Các Bài Suy Niệm Lễ Chúa Kitô Vua – C
Lời Chúa: 2Sm 5, 1-3; Cl. 1, 12-20; Lc. 23, 35-43
DẪN NHẬP
Lời Chúa: “Người này là vua dân Do Thái” (Lc 23, 38).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Hôm nay, chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Giáo hội tôn vinh Chúa Kitô Vua vũ trụ. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Vương quyền của Chúa Kitô chính là Tình Yêu. Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi bằng cái chết trên thập giá. Nhờ đó, Người đã trở nên Vua Tình Yêu:
Chết treo thập giá khổ đau,
Chúa dùng cách đó khởi đầu vinh quang.
Máu hồng tẩy rửa trần gian,
Muôn người được gọi thần dân Nước Trời.
Dựng nên, cứu chuộc con người,
Chúa còn thánh hóa, muôn đời là Vua.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta biết quy hướng về Thiên Chúa là Vua của cỏi lòng chúng ta, xin cho chúng ta biết tận dụng thời gian Chúa ban để sống bác ái yêu thương, hầu xứng đáng trở nên công dân Nước Trời. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa là Con Thiên Chúa, là Vua trên hết các vua. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa dùng cây thập giá để biểu lộ Vương quốc tình yêu và ơn cứu chuộc của Chúa. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, trên thập giá Chúa đã xót thương người trộm lành ăn năn sám hối. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Theo thể chế của một số quốc gia, vua là người đứng đầu một vương quốc, là người có quyền lực trong mọi lãnh vực và được người ta tôn sùng. Tuy nhiên, lịch sử cũng cho thấy, có những vị vua đã bị dìm dưới bùn đen do độc tài, thiếu tài đức, tham quyền cố vị, giết cả bạn hữu cả anh em, kể cả cha mẹ như một Nêron bạo vương, dìm mình trong dâm ô với hàng ngàn cung phi. Khác với vua quan trần thế, hôm nay Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Hội thánh tôn vinh Chúa Kitô Vua: Vua Tình Yêu.
Thưa anh chị em, sách Samuel trong bài đọc một hôm nay nhắc lại câu chuyện Đavit trở thành vua Israel. Lúc bấy giờ, Đavít chỉ là vua xứ Giuđa. Các chi tộc Israel ở phía bắc vẫn chưa công nhận vương quyền của Đavít cho tới khi hai cuộc ám sát xảy ra, đó là Ishbaal con vua Saulê và tướng quân Abner đã khiến họ đổi ý. Các đầu mục Israel đến Hebron yết kiến Đavit và xin quy phục vương quyền của ông, vì vua cũng là cốt nhục, tướng quân và người được Thiên Chúa tuyển chọn để dẫn dắt dân Ngài. Câu chuyện Đavit được công nhận làm vua trên tất cả các chỉ tộc Giacop giúp chúng ta hiểu trường hợp làm vua của Chúa Giêsu. Ông vua mục tử Đavit đầy nhân ái và đạo đức đã là hình ảnh báo trước Vua Thiên sai sẽ đến cứu dân và mang lại hạnh phúc cho dân Chúa. Chúa Giêsu không mang trong mình một vị vua theo kiểu thế gian: cao sang, quyền thế, thống trị nhưng trong thân phận tội đồ của kiếp phàm nhân. Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca cho chúng ta thấy hình ảnh của một vị Vua chết treo bi thảm trên thập giá, khiến cho chúng ta phải suy nghĩ. Theo cái nhìn tự nhiên, chúng ta vẫn không sao hiểu được điều bí nhiệm trong cung cách sống và chết của con Thiên Chúa. Chúa Giêsu, và duy một mình Người đã vạch cho mình một con đường hoàn toàn mới, hoàn toàn khác, hoàn toàn không giống ai: “ai cầm đầu thì phải làm tôi tớ, hầu hạ mọi người”. Chúa Giêsu đã làm như lời Người đã nói. Trên thập giá Người đã được tôn làm người đứng đầu một vương quốc, mà người tôn vinh ấy là một người trộm cũng bị kết án tử hình và bị thi hành án cùng với Người: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Qua lời cầu xin này, người kẻ trộm nhận ra vương quyền và vương quốc của Chúa. Xuyên qua một con người bị hành hình, anh ta nhận ra Người là Vua, là chủ một vương quốc và có quyền năng đón nhận những công dân mới vào vương quốc đó.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Vua Giêsu là vua Tình Yêu. Người chủ trương lấy tình yêu xóa bỏ hận thù. Người truyền cho thần dân của Người hãy tuân giữ điều răn mới: “Thầy truyền cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Tuyên ngôn của vua Giêsu là yêu thương: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”. Mục tiêu của vua Giêsu là xây dựng thế giới này thành trời mới đất mới, nơi công lý, hòa bình và yêu thương ngự trị. Muốn được vào Nước Trời, được làm công dân Nước Chúa, không có cách thế nào khác ngoài cách thế của “người trộm lành”, đó là khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ có tội: “Phần chúng ta, như thế này là đích đáng”. Tin tưởng, tín thác Chúa: “Còn Ngài có làm gì xấu đâu”, và cầu xin cùng Người: “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.
Nguyện xin Chúa Giêsu vua Tình yêu ngự trị nơi tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta luôn sống tình bác ái yêu thương như Chúa nêu guơng truyền dạy, để xứng đáng trở nên công dân của Vua Tình yêu Giêsu. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Họa sĩ Louis David đã vẽ một bức tranh thời danh về cái chết của Socrate: Một con người tráng kiện, một tay chỉ lên trời, một tay giơ ra cầm chén thuốc độc, mặt quay nhìn các môn đệ với ánh mắt sáng ngời. Ông mặc chiếc áo vải thô, sống rất tầm thường, khác với bọn ngụy biện ăn mặc sang trọng để lôi cuốn dân thủ đô Athen. Ông cũng khác với các hiền triết xưa, ông không có chức vụ gì quan trọng. Ông bị Quốc hội Athen Hy Lạp văn minh nhất thời đó kết án phải uống thuốc độc chết vì tội đầu độc lớp thanh niên và tôn sùng vị thần khác với các thần của thành phố (năm 470-399 trước công nguyên).
Suốt đời ông rảo khắp đất nước rao giảng chân lý với đôi chân trần chai sạn. Mục đích của ông giúp các thanh niên thức tỉnh, tự truy tìm chân lý ở nội tâm mình: “Anh hãy tự biết mình” (connais-toi, toi même) bằng phương pháp đối thoại gợi ý (Maieutikê). Tự biết mình để giải thoát mình khỏi những thành kiến sai lầm, những độc đoán ngụy biện, những chính sách chính trị. Trước khi chết ông đã cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con sự trong sáng nội tâm – “Mon Dieu, donne-moi la purité intérieure” Triết gia Hégel đã gọi ông là “anh hùng của nhân loại” (héros de lhunanité). Giáo sư Didier Julia gọi ông là điển hình của một tông đồ đem lại tự do chân chính. Socrate đã làm chấn động tận gốc những tập tục cổ hủ và chuẩn bị lương tri con người đón nhận một sứ điệp khác: Sứ điệp Kitô giáo (Dictionnaire de la philosophie: Larousse). Platon, môn đệ của ông đã chứng kiến cái chết của Socrate, đã tôn thầy mình là Đấng sáng lập nền trí thức về tình yêu, về Thiên Chúa, về lời mời gọi đi tới huyền nhiệm. Socrate là “vạn thế sư phụ của Tây phương” cũng như Khổng Tử là “vạn thế sư biểu của Đông phương”.
Còn, Đức Giêsu là “vạn thế vương đế của thế giới”. Cũng như Socrate, Đức Giêsu là thường dân áo vải, đã rảo khắp đất nước và các lân bang để rao giảng chân lý: Chân lý về tình yêu muôn thuở, về mầu nhiệm nước trời, về Thiên Chúa là Cha nhân lành hằng ban sự sống vinh quang để giải phóng con người khỏi nô lệ cổ truyền bất nhân, khỏi gông cùm sự dữ. Những chân lý đó đánh bật tận gốc những tham vọng ích kỷ, hẹp hòi, đê tiện của các tầng lớp xã hội bất công. Những chân lý đó giống như luật lệ chống tham nhũng, chống mafia. Những ai can đảm thực thi những luật lệ chân chính đó đều bị bọn tham ô và mafia diệt trừ.
Đức Giêsu là Vua công chính, lại bị bọn bất chính kết án tử hình. Bọn bất chính đó là các thủ lãnh trong hàng ngũ biệt phái, Sa đốc, thượng tế, tư tế và quyền đời như Hêrôđê và Philatô. Họ đang đắc thắng nhạo báng Đức Giêsu rằng: “Hắn cứu được thiên hạ, có giỏi thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô, được Thiên Chúa tuyển chọn”. Họ đã biết rõ Người cứu thiên hạ, đã chữa bao nhiêu bệnh nhân, cho những kẻ chết sống lại, trừ khử quỷ ám. Nhưng họ kiêu ngạo chụp mũ Người đã dùng tướng quỷ mà trừ quỷ, kết án Người là kẻ tội lỗi vì cứu chữa bệnh nhân trong ngày nghỉ Sabát, ghép Người vào hàng ô uế tội lỗi và bọn thâu thuế. Họ cho mình trong sạch, không đi lại với dân ngoại, không động đến kẻ phong cùi, kẻ bị cướp đánh nửa sống nửa chết nằm giữa đường. Và khi họ đã đóng đanh Người, họ còn bất nhân, tàn nhẫn chế nhạo và thách thức Người. Họ như thằng quỷ cám dỗ Người khi Người ăn chay 40 đêm ngày: “Nó đến nói với Người: Nếu Ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho hòn đá này hóa bánh”. Họ cũng giống những người Nazaret nói với Người: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói Ông đã làm ở Capharnaum, Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê Ông xem nào!” (Lc. 4, 3-23). Trước những lời mỉa mai đó, Đức Giêsu đã lặng thinh. Người không tự bào chữa, Người để họ tố cáo Người như một kẻ bất lực, bất tài. Họ cứ tưởng rằng Đấng Kitô là Vua Do Thái, sẽ giải phóng dân tộc, sẽ là anh hùng vĩ đại bách chiến bách thắng như Vua David, khôn ngoan bắt cả thế gian phải thần phục mình như Salômôn.
Noi gương các sếp thủ lãnh nhạo báng, bọn lính cũng a dua chế diễu: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì tự cứu mình đi”, chua chát thay! Chúng vừa nói móc vừa đóng bảng án phía trên đầu Người để kết tội: “Người này là Vua Dân Do Thái”. Đó là cách phong vương của quân dữ.
Nghi thức phong vương thường lệ là thầy thượng phẩm nhân danh Thiên Chúa xức dầu tấn phong ai làm vua trước mặt đông đảo dân chúng chứng kiến và nhiệt liệt tung hô (Bài I). Còn nghi lễ phong vương của Thiên Chúa thì khác: Thiên Chúa sai ngôn sứ đến xức dầu cho người Chúa chọn, như Thiên Chúa đã bảo Samuel đến xức dầu cho David. Thần khí Thiên Chúa đã đáp xuống David làm cho con người bé nhỏ trở nên phi thường. Nhờ đó David đã tung ná bắn đá vào trán Gôliat té nhào chết. Gôliat là điển hình sức mạnh vũ bão của loài người, còn David là đứa bé hèn mọn đã đánh Gôliat với danh Thiên Chúa (1Sm. 16, 11-13; 17, 4-50). Việc tấn phong Đức Giêsu làm Vua, không phải do con người mà do chính Thiên Chúa dùng Thánh Thần xức dầu phong vương cho Đức Giêsu khi Người chịu phép rửa trên sông Gióc-đan: “Trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu, lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là con của Cha …” (Lc. 3, 22). Với sức mạnh Thánh Thần, Đức Giêsu đã thực hiện sứ mệnh là Vua Cứu thế đến tột đỉnh trên ngai vàng thập giá, đầu đội triều thiên gai. Đó là những dụng cụ để chiến thắng sức mạnh của các thủ lãnh và quân lính thế gian, chiến thắng đau khổ và thần chết.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết đứng kề Thánh giá với Đức Mẹ, Thánh Gioan và các Thánh nữ, biết nhìn vào Trái tim Chúa đang chảy máu và nước ra như viên sĩ quan, để cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này thật là công chính”, và biết kêu van: “Lạy Ngài khi Ngài vào nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Hay ít nhất, cho con biết đấm ngực ăn năn như dân chúng để thú tội và mến yêu Ngài là Vua Tình thương tha thứ, Vua Hy sinh chịu chết cứu độ con. Amen.
Chúa Giêsu đã chứng tỏ tình yêu của mình bằng cái chết trên thập giá. Ngài đáng làm vua nêu gương cho chúng ta sống theo Ngài. Tin Mừng (Lc 23,35-43) ghi lại cảnh Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá làm căn bản cho những suy niệm cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
Trang Tin Mừng trong lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ lại đưa ta về với Chúa Giêsu trên thập giá. Chẳng lúc nào Chúa làm vua rõ bằng lúc này. “Đây là vua người Do thái”, tấm bảng ghi như thế. Nhưng kiểu làm vua của Ngài thật khác thường. Không có vương miện, chỉ có vòng gai. Không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê.
Bằng cái chết tủi hổ trên thập giá, Ngài đã trở nên một vị mục tử nhân lành, hiến mạng sống cho đoàn chiên của mình. Ngài đã khai mạc vương quốc mới của tình yêu, một tình yêu tự hiến: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc ghi trên thập giá Chúa dòng chữ: “Đây là Vua dân Do Thái”. Thiên Chúa đã muốn dùng hành động bêu xấu này như muốn nhắc nhở con người, để mạc khải cho con người một sự thật không thể chối bỏ được rằng: Chúa Giêsu Kitô là Vua. Ngài trổi vượt lên trên mọi người không những vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, mà vì Ngài đã thực hiện một hành động cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương con người để cứu rỗi con người.
Chúa Giêsu Kitô là Vua không những vì Ngài đã sinh ra làm người, thuộc dòng dõi vua Đavid, mà hơn nữa vì Ngài là Con Thiên Chúa, mọi sự nhờ Ngài mà được hiện hữu sinh động. Nhưng trớ trêu thay, Chúa Giêsu Kitô không thiết lập vương quốc của Ngài như một vương quốc phàm trần và bằng những phương tiện phàm trần như chiến tranh, chiếm đoạt bằng sức mạnh bạo lực. Không, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết lập một cách kỳ diệu bằng một hành động hy sinh cao cả trên thập giá, tột đỉnh của cuộc đời của Chúa trên trần gian để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Bị treo trên thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc, ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ buổi đầu. “Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình”. “Hãy xuống khỏi thập giá” (Mt 27,40). Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến.
Chính vì Ngài thật là Con của Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi thập giá như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.
Chẳng có đau khổ nào lớn hơn khi chính người đồng cảnh ngộ cũng về hùa với bọn lý hình nhục mạ Chúa: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứ mình đi, và cứu cả chúng tối với!” (Lc 23,39) Trước những thách thức ồn ào đó, Đức Giêsu vẫn im lặng. Dân chúng khi thì a dua (Lc 23,17-25), lúc lại bàng quang: “Dân chúng thì đứng nhìn.” (Lc 23,35) Thái độ bất động của dân chúng rất phức tạp. Nhưng chắc chắn không phải ai cũng như bọn binh lính hay người gian phi thiếu hiểu biết. Thật vậy, “dân chúng theo Người đông lắm.” (Lc 23,26)
Mặc dầu Chúa Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng Ngài đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7), do đó, “Ngài đã chịu thử thách (cám dỗ) về mọi phương diện cũng như ta…” (Dt 4, 15). Dựa vào đó, Sa-tan không ngừng cám dỗ Chúa Giêsu đi trệch đường của Thiên Chúa Cha với hy vọng phá vỡ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
Vua Giêsu bị đóng đinh và treo trên thập giá. Tột đỉnh của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện trong giờ phút này. Khi quyền lực của tội lỗi tưởng như thắng thế qua cái chết đang đến gần Chúa Giêsu thì đó lại là lúc quyền năng của Thiên Chúa sắp sửa toàn thắng tội lỗi và đem lại hiệu quả ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại.
Đức Giêsu chịu đóng đinh là để cho thấy rằng Người không phải là một Đức Vua Cứu thế sẽ đảm bảo cho họ có sự sung túc trần thế. Người đã không cứu chính mình khỏi chết, thì Người cũng không gìn giữ chúng ta khỏi bệnh tật và cái chết. Quyền lực của Người không nhắm đến đời sống thoải mái trần tục của chúng ta, nhưng nhắm đến đời sống của chúng ta với Thiên Chúa. Ai tìm sự hiệp thông với Thiên Chúa, và biết nhờ Đức Giêsu, Đức Giêsu sẽ cứu độ người ấy, cho dù người ấy đến với Người như một tên gian phi.
Chúa Giêsu xuống trần để làm chứng về tình yêu. Rao giảng, thi ân, tha thứ. Tình yêu lên đến cực điểm trong những giây phút cuối đời khi Người quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, khi Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người, khi Người tha thứ cho kẻ phản bội, và nhất là khi Người cầu xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Thật là một tình yêu nguyên tuyền không hề vương chút hận thù. Một tình yêu bao la lan tới mọi góc biển chân trời. Một tình yêu cao cả đáp lại hận thù. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho Đức Chúa Cha. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh giá diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người.
Cái chết trên thập giá là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của tâm tình hiếu thảo. Chiến thắng của sự tự do nội tâm. Chiến thắng của tình yêu. Chính trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi vua. Chính khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Người.
Tình yêu trên thập giá biến đổi tâm hồn người gian phi cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu. Nó giúp anh nhìn xa hơn về tương lai. Không phải chỉ là sự sống tạm ở đời này, như tên gian phi kia đã thách thức Chúa Giêsu: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng là sự sống đời đời. Anh khẩn cầu Chúa: “Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”
Tình yêu trên thập giá đã giúp người gian phi thống hối nhận biết Chúa Giêsu là ai và mình là ai. Anh đã nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, qua lời đối đáp tên gian phi kia: “Chúng ta chịu thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm!” Anh còn nhận ra được Chúa Giêsu là Đấng nào nữa. Ngài không chỉ là một người vô tội. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn là “ông Giêsu”. Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Đức Giêsu được gọi đích danh, chứ không phải bằng các tước hiệu. Anh đã hiểu được nghĩa thực của thánh danh Người. “Giêsu” nghĩa là “Thiên Chúa cứu.” Người là Vua của Nước Thiên Chúa, là Đấng đến cứu vớt mọi kẻ tội lỗi.
Vương quốc Đức Kitô đã rộng mở chào đón tất cả mọi người. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con hiếu thảo hoàn toàn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha, hãy sống tự do, dứt bỏ mọi ràng buộc của danh, lợi, thú, hãy mở rộng trái tim yêu thương. Như thế ta mới xứng đáng trở thành công dân trong Nước Chúa.
Sống giữa cuộc đời là sống giữa biển đời đầy sóng gió nguy nan. Sống giữa thế gian là sống giữa bao hiểm nguy, bất trắc khiến lòng người luôn phải đối phó với biết bao nghịch cảnh đẩy đưa. Giữa người với người vẫn còn những hố sâu ngăn cách bởi ích kỷ, ghen ghét và tham lam. Có thể vì một chút danh lợi thú mà người ta bán rẻ nhau và bán rẻ chính nhân phẩm của mình. Cuộc đời đầy thị phi đến nỗi Nguyễn Du đã từng thốt lên rằng: “Trải qua một cuộc bể dâu – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Ngay những người thân cận nhất vẫn có thể trở thành kẻ thù của nhau. Cha mẹ từ chối con cái. Con cái ngược đãi cha mẹ. Vợ chồng nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Bạn bè dễ dàng quay lưng lại với nhau vì tiền tài, vì danh vọng và vì tình yêu. Một cuộc sống đầy vong ân bội nghĩa nên mấy ai còn niềm tin nơi nhau. Có mấy ai dám sống cho chân lý để rồi lại phải chịu thiệt thòi vào thân!
Hôm nay, Lời Chúa tường thuật lại một phiên tòa đầy bất công và thiếu khách quan của sự thật. Gọi là bất công vì sự ghen tỵ mà người ta đã kến án kẻ vô tội. Thiếu chân thực vì toàn bộ câu chuyện đã bị bóp méo hoàn toàn. Theo thánh Gioan kể lại: họ tố cáo Chúa Giêsu về ba điều: gây rối loạn trong dân chúng, cản trở việc nộp thuế cho hoàng đế, và tự xưng mình là vua. Thật ra, vì lòng ghen ghét, họ đã không ngần ngại bóp méo sự thật. Theo sự tra xét của họ thì Chúa Giêsu phạm tội lộng ngôn, nhưng họ biết rất rõ quan toàn quyền sẽ không chịu nghe một lời tố cáo như vậy, mà sẽ bảo đó là chuyện tranh chấp về tôn giáo và bảo họ phải tự dàn xếp. Thế nên, vì muốn loại trừ Chúa, họ đã không ngần ngại vu khống để bỏ vạ cáo gian. Nhưng Philatô lại không dám bảo vệ sự thật. Cho dù Chúa Giêsu đã cho ông hiểu rằng: Ngài là Vua và Nước của Ngài không thuộc về thế gian này, nhưng Philatô đã không quan tâm đến việc bảo vệ công lý cho bằng bảo vệ ngai tòa của mình. Ông rửa tay để làm ngơ trước sự bất công.
Và cũng từ phiên tòa này, Chúa Giêsu đã công khai nói lên sứ mạng của Ngài, Ngài đến trong thế gian này là thiết lập một vương quốc sự thật, một nền công lý và hòa bình từ chính trong tâm hồn con người. Và chính vì thế mà ngài đã sinh ra và đến trong thế gian này, đó là để làm chứng cho sự thật. Vương quốc sự thật chính là nước của Ngài. Ai đi theo đường công chính, biết ăn ở ngay lành, thực hành bác ái yêu thương chính là công dân trong Nước của Thiên Chúa. Nước của Ngài không hạn chế bởi địa dư, bởi mầu da sắc tộc mà mở rộng không gian tới tận cùng trái đất. Nơi nào có những người xây dựng hòa bình, công lý và tình thương, nơi đó Nước Chúa đang ngự trị.
Là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng sự hiệp nhất yêu thương. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội đều được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Nghĩa là phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng tình liên đới giữa con người với nhau trong yêu thương chân thật. Như lời Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “phải làm thế nào để tính thiện nơi con người được chiếu lộ ra, và giải phóng các sức mạnh của sự tiềm ẩn nơi con người, để sự thiện ấy được lớn mạnh hơn sự ác cả trong lĩnh vực luân lý lẫn xã hội”. Vâng, cuộc đời này có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của Ngài.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, giữa thế giới đầy sa đọa, con người ngày nay vẫn muốn loại trừ Thiên Chúa. Dường như vì ích kỷ đã làm cho họ mù loà đến nỗi không nhận ra sự bất hạnh của tha nhân để cảm thông, để nâng đỡ. Dường như vì tham lam mà con người muốn loại trừ đồng loại để bảo vệ tiền tài danh vọng cho chính mình. Đồng tiền và danh vọng đã làm mờ con mắt. Tự hủy diệt mình trong đam mê lạc thú và quyền lực thế gian.
Xin Chúa giúp chúng con dám sống cho sự thật và làm chứng cho sự thật. Ngõ hầu danh Chúa được cả sáng. Amen.
Chủ Ðề: Chúa Giêsu là Vua
Anh chị em thân mến
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Chúa Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.
Chúng ta đã tôn thờ những “vua” khác không phải là Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v. v.
Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.
Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương.
III. Lời Chúa
Đoạn này thuật cuộc phong vương lần thứ hai cho Đavít. Cần nhớ rằng sau khi Vua Saun chết, các chi tộc miền Nam đã phong Đavít làm vua của họ. Một thời gian sau, vì mến mộ tài đức của Đavít nên các chi tộc miền Bắc cũng phong Đavít làm vua họ nữa. Như thế là đất nước thống nhất dưới quyền lãnh đạo một vị vua duy nhất.
Trong biến cố này, Thiên Chúa cũng lên tiếng. Ngài nói với Đavít: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân của Ta”. Câu này rất ý nghĩa: vua Đavít chỉ là “người chăn dắt” dân “của Thiên Chúa”. Chính Thiên Chúa mới là Vua thật của “dân Ngài”.
Đây là một ca khúc lên đền, nghĩa là ca khúc mà những người hành hương hát khi họ tiến đến gần đền thờ Giêrusalem.
Tuy những người hành hương tiến đến nơi có đặt “ngai vàng của vương triều Đavít”, nhưng họ ý thức rằng họ là những “chi tộc của Chúa” vì chính Chúa mới là vua thật của họ.
Đoạn Tin Mừng này mô tả cảnh Chúa Giêsu trên thập giá:
Phía dưới thập giá, dân chúng “đứng nhìn” cách bàng quan như không liên can gì đến mình, các thủ lãnh Do Thái thì chế nhạo “Hắn đã cứu người khác thì hãy cứu lấy mình đi nếu thật hắn là Đấng Kitô”, lính tráng cũng chế diễu “Nếu ông là vua dân Do Thái thì hãy cứu lấy mình đi”.
Trên đầu Ngài có bảng viết “Đây là vua người Do Thái”
Bên cạnh Ngài có hai tên gian phi: một tên hùa theo đám người phía dưới để chế diễu Ngài; tên kia công nhận Ngài là vua nên nói với Ngài “Khi ngài vào Nước của Ngài thì xin nhớ đến tôi”.
Nghĩa là: thánh Luca đã cố ý trình bày Chúa Giêsu trên thập giá như một vị vua đang ngự trên ngai của mình. Nhưng đa số những người ở dưới và bên cạnh, vì đã quá quen với hình ảnh một ông vua trần gian nên chẳng những không nhận ra Ngài mà còn chế nhạo Ngài.
Thánh Phaolô trích dẫn một bài thánh thi trình bày địa vị của Chúa Giêsu Kitô:
Đối với Thiên Chúa: Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa.
Đối với công trình sáng tạo: nhờ Chúa Giêsu mà muôn vật được tạo thành.
Đối với công trình cứu độ: nhờ cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà mọi người được giao hòa lại với Thiên Chúa.
Như thế, Chúa Giêsu là Vua tối cao trên toàn thể vũ trụ.
* 1. Nguồn gốc và ý nghĩa Lễ Chúa Giêsu là Vua
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: “Homo homini lupus”: con người là lang sói của con người. Lang sói là một loài thu dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết chóc nhau.
Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên: lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình? Hầu hết thời gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết, hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.
Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách ngu xuẩn như vậy? Thưa vì trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người: tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói đích thực nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.
Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, Đức Giáo Hoàng coi đó là chấm dứt chiến tranh.
Sở dĩ loài người cứ luôn làm hại làm khổ lẫn nhau là vì loài người còn sống theo cái tính thú trong mình. Vậy nếu muốn cho loài người hoà thuận với nhau để cùng nhau chung hưởng thái bình thì loài người phải sống theo cái tính người, gồm có những đức tính mà Chúa đã dạy chúng ta trong Tin Mừng. Con người sống đúng là con người. Chúa Giêsu gọi đó là Sự Thật; còn ngôn ngữ phụng vụ hôm nay thì gọi đó là vương quyền, vương quốc của Chúa Kitô. Nước Chúa. Ai sống theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước Chúa; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người đó đang mở mang Nước Chúa; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo, đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa: đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hoà thuận yêu thương, một nước thái bình hạnh phúc.
Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hoà thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống hoà thuận yêu thương sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy.
* 2. Chân lý cuối cùng
Trong những Chúa nhựt cuối của năm phụng vụ, Lời Chúa mời chúng ta nghĩ đến lúc tận cùng của thời gian, để thấy trước khi ấy tình hình sẽ như thế nào, và nhờ đó mỗi người cũng biết điều chỉnh cuộc sống mình trong hiện tại cho phù hợp với viễn ảnh cuối cùng ấy.
Bằng ngôn ngữ khải huyền, các sách Tin Mừng mô tả lúc đó mặt trời mất sáng, mặt trăng tối sầm lại và các tinh tú trên trời rụng xuống. Qua những hình ảnh lạ lùng ấy, tác giả muốn nói rằng khi đến lúc tận cùng của thời gian, tất cả mọi thứ mà xưa nay người ta coi là quyền lực đều sụp đổ hết, để chỉ còn quyền lực của Thiên Chúa tồn tại và ngự trị.
Còn sách Huấn ca Ben Sira thì mô tả một cách thi vị hơn và bằng những hình ảnh gần gũi hơn:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa…
Hoa nào không phai tàn. Trăng nào không khuyết
Ngày nào mà không có đêm. Yến tiệc nào không có lúc tàn
Phù hoa nối tiếp phù hoa… “
Một thi sĩ khác cũng có những suy nghĩ tương tự, ông suy nghĩ về thời gian:
“Khi tôi là một đứa trẻ… tôi thấy thời gian bò tới
Khi tôi là một thanh niên… tôi thấy thời gian đi bộ
Khi tôi trưởng thành… tôi thấy thời gian chạy
Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín muồi thì thấy thời gian bay
Chẳng bao lâu nữa tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất
Ôi lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa”
Những dẫn nhập khá dài dòng trên chỉ nhằm giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay theo đúng hướng mà Phụng vụ của ngày Chúa nhựt cuối năm Phụng vụ muốn chúng ta hiểu. Trong hướng đó, chúng ta thấy được một số chân lý sau đây:
Thứ nhất: Đến lúc tận cùng của thời gian, nghĩa là đến ngày tận thế, hoặc ngày chết của mỗi người, thì chúng ta sẽ thấy tất cả đều sẽ sụp đổ: tiền bạc, danh vọng, sức khoẻ, thế lực, thú vui…. Tất cả đều không còn ý nghĩa và tầm quan trọng gì đối với bản thân mình hết. Đúng như lời của bài thơ chót mà tôi vừa đọc: “Lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến thì ngoài Ngài ra không còn gì là quan trọng nữa”.
