn toàn thiếu hẳn, là những ý kiến hoàn toàn không phản ảnh đúng với thực tại cụ thể.
Đúng vậy, vào thời Đức Giêsu, những người Pha-ri-sêu nói chung là những người có tâm hồn tôn giáo, luôn rất coi trọng luật Môsê. Sự cầu nguyện và việc cử hành các lễ nghi phụng tự luôn giữ một vai trọng quan trọng trong cuộc sống của họ. Tuy nhiên, quan niệm và cách thức sống đạo của một số lớn trong họ đã trở nên quá khích và lệch lạc, cần phải được sửa sai. Dẫn chứng cụ thể là hình ảnh người Pha-ri-sêu đã được Đức Giêsu nêu lên trong câu chuyện dụ ngôn.
Vâng, người Pha-ri-sêu được nói đến trong câu chuyện dụ ngôn tự cho rằng ông ta có thể tồn tại được trước Thiên Chúa. Trong khi cầu nguyện, ông ta chỉ nêu lên những tội lỗi mà ông ta không hề sa phạm bao giờ. Ông ta cảm tạ Chúa vì ông sống hoàn hảo và tử tế hơn tất cả những người khác. Trong khi cầu nguyện, người Pha-ri-sêu chỉ nói lên lòng cảm tạ biết ơn của mình đối với Thiên Chúa, chứ không hề khẩn cầu kêu xin cùng Người bất cứ điều gì cả. Ông ta cũng nói đến những công trạng của mình. Và thực ra, những điều ông ta đã làm không phải là ít: Mỗi tuần ông ta ăn chay hai lần và dâng cúng một phần mười hoa lợi của mình cho Đền Thờ.
Thử hỏi ai trong chúng ta có thể dám tự coi mình ngang hàng với một người đạo đức như thế? Bởi vì, nhiều người hễ khi nghe nói động đến vấn đề bớt ăn nhịn uống cũng như vấn đề dâng cúng của cải tiền bạc, là tự nhiên mất hết hứng thú, mất hết vui vẻ và tâm tình đạo đức tôn giáo cũng biến đâu mất. Trong khi đó người Pha-ri-sêu này hoàn toàn ngược lại. Vì để tôn vinh Thiên Chúa, ông ta đã ăn chay, đã hy sinh nhịn ăn nhịn uống mỗi tuần đến hai lần và cắt giảm mức sống bình thường của mình lại để dâng cúng cho đền thờ Thiên Chúa. Đối với ông, Thiên Chúa cũng cụ thể như những đồng tiền nằm lẻ kẻng trong túi tiền của ông. Như vậy, chúng ta không có quyền coi mình cao thượng hơn người Pha-ri-sêu này. Trái lại, ông ta có cuộc sống vượt trội hơn chúng ta.
Nhưng sự ngạc nhiên ở đây, trong câu chuyện dụ ngôn này, là theo nhận xét của Đức Giêsu, thì người Pha-ri-sêu này, một người Do-thái có thể được coi là đạo đức kiểu mẫu, sau khi cầu nguyện ở Đền thờ trở về nhà, sẽ không được công chính!
Tại sao lại vậy, khi mà ông ta đã trưng dẫn cho thấy là ông ta đã thực thi được bao điều tích cực, bao việc lành phúc đức? Vâng, đức Giêsu đã có lý khi đưa ra sự nhận xét như thế. Bởi vì, sự sai lầm và tiêu cực đáng trách nơi người Pha-ri-sêu này là ông đã tự công chính hóa chính mình, đã tự cho mình là đúng và thánh thiện hơn người khác. Nhất là ông đã quá ỷ lại vào chính mình, vào các khả năng và công cán cá nhân của ông ta, chứ không dựa vào Thiên Chúa và ơn trợ giúp của Người. Ông ta đã quên đi rằng, tự bản chất con người nói chúng và bản thân ông ta nói riêng hoàn toàn yếu hèn, bất toàn và khốn cùng trước mặt Thiên Chúa Tạo Hóa, và mọi khả năng, tài lực và của cải ông ta có được đều là hồng ân của Người ban cho.
Do đó, ông ta đã tự vô hiệu hóa các công sức, các việc lành phúc đức của mình, và qua đó ông ta đã vô tình tự hạ mình xuống thấp. Vâng, người Pha-ri-sêu đã đánh giá các việc lành nhân đức của mình bằng các phạm trù, bằng các tiêu chuẩn và cách thế trần gian, khi ông ta muốn dựa vào công sức của mình để khẳng định địa vị và chỗ đứng trước mặt Thiên Chúa. Tiếp đến ông ta ra mặt khinh thường những người mà ông ta cho là còn thấp kém và còn đầy khiếm khuyết hơn ông ta. Cái chuẩn độ mà ông ta đưa ra để đo lường nhân đức và sự thánh thiện hoàn toàn không phải là Thiên Chúa. Vì thế, tất cà những gì ông ta làm, đều mất hết giá trị.
Đức Giêsu đã đưa ra câu chuyện dụ ngôn này là có ý muốn nhắn gửi đến những người đã luôn tự phụ cho mình là công chính thánh thiện và coi khinh những người khác. Người đã thẳng thắn nói cho những người vốn có quan niệm sai lầm như thế rằng Thiên Chúa, Đấng mà Người loan báo, hoàn toàn kết án việc tự công chính hóa chính mình, việc tự cho mình là lành thánh vô tội. Trong khi đó, chỉ có một mình Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể công chính hóa con người và các hành động của họ bằng sự phán quyết tuyệt đối công minh và đúng đắn của Người mà thôi.
Còn những người thu thế vào thời Đức Giêsu không được đại chúng kính trọng, vì nghề thu thuế của họ là một nghề lem nhem đáng khinh, một nghề không hoàn toàn dựa trên pháp lý và sự công bằng. Họ bị dư luận quần chúng cho là những người tội lỗi, bởi vì họ cộng tác với quân ngoại xâm Roma và trong vấn đề thu thuế má họ đã lợi dụng để làm giàu cho chính mình trên sự đau khổ của đồng bào. Dó đó, đời xưa những người thu thuế bị xếp vào hàng ngũ những kẻ trộm cướp. Họ mất hết phẩm giá của một công dân Do-thái và người ta tránh tiếp xúc giao lưu với họ.
Nhưng cũng chính vì lý do đó mà câu chuyện dụ ngôn lại làm cho chúng ta ngạc nhiên một lần thứ hai nữa. Đó là việc Đức Giêsu đã quả quyết rằng người thu thuế, một kẻ đã sai phạm không biết bao nhiêu là tội lỗi và bất công, sẽ rời Đền Thờ ra về trong an bình vui sướng với Thiên Chúa và với chính mình, sẽ trở về nhà như một người công chính!
Tại sao?
Điều tích cực nơi người thu thuế là chính việc anh đã thành tâm đến cầu nguyện cùng Thiên Chúa thực sự. Trước tòa Chúa anh đã nhận ra mình chỉ là một kẻ tội lỗi bất xứng và anh biết rằng với một lương tâm u uẩn, đầy tội lỗi nặng nề như thế, chắc chắn anh sẽ không thể tồn tại được trước mặt Thiên Chúa. Như thế, người thu thuế đã đánh giá cuộc sống và các việc mình làm theo các tiêu chuẩn trên cao, theo luật lệ Thiên Chúa. Vâng, Thiên Chúa là mẫu mực, là mô phạm và là tiêu chuẩn của anh. Do đó, trước mặt Chúa anh đã xưng nhận tội lỗi của mình và chân thành khẩn cầu Người tha thứ cho anh.
Qua đó chúng ta thấy rằng người thu thuế tội lỗi – với một tâm hồn khiêm tốn chân thành – được ở gần kề bên Thiên Chúa hơn là người Pha-ri-sêu đạo đức – với một tâm hồn đầy tự phụ, kiêu căng và khinh người.
Nói tóm lại, người Pha-ri-sêu bị chê trách không phải vì lý do sự công bằng và những việc phúc đức ông đã làm. Điều gì tốt thì luôn luôn vẫn là điều tốt. Nhưng vào giai đoạn kết thúc câu chuyện, người Pha-ri-sêu lại không còn được coi là một người tốt, đó là do ông đã quá tự đề cao mình khi so sánh với những người khác và rồi coi khinh họ.
Trong khi đó người thu thuế được khen ngợi không phải vì những tội lỗi anh đã sa phạm. Điều gì xấu thì vẫn luôn luôn là điều xấu. Nhưng anh ta được khen ngợi, bởi vì:
Chính sự thành tâm đó là khởi đầu cho công cuộc thay đổi và canh tân cuộc sống.
Vậy, qua dụ ngôn «Người Pha-ri-sêu và người thu thuế», Đức Giêsu muốn nói cho chúng ta biết điều gì thực sự là thánh thiện và hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa: Không phải là việc chỉ nhắm giữ đúng các luật lệ và các đòi hỏi luân lý, nhưng là sự xác tín rằng mình hoàn toàn bất toàn trước mặt Thiên Chúa, nên cần đến lòng thương xót của Người và nhất thiết phải canh tân cải thiện cuộc sống của mình.
.
LẠY THIÊN CHÚA XIN THƯƠNG XÓT CON
Fx Đỗ Công Minh
Lời Chúa trong tin mừng hôm nay, Chúa nhật XXX thường niên, cho chúng con một lời nhắc nhở về việc sống đạo sao cho công chính trước mặt Chúa. Để xác định thái độ nội tâm và hình thức bề ngoài khi hướng về Thiên Chúa, Chúa nhật tuần này, Đức Giêsu đã đặt hai nhân vật đại diện cho con người ngày hôm nay : một bên là người pharisiêu công chính tuân giữ Luật Chúa cách hoàn hảo và bên kia là người thu thuế, tội lỗi, tay sai cho bọn đế quốc, vơ vét tiền bạc trên lưng của đồng bào .
Người Pharisêu tiêu biểu cho người bảo thủ cảm thấy mình phù hợp với Thiên Chúa và tha nhân, coi khinh kẻ khác. Người thu thuế là kẻ đã phạm một lỗi lầm, nhưng anh nhìn nhận lỗi lầm đó và khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Anh ta không nghĩ cứu được mình nhờ công nghiệp riêng mình, nhưng đúng hơn nhờ lòng thương xót Chúa. Sự ưu tiên của Đức Giêsu giữa hai người này rõ rệt, như câu cuối cùng của dụ ngôn minh chứng: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”, tức là, được tha và hoà giải với Chúa; người Pharisêu trở về nhà trong tình trạng y như hồi ra đi vẫn giữ cảm giác về sự công chính của mình, mà phải mất sự công chính của Chúa.
Trong thực tế, người Pharisiêu đã đặt ra cho mình chỉ tiêu công chính. Ông không như những người khác, ông ăn chay, nộp thuế…Ông tự xây dựng hình ảnh người công chính cho mình khi quên mất điều quan trọng nhất của lề Luật là tình yêu tha nhân.Tệ hơn nữa là thái độ của ông. Ông “tạ ơn Thiên Chúa ” ; nhưng không được, ông thích liệt kê những kẻ tội lỗi. Trong lời cầu nguyện, ông không cần đến Thiên Chúa. Như thế, ông không công chính với chính mình, sức mạnh nội tâm của ông cho phép ông vượt lên trên mức tầm thường, nhưng ông đã coi thường sự đáng kính của ông. Một người hài lòng với chính mình, làm sao có thể giao tiếp được với Thiên Chúa ? ( Web TGP HN)
Trái ngược với những con người giả hình đó Chúa Giêsu lại hết sức khen ngợi người thu thuế khiêm tốn, với tâm tình yêu mến chân thành. Những con người tội lỗi một mực tin tưởng vào Thiên Chúa, “ Đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng : “Lạy Thiên Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi “. Tâm tình của ông được Chúa chúc phúc là người được nên công chính.
Lạy Chúa,
Con đang tự hỏi mình là hạng người nào trước mặt Chúa? Con không là Pharisêu, nhưng cũng ít nhiều có vị trí nào đó trong xã hội, trong Giáo hội. Ít nữa là một tín hữu được đón nhận Phép rửa, là con cái Chúa từ vài chục năm nay. Con đã từng là người trên của các đứa em, là cha mẹ của con cái trong nhà. Con có sống thực với vai trò của người trên với người dưới ? là cha mẹ đối với con cái ? Là người huynh trưởng trong hội đòan, là người đại diên của khu họ, của cộng đòan. Con cũng được tín nhiệm hay được trao cho trách nhiệm giúp đỡ giáo dục, khuyên bảo người khác. Con có nói đi đôi với làm? Con có tin điều mình tuyên xưng ? có làm điều con rao giảng ? Quả thật con còn có nhiều lầm lỗi, thiếu sót. Con có khác chi thái độ giả hình của các ông biệt phái ngày xưa bị Chúa phê phán .
Xin Chúa giúp con khi nhận ra bản thân mình tội lỗi, như người thu thuế, nhận ra những thiếu sót của mình, để xin Chúa tha thứ và thêm sức cho con sửa chữa lỗi lầm. Con có thể sống giả dối trước mặt mọi người, nhưng không thể giả hình trước mặt Chúa. Và dù có giả dối được hôm nay, trong cuộc sống này, thì đến một lúc nào đó con cũng phải ê chề vì thái độ sống của mình trước mặt Chúa và anh em . AMEN.
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn, Đoạn Lời Chúa trong trang Tin Mừng thánh Luca 18 hôm nay, chính là nói về “tính tự kiêu”, tự tôn, tự tăng bốc chính mình, thì sẽ trở thành tự cao, tự đại, tự dẫn đến con đường chết cho chính những kẻ kiêu căng.
Vâng, tự kiêu là căn bệnh ăn sâu vào tiềm thức, vào tâm khảm, tâm can của kẻ mê muội. Tự cao, tự kiêu là căn bệnh mà Thiên Chúa muốn loại bỏ nó từ lúc khai thiên lập địa. Vâng, nói như thế, để nhắc nhớ chúng ta về tội nguyên tổ, hầu hiểu được rằng, tự kiêu cần loại trừ ngay trong trứng nước, vì mầm mống của nó đi ngược với ĐứcTin Kitô giáo. Sự tự kiêu luôn mâu thuẫn với đức bác ái, mà người ta gọi là ” đi ngược”, vì không thể có người mạnh đức tin mà lại tự kiêu, nếu ai đó cho rằng mình có Đức Tin Công giáo mạnh, nhưng lại có một tính cách tự kiêu, thì thật đáng tiếc cho họ.
Thưa quý vị, các bạn có thể nói Đoạn Lời Chúa hôm nay ( Lc 18, 9 -14) là một Đoạn cần thiết cho mọi người Kitô hữu, nhưng rất cần thiết như một môn tu đức học cho tất cả mọi người muốn bước theo Đức Giêsu- Kitô. Người ta nói:” Kẻ mạnh là kẻ nâng người khác trên đôi vai của mình, chứ không phải đạp trên đôi vai người khác”.
Từ đó, chúng ta thấy giá trị khiêm nhường đem đến sự sống, nhưng giá trị của sự tự kiêu sẽ dẫn đến cái chết, chết đời đời.
Nên chi, Đoạn Lời Chúa hôm nay như một kim chỉ nam cho sự khiêm nhường, vì sự khiêm tốn mới dẫn đến yêu thương, và mọi sự yêu thương đều phát xuất từ khiêm nhường. Trong đời sống Đức Tin, người ta thường phân biệt “ Đạo dòng, Đạo gốc”, Đạo dòng là chạy dòng dòng, Đạo gốc là ngồi gốc cây khi đi Lễ.
Tóm lược nội dung Tin Mừng ( Lc 18, 9-14) hôm nay, chúng ta thấy có hai người lên Đền thờ CẦU NGUYỆN, một người Pharisiêu, có nghĩa là thầy tư tế, tự cho mình đạo đức, thánh thiện, kể công với Thiên Chúa về những công trạng của mình, tự hào về những việc đạo đức mình làm, tỏ ý khinh chê người thu thuế, nghèo khó. Còn người thu thuế kia thì cảm thấy mình tội lỗi, không thực hiện được những điều đạo đức như người Pharisieu giàu có kia, ông ấy chỉ nói :” Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Như vậy, Chúa Giêsu kết luận :” Tôi nói cho các ông biết, người thu thuế nầy ra về thì được nên công chính còn người kia thì không ; Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” ( c 14).
Vâng, tự hạ và khiêm nhường là nhân đức hàng đầu, chứ không phải là đọc kinh, cầu nguyện.
Vì đọc kinh, cầu nguyện là để múc lấy sự khiêm nhường là ân sủng siêu nhiên làm đẹp lòng Thiên Chúa. Vì mọi việc đạo đức không phải để tự kiêu, mà là để cảm tạ Thiên Chúa, vì đừng nghĩ rằng mình làm nhiều việc đạo đức là công trạng của mình, kể ra để được “ thưởng công”, nhưng Chúa Giêsu bảo : Sự công chính là sự khiêm hạ.
Thực sự, Thiên Chúa không cần chúng ta làm điều gì cho Thiên Chúa, ngoài sự khiêm hạ và yêu thương tha nhân. Vì, chúng ta nhớ rằng : Thiên Chúa đồng hóa và đồng hình, đồng dạng với người khó khăn, thiếu thốn, về tinh thần cũng như vật chất. Nếu chúng ta có của ăn , hay tài năng học thức, sức khỏe hay nhan sắc, tất cả những điều ấy là do Thiên Chúa ban, như vậy chúng ta phải biết chia sẻ cho tha nhân, vì đức bác ái chính là sự khiêm nhường đích thực. Trong Đoạn Tin Mừng ngày Cánh Chung, Chúa Giêsu không nói : con đọc bao nhiêu kinh, nhưng Người nói : “Ai làm cho một trong những kẻ bé mọn nầy là làm cho chính ta”, như vậy, Thiên Chúa đã đồng hình, đồng dạng với người nghèo bằng sự yêu thương và “treo mình chịu chết vì họ”, nghèo ở đây không chỉ có nghĩa là vật chất không thôi, mà là kẻ tội lỗi cần đến LÒNG THƯƠNG XÓT của Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cứu Độ hết thảy mọi người và muốn tất cả nên thánh,có nghĩa là trở nên giống Thiên Chúa, nên gọi là Hội Thánh, nhưng trong Hội Thánh không phải mọi người đều được hiển thánh. Như vậy, chỉ số ít những người thực thi Lời Chúa, cụ thể như cuộc đời các thánh là những người chịu đau khổ, thiệt thòi vì Tin Mừng ngay trong môi trường dòng tu của mình. Như thánh Martino de Porres, vị thánh da màu khiêm hạ trong dòng Đa-minh v…vv….
Vâng, chỉ có yêu thương mới từ bỏ chính mình, quên mình để nghĩ đến tha nhân. Như thánh Phaolo, vị tông đồ dân ngoại đã nói :” Trên hết anh em phải có đức bác ái là mối dây kiện toàn lề luật “ Rõ ràng người Công giáo phải hơn về điểm nầy, nhưng thực tế, người Công giáo cũng “lắm” tự kiêu, vì họ chưa thấm nhuần Đoạn Lời Chúa hôm nay. Vâng, với ý tưởng của Đoạn Lời Chúa hôm nay, hầu triển khai cho ngày Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo tuần qua, vì , vì Sắc Lệnh của Công Đồng Vaticano II Missio Ads Gentes –Truyền Giáo cho Muôn Dân là hư thế. Mong thay.
Thiết nghĩ chọn Đọan Lời Chúa hôm nay làm kim chỉ nam cho việc Truyền Giáo thật tuyệt vời !
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con./. Amen
.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Hc 35:12-14, 16-18; 2 Tm 4:6-8, 16-18; Lc 18:9-14)
Là một chủ đề lớn trong Kinh Thánh, đề tài cầu nguyện được Phụng vụ trình bày liên tiếp mấy tuần lễ vừa qua. Lời Chúa hôm nay đặc biệt nhấn mạnh đến thái độ khiêm nhường khi chúng ta cầu nguyện. Bài đọc 1 đề cập tới sức mạnh và hiệu quả của lời cầu nguyện mà kẻ nghèo hèn dâng lên Thiên Chúa vì Người không “coi thường” lời khấn nguyện của kẻ mồ côi và người góa bụa. Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô biểu lộ niềm tin vào Chúa vì “Chúa đứng bên cạnh và ban sức mạnh” cho ngài trong khi mọi người bỏ rơi ngài. Đó cũng là một khía cạnh của đức khiêm nhường khi cầu nguyện. Sau hết trong dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, Chúa Giê-su đã cho thấy rõ đức khiêm nhường là yếu tố không thể thiếu mỗi khi chúng ta cầu nguyện.
Sách Huấn ca có rất nhiều lời khuyên thực tế về đời sống đạo hạnh của dân Ít-ra-en. Hầu hết nội dung sách Huấn ca nói đến những cách cư xử theo đức khôn ngoan, không phải lẽ khôn ngoan của người đời, nhưng lẽ khôn ngoan của Chúa, nhất là Lề Luật Người. Tuy nhiên, bên cạnh những bài học luân lý về lối sống, sách cũng nhắc đến đời sống của những người không may mắn trong xã hội, như kẻ nghèo hèn, người bị áp bức, kẻ mồ côi, người góa bụa. Họ không còn chỗ nương tựa nào chắc chắn hơn là trông cậy vào tình yêu Thiên Chúa. Giữa những nghịch cảnh của cuộc sống, họ chỉ còn biết ngước mắt nhìn lên Thiên Chúa, “Đấng xét xử và chẳng thiên vị ai”. Vì Chúa đặc biệt quan tâm đến những người nghèo hèn (anawim), nên lời cầu nguyện của họ thực sự phát xuất từ cõi thẳm sâu của đức khiêm nhường, tuyệt đối tin tưởng vào lòng nhân hậu và quảng đại của Thiên Chúa. Càng khốn nạn, họ càng tin tưởng vào Chúa hơn. Do đó, sách Huấn ca mô tả sức mạnh lời cầu nguyện của họ có thể “vọng tới các tầng mây và vượt ngàn mây thẳm”. Như thế, chẳng có không gian nào mà lời cầu nguyện của họ không vượt qua được để đến với Thiên Chúa. Ngoài sức mạnh ra, lời cầu nguyện của họ còn mang đặc tính kiên trì và không nao núng. Kẻ kêu xin Chúa sẽ không an lòng, sẽ không bỏ đi nếu Chúa chưa đoái nhìn và chưa xét xử cho người công chính.
Với bài Tin Mừng, bài học cầu nguyện càng rõ ràng hơn. Tuy đây là câu chuyện dụ ngôn, nhưng lại dựa trên những thực tại thường xảy ra ngoài đời đối với nhóm Pha-ri-sêu, những người vẫn “tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác”. Như chúng ta đã thấy nhiều lần Chúa Giê-su nói thẳng với nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư về lối sống giả đạo đức của họ, dụ ngôn hôm nay đúng ra không phải là dụ ngôn, mà là sự kiện ai chũng có thể nhận thấy. Cầu nguyện ở đâu thì người Pha-ri-sêu cũng muốn cho người khác thấy họ là người đạo đức, công chính. Nếu có dịp khoe khoang, họ sẽ không ngại kể lể những “việc lành” của họ trước mặt người khác mà không chút xấu hổ. Thế mà hôm nay ông Pha-ri-sêu này còn dám kể lể trong Đền Thờ và trước mặt Thiên Chúa những thành tích đạo đức của ông. Để đánh bóng mình trước mặt Chúa, ông còn ngạo nghễ so sánh mình với “tên thu thuế kia” nữa! Quả là kiêu căng hết cỡ rồi. Cầu nguyện kiểu này, ông muốn bắt Chúa phải thưởng công ông, vì ông bảo ông xứng đáng với những công nghiệp của mình: nào là ăn chay (cho dù ông “không có tội” và không cần sám hối!), nào là ông “cho” Chúa những một phần mười thu nhập của ông (không biết ông thu nhập kiểu gì, có lẽ nhờ đã nuốt chửng gia tài của một bà góa nào đó!). Như vậy mà Chúa không ân thưởng cho ông thì đúng là “trời không có mắt”.
Tuy nhiên một điều tuyệt vời trong dụ ngôn này là sự tương phản giữa ông Pha-ri-sêu với tên thu thuế. Ông Pha-ri-sêu càng tôn mình lên cao bao nhiêu thì người thu thuế càng hạ mình xuống bấy nhiêu. Một người đứng thẳng, còn một người thì chỉ dám “đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời”, luôn đấm ngực thú nhận thân phận tội lỗi mình. Tuy không nói ra đức khiêm nhường của người thu thuế, nhưng lối mô tả phong cách khiêm nhường của người thu thuế khi cầu nguyện thì lại vô cùng sống động. Cuối câu chuyện dụ ngôn là kết quả của hai lối cầu nguyện: người thu thuế trở về nhà thì đã được nên công chính, còn ông Pha-ri-sêu thì không! Rồi Chúa Giê-su còn bồi thêm một bài học đích đáng: Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên. Chúa muốn bảo: Nhớ nhé, khi con cầu nguyện thì phải khiêm nhường!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Hễ nói đến sống sứ điệp Lời Chúa là ta không thể quên gương mẫu của thánh Phao-lô! Từ trong tù viết cho môn đệ Ti-mô-thê, thánh nhân đã tâm sự về nỗi khốn khổ của ngài khi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Ngoài hiểm nguy trên đường truyền giáo, Phao-lô còn bị tấn công tư bề, nhất là do chính đồng bào của ngài khắp nơi. Trong thư, ngài viết: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi”. Nhưng một điều Phao-lô biết chắc, đó là “Nhưng có Chúa đứng bên cạnh”. Nếu ngài không khiêm nhường cầu nguyện với Chúa, thì sao ngài có thể cảm nghiệm được Chúa ở bên để bênh vực ngài? Đây là kết quả của đời sống khiêm nhường cầu nguyện, nhờ đó Phao-lô đã thắng được mọi trở ngại. Bạn có muốn làm như thánh Phao-lô khi thấy mình khốn khổ không?