Thứ hai: Nếu khi đó chỉ có Chúa là quan trọng thì từ trước tới lúc đó trong cuộc sống, chỉ những ai gắn bó và nương dựa vào Chúa mới thấy yên lòng; còn những người quen tìm kiếm, chạy theo và nương dựa vào những thế lực khác như tiền bạc, quyền lực, thú vui v. v. sẽ thấy chới với, cô đơn, trơ trụi…
Thứ ba: Khi đó, đối với tất cả mọi người, dù tin hay không tin, dù tốt hay xấu, mọi người đều mở mắt và nhận thực rằng Chúa Giêsu chính là Kitô và là Vua thật. Kitô nghĩa là Đấng Cứu Vớt, Vua nghĩa là Đấng thống trị. Nhiều người trong lúc còn sống đã tưởng rằng nguồn cứu vớt của họ và thế lực hỗ trợ họ là tiền tài danh lợi thế gian, nhưng khi đó họ sẽ biết họ lầm. Chẳng hạn các nhân vật trong bài Tin Mừng hôm nay: Các thủ lãnh Do Thái, quân lính, Philatô và tên gian ác ở bên trái Ngài. Chiều hôm đó trên đồi Sọ, họ tưởng Chúa Giêsu đang thất thế vì rõ ràng Ngài đang bị treo, bị đóng đinh dính cứng vào thập giá. Họ chế nhạo Ngài “Nào có giỏi thì thử xuống khỏi thập giá đi”. Họ cũng gọi Ngài là Kitô đó, cũng gọi Ngài là Vua đó, nhưng gọi một cách mỉa mai, gọi để nhạo báng: chẳng qua hắn chỉ là một tên Kitô dỏm, một ông vua cỏ mà thôi! Nhưng đến ngày cùng tận, tất cả những người ấy sẽ sửng sờ khi thấy kẻ bị họ nhạo báng ấy lại xuất hiện với tất cả uy quyền và vinh quang, để xét xử và trừng phạt họ. Ngài đúng là Kitô và là Vua. Chiều hôm ấy trên đồi sọ, chỉ có một người đã nhận biết Ngài, đó là người trộm lành ở bên phải. Anh đã tin Ngài là Vua nên anh nói “Khi nào Ngài vào Nước của Ngài”; anh cũng tin Ngài là Đấng Kitô cứu thế nên mới thưa “Xin Ngài cứu tôi, xin hãy nhớ đến tôi”. Và chúng ta hãy suy nghĩ: hiện bây giờ người trộm lành ấy đang ở đâu? Chắc chắn anh đang ở bên Chúa và hưởng hạnh phúc trong nước Chúa, như lời Chúa Giêsu đã hứa với anh chiều hôm ấy: “Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở với Ta trên thiên đàng”. Thật hạnh phúc thay cho người trộm lành, cả một đời gian ác tội lỗi, nhưng cuối cùng đã gặp được hạnh phúc thiên đàng, nhờ anh đã hiểu được phải trao cuộc đời cho ai và bám víu vào ai.
Cái chân lý mà mãi đến phút cuối đời người trộm lành mới thấy được ấy, Phụng vụ muốn chỉ cho chúng ta thấy ngay từ hôm nay: Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô cứu vớt, Ngài chính là Vua. Ngoài Ngài ra không có ai, không có cái gì là vua thật và có thể cứu chúng ta thật. Vậy ngay từ hôm nay chúng ta hãy quyết định trao gởi cuộc đời mình cho Ngài, sống gắn bó với Ngài, và từ bỏ tất cả những gì nghịch với Ngài. Có như thế chúng ta mới có thể hưởng hạnh phúc muôn đời bên cạnh Ngài, là Kitô thật và là Vua thật của chúng ta.
* 3. Cơn cám dỗ cuối cùng
Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn tuỳ tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi:
– Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười?
Án tử trả lời:
– Nếu các vua đời trước mà sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được?
*
Vua trần gian có thần dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan.
Chúa Giêsu trái lại, Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36). Vì thế, cung cách của vị vua Giêsu hoàn toàn mới lạ. Tin Mừng hôm nay sẽ nói lên tính cách Vương Quyền ấy của Người.
Dưới hình thức nhạo báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập giá, đã nói!ên vương quyền của Chúa Giêsu: “Hắn đã cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấâng Ki tô của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa tuyển chọn” (Lc 23, 35). “Đấng Kitô” chính là người được xức dầu, là tước hiệu của vua. “Người Thiên Chúa tuyển chọn” chính là tước hiệu Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Nhất là lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói lên vương quyền của Người: “Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến tôi” (Lc 35, 42).
Tuy nhiên, nước của Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng không để ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình Yêu, vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không “xuống khỏi thập giá” cách ngoạn mục, nhưng đã “kéo mọi người” lên với Người (Ga 13, 32). Người đã không “cứu lấy chính mình”, nhưng đã “cứu lấy mọi người” khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của Người.
Người đã sẵn lòng chịu chết giữa hai tên gian phi, như lời Kinh Thánh rằng: “Người đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân” (ls 53, 12). Người đã hoà mình trong đám người tội lỗi, đã chịu chung số phận của họ, Người đã sống và đã chết giữa đám tội nhân, như lời đồn đại về Người: “Bạn của người thu thuế và phường tội lỗi” (Mi 11, 19).
Vâng, vương quyền của Người không cai trị bằng sức mạnh biểu dương, nhưng chinh phục bằng “khối” tình yêu thương. Chính vì thế mà Người đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng, là lời thách thức xuống khỏi thập giá, để sẵn lòng chịu chết hầu cứu chuộc con người tội lỗi, chính là thần dân của Người,
Thần dân đầu tiên mà vị Vua có vương miện là mão gai, và ngai vàng là gỗ thánh giá đã chinh phục, chính là người trộm lành. Giữa lúc những kẻ trước đây tung hô vạn tuế nay lại nhạo báng Người, giữa lúc các môn đệ thề sống chết với Người nay lại bỏ trốn hết, thì chỉ có một mình anh, người trộm lành, lên tiếng bênh vực Người: Anh mắng người trộm dữ: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này có làm điều gì trái!” (Lc 35, 40-41). Anh tỏ lòng kính sợ Chúa và ăn năn sám hối, đó là thái độ của người sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ.
Hơn nữa giữa lúc chương trình của Chúa Giêsu dường như thất bại, không còn hy vọng cứu vãn; giữa lúc thập tử nhất sinh, gần kề cái chết, thì chỉ mình anh, người trộm lành, đã tin vào Chúa, tin vào sự sống đời sau, và tin vào vương quyền của Người. Anh cầu nguyện: “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Người nhận lời tức khắc: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 35, 43).
Một lời hứa mà Người chưa hề ban cho ai dù đó là người thân tín và yêu quí nhất của Người.
Một lời hứa được thực hiện ngay tức thì, không đợi đến sáng phục sinh hay ngày thế mạt.
Một lời hứa đi vào vương quốc của những người công chính, qui tụ quanh vua Giêsu vinh hiển.
Lời hứa ban hạnh phúc cho anh trộm lành chính là cuộc sống thân mật với Vua Giêsu, mà anh đã chia sẻ số phận của Người trên thập giá. Cuộc đời của anh tưởng chừng như vĩnh viễn khép lại, nhưng chỉ với một chút niềm tin trong anh bừng sáng, một lòng sám hối chân thành, đã khiến cửa trời rộng mở, đón tiếp anh thênh thang bước vào. Chính từ khi anh trộm lành nhận ra người tử tù bị đóng đinh là vua trời, nhận ra sự sống trong cõi chết, phục sinh trong tử nạn, thì Vua Giêsu tiếp tục lan rộng cuộc chinh phục đến viên đại đội trưởng khiến ông cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này quả thật là công chính” (Lc 23, 48).
Và trong suốt 2000 năm qua, Người vẫn luôn đón nhận vào trong vương quốc tình yêu của Người; những thần dân biết duy trì tinh thần hiệp nhất, phục vụ và yêu thương. Chỉ những ai biết sám hối ăn năn, tin nhận vào quyền năng và tình thương của Chúa như anh trộm lành, môi được vào trong vương quốc của Người. Chỉ những người biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời.
*
Lạy Chúa, xin cho đức tin chúng con đủ mạnh để thấy Chúa không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Người.
Xin dạy chúng con luôn cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này, nhờ biết đẩy lui sự dữ trên địa cầu, trong khi kiến tạo an bình và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc)
* 4. Hai tên gian phi
Các sách Tin Mừng ghi nhận rằng cùng bị đóng đinh chung với Chúa Giêsu hôm ấy còn có hai tên gian phi. Phần Tin Mừng theo thánh thì phân biệt có một người đã sám hối, còn người kia thì không. Chúng ta hãy xem xét từng người.
Trước tiên là tên gian phi không sám hối. Hắn chẳng còn tình cảm, chẳng còn lương tri, chẳng còn nhân tính gì nữa cả. Bởi vì tới lúc sắp chết mà hắn cũng không chút hối hận. Ngay cả Chúa Giêsu cũng chẳng thể cứu hắn. Thực vậy, chẳng ai có thể cứu được người không chịu để cho mình được cứu. Tấm lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn có sẵn đấy, nhưng tối thiểu con người phải muốn đón nhận. Oscar Wilde viết: “Kẻ đang ở trong tình trạng nổi loạn không thể nhận được ơn sủng”.
Chúng ta nhìn sang tên gian phi sám hối. Nhiều người đã nghĩ rằng người này được cứu độ dễ dàng quá: sau một đời tội lỗi, anh ta chỉ cần nói với Chúa Giêsu một lời thôi thì được tha thứ hết. Anh đã ăn trộm mọi thứ, và cuối cùng lại ăn trộm luôn thiên đàng nữa. Có người khắt khe nghĩ rằng ít ra Thiên Chúa phải bắt anh ta ở trong luyện ngục một thời gian nào đó mới phải.
Thực ra nếu tìm hiểu kỹ trường hợp anh ta, chúng ta sẽ thấy rằng anh đã làm được một việc không phải là nhỏ và cũng không phải là dễ:
Khi bị treo trên thập giá, anh không buông theo khuynh hướng xấu có sẵn trong mình mà bực bội và bất mãn để rồi có những phản ứng như tên gian phi kia, là thù người và hận đời rồi chửi bới lung tung. Thay vào đó, anh nhìn lại chính cuộc đời của mình. Anh đã thấy gì? Thấy cả đời anh chỉ là một đống rác rưởi chẳng có chút gì tốt cả. Từ đó anh ý thức rằng mình đã làm hỏng tất cả: không phải chỉ làm hỏng nhiều việc, mà còn làm hỏng chính cuộc đời mình. Anh biết tội mình, anh nhận trách nhiệm về đời mình.
Sau đó anh lên tiếng can gián tên gian phi kia đừng chửi rủa Chúa Giêsu nữa. Và anh quay sang kêu xin Ngài “Ông Giêsu ơi, khi nào Ông vào Nước của Ông, xin nhớ đến tôi”.
Người ta vẫn có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác chứ không chịu nhận trách nhiệm vào mình. Chuyện gì cũng nói “tại cái này”, “bị cái khác”, “do người này”, “vì người nọ” v. v. Nhiều người còn viện vào khoa tâm lý mà ngụy biện rằng chẳng có gì là tội thực sự cả, tất cả chỉ do hoàn cảnh đẩy đưa; con người bị tác động bởi nhiều động cơ vượt tầm kiểm soát của mình.
Người gian phi sám hối bị tác động bởi hoàn cảnh bên ngoài nhiều lắm chứ: những đau đớn thể xác làm anh khó chịu, những tiếng la ó của dân chúng làm anh tự ái, án tử hình thập giá làm anh nhục nhã Những thứ ấy đều xúi anh nổi loạn. Ngoài ra cái chết gần kề cũng xúi anh thất vọng: tới giờ phút này còn hy vọng gì sửa đổi tình thế được nữa; vả lại tội anh đã quá nhiều và quá rõ…
Có thể sám hối được trong hoàn cảnh như thế không phải là một việc dễ. Tuy nhiên anh đã sám hối. Việc sám hối ấy đã mang lại cho anh chẳng những ơn tha thứ, mà còn cả thiên đàng.
Người gian phi sám hối dạy cho chúng ta biết rằng: không bao giờ là quá trễ để quay về với Chúa, không tội nào là quá nặng để không được thứ tha, bao lâu ta còn thở là ta còn cơ hội để hưởng lòng thương xót Chúa.
* 5. Chúa Giêsu là vua như thế nào?
Trước hết, Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết: «Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành» (Ga 1, 3; xem 1, 10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25, 34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.
Để Ngài có thể hành động biến đổi ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách:
Trước tiên, phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
Kế đến là ý thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
Đồng thời ý thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta.
Vì thế, ta nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài.
Vì Ngài yêu thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.
Và cuối cùng là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ.
Nắm vững điều đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một «cây đèn thần» trong tay, một «bùa hộ mạng» an toàn, một «vị thần bảo trợ» hữu hiệu, một «người tình chung thủy» luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô: «Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4, 13). (Nguyễn chính Kết)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, khi bị đóng đinh trên thập giá, người trộm lành đã thưa với Chúa Giêsu: Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi. chúng ta cũng mượn lời khẩn cầu ấy để thân thưa với Thiên Chúa là Cha chúng ta:
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương mà Chúa đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con cũng biết yêu thương và giúp đỡ hết thảy mọi người như Chúa đã luôn luôn yêu thương và không ngừng nâng đỡ chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
– Trước kinh Lạy Cha: Trong ngày lễ kính Chúa Giêsu là Vua hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến trong cõi lòng mọi người.
– Trước rước lễ: Vua Giêsu đã thương mời chúng ta đến dự tiệc của Ngài. Chúng ta hãy đến dự tiệc thánh trong tâm tình biết ơn và cảm mến. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
VII. Giải tán
Trong khi chờ đợi ngày Chúa Giêsu hoàn toàn làm Vua toàn thể nhân loại, mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm một công dân xứng đáng của Nước Chúa, đó là hằng ngày thực hiện giới luật yêu thương.
Hôm nay, đại lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ, cũng là ngày cuối cùng của Năm Thánh Lòng Thương Xót, năm mà khi suy tư về lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta nhận ra rằng số phận của thế giới không nằm trong tay con người, nhưng trong lòng thương xót của Thiên Chúa. Các bài đọc Kinh Thánh vừa được công bố có cùng một chủ đề là vị thế trung tâm của Chúa Kitô. Người là trung tâm của tạo dựng, trung tâm của dân Chúa và trung tâm của lịch sử, là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, là vị Vua từ bi, thứ tha và hay thương xót.
Hướng nhìn lên đồi Calvariô nơi treo Chúa Giêsu Kitô trên cây Thánh Giá, chúng ta khám phá ra Vị Mục Tử Nhân Lành hiến mạng vì đàn chiên, thương xót, tha thứ và cứu vớt tội nhân. Tấm bảng trên đầu có ghi: “Người này là vua dân Do thái” (Lc 23,38). Điều Philatô đã viết là đã viết. Hình khổ Vua chịu thật là khủng khiếp, mặt mày biến dạng. Thế mà Người lại là vua ư? Sao có thể thế được? Người là Vua những gì?
Câu trả lời: Chúa Giêsu không là vua của những gì hết. Ngài là Vua vinh quang, Vua mọi sự. Đơn giản, Người là Vua, hoàn toàn là Vua. Thực tế xem ra khó chấp nhận, vì người ta muốn biến Chúa Giêsu trở nên trò cười khi mặc cho Người áo đỏ và đội mão gai.
Các bản văn phụng vụ trình bày vương quốc của Chúa Giêsu như một bức tranh đầy ấn tượng. Người là Chúa Cứu Thế đã được xức dầu (x. 1Col 1, 12-20), là Vua duy nhất của vũ hoàn, Vua khiêm nhường, Vua quyền năng. Nhưng Vương quốc của Vua Giêsu không lại thuộc về thế gian này. Vương quốc của sự thật và sự sống, Vương quốc thánh thiện và tràn đầy ân sủng, Vương quốc yêu thương, công lý và an bình. Một vương quốc được sinh ra từ Máu và nước từ cạnh sườn đâm thủng của Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Giá thẳng đứng trong vinh quang. Ngai vàng, gợi lên những sự khiêu khích. Ba lần Chúa Giêsu bị hỏi: “Nếu ông là Đấng Kitô” (x. Lc 23, 35-43). Mỗi nhóm cáo buộc Người đều hỏi về tình trạng cá nhân của chính Người. Các nhà lãnh đạo tôn giáo mong đợi Người Thiên Chúa tuyển chọn nên hỏi: “Nếu ông là Đấng Kitô “(Lc 23, 35). Những tên lính bảo vệ sức mạnh của Đế chế La-mã thách thức Người:”Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”(Lc 23, 38). Một tên trộm cướp cùng bị đóng đinh cũng kêu lên trong đau đớn nhằm thoát khỏi cái chết: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” (Lc 23, 40). Họ khác nhau về địa vị, nhưng lại giống nhau ở điểm thách thức Chúa: “Ông hãy tự cứu mình đi!” Như thể thách Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá để chứng minh vương quốc của mình! Đây là cơn dám dỗ cuối cùng. Nhưng Chúa Giêsu đã không đến thế gian để biểu dương sức mạnh cho ta thấy. Người đến để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa Cha và nhân loại với nhau, đồng thời ban lại cho chúng ta tự do đã bị đánh mất vì tội, nhất là trao ban cho chúng ta tình yêu và lòng thương xót. Lòng thương xót không phải là yếu đuối hay đầu hàng, nhưng là ánh quan mạnh mẽ, hào hùng của tình yêu toàn năng của Chúa Cha, Đấng chữa lành những yếu đuối của chúng ta, nâng chúng ta dậy từ chõ vấp ngã và kêu gọi chúng ta làm điều thiện. Khi chịu treo thên thập giá Chúa Giêsu đã mạc khải vinh quang của Người, Người là Con Chiên bị sát tế để xóa tội trần gian.
Giữa những lời nhạo báng và thách thức, có một lời công nhận vương quốc của Thiên Chúa. Tên trộm lành, một trong hai kẻ chịu cùng bị đóng đanh với Chúa Giêsu, đã hiểu được Vua Giêsu là thế nào, nên anh thưa với Chúa bằng giọng điệu van xin: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Câu trả lời bảo đảm và đầy an ủi của Chúa Giêsu đối với anh: “Ta bảo thật người: ngay hôm nay, người sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 23,43). Chúa Giêsu là Vua, một vị Vua chỉ nói lời tha thứ, chứ không nói lời kết án.
Vương quốc của Vua Giêsu không hão huyền, trừu tượng, vương quốc ấy có mặt ngay hôm nay, nơi Chúa Kitô hiện diện. Như vậy, bản cáo trạng chống lại Chúa Giêsu viết, “Đây là Vua dân Do Thái” là thật trớ trêu, bởi từ trên thập giá vương quốc của Chúa Giêsu Kitô tỏa sáng vinh quang. Cái chết của Người trên thập giá là hành động đẹp nhất chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.
Cùng với thánh Phaolô “chúng ta hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho chúng ta trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp…trong cõi đầy ánh sáng”. Và bày tỏ lòng biết ơn vì: “Người giải thoát ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi” (Cl 1, 12-20). Nhờ sự chết của mình, Vua Giêsu đã hòa giải tất cả mọi sinh linh; “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá”, Người đã đóng ấn một giao ước muôn đời. Khi phục sinh, Chúa Cha đã tôn phong Người làm Vua và là “Trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại”, “Người là đầu của thân thể, nghĩa là đầu Hội Thánh.”
Ai sẽ loan báo cho thế giới vương quốc của Chúa Giêsu, nếu không phải là những chi thể của Thân Thể Người? Một vị vua được thiết lập chỉ để ngưỡng mộ và tôn thờ, sứ mạng của vị vua ấy sẽ vô hiệu.
Câu hỏi đặt ra cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Kitô có phải là Vua và là Chúa của đời tôi không? Ai hiển trị trong tôi, Chúa Kitô hay ai khác? Theo thánh Phaolô, có hai con đường có thể để sống: “hoặc cho mình hay cho Chúa” (x. Rm 14:7-9), vậy tôi sống cho chính mình hay sống cho Chúa?
Lạy Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ Vua Tình Yêu. Xin thương xót chúng con, xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua, nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, mọi vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.
Chủ đề: “Vị Vua bị đóng đinh muốn tha thứ chúng ta như Người đã tha thứ cho tên trộm lành trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên”
Tập san Catholic Digest có mục thường xuyên được gọi là “The Open Door” (Cửa Rộng Mở). Trong mục này thường có hai hay ba câu chuyện do độc giả gởi đến. Những câu chuyện này kể lại sự hoán cải trở lại đạo Công Giáo của độc giả.
Có một câu chuyện thật cảm động về chàng thành niên lớn lên trong một gia đình Công Giáo, từng tích cực hoạt động trong Giáo Hội, và sau đó gia nhập chủng viện.
Rồi đến những năm đầy xáo trộn thời chiến tranh Việt Nam. Trong thời gian này, ba sinh viên ở một đại học Ohio bị giết trong lúc biểu tình phản đối chiến tranh. Những cuộc dấy loạn về sắc tộc như xé nát nhiều thành phố trong nước. Các nhà lãnh đạo quốc gia bị ám sát. Mọi sự bỗng dưng trở nên rời rạc.
Chàng thanh niên này rời chủng viện, tham gia phong trào chống chiến tranh, từ bỏ Giáo Hội, và chế nhạo đức tin mà trước đây anh từng ấp ủ.
Gia đình anh bàng hoàng vì sự thay đổi này. Và khi thái độ của anh ngày càng thù nghịch với tôn giáo, họ đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Sau đó là Tuần Thánh và trong Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1970, chàng thành niên, lúc ấy 22 tuổi, lái xe ngang qua một nhà thờ Công Giáo. Anh nhận ra tên của cha xứ trên tấm bảng trước nhà thờ. Đó là vị linh mục anh rất kính trọng. Điều gì đó đã thúc đẩy anh dừng xe và đi vào nhà thờ.
Khi bước vào cửa, nghi thức Tôn Kính Thánh Giá bắt đầu. Anh ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Anh theo dõi dân chúng xếp hàng lên hôn thánh giá, trong khi ca đoàn hát bài “Were You There When They Crucified My Lord?” (Bạn có ở đó khi họ đóng đinh Chúa không?)
Và rồi điều gì đó thật lạ lùng đã xảy ra. Anh viết:
“Trong con người tôi, điều gì đó đột ngột xảy ra và tôi bắt đầu khóc. Sau khi dằn được xúc động, tôi nhớ lại sự bình an mà từ lâu tôi đã bỏ lại nơi nhà thờ. Đức tin đơn sơ mà giờ đây tôi đang chứng kiến thì dường như có ý nghĩa hơn là điều tôi tuyên xưng. Tôi bước ra khỏi ghế và quỳ xuống hôn Thánh Giá. Vị linh mục nhận ra tôi, ngài đến ôm lấy tôi.”
“Từ ngày đó trở đi,” anh cho biết, “tôi trở nên một người Công Giáo tái sinh.”
Anh kết thúc với nhận xét sau: “Tại sao tôi dừng xe ở nhà thờ đó vào ngày hôm ấy, cho đến giờ tôi vẫn không hiểu, nhưng tôi biết rằng tôi thật sung sướng với các kết quả.“
Tôi thích câu chuyện này vì nó thích hợp với các bài đọc trong ngày lễ Chúa Giêsu là Vua hôm nay.
Vì bài Phúc Âm diễn tả một thanh niên vô tôn giáo, đầy giận dữ đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên cách đây hai ngàn năm.
Và điều thay đổi cuộc đời của người thanh niên này cũng chính là điều thay đổi anh chủng sinh trong câu chuyện. Đó chính là việc đóng đinh Đức Kitô. Đó là việc đóng đinh Đức Kitô Vua.
Và điều mà Đức Kitô trên thập giá đã nói với người trộm thì Người cũng nói với anh chủng sinh:
“Ta hứa với con là hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng.”
Thật khó có bài đọc nào thích hợp hơn để kết thúc năm phụng vụ. Nó tóm lược lý do tại sao Chúa Giêsu đến trong thế gian. Chính là để tha thứ cho tội nhân, như tên trộm-và như anh chủng sinh.
Và điều này đưa chúng ta đến việc áp dụng tất cả những điều này vào thực tế đời sống chúng ta. Đó là:
Điều Chúa Giêsu đã làm cho người trộm lành và anh chủng sinh, Người cũng muốn làm cho chúng ta.
Người muốn tha thứ tội lỗi chúng ta, bất kể có to lớn đến đâu và lâu đời đến đâu.
Người muốn nói với chúng ta điều mà Người đã nói với tên trộm và anh chủng sinh:
“Ta hứa với con là hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng.”
Đây là tin mừng khiến chúng ta quy tụ nơi đây để mừng lễ Kitô Vua.
Đó là tin mừng mà Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời chúng ta và thi hành cho chúng ta điều mà Người đã làm cho tên trộm và anh chủng sinh.
Thánh Phaolô diễn tả tin mừng đó trong bài đọc hai hôm nay:
[Thiên Chúa] đã cứu chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa chúng ta một cách bình an đến vương quốc của Con yêu dấu của Người, mà nhờ Người chúng ta được tự do, đó là, chúng ta được tha thứ mọi tội lỗi.”
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Chế độ quân chủ tại Việt Nam với một ông vua cai trị đất nước kéo dài hàng chục thế kỷ đã thực sự cáo chung vào năm 1945, sau khi vị vua cuối cùng là Bảo Đại bị truất phế. Ngày nay, ý niệm về một thể chế quân chủ đã hoàn toàn trở nên xa lạ đối với tâm thức con người sống trong các nước văn minh. Trên thế giới chỉ còn vài quốc gia như Anh quốc, Thái Lan, Nhật Bản… vẫn duy trì chiếc ghế của nữ hoàng hay hoàng thân, nhưng chỉ là sắc nét văn hóa theo truyền thống, còn thực quyền thì không có. Thể chế dân chủ được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Con người ngày càng văn minh càng thích sống bình đẳng, không ai muốn người khác đè đầu đè cổ mình. Cũng chẳng ai thích sống trong một chế độ mà quyền hành chỉ tập trung nơi một cá nhân, thậm chí vị lãnh đạo ấy nắm trong tay cả quyền sinh sát giống như các vua chúa ngày xưa.
Như vậy mừng lễ Chúa Kitô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi con người thời đại ngày hôm nay hay không, đặc biệt nơi giới trẻ? Đức Giêsu có thực sự là Vua hay đây chỉ là một lối nói cường điệu hóa giống như chúng ta suy tôn lãnh tụ một cách hình thức? Còn nếu Ngài đích thực là Vua, Ngài có bóp nghẹt tự do và nhân quyền của chúng ta hay không?
Các bài đọc Lời Chúa trong phụng vụ hôm nay sẽ gợi mở cho chúng ta câu trả lời.
Ông có phải là vua không?
Hai ngàn năm trước, Philatô đã nêu ra câu hỏi này khi Đức Giêsu bị điệu đến trước mặt ông như một tên tội phạm. Sách Tin mừng thứ tư thuật lại mẩu đối thoại này. Philatô dồn dập đặt ra nhiều nghi vấn, khi ông đối diện trước một con người đã từng được dân chúng tung hô là ‘Con Vua Đavit’, đã từng được mọi người nể phục như một ngôn sứ vì đã làm nhiều điều lạ lùng không giải thích được. Philatô càng ngạc nhiên hơn bởi lẽ, một ông vua phải có dáng vẻ oai phong và hiển hách, nhưng trước mặt ông chỉ là một con người rất bình thường, trong tay không có một tấc sắt để tự bảo vệ, không có một chú lính quèn để hộ tống. Ông mở to con mắt nhìn vào Đức Giêsu với sự kinh ngạc. Nếu ở vào vị trí của Philatô chắc hẳn chúng ta cũng sẽ đặt nghi vấn giống như vậy. Tuy nhiên khi đối diện với Philatô, Đức Giêsu đã không cần che dấu căn tính của mình. Ngài trả lời: “ Chính ông nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi”. Đức Giêsu khẳng định Ngài chính là Vua, và Ngài đến trong trần gian để khai mở Vương quốc của sự thật. Những thần dân của Ngài sẽ nghe tiếng Ngài vì họ là những công dân của Vương quốc ấy. Philatô không hiểu và hỏi lại: “ Sự thật là gì?” Ông chắc chắn không hiểu nổi vì ông đâu có phải là thần dân của vương quốc mà Đức Giêsu đã khai sáng (Ga 18, 33-38).
Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu cũng nói khá nhiều về ‘sự thật’. Ngài mặc khải tiệm tiến về Vương quốc mà chính Ngài sẽ khai mở. Khi nói chuyện với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã vén mở một nền phụng tự mới trong Vương quốc ấy: “ Thiên Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly để giã từ các môn sinh, Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Đức Giêsu sẽ ra đi, tiến nhận cái chết và khai lập vương quốc của chân lý. Đồng thời Ngài cũng chính là sự thật, là con đường dẫn đưa chúng ta đi vào vương quốc vĩnh cửu để chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10, 10). Đối diện trước Philatô, Chúa đã khẳng quyết căn tính của mình, nhưng chắc chắn Philatô không hiểu nổi vì ông ta không ở trong quỹ đạo Nước Trời. “Nước tôi không thuộc thế gian này”(c 36). Tuy nhiên, chính Philatô đã cho treo một tấm bảng đóng trên Thập giá với hàng chữ:‘Đây là vua người Do thái’. Có lẽ đây không phải là một sự tình cờ, song Thiên Chúa đã định liệu và sử dụng một ông quan ngoại giáo để công bố cho cả thế giới biết Đức Giêsu chính là Vua đích thật. Tuy nhiên chúng ta cần suy tư sâu xa hơn để tìm hiểu xem, trong vương quốc sự thật ấy, Chúa đã hành xử vương quyền như thế nào?
Đức Giêsu quả là một vị Vua rất khác người, chẳng giống ai. Vương miện của Ngài là một vòng gai thấm máu đầy nhục nhã. Cẩm bào Ngài khoác chỉ là một tấm thân trần trụi bị treo thân vào khổ giá như một tên tử tội. Ngai vàng cao sang của Ngài là chỗ chuyên để hành quyết những tên cướp đáng sợ. Ngài đã đi xuống tận đáy bùn đen của xã hội loài người, bị đầy đọa, bị chửi rủa, bị khinh miệt và cuối cùng bị giết chết. Vương quốc Nước Trời mà Ngài nói tới là một Vương quốc đảo lộn mọi bậc thang giá trị mà con người vẫn thường đặt định. Sống trong Vương quốc đó, ‘ai làm lớn nhất phải trở nên người bé nhất’. Chính Ngài là một vị Vua cai trị theo một cung cách khác thường, đó là “Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban sự sống cho nhiều người” (Mc 10,45).