.
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Giêsu Nagiaret quả là một tôn sư không chỉ to gan mà còn quá bạo phổi. Pharisiêu, một nhóm người được xem là đạo hạnh, đáng trọng kính theo cái nhìn của người đương thời, thế mà bị đem ra để đối trọng với thế bại trận trước phường thu thuế đáng khinh, đáng phỉ nhổ. Dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện (một người thuộc nhóm Pharisiêu và người kia thì làm nghề thu thuế) mà Chúa Giêsu kể chắc hẳn khiến nhiều người lúc bấy giờ tức anh ách.
Người ta thường khuyên nhau rằng viết thì phải lách, dạy thì phải dỗ, nghĩa là nhẹ nhàng, từ tốn thì sẽ đạt hiệu quả, còn cứ nói, cứ viết trực diện theo kiểu thẳng tàu ruột ngựa thì khó mà đạt kết quả như ý mà nhiều khi còn chuốc lấy thất bại. Thế nhưng, tư tưởng của Thiên Chúa thì vượt quá tư tưởng nhân loại chúng ta, đường lối của Người cũng hoàn toàn khác xa đường lối của chúng ta. Bỏ trời cao, xuống thế gian này “để làm chứng cho sự thật”, Chúa Kitô không ngại ngần tỏ bày những chân lý thoạt nghe qua rất đỗi “chối tai”. Một chân lý được tỏ bày khi mà người nói đã sẵn sàng đón nhận mọi hậu quả xấu xa hay tồi tệ xảy đến cho mình thì chân lý ấy quả là quan trọng và cần thiết biết bao cho người nghe. Và cái chân lý của câu chuyện dụ ngôn “hai người lên đền thờ cầu nguyện” đã được thánh sử Luca nói rõ: “Khi ấy, Chúa Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là người công chính mà khinh chê kẻ khác”(Lc 18,9). Và người số người này sẽ không được nên công chính (x.Lc 18,14). Xin cùng xét xem đôi nét “đáng thương” của ngài biệt phái trong câu chuyện dụ ngôn.
Trước hết chúng ta cần khẳng định rằng “công trạng” hay có thể nói là “đức độ” của vị biệt phái quả là đáng khâm phục, vì vượt xa đức độ cũng như công trạng của nhiều người. Giữ mình khỏi những hành vi xấu xa như trộm cắp, ngoại tình và những việc bất chính cũng đã là một nỗ lực rất đáng khen. Vị biệt phái này còn ăn chay mỗi tuần hai lần trong khi luật Do Thái chỉ buộc ăn chay một ngày trong năm đó là ngày Lễ chuộc tội. Vị này cũng đã dâng một phần mười tất cả các khoản thu nhập để tỏ lòng kính sợ Chúa, tạ ơn Chúa (x.Đnl 14,22-23), để nuôi hàng Tư tế, các thầy Lêvi, những người ngoại kiều, cô nhi quả phụ (x.Đnl 14,28-29; 26,10-11). Và việc thưa trình với Thiên Chúa những gì mình đã làm cũng là chính đáng và hợp luật (x.Đnl 26,12-15). Dù không quá đáng ghét, nhưng vị biệt phái “đạo đức” này vẫn là “kẻ đáng thương” như thánh sử Luca nói từ đầu câu chuyện dụ ngôn.
-“Kẻ đáng thương!”: Với thế dáng đứng thẳng của vị biệt phái mà câu chuyện dụ ngôn kể nói lên sự lầm tưởng của ông ta. Khi vị biệt phái tự hào cho mình là người công chính thì ông lầm tưởng rằng những gì ông đạt được là do bởi công sức và đức độ của mình. Phận bình sành, lọ đất mà dám lên mặt với người thợ gốm sao? Vị Pharisiêu này đứng thẳng mà không nhìn lên Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên ông ta từ cõi hư vô. Ông lại còn nhìn ngang nhìn ngửa, nhìn trước nhìn sau để chứng tỏ công trạng của mình. Ông đã dùng người anh em thu thuế đứng đằng sau làm tấm bình phong để tự tôn mình lên.
Biết bao lần chúng ta đã đặt mình vào tình trạng “kẻ đáng thương” hay “đồ đáng thương” vì lầm tưởng về các khả năng hay công trạng mình đang có. Vì cái lầm này khiến chúng ta quên đi chân lý nền tảng đó là ngay sự hiện hữu của chúng ta ở đời này là do lãnh nhận. Quả thật chẳng có một ai trong nhân loại đã bỏ ra chút công sức hay của tiền để được làm người, để được chào đời. Nếu ý thức và chân nhận sự sống, sự hiện hữu của mình là do lãnh nhận thì chúng ta sẽ chẳng có lý do gì để tự cao, tự đại về những thành quả hay thành công đạt được cách này cách khác, mặt này, mặt kia. Thánh Phaolô khẳng định : “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? (1Cr 4,7). Nếu Chúa không nâng đỡ thì không ai có thể tồn tại và phát triển. Không có ơn Chúa thì chúng ta sẽ chẳng làm được sự gì tốt đẹp (x.Ga 15,5). Sự lầm lẫn khiến người biệt phái đã xa rời sự thật nền tảng này.
-“Người được xót thương”: Dữ kiện người thu thuế không dám tiến gần chính điện, cũng không dám ngước mặt lên trời muốn khẳng định thái độ khiêm nhu nhìn nhận sự bất xứng, bất toàn của anh. Anh lại còn đấm ngực thú nhận thân phận tội lỗi của chính mình. Với thái độ khiêm nhu, người thu thuế đã sống trong sự thật. Và sự thật đã giải thoát anh (x.Ga 8,32). Anh ra về và được nên công chính, nghĩa là đã được Chúa xót thương.
Có phải Thiên Chúa không thương xót người biệt phái chăng? Có thể trả lời cách không sợ sai lầm rằng Thiên Chúa xót thương hết thảy mọi người. Vị biệt phái không nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa chỉ vì ông ta không thấy mình cần được xót thương. Nước mưa từ trời tuôn đổ xuống nhưng cái nắp chai không được mở ra thì chai vẫn mãi rỗng không. Khi khiêm hạ nhìn nhận sự thật của mình, người thu thuế đã mở rộng tấm lòng và ông đã đón nhận được tình xót thương của Thiên Chúa.
Tác giả Thánh Vịnh khẳng định rằng Thiên Chúa nhậm lời kẻ nghèo hèn khẩn xin (x.Tv 33). Những tâm hồn tan nát khiêm cung là những người biết nhìn nhận sự thật. Chẳng phải họ có công trạng gì hơn người khác nhưng hoàn cảnh bi đát đau thương là một điều kiện thuận lợi để họ sống trong sự thật, đó là loài người tuy cao cả nhưng lại mong manh và bất toàn. Trái lại, một khi chúng ta thành công hoặc đạt được những kết quả mặt này mặt kia thì chúng ta dễ bị cám dỗ sinh tự mãn, tự kiêu. Người tự kiêu, tự mãn không chỉ lên mặt coi thường tha nhân mà vô tình hay hữu ý còn bất cần cả Thiên Chúa.
Giúp nhau nhìn nhận sự thật: “chúng ta là loài được dựng nên; sự sống, các khả năng của chúng ta là do lãnh nhận”, và giúp nhau can đảm sống trong sự thật: “chúng ta vốn mỏng manh và bất toàn”, chính là một phương thế tuyệt hảo đưa nhau ra khỏi tình cảnh “kẻ đáng thương” để trở thành “người được xót thương”. Nói như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đó là sống bác ái trong chân lý bằng việc nói lời sự thật trong tình thương. Thiết nghĩa rằng đây là một phương thế truyền giáo đẹp lòng Chúa Kitô, vì chúng ta dõi theo chân Người, Đấng đã từng khẳng định trước Philatô rằng mình bỏ trời xuống thế gian là để làm chứng cho sự thật và chỉ có sự thật mới giải thoát nhân loại chúng ta (x.Ga 18,37).
.
NGƯỜI BIỆT PHÁI VÀ NGƯỜI THU THUẾ
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1–. Trong phúc âm Lc, dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế được tiếp đón sau dụ ngôn vị thẩm phán bạo ngược. Không có gì chứng minh hai dụ ngôn này được đưa ra trong cùng một hoàn cảnh. Có lẽ chúng được liên kết với nhau vì có cùng chủ đề tương tự. Mỗi dụ ngôn đều có phần nhập đề đặc biệt. Mạch văn ghi lại những giai thoại cuối cùng trong hành trình tiến về Giêrusalem. Lc giống Mt và Mc ở điểm này. Dụ ngôn xem ra được đưa ra tại Perée hoặc Giuđêa ít lâu trước khi Chúa Giêsu đi tới Giericô lần cuối cùng. Bản văn đã giúp xác quyết các dữ kiện đó. Dụ ngôn chạm trán, không chút vị nể, sự công chính giả hiệu của người biệt phái. Chúa Giêsu đã không đợi đến ngày cuối cùng mới làm việc đó, nhưng đúng hơn ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai, tuy nhiên Ngài tránh dịp đả kích.
2–. Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn này để dạy về sự cầu nguyện, hoặc bề sự khiêm tốn, hoặc về sự cầu nguyện khiêm tốn, đó là những điểm nhấn mạnh trong những lời chú giải. Họ xây dựng ý kiến đó trên sự kiện dụ ngôn được bao gồm trong một cơ cấu về việc cầu nguyện, theo sau vị thẩm phán bạo ngược và nhất là dựa trên những nét chính dụ ngôn: dụ ngôn không được xây dựng do những lời cầu nguyện của người biệt phái và người thu thuế sao? Cách chung, các tác giả này xem câu châm ngôn: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” như là câu kết thúc trình thuật dụ ngôn.
Đa số các nhà chú giải cho rằng Chúa Giêsu có lý khác. Khi mô tả người biệt phái cầu nguyện. Ngài không muốn dạy về sự cầu nguyện cho bằng phơi trần hai đời sống nội tâm. Phải chăng lúc cầu nguyện là lúc người ta được coi là chân thành hơn hết đó sao? Vậy dụ ngôn có mục đích dạy về các giá trị của hai trạng thái tâm hồn, hai thái độ nội tâm, hai mặc cảm tinh thần: mặc cảm của người biệt phái tự mãn về chính mình, về sự thánh thiện của mình và mặc cảm của người thu thuế, tuy là tội nhân, nhưng biết tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Tất cả đều làm nổi bật quan niệm đó: thể văn dụ ngôn đưa ra hai khuôn mặt đối nghịch, chỉ mình Chúa Giêsu mới xét đoán ai công chính, ai không. Câu nhập đề cũng nghiêng theo quan điểm đó: “Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai thường tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác”. Dụ ngôn dạy những người tự phụ, bằng cách cho họ thấy rõ ràng tính tự kiêu và vẻ hợm hĩnh họ bày tỏ trước mặt Thiên Chúa, trong khi những người bị họ khinh chê, nhờ ăn năn hoán cải, đã được ơn tha thứ và ơn công chính hóa.
3–. Thông thường, các dụ ngôn trình bày những sự vật hay con người để dùng bản chất hay việc làm của họ để dạy về các thực thể thuộc bình diện cao hơn. Ngược lại, dụ ngôn hôm nay chỉ là một ví dụ.
Chúa Giêsu đã vắn tắt phác họa hai khuôn mặt nổi tiếng. Không nên có tiên kiến khi phân tích hai khuôn mặt đó. Từ nhiều thế kỷ, người biệt phái đã thành một loại chiên hy sinh (bouc émissaire); một số nhà chú giải còn muốn tô đậm hơn các nét mà Chúa Giêsu đã sơ họa. Chớ làm thế. Một khuôn mặt luôn ngụ một ý nào đó; nếu quá nhấn mạnh nó sẽ thành hài hước và cuối cùng không gây được một cảm tưởng nào.
Ví dụ, khi người biệt phái cảm tạ Chúa vì mình không như những kẻ khác, thật là ép nghĩa khi xem người biệt phái đó muốn đối chiếu bản thân ông là người công chính; bên kia là tất cả mọi người khác, họ đều là người hư hỏng. Nhiều nhà chú giải nghĩ phải hiểu ngầm có thêm câu “như những người khác không phải là biệt phái”: cách nói này có thể chấp nhận. Ngoài ra, người biệt phái không xem tất cả các người khác không phải là biệt phái đều là những quái vật. Đừng hiểu cách vô hạn định thành ngữ hoi loipoi tôn ânthrôpôn. Nếu dịch thành ngữ này là “các người còn lại” thì quá mạnh nghĩa; có lẽ nên dịch là “các người khác”, hay “quần chúng nói chung”. Hoặc nếu muốn hiểu thành ngữ đó theo nghĩa mạnh thì phải xem người biệt phái đã cố ý khoa trương như tác giả Tv (Tv 14,2-3). Việc đối chiếu người đạo đức với các kẻ gian ác là một chủ đề thường gặp trong các Tv (Tv 1,14; 16,17…). Việc người biệt phái có khuynh hướng gán ghép điều ác cho kẻ khác và điều thiện cho bản thân mình là một việc có thể có. Ông sai lầm ở chỗ là tạo nên ảo tưởng đó ngay trước mặt Thiên Chúa. Ông hơi hợm hĩnh, buồn cười, nhưng sự kiêu ngạo của ông không lạ lùng gì, vì thường ai cũng thế.
Và vì hình ảnh người biệt phái có vẻ có như trong thực tế, và vì lời ông cầu nguyện xem ra chính đáng, nên dụ ngôn đã làm cử tọa kinh ngạc và khó hiểu. Sách Tamud ghi lại một lời nguyện ở thế kỷ I khá tương tự với lời nguyện của người biệt phái: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con cảm tạ Chúa vì đã cho con nhập bọn với các người đầu đường xó chợ, con đã lên đường sớm như họ: nhưng con sớm đi theo Lời của Lề luật còn họ sớm theo phù vân giả dối. Con từng vất vả như họ: con chịu vất vả để trọng thưởng, còn họ chịu vất vả mà chẳng gì. Con chạy họ cũng chạy: con chạy về sự sống của thế giới mai sau, còn họ chạy về hố thẳm diệt vong (b Ber 28b).
Lời nguyện của người Biệt phái do đó là một lời nguyện rút từ cuộc sống cụ thể, và b Ber 28b là lời chú giải chính xác về thành ngữ “con cảm tạ Chúa” của câu 11. Người biệt phái chân thành cảm tạ Chúa đã hướng dẫn đời sống ông. Ông biết rằng chính Thiên Chúa đã cho ông sống khác biệt và tốt hơn người khác, rằng chính Ngài đã cho ông gia nhập nhóm những người biết nghiêm túc tuân giữ các bổn phận tôn giáo. Ông không muốn hoán đổi cuộc sống ông với suộc sống của kẻ khác dù họ có một đời tốt đẹp hơn, vì ông hứa rằng: đường ông đang đi, dù gặp bao khó khăn gian khổ, cuối cùng cũng sẽ đưa đến “sự sống của thế giới mai sau”. Đó chẳng phải là những lý do để cảm tạ hay sao (c.12 cũng là lời cảm tạ). Hãy lưu ý thêm điều này: lời nguyện của người biệt phái không chứa đựng một lời van xin gì cả, mà chỉ là một lời cảm tạ, tri ân. Thật là điều tuyệt hảo, không ai mà lại không ao ước như thế. Đó chính là tiền nếm sự sống vĩnh cửu. Cầu nguyện như thế, có gì cần phải sửa đổi?
4–. Chúng ta cũng phải khảo sát lời cầu nguyện của người thu thuế với cái nhìn của người đương thời. Bản văn nói là ông ta không dám nhìn lên và hơn nữa – đây là điều hiểu ngầm – không dám đưa tay lên trời như ông vẫn thường làm khi cần nguyện. Ông cúi đầu và đấm ngực: đây là một cử chỉ hoàn toàn lạ thường biểu lộ một nỗi thất vọng sâu xa. Ông ăn năn đấm ngực, không để ý gì đến nơi đang đứng; ông đau khổ vì thấy mình quá xa Thiên Chúa; hoàn cảnh của ông cũng như gia đình của ông, thật vô vọng, bởi vì để ăn năn hối cải, không phải chỉ từ bỏ đời sống tội lỗi, nghĩa là từ bỏ nghề nghiệp của ông, nhưng còn phải hoàn trả và bồi thường thêm một phần năm những số tiền mà ông đã tham nhũng. Làm sao biết ông đã biển thủ ai ! hoàn cảnh của ông, cũng như lời cầu nguyện của ông, thật là vô vọng.
Chính lúc đó, câu 14a kết luận: “Ta bảo các ngươi, người này ra về khỏi tội, còn người kia thì không ! Thiên Chúa đã tha thứ cho người này mà không tha thứ những kia. Đó chính là câu kết luận khiến thính giả Chúa Giêsu bỡ ngỡ; chắc chắn không ai trong họ ngờ điều đó. Vậy người biệt phái đã có thể làm gì ? Và người thu thuế sẽ phải sửa đổi làm sao ? Nếu bỏ câu 14b (có lẽ là câu kết luận tổng quát Lc thêm vào), Chúa Giêsu không thèm đưa ra một giải pháp nào. Ngài chỉ nói cách đơn giản: đó là cách Thiên Chúa xét xử. Nhưng một cách gián tiếp, Ngài cho thấy lý do tại sao Thiên Chúa xem ra bất công. Trong tiếng kêu đầy thất vọng, người thu thuế đọc lại những câu đầu của Tv 51 (Miserere) và chỉ thêm: “thương xót tôi là kẻ có tội” (một nghĩa đối nghịch): “Lạy Chúa, xin thương xót tôi dù tôi là kẻ tội lỗi” (c.13). Nhưng trong chính Tv 51 này cũng có nói: “Của lễ Thiên Chúa ưa chuộng chính là tâm hồn tan nát khiêm cung” (Tv 51,19). Chúa Giêsu nói Thiên Chúa xử sự như Tv đã viết. Ngài nhận lời những tội lỗi thất vọng và từ chối người chỉ để ý đến sự “công chính” của riêng mình. Ngài là Thiên Chúa của những người thất vọng và lòng thương xót của Ngài vô biên đối với những ai có tâm hồn tan nát. Thiên Chúa thế đó ! và bây giờ, bắt chước Ngài, tôi cũng hành động như vậy.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đánh đổ niềm tự tin của những kẻ tự xưng là “đạo đức”. Họ tự công chính hóa bản thân mình, trong khi đúng ra phải để Chúa công chính bản thân họ, vì chỉ Ngài có thể làm công việc đó.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1–. Qua dụ ngôn này, Chúa đề nghị chúng ta chọn giữa hai thái độ tinh thần, hai cách thức nhận ra tương quan chúng ta với Ngài.
Thái độ của người biệt phái chứng tỏ ông có ý thức về các cố gắng đã chu toàn, các tiến bộ bản thân ông đã thực hiện, khoảng cách giữa tình trạng hiện thời lành thánh và tình trạng khả thể tội lỗi của mình. Ông rất quan tâm đến điều đó và đặt tin tưởng vào những thành tích tinh thần của mình (ăn chay, dâng 1/10 …) Ông có một cái gì đó để làm chứng trước tòa Thiên Chúa; ông còn thấy mình “chắc ăn” hơn khi sánh mình với những người có thành tích thua mình.
Người thu thuế đo lường khoảng cách giữa tình trạng hiện thời tội lỗi và tình trạng phải trở nên lành thánh của mình; khoảng cách này đối với ông không có gì là rõ ràng cả. Tuy nhiên ông không trì trệ đối với điều đó. Ông kêu van lòng thương xót, ông không tìm cách được công chính hóa bằng một thành tích tốt lành… Xin Chúa hãy hành động.
Người thứ nhất nhìn sau lưng ông và tự mãn bằng sự quảng đại và hiệu quả của những cố gắng riêng mình. Người thứ hai nhìn trước mặt mình và xin Thiên Chúa giúp. Người thứ nhất nhìn chính mình, người thứ hai nhìn Thiên Chúa – và đó là điều cứu vớt ông.
2–. Thiên Chúa chúc phúc cho lòng khiêm cung tín thác. Lòng khiêm cung cốt ở chỗ phơi bày tâm tư trước mặt Thiên Chúa. Nó được tạo nên do sự sáng suốt và sự tín thác. Sự sáng suốt soi sáng tâm trí về trạng thức của lương tâm. Nó khám phá ra những bất hạnh lớn lao và xem ra bị vây hãm trong sự thất vọng, chán chường. Thế nhưng sự tín thác đến để nâng đỡ tâm hồn. Khám phá ra sự bất hạnh của mình dưới cái nhìn của Thiên Chúa để biết rằng Thiên Chúa là tình yêu, chính là kêu xin sự tha thứ và lòng xót thương một cách rất bảo đảm. Nếu thành thực, nghĩa là quyết tâm thực hành việc ra khỏi bất hạnh của mình, ta sẽ được tha thứ.
Ngược lại, sự tự túc tự mãn làm mếch lòng Thiên Chúa khi đem ra khoe khoang trước mặt Ngài hoặc người bên cạnh. Ai trong chúng ta lại không bị cám dỗ tự “công chính hóa” trước người bên cạnh, trước mặt những người khác ? Có thực sự chấp nhận đường lối khiêm nhu làm hài lòng Thiên Chúa ? Chúng ta rất dễ bị cám dỗ nâng mình lên. Thử xem chúng ta phản ứng thế nào khi bị người khác đánh giá quá thấp. Cũng như lòng khiêm như tín thác làm hài lòng Thiên Chúa, sự nhún nhường thành thật khiến chúng ta làm vừa lòng người khác. Trong cả hai trường hợp, tâm hồn cảm thấy dễ dàng đón nhận, trao đổi, vui mừng.
3–. Đừng kiêu ngạo hoặc tự đắc về việc đạo đức của chúng ta. Khi tham dự thánh lễ, chúng ta chỉ chu toàn bổn phận tối thiểu của người Kitô hữu. Chúng ta đừng bằng lòng về một sự hiện diện duy hình thức, không hiến dâng thân mình làm hòa với lời nguyện tôn thờ, van xin của phụng vụ, nhưng hãy làm hòa lẫn mọi ý hướng và thái độ nội tâm với mọi nghi lễ, kinh nguyện phụng vụ. Đừng bắt chước kiểu công chính biệt phái: đứng trên cao nhìn xuống phê phán người ta, dù họ có mặt hay vắng mặt. Chỉ mình Thiên Chúa mới thấu triệt các lý do họ hành động, các tâm ý cũng như các khó khăn họ gặp phải. Chúng ta đừng xuất hiện trước mặt Thiên Chúa như những quan tòa phê phán tha nhân, nhưng như những người thờ lạy thống hối, khiêm cung.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 30 TN_C
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm C ca ngợi tấm lòng khiêm hạ trong cầu nguyện.
Hc 35: 15b-17, 20-22a
Bài Đọc I, trích từ sách Huấn Ca của hiền nhân Si-rác, ca ngợi lời cầu nguyện của những người khiêm hạ và những người nghèo; lời cầu nguyện của họ được Chúa lắng nghe và đón nhận.
2Tm 4: 6-8, 16-18
Những lời vĩnh biệt của thánh Phao-lô là bài ca khải hoàn và tâm tình cảm tạ tri ân. Lời cầu nguyện sau cùng của thánh nhân là chúc tụng Thiên Chúa.
Lc 18: 9-14
Tin Mừng Lu-ca thuật lại dụ ngôn nổi tiếng về người Pha-ri-sêu và người thu thuế. Người Pha-ri-sêu cầu nguyện với thái độ tự mãn; còn người thu thuế cầu nguyện với tấm lòng khiêm hạ, ông ta nhận ra mình là tội nhân: lời cầu nguyện này được Chúa đoái thương và ban ơn công chính hóa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
BÀI ĐỌC I (Hc 35: 15b-17, 20-22a)
Ông Si-rác là một hiền nhân Do thái sống vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên. Vào thời kỳ này, kể từ sau cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê, nền văn hóa Hy-lạp đã ảnh hưởng đến tận miền Pa-lét-tin. Giới quý tộc và tư tế Giê-ru-sa-lem đã mở rộng vòng tay đón nhận văn hóa Hy-lạp. Ông Si-rác không ác cảm với nền văn hóa này, nếu như Do thái giáo không đánh mất đi căn tính của mình. Chính vì để bảo vệ những giá trị truyền thống của cha ông mà ông đã soạn thảo tác phẩm của mình. Ông tỏ ra là người bênh vực nhiệt thành Lề Luật, nền tảng cốt yếu của Do thái giáo, nhưng là Lề Luật mà ở đó những yêu sách luân lý (công bình, đức hạnh, tình thương, vân vân) cũng phải đòi buộc tuân giữ. Tác phẩm của Si-rác bộc lộ tâm tình tôn giáo tinh tế và bày tỏ nỗi bận lòng đến đức hạnh cá nhân với những điểm nhấn mới.
Đoạn văn hôm nay được trích từ một trong những chương tiêu biểu nhất của sách Huấn Ca, chương 35, một trong những đỉnh cao của tác phẩm – ở đó tác giả định nghĩa phẩm chất của việc phụng tự chân thật được Thiên Chúa đoái thương chấp nhận:
“Từ bỏ gian tà thì đẹp lòng Đức Chúa,
chấm dứt bất công là dâng lễ đền tội” (35: 3)
hay:
“Đừng hối lộ, Người chẳng nhận đâu.
Đừng ỷ vào hy lễ bất chính.
Vì Đức Chúa là Đấng xét xử,
Người chẳng thiên vị ai.
Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn,
nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức” (35: 11-13).
Người nghèo hèn trong xứ, kẻ bị áp bức, cô nhi quả phụ đó là tất cả những người mà Cựu Ước gọi là “những người nghèo của Đức Chúa”, những người không có của cải nào khác ngoài một lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và gặp thấy ở nơi Ngài là Đấng bênh vực họ:
“Lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm.
Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa được an lòng.
Họ sẽ không rời đi bao lâu Đấng Tối Cao chưa đoái nhìn,
chưa xét xử cho người chính trực và thi hành công lý” (Hc 35: 17-18).
Lòng kính trọng mà ông Si-rác dành cho những người phận nhỏ này xem ra rập theo khuôn mẫu của truyền thống, như chúng ta đọc thấy trong các thánh vịnh, tại các ngôn sứ. Như chúng ta biết, lời cầu nguyện chiếm lấy một chỗ quan trọng trong tác phẩm của bậc hiền nhân này. Ông ca ngợi lời cầu nguyện hết lời. Ông dừng lại những luận bàn của mình để sáng tác lời cầu nguyện của riêng mình. Ông đã thích cầu nguyện từ thời thơ ấu; chính nhờ cầu nguyện mà ông đã gặp thấy sự khôn ngoan.
Ông Si-rác đưa những người nghèo và những kẻ bất hạnh ra làm mẫu gương, không vì cảm thương số phận của họ cho bằng ca ngợi giá trị lời cầu nguyện của họ. Lời cầu nguyện của họ chỉ là lời cầu nguyện đơn thuần, trơ trụi, không có hiến lễ ngoạn mục nào đi kèm theo. Vì thế, lời cầu nguyện của họ chạm đến tấm lòng của Thiên Chúa, động lòng trắc ẩn của Ngài.
BÀI ĐỌC II (2Tm 4: 6-9, 16-18)
Đoạn cuối thư thứ hai gửi ông Ti-mô-thê là bản văn cảm động nhất trong số các thư của thánh Phao-lô. Đây là những lời trăn trối sau cùng của người sắp chờ đợi nhận lãnh phúc tử đạo, ấy vậy, những lời vĩnh biệt này lại vang lên khúc ca khải hoàn.
Thánh Phao-lô khảo sát hiện tại một cách nghiêm túc: thánh nhân sắp đổ máu ra làm của lễ. Thánh nhân khảo sát quá khứ với sự sáng suốt: ngài đã kiên vững trong đức tin và đã hoàn thành sứ mạng mà Ngài đã chịu thương chịu khó cho đến cùng. Thánh nhân khảo sát tương lai với trọn niềm tin tưởng và phó thác vào sự công chính của Thiên Chúa và vào lời hứa vinh quang bất diệt của Nước Trời.
Trong các hy lễ của người Do thái cũng như của dân ngoại, người ta đổ dầu hay rượu trên tế vật trước khi hiến tế, như trong Xh 29: 40 hay trong Ds 28: 7. Thánh Phao-lô dâng hiến đời mình thành hy lễ và máu của mình sẽ đổ ra làm rượu tế.
Trước đây, khi còn bị giam cầm có thể ở Ê-phê-xô, và không biết số phận dành cho ngài, thánh nhân gợi lên cho các tín hữu Phi-líp-phê, theo cùng những từ ngữ, tình huống là ngài có thể bị án tử: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em…” (Pl 2: 17).
Thánh Phao-lô sẽ đổ máu mình, nhưng từ lâu ngài đã dâng hiến đời mình làm hy lễ rồi, như ngài đã khuyên nhủ mọi người Ki-tô hữu: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12: 1).
Phúc tử đạo này thánh nhân chờ đợi một cách nghiêm túc sẽ là giờ ngài phải ra đi. Thánh nhân gợi ra cái chết của ngài với cung điệu khải hoàn, như người lính chiến đã chiến thắng quân thù, như vận động viên đã dành được vòng nguyệt quế, như người Ki-tô hữu vẫn một mực trung tín cho đến hơi thở cuối cùng: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”.
Thánh Phao-lô nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ trao phần thưởng cho ngài, vào Ngày Quanh Lâm, tức là vào ngày phán xét, và cùng với ngài, cho tất cả những ai đã hết lòng mong đợi Triều Đại Thiên Chúa. Ở phần cuối đoạn văn này, thánh nhân suy nghĩ thêm nữa đến số phận của chính ngài: “Chúa sẽ cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời”.
Phần thứ hai của đoạn trích hôm nay mang giọng điệu đượm buồn. Thánh Phao-lô chứng thực rằng các bạn đồng hành xưa kia đã bỏ mặc thánh nhân. Không ai trong họ, kể cả các Ki-tô hữu Rô-ma, đến bênh vực thánh nhân, vào lúc thánh nhân bị điệu ra trước tòa lần đầu tiên. Như Chúa Ki-tô trong cuộc khổ nạn của Ngài, thánh nhân bị bỏ mặc; cũng như Chúa Ki-tô, thánh nhân tha thứ: “Xin Chúa đừng chấp họ”. Hành vi cảm tạ tri ân theo liền sau những giọng điệu buồn phiền. Thánh nhân trông cậy mọi sự vào Chúa. Trong suốt sứ vụ tông đồ của ngài, thánh nhân đã nương tựa vào Chúa. Thánh nhân đã thoát khỏi mọi nanh vuốt sư tử nhờ Chúa bảo vệ che chở; ngài đặt trọn niềm tin tưởng vào ơn phù trợ của Chúa trong những giờ phút sắp đến. Và rồi thánh nhân xướng lên bài thánh thi của những người được tuyển chọn: “Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời”.
TIN MỪNG (Lc 18: 9-14)
Đây là dụ ngôn riêng của thánh Lu-ca, một hạt ngọc được đẽo gọt rất tinh xảo. Thánh Lu-ca họa nên chân dung người Pha-ri-sêu vênh vang tự đắc, còn thánh Mát-thêu thì đã kích kịch liệt hạng người này.
Người Pha-ri-sêu, theo nguyên ngữ Do thái có nghĩa “Biệt Phái”, là một bè phái của những người Do thái trí thức và chính thống. Họ tự tách biệt mình khỏi đám đông bởi kiến thức Kinh Thánh và việc tuân giữ Lề Luật nghiêm nhặt của họ. Tuy nhiên, họ biết kết hợp duy luật với tinh thần cởi mở, chấp nhận những sự phong phú của truyền khẩu (trái với nhóm Xa-đốc). Theo thánh Lu-ca, vài người Pha-ri-sêu, thậm chí những bậc vị vọng, đã mời Chúa Giê-su dùng bữa tại nhà họ. Sự kiện này phù hợp với thực tại lịch sử, được sách Công Vụ củng cố khi tường thuật việc một người Pha-ri-sêu tên là Ga-ma-li-ên, lên tiếng can thiệp cho các tông đồ trong phiên xử của Thượng Hội Đồng (Cv 5: 34-39).
“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác… Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Người Pha-ri-sêu này tiêu biểu những người Pha-ri-sêu tự cho mình là đạo đức bằng việc tuân giữ nghiêm nhặt chẳng những những đòi buộc của Lề Luật, thậm chí còn hơn thế nữa. Ví dụ như Lề Luật chỉ buộc mỗi năm ăn chay chỉ một ngày, vào ngày lễ Xá Tội, họ còn sốt sáng ăn chay một tuần hai ngày vào ngày thứ ba và thứ năm. Vì thế, họ tự xem mình là người công chính và coi thường những người khác.
Người Pha-ri-sêu mà dụ ngôn miêu tả chân dung của ông ở nơi lời cầu nguyện này rất tương xứng với những gì mà thánh Phao-lô nói về con người Pha-ri-sêu xưa kia của ngài và con người Ki-tô hữu ngày nay của thánh nhân: “Nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi. Nhưng những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa của tôi. Vì Người mà tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3: 6-8).
Những người thu thuế là những viên chức nhà nước được chính quyền Rô-ma ủy nhiệm thu thuế dân Do thái ở miền Pa-lét-tin. Họ bị thù ghét vì họ cộng tác với chính quyền chiếm đóng và bị đối xử như kẻ trộm cướp vì người ta nghi ngờ rằng họ làm giàu nhờ lạm dụng chức vụ của mình.
Dụ ngôn đưa ra sân khấu một người trong bọn họ. Lời cầu nguyện của người thu thuế này thì trái ngược với lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu về dáng điệu bên ngoài lẫn tâm tình bên trong. Anh ta không dám tiến lại gần, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời. Và lời cầu nguyện của anh chỉ vỏn vẹn một câu, nhưng đầy lòng khiêm hạ: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người thu thuế này, chắc hẳn là một người giàu có như bao người thu thuế khác, lại là một người có tâm hồn khó nghèo, những người mà Chúa lắng nghe những lời cầu nguyện của họ.
Lời kết đặt câu chuyện vào bối cảnh thuần túy của sách Tin Mừng, tức tôn vinh đức khiêm hạ, như Đức Ma-ri-a đã cất tiếng ca trong Bài Ca “Ngợi Khen” (Mangificat):
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1: 52).
Lời kết này cũng theo chiều hướng chủ đề của thánh Phao-lô về ơn công chính hóa nhờ Đức Tin chứ không nhờ Lề Luật. Tuy nhiên, ở đây, Chúa Giê-su không đối lập Lề Luật với Đức Tin (người Pha-ri-sêu là một người tin); nhưng Ngài đối lập tính tự mãn của kẻ lấy mình làm chuẩn mực đạo đức với đức khiêm hạ của người biết nhận ra những bất toàn của mình và cầu xin lòng xót thương của Chúa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
Lời cầu nguyện đích thật là một hành vi đầy khiêm hạ. Cầu nguyện, chính là nhận ra thân phận yếu đuối của con người và đức hạnh mỏng dòn của con người để mà đặt trọn niềm tin, cậy và mến vào Chúa.
.
Là người tín hữu, ai trong chúng ta cũng đã có những giây phút cầu nguyện. Tuy vậy, nhiều khi chúng ta cầu nguyện theo thói quen, hoặc chỉ đến để xin xỏ điều nọ điều kia, mà chưa chắc đã có tâm tình cầu nguyện đích thực. Dụ ngôn Chúa Giêsu kể hôm nay chứng minh điều đó.
Hai người lên Đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái và một người thu thuế. Trong quan niệm thông thường vào thời Chúa Giêsu, người biệt phái là người đạo đức, người thu thuế là người tội lỗi. Người biệt phái có chỗ ưu tiên trong các buổi hội họp, người thu thuế bị người ta xa lánh không muốn ngồi gần. Tuy vậy, trong cái nhìn của Chúa Giêsu, thì người thu thuế lại có tâm hồn chân thành, khiêm tốn; trong khi người biệt phái lại giả hình, kiêu ngạo. Tệ hơn nữa, sự khoe khoang của người biệt phái lại là sự khoe khoang trước mặt Chúa, là Đấng tối cao, trong khi mỗi người biệt phái đều thuộc lòng câu Thánh vịnh: “Tư tưởng phàm nhân, Chúa đều thấu rõ, thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài” (Tv 94,11). Như thế, người biệt phái lên Đền thờ cầu nguyện, không chỉ với sự giả hình đối với con người, mà cả đối với Thiên Chúa. Ông đại diện cho những người háo danh. Ông đến để khoe khoang công trạng của mình. Tư thế của ông không phải tư thế của người cầu nguyện, mà là của một diễn viên trên sân khấu kịch. Nội dung cầu nguyện của ông toàn là vênh vang, thậm chí còn muốn tố cáo vu khống người khác.
Người thu thuế, nhận biết mình là tội nhân và kêu xin lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu nhắc đến 4 điểm trong tư thế cầu nguyện của ông:
-Đứng xa xa: Đây là sự cảm nhận thân phận tội lỗi của mình, không dám đến gần Thiên Chúa là Đấng chí thánh.
-Cúi sâu, không dám ngửa mặt lên trời: Tâm tình khiêm tốn trước mặt Chúa.
-Đấm ngực: Cử chỉ sám hối, thú nhận tội lỗi của mình và thể hiện sự quyết tâm chừa cải.
-Kêu xin: Lạy Chúa, xin thương xót tôi: Đây là lời van nài, cầu xin lòng thương xót của Chúa.
Kết quả của hai lời cầu nguyện khác nhau. Người thu thuế được Chúa nhận lời và người Biệt phái thì không. Xem ra đó là một điều nghịch lý. Chúa Giêsu đã giải thích cho chúng ta: “Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”. Người Biệt phái đã được thưởng công ở đời này, vì ông đã tìm lời khen ngợi nơi loài người. Người thu thuế âm thầm khiêm tốn. Ông đến cầu nguyện với hai bàn tay trắng và tâm hồn sám hối. Chính tâm hồn sám hối của ông lại là của lễ Chúa ưa thích, vì thế mà ông được Chúa nhận lời.
Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, chúng ta hãy có tâm tình của người thu thuế mỗi khi cầu nguyện. Mỗi khi khởi đầu Phụng vụ Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu đều xương lên “Kinh thương xót”. Chúng ta nài xin lòng thương xót của Chúa tha thứ và thanh tẩy chúng ta khỏi mọi tội lỗi.
Khi đi liền với sự khiêm nhường, lời cầu nguyện của chúng ta sẽ tỏa hương thơm và đẹp lòng Chúa. Tác giả Sách Huấn Ca đã khẳng định: “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây”. Quả thật, Chúa là Đấng luôn lắng nghe và sẵn lòng cứu giúp những ai kêu cầu Ngài. Ngài cũng sẵn sàng bênh vực kẻ bị áp bức, và giải phóng kẻ tù đày, đau khổ (Bài đọc I).
Lời cầu nguyện đích thực không chỉ được thực hiện trong khi vui mừng bình an, mà còn trong khi gian nan đau khổ. Thánh Phaolô đang ở trong tù. Ngài biết ngày chết đã gần kề. Trong thư viết cho ông Timôthê, thánh nhân vẫn tỏ ra lạc quan tin tưởng vào Thiên Chúa, vì ông biết chắc, Chúa sẽ dành cho ông triều thiên công chính. Tâm tình cầu nguyện đã nâng đỡ ông trong cảnh tối tăm của ngục tù (Bài đọc II).
Có những khi chúng ta chỉ đọc kinh mà không cầu nguyện, vì lời kinh của chúng ta chỉ là những “sáo ngữ” mà không giúp ta gặp được Chúa. Lời cầu nguyện đích thực là lời kinh đi liền với trái tim khiêm tốn chân thành và tâm tình yêu mến thiết tha ta dành cho Chúa. Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta về đời sống cầu nguyện. Mặc dầu bận rộn với công việc rao giảng Tin Mừng, Người vẫn cầu nguyện với Chúa Cha để tìm thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ và các thánh đã đạt tới sự trọn lành nhờ đời sống cầu nguyện, gắn bó mật thiết với Chúa.
.
Gm. Giuse Vũ Duy Thống
(Trích dẫn từ ‘Nút Vòng Xoay’)
Phúc Âm hôm nay là một dụ ngôn sống động và mang tính khái quát. Rất gọn về số câu, số chữ nhưng lại rất rộng về hàm ý nội dung. Chỉ có hai nhân vật với vài nét chấp phá sơ sài nhưng cũng đủ khái quát cho mọi tầng lớp dân chúng. Chỉ là một thoáng lên Đền cầu nguyện nhưng lại biểu trưng cho mọi sinh hoạt tôn giáo. Chỉ quanh quẩn trong chu vi Đền Thánh nhưng lại điển hình đến nỗi có thể nới rộng ra cả cuộc đời.
Nhưng điều làm cho dụ ngôn sống động đến hôm nay thiết tưởng không những vì tính khái quát ấy mà đáng lưu ý hơn, theo ngôn từ báo chí, còn vì “tính xung kích” với những mũi nhọn không thể tránh né của nó.
Đẹp lắm nhưng cũng đau lắm. Khéo léo lắm nhưng cũng nhức nhối không kém. Xin chia sẻ về tính xung kích ấy.
Đối với người Do Thái, luật Thiên Chúa là trên hết, đời sống của họ được khuôn đúc theo lề luật, xã hội của họ gắn liền với tôn giáo nên cũng được tổ chức theo lề luật. Đã có những thành phần ưu tuyển chuyên viên về lề luật được gọi là Luật sĩ và cũng có những thành phần khác chú tâm đến việc thi hành luật đến độ tỉ mỉ, đó là mấy ông biệt phái. Luật lệ là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống. Quan điểm ấy không có gì đáng phàn nàn nếu qua lề luật người ta nhận ra bàn tay và tấm lòng của Thiên Chúa luôn dẫn đưa và giáo hóa con người. Nhưng quan điểm ấy trong thực tế đã không giữ được vẻ tinh ròng của nó mà đã bị biến chất dần dà theo năm tháng để trở thành một thái độ tôn giáo kệch cỡm, di căn trong nếp nghĩ và đồng thời méo mó trong thực hành. Và đây là một thực trạng nguy hiểm mà Chúa Giêsu gọi là “men Biệt phái” cũng là điều dụ ngôn hôm nay tố giác.
Nguy hiểm nhất là tất cả đã bị đảo lộn: luật lệ thay vì là phương tiện đã được nâng lên hàng mục đích và Thiên Chúa thay vì là cùng đích lại bị xếp xuống hàng phương tiện.
Nguy hiểm thứ hai là tất cả đã trở thành máy móc: làm như cứ chu toàn một số khoản luật là tức khắc người ta trở thành công chính và có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải ký tên đóng dấu chứng thực cho sự công chính này, giống như kiểu chấm công và báo công trong các xí nghiệp trước đây đã bị báo chí phê bình gay gắt, chấm công thì rất nhiều nhưng việc chẳng chạy bao nhiêu, ấy là chưa nói tới việc công, việc tư, lẫn lộn và thế là vỡ nợ thất bại.
Và nguy hiểm hơn hết là tất cả đã làm thành một ảo tưởng đặc dầy về quá khứ công trạng để rồi thành chuẩn mực phủ định những người không thuộc về phe cánh mình, không giống như mình, không đúng ý mình, kể cả Thiên Chúa nữa.
Ông Biệt phái trong dụ ngôn đã rơi vào cái ảo tưởng mà Chúa Giêsu muốn tố giác này:
Lời kinh của ông khởi đầu bằng tâm tình tạ ơn rất đẹp, nhưng đã nhanh chóng trở nên xấu bởi có ý đồ níu kéo Thiên Chúa thỏa hiệp với lối sống vụ luật “trên mức bó buộc” của ông. Có biết đâu ông đã ảo tưởng. Thiên Chúa vì yêu thương tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, nhưng chính ông lại xây dựng một Thiên Chúa theo hình ảnh của ông.
Và lời kinh của ông còn tồi tệ hơn khi tự hào cho mình là công chính để so sánh mình với đời sống bên ngoài của những người khác. “Đứng thẳng nguyện thầm” có vẻ tốt đấy, nhưng kênh kiệu làm sao và cũng ảo tưởng biết bao. Khẳng định mình đúng cách là tốt, nhưng khẳng định mình bằng cách phủ định kẻ khác, bằng cách dèm pha nói xấu bôi nhọ khinh chê người ta thì quả thật là trơ trẽn.
Và nguy hiểm cuối cùng đến từ những mối nguy hiểm trên là chính mình không còn cảm thấy nỗi hiểm nguy nào nữa, thành ra khô đạo mà tưởng mình sống đạo, phá đạo mà tưởng mình xây đạo, bài tôn giáo ngay giữa lòng tôn giáo và bóp nghẹt Thiên Chúa trong khi tưởng như mình vẫn tôn thờ Ngài, làm lu mờ Danh Chúa mà tưởng như mình đang làm sáng danh Ngài.
Nếu qua hình tượng ông biệt phái, dụ ngôn muốn tố giác một thứ đạo đức ảo tưởng đầy nguy hiểm, thì ngược lại qua ông thu thuế, dụ ngôn lại nhắm một mục đích tích cực nhưng cũng không kém phân xung kích, đó là xây dựng một nền đạo đức đích thực tôn giáo.
Nền đạo đức đích thực ấy dựa trên những thái độ cơ bản là không phải chỉ tin có Thiên Chúa mà phải tới chỗ tin vào Ngài. “Tin có” và “tin vào” là hai động từ gói ghém những thái độ khác nhau lắm dẫu ở đó đều hiện diện chữ “tin”. Không ít người tin có Thiên Chúa, nhưng để gọi được là tin vào Thiên Chúa thì còn phải hạ hồi phân giải tùy theo chất lượng chứng minh của cuộc sống. Ông biệt phái tin có Thiên Chúa quá đi chứ, nhưng nếu hỏi “ông có tin vào Ngài chưa?” thì phải trả lời là chưa, mà ngược lại, thay vì tin vào Ngài, đời sống ông lại cho thấy chỉ tin vào mình, cậy dựa vào sức mình để kèn cựa sao cho người khác xem mình là công chính.
Còn ông thu thuế, dẫu không cầu nguyện dài lời cũng cho thấy ông là người đã tới mức tin vào Thiên Chúa và phó thác hoàn toàn cho Ngài. Bởi thấy mình quá lem luốc theo mắt nhìn thành kiến của người đương thời, nên ông chỉ có thể đợi chờ một sự gột rửa trong mắt nhìn của Thiên Chúa; bởi thấy mình đã bất chính trong vòng quay nghiệt ngã của nghề nghiệp, nên con người ông nếu có cái gì phải tiến dâng thì đó chính là cuộc đời tội lụy của tấm lòng tan nát khiêm cung cúi đầu đấm ngực xin ơn tha thứ. Và bởi thấy mình chỉ đáng tội nên Thiên Chúa lại thấy ông chỉ đáng thương, nên bằng tình thương, Ngài đã ban ơn cho ông theo như ông tin vào Ngài.
Rõ ràng là tình thương Thiên Chúa ban cho con người như nước chảy về chỗ trũng, chỉ khi gặp tâm hồn khiêm tốn khai hoang, tình thương ấy mới có thể đổ vào tràn đầy chan chứa. Hay nói cách khác, tình thương Thiên Chúa là một “tình cho không biếu không”, nhưng chỉ những ai đã gạt bỏ ảo tưởng về mình để nhìn nhận mình là không, người ấy mới có thể nhận được tình thương của Thiên Chúa.
Tin vào Thiên Chúa sẽ gặp được tình thương của Ngài, còn chỉ tin vào mình rốt cuộc lại gặp chính mình trong những ảo tưởng chất chồng. Nhưng cũng phải thưa ngay rằng: luôn luôn có một sự quân bình giữa một đàng là tình thương Thiên Chúa và đàng khác là cố gắng của con người. Chỉ ỷ lại vào tình thương Thiên chúa cũng sẽ rơi vào ảo tưởng như là chỉ ỷ y vào sức mình. Thế nên, đạo đức đích thực chính là dung hòa giữa nỗ lực và cậy trông. Xin mượn kiểu chơi chữ của thánh Augustinô để minh họa. Ngài bảo ai càng cảm nhận về sự khốn cùng của mình, người ấy càng gặp được sự khôn cùng của tình thương Thiên Chúa. Ai sống hết mình với cái miseria của mình, người ấy cũng biết cách để tiếp nhận cái misericordia của Thiên Chúa. Giống như người say rượu một khi biết tật của mình mới hết khướt say.
Với hai mũi nhọn trên, dụ ngôn đã trở thành sống động và sở dĩ còn sức sống đến hôm nay là vì mũi nhọn thứ ba: dụ ngôn là lời cật vấn gởi đến mọi kẻ tin, ngân vang tới mọi sinh hoạt tôn giáo và len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống đời thường. Thế nên vấn đề được đặt ra ở đây trên bình diện cá nhân cũng như tập thể với những thích ứng cần thiết là hãy thử nhận diện cuộc sống của mình và của cộng đoàn mình.