Philatô không hiểu là phải, bởi vì ông chưa làm ‘thẻ chứng minh nhân dân’ để trở thành công dân của một vương quốc xem ra có vẻ quái chiêu và nghịch thường đến như vậy. Nói tắt một lời, Vương quốc mà Chúa Giêsu thiết lập chính là Vương quốc của tình yêu. Đó không phải là một quốc gia hùng mạnh về quân sự, về dầu hỏa, về đôla hay về khí tài. Vương quốc của Đức Giêsu đích thực là Vương quốc tình yêu. Chỉ sống trong tình yêu chúng ta mới có được thẻ ID, thẻ căn cước để vào Nước Trời, nước của Ngài.
Vương quốc của tình yêu
Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các học trò. Ngài nói với họ: “ Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Việc rửa chân cho khách đến nhà là công việc của những tôi tớ, thường là những tên nô lệ được ông chủ mua về. Người nô lệ không có một quyền hành nào cả và họ phải làm mọi công việc theo ý chủ. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy, là Vua Chúa hay là bậc Tôn sư của các môn đệ. Nhưng Ngài đã khiêm tốn hạ mình xuống để phục vụ như một tôi tớ hèn mọn. Vì thế trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu nói đi nói lại cho các học trò về khuôn mẫu của tình yêu. “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu chính là ‘bộ luật dân sự’, là hiến pháp căn bản của Vương quốc Nước Trời. Tình yêu cũng chính là tên gọi của Thiên Chúa, hay nói cách khác tình yêu là chính Vương hiệu của Đức Kitô. Trên Thánh giá, Đức Giêsu cũng hành xử vương quyền Ngài để phong thánh cho một tên trộm khét tiếng. Nếu không đi vào quỹ đạo tình yêu và lòng thương xót Chúa, chúng ta sẽ không thể hiểu động thái khác thường này.
Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Piô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến. Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ thai nhi để bảo toàn tính mạng cho người mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Cô đã cầu nguyện trong nhiều ngày và kiên quyết từ chối lời đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “Tôi không thể giết con của tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa”. Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mà cô ta hết lòng thương mến. Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được truyền thụ lại từ chính người mẹ của mình. Đó là người phụ nữ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con bà được sống. Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 tôn phong Chân phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu theo dấu chân của Đức Giêsu. Chính Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo 2 đã nói: “Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới hủy diệt”. Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Đức Giêsu. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng đã từng nói: “Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) để chứng minh mình là công dân Nước Trời.
Kết luận
Một nhà tâm lý học đã nói: “Trong tình yêu, con người rất dễ trở thành người điên.” Điều đó rất đúng nếu chúng ta ngắm nhìn Thập giá Đức Giêsu và Vương quốc của Ngài. Hêrôđê đã mặc cho Chúa chiếc áo đỏ để chế diễu Ngài như một ông vua nửa điên nửa khùng. Khi chịu đóng đanh trên Thập giá, chiếc áo đỏ của Chúa đã bị lột ra, nhưng sự điên rồ vẫn còn rất đậm nét. Cũng trên Thập giá điên rồ ấy, Đức Giêsu khai mở Vương quốc sự thật, đó là Vương quốc của tình yêu. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng trở nên thần dân của Vương quốc cao cả này. Lúc bấy giờ “Ai nấy sẽ thấy Người, kể cả những kẻ đã đâm người. Kìa Người ngự đến giữa đám mây” (Kh 1, 7).
Cuộc thế giới đại chiến lần thứ I (1914-1918) đã tàn phá thế giới, nhất là châu Âu ở một mức độ kinh khủng. Mọi người đều hy vọng rằng với những vết thương còn loang lỗ vì chiến tranh, loài người sẽ sợ hãi và sẽ không bao giờ tạo ra chiến tranh nữa. Tuy nhiên thực tế lại khác hẳn, tàn tích của cuộc chiến còn đó nhưng con người lại bắt đầu bước vào một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm thứ hai. Chính trong bối cảnh đau thương sau thế chiến lần thứ nhất này, mà Giáo Hội kêu gọi tình thương gợi lên nghĩa huynh đệ, cùng là con một Cha, là công dân cùng một nước, bởi vì Thiên Chúa sẽ quy tụ tất cả lại trong Ngài. Cũng chính trong tinh thần đó, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua hôm nay vào năm 1925. Thế nhưng Đức Kitô là Vua theo nghĩa nào?
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, người ta muốn suy tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã từ chối một cách quyết liệt. Hình như Ngài đã xua đuổi và giải tán tất cả những kẻ muốn phong vương cho Ngài. Ngược lại ngay lúc thập tử nhất sinh, lúc mà mỗi lời nói đều có thể đem đến bản án tử hình cho Ngài thì Ngài lại công khai tuyên bố: Quan nói đúng, tôi là Vua, tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng cho sự thật. Ai thuộc về sự thật thì nghe tôi. Chúa Giêsu là Vua, nhưng trong tước hiệu Vua của Ngài có cái gì không ổn, có cái gì ngược đời, có cái gì khác thường như bản án Philatô ghi trên cây thập tự: Giêsu Nadarét là Vua dân Do Thái.
Quan niệm bình thường của con người là gắn liền ông vua với ngai vàng, với quyền lực, với thống trị. Người ta phải dùng tới bạo lực để đạt được ngôi vua, để rồi bắt mọi người phải quy phục mình và ngày đăng quang sẽ là một ngày chiến thắng. Thế nhưng ngày đăng quang của Đức Kitô lại là một ngày thê thảm nhất. Ngai vàng của Ngài là cây thập giá đáng phỉ nhổ, vương miện của Ngài chỉ là một vòng gai làm trò cười cho thiên hạ. Thế nhưng chính lúc ấy: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta. Bấy giờ các ngươi sẽ biết Ta là ai và Đấng đã sai Ta ở với Ta. Cái yếu tố thúc đẩy Ngài lên ngôi vua không phải chỉ vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng chính vì Ngài là tình yêu: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Thập giá là dấu chứng của tình yêu, của phục vụ.
Từ nay, làm Thiên Chúa không còn có nghĩa là bắt con người phải phục dịch mình, nhưng là vác trên vai các con chiên và chăm sóc cho đến độ hy sinh cả mạng sống của mình. Nếu có Thiên Chúa thì chỉ có một Thiên Chúa của tình yêu, của tha thứ, của phục vụ: Các ngươi biết thủ lãnh thế gian thì làm chúa trên họ và những kẻ làm lớn thì bắt họ phục quyền mình. Nơi các ngươi thì không được như thế, ai muốn làm lớn thì hãy hầu hạ các ngươi và ai muốn cầm đầu thì hãy làm tôi tớ cho các ngươi. Cũng như Con Người đến không để được hầu hạ nhưng là hiến mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người.
Trong vương quốc ấy, Ngài đã không cai trị bằng luật rừng, bằng bạo lực nhưng bằng luật yêu thương: Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Hãy thực thi giới luật yêu thương để chúng ta xứng đáng là con dân của Nước Trời, là con dân của Đức Kitô Vua.
Đọc lại Phúc Âm, chúng ta thấy các thánh sử đã ghi lại những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu như sau: Ngài vác thập giá, đi đến một nơi gọi là Golgotha, và tại đó, bị đóng đinh vào thập giá cùng với hai người trộm, mỗi người một bên. Thế nhưng thánh Gioan đã dừng lại ở một số chi tiết đáng cho chúng ta suy nghĩ về vương quyền của Đức Kitô. Trước tiên là tấm bảng mà Philatô đã cho viết và được treo trên thập giá: Giêsu Nadarét, vua dân Do Thái. Ngài nhấn mạnh đến tính cách phổ biến của tấm bảng ấy, vì được viết bằng tiếng Do Thái, Latinh và Hy Lạp, mà nhiều người có thể đọc được vì nơi đó gần thành. Danh hiệu này đã được lặp đi lặp lại như một chủ đề trong suốt cuộc xử án. Philatô hỏi Chúa Giêsu: Ông có phải là vua dân Do Thái hay không? Vậy ông là vua sao? Các người có muốn ta thả vua dân Do Thái cho các người không? Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao? Sự nhấn mạnh của Philatô như thể diễn tả sự châm biếm hay tố giác sự lo âu của ông? Nhưng chính vì danh hiệu này, mà cuối cùng người Do Thái đạt được bản án: Ai xưng mình là vua thì chống lại Xêda.
Một nghịch lý lạ lùng. Đó là một người ngoại giáo đại diện của quyền bính Xêda, lại ban cho Đức Kitô cái danh hiệu mà các thủ lãnh của dân Ngài thì lại khước từ. Những người dân thấp cổ bé miệng lại cũng đã tung hô Ngài là vua Israel, khi Ngài long trọng tiến vào Giêrusalem. Họ muốn tôn Ngài lên làm vua sau phép lạ bánh hoá nhiều. Vương quyền của Đức Kitô không phải là một vương quyền thuộc thế gian này. Vì thế, Ngài đã trốn lên núi để tránh đi sự hiểu lầm ấy. Bây giờ, Ngài không ngại gì nữa. Bị lính tráng đánh đòn, Ngài là một vị vua khiêm nhường và nghèo nàn, theo lời tiên tri Giacaria: Hỡi thiếu nữ Sion, đừng sợ, này vua ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con. Đây là một vị vua đội mương miện là một vòng gai, mặc một cẩm bào là chiếc áo đỏ để rồi bị chế giễu. Philatô có lý: Đây là vua các ngươi. Điều ông viết là được viết cho muôn đời.
Với chúng ta thì lại khác, bằng cái chết tủi hổ trên thập giá, Ngài đã trở nên một vị mục tử nhân lành, hiến mạng sống cho đoàn chiên của mình. Ngài đã khai mạc vương quốc mới của tình yêu, một tình yêu tự hiến: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Cho đến tận cùng thời gian, các môn đệ của Ngài sẽ làm chứng về vương quyền mới mẻ ấy. Họ không được phép mơ tưởng, dù đôi khi bị cám dỗ, về một Giáo Hội quyền lực. Họ chỉ bày tỏ Đức Kitô ra cho thế giới bằng thứ vũ khí của lòng khoan dung, nhân hậu, tha thứ và yêu thương.
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do Thái đang mong chờ một vị vua sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách đô hộ của đế quốc Lamã. Chính vì thế, sau phép lạ bánh hoá nhiều, họ đã tôn Chúa Giêsu lên làm vua, nhưng Ngài lại rút lên núi một mình.
Rồi trước câu hỏi của Philatô: Ông có phải là vua không? Chúa Giêsu chỉ đáp lại: Ông nói đúng. Và Ngài đã chết với bản án: Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy: Ngài là một vị Vua, không giống bất kỳ vị vua nào trên trái đất. Một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội và không bờ cõi. Một vị vua nghèo túng và khổ đau, một vị vua bị lăng nhục, bị nguyền rủa. Và đặc biệt, Ngài là một vị vua nhân hậu.
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy, chính vào lúc Ngài hấp hối trên thánh giá giữa những lời sỉ nhục và thách thức của các thủ lãnh và lính tráng, thì tiếng nói của anh trộm lành bất ngờ vang lên. Anh ta chấp nhận hình phạt: Chúng ta chịu như thế này thật là đích đáng vì xứng với việc chúng ta đã làm. Rồi anh tuyên xưng sự vô tội của Chúa Giêsu: Còn ông này, ông có làm điều gì trái đâu.
Điều lạ lùng hơn nữa là anh đã tuyên xưng vương quyền của Ngài, khi mà mọi sự dường như đã sụp đổ: Khi nào Ngài về nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng. Trong cái nhìn của anh, thì cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá không phải là một dấu chấm hết, anh vẫn tin có ngày Ngài sẽ đến trong nước của Ngài và anh hy vọng mình sẽ được dự phần vào ngày đó.
Và Chúa Giêsu đã ban một ơn trọng đại vượt quá lòng anh mong ước: Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta.
Đức giám mục Bossuet đã chú giải như sau: Hôm nay, quả là nhanh biết mấy. Ở với Ta, quả thân tình biết bao. Trên thiên đàng, quả là nơi hạnh phúc vĩnh cửu. Như thế anh trộm lành là người đầu tiên được hứa ban ơn cứu độ. Kẻ gian phi lại là người trước hết được hưởng hoa trái của cái chết trên thập giá.
Tất cả những việc ấy đều nói lên lòng nhân hậu của Vua Giêsu đối với những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Vị vua bị đóng đinh đã bắt đầu cuộc chinh phục của Ngài trên các tâm hồn. Và sau khi Ngài trút hơi thở cuối cùng, thì viên đội trưởng đã nhìn nhận Ngài là Con Thiên Chúa và đã đấm ngực ăn năn.
Chúa Giêsu là một vị vua khác thường, Ngài không thống trị bằng sức mạnh, nhưng Ngài phục vụ trong yêu thương. Cho đến ngày tận thế, Ngài vẫn thu hút chúng ta đến với Ngài. Thập giá là nơi vương quyền của Ngài được tỏ lộ mà không sợ bị hiểu lầm. Chúng ta cần ngắm nhìn Ngài trên thập giá để biết cách chinh phục thế giới. Bởi vì thế giới hôm nay xúc động trước lòng tha thứ.
Với những hành động bác ái và yêu thương, cho dù là tầm thường và nhỏ bé, chúng ta vẫn có thể làm chứng cho Đức Kitô. Mừng lễ Đức Kitô Vua, chúng ta hãy hạ bệ những thần tượng giả mạo, để cho Ngài chiếm hữu từng khoảng khắc cuộc đời, và ngự trị trong cõi lòng chúng ta.
(Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’)
Trên báo Tuổi Trẻ cách đây khá lâu, tôi gặp một chuyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, mang tựa đề “Tôi thích làm vua”, truyện kể về một đội kịch khi đã dàn dựng xong một vở xoay quanh vai chính là một ông vua. Nhưng đến lúc trình diễn, người thủ vai ông vua đã không có mặt. Đang còn lúng túng thì may sao tác giả chuyện ngắn lù lù dẫn xác tới. Bằng sức ép của tình thân người ta xếp ngay ông vào vai ông vua với lời trấn an: “Làm vua dễ lắm! Chỉ cần áo mão cân đai, trong ngai bệ vệ thị oai xong liền”. Tác giả đã làm như thế và buổi diễn được xem là thành công. Truyện chỉ có thế, nhưng qua mạch kể, dẫn tới kết luận: làm vua quá dễ và xét cho cùng, làm vua cũng có nghĩa là chẳng phải làm gì cả.
Phụng vụ hôm nay cũng đặt tín hữu đối diện với một vị vua: Đức Kitô. Nhưng Người là vị Vua thế nào? Đường lối làm vua của Người có nhàn hạ không?
Ngay từ đời đời, Đức Kitô đã là vua trên cả tạo thành, nhưng vì không muốn cho con người chỉ thấy nơi Người tự bản tính đã là vua, mà còn muốn tỏ bài cho họ hiểu để “là vua” Người phải “làm vua” nữa. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã trở thành Vua muôn vua.
Dẫu là Vua Trời, Người đã chấp nhận từ bỏ tất cả để bước xuống với đời sống con người. Sự bước xuống ấy chẳng phải là một chuyến vi hành như kiểu những ông vua trong truyện “Nghìn lẻ một đêm”, ban ngày thì thét ra lửa, nhưng ban đêm lại cải trang giả dạng thường dân len lỏi vào những ngõ ngách cuộc sống để nắm bắt tình hình dân chúng, rồi bước sang ngày mới, lại áo mão nghêng ngang ra dáng đức vua oai vệ.
Sự bước xuống ấy cũng chẳng phải là những chuyến du hành như những chuyến đi lại của những ông vua hiện đại luôn được bao vây bởi những vệ sĩ cận kề hoặc những fan hâm mộ cuồng nhiệt, có muốn quan sát sự tình cũng khó mà thấy sự thật.
Nhưng sự bước xuống ấy là một chuyến đồng hành theo nghĩa mạnh nhất của từ ngữ này, nghĩa là Vua Trời đã làm người thực thụ giữa muôn người trần gian để đồng hành với con người trong cuộc phiêu lưu cứu độ.
Từ trời cao hạ cố bước xuống với con người, chưa đủ; từ Thiên Chúa tự nguyện bước xuống làm người vì chúng ta, cũng chưa đủ; từ con người vô danh tiểu tốt lại khiêm nhường bước xuống làm một tội nhân dẫu chẳng mang tội gì, cũng chưa đủ. Qua Phúc Âm hôm nay, người ta còn thấy Người bước xuống nữa, từ một tội nhân lại nhận vào mình cái án của tên tử tội.
Đọc kỹ trang Tin Mừng hôm nay, người ta sẽ vô cùng sửng sốt, bởi vì hình ảnh vị vua thì quá nhạt nhòa trong khi hình ảnh của người tử tội lại thật đậm nét, đến nỗi cái chết của người ấy cũng không thể gọi là một cái chết bình thường nếu không muốn nói là “cái chết dữ”, theo ngôn ngữ Việt Nam. Thay vì triều thiên là một vòng gai, thay vì long ngai là một Thánh Giá, thay vì xa giá oai phong lẫm liệt lại chỉ là những tiếng nhục mạ thách thức của đủ mọi thành phần dân chúng. Kỳ mục ghen ghét nên nhục mạ đã đành, lính tráng liên quan gì mà phải lên tiếng, đến như anh trộm dữ chết đến nơi rồi mà vẫn không hết cay xè cà cuống độc mồm độc miệng.
Nhưng người ta càng sửng sốt hơn nữa khi biết rằng người tử tội ấy là Chúa Kitô, và cái chết của Người chính là đỉnh cao tận hiến, đi đến cùng trong lựa chọn hiến thân cho loài người. Nếu sinh thời Người đã nói “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến thân vì bạn hữu” thì câu nói đó trước hết đã ứng nghiệm nơi Người. Người chết thay cho nhân loại mà Người hằng yêu mến, Người chết cho họ được sống. Nhưng chính lúc Người chết lại là lúc Người tỏ mình là Vua như hàng chữ trên Thánh Giá đã ghi rõ.
Người làm Vua bằng con đường tận hiến. Như hạt lúa phải thối đi mới sinh nhiều bông hạt; như cỗ máy phải chấp nhận hao mòn đi mới phát sinh công suất; như bông hoa phải chịu ngắt đi mới trang hoàng đẹp bàn thờ; và cũng như cây nến phải chấp nhận hao mòn đi mới có thể đem cho ngày lễ ánh sáng lung linh.
Nếu toàn cảnh Phúc Âm hôm nay là một bầu khí ảm đạm thì câu kết thúc lại là một cảnh hoàn toàn khác. Từ đỉnh cao Thập Giá, Chúa Kitô hứa Thiên Đàng cho anh trộm lành. Trong lời hứa, người ta đã thấy tỏ hiện vương quyền trời cao; trong cách hứa, người ta đã thấy vinh quang rạng ngời vương quốc; và vượt trên tất cả, trong tương quan của người trao và người nhận lời hứa, là sáng lên dung mạo của vị Vua bao dung thánh hiến tất cả để đặt vào tình trạnh sống mới.
“Hôm nay, anh sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Trong bảy lời Chúa Giêsu phán ra từ Thập Giá, đây là lời oai phong nhất, không là lời của người tử tội, mà là lời của một vị Vua quyền uy trong Vương quốc của Người là Thiên đàng. Đây cũng là lời đậm màu cứu độ nhất vì anh trộm khi chẳng còn hy vọng nào khác đã biết bám víu vào Chúa Giêsu, nên anh đã nhận được ơn cứu rỗi, tức là được thánh hiến để sẵn sàng tháp tùng Người bay thẳng vào chốn Thiên Đàng không cần qua một trạm trung chuyển nào. Sướng thật. Rõ trộm chuyên nghiệp nên phút cuối cùng còn trộm được cả Thiên Chúa.
Có lẽ cũng nên nói một chút về hai chữ “hôm nay” của lời hứa đặc biệt này, một chữ nhiều gợi ý, nhưng gắn liền với việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, nên chữ ấy cũng liên quan đến việc thánh hiến của vì Vua cứu độ. Ngay từ lúc Chúa Giêsu chịu chết, Vương quốc Thiên Đàng của Người đã tỏ hiện, vương quyền thánh hiến của Người đã phát huy, để chữ “hôm nay” trở thành chữ hiện thực muôn đời của tấm lòng vị Vua Cứu Thế.
Qua việc thánh hiến lòng cậy trông của ông trộm lành, Đức Kitô đã khẳng định đường lối làm vua của Người mãi mãi. Người thánh hiến trọn vẹn mỗi người và mọi người, như kiểu nói của thánh Phaolô: “Người thâu họp tất cả trong một đầu mối chính là Người, để mà dâng lên Chúa Cha”.
Tóm lại, Đức Kitô là một vị Vua rất khác lạ, Người làm tất cả chỉ vì muốn cứu độ muôn người: Người tự hiến cúi xuống với con người; Người tận hiến mạng sống cho con người, và Người thánh hiến để con người được sống muôn đời với Người trong vương quốc vĩnh cửu. Vấn đề còn lại là hãy tôn vương Chúa Kitô ngay trong cuộc sống hôm nay.
Có lần đến một xứ đạo vùng Hố Nai dâng Thánh Lễ, tôi không xác định được phương hướng, phải nhờ một bác tài xế chỉ cho. Bác bảo: tới ngã ba thấy tượng Chúa Kitô giang tay, hãy đi về phía tay phải, sẽ gặp địa chỉ muốn tìm. Rõ ràng chỉ là một câu nói, nhưng đầy gợi ý: hãy đi về phía tay phải Chúa Kitô bằng một cuộc sống tốt lành, người ta sẽ gặp được địa chỉ mong ước, đó là Nước Chúa Kitô, là quê hương hạnh phúc.
Nghe bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người thắc mắc: Giáo Hội có nhầm không? Ngày lễ Chúa làm Vua mà lại đọc bài tường thuật cái chết tủi nhục của Chúa. Thật khó hiểu.
Ta không hiểu, vì trí ta luôn vẽ ra hình ảnh một ông Vua theo kiểu trần gian. Trong khi Chúa Giêsu đã cho biết: “Nước tôi không thuộc trần gian này” (Ga 18,36). Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy ba tính cách của Vương quốc Đức Kitô.
Đó là Vương quốc của lòng hiếu thảo. Thiên Chúa muốn thiết lập Vương quốc này ngay từ buổi sơ khai. Nhưng ma quỷ phá hoại bằng cách xúi giục con người chống lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu xuống thế để tái lập mối liên hệ Cha-Con giữa Thiên Chúa với loài người. Người đã sống như một người Con Hiếu Thảo của Đức Chúa Cha. Sống kết hiệp với Đức Chúa Cha. Trong Phúc Âm, lời đầu tiên Người nói là nói về Đức Chúa Cha: “Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con ư?” (Lc 2,49). Lời cuối cùng của Người cũng hướng về Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Trọn cuộc đời Người luôn thi hành thánh ý Cha, cho dù có những lúc phải đổ mồ hôi máu mới bỏ được ý riêng mình. Người đã sống đến cùng tâm tình của người con hiếu thảo. Trên thập giá, Người đã hoàn tất việc thiết lập Vương quốc ban đầu theo ý định của Thiên Chúa; quy tụ những người con hiếu thảo trong nhà Cha trên trời.
Đó là Vương quốc của sự tự do. Con người rời xa Thiên Chúa rơi vào vòng tay ma quỷ. Ma quỷ trói buộc con người bằng những sợi dây nô lệ: nô lệ cho danh vọng, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho thú tính. Đức Giêsu xuống trần gian để giải thoát con người khỏi ách nô lệ ma quỷ. Người cứu con người khỏi mọi thứ sợ hãi. Người giải phóng ta khỏi mọi áp lực, mọi mặc cảm. Trọn đời Người nêu gương một đời sống tự do. Thoát khỏi sự ràng buộc của của cải vật chất, Người sống như một người nghèo: “Con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không có hòn đá gối đầu” (Mt 8,20). Người đã chống lại những cơn cám dỗ về quyền lực từ ngày đầu tiên trong sa mạc cho đến phút cuối đời trên thập giá: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy biến đá thành bánh mà ăn” (Mt 4,3). “Nếu Ông là Đức Kitô, hãy xuống khỏi thập giá, chúng tôi sẽ tin”. Rất tự do, Người đã đi vào cái chết. Chính khi bị treo trên thập giá, thân trần trụi, mất hết mọi uy tín, danh dự, Người đã phá tung hết mọi thứ xiềng xích nô lệ, khai mạc một triều đại tự do cho con người.
Đó là Vương quốc của tình yêu. Chúa Giêsu xuống trần để làm chứng về tình yêu. Rao giảng, thi ân, tha thứ. Tình yêu lên đến cực điểm trong những giây phút cuối đời khi Người quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, khi Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người, khi Người tha thứ cho kẻ phản bội, và nhất là khi Người cầu xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Thật là một tình yêu nguyên tuyền không hề vương chút hận thù. Một tình yêu bao la lan tới mọi góc biển chân trời. Một tình yêu cao cả đáp lại hận thù. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho Đức Chúa Cha. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh giá diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người.
Cái chết trên thập giá là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của tâm tình hiếu thảo. Chiến thắng của sự tự do nội tâm. Chiến thắng của tình yêu. Chính trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi vua. Chính khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Người.
Vương quốc Đức Kitô đã rộng mở chào đón tất cả mọi người. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con hiếu thảo hoàn toàn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha, hãy sống tự do, dứt bỏ mọi ràng buộc của danh, lợi, thú, hãy mở rộng trái tim yêu thương. Như thế ta mới xứng đáng trở thành công dân trong Nước Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua của tâm hồn con, xin nhận con vào Vương quốc của Người. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đã bao giờ bạn cảm nghiệm được sự tự do hoàn toàn, không còn ham hố tiền tài, danh vọng, lạc thú chưa? Nếu có, bạn cảm thấy thế nào?
2) Hình ảnh về Vua Giêsu nghèo hèn, khiêm nhường, chịu thiệt thòi, luôn tha thứ gợi lên trong bạn tâm tình nào?
3) Tuần này bạn sẽ làm gì để Vương quốc Chúa Giêsu lan rộng tới những người chung quanh?
Hạnh phúc nào cũng có nước mắt – dù ít hay nhiều. Nước mắt thì mặn chát. Tình yêu càng nhiều đau khổ thì niềm hạnh phúc càng chan chứa. Cuộc sống cũng tương tự. Hầu như đó là “nguyên lý” của cuộc đời. Người ta ví von rằng “hạnh phúc giống như chiếc đồng hồ, loại nào ít phức tạp thì ít hư hỏng, loại nào càng đơn giản thì càng bền.
Vinh quang và đau khổ là hai lĩnh vực trái ngược nhau nhưng lại liên quan lẫn nhau. Cũng vậy sự sống và sự chết liên quan lẫn nhau. Sống mà cứ coi như mình sắp chết để có thể tránh nhiều thứ phiền toái, và thật kỳ lạ, chính cái chết lại là ngưỡng bước vào sự sống. Quá đỗi kỳ diệu!
Đức Kitô là Sự Sống (Ga 14:6), tức là Nguồn Sống, bất cứ ai muốn đến với Chúa Cha đều phải đi qua “con đường của sự sống” ấy, không thể không “đi qua” chính Đức Kitô Giêsu. Ngài là sự sống mà lại bị người ta giết chết, nhưng rồi Ngài đã chiến thắng Tử Thần và phục sinh vinh hiển, và mãi mãi Tử Thần phải thần phục Ngài. Ngài là Vua của muôn loài, và Ngài được Chúa Cha trao quyền xét xử muôn loài, ngay cả Satan cũng phải xuất đầu lộ diện mà trình diện Ngài: “Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa; Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN Đức Chúa” (G 2:1).
Trình thuật ngắn gọn 2 Sm 5:1-3 cho biết: Toàn thể các chi tộc Israel đến gặp vua Đa-vít tại Khép-rôn và thưa: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Israel”. Đức Chúa đã phán với ngài: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Israel”. Toàn thể kỳ mục Israel đến gặp vua tại Khép-rôn. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Đức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Israel.
Quốc Vương thời Cựu Ước là hình bóng tiên báo về Vị Thiên Vương Tối Cao thời Tân Ước là Đức Giêsu Kitô. Điều tiên báo từ ngàn xưa đã ứng nghiệm từ hai ngàn năm qua, đó là Đức Kitô đã đến thế gian, và chính Ngài đã xxác định: “Ai NGHE lời tôi và TIN vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5:24).
Vua chúa trần gian có thể hét ra lửa, xử sao nên vậy, nhưng chỉ là cho sống hoặc bắt chết về phần xác mà thôi, còn Thiên Chúa là Chúa của các chúa, Vua của các vua, đặc biệt là Ngài “có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28). Tử Thần còn khuất phục thì ai có thể làm gì trái lệnh Ngài chứ?
Thật là hạnh phúc khi chúng ta được là thần dân của Thiên Vương Giêsu, Thánh Vương Kitô. Không thể có niềm hạnh phúc nào khác khả dĩ so sánh được với niềm hạnh phúc mà chúng ta đang được tận hưởng.
Khi vui mừng, chắc chắn người ta không thể trì hoãn cái sự sung sướng ấy được. Tác giả Thánh Vịnh cũng vậy, cũng người trần mắt thịt, thế nên không thể không bày tỏ niềm hạnh phúc: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: ‘Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!’. Và giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân” (Tv 122:1-2).
Nhà Chúa là Nhà Cầu Nguyện, luôn có điều gì đó linh thiêng, khó diễn tả bằng phàm ngôn. Giêrusalem là hình bóng của Thánh Đô Thiên Quốc. Dù là Đền Thờ nơi trần gian nhưng vẫn được xây dựng một cách đặc biệt. Tác giả Thánh Vịnh mô tả: “Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Israel. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đa-vít” (Tv 122:3-5).
Đức Giêsu Kitô là Vua cả vũ trụ, cả càn khôn, cách riêng Ngài là Vua của cuộc đời mỗi chúng ta. Hôm nay và mãi mãi, hãy không ngừng tôn vinh Ngài: “Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mc 11:10). Với diễm phúc này, chúng ta có dành cả đời để dâng lời cảm tạ cũng không đủ. Mong ước chúng ta được tiếp tục là thần dân của Ngài nơi Thiên Quốc Hằng Sinh để đời đời chúc tụng Ngài!
Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, hạnh phúc tăng theo cấp số nhân. Niềm vui quá lớn, hạnh phúc dạt dào. Thật khó tả! Với kinh nghiệm từng trải và bằng cảm nghiệm tâm linh sâu sắc, Thánh Phaolô chân thành nhắn nhủ: “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta ĐƯỢC ơn cứu chuộc, ĐƯỢC thứ tha tội lỗi” (Cl 1:12-14).
Quả thật, những tội nhân như chúng ta có mơ cũng chẳng thấy, thế nhưng không phải mơ mà là sự thật. Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng NHỜ Người và CHO Người” (Cl 1:15-16). Được làm thụ tạo là hạnh phúc lắm rồi, nhưng chúng ta không chỉ là thụ tạo mà còn được làm người, hơn hẳn các loài thực vật, sinh vật và động vật, đặc biệt còn được làm con cái của Thiên Chúa. Điều đó được chứng mình qua hằng ngày, chúng ta hãnh diện được gọi Thiên Chúa là Thân Phụ: “Lạy Cha (của) chúng con, Đấng ngự ở trên trời,…”. Thật là trên cả sự tuyệt vời!
Còn nữa, chứ chưa dừng lại ở mức đó. Thánh Phaolô nói: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1:17-20). Chúa Giêsu là Huynh Trưởng, còn tất cả chúng ta là những tiểu đệ và tiểu muội của Ngài. Chúa Giêsu là Vua, vậy thì chúng ta là em của Vua, cũng có nghĩa là chúng ta thuộc dòng dõi Hoàng Tộc. Đặc biệt hơn là chúng ta còn được hòa tan vào Thiên Chúa, nên một với Ngài mỗi khi tiếp rước Thánh Thể. Ôi, thật là kỳ diệu quá chừng!
Huynh Trưởng Giêsu là Vua, nhưng Ngài không đăng quang, không ngai vàng, không vương trượng, không lòng bào,… như các vua chúa trần gian. Ngài là Vua-đa-không, không được tiền hô hậu ủng.
Trình thuật Lc 23:35-43 cho biết giây phút “đăng quang” đặc biệt của Vua Giêsu: Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”. Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”. Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái”. Vua Giêsu bị sỉ nhục đến tột cùng, nhưng Ngài vẫn im lặng. Sự im lặng của Ngài khiến những kẻ thủ ác hả hê và ngạo nghễ, tưởng mình đã chiến thắng. Sự kiêu ngạo thật tồi tệ!
Không chỉ có thế, chính một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”. Đúng là kẻ hợm hĩnh già mồm. Chết đến nơi mà còn hống hách với người khác. Có lẽ nghe “ngứa tai” nên tên kia lên tiếng mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”. Xấu thì xấu, dữ thì dữ, ác thì ác, nhưng tâm hồn của anh ta không như dáng bặm trợn bề ngoài.
Và rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”. Và Chúa Giêsu nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Có thể nói rằng diễm phúc nhất là tướng cướp này, có tên cúng cơm là Dismas.
Vua Giêsu quá nhân hiền và đại lượng. Tội tày trời, cả đời không hề tỏ ra chút xót thương bất cứ ai, coi trời bằng vung, mấy ai dám “chơi ngông” như Dismas. Thế mà chỉ một lời sám hối chân thành, mọi tội lỗi của anh ta được Vua Giêsu xí xóa hết, hoàn toàn trắng án, không phải vô Luyện Hình, mà được cùng Chúa Giêsu vào Thiên Đàng ngay đêm hôm đó.
Điều này nhắc nhở chúng ta đừng tuyệt vọng, dẫu có đôi khi cảm thấy thất vọng theo bản tính phàm nhân, hãy vững tin vào Lòng Thương Xót vô bờ bến của Thiên Chúa. Thất vọng về tình trạng tội lỗi của mình là một dạng kiêu ngạo, vì như vậy là không tin vào lòng đại lượng ta thứ của Thiên Chúa. Hạy vững tin, vì chính Chúa Giêsu đã xác định với Thánh Faustina: “Lòng Thương Xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới” (Nhật Ký, số 1485). Và Ngài cũng đã hứa: “Không một linh hồn nào kêu gọi Lòng Thương Xót của Ta mà phải thất vọng bao giờ” (Nhật Ký, số 1541). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được áp dụng với bất cứ tội nhân nào chân thành sám hối.
Với những người có chức, có quyền, lễ Chúa Kitô Vua nhắc nhở họ điều rất quan trọng qua lời Chúa Giêsu xác định với tổng trấn Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11). Đừng tưởng có “quyền” rồi thì mặc sức “hành” người khác. Tất cả mọi người đều là tôi tớ, và Chúa Giêsu nói rõ hơn: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12:47-48).
Thiên Chúa là ai? Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa của anh em là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả uý, không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ, xử công minh cho cô nhi quả phụ, yêu thương ngoại kiều, và cho họ bánh ăn, áo mặc” (Đnl 10:17-18). Thiên Chúa là Vua Hòa Bình, Vua Công Lý, Vua Lòng Thương Xót, và mọi quyền hành đều phát xuất từ Ngài. Đặc biệt là Ngài chí công, nghiêm minh khi thưởng công và trừng phạt.
Vua Giêsu là Thiên Chúa, thế mà Ngài đã đi trọn con đường đau khổ mới có thể đạt tới Vương Quốc vinh quang, vĩnh hằng, chắc chắn chúng ta không thể đi bất cứ một con đường khác!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết Ngài và biết con, xin thêm sức mạnh cho con để can đảm thú nhận tội lỗi và xin tha thứ mọi tội lỗi của con đã xúc phạm đến Ngài và đến tha nhân. Cúi xin Vua Giêsu cai trị và hướng dẫn cuộc đời con đi đúng định hướng của Chúa Cha. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
NGƯỜI CÔNG DÂN ĐẦU TIÊN TRONG VƯƠNG QUỐC VUA KITÔ
Trên thập giá, ngay trước khi tắt thở, Đức Giêsu đã hé mở cho thấy một điều vĩ đại vượt quá sức hiểu biết của tất cả mọi người: thiên đàng là vương quốc không chỉ dành riêng cho các kẻ đạo đức thánh thiện, mà trước hết là gia nghiệp biếu không cho tất cả các tội nhân cầu mong được xót thương tha thứ; điều này có thể làm nhiều người chúng ta ngạc nhiên, ngạc nhiên tới độ cảm thấy bị sốc, bị xúc phạm. Ta vẫn thường nghĩ: công dân thiên đàng phải là các bậc đạo đức thánh thiện, nếu không xuất chúng trổi vượt như các bậc đại thánh được tuyên phong thì chí ít cũng phải là lương thiện tốt lành tới một mức độ nào đó. Ấy vậy mà công dân đầu tiên và tiêu biểu của vương quốc Vua Kitô, công dân được chính Vua Kitô long trọng kết nạp ngay trên thập giá, lại là một tên đại gian đại ác tới độ xã hội loài người phải tìm cách loại bỏ bằng cách lên án tử.
Ngay cả Giêsu đang bị bị đóng đinh trên thập giá cũng bị thiên hạ bên dưới bêu rếu nhạo cười: nhạo cười vì chính tước hiệu ‘Vua’ mà ông đã tự gán cho mình; ‘Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái”. Do Thái lúc đó đồng nghĩa với một dân tộc nhược tiểu, bị trị… và quan tổng chấn Phi-la-tô, khi cho viết, đã hàm ý đó; thậm chí cả các người Do Thái cũng cảm thấy bị nhục mạ vì cách nhạo cười bêu rếu này…, nên họ đã cực lực phản đối. Thế nhưng, người duy nhất đã nghiêm túc xác nhận lời bêu rếu trên là chính đáng, lại là chính người đang bị nhạo cười; ‘Phi-la-tô hỏi Người: “Ông là vua dân Do Thái sao?” Người trả lời: “Chính ngài nói đó!” Thế thì quả thật Đức Giêsu đã khảng định cách công khải: Người là Vua, và cùng với lời tuyên bố đó, một Vương Quốc mới đã bắt đầu lộ diện, một Dân Riêng mới, một Do Thái mới. Tuy nhiên vấn nạn được đặt ra là: vương quốc đó thực tế là gì, và sẽ dành cho những ai? ai mới xứng đáng được gia nhập vương quốc của vị Vua bị đóng đinh này? Chắc chắn đó là những câu hỏi cần tìm được lời giải đáp! Trong vương quốc Do Thái của Cựu Ước, công dân là những người như tổ phụ Áp-ra-ham, đặt trọn niềm tin vào lời hứa của Đức Chúa; và họ cụ thể hóa niềm tin đó bằng việc nắm giữ trọn vẹn các lề luật do Mô-sê để lại. Vậy thì, nếu công dân vương quốc cũ đã phải là như thế thì công dân của vương quốc Do Thái Mới sẽ phải làm gì đây, đồng thời họ phải hội đủ các điều kiện nào để được gia nhập? để giải đáp vấn nạn này ta chỉ cần nhìn vào người công dân đầu tiên và tiêu biểu của Vương Quốc ấy là đã hiểu ra ngay, cả về bản chất lẫn điều kiện để được gia nhập.
Trong trình thuật thương khó của Phúc Âm Lu-ca, diện mạo người công dân đó đã được phác họa cách rõ nét: Lu-ca mô tả tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu trên thập giá là công dân đầu tiên của vương quốc mới thiết lập. Sẽ không ai gọi hắn là ‘lành’ vì cả đời tên này đã sống gian hùng và từng phạm nhiều trọng tội tới độ xã hội phải tuyên án tử. Một tên đại gian đại ác như thế mà lại được chính Đức Giêsu trực tiếp công bố rằng: anh được kể như người thứ nhất được nhận vào Vương Quốc mình thiết lập: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Ta thắc mắc: tại sao lại như thế, hắn đã làm được gì? – thưa, điều duy nhất mà tên gian phi này đã may mắn làm được trước khi chết là kêu nài tới lòng xót thương của Tân Vương: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông xin nhớ đến tôi!” Đơn giản chỉ có thế, và thế là anh ta đã được nhận vào Vương Quốc, được trở thành công dân đầu tiên của Nước Trời!
Tín hữu của mọi tôn giáo đều có chung một tư duy: ‘thiên đàng hay thiên cung’ là nơi chỉ dành cho những con người tốt lành thánh thiện. Riêng Tin Mừng của Đức Giêsu mới cho thấy điều ngược lại: trên thiên đàng của Cha Người xuất hiện một hạng người ‘lành thánh mới’, phù hợp hơn với Vương Quốc được Thập Giá tình yêu cứu độ thiết lập. Nếu ‘lành thánh cổ điển’ là tu thân tích đức, là đạo đức khôn ngoan…, chí ít cũng phải ăn ngay ở lành, thì ‘lành thánh mới’ chỉ đơn giản là đón lấy lòng thương xót vô biên mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho mọi người trong Đức Kitô Giêsu. Nếu tên trộm trở nên ‘lành’, hay tên tướng cướp trở nên ‘thánh’ thì cũng chỉ vì hắn đã nại tới lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa.
Quan trọng hơn nữa: chúng ta không được coi người công dân đầu tiên này chỉ như một biệt lệ, một luật trừ hiếm hoi. Đúng hơn: anh ta phải được nhìn nhận như một nguyên mẫu (prototype) của mọi công dân trong Vương Quốc mới của Vua Kitô. Điều này đã được chứng minh qua thị kiến tông đồ Gio-an ghi lại trong sách Khải Huyền: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy?” “Họ là những người… giặt sạch và tẩy áo mình trong máu Con Chiên… Và Thiên Chúa lau sạch nước mắt họ” (Kh 7:13-14. 17). Thiên đàng mới hầu như gồm toàn những con người như thế cả, nói cách khác: mọi công dân Nước Trời đều phải là như thế. Vương quốc của Vua Kitô không phải là một thiêng đàng đầy khoái lạc được dùng để ân thưởng cho những thần dân trung tín tốt lành; Vương Quốc của Vua Kitô Giêsu Thập Giá chan hòa tình yêu tha thứ và cứu độ của Thiên Chúa. Vương quốc này sẽ đón nhận hết thảy mọi người, kể cả những kẻ gian hùng tội lỗi nhất, miễn là họ biết khiêm tốn đưa tay ra lãnh lấy tấm thẻ công dân được lòng thương xót Chúa ban tặng cho cách nhưng không. Đúng hơn, càng những ai nhận biết thân phận bất xứng tội lỗi của mình, thì lại càng dễ dàng mau mắn đưa tay ra đón nhận hơn. Như thế công việc và điều kiện duy nhất cần chu toàn để gia nhập Vương Quốc của Vua Kitô chỉ có thể là: khiêm tốn đón lấy ơn cứu độ đầy xót thương mà Thiên Chúa không ngừng trao ban!
Chúng ta được Hội Thánh nói cho biết: trong Vương Quốc ấy có một công dân rất tiêu biểu và uy tín: công dân Maria, người nữ đã từng khiêm tốn thốt lên tự đáy lòng mình: “Thiên Chúa đấng cứu độ tôi, đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn này!” (Lc 1:48) Chính vì khiêm tốn tột độ chân nhận Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ của mình, mà Ma-ri-a mới thật sự xứng đáng trở thành Nữ Hoàng trong Vương Quốc của Vua Giêsu Kitô nhân ái.
Ngay cả một linh mục như tôi cũng không có cách nào khác để trở thành công dân Nước Trời! hơn nữa, nếu muốn trở thành công dân cao cấp hơn trong Vương Quốc đó, tôi sẽ phải nỗ lực trong diện nào hơn hết? Nếu trả lời được các vấn nạn trên, thời con đường ‘thánh thiện – công chính’ của tôi sẽ rộng mở hơn bao giờ hết; và rồi thì công tác mục vụ tôi đảm trách sẽ minh bạch và trực diện hơn nhiều!
Lạy Vua Kitô của vương quốc tình yêu cứu độ, xin hãy tiếp nhận con vào vương quốc của Người; xin cũng hãy nói với con như Chúa đã từng công bố với tên gian phi: “ngay hôm nay con sẽ ở với Cha trong vương quốc”. Xin hãy ban cho con ơn trọng đại nhất: là khi giờ chết đến, con biết ném mình vào lòng nhân hậu vô biên của Chúa. Xin cho con sở đắc vĩnh viễn được cái cảm giác tuyệt vời mà đã một lần con được nếm cảm trong giờ chết lâm sàng…, là được tan biến trong vòng tay nhân ái thứ tha, và được vòng tay này ôm ấp đến muôn đời. Amen.
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Mặc dù có nhiều ý kiến phê phán cách dùng danh xưng “vua” để chỉ Chúa Giêsu, viện lẽ rằng danh xưng này gắn liền với xã hội phong kiến lỗi thời, Giáo Hội vẫn tiếp tục dùng tước hiệu này và tôn vinh long trọng trong ngày Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là vua. Nhưng Ngưởi là một vị vua không có ngai vàng. Nói đúng hơn, Người không dùng ngai vàng để biểu dương quyền lực trần thế. Ngai vua của Người là một dụng cụ tử hình, là cây thập giá đã được dựng nên trên đồi Canvê. Như thế, mặc dù dùng danh xưng vua để chỉ Chúa Giêsu, thì khái niệm vua nơi Người vẫn hoàn toàn khác với một vị vua trần thế.
Không phải vô tình mà thánh sử Luca nhấn mạnh đến tấm biển gắn phía trên của thập giá. Tấm biển này mang dòng chữ “Người Này Là Vua Dân Do Thái”, được viết bằng ba thứ tiếng: Hy lạp, Latinh và Do Thái. Thánh Gioan còn thêm một chi tiết: nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh gần cổng thành, nơi có đông người qua lại nên rất nhiều người đọc được dòng chữ này (x. Ga 19,20). Tiếng Hy Lạp là ngôn ngữ của nền văn hóa đương thời; tiếng Latinh là ngôn ngữ của chính trị; tiếng Do Thái là ngôn ngữ của tôn giáo. Tước hiệu vương đế của Đức Giêsu được giới thiệu và tuyên xưng trong mọi lãnh vực, cho cả thế giới, mọi nền văn hóa và ý thức hệ chính trị. Thực tế hôm nay cho thấy điều “tiên tri” này đã được thực hiện: danh Đức Giêsu được kêu cầu bằng mọi ngôn ngữ trên thế giới. Tin Mừng của Người đã đến với mọi nền văn hóa, thấm nhập và làm cho thăng hoa phát triển.
Phụng vụ giới thiệu với chúng ta một vị vua nổi tiếng là đạo hạnh của Cựu ước (Bài đọc I). Đó là vua Đavít. Ông là vị vua thứ hai sau Sa-un, kể từ khi Ít-ra-en thiết lập nền quân chủ. Việc Đavít được xức dầu phong vương được coi như một việc làm theo ý của Thiên Chúa. Đavít là hình ảnh của Vị Vua Vũ Trụ là Đức Giêsu là chúng ta tôn vinh hôm nay. Tuy vậy, vương quốc của Đức Giêsu không thu hẹp trong ranh giới của Ít-ra-en như Đavít, nhưng lan rộng khắp thế giới, vì “Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất”. (Bài đọc II).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca làm chúng ta ngỡ ngàng. Đức Giêsu thi hành quyền vương đế của Người không bằng phong độ của một vị vua trần thế, nhưng lại quyền uy gấp bội phần. Một người bị kết án treo trên thập giá, bị chế diễu nhục nhã, đang quằn quại đau đớn và sắp trút hơi thở cuối cùng mà lại tuyên bố sẽ cho người trộm có lòng sám hối được vào vương quốc của mình. Vương quốc ấy được chính Đức Giêsu gọi là thiên đàng, là nơi mọi người đang ước ao và cố gắng đạt được sau khi đã kết thúc cuộc sống ở trần gian. Quả thật đây là một vị vua không giống những vị vua trần thế. Ngai vàng của Người là thập giá. Thập giá là biểu tượng của hy sinh và tự hiến. Trên ngai vàng thập giá đó, Chúa Giêsu đã tỏ cho nhân loại biết tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người mênh mông rộng lớn tới mức nào. Và, đã hai mươi thế kỷ, vương quyền yêu thương của Người đã được một phần lớn nhân loại đón nhận. Đức Giêsu là vua của vương quốc yêu thương, công bình, vĩnh cửu (lời Tiền tụng thánh lễ). Ai sống yêu thương bác ái thì được thuộc về vương quốc của Chúa.
Việc người trộm sám hối được đón nhận vào thiên đàng là bằng chứng của tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Người tín hữu tìm thấy niềm hy vọng nơi nhân vật người trộm này. Mặc dù tội lỗi, anh đã tuyên xưng Đức Giêsu là vua. Anh muốn được vào vương quốc của Người và ước vọng của anh đã được chấp nhận. “Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Nhận ra vương quyền của Đức Giêsu và cố gắng sống xứng đáng là công dân trong vương quốc của Người, đó là ơn gọi của người tín hữu. Có những lúc người công dân trong vương quốc của Chúa phải chấp nhận những thiệt thòi hy sinh mất mát để có thể trung thành với Chúa và được hạnh phúc Nước Trời. Nhiều khi chúng ta có khuynh hướng chọn lựa một Đức Giêsu vương hoàng theo kiểu trần gian. Lúc đó, chúng ta chỉ tôn thờ hình ảnh của Người mà chưa chắc được gặp Người.
Việc tôn vinh Đức Giêsu là Vua vào Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ mang một ý nghĩa đặc biệt. Chúng ta được mời gọi hướng về ngày cánh chung, tức là ngày tận thế, ngày tận cùng của lịch sử nhân loại. Khi ấy, mọi quyền bính trần thế sẽ chấm dứt; mọi chia rẽ hận thù và chiến tranh tàn khốc sẽ không còn. Chỉ còn vương quốc yêu thương và an bình tồn tại. Vương quốc ấy là vương quốc của Chúa Giêsu. Vị Vua Giêsu vẫn đang hiện diện trong cuộc sống của Chúng ta. Một vị vua không thực thi quyền thống trị. Người đang tiếp tục đi qua các ngả đường và ngõ xóm, ngồi trên lưng một chú lừa con, như trên đường phố Giêrusalem xưa. Người đang gõ cửa tâm hồn chúng ta, dù chúng ta không đón tiếp Người. Trước mặt chúng ta, Người cũng trần trụi như khi đứng trước Philato và mời gọi chúng ta nhận ra mình thuộc về chân lý. Mỗi tín hữu chúng ta được mời gọi nhận ra Người và cùng với Người và anh chị em chung tay xây dựng vương quốc của Người ngay từ hôm nay, khởi đi từ những cố gắng rất đơn giản dung dị trong cuộc sống đời thường.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tôn nhận Chúa là vua của cõi lòng mỗi người chúng con. Xin Chúa thương chúc phúc và trợ lực để chúng con xứng đáng là công dân của Nước Trời. Amen.
Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi.
Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của các ứng viên tổng thống Hoa Kỳ đã đến hồi kết thúc: ngày 8-11-2016 vừa qua, cử tri Mỹ đã chọn ra vị tân tổng thống cho đất nước của mình. Theo kết quả bỏ phiếu, ông Donald Trump, thành viên đảng Cộng hòa, đã đắc cử và trở thành vị tổng thống thứ 45 của đất nước Cờ Hoa.
Trong cuộc tranh cử tổng thống, cả hai ứng viên, bà Hillary Clinton, đại diện cho Đảng Dân Chủ và ông Donald Trump, đại diện cho đảng Cộng Hòa đều hứa hẹn rất nhiều. Họ tranh thủ cử tri bằng việc đưa ra những chiến lược đổi mới trong nhiều lãnh vực: giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, điều chỉnh chính sách thuế, ổn định vấn đề người di dân, cải cách an sinh xã hội… Giờ đây, công dân Mỹ đang chờ đợi xem vị tân tổng thống có thực hiện những điều ông đã hứa khi tranh cử hay không. Thông thường, ngôn từ của các chính trị gia được gọi là “Lời nói gỗ – Langue de bois”, có nghĩa là không thực và chỉ là những “xảo ngôn”, hứa cho qua.
Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ”. Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, nhưng, chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18). Thiên Chúa Cha cũng sẽ quy phục mọi thù địch dưới chân Người (1Cr 15,25). Đức Giêsu làm vua, vì Người là Con Thiên Chúa, Đấng tác tạo vũ trụ. Người cũng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là dung mạo đầy từ bi thương xót của Chúa Cha. Người đã vâng lời Đức Chúa Cha đến mức chấp nhận cái chết trên thập giá, để cứu độ con người (x. Phl 2,6-12). Chúa Giêsu là vị Vua đã chiến thắng sự chết và đã phục sinh vinh quang. Người là Vua của vương quốc công chính, an bình và yêu thương. Vương quốc của Người không biên giới. Mọi người bất kỳ thuộc về nền văn hóa, chủng tộc hay ngôn ngữ nào, nếu họ thực hành đức yêu thương thì trở thành công dân của Vương quốc này.
Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái. Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai. Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang. Người cũng không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương. Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Mang lấy ách” là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy.
Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi. Thánh Luca giới thiệu với chúng ta một vị vua không giống quan niệm trần gian. Đó là một vị vua không có hoàng bào, không ngai vàng, không đội quân danh dự. Ngai vàng của Người là cây thập giá. Bên cạnh Người là hai kẻ trộm với hai thái độ khác nhau: một người hằn học lên án, một người khiêm tốn bênh vực. Đối với người trộm bênh vực Chúa, Người hứa cho họ được vào Nước Trời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Còn lời nào ngọt ngào và hy vọng hơn lời này? Bởi lẽ hành phúc thiên đàng là đích điểm cuộc đời của mỗi chúng ta. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của Người. Quyền ấy như quyền của một vị vua, có thể cho phép một công dân gia nhập vương quốc của mình.
Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên công dân của vương quốc của vị Vua Giêsu. Khi suy tôn Người là Vua, chúng ta hãy cố gắng sống đúng với kỷ luật của vương quốc ấy. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: đừng quên rằng Đức Giêsu đã giải thoát chúng ta, đồng thời đưa chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của vương quốc của Người, nhờ đó mà chúng ta được ơn tha thứ mọi tội lỗi (Bài đọc II).
Không chỉ hứa với người trộm biết sám hối ăn năn, Chúa cũng nhiều lần hứa ban những điều tốt lành cho những ai tin tưởng cậy trông vào Người. Người hứa hiện diện giữa chúng ta khi chúng ta tập hợp với nhau cầu nguyện nhân danh Người. Như người cha, người thày cảm thương những người con, Chúa khẳng định với chúng ta: “Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Tin vào lời hứa của Chúa, chúng ta hãy thực hiện những gì Người dạy, vì “Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được” (Kinh Trông cậy).
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự trị cõi lòng mỗi chúng con, để gánh nặng cuộc đời của chúng con trở nên nhẹ nhàng êm ái. Xin hãy hướng dẫn soi sáng cuộc đời chúng con để lời nói, việc làm và tư tưởng của chúng con luôn ngay thẳng và thánh thiện, đẹp lòng Chúa và thân ái với anh chị em chúng con. Amen.
(Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thánh lễ bế mạc Năm Đức Tin tại Quảng trường Thánh Phêrô – Chúa nhật Lễ Chúa Kitô Vua, 24-11-2013 – Huy Hoàng chuyển ngữ – Nguồn: WHĐ)
Hôm nay, đại lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ, cũng là kết thúc Năm Đức tin đã được Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI công bố. Giờ đây chúng ta hướng về Đức Bênêđictô với đầy lòng yêu mến và biết ơn vì ngài đã tặng cho chúng ta món quà ấy. Nhờ sáng kiến do Chúa quan phòng này, ngài đã cho chúng ta cơ hội khám phá lại vẻ đẹp của hành trình đức tin đã khởi đầu từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và anh chị em với nhau trong Giáo hội. Mục tiêu tối hậu của cuộc hành trình ấy là chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa một cách trọn vẹn, và trong hành trình ấy Chúa Thánh Thần thanh tẩy chúng ta, nâng chúng ta lên và thánh hoá chúng ta, để đưa chúng ta vào cõi phúc lòng chúng ta hằng khát khao.
Tôi xin gửi lời chào thân ái và huynh đệ đến các vị Thượng phụ và Tổng giám mục Trưởng của các Giáo hội Công giáo Đông phương đang hiện diện ở đây. Lời chúc bình an mà tôi sẽ trao đổi với các vị trước hết muốn nói lên rằng Giám mục Roma nhìn nhận các cộng đoàn này đã tuyên xưng Danh Chúa Kitô với một lòng trung thành gương mẫu, thường phải trả giá đắt.
Đồng thời, với cử chỉ này, qua các vị, tôi cũng muốn liên kết với tất cả những Kitô hữu đang sống ở Thánh Địa, ở Syria và trong toàn thế giới Đông phương, xin cho tất cả được ơn bình an và hoà hợp.
Các bài đọc Kinh Thánh vừa được công bố có cùng một chủ đề là vị thế trung tâm của Chúa Kitô. Chúa Kitô ở trung tâm, Chúa Kitô là trung tâm. Chúa Kitô là trung tâm của tạo thành, trung tâm của dân Người và trung tâm của lịch sử.
Hình ảnh này cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu là trung tâm của tạo thành; và, vì thế thái độ phải có của người tín hữu –nếu muốn là người tín hữu– là phải nhận biết và chấp nhận vị thế trung tâm ấy của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sống, trong tư tưởng, trong lời nói và hành động của mình. Khi ấy tư tưởng của chúng ta sẽ là tư tưởng của người Kitô hữu, của Chúa Kitô; hành động của chúng ta sẽ là hành động của người Kitô hữu, của Chúa Kitô; lời nói của chúng ta sẽ là lời nói của người Kitô hữu, của Chúa Kitô. Trái lại, khi chúng ta đánh mất trung tâm này, vì đã thay thế bằng điều gì khác, thì sẽ chỉ là tác hại, cho môi trường chung quanh chúng ta và cho chính chúng ta.
Chúa Kitô, hậu duệ của vua Đavit, chính là người “anh em” mà dân Chúa vây quanh, là Đấng chăm sóc dân, chăm sóc tất cả chúng ta, với cái giá phải trả là mạng sống của Người. Trong Người chúng ta nên một; một dân duy nhất được kết hiệp với Người, chúng ta chia sẻ một hành trình duy nhất, một vận mệnh duy nhất.
Trong khi tất cả những người khác nói với Chúa Giêsu một cách khinh miệt – “Nếu ông là Đấng Kitô, là Đấng Mêsia, thì hãy cứu mình đi và hãy xuống khỏi cây thập tự!” – thì người trộm đã phạm bao lỗi lầm trong cuộc sống, cuối cùng lại sám hối, níu lấy Chúa Giêsu đang chịu đóng đinh và cầu xin: “Khi ông vào Nước của ông, xin hãy nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Và Chúa Giêsu hứa với anh: “Hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên đàng với tôi” (c. 43). Chúa Giêsu chỉ nói lời tha thứ, chứ không nói lời kết án; và khi con người biết can đảm xin ơn tha thứ, Chúa không bao giờ bỏ rơi lời cầu xin ấy. Ngày nay, tất cả chúng ta có thể nghĩ đến câu chuyện của chúng ta, hành trình của chúng ta. Mỗi người chúng ta đều có câu chuyện của mình; mỗi người chúng ta cũng có những sai lầm, tội lỗi, những lúc hạnh phúc và những khi đen tối. Ngày hôm nay là dịp tốt để mỗi người nghĩ đến câu chuyện của mình, và nhìn Chúa Giêsu rồi chân thành lặp đi lặp lại trong thinh lặng: “Lạy Chúa, bây giờ Chúa đang ở trong Nước Chúa, xin nhớ đến con! Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến con, vì con muốn sống tốt, muốn nên tốt lành, nhưng con yếu đuối, con không thể: con là người tội lỗi. Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến con. Chúa có thể nhớ đến con, vì Chúa là trung tâm, Chúa ở trong Nước Chúa!” Thật đẹp biết bao! Tất cả chúng ta hãy làm điều đó trong ngày hôm nay, mỗi người hãy làm điều đó trong tâm hồn mình, nhiều lần. “Lạy Chúa, Chúa ở trung tâm, Chúa ở trong Nước Chúa, xin nhớ đến con”.
Lời hứa của Chúa Giêsu với người trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao: lời ấy nói với chúng ta rằng ơn Chúa bao giờ cũng phong phú hơn lời cầu xin. Chúa luôn ban cho nhiều hơn, Người rất quảng đại, luôn ban cho nhiều hơn điều con người cầu xin: bạn xin Người nhớ đến bạn, còn Người lại đưa bạn vào Vương quốc của Người! Chúa Giêsu chính là trung tâm những nỗi khát mong niềm vui và ơn cứu độ của chúng ta. Nào chúng ta hãy cùng nhau lên đường!