Có thể ta không gặp sừng sững một ông Biệt phái lộ liễu ngất ngưỡng ở trong lối sống đạo của ta, nhưng biết đâu cái ảo tưởng an toàn khi chu toàn các bổn phận trong đạo như ông biệt phái lại chẳng lây lan len lỏi lập lòe trong tâm thức của mình? Biết đâu lúc này khác hơn một lần ta đã tự ru mình vào giấc ngủ “tự hào” khi bằng lòng với cách thể hiện đức tin hiện tại? Biết đâu đó đây trong ngày sống ta đã chiều theo ý nghĩ so sánh đời ta với đời người khác về phương diện đạo đức, theo kiểu “Trông lên mình chẳng bằng ai, nhưng khi trông xuống chẳng ai bằng mình”? Xưa Chúa Giêsu gọi đó là “men Biệt phái”, nay có lẽ nên gọi là “viris BP” xin tránh xa. Nếu “virus BP” mà giống “dầu nhớt BP liên tục phát triển” như quảng cáo trên tivi thì nguy quá! Trượt té dài dài.
Có thể ta thấy mình bỗng dưng gần gũi với ông thu thuế vì đời ta vương nhiều tội lụy, vì ta đi lễ thích đứng cuối nhả thờ, và vì ta cầu nguyện chỉ mong thật ngắn chẳng thích dài lời như như Phúc Âm kể: “Ông thu thuế đứng dàng xa, không dám ngước mặt, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện: Lạy Chúa xin thương con là kẻ tội lỗi”. Nhưng chưa chắc đâu, bởi ông thu thuế khiêm tốn hết mình để được thứ tha hết tình, còn ta có khi chỉ là khiêm tốn nửa mùa tưởng bở, như thoáng thấy qua trang Nhật Ký của Đức Gioan XXIII ngày nào: “Tôi tưởng mình là cậu bé Séraphim nhưng nhìn kỹ tôi lại thấy mình là một chú Lucife nhỏ”.
Và vượt lên tất cả chính là lời thầm nhủ: hãy tin vào tình thương của Chúa mà sống tốt cuộc sống Ki-tô của mình. Với người này có thể trút bỏ những ảo tưởng tự hào, với người kia có thể là nhen lên lòng sám hối khiêm cung. Riêng cá nhân tôi nhân ngày tròn bảy năm linh mục, cùng với lời tạ ơn Thiên Chúa, lời cảm tạ cha sở và cộng đoàn, cũng sẽ là một lời kinh âm thầm xin được luôn tin vào tình thương Thiên Chúa.
Chiều qua khi đang sắp xếp lại sách vở, nghe cassette nhà ai mở bài “L’amour c’est pour rien” với lời hát “Tình cho không biếu không chớ nên mua bán tình yêu”, bất giác tôi nghĩ về tình thương Thiên Chúa: một tình thương luôn sẵn cho đi, một tình thương chẳng chờ đợi gì, một tình thương không mong đáp trả, một tình thương mãi mãi thứ tha.
Cầu chúc mọi người luôn tin vào tình thương Thiên Chúa để mãi vươn lên trong mọi cảnh ngộ cuộc đời, bởi xét cho cùng mỗi cảnh ngộ cũng là một dụ ngôn sống động ẩn chứa những mũi nhọn xung kích mời ta khám phá không ngừng.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Nhưng kết quả thật bất ngờ. Người mà ai cũng kính trọng thì lại không được nhận lời. Người mà ai cũng khinh miệt thì lại được Chúa nhận lời và được công chính hóa. Qua dụ ngôn này, Chúa cho thấy lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa phải là lời cầu nguyện khiêm nhường.
Khiêm nhường không tự mãn.
Người biệt phái tự mãn vì những việc tốt mình làm được. Làm được việc tốt thật đáng khen. Nhưng cần phải nhận biết nguồn gốc việc tốt của mình. Biết nguồn gốc việc tốt phải khởi đi từ nhận biết nguồn gốc bản thân mình. Tôi có mặt ở đời là ơn Chúa ban. Tôi thừa hưởng một sức khỏe, một gia đình, một nền giáo dục, một nề nếp đạo đức, đó là ơn Chúa ban. Vì thế tôi làm được việc tốt cũng là ơn lành Chúa ban. Nếu tôi rơi vào một hoàn cảnh xấu, tôi có làm được việc tốt không? Rất khó. Vì thế đừng tự mãn khi làm được việc tốt.
Khiêm nhường không khinh người.
Người khiêm nhường nhận biết thân phận mình sẽ không dám khinh người. Tôi làm được việc tốt vì tôi có hoàn cảnh tốt. Người kia làm việc xấu vì họ không có hoàn cảnh tốt như tôi. Vì thế không nên khinh người. Hơn nữa, trong tinh thần bác ái huynh đệ, thấy người hèn kém tôi càng phải yêu thương, nâng đỡ. Thấy người tội lỗi yếu đuối tôi càng phải tế nhị kính trọng. Chúa Giêsu vẫn làm gương trân trọng người tội lỗi như đối với người phụ nữ ngoại tình, đối với Giakêu và cả đối với Giuđa nữa.
Khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi.
Con người đâu có ai hoàn hảo. Huống hồ có những nết xấu đeo đẳng ta mãi không thể dứt ra được. Ta đã ngã đi ngã lại nhiều lần. Biết bao quyết tâm. Biết bao ơn Chúa. Biết bao lời cầu nguyện. Nhưng “một cái dằm” cứ nằm mãi trong thịt khiến ta đau nhức khôn nguôi. Ta không thể nào thoát khỏi tội lỗi. Vì thế tâm tình xứng hợp là khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi của mình. Khiêm nhường nhận trước mặt Chúa. Khiêm nhường nhận trước mặt anh em. Đó là thái độ trung thực và đúng đắn.
Khiêm nhường xin Chúa ban ơn cứu độ.
Vì không thể tự mình thoát khỏi tội lỗi, không thể đạt tới ơn cứu độ, nên ta cần ơn Chúa. Không thể tự giải thoát, nên ta cần Chúa giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Thân phận ta thật khốn cùng. Sức lực ta thật yếu đuối. Nên lời cầu nguyện đúng nhất là: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tương truyền đó là lời cầu nguyện liên lỉ suốt đời của thánh Phêrô, vị Tông đồ trưởng, vị Giáo Hoàng tiên khởi.
Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết mình không thể sống công chính tự sức riêng, nhưng chỉ được “công chính hóa” nhờ ơn Chúa. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết ta được ơn Chúa không phải vì ta xứng đáng nhưng vì được Chúa thương yêu. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết rằng lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa.
“Lạy Chúa, xin thương xót con”
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tôi có hay tự mãn vì mình sống tốt hơn người khác không? Thái độ này có đúng không?
2) Tôi có hay khinh miệt, lên án người khác không? Thái độ này có đúng không?
3) Tại sao tôi phải khiêm nhường khi cầu nguyện?
4) Tôi có một nết xấu thường phạm. Tôi đã xưng tội nhiều lần và quyết tâm chừa cải. Nhưng chứng nào tật ấy. Bạn có cảm nghiệm được điều này nơi bản thân không?
.
NGƯỜI PHARISÊU VÀ NGƯỜI THU THUẾ
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật tuần trước, hai nhân vật mang tính biểu tượng được Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta : một bên là vị thẩm phán bất công, đại diện kẻ áp bức, bên kia là bà góa đi kiện, điển hình của kẻ bị áp bức. Qua dụ ngôn đầy tính hài ước, Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải cầu nguyện luôn đừng ngã lòng và xác tín rằng, Thiên Chúa hằng nhận lời chúng ta (x.Lc 18,1-8).
Để xác định thái độ nội tâm và hình thức bề ngoài khi hướng về Thiên Chúa, Chúa nhật tuần này, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn gồm hai nhân vật đại diện cho con người hôm nay : một bên là người pharisiêu tự cho mình là công chính tuân giữ Luật Chúa cách hoàn hảo và bên kia là người thu thuế, tội lỗi, tay sai cho bọn đế quốc, vơ vét tiền bạc trên lưng của đồng bào (x.Lc 18, 9-14).
Khi đọc lý do tại sao người Pharisiêu lại tạ ơn Chúa, chúng ta chiêm ngưỡng sự hào phóng của ông thực sự là một người ” tốt “, không chê trách được gì. Điều này dường như không phải là quan điểm của Đức Giêsu, Người không kể dụ ngôn này cho những người công chính, nhưng “cho những ai hay tự hào mình là người công chính.” (x.Lc 18,9-14)
Người Pharisêu
Người Pharisêu tiêu biểu cho người bảo thủ cảm thấy mình phù hợp với Thiên Chúa và tha nhân, khinh thường kẻ khác. Người thu thuế là kẻ đã phạm lầm lỗi, nhưng anh nhìn nhận lỗi lầm đó và khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Anh nghĩ, mình không thể cứu được mình nhờ công nghiệp riêng mình, mà phải cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Câu cuối cùng của dụ ngôn minh chứng: Người này, khi trở về nhà, thì được nên công chính, nghĩa là, được tha và hoà giải với Chúa; người Pharisêu trở về nhà trong tình trạng y như hồi ra đi vẫn giữ cảm giác về sự công chính của mình, đương nhiên mất sự công chính của Chúa (x.Lc 18,14).
Trong thực tế, người Pharisiêu đã đặt ra cho mình chỉ tiêu công chính. Ông không như người khác : ăn chay, nộp thuế… Ông tự xây dựng hình ảnh người công chính cho mình, quên mất điều quan trọng nhất của lề Luật là tình yêu tha nhân.
Tệ hơn nữa là thái độ của ông. Ông “tạ ơn Thiên Chúa” ; nhưng không được, ông thích liệt kê những kẻ tội lỗi. Trong lời cầu nguyện, ông không cần đến Thiên Chúa. Như thế, ông không công chính với chính mình, sức mạnh nội tâm của ông cho phép ông vượt lên trên mức tầm thường, nhưng ông đã coi thường sự đáng kính của ông. Một người hài lòng với chính mình, làm sao có thể giao tiếp được với Thiên Chúa ?
Người thu thuế
Người thu thuế biết mình không có gì để khoe, và cũng chẳng có ai thấp kém hơn mình để đạp. Anh chỉ biết mình được xếp loại ngang hàng với gái điếm, nên đứng xa xa, không dám ngước lên trời, đấm ngực và nói lên điều mà lòng anh đang khao khát : “Lạy Chúa, xin thương con là kẻ có tội. ” (Lc 18,13). Anh khao khát tình thương nên anh được Chúa đoái thương và lời anh cầu xin được chấp nhận. Một kẻ tội lỗi như anh, có thể chứa đựng lòng thương xót, bởi vì không giống như các pharisiêu đóng cửa lòng mình và thỏa mãn với sự đầy đủ của mình, anh mở rộng tâm hồn, sẵn sàng đón lấy ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đấng mà anh đã đặt tất cả niềm tin và hy vọng của mình.
Bài học từ hai người trên
Giống như hầu hết các dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy hai nhân vật trái ngược nhau. Những người thu thuế hôm qua là những người Pharisêu mới của ngày nay! Ngày nay người thu thuế, kẻ phạm tội, nói với Chúa: “Lạy Chúa con tạ ơn Chúa, vì con không phải như những người Pharisêu có lòng tin kia, giả hình và bất bao dung, lo lắng về sự ăn chay, nhưng trên thực tế sống còn xấu hơn chúng con.” Thật nghịch lý, xem ra dường như có những kẻ cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì con là kẻ vô thần! “
Rochefoucauld nói rằng sự giả hình là đồ cống nạp nết xấu trả cho nhân đức. Ngày nay nó thường là đồ cống nạp nhân đức trả cho nết xấu. Đúng thế, điều này được bày tỏ ra, nhất là những kẻ tỏ ra mình xấu hơn và vô sỉ hơn mình, ngõ hầu không xuất hiện kém hơn những kẻ khác. Nhà triết học Tin Lành Soren Kierkegaard viết: “Ngược lại với tội lỗi không phải là nhân đức, nhưng đức tin. “
Một kết luận thực tế : Rất ít người vừa Pharisêu vừa là người thu thuế, tức là, công chính trong mọi sự hay là tội lỗi trong mọi sự. Phần đông chúng ta có một chút ít cả hai trong cuộc sống. Lúc tồi tệ nhất chúng ta ứng xử như quan thu thuế trong cuộc sống, kinh doanh vô đạo đức, và lúc khác chúng ta như người Pharisiêu trong đền thờ, được cho là hợp lý bởi hành vi tôn giáo của chúng ta. Điều tệ nhất có lẽ là hành động như người thu thuế trong đời sống thường ngày của chúng ta và như người Pharisêu trong nhà thờ. Những người thu thuế là những kẻ tội lỗi, không có áy náy lương tâm, coi tiền bạc và nghề nghiệp trên hết mọi sự. Những người Pharisêu, ngược lại, là rất khắc khe và chăm chú đến lề luật trong sự sống hằng ngày của mình.
Nếu chúng ta đành cam chịu nên một ít của cả hai, bấy giờ chúng ta hãy nên kẻ nghịch của điều chúng ta mới diễn tả: Pharisêu trong sự sống hằng ngày và thu thuế trong nhà thờ! Như người Pharisêu, chúng ta phải cố gắng trong sự sống hằng ngày không làm kẻ trộm và người bất chính, nhưng theo những điều răn của Chúa và trả những món nợ chúng ta mắc; như người thu thuế, khi chúng ta ra trước mặt Chúa, chúng ta phải công nhận rằng chút ít gì chúng ta đã làm là hoàn toàn ân huệ của Chúa, và chúng ta hãy cầu xin cho chính chúng ta và cho tất cả mọi người lòng thương xót Chúa. Amen.
.
ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊ-SU, AI MỚI THỰC LÀ CÔNG CHÍNH?
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su đang vẽ lên hai diện mạo đối chọi nhau hoàn toàn: ‘một người thuộc nhóm Biệt Phái / người kia làm nghề thu thuế’. Cả hai diện mạo này đều rất gần gũi và điển hình trong xã hội Do Thái thời bấy giờ: một thật tích cực đáng trọng và một thật tiêu cực đáng khinh. Nhưng chính kết luận của Người mới thực sự gậy kinh ngạc vì nó ngược hẳn với lối suy nghĩ thông thường vẫn được mọi người chấp nhận; và nếu như thế thì bài học Người muốn chuyển tải chắc hẳn phải quan trọng lắm đối với Tin Mừng mà Người đang ra công quảng bá. Và quả đúng như thế, vì nó liên quan tới khái niệm ‘công chính’, một khái niệm nền tảng của tất cả mọi trật tự xã hội và tôn giáo mọi thời.
Tất cả mọi xã hội loài người, kể cả các xã hội bán khai hơn hếtđều đề ra các tiểu chuận ‘công chính’ cho mình, thường thì các tiêu chuẩn này dựa trên nền luân lý và luật pháp được xã hội đó chấp nhận. Bất cứ ai giữ luân lý và luật pháp, hay duy trì trật tự mà xã hội đó đề ra, đều được coi là công chính, là lương thiện, là mẫu mực; còn ngược lại thì bị coi là thành phần bất lương, phản động, gây gương mù gương xấu. Ngay cả trong các tập thể tôn giáo, các cộng đoàn tu trì thì định luật trên vẫn cứ được áp dụng cách triệt để! Bất cứ xã hội nào thì cũng phân chia các phần tử của mình thành hai hạng: ‘công chính’ và ‘bất chính’, dựa theo tiêu chuẩn luật pháp. Đây quả là một phân biệt rất cần thiết cho mọi trật tự, cũng như cho sự tồn vong của xã hội đó!
Theo tiêu chuẩn này, xã hội Do Thái thời Đức Giê-su cũng có sự phân định rõ: hai hạng người được nêu lên đúng là tiêu biểu: Biệt Phái là những người, theo tiêu chuẩn luân lý và luật pháp Mô-sê, phải được coi là công chính nhất; còn bọn ‘thu thuế’, dựa trên cùng một tiêu chuẩn đó, rõ ràng là bất lương nhất. Như vậy người Biệt Phái, trong cái xã hội ông đang sống, tự coi mình – hay được người khác suy tôn – là công chính thì cũng chẳng có gì sai; và nếu ông có cho mình là hơn kẻ kia thì cũng hoàn toàn hợp lý thôi; “Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác”. Ngay giữa các người có đạo hay tu sĩ cũng chẳng như thế là gì! Trong Giáo Hội người ta coi người này là đạo đức, kẻ kia là tội lỗi, tùy thuộc vào người đó có giữ các phép đạo hay không. Trong cộng đoàn tu sĩ cũng thế, người ta phân biệc: tu sĩ tốt và tu sĩ xấu, từ đó điều chỉnh cách cư xử khen / chê, giữ thái độ trên / dưới, phản ứng trọng / khinh, thì cũng là điều đương nhiên thôi.
Thế nhưng, trong câu chuyện được kể, Đức Giê-su đã không đặt hai hạng người này trên bình diện xã hội, mà là trên diện Tin Mừng, tức là trước lối nhìn của Thiên Chúa; ‘Có hai người lên đền thờ cầu nguyện…’. Cái sai của người Biệt Phái là ở chỗ: đứng trước Thiên Chúa mà ông vẫn cứ tiếp tục giữ thái độ xã hội. Còn người thu thuế thì khác; chính địa vị xã hội hèn kém (‘Người thu thuế thì đứng ở đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời’) đã là cơ sở để ông có được tư thế ‘công chính’ trước mặt Thiên Chúa. Tư thế ‘công chính’ đối với Tin Mừng chính là một người có thể kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi!” Hình như Đức Giê-su muốn khảng định rằng: bất luận tình trạng công chính xã hội của một người có là thế nào đi nữa, thì người đó vẫn có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, một khi biết nhìn nhận sự yếu hèn của mình và khiêm tốn khẩn cầu (hay tin tưởng vào) lòng thương xót Chúa, còn ai cứ khư khư tự tôn tự mãn về sự công chính xã hội của mình, để không cầu khẩn – đón nhận lòng thương xót, thì sẽ trở thành bất chính trước mặt Thiên Chúa; “Tôi nói cho các ông biết, người này, khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không.” Khi nói câu này Đức Giê-su hầu như muốn khảng định: sự công chính theo luật pháp của con người không có mấy giá trị trước mặt Thiên Chúa; nắm giữ một nền luân lý cao đẹp tới đâu đi nữa, sẽ không bao giờ có thể là mục tiêu tối hậu của niềm tin Ki-tô hữu. Công chính đích thực trước mặt Thiên Chúa nhân ái lại rất đơn giản: chỉ cần khiêm tốn đón nhận tình yêu cứu độ. Điều này là một đòi hỏi chung cho tất cả mọi người, cho bất kỳ ai, kể cả các bậc thánh hiền đạo đức nhất. Vì trước mặt Thiên Chúa ngay cả các thánh cũng có thể lỗi phạm tới bẩy lần một ngày! Bình đẳng tuyệt đối của con người trước Thiên Chúa chính là ở đây: sang / hèn, cao / thấp (về chức tước hay sự kính nể của người đời), tốt / xấu, lương thiện / bất lương (trước mặt xã hội) đều không mấy quan trọng. Phương thế tối cần để đạt được sự công chính của Nước Trời chỉ là: khiêm hạ (con là kẻ tội lỗi, xin dủ lòng thương xót con!). Ai khiêm hạ cầu khẩn lòng thương xót, người đó sẽ được tình yêu Thiên Chúa nâng lên cao, được nên công chính; ngược lại kẻ tự tôn tự đại, cho dẫu có đạo đức thánh thiện (trước mặt con người) tới mấy, cũng sẽ không bao giờ được coi là công chính trước mặt Thiên Chúa. Quả thế: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Trong tư cách linh mục, có thể tôi là: đáng kính đáng nể trước mặt xã hội, nhưng trong tư cách Ki-tô hữu, làm sao tôi trở thành ‘công chính’ trước mặt Chúa đây? Thật là thiếu yếu việc tôi phải tìm ra đáp án cho vấn nạn này và sống nó cách trung thực.
Lạy Chúa, con cảm tạ ơn Chúa đã cho một Phê-rô, một Ma-đa-lê-na, một Mát-thêu, một tên gian phi thống hối, được trở nên công chính! Con cũng hằng được Chúa mời gọi chiêm ngưỡng sự công chính cao cả của Đức Ma-ri-a nơi cõi lòng khiêm cung sâu thẳm của người; xin hãy giúp con để, mỗi khi vì bất hạnh rơi vào vòng tội lỗi, con vẫn biết như thánh Âu-tinh coi đó là dịp hồng phúc để con trở nên công chính hơn trước mặt Chúa; chính vì nhờ đó con mới có thể khám phá sâu hơn lòng thương xót vô biên của Chúa. A-men.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Ông Alexin Carnel, người lãnh giải Nobel về Y khoa năm 1978, đã chia sẻ kinh nghiệm về đức tin khi ông phát biểu : “Cầu nguyện là một hoạt động không thể thiếu để phát triển con người toàn diện. Càng cầu nguyện, chúng ta càng trở nên con người hơn”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu một lần nữa dạy chúng ta cầu nguyện với sự khiêm hạ chân thành. Càng khiêm tốn, chúng ta càng trở nên vĩ đại, vì được thông dự vào sự cao cả và quyền năng của Thiên Chúa. Điều đó cũng tương hợp với tư tưởng của Pascal khi ông nói : “ Con người rất nhỏ bé và tầm thường, nhưng chúng ta sẽ trở nên vĩ đại và phi thường nếu biết cầu nguyện”.
Cầu nguyện: Từ thái độ kiên trì đến tâm tình khiêm tốn.
Tuần trước, lời Chúa khuyên mời chúng ta kiên trì trong việc cầu nguyện qua hình ảnh của Moise đứng giang tay trên núi cầu khẩn khi đoàn quân của ông giao chiến với đội quân Amalếch, hoặc qua thái độ kiên nhẫn của một bà góa đứng kiện cáo nơi cửa công. Tuần này, Chúa cũng vay mượn hình ảnh khiêm hạ của một người thu thuế, đối nghịch với thái độ cao ngạo của ông Pharisiêu khi lên đền thờ cầu nguyện, để dạy chúng ta phải có thái độ khiêm tốn mỗi lần đến với Chúa. Chúng ta đã nghe khá nhiều về việc cầu nguyện. Nhưng sự khiêm hạ Chúa nói hôm nay đòi hỏi nơi chúng ta điều gì và chúng ta đã thực hành như thế nào?
Trước hết, chúng ta nghe lại bài đọc 1 trong sách Huấn ca được đọc lên trong phụng vụ hôm nay. Tác giả viết : “Đức Chúa là Đấng xét xử, người chẳng thiên vị ai. Người không vị nể mà hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức, lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người góa bụa”. Ba hạn từ nêu trên, nói về những người nghèo khổ, cô thế cô thân trong xã hội Do thái thời xưa. Kẻ mồ côi, kẻ bị áp bức, người góa bụa, là những người thấp kém và bị mọi người coi khinh. Họ là đại biểu của giai tầng thấp nhất trong xã hội, nhưng lời cầu nguyện của họ luôn được Thiên Chúa lắng nghe. Trong bài giảng trên núi, Chúa công bố bản Hiến chương Nước Trời với 8 mối phúc dành cho những ai ‘nghèo khó, hiền lành, khóc lóc, bị áp bức..’, tức là những con người luôn biết sống khiêm hạ, không vênh váo và tự mãn về cái tôi của mình như những người quyền quý hay cao sang. Sự khiêm hạ đó một lần nữa được Chúa nói tới qua hình ảnh người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, đối kháng với sự kiêu căng tự mãn của người Pharisiêu. Vào thời Chúa Giêsu, dân chúng luôn dị ứng và tẩy chay những người hành nghề thu thuế. Họ được xếp ngang với bọn đĩ điếm và phường tội lỗi. Dân chúng ghét họ vì 3 lý do. Thứ nhất, họ làm tay sai cho đế quốc Rôma. Thứ hai, họ phản bội tổ quốc và đồng bào ruột thịt. Thứ ba, khi đụng đến tiền bạc, chắc chắn họ dễ rơi vào tham nhũng hay hối lộ. Những người thu thuế thường hay thu quén tiền bạc cách bất chính trên xương máu và mồ hôi nước mắt của người khác. Đế quốc Rôma ra chỉ tiêu về tiền thuế phải nộp, còn họ sẽ bày ra phương cách để có thật nhiều tiền. Vì vậy, dân Do Thái luôn khinh ghét họ và xếp họ chung với phường tội lỗi.
Người thu thuế ra về được nên công chính, còn người kia thì không (c.14).