(Trích từ ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
“Đáng lẽ tôi đã được rửa tội từ lâu, nhưng vì vấn đề gia đình và làng xóm nên chưa được. Dù vậy tôi rất ư là kitô hữu.”
Đó là lời của nhạc sĩ Văn Cao trong một cuộc gặp gỡ riêng tư năm 1990. Cụ đã sung sướng khoe với mọi người như thế, và thẳng thắn nhìn nhận: “Chúng tôi đã được đào tạo, nhờ đức tin và âm nhạc kitô giáo.”
“Chúng tôi” ở đây muốn ám chỉ giới trí thức và văn nghệ sĩ thế hệ của cụ.
Đức tin đã thấm vào con người tài hoa ấy, và làm sản sinh những tác phẩm bất hủ.
“Nếu tôi không hiểu Halêluia là gì, thì đã chẳng có bài “Làng tôi”, cụ bảo vậy.
Chẳng ai ngờ Văn Cao lại là con người say mê Giêsu, mà là Giêsu trên thánh giá. Từ năm 1954, cụ vẫn treo một thánh giá trước mặt.
Giêsu trần trụi, Giêsu không còn gì. Nhưng đối với Văn Cao, có ai hơn Giêsu?
Bài Tin Mừng trong lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ lại đưa ta về với Chúa Giêsu trên thập giá. Chẳng lúc nào Chúa làm vua rõ bằng lúc này. “Đây là vua người Do thái”, tấm bảng ghi như thế. Nhưng kiểu làm vua của Ngài thật khác thường. Không có vương miện, chỉ có vòng gai. Không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê.
Bị treo trên thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc, ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ buổi đầu. “Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình”. “Hãy xuống khỏi thập giá” (Mt 27,40). Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến.
Chính vì Ngài thật là Con của Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi thập giá như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.
Đức Giêsu không muốn chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác.
Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, vị Vua bị đóng đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng. “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Như thế kẻ gian phi lại là người đầu tiên được ơn cứu độ nhờ cái chết thập giá của Đức Giêsu.
Mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ, chúng ta muốn khước từ những thần tượng giả mạo, muốn để Ngài làm vua của vũ trụ lòng mình. Chúng ta muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực cuộc sống: văn chương, khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội… Cần có đức tin mạnh mẽ mới thấy Chúa Giêsu vẫn không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Ngài bằng trăm ngàn nẻo đường bất ngờ, trong đó có nẻo đường của cụ Văn Cao và anh trộm lành.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người cho rằng: “Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng có nhiều tiện nghi vật chất, thì lòng đạo đức càng sa sút. Nước Chúa như bị thu hẹp lại.” Bạn có đồng ý với nhận xét trên không? Làm sao để tiện nghi vật chất không làm người ta xa Chúa?
Bạn đã làm gì để Nước Chúa đến với tập thể bạn đang sống như gia đình, xứ đạo, cộng đoàn, trường học, nơi làm việc? Bạn có gặp những khó khăn khi xây dựng Nước Chúa trong môi trường sống của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu, nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo, thì thế giới này sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên, thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu, có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ, chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con, và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người Công giáo chịu để Chúa chi phối đời mình và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến. Như thế vũ trụ này trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Hôm nay chúng ta tuyên xưng Vương quyền của Chúa Giêsu, một Vương quyền tuyệt đối: Người là Vua Vũ Trụ; Người là Vua của mọi tâm hồn; Người là Vua cứu độ, Vua nắm vận mệnh đời đời của từng người. Lẽ ra, với quyền cao cả như thế, khuôn mặt của Vua Giêsu sẽ đầy uy quyền, sẽ rạng rỡ, sẽ đáng khiếp sợ…
Nhưng không, trong khi tuyên xưng Vương quyền cao cả của Chúa, Hội Thánh lại trình bày khuôn mặt của một vị Vua đầy đau khổ, đầy chấp nhận, dù phải chịu roi đòn, dù phải chịu khổ hình thập giá, dù phải bị giết chết, dù phải cam chịu ruồng bỏ…
Đặc biệt, ngay phần mở đầu bài Tin Mừng, trong khi bị treo trên thánh giá, xung quanh Chúa Giêsu chỉ toàn những lời nhạo báng. Những lời nhạo báng ấy, đại diện cho mọi tầng lớp, mọi thành phần của loài người.
– Trước tiên là sự cười nhạo của các thủ lãnh. “Các thủ lãnh buông lời cười nhạo: ‘Hắn cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được Chúa tuyển chọn!’ ”.
– Lính tráng, chỉ là kẻ thừa lệnh, cũng lên tiếng cười nhạo Chúa: “Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: ‘Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!’ ”.
– Kẻ trộm cướp, dù mang thân phận đầy tội lỗi, cũng không đứng ngoài cuộc: “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: ‘Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!’ ”.
Như vậy, với bài Tin Mừng chứa đầy lời nhạo báng, Hội Thánh không nhắm trình bày khuôn mặt Vua của Chúa Giêsu theo kiểu suy nghĩ của người trần thế, nhưng trình bày Vương quyền của Đấng đã từng phán: “Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20.27-28).
Vì thế, nhìn vào khuôn mặt Vua của Chúa Giêsu, chúng ta không ngần ngại khẳng định: Chúa làm Vua là để phục vụ ơn cứu độ, phục vụ sự sống đời đời của loài người. Người làm Vua không phải để thống trị, không phải để thể hiện quyền bính, nhưng là “phó mạng sống làm giá cứu chuộc” loài người. Chính vì thế, trong kinh Tin Kính, chúng ta xác tín mạnh mẽ: “Vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế” nhập thể làm người, chịu khổ hình, chịu đóng đinh vào thánh giá, chịu chết và sống lại…
Vậy, đứng trước Vương quyền tình yêu của Vua cao cả, chúng ta phải sống làm sao cho xứng hợp?
Trọn bài Tin Mừng, không phải chỉ bao gồm những lời nhạo báng, mà còn có lời thú tội hết sức khiêm nhường của người trộm cùng bị chết treo với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Nếu có ba lời nhạo báng của ba hạng người, thì lời cầu xin ơn tha thứ của người trộm cũng gợi lên trong ta ba tâm tình giúp ta sống, nhằm khả dĩ đáp lại phần nào tình yêu của Đức Vua. Ba tâm tình đó là:
(Trích từ ‘Những Bài Suy Niệm và Cầu Nguyện Hằng Ngày’)
Giáo hội Kitô giáo luôn luôn kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.
Lễ Chúa Kitô Vua chỉ mới được thiết lập vào năm 1925 mà thôi. Trong cuộc đời Chúa Giêsu, biến cố thể hiện vương quyền của Chúa Giêsu là biến cố Chúa lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha trong vinh quang. “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Ta”. Đó là lời quả quyết của Chúa Kitô Phục Sinh trước khi sai các Tông Đồ ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Như vậy, ngày lễ Chúa Thăng Thiên có thể nói là ngày mừng kính vương quyền của Chúa Giêsu Kitô một cách phù hợp hơn cả. Thế nhưng tại sao Giáo Hội lại mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ?
Năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Thiên Chúa và cuối cùng trở về với Ngài. Thiên Chúa là khởi đầu và là cuối cùng của lịch sử. Kết thúc năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc lại giây phút chấm dứt, giây phút vũ trụ đạt đến cùng đích tột cùng là Thiên Chúa, giây phút Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang. Trong viễn cảnh này thật là điều thích hợp cho việc Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ. Ngài đã nhập thể làm người trong một lịch sử dân tộc, cụ thể để thiết lập Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người, và kể từ giây phút đó, Nước Thiên Chúa luôn luôn được phát triển, được lan rộng, cho đến mức thành toàn cuối cùng khi Chúa Giêsu Kitô ngự đến và đưa tất cả về cùng Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu Kitô là Vua không những vì Ngài đã sinh ra làm người, thuộc dòng dõi vua Đavid, mà hơn nữa vì Ngài là Con Thiên Chúa, mọi sự nhờ Ngài mà được hiện hữu sinh động. Nhưng trớ trêu thay, Chúa Giêsu Kitô không thiết lập vương quốc của Ngài như một vương quốc phàm trần và bằng những phương tiện phàm trần như chiến tranh, chiếm đoạt bằng sức mạnh bạo lực. Không, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết lập một cách kỳ diệu bằng một hành động hy sinh cao cả trên thập giá, tột đỉnh của cuộc đời của Chúa trên trần gian để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Chúa Giêsu Kitô là vua khi Người bị treo lên thập giá. Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc ghi trên thập giá Chúa dòng chữ: “Đây là Vua dân Do Thái”. Thiên Chúa đã muốn dùng hành động bêu xấu này như muốn nhắc nhở con người, để mạc khải cho con người một sự thật không thể chối bỏ được rằng: Chúa Giêsu Kitô là Vua. Ngài trổi vượt lên trên mọi người không những vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, mà vì Ngài đã thực hiện một hành động cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương con người để cứu rỗi con người.
Truyện cổ tích Ai-len có kể lại một nhà vua không có con nối dòng. Muốn đi tìm hoàng tử để truyền ngôi lại cho, và chỉ có một điều kiện duy nhất mà vị hoàng tử phải có là chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với con người ở mức độ cao nhất. Nhiều người đã đến trình diện với nhiều cách, nhiều bằng chứng về tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em xung quanh, nhưng những bằng chứng đó không có sức thuyết phục nhà vua. Cuối cùng, có một chàng thanh niên đến trình diện với một bộ đồ cũ rách. Chàng thanh niên này được nhận. Chàng không cần phải dài dòng thuyết phục nhà vua vì chàng thanh niên này chính là người mà nhà vua đã gặp chiều hôm trước:
Số là vì nhà vua đã cải trang làm một người hành khất để thử lòng những vị hoàng tử tương lai của mình. Nhiều chàng thanh niên đã đi qua, nhìn thấy người ăn xin rách rưới, và xa tránh, chỉ có người thanh niên này dám dừng lại, hy sinh luôn cả chiếc áo mới của mình và dám mặc lại chiếc áo cũ để vào trình diện nhà vua. Tình yêu nằm trong con tim con người chứ không nằm trong chiếc áo bên ngoài.
***
Quí vị và các bạn thân mến,
Chúa Giêsu đã chứng tỏ tình yêu của mình bằng cái chết trên thập giá. Ngài đáng làm vua nêu gương cho chúng ta sống theo Ngài. Phúc Âm (Lc 23,35-43) ghi lại cảnh Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá làm căn bản cho những suy niệm cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
Đọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta có thể lưu ý rằng giữa bao người lăng mạ, nhạo báng Chúa và vương quyền của Ngài thì có một người nhìn nhận vương quyền của Chúa, và người đó lại chính là kẻ tội phạm cùng chịu đóng đinh với Chúa. Anh ta đã khám phá ra tình thương bao la của Chúa: Một kẻ vô tội mà bị nguyền rủa nhưng lại tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình. Anh ta đã khám phá nơi hành động của Chúa như một dấu chỉ mạc khải tình thương của Ngài, và từ đó nhìn Chúa là vua và bày tỏ ước muốn được sống trong Nước Tình Thương này. “Lạy Chúa, khi nào về Nước Ngài, thì xin nhớ đến tôi cùng”.
Chúa Giêsu đã mạc khải vương quyền của Ngài bằng hành động cao cả nhất của tình thương là hy sinh chính mình. Không ái có tình yêu thương hơn kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương và chỉ những ai khám phá ra tình thương của Chúa thì mới tin nhận Chúa làm vua và đáng bước vào trong Nước Chúa.
Xưa cũng như nay, luôn có những người không hiểu xuyên tạc, và cười nhạo vương quyền của Chúa Kitô: Nếu Chúa là vua tại sao không dùng quyền của mình để thoát chết, để trả thù, để thống trị, để hưởng lợi. Nhưng trớ trêu thay, con người đã dùng thập giá để bêu xấu, để loại trừ Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại chính đó là dấu chỉ Thiên Chúa dùng để thiết lập và mạc khải vương quyền của Chúa trên cả mọi sự. Chúa Giêsu Kitô là vua, Ngài làm vua bằng tình yêu thương và để gieo rắc khắp nơi tình yêu thương đó.
Lạy Chúa Kitô Vua, trước sự xấu xa và ngoan cố của con người. Xin cho chúng con được can đảm bước vào trong nước yêu thương của Chúa bằng con đường thập giá mà Chúa đã đi qua. Amen.
(Suy niệm của Lm Ignatio Trần Ngà)
Ngay từ thủa khai sinh nhân loại, Nguyên Tổ loài người là A-đam và E-va đã bị Sa-tan cám dỗ từ bỏ đường lối Thiên Chúa để theo đường lối Sa-tan. Hai ông bà đã nghe theo lời ma quỷ xúi giục, không vâng phục Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Thế là một khi “Đầu Tàu” đã đi trật đường rầy thì sẽ lôi kéo các “toa tàu”, tức là vô vàn con cháu về sau đi vào ngõ cụt, lao vào cõi đau khổ trầm luân.
Để cứu nhân loại thoát cảnh lầm than do Nguyên Tổ A-đam E-và gây ra, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế đầu thai làm người, trở thành Nguyên Tổ mới, tác sinh ra một nhân loại mới, đồng thời trở nên như là “Đầu Tàu” thứ hai dẫn đưa nhân loại vào chốn hồng phúc.
Sa-tan đã hạ đo ván Nguyên Tổ A-đam E-va ngay từ thử thách đầu tiên, nay lại thừa thắng xông lên với quyết tâm lôi kéo “Đầu Tàu” thứ hai là Đức Giê-su Ki-tô đi trệch đường lối Thiên Chúa, nhằm nhận chìm nhân loại vào trong cõi trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Mặc dầu Chúa Giê-su là Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng Người đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Philipphê 2, 7), do đó, “Người đã chịu thử thách (cám dỗ) về mọi phương diện cũng như ta” (Do thái 4, 15). Chính vì thế, Sa-tan không ngừng cám dỗ Chúa Giê-su đi trệch đường của Thiên Chúa Cha với hy vọng phá vỡ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
***
Lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giê-su từng bị cám dỗ ba lần trong hoang địa khi mới chuẩn bị bước vào đời sống công khai. Chúa Giê-su anh dũng chống lại và đã chiến thắng. Ma quỷ đành rút lui để chờ dịp khác.
Trong thời gian rao giảng, Chúa Giê-su từng bị cám dỗ lên làm vua (Gioan 6, 14), bị cám dỗ đừng lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ nạn (Mt 16, 22-23) và đặc biệt, cơn cám dỗ hết sức khốc liệt nơi vườn Dầu (Lc 22, 41-44).
Nơi đây, Chúa Giê-su bị giằng co giữa hai chọn lựa quyết liệt: uống chén đắng hay khước từ chén đắng? Chấp nhận làm theo ý Chúa Cha để rồi phải chết trong tủi nhục đau thương hay là làm theo ý mình để được sống an bình?
Cuộc giằng co trong nội tâm đã khiến Chúa Giê-su phải toát mồ hôi máu. Nhưng cuối cùng Đức Giê-su đã chiến thắng: “Xin đừng theo ý Con, một xin theo ý Cha”. (Lc 22, 42). Người cương quyết vâng theo ý Chúa Cha bước vào cuộc khổ nạn đau thương để cứu độ muôn người.
Thế nên lần nầy, Sa-tan ra sức đánh trận cuối cùng, may ra giành được chiến thắng vào phút chót. Chiến lược của Sa-tan là tìm cách cám dỗ Chúa Giê-su xuống khỏi thập giá nhằm phá vỡ hoàn toàn kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Trước hết, qua miệng các thủ lãnh, Sa-tan khiêu khích: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”
Phải rồi, khi tự mình xuống khỏi thập giá, muôn người sẽ tin nhận Đức Giê-su thật sự là Đấng Ki-tô… như thế sẽ có lợi cho biết bao tâm hồn.
Tiếp theo, Sa-tan dùng lời binh lính để dụ dỗ Chúa Giê-su: “Hãy xuống khỏi thập giá đi.” Lý do được đưa ra là: “Ông là vua dân Do-Thái”. Đúng vậy, là vua thì phải xuống khỏi thập giá để lãnh đạo toàn dân thần phục Thiên Chúa, hẵn sẽ có lợi hơn nhiều.
Ngay cả tên tử tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giê-su cũng được Sa-tan sử dụng để cám dỗ Người: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Phải rồi, là Đấng Ki-tô thì có dư quyền năng để tự cứu mình và cứu luôn hai nạn nhân đang cùng chịu khổ nạn đau thương với mình. Thực là điều chính đáng!
Nhưng Chúa Giê-su đã không chịu lùi bước trước bất kỳ cám dỗ nào. Người quyết vâng phục Chúa Cha cho đến hơi thở cuối cùng. Người đã chiến đấu kiên cường và đã hoàn toàn chiến thắng.
Lời thánh Phao-lô trong thư Philipphê (chương 2, 6-11) sau đây như khúc khải hoàn ca tán dương Chúa Giê-su đã vẻ vang chiến thắng:
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.”
Ngợi ca Vua Giê-su Ki-tô toàn thắng vinh hiển muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Lm Ignatio Trần Ngà)
Thiên Chúa mong muốn loài người đi theo đường lối Ngài để họ được hạnh phúc và được sống muôn đời. Trong khi đó, ma quỷ luôn tìm mọi cách để lôi kéo con người đi trật đường lối Thiên Chúa, để con người phải sa đoạ, phải đau khổ và diệt vong.
Ngay từ đầu, ma quỷ tìm cách lôi kéo tổ tiên loài người là Adam – Evà đi trật đường Thiên Chúa. Hai ông bà đã sa ngã và toàn thể con cái loài người phải mang họa.
Nay ma quỷ tiếp tục cám dỗ, lôi kéo Đức Giêsu, một Ađam mới, đi trật đường lối của Thiên Chúa Cha bằng nhiều chiêu thức khác nhau.
Mặc dầu Chúa Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng Ngài đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Philipphê 2, 7), do đó, “Ngài đã chịu thử thách (cám dỗ) về mọi phương diện cũng như ta…” (Do thái 4, 15). Dựa vào đó, Sa-tan không ngừng cám dỗ Chúa Giêsu đi trệch đường của Thiên Chúa Cha với hy vọng phá vỡ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
* * *
Lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu bị cám dỗ ba lần trong hoang địa khi mới chuẩn bị bước vào đời sống công khai. Ngài đã anh dũng chống lại và Ngài đã chiến thắng. Ma quỷ đành rút lui để chờ dịp khác.
Trong đời rao giảng, Chúa Giêsu từng bị cám dỗ lên làm vua (Gioan 6, 14), bị cám dỗ đừng lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ nạn (Mt 16, 22-23) và đặc biệt, cơn cám dỗ hết sức khốc liệt nơi vườn Dầu (Lc 22, 41-44).
Nơi đây, Chúa Giêsu bị giằng co giữa hai chọn lựa quyết liệt: uống chén đắng hay khước từ chén đắng? Chấp nhận làm theo ý Chúa Cha để rồi phải chết trong tủi nhục và vô cùng đau thương hay là làm theo ý mình để được sống an bình?
Cuộc giằng co trong nội tâm đã khiến Chúa Giêsu phải toát mồ hôi máu. Nhưng cuối cùng Đức Giêsu đã chiến thắng: “xin đừng theo ý Con, một xin theo ý Cha”. (Lc 22, 42)
Nhưng Sa-tan vẫn chưa chịu lùi bước, lại còn đeo đẳng cám dỗ Chúa Giêsu đến giờ phút cuối cùng. Người ta gọi đây là những cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu, được thánh Luca thuật lại trong Tin Mừng hôm nay.
Trước hết, các thủ lãnh cám dỗ: “hãy xuống khỏi thập giá đi!”. Lý do mà các thủ lãnh đưa ra là: “cứu được người khác, tại sao không tự cứu mình?”. Nghe thật chí lý!
Quân lính cũng đưa ra cám dỗ tương tự: “hãy xuống khỏi thập giá”. Lý do mà quân lính đưa ra: “Ông là vua dân Do-Thái”, tương lai đầy hứa hẹn, lẽ nào lại chọn cho mình cái chết oan ức và ô nhục thế nầy, hãy tự cứu mình đi!
Ngay cả tên tử tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu cũng cám dỗ Ngài với lý do: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Phải rồi, mình đã cứu được bao nhiêu người khác, lẽ nào lại không tự cứu mình? Mình là Vua dân Do-Thái, lẽ nào ông vua mà lại thảm hại thế nầy ư? Mình là Đấng Kitô được Thiên Chúa sai đến, lẽ nào Đấng Kitô lại kết thúc cuộc đời cách bi thảm thế nầy sao?
Nhưng Chúa Giêsu đã không chịu lùi bước trước các cơn cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến đấu oanh liệt và đã đi đến chiến thắng cuối cùng. Nhờ đó, Ngài mới được tôn vinh là Vua hoàn vũ, đã sửa lại sự sai trật của tổ tông, mang lại ơn cứu độ cho muôn người.
* * *
Hôm nay chúng ta cũng đang lâm chiến chống lại Sa-tan và tội lỗi như Chúa Giêsu ngày xưa. Vốn mang tính xác thịt nặng nề, tự sức mình chúng ta không thể nào chống lại mưu chước Satan. Phải cậy nhờ Chúa Giêsu thôi. Ngài là người bạn đồng minh đã không bao giờ thua cuộc và hôm nay vẫn đang sống bên ta và đang cùng ta chiến đấu.
Vì thế, mỗi lần bị cám dỗ, chúng ta hãy nhớ đến người bạn đồng minh và thưa với Ngài: Lạy Chúa Giêsu, xin chiến đấu cùng con và giúp con chiến thắng. Nhờ Ngài, chúng ta sẽ thắng được các cám dỗ và sẽ được thông phần vinh hiển với Ngài trên quê Trời mai sau.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước.
Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến nhà vua càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu mình nữa hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để ngỏ lời yêu thương với nàng.
Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôn”, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”.Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một “Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài. Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta. Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn, qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?
Hôm nay, là ngày lễ Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta, Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen.
Tình yêu là mức đo giá trị mọi thực tại. Chiếm được trái tim là chiếm được tất cả! Đó là trung tâm qui tụ toàn thể tiểu vũ trụ. Từ tiểu vũ trụ sang đại vũ trụ, Đức Giêsu vẫn là vua, vì Người đã đã chiếm trọn con tim nhân loại. Khi nằm trên thập giá, Đức Giêsu thấy tất cả những giới hạn vô cùng hẹp hòi của người đời. Tất cả binh lính đều một giọng như nhau: “Nếu ông là vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi!” (Lc 23,37) Các thủ lãnh có vẻ thâm độc hơn: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” (Lc 23,35) Nhưng Đức Kitô vẫn im lặng. Tuy cười nhạo Chúa, bọn lý hình đã thâm gan tím ruột khi đọc bản án tổng trấn Philatô truyền viết phía trên đầu tử tội: “Đây là vua người Do thái.” (Lc 23,38) Không cưỡng nổi lệnh truyền đó, nên họ đã tìm cách trả thù. Bao nhiêu căm tức đã đổ dồn lên con người Đức Giêsu.
Nhưng chẳng có đau khổ nào lớn hơn khi chính người đồng cảnh ngộ cũng về hùa với bọn lý hình nhục mạ Chúa: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứ mình đi, và cứu cả chúng tối với!” (Lc 23,39) Trước những thách thức ồn ào đó, Đức Giêsu vẫn im lặng. Dân chúng khi thì a dua (Lc 23,17-25), lúc lại bàng quang: “Dân chúng thì đứng nhìn.” (Lc 23,35) Thái độ bất động của dân chúng rất phức tạp. Nhưng chắc chắn không phải ai cũng như bọn binh lính hay người gian phi thiếu hiểu biết. Thật vậy, “dân chúng theo Người đông lắm.” (Lc 23,26) Ngay trong hàng ngũ quân đội cũng có “viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: ‘Người này quả thật là công chính.’” (Lc 23,47) Nếu Người là công chính, tất nhiên bản án tử hình là một bất công lớn lao giáng xuống người vô tội. Như thế, Đức Giêsu đã chiếm trọn được lòng người, kể cả những tên lý hình và người gian phi. Một trong hai người gian phi đã thành tâm thưa với Chúa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,41) Giữa lúc cùng khốn đó, trí óc ông vẫn minh mẫn biện hộ cho Chúa, đối lại với đồng bọn: “Ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23,42) Nghĩa là, chính những người đã từng chống cưỡng lệnh Thiên Chúa, giờ đây cũng phải tuyên xưng Người là Đấng Công Chính. Chính vì thế, Đức Giêsu đã mạc khải cho ông tất cả sự thật về Nước Chúa: “Tôi bảo thật anh: hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23,43) Tin Mừng luôn mang tính “hôm nay” ngay cả khi gặp cảnh cùng khốn nhất. Khác hẳn với những kẻ lợi dụng tương lai để biện hộ cho những ý đồ thống trị hiện tại, Đức Giêsu luôn tìm thấy nét hiện thực trong Tin Mừng. Người không muốn trốn thoát hiện tại, dù hiện tại đau thương nhất, để ẩn mình trong cái vỏ tương lai.
Chính vì thế, Tin Mừng luôn mang tính hiện sinh, loan báo cho người hôm nay về một Vua Công Chính, Vua Hòa Bình. Mọi đối kháng đều bị hóa giải trong chính trái tim Người. Nói khác, Người đã xin Chúa Cha tha thứ cho những tên lý hình (x. Lc 23,34) và người gian phi, như Người đã từng tha thứ cho Maria Mađalêna, phụ nữ Samaritana, Phêrô v.v. “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1,20) Là con dân trong Nước Chúa, Kitô hữu không thể không nhớ tới sứ mệnh hòa bình, hòa giải của mình trong gia đình cũng như xã hội. Sứ mệnh đó chúng ta đã đón nhận từ ngày tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô trong bí tích thánh tẩy. Quả thực, “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh.” (Cl 1,18) Trở thành chi thể Đức Kitô, chúng ta chia sẻ cùng sứ mệnh với Người. Chỉ khi nào thi hành sứ mệnh cao cả đó, chúng ta mới được vinh phúc trở thành con Thiên Chúa (x. Mt 5,9)
Chính khi thi hành sứ mệnh đó, chúng ta chia sẻ vương quyền Đức Giêsu. Trong bí tích thánh tẩy, chúng ta đã được chia sẻ quyền làm vua với Chúa. Sứ mệnh vương giả đó chỉ được thể hiện trong phục vụ. Phục vụ là đối thoại, lắng nghe, tôn trọng mọi người. Phục vụ là sẵn sàng coi người khác hơn mình. Người phục vụ không có gì để tự hào. Trái lại, họ biết mình phục vụ ai và tại sao phải phục vụ. Phục vụ cho một đối tượng duy nhất là Đức Kitô, hiện thân nơi nhiệm thể là Giáo hội, tức là dân Chúa. Họ noi gương Đức Giêsu, Đấng đã “sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22,27) Thầy phục vụ cho đến chết. Con đường phục vụ là con đường ngắn nhất dẫn đến vinh quang Nước Chúa. Mỗi khi phục vụ, họ thấy mình trở nên giống Chúa Kitô và thể hiện được tất cả nét dịu hiền và đầy lòng thương xót của Chúa. Phải có một tấm lòng bao dung như Chúa mới có thể phục vụ một cách vô tư mọi người, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo. Đây là nét đặc trưng cao đẹp nhất của Nước Chúa dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô. Có lẽ nhiều người sẽ đồng ý với những người Hồi giáo Algerie rằng: “Giáo hội Công giáo rất nhạy cảm trước nỗi khổ đau của người Algeria và mọi nơi, bất kể họ có tin vào Đức Kitô hay không.” (VietCatholic 23/11/2001) Tính cách vô tư đó đã hấp dẫn mọi người tìm đến với Đức Kitô Vua Tình Yêu. Nhờ Người, Thiên Chúa “đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.” (Cl 1,13)
Chính Người đang thúc đẩy “triều đại Cha mau đến.” (Mt 6,10) Hằng ngày chúng ta vẫn đọc lời kinh cao đẹp ấy. Nhưng hỏi mấy ai hiểu được ý nghĩa sâu xa trong lời kinh đó? Thú thật cho đến gần đây, mỗi khi đọc lời kinh đó, cá nhân kẻ viết bài này rất run sợ vì vẫn nghĩ rằng Nước Cha trị đến có nghĩa là Chúa sắp tái lâm để phán xét. Nhưng suy nghĩ kỹ, mới thấy “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14,17) Như thế, càng lâm cảnh khổ đau, cô đơn, bị đàn áp bất công, càng cần phải xin cho “triều đại Cha mau đến.” Nghĩa là, Đức Giêsu luôn dạy chúng ta phải cầu xin Chúa Cha ban hòa bình và no ấm cho nhân loại. Lời cầu xin đó chỉ có thể thành hiện thực trong Đức Giêsu Vua Tình yêu mà thôi! Lý do “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình.” (Cl 1,19-20)
Để diễn tả quyền bính cai trị của Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng Mátthêu (25:31-46), đề cao Vua Giêsu như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gio-an (18:33-37) cho ta một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai đến. Năm C với bài Tin Mừng Luca (23:35-43) trình bày Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Vương quyền của Người là do việc Người tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Thánh danh Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu” đã nói lên uy quyền cứu độ của Thiên Chúa dành cho muôn dân qua sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu và tác động của Chúa Thánh Thần trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha.
Vua Giêsu bị đóng đinh và treo trên thập giá. Tột đỉnh của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện trong giờ phút này. Khi quyền lực của tội lỗi tưởng như thắng thế qua cái chết đang đến gần Chúa Giêsu thì đó lại là lúc quyền năng của Thiên Chúa sắp sửa toàn thắng tội lỗi và đem lại hiệu quả ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại.
Trong giờ phút trọng đại ấy, thánh Luca cho ta một hình ảnh tương phản giữa những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa và những kẻ tôn vinh Người. Một phía là các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel, đám lính tráng và một tên gian phi bị đóng đinh cùng nhau nhục mạ Người. Một phía là đám dân chúng kính cẩn đứng nhìn và tên gian phi hối cải đã can đảm bênh vực, tuyên xưng Chúa Giêsu vô tội và cầu xin Người cứu độ mình.