Sự công chính nơi người thu thuế khởi đầu từ việc ông nhận ra lỗi lầm của mình và thực tình sám hối. Sám hối, theo nguyên ngữ Hy Lạp ‘Metanoia’, có nghĩa là ‘trở về’. Sám hối không phải chỉ là đấm ngực mình cách máy móc như nhiều khi chúng ta vẫn hay làm khi đọc kinh ‘tôi thú nhận’. Hành vi đấm ngực, cúi gầm mặt xuống vì xấu hổ nơi người thu thuế là bước khởi đầu của cuộc hành trình trở về. Thánh Luca trong chương 15 kể dụ ngôn đứa con đi hoang để nói về cách sám hối chúng ta cần biểu tỏ. Chàng thanh niên can đảm đứng lên, giã từ quá khứ để trở về nhà trong vòng tay yêu thương của Cha. Sự công chính chúng ta có được không phải do nỗ lực cá nhân, nhưng trước hết là do ơn sủng nhưng không, đến từ Thiên Chúa. Trong thơ Rôma, Thánh Phaolô đã cắt nghĩa rất rõ : “Ân sủng Đức Kitô làm cho chúng ta nên công chính, vì ở đâu tội lỗi càng nhiều, ơn sủng càng chan chứa gấp bội (Rm 5, 20-21). Đức Giêsu đã khiêm nhường, tự hạ chấp nhận cái chết và máu của Ngài làm cho chúng ta được công chính hóa. Vì vậy điều kiện tiên quyết để được tha thứ và chữa lành, chính là thái độ khiêm tốn nội tâm.
Muốn sống khiêm tốn phải biết mình.
Người thu thuế biết rõ về chính mình, về những bất xứng và tội lỗi anh ta đã gây ra. Từ chỗ biết mình, anh đã can đảm đi ra khỏi cái tôi để quy hướng về Thiên Chúa. Ngược lại, người biệt phái quá kiêu ngạo, tưởng rằng biết rõ về bản thân, nhưng thực sự thì không. Ông chỉ biết quy về mình. Ông trưng ra những thành tích đạo đức để khoe mẽ mà không biết rằng những việc tốt mà ông có thể làm, tất cả là do ơn của Chúa chứ không phải do công lao của ông. Ông đến đền thờ cầu nguyện tựa như đi tham dự một hội nghị biểu dương ‘Người tốt việc tốt’, giống như xã hội hôm nay vẫn hay tổ chức. Một người đứng lên giữa đám đông kể ra những ‘thành tích xuất sắc’ của mình để nhận bằng khen hay giấy khen, nhiều khi rất lố bịch và giả tạo. Nhiều người đi tham dự hội nghị còn đeo đầy huy chương để khoe cho mọi người biết tôi là người có công với đất nước. Người Pharisiêu trong dụ ngôn hôm nay cũng thế. Ông ta trưng ra những thành tích đạo đức để mong Chúa ban cho ông một tấm bằng khen. Chúa biết rõ tâm hồn mỗi người, từ những gì sâu kín nhất tận bên trong. Điều Chúa mong muốn nhất, chính là sự khiêm hạ và thành tâm sám hối. Khi chúng ta đến trình diện trước mặt Chúa, Chúa không thích ngắm những bộ huy chương chúng ta đeo trên ngực hay nhìn những bằng khen chúng ta trưng ra để khoe khoang. Ngài chỉ thích mân mê sờ nắn những vết sẹo nơi tâm hồn chúng ta, là dấu chứng tội lỗi chúng ta phạm nhưng đã được Thiên Chúa yêu thương và chữa lành. Câu chuyện dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay khẳng quyết điều ấy.
Kết luận
Bắt chước người thu thuế trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy đến với Chúa với tâm tình sám hối và khiêm hạ, đặc biệt khi chúng ta giơ tay đấm ngực mỗi lần dâng Thánh lễ. Nhiều khi chúng ta đấm ngực mình một cách rất máy móc để rồi khi về đến nhà, lại giơ tay đấm nhầm qua ngực người khác, bằng cách kết án hết người này đến người nọ. Chúng ta mượn lại tâm tình của Thánh Charles de Faucauld để thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, dù còn xấu xa hay tội lỗi đến mấy, Chúa cũng không bao giờ kết án và luận phạt. Chúa cho con tự do để làm mọi sự, nhưng Chúa luôn cấm con không được thất vọng trước sự khốn nạn do tội lỗi con gây ra. Lạy Chúa, xin xót thương con.”
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Dụ ngôn người Biệt phái và Thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện cho thấy sự tương phản giữa hai thái độ của con người trước tình yêu thương bao la của Thiên Chúa.
Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đức ái hơn nguời khác. Người thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát, khinh chê.
Hai mẫu người đối lập cùng bước vào Đền thờ và làm cùng một công việc là cầu nguyện. Tại đây, sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét khi tâm tính và thái độ sâu kín được bộc bạch trước nhan Thiên Chúa. Ông Pharisêu đứng thẳng ngước cao vỗ ngực kể công và chê bai người khác. Người thu thuế đấm ngực và nguyện thầm: “Xin thương xót vì con đầy tội lỗi!”.
1. Vỗ Ngực
Người Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng cầu nguyện : Lạy Thiên Chúa, con cảm tạ Chúa vì con không giống các người khác, không tham lam, không bất công, không ngoại tình hay như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng một phần mười thu nhập của con. Người Biệt phái đang báo cáo thành tích. Ông nói điều ông đã làm và những gì ông làm thì không chê vào đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối chồng, không đam mê tội lỗi, thậm chí về phần đạo đức bác ái, ông còn làm quá điều luật dạy.Thường người ta chỉ ăn chay một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông ăn chay hai ngày trong tuần. Luật buộc các nông dân nộp một phần mười sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân tất cả thu nhập của ông. Đây là lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Không thấy ông xin gì cho bản thân. Lời cầu nguyện chỉ là lời tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân : Vì tôi không như bao người khác, tôi không như tên thu thuế kia. Rõ ràng người Biệt phái tốt lành quảng đại nhưng lại tự phụ khoe khoang, khinh người. Đây là biểu tượng cho hạng người hay chúc tụng, tôn thờ bản thân mình, tự “vỗ ngực xưng tên”. Thật đúng, kiêu căng đứng trước trong danh sách bảy mối tội đầu.
2. Đấm Ngực
Người thu thuế đến thú tội, anh ý thức mình là tội nhân nên run rẩy xấu hổ, đầu cúi xuống chẳng dám ngước lên. Anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người Pharisêu (hay như tên thu thuế kia), nên anh thấy khỏi cần cáo tội mình. Anh chỉ còn đặt mình trước nhan Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin : Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hoà với anh em. Anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình bất xứng. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi anh ngọt ngào biết bao. Anh cảm thấy đầy niềm tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì anh biết rằng : dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, dù thủ đoạn như vua Đavít đã cướp vợ giết chồng người khác nhưng họ đã hết lòng ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã sẵn lòng tha thứ; dẫu rằng cả toàn dân bỏ Chúa và bị bắt lưu đày Babylon, lại bị thủ tướng Aman ra tay diệt trừ nhưng trong cơn cùng khốn như thế, hoàng hậu Ette cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ; hay tội lỗi như dân ngoại Ninivê, Thiên Chúa còn thương, bắt buộc Ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ biết cải tà qui chính, Thiên Chúa liền tha thứ cho họ khi họ sám hối chân thành. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung cùa Thiên Chúa, anh càng đấm ngực hết lòng ăn năn.
3. Khiêm Nhường
Đức Giêsu kết luận: Người thu thuế trở nên công chính còn người biệt phái thì không được…. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Người thu thuế ra về và được tha hết mọi tội, tâm hồn thành trắng trong.
Người biệt phái ra về tội lỗi vẫn cứ còn đó.Cái tôi nặng quá nên còn phải gánh thêm sức nặng của tội lỗi nữa, thật đáng thương cho đời một người quá tự kiêu tự mãn.
Tội lỗi hay hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho bằng tính tự mãn thói kiêu căng. Người thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi nên đã làm mất đi sự công chính, nhưng hành động khiêm tốn biết nhìn nhận mình tội lỗi và hết lòng thống hối nên được công chính trước Thiên Chúa.
Khiêm nhường có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính.Trái lại, kiêu ngạo tự mãn có thể biết điều tốt thành điều xấu.
Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, là gốc rễ của các nhân đức. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã nói : Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và gái điếm, nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hoả ngục có cả Hồng Y, Giám mục nhưng không có người khiêm nhường.
Khiêm nhường bao nhiêu cũng không đủ, chỉ một chút kiêu ngạo cũng quá nhiều. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở tâm hồn ra để đón nhận. Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa.
Sự triển nở trong đời sống thiêng liêng nằm chỗ là ta trở nên nhỏ lại, là nhường bước để cho Chúa xâm chiếm và chi phối trọn vẹn đời ta. Càng lớn lên trong Chúa, ta càng cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng mình cần đến Chúa ngày một hơn.
Một Đấng Thánh vĩ đại như Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp hèn nhất (1Cor 15,9); một ngôi sao chói lọi trong công việc bác ái từ thiện như Thánh Vincent Phaolô mà cũng đã tự gọi mình là người thấp hèn nhất trần gian thì huống là chúng ta ! Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống mới vào được mà thôi. Thiên Chúa luôn chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng luôn ban ơn cho kẻ khiêm nhường (x. Gc 4,6; 1Pr 5,5).
Tại Đền Thờ Thánh Phêrô có một bức tượng Chúa Chịu Nạn do Thorvaldsen(1770-1844), nhà điêu khắc Đan Mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng, ông ta nhìn mãi rồi lắc đầu nói : tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm nhưng tôi chẳng thấy có gì đẹp cả. Một người quỳ sau lưng ông nói : Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp. Ông du khách liền quì gối. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa Chịu Nạn. Muốn gặp gỡ Chúa, muốn đón nhận lòng thương xót của Người, con người cần quì gối với tâm tình khiêm tốn.
Đức Cha Fulton J. Sheen viết trong cuốn “Người Galilê vĩnh cửu”: Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng, nhưng Ngài giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Một số người quá tự mãn không hạ mình sẽ không thấy được niềm vui bên trong hang đá. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như thế, họ thấy mình không ở trong một cái hang, nhưng ở trong một thế giới khác. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng, và cánh tay ẵm Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất, nơi chúng ta đang sống. Và khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, tôi tự hỏi : không biết những người thông thái ghen với những người đơn sơ, hay những người đơn sơ ghen với những người thông thái ? Tôi hướng tới xác tín rằng : các đạo sĩ ghen với các mục đồng, bởi vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Tin Mừng hôm nay đề cao lời cầu nguyện khiêm nhường của người thu thuế, không nhìn sang người khác, không so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào chính mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm bản thân rồi khiêm tốn chấp nhận. “Lạy Chúa ! Xin thương xót con”. Lời cầu nguyện của người thu thuế thật đơn giản. Ý thức được thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, anh hoàn toàn cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa. Đó là lời cầu nguyện của người ở trong sự thật và được sự thật giải thoát khỏi tội lỗi. Lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa. Sách huấn ca dạy: “ Lời cầu nguyện của người khiêm tốn xuyên thấu các tầng mây” (Hc 35,17). Sách giáo lý cũng dạy :“Khiêm tốn là thái độ căn bản phải có để đón nhận ơn cầu nguyện” (GLCG số 1559).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con có là gì mà chẳng do Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn đấm ngực nhận mình thiếu sót lỗi lầm để luôn được Chúa xót thương tha thứ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống một cuộc đời rất khiêm nhường, đầy tinh thần tự hủy và vị tha tới tận cùng, xin cho chúng con biết sống quên mình, tự hạ, yêu thương và hòa đồng với tất cả mọi người chung quanh con. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Nhận thức là một quá trình bao gồm sự nhận biết (mức độ thấp) và sự hiểu biết (mức độ cao). Có nhận thức đúng đắn thì mới khả dĩ ý thức.
Có nhiều thứ cần nhận biết, nhưng khó nhất vẫn là nhận biết chính mình. Muốn nhận biết chính mình thì phải can đảm đối diện với chính mình. Nhưng cần nhận biết điều gì về bản thân? Cũng có nhiều thứ: sức mạnh, sức khỏe, điểm yếu (nhược điểm, sở đoản), điểm mạnh (yếu điểm, sở trường), tài năng, kiến thức, quan điểm, niềm tin, ước vọng, cảm xúc, bản năng, thói quen, tâm lý,…
Theo cách nhận thức riêng về cuộc đời, Allan Rufus ví von thú vị: “Cuộc đời như ổ bánh mì kẹp. Sinh ra là một lát bánh, và chết đi là lát bánh còn lại. Điều bạn kẹp vào giữa là tùy bạn. Ổ bánh mì của bạn thơm ngon hay chua cay?”. Đừng tự lừa dối, kẻ lừa bịp đáng sợ nhất là chính mình.
Và rồi chính Albert Einstein cũng đã từng thắc mắc: “A question that sometimes drives me hazy: am I or are the others crazy? – Có một câu hỏi đôi khi khiến tôi cảm thấy mơ hồ: Tôi điên hay người khác điên?”. Cuộc đời luôn là một ẩn số, không có cách lý giải chuẩn xác. Nội tại luôn quan trọng hơn ngoại tại, đúng như Agatha Christie nhận xét: “Chính điều bên trong con người của bạn làm cho bạn hạnh phúc hay bất hạnh”.
Thật chí lý khi người ta nói “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Từ ánh mắt của ai đó, người khác có thể nhận thấy người đó có sức mạnh, uy tín, đáng tin hay khả nghi,… Người ta sợ nhau từ ánh mắt. Thật vậy, khi hai người nhìn nhau, ai yếu bóng vía sẽ tự cảm thấy mình “lép vế” ngay. Dám nhìn thẳng vấn đề là một thế mạnh của người quân tử.
Cuộc đời vốn dĩ là bể khổ, tất nhiên liên quan nước mắt. Nước mắt của nhà giàu và nhà nghèo giống nhau về vị mặn, nhưng khác nhau xa về tính chất và nguyên nhân. Kinh Thánh đặt vấn đề: “Nước mắt quả phụ lại không giàn giụa trên gò má, và tiếng bà kêu lại chẳng cáo tội kẻ làm bà phải khóc sao? Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây. Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm. Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa an lòng” (Hc 35:15b-17).
Trước mặt người đời đời, người nghèo là cái gai cần phải đập gãy, nhưng với Thiên Chúa thì không như vậy. Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót thì không thể làm ngơ trước lời van xin tha thiết của những con người hèn mọn, khốn khổ.
Điều gì chưa xảy ra, ngay cả công lý, là vì Thiên Chúa chưa cho phép xảy ra, chưa đến lúc theo sự quan phòng và tiền định của Ngài. Cứ tin tưởng, an tâm để Ngài dắt đi và bước theo Ngài thì chúng ta sẽ thanh thản. Đừng sợ loài người, chỉ sợ Thiên Chúa mà thôi. Và điều gì đến sẽ phải đến: “Sẽ đến lúc Người đập gãy lưng bọn tàn ác, và báo oán chư dân. Sẽ đến lúc Người tiễu trừ lũ ngạo ngược, đập tan vương trượng bọn ác nhân. Sẽ đến lúc Người trả cho ai nấy theo việc họ làm, và xét xử hành động của người ta theo ý hướng của họ” (Hc 35:20-22a). Tất cả đều đúng thời, đúng lúc, không gì có thể xảy ra ngoài Thánh Ý Chúa. Chắc chắn như vậy!
Thật vậy, Thánh Phaolô tha thiết nhắn nhủ: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7).
Tác giả Thánh Vịnh cũng chân thành bày tỏ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3). Dù sướng hay khổ, dù buồn hay vui, cứ trò chuyện với Chúa thì chẳng có gì phải lo, phó thác hết cho Ngài, cứ để Ngài hành động.
Là những con người đầy tội lỗi và nhiều sai lầm, thế mà không cha mẹ nào nỡ lòng muốn điều xấu cho con cái, những đôi lứa yêu nhau cũng luôn muốn điều tốt cho nhau, thậm chí cọp dữ còn chưa nỡ ăn thịt con kia mà. Chắc chắn Thiên Chúa còn hơn như vậy: “Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu. Họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:17-18).
Và còn hơn thế nữa, tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng cụ thể: “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 34:19). Đúng vậy, ngôn sứ Isaia còn nói rõ ràng và chi tiết hơn: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gẫy; tim đèn leo lét, Ngài chẳng nỡ tắt đi” (Is 42:3). Văn hào Victor Hugo (1802-11885, Pháp) đã nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; ai chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Thật là chí lý! Nhưng có lẽ chúng ta không thể hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu tuyệt đối của Ngài viên mãn tới mức đôi khi chúng ta nghi ngờ, không dám tin. Và cũng đã có những người coi tình yêu ấy là tình yêu điên rồ. Vâng, điên thật!
Cũng nhớ “khối tình điên” ấy mà chúng ta mới hiện hữu và sống tới hôm nay. Nhận thức như vậy để có thể hoàn toàn tín thác vào Ngài: “Chúa cứu mạng các người tôi tớ, ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ” (Tv 34:23).
Cuối đời, Thánh Phaolô nhắn nhủ Timôthê: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4:6-8). Dù là một “tân tòng”, nhưng ông Phaolô đã nhận thức sâu sắc về ơn gọi của mình, đồng thời biết mình sống thế nào nên ông tin tưởng mình sẽ được cứu độ. Thật hạnh phúc! Ước gì mỗi chúng ta cũng biết Chúa và biết mình như vậy!
Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể và rạch ròi: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen” (2 Tm 4:16-18).
Ông được đặc ân nhưng không tự mãn, ông chấp nhận sự vô cảm của người khác và còn xin Thiên Chúa tha thứ cho những người đã đối xử tệ với mình. Thật cao thượng!
Ai cũng biết đức khiêm nhường là nhân đức cần thiết, nhưng lại khó thể hiện, vì “cái tôi” luôn to lớn (nhưng không hề vĩ đại). Trình thuật Lc 18:9-14 nói về dụ ngôn “Người Pharisêu và Người Thu Thuế” – một người khiêm nhường, một người kiêu ngạo. Hai thái cực đối lập, hai động thái trái ngược. Người Việt có câu: “Thùng rỗng kêu to”. Thùng càng rỗng càng kêu to. Người ta cũng thế, càng dốt càng chảnh, càng “nổ”. Kheo khoang vì muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, không muốn người khác biết “thùng mình rỗng”. Nhưng càng “nổ” mạnh thì càng văng miểng nhiều, khiến người ta “sợ” dính miểng nên phải xa lánh.
Người Pharisêu mệnh danh là nhóm Biệt Phái, tức là những người được tách khỏi dân thường và có nhiệm vụ riêng biệt. Vì được coi trọng nên họ kiêu hãnh, luôn ra vẻ ta đây. Nhưng đó chỉ là động thái giả hình, coi trọng bề ngoài, coi trọng hình thức, coi trọng nghi thức, nhưng bên trong rỗng tuếch. Chúa Giêsu đã từng gọi họ là “mồ mả tô vôi” (x. Mt 23:27), bên ngoài sơn son thếp vàng nhưng bên trong đầy giòi bọ hôi thối.
Để đánh động những người tự nhận mình công chính mà khinh chê người khác, Chúa Giêsu kể dụ ngôn thế này…
Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng và nguyện thầm: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Theo mặc định của xã hội Do Thái, người biệt phái là công chính, người thu thuế là tội lỗi (vì làm việc cho ngoại bang mà đàn áp dân lành, và có thể lóm lém tiền bạc). Chúng ta thấy có những động thái đối nghịch: ngẩng đầu – cúi đầu, dang tay – khép tay, chê người – thú nhận, tự mãn – khiêm nhường. Chúa Giêsu xác định: người thu thuế khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính, còn người biệt phái thì không. Xã hội luôn có những kẻ có “máu” Pharisêu, ngay trong các dòng tu, các giáo xứ và các hội đoàn cũng không thiếu. Thật đấy!
Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Liên quan vấn đề nhận thức, đại nhân Khổng Tử xác định: “Đừng lo mình không có chức vị, chỉ lo không đủ tài mà nhận lãnh chức vị mà thôi”. Đó là cách nhận thức giản dị mà thâm thúy, khả dĩ giúp người ta sống thanh thản, không ảo tưởng, dù là ai và ở cương vị nào. Ca dao Việt Nam cũng nói:
Người trồng cây Hạnh người chơi
Ta trồng cây Đức để đời về sau
Hãy cứ bình thường khi gặp người khác, dù người đó là ai. Người có như vậy có thể sẽ bị coi là lạnh lùng, dửng dưng, khinh người,… nhưng không phải vậy. Bắt chước là hèn nhát, nịnh bợ là nhục nhã. Hãy cứ là chính mình. Không sợ hãi trước kẻ quyền thế, không hống hách với người yếu thế, không luồn cúi hoặc nịnh bợ người khác để có lợi cho mình, đó chính là phong cách của quân tử. Thật là đê tiện với những ai có cái kiểu “cáo mượn oai hổ”.
Biết mình và biết người là điều cần thiết trong cuộc sống, cao cấp nhất là nhận biết Thiên Chúa – dạng nhận thức tâm linh. Thánh Augustinô phân tích: “Nhận biết Thiên Chúa là làm cho con người nhận biết mình; cũng vậy, nhận biết mình cũng là khiến cho người ta nhận biết Thiên Chúa”. Rất hay, rất lô-gích!
George Washington (1732-1799, tổng thống tiên khởi của Hoa Kỳ) có nhận thức thật tuyệt vời: “Một khi bị cướp đi quyền tự do ngôn luận, chúng ta trở nên câm lặng và ngu xuẩn như những con cừu bị dẫn đến lò sát sinh. Sự thật sẽ luôn chiến thắng ở bất kỳ nơi đâu có nỗ lực để đưa nó ra ánh sáng”. Nhận thức và ý thức về chân lý như vậy thật hợp với Chúa Giêsu, vì Ngài đã xác định: “Sự thật sẽ giải thoát quý vị” (Ga 8:32).
“Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, đó là nhận thức cơ bản của tình yêu thương, nhờ đó mà khả dĩ tha thứ. Trong khi cơn bão Sarika (bão số 7 đối với Việt Nam) đang “tấn công” miền Trung, người ta lại cho xả đập nước, khiến tình trạng càng tệ hơn. Thế mà một cán bộ sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn “vô tư” tuyên bố một câu xanh rờn: “Khi xả lũ, chúng tôi chỉ tính đến an toàn của đập, còn hậu quả thì chưa nghĩ đến”. Thật là “hết ý” luôn! Số phận của dân nghèo không bằng cái đập nước? Cách tính của họ quá vô tâm, không một chút yêu thương! Đó là cách nhận thức “siêu đẳng” của người lãnh đạo sao? Tội nghiệp cho dân Việt Nam quá!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận thức đúng đắn, khả dĩ biết Chúa, biết người, và biết chính con, để con không ảo tưởng mà kiêu ngạo, và để con biết sống khiêm nhường theo đúng Tôn ý Ngài.
Lạy Đấng giàu lòng thương xót, cơn bão Sakira đang làm cho miền Trung ngập trong biển nước, nhiều chục ngàn gia đình không có chỗ trú thân, trong khi đại họa Formosa chưa nguôi, khổ chồng lên khổ. Xin Chúa chúc lành và che chở họ, xin thêm đức tin cho họ trong cảnh khốn khó này.
Lạy Đức Mẹ La Vang, xin Mẹ choàng Chuỗi Mân Côi quanh miền Trung để bảo vệ họ khỏi thiên tai và nhân tai, xin cho những người hữu trách có được nhận thức theo Tháy Ý Chúa, và xin ban bình an cho Việt Nam bé nhỏ của dân tộc chúng con. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
AM. Trần Bình An
Trong hơn 100 năm qua, các nữ tu dòng kín được biết với tên Các Nữ Tu Hồng đã thay phiên nhau cầu nguyện liên tục không ngừng nghỉ tại nhà nguyện Divine Love (Chúa Tình Yêu) ở Philadelphia. Hiện nay để tiếp tục việc cầu nguyện liên lỉ thêm một kỷ nguyên nữa trong lúc nhân số giảm dần, các nữ tu dòng Kính Thánh Thể Công Giáo đã bắt đầu trong âm thầm tìm cách phát triển nhà dòng, trong khi vẫn đang duy trì sống đời sống tách biệt với thế giới bên ngoài nơi dòng kín.
Năm ngoái, các nữ tu đã treo biểu ngữ bên ngoài nhà nguyện và tu viện để mời công chúng vào tham dự thánh lễ mỗi ngày. Các nữ tu cũng dành nhiều cuộc phỏng vấn cho các phóng viên. Thậm chí còn có những tờ truyền đơn kêu mời tham gia cầu nguyện được treo ngay trước cửa của nhà nguyện. Trong đó có ba câu hỏi được đặt ra là: Bạn có yêu Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể không? Bạn có nhận thấy sức mạnh của việc cầu nguyện trước Thánh Thể không? Chúa Giêsu có mời bạn nói “Có” với đời sống cầu nguyện trước Thánh Thể không?
Trước đây có khoảng 40 nữ tu sống tại tu viện Philadelphia. Hiện nay thì chỉ còn 20, chị trẻ nhất là 52 tuổi và chị lớn nhất là 90 tuổi. Đây là một đời sống quên mình, tập trung vào việc cầu nguyện xin ơn cho những người, mà các nữ tu chưa hề gặp gỡ hay quen biết. Các nữ tu cầu nguyện hầu như suốt ngày, cầu nguyện chung và cầu nguyện riêng luân phiên trước Thánh Thể, thông thường các nữ tu thức dậy lúc 5:15 sáng và đi ngủ lúc 8:00 tối.
Ai cũng có việc của mình. Người thì làm thẻ Thánh Lễ, người thì làm tràng hạt, tất cả tiền bán sản phẩm được dùng cho việc chi tiêu của nhà dòng. Những nữ tu khác thì trả lời thư tín, người thì trực điện thoại. Những người gọi tới thường là những người cô đơn hay chán đời muốn tự tử. Các nữ tu chỉ lắng nghe, vậy mà lại có kết quả an ủi khác thường. Nữ tu Mary Angelica, 55 tuổi nói rằng chị muốn cho những người đã mất đức tin biết rằng, luôn luôn có người cầu nguyện cho họ “về bất cứ việc gì họ cần.”
Nữ tu Mary Angelica giải thích rằng: “Chúng tôi sống đơn giản chừng nào tốt chừng ấy để hoàn toàn chú tâm vào Thiên Chúa. Chúng tôi đơn giản trong mọi thứ, kể cả thức ăn, tuy vậy chúng tôi cũng có kem lạnh vào những dịp lễ đặc biệt.”(theo AP, Gương cầu nguyện Các Nữ Tu Hồng đã liên lỉ cầu nguyện 100 năm và đang tiến hành thêm 100 năm nữa)
Các Nữ Tu Hồng quên mình, liên lỉ cầu nguyện cho tha nhân, là gương mẫu cho tất cả Kitô hữu noi theo. Tin Mừng Thánh Luca hôm nay thuật dụ ngôn người Biệt phái và người thu thuế cùng lên Đền Thờ cầu nguyện. Nhưng chỉ có lời cầu nguyện của người thu thuế được Chúa thương nhận lời. Bởi vì người thu thuế chân thành cầu nguyện với lòng khiêm hạ, khiêm tốn và khiêm nhu.
Khiêm hạ thân phận
Trước tiên, thái độ cầu nguyện của hai người hoàn toàn tương phản nhau, như trắng đen, như lửa với nước. Trong khi “người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện,”thì trái lại “người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện cầu.” Đứng thẳng là biểu lộ tương quan bình đẳng, ngang hàng, bằng vai đồng lứa với người đối thoại. Cúi đầu là tự nhận mình là kẻ bề dưới khúm núm, kính trọng người đối thoại là bề trên. Người Biệt phái tự hào đẳng cấp trên thiên hạ, quyền thế, mẫu mực, đạo đức, nên mặc nhiên cho mình đặc quyền cư xử trịch thượng với mọi người, kể cả với Thiên Chúa. Thay vì cảm tạ Chúa, nhờ lãnh nhận biết bao hồng ân, mới được dư giả, mới có thể giữ trọn và hơn Lề Luật, thì ông tự phụ, vô ơn bạc nghĩa, coi như tất cả mọi sự tốt lành đều do công lao của riêng mình. Rồi đây, ”Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.” (Lc 1, 53)
Người thu thuế ý thức thân phận hèn kém, bất xứng, đứng xa xa cuối Đền Thờ, khiêm hạ khấu đầu bái lạy. “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1, 53-54)
Khiêm tốn biết lỗi
Nhận biết mình chẳng đạo đức, lỗi đức công bằng, cũng chẳng giữ luật, người thu thuế không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực, khiêm tốn ăn năn, sám hối. Chỉ khi nào hạ mình xuống, chân thành nhìn vào tâm can, thẳng thắn xét mình, mới có thể nhận biết rõ ràng những vết nhơ trong đời. Dẫu tiền bạc rủng rỉnh, cơ ngơi bề thế, kẻ ăn người ở, đầy tớ phục dịch, người thu thuế vẫn cảm thấy mình đê tiện, nghèo hèn, bất xứng trước Thánh Nhan.
Mea culpa! Mea culpa! Mea maxima culpa! Lỗi tại tôi mọi đàng. Không dám so sánh với bất cứ ai, không dám sỗ sàng phê phán, xét đoán tha nhân, như người Biệt phái, hãnh diện, kênh kiệu, khoe khoang, kiêu căng, tự đắc, cao ngạo nhận mình tinh tuyền, không bê tha, xấu xa như người thu thuế: “Tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia.” Đức Giêsu đã cực lực cảnh báo và nghiêm cấm chớ hàm hồ miệt thị, kinh chê, phán đoán, xét nét tha nhân: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy.” (Mt 7, 1-2)
Hơn nữa, người Biệt phái còn hãnh diện, tự cao, tự đại, tự mãn, nhân đức, trọn lành hơn cả Lề Luật ấn định: “Tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi.”
Người thu thuế tự cảm nhận đói nghèo tình thương, thiếu đức ái, thiếu lương thiện với tha nhân, nên hết lòng thống hối. Còn ông Biệt phái tự phụ, sung túc phủ phê của cải lẫn nhân đức, chẳng cần nài xin. Vì thế, “kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” (Lc 1, 53)
Khiêm nhu trông cậy
Biết lỗi, nhận lỗi, xin lỗi, sửa lỗi là thái độ khiêm nhu chân thành sâu sắc của người tử tế, tự trọng, quân tử, nhất là con chiên của Chúa. “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Người thu thuế biết mình hèn nhát, hư đốn, yếu đuối, khó cưỡng nổi lòng tham, khó yêu thương đồng bào, khó tuân giữ Lề Luật, nên hết lòng khấn xin, hoàn toàn trông cậy vào Lòng Thương Xót cứu vớt, giải thoát khỏi tội lỗi. Lời kêu xin đó không tự dưng biến người thu thuế trở nên công chính, nhưng được Chúa chạnh lòng đoái thương, công chính hoá. “Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không.”
“Con chỉ hiểu được đức khiêm nhượng khi suy nghiệm cả cuộc đời Chúa Giêsu, con Thiên Chúa hạ mình chịu mọi sự ngớ ngẩn, dốt nát, hiểu lầm sâu độc, suốt 33 năm vì yêu chúng ta.” (Đường Hy Vọng, số 510)
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn ý thức phận phàm hèn, để biết ăn năn, thống hối, hầu được Chúa thương xót ban ơn cứu độ.
Kính xin Mẹ Mân Côi, cầu bầu, giúp đỡ, hướng dẫn chúng con noi gương Mẹ khiêm nhường cầu nguyện, để tâm tình chúng con xứng đáng được Chúa chấp nhận. Amen.
.
JM. Lam Thy
Theo từ nguyên, “Tự cao tự đại” có nghĩa: Tự cho là mình giỏi, xem người khác là kém cỏi. Nói cách khác, đó chính là tình kiêu căng, ngạo mạn (kiêu ngạo). Với Ki-tô giáo thì kiêu ngạo là tội đứng hàng đầu trong “Bảy mối tội đầu”. Ngay từ Cựu Ước, ngôn sứ Gióp đã lý giải cụ thể: “Đức Chúa triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng và cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt.” (G 22, 29); Sang đến Tân Ước, Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo hội khi cất lời “Ngọi khen” Thiên Chúa, cũng nêu bật sức mạnh của Đấng Chí Tôn đối với hạng người kiêu căng, quyền thế: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1, 51-52). Thánh Phê-rô đã khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5, 5).
Cũng chỉ vì “một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18, 9), nên Đức Ki-tô mới kể dụ ngôn “Người Pha-ri-sêu và người thu thuế” (xc bài Tin Mừng CN XXX/TN-C – Lc 18, 9-14). Hai người cùng lên Đền Thờ cầu nguyện. Lên Đền Thờ khẩn cầu, tạ ơn, xin ơn là một việc tốt, nhưng ở đây hai người có hai thái độ trái ngược nhau. Người Pha-ri-sêu không thành thật cầu nguyện mà là tự khoe khoang, kể công, kể phúc. Ông cầu nguyện nhưng thực ra ông đang liệt kê một bảng thành tích: Ông đã giữ luật, đã không dám làm những điều lề luật cấm. Những điều được phép làm, ông còn làm nhiều hơn. Còn người thu thuế, tuy rằng ông tội lỗi thật vì đã từng phạm nhiều tội ác, nhưng ông đã hối hận và thành thật nhìn nhận tội lỗi của mình. Ông không dám nói nhiều, mà chỉ một câu ngắn gọn bộc lộ hết tấm lòng chân thành của mình: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Cũng đã có nhiều bài chia sẻ cho rằng người Pha-ri-sêu đã sống và làm những việc tốt lành và ông đến Đền Thờ là để cảm ơn Thiên Chúa chớ không phải để khoe khoang thành tích (lý do là ông đã chỉ “nói thầm” với Thiên Chúa, chớ không nói to cho mọi người cùng nghe). Vấn đề đặt ra ở đây không phải là nói nhỏ hay nói to, mà là nói những gì với mục đích ra sao. Hơn ai hết, người Pha-ri-sêu đã biết Thiên Chúa thấu hiểu tất cả những gì thầm kín nhất của con người, không cần nói ra thì Người đã hiểu tận căn nội dung và mục đích người đến cầu nguyện. Những việc làm tốt đẹp ấy của người Pha-ri-sêu nếu thật sự phát xuất từ tình yêu, thì ông ta đã chẳng cần phải mở đầu bằng câu: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.” (Lc 18, 11). Và sau đó là một loạt những thành tích để chứng mình ông ta là người công chính chớ không “tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”. Đúng là thái độ của một kẻ kiêu ngạo, tự tôn, háo thắng, coi khinh người khác.
Người Pha-ri-sêu tưởng rằng ông ta có thể cậy vào việc giữ lề luật và những việc đạo đức của mình để tự hào là công chính trước mặt Thiên Chúa. Thực ra, sự công chính không đến từ việc làm hay việc tuân giữ lề luật, mà đến từ việc tin vào ân sủng của Thiên Chúa và sống phù hợp với niềm tin ấy. Do đó, càng cậy vào việc giữ luật và những việc mình làm để tự hào về sự công chính của mình, thì càng trở nên bất chính trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy“ (Rm 3, 20). Những “dân nội” It-ra-en chỉ chuyên đi “tìm một luật làm cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật đó. Tại sao thế? Tại vì họ không tìm cách nên công chính nhờ đức tin, nhưng nhờ việc làm.” (Rm 9, 31-32). Trong khi đó thì đã có biết bao nhiêu tấm gương “các dân ngoại không tìm cách để được nên công chính, thì được nên công chính, mà được nên công chính là nhờ đức tin.” (Rm 9, 30). Người thu thuế trong bài Tin Mừng hôm nay là một ví dụ điển hình.
Nói đến đức tin thì không thể quên được đức mến. Thật vậy, “chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5, 6). Nếu “mến Chúa” mà không “yêu người” thì chưa thể gọi được là đã đặt hết lòng tin vào Thiên Chúa Tình Yêu. Thánh Phao-lô trong Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô đã nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1Cr 13, 3). Thật vậy, với những việc làm tốt đẹp, nhưng được làm với sự vô cảm, làm theo thói quen, theo truyền thống, hoặc làm để khoe khoang “ra vẻ ta đây”, mà không làm vì lòng “mến Chúa, yêu người”, thì cũng kể như không. Lời khuyên phù hợp nhất trong trường hợp này là đừng bao giờ tự hào về sự thánh thiện hay những việc làm tốt đẹp của mình, vì “Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin sẽ làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính.” (Rm 4, 5).
Lời khuyên chí tình vẫn mãi mãi là “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” (Mc 9, 35). Hãy thẳng thắn nhìn lại chính con người của mình, không kiêu căng tự phụ, nhưng cũng không tự ti thái quá về tội lỗi của mình. Với con người trần thế đã “bị tội lỗi thồng trị” kể từ khi Nguyên tổ sa ngã, thì không ai tránh khỏi tội lỗi, và trước mặt Thiên Chúa, “không ai là người công chính, dẫu một người cũng không” (Rm 3, 10). Tuy nhiên, không vì thế mà Thiên Chúa ghét bỏ, trái lại Người càng thương nhiều hơn và tìm mọi cách cứu vớt con người khỏi vòng tội lỗi. Điều hiển nhiên không cần bàn cãi vì thực tế đã chứng minh: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Như vậy, nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.” (Rm 5, 20). Duy chỉ có điều con người có biết nhìn lại mình một cách chân thực để thấy được tội lỗi đã mắc phạm, đồng thời có thực lòng ăn năn hối cải về những sai lầm thiếu sót của mình hay không, mà thôi.
Có lẽ cũng vì thế nên Phụng vụ Giáo hội để bài Tin Mừng này vào Chúa nhật Truyền Giáo. Truyền giáo ư? Chắc cũng không cần phải định nghĩa lại việc truyền giáo, vì nó là sứ mạng duy nhất, nhất quán của Giáo hội, của mỗi Ki-tô hữu (“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” – Mt 28, 19-20). Sứ vụ chỉ có một, nhưng thể hiện ra bằng việc làm, bằng hành động thì muôn màu muôn vẻ, không nhất thiết phải cứ thế này hay thế khác. Hoạt động truyền giáo không chỉ giới hạn trong việc “giảng đạo” như trước đây ở Việt Nam vẫn quan niệm, và do đó mà cho rằng chỉ có các linh mục, tu sĩ, các vị thừa sai… mới được giảng đạo, còn giáo dân thì chỉ việc nghe và chấp hành. Công việc truyền giáo cũng ví như các cành nho (Ki-tô hữu) hút nhựa từ thân cây nho (Đức Giê-su Ki-tô) và có bổn phận phải trổ sinh hoa trái. Chính vị sứ giả truyền giáo vĩ đại Giê-su Ki-tô cũng nhiều lần răn dạy môn đệ: “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào rầm rộ, không phô trương khua múa, khoe khoang thành tích; mà là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng.
Như vậy truyền giáo có thể là dùng lời nói, mà cũng có thể dùng việc làm, nhưng tốt hơn cả là kết hợp chặt chẽ giữa lời nói với việc làm, hoặc nói cách khác là truyền giáo bằng chính cuộc sống chứng nhân của một Ki-tô hữu đích thực. Như thế thì đừng lo mình không có khả năng nói, giảng, thì không truyền giáo được. Bởi vì và trên tất cả, truyền giáo tuỳ theo phẩm trật trong Giáo hội, đồng thời cũng tuỳ thuộc vào đặc sủng do Thần Khí Chúa ban cho mỗi người (“Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.” – 1Cr 12, 4-7 ). Do đó, bất kỳ ai cũng có thể truyền giáo và truyền giáo bằng nhiều cách, nhiều phương thế khác nhau.
Từ khái niệm ấy, trở lại với bài Tin Mừng, sẽ thấy cả anh chàng Pha-ri-sêu và người thu thuế đều có thể truyền giáo được. Sẽ không có gì là mâu thuẫn hay nghịch lý, nếu anh chàng Pha-ri-sêu đã thực sự làm những việc đúng như anh nói (ăn chay tuần 2 lần, dâng Chúa 1/10 của cải thu nhập), anh làm với tất cả tâm tình mến Chúa yêu người, và không cần tới báo cáo hay khoe khoang thành tích (và đặc biệt hơn cả là tuyệt đối không “làm láo, báo cáo hay”!). Còn người thu thuế? Tuy rằng anh không giảng đạo, không làm chứng gì cả, nhưng anh đã biết nhìn lại con người tội lỗi của mình mà cầu xin lòng thương xót của Chúa. Như vậy là anh đã sống đúng với lời giáo huấn của vị sứ giả truyền giáo vĩ đại Giê-su Ki-tô, và như thế là anh đã truyền giáo rồi vậy (“Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là biểu lộ hoặc bày tỏ ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần thế và trong lịch sử thế trần, chính trong lịch sử này mà Thiên Chúa hoàn thành lịch sử cứu rỗi một cách rõ rệt nhờ việc truyền giáo.” – SL Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 9).
Khi nói về Truyền giáo, Thánh GH Gio-an Phao-lô II đã nhấn mạnh: “Chúng ta không thể rao truyền Phúc Âm cho người khác, nếu trước tiên ta không rao truyền Phúc Âm cho chính mình, nếu chính chúng ta không phải là đối tượng của công cuộc rao truyền ấy.” (Thông điệp Sứ mệnh Đấng Cứu Chuộc “Redemptoris Missio”, số 87). Nói cách khác, rao truyền Phúc Âm chính là công cuộc Phúc-Âm-hóa, mà Phúc-Âm-hóa là phương cách biến đổi con người theo Phúc Âm, làm sao để có thể “trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô” (Pl 3, 10). Vâng, “Mục tiêu của Phúc-Âm-hoá là dẫn mọi người vào cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giê-su Ki-tô, trong Thánh Thần, nhờ đó gặp gỡ Thiên Chúa Cha của Người, cũng là Cha của chúng ta, và để đời sống mình được biến đổi theo tinh thần Phúc Âm.” (Thư Chung 2013, số 3). Một cách cụ thể, chính cuộc đời người Ki-tô hữu phải được biến đổi theo Phúc Âm, phải được củng cố và làm mới lại đức tin của bản thân, nhiên hậu giúp những anh chị em đã xa rời đức tin tái khám phá vẻ đẹp và ánh sáng đức tin.
Tóm lại, nếu anh có làm được một vài công việc mưu ích cho tha nhân, cho đời, thì cũng đừng vội lên mặt tự hào phô trương; và nếu anh có được Thiên Chúa ban cho một cuộc sống tương đối cả về thể chất lẫn tinh thần ở trần thế này, thì cũng đừng vội tự hào cho rằng mình là người công chính, mà hãy thành khẩn nhìn nhận khiếm khuyết của mình trước Thiên Chúa, trước anh em, như người thu thuế đã làm. Tắt một lời, với khả năng và trong hoàn cảnh cụ thể của anh, anh hãy sống và làm việc theo giáo huấn của Đức Ki-tô (mến Chúa yêu người), biến đổi con người của mình theo Phúc Âm để trở thành “muối, men và ánh sáng” cho đời.
Ôi! “Lạy Chúa, Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, xin hãy nhìn đến cánh đồng đầy lúa chín và đoái thương sai thợ gặt đến rao giảng Phúc Âm cho muôn loài, để dân Chúa được lời hằng sống qui tụ và được thần lực các bí tích thúc đẩy, biết tiến bước trên đường cứu độ và bác ái. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Lễ Khánh nhật Truyền giáo).
.
CẦU NGUYỆN KHIÊM TỐN CHÂN THẬT
Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Bài đọc Chúa nhật tuần này vẫn trở lại với chủ đề cầu nguyện và thái độ cần thiết khi cầu nguyện. Không những Chúa Giêsu nhắc nhở cần kiên trì cầu nguyện, người còn nhắc nhở thái độ cần thiết là phải khiêm nhường và chân thành, tránh thái độ kiêu căng khoe khoang bởi vì Thiên Chúa thấu suốt lòng dạ con người và yêu thương những ai chân thành khiêm tốn. Kiêu căng khoe mình là tật xấu làm cho người ta không nhìn biết rõ thực trạng của mình mà chỉ thấy điều tốt đẹp của mình và coi thường người khác. Thái độ của người Pharisiêu trong câu chuyện Tin mừng hôm nay là một thái độ tiêu biểu của những người kiêu căng mà Chúa Giêsu cảnh giác. Người Pharisiêu này là người đã thực hành những việc đạo đức và khi ra trước mặt Chúa để cầu nguyện, ông cảm thấy tự hào để kể ra những việc mình đã làm và từ đó phê phán những người thu thuế là người tội lỗi.
Câu chuyện Tin mừng cho thấy cách cụ thể tại sao có những người cầu nguyện không được nhậm lời và có những người cầu nguyện được nhậm lời. Không phải vì Thiên Chúa khó khăn hà khắc yêu sách, không muốn nhậm lời cầu nguyện của người xin, nhưng vì Thiên Chúa là Đấng rất chân thật, nhìn thấy tận thâm sâu trong tâm hồn và muốn nhậm lời cầu xin của người thực sự khiêm nhường. Người Pharisiêu trong câu chuyện có thể rất chủ quan, chúng ta có thể hình dung ông như một người “hassiđim” mà người ta thường gặp đang đứng cầu nguyện quay mặt vào bức tường gọi là “tường than khóc”. Họ thường làm việc vừa đủ để nuôi sống mình và gia đình, còn lại dành thời gian để học hành lề luật. Câu chuyện nói người Pharisiêu đứng cầu nguyện và ca tụng Chúa, ông giữ luật rất cẩn thận và tuân giữ ngay cả những điều cấm của lề luật, ngay cả ông đã thực hành điều mà ít người có thể làm được: ăn chay một tuần hai lần, dâng cúng một phần mười hoa lợi, làm phúc bố thí nhiều. Thế nhưng, có điều này làm cho lời cầu nguyện của ông không được nhậm lời là thái độ tư cao cho mình là người công chính trước mặt Chúa và khinh dễ phê phán người khác. Ông đứng thẳng và thưa với Chúa “con cảm tạ Chúa vì con không như những người khác, gian tham, ngoại tình, bất công”. Trong khi đó, người thu thuế có thể là người giàu có, làm việc cộng tác cho người Rôma đang chiếm đóng xứ do thái, gian lận tiền thuế của dân chúng để lấy làm của riêng. Thường người thu thuế bỏ nhiều tiền để mua chức vụ, và sau đó ông lấy lại bằng cách áp thuế cao cho người khác. Ông bị mọi người khinh ghét vì thói tham lam của mình. Thế nhưng, ông lại có điều gì đó khiến Thiên Chúa nhậm lời cầu nguyện của ông: ông đứng đằng xa, không dám ngước nhìn lên Chúa, đấm ngực sám hối và van xin thành thật xin Chúa thương xót. Sự khác biệt giữa hai thái độ cầu nguyện của hai con người tiêu biểu này là thế. Một người Pharisiêu đạo đức, làm nhiều việc đạo đức và việc lành lại không được nhậm lời vì ông đã quá tự cao, tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác; trong khi đó người thu thuế tội lỗi lại được nhậm lời vì tấm lòng sám hối chân thành của ông.
Người biệt phái ra về không được nhậm lời vì cách cầu nguyện của ông không phù hợp. Thực ra ông không cầu nguyện mà đây là dịp để ông khoe khoang, kể công trước mặt Chúa và phê phán người khác, như thể là ông không hề phạm tội gì cả. Ông tự cho mình là người công chính và tin tưởng mình đã sống cuộc đời hoàn hảo không có gì đáng chê trách được. Trong khi đó người thu thuế tội lỗi lại biết chân thành nhìn nhận những tội lỗi của mình, nhận thấy mình đã hành động xấu xa tội lỗi và van xin lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa để giúp ông biết sám hối và thay đổi đời sống. Ông không hề dám khoe mình và phê phán ai, chỉ biết chân thành nhìn nhận tội lỗi và đặt lòng tin tưởng vào ơn Chúa tha thứ và đổi mới.
Câu chuyện cũng soi sáng về cung cách sống và cách suy nghĩ. Chúng ta dễ có quan niệm của những người Pharisiêu, nghĩ rằng công chính là chu toàn đầy đủ lề luật, đọc kinh cầu nguyện đầy đủ, chu toàn mọi việc bổn phận đạo đức. Nhưng theo quan niệm Thánh Kinh, công chính là người biết sống theo thánh ý Thiên Chúa, biết cư xử theo Lời Chúa soi sáng hướng dẫn và trong đời sống cầu nguyện, người công chính luôn biết cầu nguyện để điều chỉnh cuộc đời và cách sống của mình theo thánh ý Thiên Chúa. Điều trọng tâm trong câu chuyện này là tấm lòng khiêm nhường chân thật, nhìn thấy những thiếu sót của mình và xin Chúa ban ơn để sửa đổi đời sống cho phù hợp theo thánh ý Thiên Chúa. Người thu thuế không tự lừa dối mình để rồi chìm ngập trong tội lỗi gian tham, thu vén của cải nhưng ông đã biết sáng suốt tự xét mình cách chân thật. Có thể hoàn cảnh bị những người khác xa tránh và khinh ghét làm cho ông nhận thấy được bộ mặt xấu xa của mình rồi cố gắng sửa đổi. Còn người Pharisiêu được mọi người kính trọng do bởi những việc đạo đức của mình làm ông hài lòng với đời sống đạo đức và do đó không còn cần đến lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Người thu thuế nhận thấy rằng mình đã tham lam thu vén, nghĩ nhiều quá cho bản thân và gia đình mình đến độ gây thiệt hại cho người khác, nên ông thành thật sám hối để rồi cố gắng sửa đổi: cầu nguyện cũng là biết nhìn nhận những tội lỗi của mình, chưa cố gắng để hy sinh bản thân mà nghĩ đến tha nhân.