Những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu đã nhìn vương quyền ấy theo nhãn quan riêng của họ. Đối với đám lính tráng, vương quyền chỉ có nghĩa đơn giản là quyền hành của một ông vua trần gian, thí dụ như hoàng đế Rôma hoặc vua Hê-rốt chẳng hạn. Do đó họ không thể chấp nhận một người đã bị họ đóng đinh vào thập giá lại có thể xưng mình là “vua dân Do-thái” được. Nếu quả thực Chúa Giêsu là một tên tội phạm, thì chính dân Do-thái cũng chẳng muốn chấp nhận một người như vậy là vua của họ. Tên gian phi nhục mạ Chúa thì chỉ nhìn vương quyền của Chúa dựa trên nhu cầu riêng tư của hắn. Vì Chúa Giêsu không thể tự cứu mình và cứu được hắn, nên Chúa Giêsu cũng chẳng hơn gì hắn. Nhưng đối với những nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái, cái nhìn của họ về vương quyền của Chúa Giêsu phức tạp hơn. Khi đặt câu hỏi giả dụ Chúa Giêsu là “Đấng Kitô”, chắc chắn họ đã hiểu rõ ý nghĩa của tước hiệu Kitô ấy. Là những người học biết và tin vào Kinh Thánh, họ hiểu Đấng Kitô là ai theo sấm ngôn của I-sai-a nói về Người Tôi Trung được Thiên Chúa tuyển chọn: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49:6). Nhưng đối với họ, Chúa Giêsu chỉ là một anh thợ mộc đến từ Na-da-rét miền Ga-li-lê. Những người ở Giê-ru-sa-lem đặt câu hỏi Chúa Giêsu có đích thực là Đấng Kitô không và họ tự trả lời: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả” (Ga 7:27). Tóm lại, họ không muốn nhìn nhận sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu, mặc dù Chúa Cha đã đích thân giới thiệu: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn” (Lc 9:35), hoặc chính Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định: “Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi đến là Đấng chân thật. Các ông không biết Người. Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi” (Ga 7:28-29).
Có lẽ mỗi cách phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu qua những hạng người ấy đều nói lên một cách nào đó của những con người hôm nay không muốn nhìn nhận quyền năng cứu độ của Chúa Giêsu. Những tham vọng, tự cao tự đại và lợi nhuận vật chất đã trở thành những trở ngại, che lấp con mắt đức tin của ta để ta không nhận ra được con người và sứ mệnh đích thực của Chúa Giêsu nữa.
Trái ngược với những kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu là đám dân chúng “đứng nhìn” và nhất là người gian phi thống hối. Những kẻ phủ nhận thì ồn ào buông lời chế giễu Người. Còn những người nhận biết Chúa Giêsu thì giữ thái độ im lặng kính cẩn hoặc tha thiết cầu xin Người. Bởi đâu họ nhận biết Người? Hẳn phải là do cung cách của Chúa Giêsu ngay trong những giây phút trầm trọng cuối đời. Chính trên thập giá, Người đã biểu lộ tột đỉnh của tình yêu, và tình yêu đã nói lên cung cách của người “thí mạng sống mình vì bạn hữu” và sẵn sàng tha thứ tất cả. Tình yêu đã biến đổi lòng đám dân chúng. Họ không theo thói a dua của người đời mà khinh bỉ người tử tội Giêsu, giống như nhóm lãnh đạo tôn giáo, tên gian phi không hối cải và đám lính tráng đã làm. Nhưng họ đang “đứng nhìn”, một thái độ chiêm ngưỡng để cố gắng nhận ra chiều kích “dài, rộng, cao, sâu” của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu trên thập giá cũng biến đổi tâm hồn người gian phi cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu. Nó giúp anh nhìn xa hơn về tương lai. Không phải chỉ là sự sống tạm ở đời này, như tên gian phi kia đã thách thức Chúa Giêsu: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng là sự sống đời đời. Anh khẩn cầu Chúa: “Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Tình yêu trên thập giá đã giúp người gian phi thống hối nhận biết Chúa Giêsu là ai và mình là ai. Anh đã nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, qua lời đối đáp tên gian phi kia: “Chúng ta chịu thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm!” Anh còn nhận ra được Chúa Giêsu là Đấng nào nữa. Ngài không chỉ là một người vô tội. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn là “ông Giêsu”. Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Đức Giêsu được gọi đích danh, chứ không phải bằng các tước hiệu. Anh đã hiểu được nghĩa thực của thánh danh Người. “Giêsu” nghĩa là “Thiên Chúa cứu.” Người là Vua của Nước Thiên Chúa, là Đấng đến cứu vớt mọi kẻ tội lỗi.
Chiêm ngưỡng tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu, đồng thời kêu cầu với Người: “Xin nhớ đến con” chắc chắn sẽ là điều mọi Kitô hữu phải lập đi lập lại trong suốt cuộc sống mình.
Có khi nào tôi thuộc nhóm người phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu không? Nếu có thì điều gì đã làm cho tôi không muốn nhận Chúa làm vua tâm hồn tôi?
Tôi có chiêm ngưỡng Chúa Giêsu và tình yêu Thiên Chúa khi cầu nguyện trước tượng Chúa chịu chết trên thánh giá bao giờ không? Tôi thử tập thói quen cầu nguyện như vậy, bằng cách quỳ trước tượng Chúa chịu chết trên thánh giá và ngước nhìn lên Chúa, để cố gắng cảm nghiệm Chúa đã yêu thương tôi đến mức nào.
Những khi gặp đau khổ hay bất công, tôi có dùng dịp ấy để biểu lộ tình yêu đối với người khác không? Tôi có làm chứng cho tình yêu tha thứ của Thiên Chúa không?
Cầu nguyện:
“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá,
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khao khát nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì khổ đau của con
nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha,
và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân,
và yêu Cha chỉ vì Cha, chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi.”
– Cha Karl Rahner
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 63)
(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh Tín)
Nói đến “vua”, chúng ta lập tức liên tưởng đến một nhân vật đầy uy quyền, với trăm ngàn người hầu hạ, với cung điện nguy nga, y phục lộng lẫy, với cuộc sống vượt trên mọi người… Nhưng nếu đó là những hình ảnh và đặc điểm của bậc vua chúa, thì qủa thực, người thanh niên sinh quán tai Belem và lớn lên tại Nadarét có tên là Giêsu, nhất định không phải là vua, vì Anh xuất thân từ một gia đình nghèo, sinh ra tại một chuồng bò, sống bằng nghề thợ mộc, và sau cùng chấp nhận cái chết ô nhục, đau thương, phải chôn nhờ nơi phần mộ của người khác. Thế nhưng, trong cuộc sống của Anh thợ mộc này, có những điều làm chúng ta suy nghĩ:
– Dù Anh sinh ra tại một chuồng bò, nhưng các đạo sĩ ở Đông Phương lại nói: “Đó là Vua người Do Thái mới sinh ra, nên chúng tôi tới đây mang theo lễ vật để triều bái Ngài” (Mt 2,2).
– Khi dân chúng muốn tôn phong Anh làm vua, thì Anh lại trốn đi một nơi khác (Gio 6,15).
– Thấy Anh cỡi lừa vào Giêrusalem, dân chúng lớn tiếng tung hô Anh: “Hoan hô vua Israel” (Gio 12,13).
– Khi Anh bị dẫn đến trước tòa án, vấn đề “làm vua” lại được đặt ra. Thật vậy, khi Philatô hỏi: “Anh có phải là vua không?”, Anh đã thẳng thắn và dõng dạc đáp: “Ông nói đúng…” (Mat 27,11; Lc 23,23).
– Chính lúc Anh bị đóng đinh trên thập giá, người ta lại nhìn thấy phía trên thập giá có hàng chữ “Giêsu Nadarét, Vua người Do Thái” (Gio 17,19; Mt 27,37).
– Sau cùng, trước giờ chết, khi một tử tội cùng bị đóng đinh với Anh nói với Anh: “Thưa Ngài, khi nào Ngài trở lại vương quốc của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi với”, Anh hứa ngay: “Ngay hôm nay, ngươi sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta” (Lc 23,42-43).
Như vậy, Đức Kitô qủa thực là một vị vua, nhưng là một vị vua khác hẳn với các vua chúa trên trần gian; vương quốc của Ngài không thuộc về trần gian này, cũng không nằm trong những ý niệm mà người ta vẫn thường có, khi nghĩ về một vị vua chúa. Chính Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: “Tôi là vua… nhưng nước tôi không thuộc về trần gian này” (Gio 18,36). Tuyên bố như thế, Chúa Kitô cho chúng ta hiểu rằng: Ngài là một vị vua có những tâm tình và chủ trương khác hẳn với mọi vua chúa trần gian. Thay vì bắt người ta phục vụ mình thì Ngài hạ mình xuống, đích thân phục vu mọi người. Ngài nói: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ mọi người” (Mc10,45). Đồng thời Ngài cũng kêu gọi con dân trong nước Ngài phải noi gương Ngài: “Anh em biết rằng, những người được coi là lãnh tụ trong các quốc gia thì cai trị dân chúng, còn anh em thì không được như thế. Ai làm lớn thì hãy trở thành đầy tớ cho anh em mình, ai muốn thành người thủ lãnh thì hãy trở thành nô lệ cho mọi người” (Mc 10,43-44). Về điểm này, đức Kitô đã đích thân làm gương khi Ngài qùy gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thay vì mọi người phải bảo vệ mạng sống cho vua thì Ngài lại liều chết để cứu sống con dân của mình. Thay vì dùng lãnh thổ, ngôn ngữ, màu da để xác định công dân của mình thì Ngài dùng giới luật yêu thương làm nguyên tắc nhập tịch cho những ai muốn trở thành công dân trong nước của Ngài; và đây cũng là điều luật căn bản trong quốc gia của Ngài. Ngài nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận ra anh em là môn đệ của Thày, là anh anh em thương yêu nhau” (Gio 13,35b); “Yêu thương nhau chính là giới răn mới mà Thày truyền cho anh em” (Gio 15:12, 17).
Ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta chính thức trở thành công dân trong vương quốc của Vua Giêsu. Xin cho ân sủng của bí tích giúp chúng luôn sống xứng đáng là những công dân tốt trong vưong quốc này, vương quốc của an bình, của yêu thương và phục vụ.
ĐỨC VUA GIÊSU YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ VÀ BẢO VỆ BẠN
(Bế mạc Năm Đức Tin 24/11/2013)
Chế độ quân chủ ở Việt nam đã chấm dứt năm 1945 với chiếu thoái vị của vua Bảo Đại. Từ đó đến nay, người ta không ngừng phê phán chế độ quân chủ, coi các vua như là những kẻ chỉ biết ăn chơi hưởng thụ, và ca ngợi chế độ mới, mà không công tâm để đánh giá lại những đóng góp to lớn của các vua Nhà Nguyễn ở nước ta. Cũng vì thế khiến cho nhiều thế hệ mang một hình ảnh không tốt đẹp về các vị vua. Thế nhưng từ ban đầu các vua không phải là những con người xấu xa trụy lạc, mà là những thủ lãnh hết mình vì dân, mở rộng bờ cõi, xây dựng hòa bình, bảo vệ dân, chăm lo cho dân như cha mẹ lo cho con cái. Ngược lại, dân chúng cũng tỏ ra yêu mến kính trọng và hết sức tùng phục nhà vua của họ. Chúng ta có thể nhìn điều đó nơi thái đô cung kính và lòng yêu mến mà dân Thái Lan dành cho Đức Vua của họ, hoặc dân Anh dành sự tôn kính cho Nữ Hoàng.
Hôm nay, bước vào tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, cũng là ngày bế mạc Năm Đức Tin, Giáo Hội tôn xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, để mời gọi chúng ta yêu mến, biết ơn, tôn vinh và đặt Ngài làm vua hướng dẫn và làm chủ cuộc đời của mình.
Tôn vinh Chúa Giêsu làm vua, Giáo hội muốn lấy lại hình ảnh đẹp nguyên thủy về một vị minh quân để diễn tả về quyền năng và tình yêu thương của Đức Giêsu đối với chúng ta. Đồng thời tôn vinh Ngài là Vua là Chúa, Đấng làm chủ của vũ trụ, mọi vật mọi loài trên trời và dưới đất. Ngài là Vua vì chính Ngài là vị Thiên Chúa quyền năng tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật muôn loài, và Ngài vẫn tiếp tục quan phòng, truyền hơi thổi sức sống cho vũ trụ để vũ trụ này chuyển vần theo một trật tự tốt đẹp. Ngài là vua, là chủ, vì Ngài đã tạo dựng nên con người và còn cho con người được cộng tác với Ngài trong việc duy trì và làm cho vũ trụ và cuộc sống con nguời mỗi ngày tốt đẹp hơn.
Khác với nhiều vị vua trần thế tìm kiếm quyền lực và vinh quang cho bản thân và dòng dõi, thì Đức vua Giêsu là Đức Vua yêu thương dân Ngài như người cha yêu thương con cái, như mục tử yêu thương đàn chiên. Kinh Thánh đã dùng hình ảnh của Vua Đavít để báo trước về sứ mạng và vai trò của vua Giêsu, vì Đavít được gọi là một vi vua thánh. Ông là người được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành người dẫn dắt dân Chúa. Chính ông đã đem lại cho dân Chúa một thời kỳ thái bình thịnh vượng nhất trong lịch sử. Bài đọc sách Samuel hôm nay thuật lại giai đoàn đầu triều đại nhà vua, khi ông lên ngôi làm vua các chi tộc phía Nam đất Giuda, tiếng tăm về lòng đạo đức cũng như sự tài khéo, lòng yêu thương của ông đã khiến cho các chi tộc miền Bắc thuộc đất Israel kéo đến để xin ông cũng làm vua của họ, hường dẫn họ và bảo vệ họ: Chúng tôi cũng là cốt nhục của Ngài, xin Ngài cũng hãy làm vua chúng tôi. Chính Đức Chúa cũng đã nói với Ngài rằng: Chính Người sẽ chăn dắt Israel dân ta.
Chúa Giêsu là vị vua phục vụ. Khác với các vua chúa trần gian ngồi trên ngai vàng để được nguời khác phục vụ, thì Vua Giêsu đã không chỉ bước xuống khỏi địa vị Thiên Chúa của mình, mà Ngài còn bước đến với con người, và cúi xuống để phục vụ con người. Ngài phục vụ bằng cách tìm kiếm con người nhất là những con người lầm lạc để đưa họ về với con đường của Thiên Chúa, Ngài đã đem Tin Mừng tình thương cứu độ đến cho mọi người, Ngài nâng dậy những ai gục ngã, an ủi kẻ đau khổ, chữa lành kẻ bệnh tật. Ngài đã biến mình thành người phục vụ như một người tôi tớ, Ngài đã cúi xuống để rửa chân cho các tông đồ, và cuối cùng Ngài đã trao tặng cả máu thịt mình để phục vụ cho sự sống của con người.
Đức Giêsu là vị vua bảo vệ chúng ta. Giống như vị vua phải xông pha trận mạc để bảo vệ dân mình, thì Đức Giêsu, như người mục tử đã hết mình bảo vệ chúng ta là đàn chiên của Ngài khỏi sự tấn cống của sói dữ là ma quỷ, và khỏi những nguy hiểm của tội lỗi, chấp nhận mang lấy thương tích vào mình. Trong trận chiến quyết liệt cuối cùng trên thập giá, Ngài đã chấp nhận cả cái chết để thế mạng cho chúng ta và cứu chúng ta khỏi chết. Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Colose: Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha đã làm cho anh em xứng đáng chung hưởng phần gia nghệp…Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi uyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái. Trong Thánh Tử, ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.
Tuy nhiên để nhận ra Đức Giêsu là vua và tôn vinh Ngài, cần phải có một cái nhìn chính xác về Ngài đó là cái nhìn trong đức tin và đón nhận vương quyền của Ngài. Nếu nhìn theo con mắt bên ngoài, thì cuộc chiến của Chúa Giêsu trên thập giá là một cuộc thất bại nặng nề. Tiêu biểu cho cái nhìn sai lạc và kiêu ngạo này là cái nhìn của các thủ lãnh Do Thái và của tên trộm dữ. Những thủ lãnh Do Thái khi đã treo được Người lên thập giá, họ thỏa mãn với sự căm thù, lòng ghen tương ích kỷ của mình, họ tưởng rằng họ đã trả thù được ông Giêsu, và họ còn nhạo cưới thách thức: Hắn đã cứu được người khác thì hãy cứu lấy mình đi, nếu thực sự hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa! Để thỏa mãn cho sự cao ngạo của mình và gây nhục nhã cho Chúa Giêsu, họ đã dâng cho Ngài giấm chua để uống, và còn đóng phía trên thập giá bản án viết rằng: Đây là vua người Do Thái. Bản án ấy vô tình lại trở thành lời giới thiệu và xác nhận vị thế của Chúa Giêsu là vua. Không khác gì những nhà lãnh đạo do Thái, tên trộm bị đóng đinh cùng Đức Giêsu cũng dựa vào cái nhìn bên ngoài để thách thức Chúa: Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu mình và cứu cả tôi nữa!
Ngược lại, với cái nhìn của lòng tin và sự khiêm nhường, người trộm lành đã đứng ra bênh vực Chúa Giêsu, anh ta tin rằng Ông Giêsu này là một người công chính và là Thiên Chúa và cái chết của Ngài chắc chắn khác với cái chết của anh, và anh nói cho tên trộm dữ kia biết rằng: mày cùng chịu đồng một án, mà mày không kính sợ Thiên Chúa sao? Chúng ta chịu như thế này là đích đáng với việc chúng ta đã làm, còn ông này ông có làm gì xấu đâu? Vì tin, anh đã xin được gia nhập vào vương quốc của Đức Giêsu và làm thần dân của Ngài và anh ta khiêm tốn thưa với Chúa Giêsu: Lạy Ngài khi nào về Nước của Ngài xin nhớ đến tôi! Chúa Giêsu đã đón nhận anh khi tuyên bố: Ngay hôm nay ngươi sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng.
Thưa quý OBACE, sau một năm cử hành Năm Đức Tin, chúng ta cùng với cả Giáo Hội có dịp nhìn lại và làm mới đời sống đức tin của mình, đồng thời mỗi người sẽ trở thành người bảo vệ và giới thiệu đức tin cho mọi người chung quanh. Tin Đức Giêsu là vua, có nghĩa là đón nhận và mời Ngài vào làm chủ cuộc đời của mình, của gia đình, như xưa những người Israel đã đến mời Đavit làm vua của họ, để Ngài điều khiền, hướng dẫn và bảo vệ bản thân và gia đình khỏi sự tấn công của ma qủy và những cám dỗ ngày nay. Tin và tuyên xưng Chúa là vua là dám sống phó thác cho sự chăm sóc quan phòng yêu thương của Ngài.
Với các bậc làm ông bà cha mẹ, hãy để Đức Giêsu làm vua trong tâm hồn của mình, để Ngài điều khiển hướng dẫn nếp sống của bản thân và gia đình, biết dành ưu tiên cuộc đời và thời giờ cho Chúa. Tôn vinh Ngài làm vua còn là biết mở rộng tâm hồn đón rước Ngài bước tâm hồn vào qua Bí Tích Giải tội và Thánh Thể. Vì qua Bí tich Giải tội, Ngài thực sự là một vị vua nhân từ xét xử khoan dung và tha thứ, đồng thời chăm sóc chữa lành cho tâm hồn chúng ta. Qua Bí tích Thánh Thể, Vua Giêsu đã phục vụ chúng ta cho đến cùng, đã trao ban mình máu Người làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn và cuộc sống chúng ta. Hãy tôn vinh Ngài là vua của gia đình, để hết mọi thành viên trong gia đình từ ông bà, cha mẹ, con cái luôn thấy Ngài hiện diện và bảo vệ cho hạnh phúc gia đình của mình.
Ngày nay giới trẻ cũng đang tìm và tôn cho mình những vị vua như vua bóng đá, vua nhạc rock, và các thứ vua khác như là thần tượng của mình, mà họ lại quên rằng vua Giêsu mới thực sự là lý tưởng là cùng đích cho cuộc đời của mỗi người. Chỉ có Ngài mới là Đấng có thể giải thoát và cứu độ chúng ta, chỉ có Ngài mới có thể giải gỡ được những băn khoăn trắc trở trong cuộc đời và chỉ có Ngài mới dẫn chúng ta tới hạnh phúc đich thực mà thôi. Vì thế đừng sợ trở thành thần dân của vua Giêsu, đừng sợ suy tôn Ngài và để Ngài dẫn dắt mình, vì Ngài không bao giờ lừa dối chúng ta trái lại, Ngài luôn yêu thương phục vụ và bảo vệ chúng ta khỏi sự tấn công của các trào lưu xấu của xã hội hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện)
“Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!”
Bài tin mừng hôm nay (Lc 23,35-43) trích trong trình thuật thương khó theo Thánh Luca, kể lại những giây phút cuối cùng trước khi Đức Giêsu chết trên thập giá. Nhưng chính trong khung cảnh bi thương đó, dung mạo và tư cách quân vương của Ngài đã được mạc khải một cách rõ nét.
Mở đầu bài tin mừng là ba cảnh nhạo báng Đức Giêsu, do các thủ lãnh của dân, do lính tráng và do một tên gian phi cùng chịu đóng đinh vời Đức Giêsu, thực hiện. Dân (laos) thì đứng nhìn, trong một thái độ chăm chú mang tính tôn giáo (chứ không chỉ là tò mò).
Trước tiên là sự cười nhạo của các vị thủ lãnh. “Các thủ lãnh buông lời cười nhạo: “Hắn cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được Chúa tuyển chọn!”” (c. 35). Lời của các vị thủ lãnh ở đây có hai giá trị. Trước hết, do chỗ Đức Giêsu được trình bày như một người có tài làm phép lạ (“cứu được người khác”), nên lời thách thức “cứu lấy mình đi” trong thực tế là một lời nhạo báng tương tự như trong 4,23 “thầy lang ơi hãy chữa lấy mình”. Thứ hai, đặt trong sự nghi ngờ về tư cách Mêsia của Đức Giêsu, lời yêu cầu “hãy cứu lấy mình đi” đồng nghĩa với lời yêu cầu một dấu lạ chứng thực tư cách Mêsia.
Sau lời nhạo báng của các thủ lãnh là sự chế giễu của bọn lính tráng. Đây chắc chắn phải là những người lính Rôma (x. 23,47). “Chúng lại gần, đưa giấm cho Ngài uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” (cc.36-37). Lời chế giễu của bọn lính Rôma cũng tương tự như lời chế giễu của mấy ông lãnh đạo Do Thái, nhưng tập trung trên khía cạnh chính trị, và như thế, làm nên đợt sóng thứ hai trong cuộc cười nhạo Đức Giêsu bị đóng đinh. Tiếp nối ngay vào lời chế giễu này, tấm bảng ghi bản án đặt phía trên đầu Đức Giêsu cũng là một thành phần của lời chế giễu về phương diện “chính trị”: “Phía trên đầu Người, cũng có bản án viết: “Đây là vua dân Do Thái” (c.38).
Lời nhạo báng thứ ba tiếp ngay sau đó, là của một trong hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. (Chúng ta không có cơ sở nào để khẳng định chắc chắn anh này là một người Do Thái hay một người dân ngoại). “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!” (c.39). Lần thứ ba xuất hiện ngữ đoạn “hãy tự cứu mình đi”, sau đó là một yếu tố được thêm vào cho phù hợp với hoàn cảnh của tên gian phi: “và cứu cả chúng tôi nữa”. Nhưng chính Đức Giêsu, trong thực tế, lại chỉ chờ đợi ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, đúng theo lôgích của lời Ngài đã nói trong 9,24: “Ai đành mất mạng sống mình… thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Nội dung sự cười nhạo của ba hạng người trong bài tin mừng hôm nay đối với Chúa Giêsu, cho chúng ta hiểu thế nào là niềm mong chờ phàm trần mà người ta đặt nơi vương quyền của Đức Giêsu.
Là Vua Mêsia, Đức Giêsu sẽ đem đến cho con người ơn giải thoát của Thiên Chúa? Câu hỏi trở nên vô cùng gay cấn khi người ta phải đối diện với Đức Giêsu đang quằn quại đau đớn trong những giờ phút cuối cùng trước khi chết thê thảm trên thập giá. Kẻ không thể cứu nổi chính mình khỏi thảm cảnh thập giá, sẽ có thể cứu cả nhân loại này không? Vua Mêsia đấy ư? Đặt vào trong một nhãn quan mang tính chính trị, câu hỏi xem ra càng thêm gay cấn. Những kẻ đặt hy vọng vào Ngài sẽ không phải tuyệt vọng và buồn tủi hay sao, khi đối diện với tình cảnh của Ngài trên thập giá?
Mỗi năm chúng ta đều mừng lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ. Nhiều lần chúng ta tuyên xưng vương quyền của Ngài. Chúng ta vẫn trông chờ Ngài sẽ tỏ vương quyền của Ngài trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn và trong xã hội mà chúng ta đang sống, nhưng hình như Ngài có vẻ yếu thế (vì Ngài vẫn là Đấng chịu đóng đinh). Thực ra, chúng ta chờ đợi gì nơi Ngài? Một vị vua sẽ phô trương quyền lực trong các lãnh vực tôn giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội? Nếu Ngài không phô trương quyền lực trong các lãnh vực đó cho chúng ta hưởng thụ và vinh vang, chúng ta sẽ nhìn lên Ngài với cặp mắt nào? Có lẽ sẽ không phải là nhạo báng, nhưng chắc sẽ là oán trách và than thở…
Hóa ra Đức Giêsu vẫn có thể đang bị nhạo cười theo một nghĩa nào đó bởi chính chúng ta, những đồ đệ của Ngài.
Đối nghịch với ba lời nhạo báng và nhục mạ ở phần thứ nhất của bài tin mừng là một cảnh tượng hết sức ý nghĩa, bắt đầu bằng một phản ứng của người còn lại trong hai kẻ cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu đối với thái độ nhục mạ vừa diễn ra: “Nhưng tên kia mắng nó rằng: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái” (cc.40-41). Người trộm lành thừa nhận hành vi gian ác mà anh đã phạm và tính chính đáng của bản án dành cho anh. Đó là dấu hiệu của sự sám hối.
“Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!” (c.42). Người trộm lành trực tiếp thưa chuyện với Đức Giêsu sau khi đã phê bình tên gian phi đồng bọn. Anh gọi: “Giêsu!”. Đây là lần duy nhất trong Tân Ước Đức Giêsu được gọi tên riêng một cách gần gũi như thế này. Trong một số trường hợp (không nhiều), Đức Giêsu được gọi bằng tên riêng nhưng luôn luôn kèm theo một sự xác định như: “Lạy Thầy Giêsu…” hay “Giêsu Nadaret”… Người trộm lành đã sám hối bây giờ không hướng về Thiên Chúa, mà hướng về Đức Giêsu và công nhận tư cách và vai trò Mêsia của Ngài. Lời van xin của anh ta rõ ràng mang đậm tính chất một lời cầu nguyện của những Kitô hữu gốc Do Thái. Đức Giêsu, đối với anh trộm lành, là Đấng Mêsia Phục Sinh mà anh có thể có tương quan thiết thân với Ngài. Trong lời cầu nguyện này, anh tuyên xưng lòng tin mạnh mẽ vào vương quyền Mêsia của Đức Giêsu.
“Và Người nói với anh: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (c.43). Trong lời xin của mình, người trộm lành mong ước một ơn cứu độ tương lai sẽ được thực hiện vào lúc cùng tận, khi vương quốc Mêsia được thực hiện theo cách hiểu của niềm mong đợi Israel. Nhưng Đức Giêsu lại bảo đảm cho anh một ơn cứu độ của “hôm nay” với một lời hứa long trọng. Ngài hứa ban cho người trộm lành này một sự sống hiệp thông trọn vẹn với Ngài ngay hôm nay. Trong viễn tượng Kitô giáo, sự hiệp thông này là sự sống viên mãn phúc lạc trong vinh quang của Đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi.
Đức Giêsu chịu đóng đinh đã cho thấy Ngài không phải là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát chúng ta khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của ngài không liên quan trước hết đến những thực tại trần gian, mà là ơn cứu độ và sự sống trong Thiên Chúa. Ngài hứa với người trộm lành một sự hiệp thông trọn vẹn trong sự sống viên mãn trên Thiên Đàng. Ngài phá bỏ những rào cản không cho con người hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa trong hạnh phúc miên viễn, cho dù con người ở đây là tên gian phi đang bị kết án tử hình.
Lời tuyên bố long trọng của Đức Giêsu dành cho người trộm lành cho thấy một nội dung quan trọng của lòng tin Kitô giáo. Tương lai của nhân loại, cá nhân cũng như tập thể, là chính Đức Kitô. Thiên Đàng được trình bày ở đây không phải trong nhãn quan khải huyền, mà là trong những hạn từ diễn tả sự ở với Đức Kitô. Đàng khác, ơn cứu độ là thực tại của “hôm nay” và của cá nhân, chứ không phải chỉ là thực tại của tương lai và mang tính tập thể. Đức Kitô thực hiện vương quyền của Người ngay hôm nay và cho từng người cũng như cho mọi người.
Trong viễn tượng của tin mừng theo Thánh Luca, cảnh người trộm lành hối cải và cầu xin với Đức Giêsu này tạo nên đỉnh điểm của trình thuật về sự kiện đóng đinh Đức Giêsu. Cảnh này kết thúc chuỗi những lời nhạo báng và tạo ra một sự đảo ngược quan trọng, trong đó, người trộm lành không chỉ tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu, mà xa hơn nữa, anh tuyên xưng lòng tin vào vương quyền đích thực của Ngài, vương quyền bị các thủ lãnh, lính tráng và tên gian phi đem ra nhục mạ. Đức Giêsu trong đoạn tin mừng này quả thực là một vị vua, nhưng Ngài là vua theo một cách thức hoàn toàn khác với những mong đợi mang tính chính trị. Ngài thật là Đấng Cứu Độ, nhưng không phải là một nhà giải phóng chính trị và quân sự. Ba hạng người nhạo báng Ngài đều đưa ra lời thách thức rằng nếu Ngài là Vua Kitô thì Ngài hãy tự cứu mình đi và cứu cả những người khác nữa. Đức Giêsu sẽ đáp trả với thách thức ấy, nhưng không phải là theo cách thế mà những người kia mong đợi. Ngài cứu một con người, ngay khi ấy, tức là ngay khi Ngài trút hơi thở, nhưng không phải là cứu khỏi cái chết tạm thời, song là đưa người đó đi vào sự sống viên mãn và niềm phúc lạc đích thực. Ngài không làm những hành động chính trị hay những pha biểu diễn ngoạn mục. Vương quyền của Ngài là vương quyền siêu việt và vĩnh cửu.Trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta mừng kính vương quyền đích thực đó và đặt mình đầu phục vương quyền cứu độ đó, chứ không phải đi tìm hay khao khát những thực tại thế trần và mau qua.
Nói đến Vua là nói đến quyền lực, sức mạnh, sự giàu sang phú quý. Nhưng với vị vua Giêsu thì điều hoàn toàn ngược lại. Sức mạnh nơi Ngài là tình yêu, quyền lực của Ngài là sự khiêm hạ, và giàu sang của Ngài là phục vụ. Giáo Hội suy tôn Ngài là Vua vũ trụ, bởi chính Ngài là khởi thủy, và cùng tận.
Vua tình yêu
Thiên Chúa là tình yêu. Định nghĩa của Gioan rất đơn giản nhưng chứa đựng cả một bể khơi nguồn tình yêu. Đức Giêsu đã tế hiến cuộc đời của mình cho tình yêu nhân loại. Ngài là vua của tình yêu. Vương quốc của Ngài không xây dựng trên bạo lực, bạo quyền, mà được xây dựng trên tình yêu thương. Khí giới Ngài dùng là đỉnh cao Thập Giá. Phía trên đầu Ngài là tấm bảng được ghi: “Đây là vua người Do Thái” (Lc 23, 38).
Vua khiêm hạ
Thông thường các vị vua chúa trần gian hay kiêu căng, ác độc. Hê-rô-đê bạo chúa đã gây biết bao tội ác và đưa đến cái chết cho Gioan Tẩy Giả. Tần Thủy Hoàng với Vạn lý trường thành đã nhuộm đỏ máu xương của biết bao người. Kiêu ngạo và độc ác đã gây nên biết bao là oan khiên. Còn Đức Giêsu, vị vua không biên cương lãnh thổ, không triều đình không quân lính. Vị vua cỡi trên lưng lừa trong ngày vào thành Giê-ru-sa-lem để hoàn tất cuộc đời mình, với cái chết cô đơn trên Thập Giá, giữa những người gian phi.
Vua phục vụ
Ngài đến trần gian là để hầu hạ và phục vụ con người. Bao năm rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu đã tận tụy phục vụ một cách nhưng không cho con người. Ngài rong ruổi khắp nơi, để tìm kiếm và cứu chữa con người. Những người đau ốm, những kẻ bị quỷ ám, những người đơn côi, những kẻ tội lội đều được Ngài tận tình chăm sóc cả hồn lẫn xác. Cử chỉ phục vụ của Ngài được thể hiện cô đọng lại trong đêm bị trao nộp. Ngài đã cúi xuống và rửa chân cho các môn đệ. Cử chỉ của một người tôi tớ phục vụ cho các ông chủ của mình. Ta đến không phải để phục vụ mà là phục vụ muôn người: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng mình là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em thì phải nên như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, thì hãy nên như người phục vụ” (Lc 22, 25-26).
Lạy Đức Vua Giêsu, xin cho chúng con là những kẻ tôi tá Ngài biết sống yêu thương, khiêm nhường và phục vụ anh chị em mình. Xin cho chúng con chỉ biết phụng sự, và tôn thờ một mình Ngài là Vua của chúng con. Amen.
Vua Bhumibol Adulyadej (1927- 2016) còn được gọi là Vua Rama IX, là vua Thái Lan trị vì từ năm 1946 cho đến khi mất ngày 13 tháng 10, 2016. Vua Bhumibol Aduladej được xem là một trong số những vị quân vương trị vì lâu nhất thế giới và là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Thái Lan. Trong suốt triều đại của ông, Thái Lan đã trải qua 30 đời thủ tướng. Ông sử dụng tài sản to lớn của mình, theo Forbes là khoảng 30 tỷ USD, để cung cấp tài chính cho nhiều đề án phát triển, đặc biệt là ở nông thôn.
Vua Bhumibol tham gia tích cực vào đời sống kinh tế và xã hội của đất nước, chủ yếu là qua một loạt các đề án phát triển kinh tế mà ông đề xuất, tổ chức và tài trợ. Có hơn 3.000 đề án do quốc vương khởi xướng, được triển khai trên toàn quốc, nhằm cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở vùng nông thôn Thái Lan, như giới thiệu giống cây trồng đến bảo tồn nước, từ thoát nước vùng đầm lầy đến bảo vệ rừng, với mục tiêu phát triển bền vững.
Sau năm 2006, sức khỏe của vua Bhumibol bị suy giảm và ông đã trải qua thời gian dài tại Bệnh viện Siriraj. Ông được người dân Thái Lan hết sức tôn kính. Đối với nhiều người dân Thái, nhà vua được sùng bái gần như một thần linh. (Wikipedia)
Vua Bhumibol được dân Thái Lan vô cùng kính trọng, quý mến vì là bậc minh quân, yêu nước, thương nòi, đã tận tuỵ giúp dân giàu nước mạnh, thật xứng đáng là tấm gương phụ mẫu thiên hạ. Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng Đức Giêsu, Vua Cứu Thế, vĩ đại hơn, cao cả hơn tột bậc, dù cai quản cả hoàn vũ, nhưng Người không thuộc cõi thế, như Người đã phán: “Nước tôi không thuộc trần gian này.” (Ga 18, 36) Người là Đức Vua vô cùng chí hiếu, rất mực khiêm nhu, cực kỳ chí ái và tận tâm phục vụ nhân loại.
Đức Vua chí hiếu
Nhập thể với thân phận thanh bần, nghèo nàn, khốn khó, Đức Vua Giêsu vẫn luôn trung thành, vâng theo Thánh Ý Chúa Cha, từ thuở thơ ấu cho đến khi chịu tử nạn. “Sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?” (Lc 2, 49) Sự hiếu thảo, vâng lời tuyệt đối chính là lẽ sống của Người: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4, 34)
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn kinh hoàng, Người sợ hãi đến vã mồ hôi máu, nhưng vẫn kiên trung, thảo kính khấn nguyện: “Xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn”(Mc 14, 36). Đức Vua Giêsu chính là hiện thân Người Tôi Tớ Đau Khổ của Giavê. (Is 42,1-4)
Người yêu mến và hết lòng vâng phục Cha, đến nỗi chịu chết để cứu độ nhân loại, hầu biểu lộ công khai cho nhân loại thấy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa khoan dung biết dường nào.
Đức Vua khiêm nhu
“Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn.” Trước những lời khiếm nhã, khiêu khích ấy, Đức Vua Giêsu vẫn một mực khiêm nhu, nhẫn nhục, im lặng, cam chịu những lời phỉ báng, hỗn xược, thách thức, của loài thọ tạo, qua miệng những thủ lãnh, lính tráng và người gian phi bên tả. Y như Người đã từng khéo léo tránh được được ma quỷ cám dỗ về quyền lực trong hoang mạc (Lc 4, 5-12).
“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,9). Người từng mời gọi mọi người hãy noi gương khiêm nhu. Người chẳng tỏ ra bực dọc, hận thù, oán thán những xúc phạm thô bạo, bởi vì “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,7)
Đức Vua chí ái
Trước những tiếng nhạo báng cay độc, hằn học, chế giễu của những kẻ ganh ghét, căm thù, Người vẫn bình thản, không chấp nhất, cũng chẳng đáp lại nửa lời. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót, độ lượng, tha thứ, còn nài xin Cha thứ tha. “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm.” (Lc 23, 34)
Ngay trong những lúc cùng quẫn nhất, Người vẫn luôn nhân từ, khoan dung, quên mình, để yêu thương người trộm bên hữu, biết tin cậy vào Người và ăn năn, hối cải: “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta.” Lời của Đức Giêsu cũng là lời tình yêu, đem lại an ủi và bình an. Với tình thương, Người đã hành động chính xác như lời Người đã loan báo về sứ vụ của Người. “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc 2, 17)
Lề luật chính yếu của Đức Vua chí ái ban cho thần dân là tình yêu: “Đây là giới răn của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.” (Ga 15, 12) Đỉnh điểm tình yêu là cuộc khổ nạn, Đức Vua chí ái hiến mạng sống cứu độ nhân loại.
Đức Vua phục vụ
“Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người.” (Mc 9, 35) Người là Vua vũ trụ, là Vua cả nhân loại, nhưng Người không đến cai trị, áp bức thần dân như thói đời, mà thi hành vương quyền bằng cách yêu thương, hăng say phục vụ nhân loại, đến nỗi sẵn sàng chết cho con người, dù thế gian từ chối Người, chế giễu, thậm chí thách thức Người. “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5, 21)
Trước bữa Tiệc Ly, Đức Vua Cứu Thế còn quỳ xuống, rửa chân cho từng môn đệ, nêu gương cho các ông biết tận tâm phục vụ. “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.”(Ga 13, 14)
Phục vụ tha nhân là thể hiện một cách cụ thể đức ái. Nhất là phục vụ những người bé nhỏ, đau khổ, nghèo khó, bị bỏ rơi, chính là phục vụ Đức Vua Giêsu, trên hết các vua, các chúa trần gian. “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống,…” (Mt 25, 35)
“Con đừng nghĩ dấn thân là lao mình vào những hoạt động hăng say náo nhiệt. Con hãy hiểu nghĩa dấn thân sâu hơn: Theo gương Chúa, yêu thương đến mức độ quên mình hoàn toàn vì người khác, hiến mình hoàn toàn, hiến mình nhưng không, để hiệp nhất với kẻ khác, hầu họ được phong phú và công việc Chúa nơi họ được thành công.” (Đường Hy Vọng, số 605)
Lạy Đức Vua Cứu Thế, xin cho chúng con noi theo gương tốt lành của Người, mà vâng theo Thánh Ý, sống khiêm nhu, luôn tha thiết yêu thương và tận tình phục vụ tha nhân, để có thể trở nên chứng nhân như Lòng Chúa hằng mong đợi.
Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu cho chúng con luôn trông cậy vào Lòng Thương Xót của Đức Vua Cứu Thế, để sớm thức tỉnh sám hối, ăn năn trở về với Chúa luôn. Amen.
Đương kim Tổng thống Uruguay, Jose Mujica Cordano được giới truyền thống Tây Ban Nha gọi là “Tổng thống nghèo nhất thế giới.” Ông Cordano năm nay 76 tuổi, sinh ra trong một gia đình nông dân. Năm 2009, khi được cánh tả giới thiệu tham gia tranh cử Tổng thống, ông từng từ chối khéo léo: “Muốn tôi làm Tổng thống, khó chẳng khác gì dạy lợn huýt sáo.” Tuy vậy, cuối cùng “ứng viên của những người dân nghèo khổ” ấy vẫn đắc cử tổng thống với số phiếu quá bán.
Sau khi lên nắm quyền, ông Cordano từ chối dọn vào Dinh Tổng thống, bởi vì “Dinh Tổng thống rộng hơn quá nhiều so với nhà tù từng giam giữ ông 14 năm”. Ông cũng từ chối bố trí nhân viên tháp tùng và xe ô tô chống đạn đưa đón, để hàng ngày tự lái chiếc xe Fuchs Beetle đã có tuổi thọ 20 năm đi làm. Cuối tuần ông còn tự chăm sóc vườn rau, dắt chó đi dạo, xem thi đấu bóng đá. Người vợ (là Nghị sĩ Quốc hội) của ông thản nhiên mỉm cười trước sự thắc mắc của bên ngoài, và cho biết mình “đã quá quen với những chuyện lạ này rồi”.
Năm 2011, ông Cordano đã bán dinh Tổng thống và 2 căn hộ ở Punta del Este của mình cho Ngân hàng Miền Đông Uruguay với giá 2,7 triệu USD. Ông dùng toàn bộ số tiền bán nhà vào việc thực thi chương trình nhà ở của Chính phủ. Vị Tổng thống nghèo nhất thế giới ấy lại trở thành vị Tổng thống được hoan nghênh nhất tại châu Mỹ La-tinh bởi tấm lòng nhân ái của ông. Sau khi đắc cử Tổng thống, ông Cordano đã tuyên bố: Quyên góp 90% tiền lương cho Quỹ Cứu trợ những người vô gia cư.
Khi được gọi là “Tổng thống nghèo nhất thế giới”, ông Cordano chỉ nói: “Tôi không nghèo chút nào cả, những người nói tôi nghèo mới thật sự nghèo. Nói tôi chỉ có một vài thứ quả là không sai, tằn tiện, chất phác khiến tôi cảm thấy đầy đủ và sung túc”. (Theo Dân Việt)
Tuy Tổng thống Jose Mujica Cordano sống đạm bạc, yêu dân, nhưng chưa thể nào sánh với Đức Vua Giêsu lừng lẫy. Trích thuật Tin Mừng hôm nay phác họa chân dung Vua Người Do Thái thật thảm hại. Tuy nhiên phản ảnh khá chính xác một vài đức tính nổi trội của Đức Vua Giêsu. Người chính là Đức Vua Quyền Lực nhất thế gian, chí ái, phục vụ và nghèo khó tột cùng.
Đức Vua uy quyền vô song
Chẳng bao giờ có vị vua thế gian nào có thể ban thưởng Thiên Đàng cho thần dân. Cũng chẳng có vua nào có thể xóa sạch hết các vết nhơ của tội nhân. Cùng lắm chỉ tha thứ một vài tội lỗi nào đó, chứ không thể nào thanh tẩy cả linh hồn thần dân, trở nên trong sạch.
Thế mà, Đức Vua Giêsu đã quả quyết với phạm nhân sám hối: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Thật lòng sám hối, bao nhiêu tội lỗi tôi vấp phạm, cũng được Người tẩy sạch qua bí tích Hòa Giải. Tuy nhiên, nhiều lúc tôi lại thường dại dột chạy đến các vua chúa thể gian, để xin khoan hồng dung tha, để khỏi bị tử hình. Tôi đâu nhớ đến Đức Vua Uy Quyền vô song, có thể cho tôi được sống đời đời. Tôi dửng dưng, vô ơn, bất kính với Người trong sinh hoạt thường ngày. Đâu cần biết tất cả hồng ân đều phát xuất từ Người.
Đức Vua Chí ái
Người không những uy quyền, mà còn chí ái nhất. Chẳng có vị vua nào toàn tâm, toàn ý, quan tâm, tận tụy chăm sóc những thần dân thấp cổ bé miệng, bé nhỏ, tật nguyền, bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời. Người tìm đến, mời gọi không nguôi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28- 30).
Những khi sa cơ thất thế, khi thất bại trắng tay, khi hoạn nạn tai ương, khi bị hành hạ, ức hiếp vì đức tin, tôi có lắng tai nghe thấy tiếng nói an ủi của Người chăng? Hay tôi lại ta thán, thất vọng, đâm ra chán nản, buông trôi theo dòng đời bon chen, lọc lừa, gian lận, tranh sống, thù hận, oán hờn? Đâu cần biết Người đang lo lắng, đôn đáo đi tìm con chiên lạc, tìm đồng xu rơi mất, tìm đứa con đi hoang, đang tan nát cõi lòng vì thói đời đen bạc?
Đức Vua thanh bần
Cũng chẳng có vị vua nào nghèo khó hơn Đức Vua Giêsu. Nghèo hèn ngay từ khi hạ thế làm người ở Bêlem, cho đến khi tử nạn nhục nhã trên thập giá ở Đồi Sọ. Một cuộc đời thanh bần, không tiển bạc, tiện nghi, không chốn nương thân, vô gia cư, vô tài sản đích thực: “Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu” (Mt 8, 20).
Người chẳng hề tư hữu, tích lũy của cải, nhưng Người giàu lòng thương xót. Người chúc phúc cho người nghèo và cả những người có tinh thần khó nghèo: “Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi” (Lc 6,20) ”Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo” (Mt 5,3). Vì với tâm hồn nghèo khó, không vướng bận của cải giàu sang, mới có thể sống Lời Chúa tích cực.
Tôi lại cố gắng thoát cảnh nghèo, muốn tận hưởng tiện nghi vật chất, muốn vinh thân phì gia, để khỏi thua kém thiên hạ. Tôi không muốn những ánh mắt rẻ rúng vì nghèo túng. Tôi thích thú những tia mắt ngưỡng mộ sự thành đạt, giàu sang. Tham sân si quá độ, làm sao tôi được vào Nước Thiên Chúa?
Đức Vua Phục vụ
Chẳng có vị vua nào thương yêu, tận tụy phục vụ đệ tử, thần dân như Đức Vua Giêsu. Từ bỏ vương quyền cao sang, Người quên mình, khiêm tốn, quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Người tuyên bố: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20:28).
Người trở nên con chiên hiến tế, gánh tội trần gian, phục vụ cho sự cứu rổi nhân loại, chịu mọi khốn khó, bị khinh ghét, bị vu oan, chịu khổ nạn và chịu đóng đinh, hầu cứu chuộc loài người khỏi án phạt trầm luân. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13)
Tôi lại luôn muốn được phục vụ, kính nể, ngợi khen, thậm chí còn coi tha nhân như phương tiện cho tôi tiến thân. Tôi luôn tự ái, bất bình khi ai đó xúc phạm, nhận xét, phê bình, hay chỉ trích các thói hư tật xấu, dù rất chính xác, dù rất tích cực, thiện chí xây dựng, sửa chữa lỗi lầm của tôi. Thế mà tôi vẫn vênh váo, dám mạo nhận mình trung thành theo Đức Vua Phục Vụ.
Lạy Chúa, Đức Vua cao cả của thần dân chúng con, xin dạy chúng con biết yêu thương nhau, biết sống tinh thần nghèo khó, biết phục vụ tha nhân, cũng như chính Chúa đang hiện diện, để chúng con được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là hiền mẫu của chúng con, xin luôn nhắc nhở chúng con là con cái thân thương của Thiên Chúa, luôn biết tuyên xưng danh Chúa, luôn biết khiêm nhường, yêu thương, giúp đỡ mọi người, mọi lúc, để chúng con luôn sống trong ân sủng Ngài. Amen.
Chúa nhật 34 thường niên hôm nay cũng là kết thúc năm Phụng Vụ, Giáo Hội tôn kính vương quyền của Chúa Giêsu nhằm nói lên cùng đích của Phụng Vụ, là làm cho loài người được tôn vinh một khi họ được thông dự vào vương quyền của Đức Kitô vua Tình Yêu. Đây là dịp để chúng ta tìm hiểu Vị Vua Giêsu mà chúng ta tôn thờ, Ngài đã cai trị vương quốc của Ngài bằng cách nào, để rồi Ngài thông chia vương quyền ấy cho chúng ta?
Trước hết, Thánh Kinh đã hé mở cho chúng ta biết Chúa Giêsu chính là vua. Có ít nhất 3 ngày Giáo Hội đã long trọng nhắc đến tước hiệu “Vua” của Đức Kitô, tuy không rõ ràng tôn vinh tước hiệu ấy: lần thứ nhất, trong ngày lễ hiển linh: “Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Belem, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà đạo sĩ từ phương đông đến Giêrusalem, và hỏi Đức vua dân Do thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”(Mt 2,1-2). Lần thứ hai trong Tuần Thánh, với việc Chúa Giêsu long trọng tiến vào thành thánh Giêrusalem. Rồi trước toà án Philatô, ông cho Chúa Giêsu ngồi ở Gabata, ghế dành riêng cho quan toà. Như vậy, vô tình Philatô công nhận Ngài là vua. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định Ngài là vua (Ga 18,37). Và Philatô đã truyền cho người ta viết tấm bảng gắn trên đầu thập giá với hàng chữ: “Giêsu Nazareth Vua dân Do thái” (Ga 19,19). Và rồi lần thứ ba, trong ngày Chúa Giêsu lên trời, Hội Thánh tôn vinh vua oai phong đi vào trong vinh quang và đợi chờ ngày Người lại đến (Mc 16,19) để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày cánh chung.
Và trong đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy nhiều người vô tình hay hữu ý đã ghi nhận Chúa Giêsu là vua: “Nếu ông là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn, hãy tự cứu mình đi” (Lc 23, 37); Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hylap, Latinh và Dothái như sau “Người này là vua dân Do Thái” (Lc 23,38); và rồi với lời van xin của tên trộm lành “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (lc 23,42).
Như thế, qua Thánh Kinh đã mạc khải cho chúng ta biết Chúa Giêsu chính là Vua. Và vị Vua Giêsu mà chúng hằng tôn thờ đó đã cai trị vương quốc của mình như thế nào?
Trước hết, Chúa Giêsu không phủ nhận mình là Vua hay vương quyền của mình, vì trước toà án Philatô, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Tôi là Vua” (Ga 18,37). Thế nhưng, Ngài không phải là một vị vua đi tranh giành ngôi với hoàng đế Xê-sa-rê hay Hê-rô-đê mà hội đồng công toạ tố cáo (Lc 23,3). Nhưng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian này, không có màu sắc chính trị phàm trần, xâm chiếm lãnh thổ. Ngài không xuất hiện như các ông vua khải hoàn, ngựa xe ngợp trời, tù binh cả đám. Nhưng Ngài ngồi trên con lừa khiêm tốn, hiền hoà theo lời sấm ngôn của Dacaria (Dcr 9,9; Mt 21,5), Ngài đến để đem sự bình an và ơn công chính đến cho mọi người chứ không phải mang gươm giáo, súng đạn. Ngài đến để cứu kẻ khác chứ không phải để cứu mình (Lc 23,35), bởi vì Ngài là Đấng Kitô đến để thực hiện chương trình của Chúa Cha, mà chương trình này là “phải qua đau khổ mới bước vào vinh quang”. Ngài là Vua nhưng không phải là vua bóc lột, mà là Vua “hiến mạng sống vì đoàn chiên” (Ga 10,11). Ngài là Vua “đem công lý, hoà bình, hạnh phúc” cho toàn dân. Nhưng việc này chỉ có thể thực hiện khi Ngài hoàn tất số phận của mình, một “người tôi tớ Đức Chúa”. Trên thập giá Ngài đã đánh bại Xatan, triệt tiêu tử thần, đã đem lại sự công chính hoá cho toàn dân và mở ra thời kỳ ân phúc cho nhân loại (Lc 22,29).
Điều này cho chúng ta hiểu được rằng vương quyền của Ngài không nhằm phục vụ tư lợi cá nhân. Việc Ngài thống trị toàn vũ trụ không phải để tự mãn nhưng là cho con người được sống và sống dồi dào. Chúa Giêsu Vua không cai trị Vương quốc bằng sức mạnh của vũ lực, nhưng bằng phục vụ, yêu thương. Con người xem ra mạnh hơn Chúa Kitô trong việc áp đảo và bắt bớ. Nhưng điều đó không làm cho Chúa Giêsu bận tâm. Hơn nữa, chính việc Chúa Giêsu chấp nhận bị gây thương tích và chết đi nhằm mạc khải cách tuyệt vời bản chất đích thực của Vương quốc Ngài là một Vương quốc của tình yêu thương, yêu cho đến cùng: chết vì người mình yêu.
Nói tóm lại, Vương quyền của Vua Giêsu là hoà giải trời với đất, giải thoát con người khỏi nô lệ của ma quỷ, dẹp tan tội ác, thiết lập một vương quốc “chân lý, ánh sang, bình an, sự sống, công bình và tình thương vĩnh cửu”, trong đó mọi người đều hạnh phúc, không còn cảnh người bóc lột người, không còn cảnh khổ đau (Rm 14,17; Ga 18, 38).
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Qua lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ hôm nay, mỗi người chúng ta cần phải tự hỏi mình có chấp nhận vương quyền của Ngài hay không? Ta có để cho Chúa làm chủ, làm vua tâm hồn và đời sống của mình hay chưa? Ta đã tuyên xưng và loan truyền vương quốc của Chúa thế nào trong đời sống của chúng ta? Chúng ta nhận Chúa là vua vũ trụ xem ra là một việc dễ dàng, còn việc để Chúa làm vua tâm hồn và đời sống của mình không phải là một việc dễ dàng tí nào, vì chúng ta còn quá nhiều lệ thuộc cho tự do ích kỷ của chúng ta, chúng ta còn nô lệ cho quá nhiều những cám dỗ đầy ngon ngọt của vương quốc ma quỉ.
Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa Cha phong làm vua vũ trụ và dĩ nhiên cũng là vua tâm hồn và cõi lòng chúng ta. Chúng ta chỉ có hai thủ lãnh để theo: một là Chúa Giêsu, hai là ma qủi. Chúng ta phải chọn một trong hai, hoặc là vị này hoặc là vị kia, là Chúa hay là ma qủi. Trong vấn đề này chúng ta không thể trung lập để “bắt cá hai tay”, bởi vì người ta thường nói:
Một nhà hai chủ không hòa,
Hai vua một nước, ắt là không yên.
Vậy chúng ta phải theo vị thủ lãnh nào? Chắc chắn chúng ta chọn Chúa Giêsu là vua bởi vì tất cả chúng ta đã được chịu phép rửa tội. Và qua phép Rửa tội, mỗi người chúng ta được thông phần vào cái chết và sự sống của Chúa Giêsu, được tham dự vào chức năng làm vua của Chúa Kitô. Vậy chúng ta đã làm cho vương quốc của Chúa Kitô cũng là vương quốc của chúng ta phát triển và lan toả hay chưa? Hay nói cách khác đời sống của chúng ta có nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến hay chưa?
Ước gì qua thánh lễ hôm nay, xin Chúa Kitô là Vua vũ trụ và là Vua của lòng trí chúng ta đổ tràn đầy tình yêu Chúa xuống trong tâm hồn mỗi người chúng ta, cho chúng ta bừng cháy lửa tình yêu Chúa để chúng ta biết đón nhận Chúa trong anh em, để từ đó ngọn lửa tình yêu Chúa lan toả ra những anh chị em sống bên cạnh chúng ta, và nhờ đó mọi người nhận ra Nước Cha đang trị đến. Amen.
(Bài giảng của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Cách đây hai ngàn năm, một tội nhân bị đưa ra trước công đường của một vị quan tổng trấn. Hai người gặp nhau lần đầu, mặc dù đã nghe nói về nhau. Philatô, người tượng trưng cho quyền lực trần thế, Đức Giêsu, người đại diện cho quyền lực trên cao. Cuộc gặp gỡ này vừa là một vụ án, vừa là một vở kịch. Người sát hạch cũng là người bị hỏi, bên bị cáo cũng là người thẩm vấn. Quả thật là một sự đổi vai giữa hai nhân vật này.
“Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Một câu hỏi kỳ lạ, thậm chí vô duyên. Có lẽ nào người hiện diện trước mặt ông là một vị vua mà lại không được ông, một vị tổng trấn uy quyền, biết đến? Điều đó cho thấy Đức Giêsu không phải là một vị vua theo quan niệm thế gian. Vương quốc của Người không phải ở thế gian này.
Hai ngàn năm đã qua sau vụ án, hôm nay vẫn có những người đang đặt câu hỏi mang tính thách thức như Philatô về vương quốc của Chúa. Vẫn có biết bao người đang kiếm tìm vương quốc ấy, và cũng có vô số tín hữu sẵn sàng đổ máu đào vì vương quốc kỳ diệu này.
“Vậy ông là vua sao?” Lại một lần nữa, Philatô buông một câu hỏi vô nghĩa. Trước câu hỏi này, Đức Giêsu cũng không đưa ra một câu trả lời trực tiếp. Người nói: “Chính ngài nói rằng tôi là vua”. Tiếp đó, Người minh định rõ ràng chức năng vương hoàng của Người, đó là chức năng làm chứng cho sự thật. Vậy là đã rõ, vương quốc của Chúa là vương quốc của sự thật, mà sự thật thì không bị xiềng xích. Sự thật cũng như trái tim, không bị chi phối bởi sắc tộc, ngôn ngữ hay thế mạnh quân sự. Sự thật đã và đang đem lại chiến thắng cho con người.
“Nước tôi không thuộc chốn này”. Đức Giêsu nhấn mạnh hai lần điều này. Người không muốn để cho Philatô hiểu về chức vương hoàng của Người theo kiểu thế gian. Không chỉ Philatô, mà suốt bề dầy của lịch sử, những ai muốn quan niệm hoặc trình bày tước vị “Vua” của Đức Giêsu theo kiểu trần thế đều bị thất bại. Đã có thời trong, khá nhiều người, kể cả một số vị lãnh đạo, mang quan niệm sai lầm về sức mạnh của Giáo Hội, khi họ cho rằng Giáo Hội mạnh mẽ nhờ thế lực trần gian hoặc do sức mạnh của đồng tiền. Quan điểm ấy đã chuốc lấy những bài học chua cay. Đức Giêsu tuyên bố chức năng vương hoàng của Người vào lúc Người bị điệu ra trước pháp đình. Qua đó, người muốn khẳng định rõ: Người làm vua để phục vụ và trao gửi yêu thương. Sau bao thế kỷ, Giáo Hội cũng đã ngộ ra rằng sức mạnh của Giáo Hội không đến từ quyền lực trần thế, mà là đến từ Đấng chịu đóng đinh. Cộng đoàn tín hữu tiên khởi, mặc dù phải đối diện với biết bao khó khăn do thù nghịch đến từ phía người Do Thái và nhà cầm quyền La-mã, nhưng vẫn tăng trưởng, vì họ tìm được sức mạnh nơi Đấng đã chịu đóng đinh trên thập giá, đã chịu chết và đã Phục Sinh.
Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, Phụng vụ muốn nhắc cho chúng ta về khái niệm “vương quyền” của Đức Giêsu. Vương quốc của Người đã được khởi đầu ở trần gian này rồi, như lời rao giảng của Chúa khi khởi sự công cuộc loan báo Tin Mừng: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Tuy thế, vương quốc của Chúa vẫn chưa được thực hiện, mà đang trong thời kỳ đạt tới thành toàn, vào thời điểm Chúa muốn. Sự thành toàn của vương quốc Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong tương lai, lúc ấy, Con Người sẽ từ mây trời ngự đến, thống trị vinh quang mãi mãi (Bài đọc I).
Năm phụng vụ chấm dứt với chúa nhật hôm nay. Chúng ta cũng được mời gọi suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời. Là con dân của Nước Chúa, người tín hữu phải nỗ lực thực thi tình bác ái và xây đắp an bình, vì Nước Chúa là nước của bình an, nhân ái, chan hòa tình Chúa tình người. Khi cố gắng thực thi lời Chúa dạy là chúng ta làm cho vương quốc của Chúa mau trị đến.