Trong truyền thống khôn ngoan của người do thái qua sách Huấn ca, dân Chúa đã được huấn luyện cho biết kiên nhẫn cầu nguyện với thái độ đúng đắn. Thiên Chúa của họ là Thiên Chúa sẵn lòng nghe lời cầu nguyện của những người nghèo, những người bị áp bức bất công trong xã hội. Những người bị áp bức bất công không biết cậy dựa vào ai, nhưng chính Thiên Chúa là Đấng nghe lời cầu nguyện của họ, và trong những hoàn cảnh đau khổ, họ hãy tin tưởng và trình bày với Chúa, Chúa sẽ lắng nghe lời họ và sẽ mau mắn đến cứu giúp họ. Trong bức thư gửi Timôthêu, thánh Phaolô đã gửi gấm những lời tâm sự và xác tín cuối cuộc đời rao giảng của mình. Người luôn xác tín vào Thiên Chúa là Đấng sẽ ban thưởng cho người vì người đã trung tín phục vụ cho công việc rao giảng Tin mừng suốt cuộc đời của mình, bất chấp mọi gian lao khốn khó. Người xác tín rằng qua cuộc đời phục vụ việc rao giảng Tin mừng, dù cho có bị người đời bỏ rơi hay bách hại, thì Thiên Chúa luôn là Đấng bênh vực người và nhất là ban tặng cho người triều thiên chíến thắng vinh quang. Phaolô là hình ảnh của người cầu nguyện chân thực, đã đạt được hiệu quả của lời cầu nguyện nhờ luôn sống chân thành với Thiên Chúa dù cho mọi hoàn cảnh khó khăn và bị mọi người bỏ rơi. Thiên Chúa là Đấng nhận lời cầu nguyện của những người chân thành tin tưởng.
.
Lm. Jos. DĐH.
Có những cuộc hẹn để hợp đồng, thỏa thuận, ký kết làm ăn, cuộc gặp gỡ đó họ chỉ mong thể hiện được bản lĩnh trước đối tác, thế là đủ. Người người nhà nhà đem tiền mua sắm chi tiêu là bình thường, còn làm gì để túi tiền không vơi không cạn, đó mới là vấn đề ta nên suy nghĩ cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Có những điểm hẹn nhằm mục đích diễn tả niềm tin tôn giáo, nơi mà ngưới ta tìm kiếm bình an và niềm vui rất thiêng liêng. Trong cuộc sống cũng có nhiều cuộc gặp, giải tỏa được những căng thẳng, bồi bổ tình yêu thương, hoặc giúp thay đổi được tâm tính đáng trân trọng.
Không đánh mà khai, hay vạch áo cho người xem lưng, đó có phải là những câu thành ngữ nói về tình cờ, vô tình, khiến ta phải khổ, ví như : cái miệng hại cái thân ? Nếu không, đâu đến nỗi người ta phải chịu oan, phải ngậm bồ hòn làm ngọt ! Có nhiều kế hoạch được chúng ta “cài đặt” trước, có nhiều chương trình tự phát bởi những tương quan xã hội, mời gọi ta chia sẻ với người túng thiếu, an ủi kẻ âu lo phiền muộn. Kitô giáo chúng ta còn ngầm nhắc tới một điểm hẹn là tình yêu, nơi không phải chỉ để “trút bầu tâm sự”, mà còn để giúp tâm hồn người ta giãi bày với Đấng mình tin thờ, gọi là cầu nguyện.
Chúa Giêsu diễn tả điểm hẹn rất cụ thể qua hai đối tượng lên đền thờ cầu nguyện, vừa có ý thức tỉnh bạn đừng lầm tưởng mình công chính, vừa khích lệ bạn đừng ngã lòng vì tội lỗi nặng hay nhẹ của mình. Người Tín hữu hàng ngày hàng tuần đến nhà thờ cầu nguyện đâu có gì lạ, nhưng chúng ta dâng lễ nguyện cầu thế nào, hẳn còn tùy vào tâm trạng vui buồn, công việc thuận lợi hay bất trắc ? Nếu đến cầu nguyện gặp Chúa với niềm tự hào vì ta được gọi là Kitô hữu thì không có gì đáng trách, nhưng tự mãn vì ngộ nhận mình là người công chính, đúng là bất thường.
Dụ ngôn cho thấy người biệt phái và người thu thuế đều có chung một điểm hẹn, đó là cầu nguyện, đặt mình trước Đấng toàn năng, dù là “đạo hình thức” hay “đạo tại tâm” đều sai hết. Lầm lạc của người biệt phái là biến cuộc gặp của ông thành buổi kể lể công trạng. Bất ổn của người thu thuế là chưa thể hiện được đức công bình yêu thương, thái độ của ông còn ẩn chứa nhiều ngờ vực, thương hại khác thương xót. Sống ở đời vẫn đầy những phức tạp, được duyên dáng xinh đẹp là mơ ước của người con gái, ấy vậy mà Cụ Nguyễn Du lại cho rằng hồng nhan bạc phận, hoặc chữ tài chữ mệnh, khéo là ghét nhau ! Đạo đức, tài giỏi, dễ kiêu căng ; thiếu đức, thiếu tài, dễ mặc cảm tự ti.
Điểm hẹn của mỗi chúng ta hiện đang ở đâu ? ở công danh sự nghiệp, ở bàn thờ gia đình hay bàn thờ giáo xứ ? Dù ở đâu hoàn cảnh nào, đích điểm của chúng ta là phải có Chúa, có tình yêu thương trong các tương quan nơi cuộc sống, nếu không tài năng đức độ của ta cũng vô ích mà thôi. Có phải chúng ta thường không mấy phấn khởi về tinh thần sống đạo của các biệt phái ? Chúng ta lại dễ có thiện cảm với người thu thuế, phải chăng theo gương sám hối, khiêm tốn đứng xa xa Chúa mà than thở đám ngực như người tội lỗi dễ hơn ? Chúa Giêsu không lên án tinh thần đạo đức của người biệt phái, có chăng thì Chúa lên án thái độ tự kiêu, tự mãn, tự cho mình có quyền xét nét anh em. Chúa Giêsu không bình luận hay nhận xét về nghề thu thuế, Ngài khen tinh thần khiêm tốn, thống hối, biết nhận ra mình tội lỗi, cần được thứ tha.
Nói theo lẽ tự nhiên, ai cũng có quyền kiếm tìm hạnh phúc, ai cũng được tự do tới điểm hẹn cầu nguyện, mọi người đều bình đẳng như nhau : hơn nhau tấm áo manh quần, thả ra bóc trần ai cũng như ai. Con người yếu đuối tội lỗi, con người khao khát tìm kiếm bình an, mơ ước được trọn vẹn tình yêu thương của Chúa, không có gì sai cả. Nếu ở đời, người thành công là người sở hữu được tiền của danh vọng, thì trong đời sống siêu nhiên, người thành công là người có niềm vui bình an, có tình Chúa, tình người trong các tương quan. Điểm hẹn cầu nguyện gặp gỡ Chúa chỉ có giá trị, khi người biệt phái, người thu thuế, và người tín hữu hôm nay, chúng ta cùng ý thức chu toàn bổn phận, sống giáo huấn yêu thương, để được Chúa dẫn dắt trở nên công chính.
Trong tương quan xã hội, chẳng mấy ai vui khi phải thở than câu thành ngữ : có tiếng mà không có miếng. Trong cầu nguyện, thiếu khiêm tốn, thiếu lòng thành, thì ăn chay giữ luật, đọc kinh thật nhiều cũng chỉ là lý thuyết, là môi mép chứ không phải là tạ ơn. Phủ Đổng Thiên Vương, cần phải có ngựa sắt, áo giáp, roi sắt để đi đánh giặc Ân. Anh em nhà Tây Sơn đầy mưu lược, nhưng họ phải nhờ đến chí khí anh hùng dân tộc, đồng tâm đồng lòng đánh đuổi quân nhà thanh, họ mới dành được thắng lợi. Người thu thuế không phải tự mình mà biết đấm ngực sám hối, ông ta phải có một quá trình nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa qua những anh chị em đạo đức sống chung quanh. Điểm hẹn của mỗi người tín hữu chúng ta là niềm vui, bình an trong tình yêu Chúa và tha nhân, xin cho tâm tình cầu nguyện gặp Chúa mỗi ngày, cũng sẽ là tâm tình sẻ chia giúp nhau cùng đạt tới hạnh phúc thật. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
“Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” là một giáo huấn rất quan trọng nên thường được Chúa Giê-su đề cập nhiều lần trong Tin mừng dưới nhiều hình thức (Lc 18,14. Lc 14, 7-11. Mt 23,12)
Lần nầy, để minh hoạ cho bài học của mình, Chúa Giê-su nêu lên hai nhân vật: Người biệt phái và người thu thuế.
Người biệt phái rất tự phụ, vênh vang, phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”
Quả là ông nầy có nhiều thành tích tốt lành ít ai bì kịp. Thế nhưng ông không nhận được ơn lành của Thiên Chúa vì ông ta như chiếc bình đầy tràn, đầy kiêu căng tự phụ, nên chẳng còn chỗ cho Chúa rót ân sủng vào.
Trong khi đó, người thu thuế vốn biết thân biết phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”
Anh nầy đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng thống hối khiêm cung và khao khát được Chúa tuôn đổ ơn tha thứ… nên anh đã được Thiên Chúa rót đầy tình yêu thương và sự thứ tha.
Với dụ ngôn nầy, Chúa Giê-su ghi sâu bài học đáng nhớ nầy vào tâm khảm chúng ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 18,14)
Mẹ Maria cũng đã cảm nghiệm được bài học quý báu nầy và nhắc nhở chúng ta: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngài nâng cao những kẻ khiêm nhường.” Chúa làm như thế không phải vì Chúa thiên vị người nầy, chê bỏ kẻ kia, nhưng vì, cũng như người ta không thể rót thêm nước vào một ly đã đầy tràn, thì Thiên Chúa cũng không thể rót thêm ân sủng cho những tâm hồn đầy kiêu căng tự mãn.
Đầy thì đổ
Một hôm khi cùng với học trò vào thăm miếu của vua Hoàn Công, nước Lỗ, Đức Khổng Tử thấy có cái lọ đứng nghiêng. Ngài nói với môn sinh: Ta nghe nói vua Hoàn Công có một vật quý để răn dạy người đời. Đó là một chiếc lọ đặc biệt, khi để trống không thì nghiêng, khi đổ nước vào vừa phải thì đứng; nếu đổ đầy nước vào thì lọ đổ nhào. Không rõ vật ấy có phải là cái lọ nầy không?
Rồi ngài sai học trò đổ nước vào thử xem. Quả thật, mới đầu lọ đứng nghiêng, khi nước được rót vào được một nửa, thì chiếc lọ chuyển sang vị thế đứng thẳng; rồi cứ đổ tiếp cho đầy tới miệng thì lọ đổ nhào.
Người đông phương ngày xưa khôn khéo tạo nên chiếc lọ đặc biệt như thế để ghi khắc vào tâm khảm người đời bài học khiêm tốn, bài học trung dung, một cách ấn tượng.
Còn người phương tây cũng diễn tả nội dung đó qua một ngạn ngữ khá phổ thông: “virtus in medio – nhân đức nằm ở mực trung.” Người nhân đức là người biết sống trung dung, không bất cập mà cũng không thái quá.
Bởi vì bất cứ điều gì quá dư đầy phải sụp đổ.
“Mặt trời đứng bóng rồi phải xế,
Mặt trăng tròn đầy rồi sẽ khuyết,
Vật gì thịnh lắm rồi cũng phải suy.” (Thái Trạch)
Thế nên, Lão tử khuyên chúng ta:
“Thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu,
Dũng lực chấn thế, thủ chi dĩ khiếp.”
Bậc thông minh uyên bác thì nên giữ mình bằng khiêm nhường, nhận rằng mình còn nhiều điều chưa biết; bậc anh hào có sức mạnh chấn động thế giới hãy biết bảo trọng bằng cách sống như người nhát sợ…
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa dạy chúng con chớ dại dột nâng mình lên vì “hễ ai nâng mình lên sẽ phải bị hạ xuống” như trường hợp người biệt phái trong câu chuyện trên đây, cũng đừng tranh dành chỗ quan trọng (như trong dụ ngôn bữa tiệc) kẻo có ngày chủ nhà sẽ mời xuống chỗ cuối. (Luca 14, 7-11.)
Xin cho chúng con biết khiêm nhường như Chúa để được rót đầy ân sủng và yêu thương.
.
LẠY CHÚA, XIN THƯƠNG XÓT CON LÀ KẺ TỘI LỖI
P. Trần Đình Phan Tiến
Kính thưa quý vị, Truyền giáo là cánh tay nối dài của ơn Cứu Độ. Vâng, có nhiều định nghĩa , nhưng, định nghĩa sau cùng là định nghĩa đúng nhất.
Vâng, con xin chia sẻ hơi ” mạnh miệng “một chút xin quý vị tha thứ. Theo lệnh truyền của Đức Kitô có nghĩa là ĐẤNG CỨU THẾ, thì việc truyền giáo là trách nhiệm của những ai muốn bước theo Người. Từ đó, suy ra việc truyền giáo là “bổn phận và trách nhiệm “ của Giáo Hội. Giáo Hội Chúa Kitô là Giáo Hội Truyền giáo.
Ý thức rõ và cao độ về trách nhiệm của mình, Đức Thánh cha Phanxico ban hành Thông Điệp về truyền giáo từ năm 2015 : “Chung tay loan báo Tin Mừng ra những vùng ngoại vi “, mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đang triển khai trên Giáo Hội Việt Nam. Đặc biệt năm truyền giáo 2016 nầy làm nền tảng cho việc tái xây dựng lại công cuộc truyền giáo TRỰC TIẾP từ Đức Kitô.
Mỗi giai đoạn, mỗi biến cố thời gian có khác nhau, nhưng bản chất truyền giáo của Giáo Hội không thay đổi. Mỗi vị giám mục Việt Nam nói riêng có cách nhìn, cách làm, cách hành động khác nhau, nhưng cùng một mục đích duy nhất là : “Thực Thi Lệnh truyền của Chúa GIÊSU” là :TRUYỀN GIÁO.
Vậy , ý nghĩa thiết thực của việc truyền giáo là : Nói về Chúa cho mọi người, Trong đó, theo Hước dẫn cụ thể của Giáo Hội, tính cách vĩ mô, như theo Đức thánh Giao Hoàng Gioan Phaolo II thì có 5 đối tượng để được truyền giáo.
Thứ nhất : Những người chưa biết Thiên Chúa, chưa từng được nghe nói về Thiên Chúa.
Thứ hai : Những người chống đối , ghét Đạo Công giáo.
Thứ ba : Những người bỏ đạo, chối Chúa ( thành phần nầy được gọi là tái rao giảng Tin Mừng cho họ ).
Thứ tư: Thành phần nghèo khổ của xã hội, bệnh tật, thất học, trẻ em bui đời , phạm pháp, tù nhân, dĩ điếm , ma cô, mắc bệnh hiểm nghèo, mà xã hội gọi là ”tệ nạn “ ( bị xã hội bỏ rơi, hoặc lên án)
Thứ năm : Thành phần khác tôn giáo, trí thức vô thần, cụ thể tại Việt Nam là những người đảng viên , những người từng nhận biết Thiên Chúa , nhưng vì hoàn cảnh đã bỏ đạo.
Vâng, truyền giáo ngày nay có nhiều khó khăn và thách đố hơn, vì mỗi giai đoạn lịch sử có những thách đố khác nhau. Nhưng , như lời thánh Phaolo nói : “Anh em hãy rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô trong lúc thuận tiện, cũng như lúc bất tiện “.
Vâng, nhưng Lời Chúa được chọn đọc trong Thánh Lễ Khánh Nhật Tuyền Giáo hôm nay không có lời nào liên quan đến truyền Giáo.
Điều nầy nhấn mạnh đến “ con chỉ là đầy tớ vô dụng”. Vâng, quả thật là như thế, vì bao lâu công việc truyền giáo không biết tháp nhập vào Đức Kitô, thì việc truyền giáo ấy coi như “ hỏng “.
Chúng ta liên tưởng đến người “ đạo đức “ trong trang Tin Mừng hôm nay, ông ta cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha, nhưng ông ấy kể công như người làm công. Ông ta không biết rằng , những công đức của ông ta mà ông ta nhận được đó là do Lòng Thương Xót của Cha ông ta là Thiên Chúa toàn năng, Đấng dựng nên trời đất đó sao ?
Vâng, thưa quý vị, chúng ta phụng sự Thiên Chúa vì Ngài yêu thương chúng ta, chứ Ngài không dùng “công đức “ của chúngg ta để “mưu ích” cho Ngài. Khi chúng ta tôn thờ Thiên Chúa một cách thành tín, chính là lúc chúng ta đang nhận được đầy tràn ân sủng trong Thánh Thần. Vì thế, khi chúng ta cầu nguyện chính là lúc chúng ta được diễm phúc gắn kết với Thiên Chúa, và như Lời Chúa Giêsu nói : “ Ta là Cây nho thật, … các anh em là cành nho, cành nào kết hợp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái… “ ( Ga 15, 1 -17)
Vâng , và như vậy, căn cứ vào Lời của Chúa Giêsu, sứ mạng Truyền Giáo của Giáo Hội chính là “kết hợp vào Cây Nho Giêsu” để sinh hoa trái, chứ không phải để lập công.
Hai người lên đền thờ cầu nguyện trong trang Tin Mừng hôm nay, phản ánh thực trang của người Pharisieu và hình ảnh người thống hối. Vì trước nhan Thiên Chúa không ai vô tội, công trạng khi chúng ta lam được , chính là ân huệ nhưng không bởi Thiên Chúa. Nên chi, Ngài không cần công trạng của chúng ta , mà Ngài chỉ muốn LÒNG THƯƠNG XÓT của Thiên Chúa được thực thi. Thiên Chúa không muốn của lễ, nhưng chỉ đòi lòng nhân.
Vậy, Khánh Nhật Truyền giáo, chính là thời gian nhìn lại chúng ta có đang “kết hợp” với Chúa Giêsu hay không? Nếu, chúng ta đang kết hợp với Người, mặc nhiên chúng ta sẽ ”trổ sinh hoa trái”. Vậy, việc truyền giáo chính là : “trổ sinh hoa trái trong Đức Kitô ”. Vì, Truyền Giáo là đem Chúa đến với tha nhân, nếu chúng ta không có Chúa Giêsu, thì làm sao trao Chúa Giêsu cho người khác.
Vậy, theo con, cách truyền giáo tốt nhất và dễ có hiệu quả, đó là hình ảnh “Cây Nho Thật Giêsu” ( Ga 15, 1-17).Vì ngoài Chúa Giêsu ra không ai có thể đến được với Thiên Chúa là Cha, cũng vậy, Chúa Cha là “Người trông Cây Nho thật Giêsu” sẽ cắt tỉa những cành nho không sinh trái.
Biển truyền giáo thì mênh mông, nhưng LÒNG THƯƠNG XÓT của Thiên Chúa thì lớn hơn công cuộc truyền giáo. Mong thay !
Lạy Chúa Giêsu, Đấng là Cây Nho Thật, xin thương ban cho những ai bước theo Người được sinh hoa kết trái dồi dào, nhờ được tháp nhập vào Người là cây Nho Thật, bởi chính Chúa Cha là Người trồng Cây Nho ấy , hầu sinh trái sum suê như Thánh Ý Chúa. Chúng con cầu xin Nhờ Đức Kitô – Giêsu ./. Amen.
.
Dã Quỳ
Chúng ta đang sống giữa một thế giới mà con người đang cạnh tranh nhau về chỗ đứng và quyền lực. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Muốn mình giàu có hơn, tài giỏi hơn, quyền thế hơn và nổi nang hơn. Nhiều khi chẳng giỏi hay không giàu nhưng vẫn tỏ ra và tự cao tự đại cho mình hơn người, khoa trương, đánh bóng và thổi phồng sự thật. Đó là thói kiêu căng tự mãn ở đời! Dù thế, người ta chẳng ưa thích gì những kẻ kiêu ngạo nhưng lại dễ mến người khiêm nhường và dễ gần người hiền lành biết mình, như câu chuyện trong sách Trang Tử thuật cho chúng ta về hai nàng hầu:
Nhà kia nơi nước Tống có hai nàng hầu, một đẹp một xấu. Một hôm Dương Chu đến trọ, quan sát và nhận thấy trong nhà ai cũng quí yêu nàng hầu xấu mà khinh thường nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu gọi hỏi cậu bé trong nhà, cậu ta trả lời:
– Nàng hầu đẹp kia tự cho mình là đẹp và khinh chê nàng hầu xấu nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy nét đẹp của nàng nữa! Còn nàng hầu xấu tự biết mình là xấu mà khiêm nhu kính trọng mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng.
Dương Chu liền gọi môn sinh đến và dặn: Các con nhớ ghi lấy bài học này. Giỏi hay đẹp mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi và đẹp thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu mến, tôn trọng.
Cũng vậy, trong Tin Mừng hôm nay, nhân việc Chúa Giêsu thấy “một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác“, Người đã dạy chúng ta bài học khiêm nhường qua dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế.
Hai người cùng lên đền thờ và dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện cá nhân. Người Pharisiêu nhìn mình, nhìn những công trạng, những việc làm của mình và tự mãn. Anh ta chỉ thấy đó là công sức của mình và cho là đã đủ, đã tốt. Anh ta như chiếc bình đầy kiêu ngạo do thổi phồng mình lên! Còn người thu thuế nhìn mình, thấy mình tội lỗi, bất xứng! Anh không dám ngước mắt nhìn lên Thiên Chúa nhưng chỉ biết đấm ngực thống hối. Anh như chiếc bình rỗng, chỉ chờ mong ân huệ và lòng xót thương của Chúa tuôn đổ vào để tha thứ và thánh hóa anh nên công chính. Anh cầu nguyện với lòng thành khẩn “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi“, như người khó nghèo cầu nguyện trong cơn quẫn bách “Lạy Chúa, xin lắng tai và đáp lời con, vì thân con nghèo hèn túng quẫn.“(Tv 85,1).
Thiên Chúa lắng tai nghe lời của kẻ nghèo hèn dâng lên Ngài với lòng khiêm nhượng, nhìn nhận, và xưng thú tội lỗi của mình, vì “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.“(Gc 4,6) Thiên Chúa-Đấng giàu lòng thương xót chỉ lắng tai nghe lời kẻ cầu khẩn lòng thương xót. Ngài không nghe những lời của kẻ nâng mình lên, tự phụ, cậy sức mình, nghĩ mình chẳng còn thiếu những việc tốt lành nào mà không làm.
Người Pharisiêu đã thực hiện những việc đạo đức, ăn chay, dâng cúng vào nhà thờ hay không làm điều xấu. Điều đó thật tốt và đáng noi theo. Thế nhưng, anh ta tự cho mình là công chính nhờ những việc anh ta làm, kể lể trước Thiên Chúa và so sánh, khinh chê người khác không tốt như mình “Tạ ơn Chúa vì con không như tên thu thuế kia...” Người ta được nên công chính không phải do việc làm mà do lòng tin và ân sủng của Chúa, như lời thánh Phaolô nói “…Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính.“(Rm 4,4-5)
Đứng trước Thiên Chúa, con người chúng ta chỉ là những tội nhân khốn khổ nghèo hèn. Ta phải biết chân nhận thân phận con người đầy bất toàn, giới hạn và yếu đuối. Ta làm được gì cũng là nhờ ân sủng và sức mạnh từ Chúa, như lời thánh Phaolô khẳng định: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?“(1Cr 4,7) Vì thế, như anh thu thuế, chúng ta hãy biết nhìn nhận con người thật của mình, cầu nguyện với lòng khiêm nhường sám hối, cậy dựa vào lòng thương xót và kho tàng ân sủng của Thiên Chúa “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây…cho đến khi Đấng Tối Cao đoái nhìn” (Hc 35,17-18) Chắc chắn lời cầu nguyện khiêm nhường của chúng ta sẽ được Chúa lắng nghe và nhậm lời, vì Người thấu suốt những đau khổ nơi tâm hồn ta.
Qua dụ ngôn này, chắc hẳn Chúa rất muốn nói với chính chúng ta, cả những mục tử và từng Kitô hữu trong Hội Thánh. Thiên Chúa, Đấng Cao Cả, Chí Thánh; đến trước Ngài, chúng ta trần trụi, ô nhơ nên thái độ khiêm nhường và đấm ngực xưng thú tội lỗi phải là thái độ của mỗi Kitô hữu. Trong cầu nguyện hay nơi cuộc sống, người công chính thật thì chẳng bao giờ khoe khoang, nâng mình lên và chê bai người khác. Người thánh thiện thật thì mọi cử chỉ, lời nói, hành động đều mang đậm nét khiêm tốn, tôn trọng và nâng người khác lên. Trái lại, trong đời sống cộng đoàn giáo xứ, chúng ta thường thấy có những người mãi không lọt tai lời khiển trách nặng nề của Chúa với người Pharisiêu. Họ phô trương ngay cả những thực hành đạo đức như dâng lễ, cầu nguyện, ăn chay, bố thí… trước mặt thiên hạ. Họ chê bai người khác như để đạp lên người cho mình cao hơn.
“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Ước mong sao Lời Chúa hôm nay thấm đẫm trong mỗi chúng ta. Xin Tình yêu và ân sủng Chúa biến đổi chúng ta trở nên khiêm nhường, giúp chúng ta thật lòng thống hối về tất cả những lỗi phạm, kiêu căng tự phụ trong đời sống đạo, để rồi ta biết sống khiêm hạ trước Chúa và anh chị em. Có như thế, ta mới trở nên con cái của Cha và ngày càng nên giống Cha chúng ta là Đấng hoàn thiện.