Tuyên xưng Chúa là Vua, chúng ta cũng muốn thuộc trọn về Người. Đây cũng là dịp để chúng ta nghĩ về lòng trung thành của chúng ta với Chúa. Tấm “hộ chiếu” của vương quốc vĩnh cửu chính là đức tin vững vàng, đức cậy trung tín và đức mến thiết tha. Chúa sẽ nhận ra chúng ta, qua việc thiện chí sống và thực thi những nhân đức này.
Suy Niệm:
Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa. Trong Ngài muôn loài được tạo thành. Nhờ Ngài vạn vật được cứu độ. Vì thế Ngài là chủ tể là vua vũ trụ. Nước của Ngài không hạn hẹp một quốc gia nào, một dân tộc nào. Nhưng bao trùm toàn thể chúng sinh. Vinh quang uy quyền của ngai báu Ngài không tỏ hiện bằng vũ lực, bằng cao sang thế trần, nhưng êm đềm trong yêu thương, trong tình thân ái để đem hạnh phúc đích thực cho mọi tâm hồn.
Cầu Nguyện:
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cải tạo mọi sự trong Con yêu dấu Chúa, là vua vũ trụ: Xin đoái thương cho mọi loài thọ tạo đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ, biết phụng thờ uy linh Chúa, và biết luôn luôn ngợi khen Chúa. Chúng con Cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ Nhất chấm dứt, cả châu âu rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát. Balan cũng không tránh khỏi thảm hoạ. Đất nước bị quân Đức và Nga thay nhau cày xéo. Bao thanh niên ngã gục trên chiến trường. Nhiều làng mạc, thành phố bị bom đạn thiêu rụi.
Trước tình hình đó, Toà thánh muốn tìm một giáo sĩ xứng hợp, có thể đảm trách vai trò đặc sứ tại quốc gia này. Linh mục Ambrose Ratti người Ý đã được đề cử và tuyển chọn. Ngay sau đó, cha Ambrose lên đường đi nhận nhiệm sở mới với bao sứ mạng nặng nề.
Thế nhưng công việc của cha Ambrose tại Balan đã tiến triển tốt đẹp. Toà thánh nhận ra điều đó. Rồi chẳng bao lâu sau, ngài được triệu về Rôma và được tấn phong Hồng y coi sóc tổng giáo phận Milan. Đến năm 1922, sau khi Đức Benêđictô XV qua đời, Hồng y Ambrose Ratti được bầu làm Giáo hoàng với danh hiệu Piô XI.
Năm 1925, Đức Thánh Cha Piô đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa nhật cuối cùng của tháng Mười. Trong một bản tông huấn, Đức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua: thế giới cần một nền hoà bình chân thật, nhưng hoà bình đó chỉ có được dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình Thương và là Hoàng Tử Bình An.
Về sau, khi có cuộc cải cách phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, tức Chúa nhật thứ 34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu kỳ mới.
Một linh mục đã nhận xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều ý nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một đức vua.
Nhớ lại ngày Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, ba đạo sĩ phương Đông đã tìm đến dâng các lễ vật: vàng, nhũ hương, và mộc dược. Vàng là món quà tượng trưng cho vương quyền. Thế nên, từ thuở ấu thơ, Ngài đã được nhìn nhận như một đức vua. Và rồi, trong những giờ phút cuối cùng của cuộc sống làm người, Đức Giêsu cũng được suy tôn như một vị quốc vương cao cả.
Thói thường khi quân Rôma đóng đinh ai cũng đều kèm theo một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ phạm pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái bằng cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ “Đây là Vua Dân Do thái”. Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Đức Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là hoàng đế (x. Thomas Kemp, Homilies on the Sunday Gospel).
Việc làm vô tình của Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng.
Số là trên đồi Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính thì mắng nhiếc chế diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ nhục. Trong mớ âm thanh hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài ngôn từ đáng suy nghĩ.
Ngay trên khổ giá của mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ về những ngôn từ đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu như: “Nếu là Đức Kitô”, “Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Nếu là Vua Do thái”. Anh ta ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.
Chính việc “thấy” và “nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái”(Lc 23: 41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài”(Lc 23: 42).
Làm sao trong cảnh hấp hối tột cùng của Đức Giêsu và của chính mình mà anh “trộm lành” lại cất lên được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng xoáy của sự chết, anh đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Điều gì đã giúp anh, ngay giữa lằn ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một quốc vương, Đấng đang bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?
Một nhà thần học trả lời: tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu người, xót thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình Yêu.
Mà tình yêu sẽ tồn tại muôn đời, anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn đau của thân xác, anh vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó đang rộng lòng tha thứ, xoá tan hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia tăng cường độ khiến miệng anh bật lên lời nài van: “Xin Ngài nhớ đến tôi”.
“Ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta”(Lc 23: 43). Không lời nào yên ủi cho người sắp chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly. Nhưng tình thương lại luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu nhớ đến mình, nhưng Ngài lại hứa ở cùng anh. Nói đến nhớ là nói đến cách xa. Vì yêu nhau nhưng không được gần nhau nên sinh ra nỗi nhớ. Tình yêu có nỗi nhớ là tình yêu chưa được vuông tròn. Còn khi “ở làm một với nhau” thì tình yêu đã thật sự lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là “nên một” và “ở cùng”.
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đức Kitô, Người Thiên Chúa tuyển chọn, Đấng Cứu Thế, Vua Tình yêu.
Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành trình dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, là ta đang tìm thấy hoà bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, và thế giới.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Hôm nay, Chúa nhật cuối cùng năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua. Thật nghịch lý, để mừng lễ Đức Kitô Vua, Giáo hội đưa ra cảnh tượng Đức Giêsu mạc khải triều đại Người: ngai vàng là thập giá, vương miện là một vòng gai, lễ phong vương là một danh hiệu của việc kết án tử đóng đinh bên trên đầu Người, nam tước là hai tên gian phi. Nghịch lý cao cả của Tin mừng! Vua? Phải! Nhưng chắc chắn không hiểu theo nghĩa của những người đứng về phía Người, cũng không theo nghĩa của những đối thủ lên án Người, nhưng theo cách của Thiên Chúa.
Luca viết: “Khi đến nơi gọi là Núi Sọ, họ đóng đinh Người vào thập giá”. Thực ra đây chỉ là quả đồi nằm ở cổng thành Giêrusalem, cổng Ephraim, một nơi khai thác đá cũ, nhưng thợ khai thác còn để lại tại chỗ một tảng đá cứng hơn chỗ khác, một khối đá biệt lập cao khoảng 5m. Vì hình dạng của tảng đá giống như cái sọ, nên gọi là núi Sọ, tiếng Dothái là Gôlgôtha tiếng Hylạp là Kranion, tiếng Latinh là Calvario. Theo truyền thuyết đó là cái sọ của Ađam được chôn cất mãi mãi ở đó. Bởi là một nơi gần đường, nên người ta hay đóng đinh các tội nhân ở đó để mọi người qua lại xỉ nhục hoặc để làm gương cho người khác.
Cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu có hai tên gian phi. Để chứng minh Đức Giêsu không phải là gian phi, Luca đặt nơi môi miệng Người một lời nguyện: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Họ đây là ai? Đó là các vị thân hào. Luca thường ghi nhận, đối với Đức Giêsu thì “dân chúng” khác với các thân hào (Lc 20,1-20.45, 21.38). Trước biến cố Đức Giêsu chịu đóng đinh, dân chúng chán ngán, yên lặng đứng nhìn. Sự yên lặng của dân chúng thật ấn tượng và đáng trân trọng. Dân chúng Israel hiền lành không hiểu gì cả. Họ chờ đợi Đức Giêsu như¬ Đấng Messia, như một vua Đavít mới.
Trong lịch sử dân tộc họ, không thiếu vua, nhưng tầm cỡ vua Đavít và Salomon thì không có, đó là thời kỳ huy hoàng của Israel. Từ nhiều thế kỷ, họ đã không ngừng mơ ước có một vị vua là Đấng Messia, hưng thịnh, chiến thắng kẻ thù, làm vị thẩm phán của Thiên Chúa, họ ngờ rằng Đức Giêsu đến để phục hưng vương quyền của Israel. Họ đã thử tôn Người làm vua, Người lại tránh né. Giờ đây, Người kia kìa, Người bị kết án tử hình, Người đang bị treo trên thập giá.
Khác với những người dân đen đang đứng nhìn ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng. Các thủ lãnh buông lời cười nhạo, thách đố Người: “Nếu ngươi là cứu Chúa, trước tiên cứu mình đi”. Đó là tiếng vang của ma quỷ trong sa mạc (Lc 4,3), của người đồng hương Nadarét (Lc 4,23). Trong thế giới ngày nay, những kẻ chế nhạo Thiên Chúa cũng cùng giọng điệu như thế: “Nếu Thiên Chúa có, hãy hiện diện đi, để mọi người thấy”.
Câu trả lời của Thiên Chúa vẫn là câu trả lời của Đức Giêsu: “Người im lặng”. Người không biện hộ cho mình. Người để cho mình bị lên án là bất lực, là không hiện hữu. Đức Giêsu cũng như Thiên Chúa, không bao giờ nhượng bộ sự cám dỗ, hành động vì mình, sử dụng quyền năng của mình chỉ vì chính mình.
Còn lính tráng? Lính tráng cũng chế giễu Người: “Nếu ông là vua dân Dothái thì cứu mình đi”. Thế nhưng, những binh lính này vẫn còn chút lương tri, họ đã lấy một chút giấm đưa cho Ngài uống. Giấm đây là thứ rượu chua thời ấy binh lính Lamã quen dùng, nếu pha thêm một chút mộc dược, sẽ thành một thứ thuốc gây mê, các bà Dothái thường cho các nạn nhân uống như thế để giảm đau. ở đây, Luca không cho biết Chúa có uống hay không, nhưng Mátthêu nói rõ, Chúa chỉ nếm một chút để tỏ lòng biết ơn người đã có thiện chí giúp đỡ mình (Mt 27,34).
Khi phong vương, theo tục lệ Dothái, ông vua được phong ngồi trên ngai, một thượng tế nhân danh Thiên Chúa ban cho nhà vua danh hiệu như thường thấy trong Thánh vịnh 109: “Ngày đăng quang con nắm quyền thủ lãnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con”. Ở đây, ngai vàng của Đức Giêsu là thập giá, bản văn phong vương Người chính là bản án của Philatô ghi trên đầu Người: “Đây là vua người Dothái “.
Dĩ nhiên Đức Giêsu là vua không theo cách thức thế gian, Nước Người không thuộc về thế gian này (Ga 18,36). Vương quyền của Người được thiết lập ở trần thế, nhưng không cạnh tranh với các vương quốc hoặc hệ thống chính trị trần thế. Thập giá ấy, ngai vàng ấy, danh hiệu ấy đã làm tan tành mọi niềm hy vọng hoang tưởng của Vua Israel, của chủ nghĩa Messia.
Bi kịch thập giá của Đức Giêsu, được Luca xây dựng theo kiểu căng thẳng tịnh tiến: dân chúng đứng nhìn, các thủ lãnh cười nhạo, lính tráng chế giễu, và tên gian phi nhục mạ. Đúng thế, một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Cứu mình? Đó là thách thức ghê tởm nó bộc lộ luận lý khôn ngoan của loài người tội lỗi mà các thủ lãnh, lính tráng cũng như tên gian phi đã đưa ra. Phải nghĩ đến mình trước rồi mới đến người khác. Còn đâu ý nghĩa phục vụ? Câu “Mục tử tốt thí mạng vì đàn chiên” còn có ý nghĩa nào nữa? Và những câu như: “Ai tìm sự sống thì sẽ mất” bây giờ ở đâu?
Vậy, ta có thể kết luận Đức Giêsu là Vua, Người làm Vua trên thập giá, trong hành vi trở thành của lễ đền tội mọi người. Ai không bỏ mình theo Người thì không được cứu độ. Còn ai kính sợ Thiên Chúa, tin Người được đưa vào Nước của Người. Người thực hiện các lời ngôn sứ về vua thiên sai, vua hòa bình, vua cứu thế; quá sự chờ mong của mọi người vì trên thập giá, không những Người là vua mục tử hơn Đavít mà còn là người tôi tớ đau thương của Thiên Chúa sẽ thống trị địa cầu.
(Suy niệm của Lm Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 23:35-43 là màn chế giễu cuối cùng (x. 22:63; 23:11) Chúa Giêsu chịu trước khi Người trút hơi thở cuối cùng (23:44-49). Người đã đến Núi Sọ, bị đóng đinh giữa hai phạm nhân. Áo xống của Người cũng bị tước đoạt (23:33-34). Trình thuật nầy có rất nhiều nhân vật: dân chúng, các thủ lãnh, lính tráng, hai phạm nhân với hai thái độ khác nhau và Chúa Giêsu. Có thể chia đoạn nầy làm hai: – Nhóm dân chúng, thủ lãnh và quân lính (23:35-38); – Hai phạm nhân (23:39-44). Chúa Giêsu là trung tâm của cảnh chế giễu nầy.
Luca đã dùng phân từ “kai”, “và” để lên kết các nhóm người lại “và dân chúng (c. 35) – và các thủ lãnh” – “và quân lính” – “và tấm bảng”. Mỗi người mỗi cách, nhưng chung một thái độ chế giễu Chúa Giêsu. Điểm chung là họ dùng câu điều kiện “nếu”, trong đó họ có lời thách thức giống nhau “Hãy tự cứu mình” (cc. 35.37.39), và họ gọi Chúa Giêsu bằng những tước hiệu tương tự nhau “Đấng Kitô” (c. 35), “Vua dân Do thái” (c. 37); “Đấng Kitô” (c. 39). Câu trả lời cho những thách thức và chế giễu nầy nằm trong lời tuyên xưng của phạm nhân thứ hai (c. 42), và trong lời hứa thiên đàng cho phạm nhân nầy (c. 43).
Dân chúng (c. 35)
Luca chỉ ghi nhận “dân chúng đứng nhìn”. Dân chúng không chỉ đứng đó nhìn cách bàng quan, mà tham dự vào sự khinh rẻ và chế nhạo diễn ra lúc ấy. Xem Tv 22:8: “Ai thấy (theôreô) tôi cũng nhạo báng (ekmyktçrizô) lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai”. Trong 14:29, Luca cho thấy “cái nhìn” (theôreô) gắn liền với “chế giễu” (empaizô) (14:29). Chính dân chúng đã đứng chung với các thượng tế và thủ lãnh trước toà Philatô (23;13) và đồng ý kết án tử Chúa Giêsu (23:18). Vậy, dân chúng đứng nhìn lâu (động từ ở thể phân từ hiện tại) mà không phản đối, chính là đồng loã với những người lên tiếng chế giễu Người.
Các thủ lãnh (c. 35)
Ở đây Luca chỉ nói đến “các thủ lãnh”, trong khi ở 23:13 và 24:20, ông nhắc đến cả các thượng tế. Động từ ekmyktçrizô nghĩa là “nhạo báng”; chỉ gặp trong 16:14; 23:35. Có thể có mối liên hệ giữa đoạn nầy với Tv 22:8. Trong lời họ nhạo báng, Luca nhấn mạnh đến khía cạnh cứu chuộc của Chúa Giêsu, tư cách Con Thiên Chúa được Thiên Chúa sai đến. Cụm từ “Hãy cứu lấy chính mình” được lập lại 3 lần bởi các thủ lãnh (c. 35), quân lính (c. 37) và phạm nhân (c. 39). Động từ “sozô” “cứu” dùng rất nhiều trong trình thuật nầy (cc. 35[2x].37.39). Nó mang ý nghĩa rộng hơn sự chữa lành bệnh. Đó là cứu khỏi tội và đưa vào Nước Trời (x. 7:50; 8:48.50; 17:19; 18:42). Động từ “sozô” và tước hiệu “Christos”, Kitô, liên hệ với nhau. Sau lời Phêrô tuyên xưng Người là “Đấng Kitô” (9:20), Chúa Giêsu nói đến sự cứu độ cho những ai bỏ mình và vác thánh giá đi theo Người (9:24). Tước hiệu “Đấng Kitô của Thiên Chúa” đã được Phêrô tuyên xưng lần đầu tiên (9:20). Tước hiệu nầy nhấn mạnh nguồn gốc của Đấng Kitô và tương quan và sự thông hiệp của Người với Thiên Chúa. “Của Thiên Chúa” có nghĩa là do Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến. Tước hiệu “Kitô” đứng một mình như trong lời của phạm nhân thứ nhất (c. 39) có thể hiểu là một đấng thiên sai, một vị vua được xức dầu nào đó. Rồi tước hiệu “Người được tuyển chọn” cũng nói lên liên hệ với Thiên Chúa (18:7). Chính Thiên Chúa xác nhận điều nầy về Chúa Giêsu trong biến cố biến hình (9:35).
Nhóm quân lính (c. 36)
Sau các thủ lãnh tôn giáo, đến dân ngoại chế giễu Chúa Giêsu. Họ là những người canh giữ (22:63), Hêrôđê (23:11), lính tráng (23:36). Điều nầy đã được nói đến trong lời tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn (18:32; 22:62). “Empaizô” “chế giễu” là khinh rẻ và lấy người khác làm trò chơi cho mình. Những người canh giữ Chúa Giêsu đã bịt mắt Người, đánh Người và bảo Người đoán xem ai đã làm điều ấy (x. 22:63-65); Hêrôđê muốn Người làm những phép lạ để thoả mãn sự tò mò của ông (23:8-9). Lính tráng bên thập giá đưa giấm lên cho Người uống (23:36). Tước hiệu “Vua dân Do thái” nầy phát xuất từ dân ngoại mà thôi: Philatô (x. 23:3), tấm bảng treo trên đầu Người (23:38) và lính tráng ở đây. Lần đầu tiên Chúa Giêsu được dân Do thái gọi là vua, basileus, khi Người vào thành Giêrusalem: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến” (x. 19:38). Chúa Giêsu là vua, basileus, mà cũng là Christos (x. 23:2).
Cho đến lúc nầy, cả các thủ lãnh lẫn dân ngoại chẳng ai biết rõ và chắc chắn Chúa Giêsu là ai. Người ta thắc mắc về căn tính của Người (x. 20:41; 22:67; 23:2); ngoại trừ ma quỉ (4:34; 4:41; 8:28) và nhóm Mười Hai (9:20), không ai biết rõ căn tính của Người. Người ta thắc mắc về Người (x. 20:41; 22:67; 23:2). Bởi đó, họ nghĩ đây là cơ hội cuối cùng họ có thể buộc Chúa Giêsu chứng tỏ ra Người là ai, bằng cách làm theo yêu cầu của họ. Chúa Giêsu đã không làm theo yêu cầu của họ, vì Người biết họ không tin vào Người (22:67), và chính khi chịu đóng đinh, Người tỏ ra cách tỏ tường nhất Người là Đấng Kitô của Thiên Chúa; nói cách khác là Đấng Thiên Sai, được gởi đến để cứu chuộc con người. Không làm theo điều kiện họ đặt ra, Chúa Giêsu không phải là Đấng Kitô theo ý nghĩ của họ.
Tấm bảng (cc. 23:38)
“Và” (xem trên) liên kết tấm bảng nầy với những nhóm người nhạo báng Chúa Giêsu. Có sự khác biệt ít nhiều giữa các tin mừng về điều ghi trên tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu (x. Mt 27:37; Mc 15:26; Gio 19:19). “Houtos” chỉ Đấng bị đóng đinh dưới tấm bảng. Cách trình bày đơn sơ “Và có tấm bảng trên đầu Người” muốn ám chỉ điều ghi trên tấm bảng “Người nầy là Vua dân Do thái” tương phản với người đang bị đóng đinh. Như thế, tấm bảng nối dài lời nhạo báng của lính tráng.
Phạm nhân thứ nhất (cc. 23:39)
Luca dùng động từ blasphçmçô, “nói phạm thượng”, để chỉ thái độ của người nầy đối với Chúa Giêsu. Động từ nầy chỉ dùng ba lần trong Luca: nói phạm thượng đến Chúa Thánh Thần (12:10), những người canh giữ và phạm nhân nầy nói phạm thượng đến Chúa Giêsu (22:65; 23:39). Như thế, blasphçmçô là nói những lời chống lại Thiên Chúa. Người nầy nói phạm thượng vì tình cảnh bất lực và vô vọng của mình. Anh muốn Chúa Giêsu dùng quyền năng của Đấng Kitô để giải thoát anh khỏi cái chết gần kề.
Phạm nhân thứ hai (cc. 40-42)
Người nầy ngỏ lời trước tiên với người đồng chịu án (23:40-41) và với Chúa Giêsu (23:42). Trong lời ngỏ với phạm nhân kia, người nầy nói đến sự kính sợ Thiên Chúa, đến việc nhìn nhận tội và chấp nhận hình phạt xứng với việc đã làm và bênh vực Chúa Giêsu là vô tội. Khi trách phạm nhân kia không kính sợ Thiên Chúa bằng câu hỏi, người nầy gián tiếp cho thấy ông có lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông quan toà là tiêu biểu của những người không kính sợ Thiên Chúa (18:2-4). Ngược lại, Mẹ Maria là gương mẫu của người kính sợ Thiên Chúa. Ai kính sợ Thiên Chúa thì được Người xót thương (1:50). Phạm nhân thứ hai nầy tỏ ra kính sợ Thiên Chúa khi ông dám nói nghịch lại phạm nhân kia, cũng là nghịch lại dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng. Cái chết gần kề, ông không sợ. Ông chỉ sợ Đấng có thể ném cả thân xác và linh hồn ông vào hoả ngục (x. 12:4-9). Bởi có lòng kính sợ nầy, ông sẽ được Thiên Chúa xót thương và cứu lấy ông.
Nói về Chúa Giêsu, ông bênh vực Người là vô tội (23:41). Chính Philatô cũng đã nhận ra như thế (23:22). Ngỏ lời với Chúa Giêsu, ông gọi Người bằng tên “Giêsu”, chứ không bằng bất cứ tước hiệu nào. Tên “Giêsu” nầy liên kết với “Đấng Thánh của Thiên Chúa (4:34), với “Con của Đấng Tối Cao” (8:28), với “Con vua Đavít” (18:38), với “Thầy” (17:13) và “Chúa” (Cv 7:59). Ông xin Người nhớ đến ông trong Nước của Người. Mimneskomai, “nhớ”, bao hàm ý nghĩa cứu độ. Thiên Chúa nhớ tỏ lòng thương xót trên Abraham và con cháu ông đến muôn đời (1:54). Thiên Chúa nhớ đến giao ước mà cứu khỏi tay kẻ thù (1:72). Ông nói đến “Nước”, basileia, của Người. Nước của Chúa Giêsu đồng hóa với Nước của Thiên Chúa (22:29.30); “Nước Thiên Chúa” được nhắc đến tới 31 lần trong Luca. Như thế lời của phạm nhân thứ hai nầy ngỏ với Chúa Giêsu trở thành câu trả lời gián tiếp cho những người nhạo báng trên, và đó cũng là lời tuyên xưng đức tin của ông: – “Giêsu” là Con Thiên Chúa, nên Người mới có thể nhớ và tỏ lòng thương xót ông như Thiên Chúa; – “Giêsu” là Đấng Kitô, là Vua nên Người mới có “Nước của Người”; – Nước của Người là Nước của Thiên Chúa và Người là Con Thiên Chúa; đồng thời cũng là Con vua Đavít. Vậy Người thật sự là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, và cũng là “Vua dân Do thái”.
Chúa Giêsu trả lời với phạm nhân nầy bằng lời hứa là hôm nay ông sẽ cùng với Người trong thiên đàng. Đây là thiên đàng của Thiên Chúa (x. Kh 2:7). “Ở trong thiên đàng” là ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Nói cách khác là “trong tay” của Người (x. 23:46). Phạm nhân thứ hai đã tuyên xưng Chúa Giêsu trước mặt mọi người, nhất là những người chối bỏ Người; bởi đó ông được Người nhận biết và cho hưởng Nước Trời (x. 12:8).
Chúa Giêsu không chết trong thinh lặng. Người chết sau khi được tuyên xưng cách công khai là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Như thế cái chết trên thập giá của Người có tính cách cứu độ và mang ơn giải thoát đến cho mọi người.
Thánh Gioan Cantius, người Balan sinh năm 1390. Khi còn nhỏ, ngài là một cậu bé thông minh, tốt lành. Sau khi chịu chức Linh Mục, ngài làm giáo sư Kinh Thánh tại đại học Cracow, rồi làm Cha Sở nhiều năm, chuyên lo việc tông đồ phục vụ người nghèo. Ngài hành hương Rôma bốn lần, đi bộ, vai mang hành trang, một trong bốn cuộc hành hương này, ngài bị bọn cướp chặn lại và lấy hết tiền của, tra hỏi ngài còn tiền của gì nữa phải đưa hết. Ngài trả lời: Thưa đã hết cả rồi. Bọn chúng cho ngài ra đi. Đi được một quãng đường xa, ngài nhớ lại còn một số tiền nữa khâu ở dưới gấu áo, nên ngài vội vã trở lại và trao hết cho bọn cướp, xin lỗi họ vì đã quên lãng mất… Thấy lòng chân thật, nhân từ và thánh thiện của Thánh Nhân, bọn cướp bỡ ngỡ, cảm động nên đã bảo nhau trả lại cho ngài tất cả.
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng Lễ Chúa Kitô Vua. Chúa là Vua của chúng ta, chúng ta là thần dân của Người. Người là Vua trên muôn vua, là Chúa muôn loài, là Đấng mọi loài trên trời, dưới đất và trong hỏa ngục đều phải tôn thờ, phụng sự, sùng bái, kính tôn và yêu mến.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Philatô đã hỏi Chúa: “Ông có phải là Vua không?” Chúa long trọng tuyên bố: “Tôi là Vua, Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về chân lý đó. Ai thuộc vào chân lý thì nghe tiếng Tôi” (Jn 18:37).
Là thần dân của Vua Kitô; hơn nữa, còn là các Hoàng Tử và Công Chúa của Thượng Đế, Đấng Thiên Hoàng, chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Chúa chúng ta là Vua thế nào? Vương Quyền Ngài ở đâu? Quyền năng Ngài ra sao?
Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay trả lời cho chúng ta tất cả những câu vấn nạn trên: “Cha đã xức dầu hoan lạc tấn phong Con Một Chúa là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, làm Linh Mục đời đời và làm Vua vũ trụ, để khi hiến thân trên bàn thờ Thập Giá làm lễ phẩm giao hòa và tinh tuyền, Người hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc chúng con. Khi đã bắt mọi loài qui phục quyền bính mình, Người trao lại cho Cha là Đấng uy linh cao cả, một Vương Quốc vĩnh cửu và vô biên: Vương Quốc đầy tràn sự thật và sự sống, Vương Quốc đầy tràn ân sủng và thánh thiện, Vương Quốc đầy tràn tình thương, công lý và bình an”.
Chúa Kitô là Thiên Chúa nhập thể làm người nơi trần gian để làm Vua, tự bản tính Ngài là Vua; không như các vua trần gian, được làm vua do dòng tộc loài người, do chiến đấu dành dân mà được tôn lên ngôi vị… Chúa chúng ta đã thiết lập Vương Quốc Ngài nơi trần gian bằng sự khiêm nhu, bằng tình thương yêu, lòng nhân từ tha thứ, bằng cái chết làm Hy Lễ Cứu Độ trên bàn thờ Thập Giá để qui phục mọi người về với Ngài.
Trước khi Ngài hoàn tất công nghiệp Ơn Cứu Độ, Ngài đã chọn mười hai Tông Đồ, bảy mươi hai Môn Đệ, đa số là những người dân chài, quê mùa dốt nát, thật thà lương thiện, để giữ những chức vụ, mà theo lối trần gian, chúng ta thường gọi là các tổng trưởng, bộ trưởng, dân biểu thượng viện, hạ viện… Ngài đặt Phêrô làm Quốc Vụ Khanh lập nội các và các nghành Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp, để phục vụ trong Vương Quốc Ngài đã thiết lập… Thánh luật của Vương Quốc Chúa là Bộ Thánh Kinh, bao gồm thánh ý Thiên Chúa được mạc khải qua lời các tiên tri, các tổ phụ, các thánh ký, nhất là bộ sách Tin Mừng do chính Chúa Kitô đã chỉ thị, giáo huấn, ban bố, đã sống và đã làm gương… Quốc sách cai trị trong Vương Quốc Chúa Kitô là tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ, đức bác ái hy sinh xả kỷ vị tha, chân lý và an bình. Biên cương Vương Quốc của Chúa Kitô bao la vô tận vượt mọi không gian và thời gian, không chỉ hệ tại nơi vũ trụ vật chất hữu hình này, mà còn bao gồm mọi tâm hồn con người… Giáo Hội Công Giáo chính là Vương Quốc của Chúa Kitô.
III. GIÁO HỘI, VƯƠNG QUỐC CỦA VUA KITÔ
Giáo Hội là một Siêu Quốc Gia, không theo một chính thể nào trên trần gian, quân chủ hay dân chủ, nhưng là được tổ chức theo thần quyền do Chúa thông truyền theo phẩm trật, không làm chính trị, không có quân đội hay sức mạnh trần thế, không chiến đấu tranh dành với ai.
Quốc sách cai trị trong Vương Quốc của Chúa Kitô là tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ, đức bác ái hy sinh, lòng xả kỷ vị tha, sự thánh thiện cao cả của Thiên Chúa.
Biên cương hữu hình theo pháp lý chỉ là mấy chục mẫu đất, xây dựng các cơ sở, đặt các cơ quan điều hành trung ương tại Rôma, nhưng được bao gồm mọi chủng tộc, mọi quốc gia trên khắp thế giới, vượt mọi không gian và thời gian, đến tận tầng thâm sâu linh thiêng của các tâm hồn, nơi Thiên Chúa hiển trị.
Thần dân của Vương Quốc Chúa Kitô là mọi Tín Hữu rải rắc trên khắp năm châu bốn bể, là tất cả mọi người chúng ta, gồm tất cả mọi người tin theo Chúa Kitô, làm nên một Đoàn Chiên duy nhất của Chúa nơi trần gian.
Đấng kế vị Thánh Phêrô, là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng thứ 264, đại diện Chúa Kitô phục vụ