Lạy Thiên Chúa, chúng con đang ở trước nhan Ngài, xin giúp chúng con nhận biết những yếu hèn và tội lỗi của chúng con. Lạy Chúa Giêsu, Con Yêu Dấu của Chúa Cha, xin thương xót chúng con! Lạy Chúa Kitô, Chúa đã mặc lấy xác phàm để cảm thấu thân phận mỏng dòn của chúng con, xin thương xót chúng con! Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng sự dữ và tử thần, xin thương xót chúng con!
.
KHIÊM HẠ CẦU NGUYỆN ĐỂ ĐƯỢC ƠN THA THỨ
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
(9) Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: (10) “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế”. (11) Người Pharisêu đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. (12) Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. (13) Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. (14) Tôi nói cho các ông biết: Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi. Còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Nhằm dạy bài học khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về hai người lên đền thờ cầu nguyện. Trong đó người Pharisêu đã kiêu ngạo khi cầu nguyện chỉ trích tha nhân và tự đề cao bản thân. Đang khi người thu thuế khiêm tốn xin Chúa tha tội và chỉ biết cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Cuối cùng Đức Giêsu kết luận: người Pharisêu kiêu căng sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống, còn người thu thuế khiêm hạ sẽ được Thiên Chúa tôn vinh.
– C 9-10: + Có hai người lên đền thờ cầu nguyện: Đền thờ là nơi người Do thái cầu nguyện. Người ta tụ tập ở Đền thờ vào các ngày Sabát, ngày Lễ, ngày Chay… để nghe đọc Thánh kinh, hát Thánh vịnh và cầu nguyện chung. Tuy nhiên mọi người đều có thể vào Đền Thờ cầu nguyện riêng khi mở cửa. +Một người thuộc nhóm Pharisêu: Đây là nhóm người tự tách mình ra khỏi quần chúng. Họ giữ Luật cặn kẽ chi tiết và thường tự hào cho mình là công chính. Tuy nhiên họ làm mọi điều tốt nhằm tìm tiếng khen hơn là vì lòng mến Chúa thực sự. Vì thế họ cố tình đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được chào hỏi ở nơi công cộng và muốn được dân chúng xưng hô là “Thầy” (Rápbi) (x. Mt 23,5-7). +Còn người kia làm nghề thu thuế: Đây là hạng người bị dân chúng đồng hóa với những kẻ tội lỗi và bị khinh dể xa lánh, vì đã cộng tác với chính quyền Rôma. Đồng thời còn tham lam, thường ăn chặn tiền thu thuế của người dân đóng góp để làm giàu cách bất chính.
– C 11-12: + Người Pharisêu đứng riêng một mình…: Pharisêu có nghĩa là tách biệt. Ở đây người Pharisêu đã tự tách ra khỏi những người Do thái khác khi đến cầu nguyện tại Đền thờ. + Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia…: Người Pharisêu này đã cầu nguyện phê phán người khác về các tội cụ thể như tham lam, bất công, ngoại tình hay tội làm đầy tớ cho ngoại bang như người thu thuế đang đứng cuối Đền thờ. + Con ăn chay mỗi tuần hai lần: Luật chỉ buộc người Do thái ăn chay vào lễ Xá Tội tức là ngày 10 tháng 7 hàng năm (x. Lv 16,29). Tuy nhiên, mỗi tuần những người Pharisêu còn tự nguyện ăn chay thêm hai ngày khác là thứ Hai và thứ Năm, và họ hãnh diện nghĩ mình đạo đức hơn người khác về việc này (x. Lc 5,33). + Con dâng cho Chúa một phần mưới thu nhập của con: Người Do thái công nhận Thiên Chúa đã ban lương thực cho mình, nên họ bày tỏ lòng biết ơn bằng việc dâng lên Chúa những hoa quả đầu mùa. Luật qui định phải nộp thuế “thập phân” (một phần mười), đánh trên các hoa màu như lúa mì, rượu mới, dầu tươi và cả những con vật đầu lòng trong đàn bò và chiên dê (x. Đnl 14,22-23). Ngoài ra họ còn tình nguyện nộp thêm phần thuế về các thứ rau quả khác nữa (x. Lc 11,42). Tóm lại, người Pharisêu này lên Đền thờ không phải để xin Chúa tha tội mà để khoe với Chúa về những điều tốt ông ta đã làm được hơn người khác để đòi Chúa phải trả công cho mình.
– C 13-14): + Còn người thu thuế thì đứng đàng xa…: Người thu thuế chỉ biết thú nhận những tội lỗi đã phạm. Ông cảm thấy xấu hổ nên không dám đến gần gian thánh, đứng cúi mình trước bàn thờ không dám đứng thẳng như người Pharisêu. + Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi: Ong ta chỉ biết đấm ngực ăn năn về các tội lỗi đã phạm và xin Chúa tha thứ tội lỗi như lời Thánh vịnh 50 của vua Đa-vít. Chính nhờ thái độ khiêm tốn ấy mà ông đã được Chúa ban ơn cứu độ. + Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên: Câu này đã có ở Lc 14,11 và được Luca thêm vào đây để kêu gọi người ta sống khiêm tốn dựa vào ân sủng của Thiên Chúa. Vì trong lịch sử Ít-ra-en, Đức Chúa thường hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu (x. Lc 1,25).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1) TẠI SAO MA QUỶ KHÔNG ĐƯỢC CHÚA THỨ THA ?
Một hôm có một tên quỷ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng: “Tôi thấy Chúa đối xử không công bằng chút nào!”. Chúa liền hỏi nó: “Tại sao ngươi lại dám bảo Ta đối xử không công bằng ?” Bấy giờ tên quỷ kia mới đáp: “Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội lỗi lớn lao, và chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban cho chúng hạnh phúc thiên đang đời đời. Còn chúng tôi chỉ phạm tội một lần duy nhất. Thế mà Chúa không những không tha mà còn phạt chúng tôi phải sa hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đã thiên vị và bất công lắm sao ?” Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói với tên quỷ rằng: “Loài người có phạm tội không vâng lời Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã sai phạm nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều hồi tâm sám hối và khiêm tốn chạy đến xin Ta tha cho. Còn lũ quỷ các ngươi, có bao giờ các ngươi chịu hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội hay chưa ?” Nghe thấy Chúa đòi hỏi phải ăn năn sám hối và cầu xin tha tội, tên quỷ liền thét lên rằng: “Lòai quỷ chúng ta không đời nào lại hèn hạ ăn năn sám hối và cũng không cần phải xin ai tha tội cả”. Nói thế rồi quỷ liền cong đuôi chạy mất.
2) PHẢI TRÁNH CÁI TÔI ÍCH KỶ:
Có một câu chuyện cho thấy con người thgường ích kỷ, chỉ nghĩ phần lợi cho mình hơn là cho Chúa và tha nhân; Một cậu bé kia trước khi đi dự lễ Chúa nhật, được mẹ tập thói quen ý thức trách nhiệm phải góp phần vào việc chung, bằng cách bà trao cho cậu hai đồng đôla bằng kim loại và nói: “Một đồng cho con ăn sáng, còn đồng kia con sẽ bỏ vào trong giỏ tiền thau nhà thờ trong giờ lễ để dâng cho Chúa”. Cậu bé nắm chặt hai đồng tiền trong bàn tay và đi bộ đến nhà thờ. Khi băng qua đường, cậu bị vấp trượt chân té ngã trên lề đường. Theo bản năng, cậu đã mở tay ra chống đỡ và hai đồng tiền vuột khỏi bàn tay: Một đồng nằm trên lề đường, còn đồng kia bị rơi xuống đường mương ven đường. Cậu bé liền nhặt đồng tiền lên và nhìn xuống đường mương tìm đồng tiền thứ hai nhưng không thấy vì đường mương tối thui. Một cuộc chiến nội tâm đã diễn ra trong lòng cậu. Cuối cùng cậu bỏ đồng tiền nhặt được vào túi, nhìn lên trời và nói: “Chúa ơi. Con rất tiếc, vì đồng tiền của Chúa hôm nay đã bị rơi xuống mương mất rồi!”
3) PHẢI SẴN SÀNG QUỲ GỐI XUỐNG VÀ KÊU XIN CHÚA MỚI ĐƯỢC ƠN THA THỨ:
Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn lên bức tượng một lúc rồi lắc đầu nói:
– Tôi nghe đồn bức tượng nầy nổi tiếng là rất đẹp, nhưng sao tôi nhìn mãi mà chẳng thấy có gì đẹp cả.
Bấy giờ một khách hành hương đang quì phía sau ông nói:
– Ông phải quì gối xuống mới có thể nhìn thấy vẻ đẹp của tượng Chúa.
Ông du khách liền quì gối xuống và bấy giờ ông đã khám phá ra vẻ đẹp nhân ái và lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.
Muốn gặp Chúa và nhận được ơn cứu độ của Chúa, mỗi người chúng ta cũng phải biết khiêm hạ quỳ gối xuống và mở miệng cầu xin Chúa tha tội như người thu thuế trong Tin Mừng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Khi nghe Đức Giêsu kết luận người thu thuế tội lỗi ra về được nên công chính, còn người biệt phái nhiều công đức thì không, chắc hẳn nhiều người hiện diện phải ngạc nhiên. Vì người biệt phái xem ra là người mẫu mực trong việc tuân giữ Lề Luật và không phạm phải các tội xấu xa. Ông ta còn làm nhiều hơn Luật dạy khi tự nguyện ăn chay và bố thí. Vậy tại sao Đức Giêsu lại không chấp nhận lời cầu của ông ta ? Tại sao Chúa lại ưu ái người thu thuế tội lỗi, ngay khi anh ta chưa từ bỏ cái nghề tồi tệ đó, và không đả động đến việc đền bù các thiệt hại đã gây ra cho tha nhân ? Chúng ta cân làm gì để diệt trừ thói kiêu ngạo tự ái cao và thực tập khiêm nhường phục vụ ?
1.Nguyên nhân khiến lời cầu của người biệt phái không được chấp nhận:
-Chúng ta phải thừa nhận rằng: Người biệt phái đây là một người tốt, một tín hữu trung thành với Lề Luật. Chỉ tiếc một điều là do tính tự mãn mà bao nhiêu việc tốt anh làm đươc đã bị trôi ra sông ra biển hết. Do cái tôi quá to, nên anh chỉ thấy con người của mình mà không thấy Chúa. Anh coi thành quả đạt được là do tài đức cá nhân, chứ không do ơn Chúa giúp. Giá như anh biết quy chiếu với Đức Giêsu, thì có lẽ anh đã nhận ra sự thiếu sót lớn lao của mình, để không dám khinh thường người khác, và sẽ biết cầu xin lòng khoan dung tha thứ của Chúa.
-Lời cầu nguyện của người biệt phái không được chấp nhận là do anh ta đã “đứng riêng một mình” và cầu nguyện huênh hoang. Nội dung lời cầu cho thấy sự khinh thường người khác và tự mãn về thành tích của bản thân và đòi được Thiên Chúa trả công: “Con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc, 8,11).
-Tuy nhiên, con người “nhân vô thập toàn”: Người Biệt phái cũng có các tội xấu như: tự mãn, kiêu căng, khinh thường tha nhân… Nhưng anh ta lại không ý thức về các tội đó. Anh ta không nhận ra mình cũng là tội nhân như người thu thuế mà anh khinh thường. Anh đã không nhận biết sự công chính có được là do Chúa ban do biết tín thác vào Chúa Giêsu như lời thánh Phaolô: “Tôi được như vậy không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do Luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3,9).
– Tóm lại, người Biệt phái đã không ý thức được rằng: Chê bai người thu thuế là anh ta đã gián tiếp cho mình là công chính. Nói xấu người thu thuế là anh đã tự cho mình tốt hơn. Lên tiếng phê bình chỉ trích người thu thuế là anh đã tự coi mình là đúng. Làm như thế là người Biệt phái đã tự làm hại mình, và không đáng được Thiên Chúa tha thứ như Đức Giêsu đã nói: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi. Còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
-Người thu thuế cảm thấy xấu hổ về tội lỗi của mình, nên chỉ dám đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời. Anh ta vừa đấm ngực vừa thưa với Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Anh ta cảm thấy mình bất lực và chỉ biết phó thác cho lòng Chúa thương xót. Chính nhờ tâm tình ấy mà Chúa đã đoái thương nhìn đến anh và ban ơn thánh giúp anh hoán cải nên công chính.
-Thái độ khiêm cung và lời cầu nguyện sám hối của anh thu thuế cho thấy anh đã mở cửa lòng đón Chúa. Chúa đã vào nhà linh hồn anh để ban ơn tha thứ và biến đổi anh nên công chính đẹp lòng Thiên Chúa. Nhờ ý thức về tình trạng tội lỗi của mình và thái độ khiêm tốn cúi đầu đấm ngực ăn năn và mở miệng nài xin Chúa thương, mà anh thu thuế đã được biến đổi nên công chính như lời Đức Giêsu: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
-Cần tránh lối cầu nguyện biệt phái: Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng có thái độ tự mãn như người biệt phái xưa đã thưa với Chúa rằng: “Xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác”. Nhiều lần chúng ta đã đổ lỗi cho người khác hơn là khiêm tốn nhận tội như lời kinh cáo mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Nhiều lần trong tòa xá giải chúng ta đã dài dòng kể tội của người thân trong gia đình hay tội của người hàng xóm đã phạm đến mình, đang khi lẽ ra phải khiêm nhường xưng thú tội lỗi đã phạm để được Chúa ban ơn tha thứ.
-Cần tập cầu nguyện khiêm hạ như người thu thuế: Người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay đã bày tỏ thiện chí và muốn được ơn thứ tha bằng việc lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy nhiên, anh cũng ý thức các tội lỗi của mình khó được Chúa tha, vì theo Luật Môsê: một người lỗi phép công bình muốn được tha thì trước hết phải thanh toán hết số nợ. Ngoài ra còn phải bồi thường thiệt hại cho chủ nợ thêm 1/5 nữa. Anh thu thuế này không có khả năng làm như thế. Dù vậy, anh đã không tuyệt vọng, mà đã biết cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Noi gương tác giả Thánh vịnh 50, anh đã nài xin Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Vì vậy anh đã được ơn Chúa tha thứ biến đổi nên công chính (x. Lc 18,14).
-Cần tránh thói kiêu căng tự mãn: Kiêu ngạo là thói xấu đứng đầu và hầu như mọi người chúng ta đều ít nhiều mắc phải. Đây là thói xấu nguy hiểm nhất và là mẹ phát sinh ra các thói hư khác. Người kiêu ngạo xem mình là trung tâm điểm thay thế Thiên Chúa. Anh muốn mọi người phải quan tâm phục vụ mình và luôn tạo ra hàng rào tách biệt với tha nhân… Kiêu ngạo phát sinh tự ái tự cao và dễ nổi giận khi có ai dám chê trách nói phạm đến mình. Đây cũng là thói xấu thâm căn khó chừa cải nhât. Tuy nhiên kinh “Cải tội bảy mối” cũng cho chúng ta một phương thế hữu hiệu để diệt trừ được thói hư này như sau: “thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Như vậy muốn loại trừ thói kiêu ngạo thì cần quyết tâm thực tập nhân đức khiêm nhường trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
–Cần thực tập đức tính khiêm nhường phục vụ: Ai trong chúng ta cũng đều yêu thích người khiêm tốn, nhưng rất ít người thực hành được nhân đức này. Thực ra khiêm nhường là can đảm nhìn thẳng vào con người thật của mình. Khổng Tử đã nói: “Cái gì biết thì nói biết, cái gì không biết thì nói không biết. Đó mới thật là biết vậy”. Khiêm nhường tự hạ, quên mình phục vụ luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện. Tất cả những tài năng, nhân đức sẽ gia tăng giá trị lên gấp bội nếu kèm theo đức khiêm nhường. Cũng như những số 0 (số không) dù nhiều tới đâu cũng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bằng một con số như số 1 chẳng hạn, thì lập tức những số 0 kia sẽ tăng giá trị gấp bội. Cần tập khiêm nhường bằng cách tránh nói ra các ưu điểm thành tích của mình và rộng rãi khen ngợi tha nhân. Cần luôn ý thức mình là người phục vụ qua câu nói: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?” rồi sau đó phục vụ họ cách chân thành và vô vụ lợi.
– LẠY CHÚA CHA TỪ ÁI. Trước Thánh Nhan Cha, chúng con chỉ còn biết noi gương người thu thuế mà thưa với Cha rằng: “Lạy Cha, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Thật vậy, đối với Cha, chúng con chỉ là hư không. Những việc tốt chúng con làm được cho Cha, xét cho cùng đều nhờ ơn Cha ban, và đòi chúng con phải luôn dâng lời tạ ơn Cha.
– LẠY CHA. Xin giúp chúng con ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Xin giúp chúng con tránh thói kiêu căng tự mãn của người biệt phái. Xin cho chúng con biết tôn trọng mọi người và không bao giờ dám tự mãn khoe khoang thành tích đã làm. Xin cho chúng con biết luôn cảm tạ Cha về những ơn lành của Cha. Xin cho cuộc sống của chúng con trở thành bài ca tạ ơn: khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi khỏe mạnh cũng như lúc đau ốm… Vì chúng con biết rằng mọi sự Cha để xảy đến cho chúng con đều là hồng ân của Cha và đều đem lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Qua dụ ngôn người chánh án và bà góa quấy rầy trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với thái độ chân thành và kiên trì. Qua dụ ngôn “Hai người lên đền thờ cầu nguyện” trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta một lần nữa về thái độ khiêm nhường và tâm tình thống hối khi cầu nguyện. Chính thái độ và tâm tình này sẽ quyết định kết quả của việc cầu nguyện, những việc lành phúc đức, cũng như việc thờ phượng mà chúng ta thường thực hành trong đời sống Ki-tô hữu, và giúp chúng ta trở nên công chính trước mặt Chúa.
Chúng ta nhận thấy qua lời cầu nguyện của người Pha-ri-siêu, chúng ta biết những điều tốt lành mà ông đã làm đều là sự thật và có thể nói là tấm gương sáng cho chúng ta. Nếu so sánh những hành động, sự hy sinh, việc làm đạo đức và tốt lành của ông với chúng ta, thì chúng ta phải thành thật thú nhận rằng chúng ta thua kém ông xa. Chúng ta cũng biết được tình trạng tội lỗi mà người thu thuế thú nhận trước mặt Chúa cũng đều là sự thật, và có thể đó cũng là tình trạng cuộc sống của chúng ta. Cho nên theo sự nhận xét và tiêu chuẩn của chúng ta, thì chúng ta có thể quả quyết rằng người Pha-ri-siêu mới là người công chính và tốt lành, còn người thu thuế đích thực là người tội lỗi. Nhưng câu kết luận của Chúa Giê-su làm chúng ta ngạc nhiên và có thể sững sờ: “Tôi nói cho các ông biết người này (tức là người thu thuế), khi trở về nhà thì được nên công chính; còn người kia (tức là người Pha-ri-siêu) thì không.”
Chúng ta nhận thấy sự phán đoán và dạy dỗ của Chúa Giê-su về sự công chính, sự làm đẹp lòng Chúa và yêu mến Chúa, hoàn toàn khác hẳn tiêu chuẩn phán đoán của chúng ta. Chúng ta có thể tự hỏi căn cứ hay dựa vào lý do gì mà Chúa khẳng định như vậy. Và, thưa ông bà anh chị em, đó cũng chính là bài học mà Chúa muốn dạy chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.
Trước hết, chúng ta biết Tin mừng thánh Luca có khoảng 40 dụ ngôn được chia thành 2 nhóm. Một nhóm có nguồn trong các sách Tin mừng của Mát-thêu và Mác-cô, và nhóm thứ hai thuộc nguồn riêng của Lu-ca. Dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay thuộc nhóm thứ 2. Xét về ý nghĩa nội dung, dụ ngôn này giống như các dụ ngôn “Người con hoang đàng”, “Người Samari tốt lành”, “Ông nhà giầu và Ladarô”, và “Người phú hộ dại dột.” Chúng ta nhận thấy, các dụ ngôn trên đây đều nhằm đưa ra những thí dụ và câu truyện cụ thể về thái độ, và qua đó Chúa dạy chúng ta thái độ nào nên theo và thái độ nào nên tránh. Đương nhiên, nếu chúng ta chú ý, Chúa lấy thái độ của tâm hồn làm mẫu mực cho cách phán đoán của Người, mẫu mực đó là sự thống hối, lòng thành tâm và nhất là sự khiêm nhường.
Qua dụ ngôn, chúng ta nhìn thấy thái độ, cử chỉ, nghe được nội dung lời cầu nguyện, và biết được thái độ của người Pha-ri-sêu và của người thu thuế. Ðây là hai mẫu người tương phản nhau vào thời Chúa Giêsu. Pha-ri-sêu, còn được gọi là Biệt phái, là những người rất được dân chúng kính trọng vì đời sống đạo đức của họ. Họ chuyên cần suy niệm Kinh Thánh và tuân giữ tỉ mỉ mọi khoản luật. Ngược lại, hạng người thu thuế thường bị mọi người khinh dể, vì thứ nhất, họ phục vụ làm việc cho ngoại bang đang cai trị đất nước, thứ hai vì phục vụ ngoại bang và giàu có, họ khi dể và áp bức dân chúng, và thứ ba, họ gian lận khi hành nghề bắt dân chúng đóng thuế cao và nhiều hơn để làm giàu mau chóng. Hai người đều lên đền thờ cầu nguyện, nhưng tâm tình và thái độ cầu nguyện của họ thật khác xa nhau. Người Pha-ri-sêu thì tự hào, tự kiêu về đời sống “chuẩn mực” của mình, và “cái tôi” to lớn của mình. Vì thế, chúng ta thấy ông tự đề cao chính mình, khi thường và xét đoán người khác. Chúng ta hãy nghe lại lời nguyện thầm của ông: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi.” Trong khi đó, chúng ta thấy người thu thuế khiêm nhường nhận ra con người yếu đuối và tội lỗi của mình trước mặt Thiên Chúa và với mọi người, không dám ngước mắt lên trời, vừa đấm ngực và vừa ăn năn thống hối tội lỗi mình. Ông đã thốt lên lời thú tội từ cõi lòng sám hối chân thành với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Chúng ta thấy Chúa Giêsu ca ngợi thái độ khiêm nhường và lòng chân thành của người thu thuế, và đón nhận lời cầu nguyện của ông.
Ông bà anh chị em thân mến. Dụ ngôn này còn kêu gọi chúng ta thứ nhất sống khiêm nhường thực sự trước mặt Thiên Chúa và đừng xét đoán tha nhân, bởi vì chúng ta là những người tội lỗi và không hoàn hảo hơn ai. Và thứ hai, cảnh bảo chúng ta nếu chúng ta chỉ căn cứ vào những “việc làm hay công trạng” của mình, thì cũng giống với người Pha-ri-sêu kia, tự cho mình có nhiều công trạng chắc chắn được hưởng phần thưởng, được Chúa ban ơn lành. Chúng ta biết công trạng của chúng ta chẳng đáng là gì trước mặt Thiên Chúa, và không thể nào so sánh và cân xứng với những ơn lành vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa đã, đang và sẽ ban cho chúng ta. Chúng ta xác tín Thiên Chúa yêu thương, nhân từ và quảng đại với tất cả mọi người chúng ta, và chúng ta tin, chắc chắn Ngài sẽ không bỏ qua bất cứ một nỗ lực nào của chúng ta mà không ban thưởng hay ơn lành xứng đáng. Tuy nhiên, ơn lành và phần thưởng mà mỗi người chúng ta nhận được không hoàn toàn tùy thuộc vào công trạng của mình, nhưng tùy thuộc vào lòng quảng đại đầy thương xót của Thiên Chúa.
Chúng ta sống đức tin và thực hành Lời Chúa vì chúng ta khao khát trở nên thánh thiện và muốn mật thiết với Chúa hơn, để chúng ta sống trong an bình và ơn sủng của Chúa. Nhưng chúng ta phải luôn ý thức rằng nên thánh và ơn sủng Chúa không phải là chuyện “tôi làm” mà là chuyện “để Thiên Chúa tự do làm nơi tôi.” Chúng ta biết sau khi được Thiên thần truyền tin, Ðức Maria đã khiêm nhường thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” nghĩa là xin Thiên Chúa hãy thực hiện nơi tôi điều Ngài muốn. Ðó là hai tiếng “Xin Vâng” của Mẹ Maria mà trong Tháng Mân Côi này chúng ta suy niệm. Xin Mẹ giúp chúng ta đến với Chúa Giê-su, Con Mẹ, trong Thánh lễ hôm nay với tâm tình thống hối, và với thái độ khiêm nhường như khi Mẹ tiếp nhận Lời Chúa, và xin cho Lời Chúa cũng tác động và biến đổi đời sống mỗi người chúng ta hôm nay.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn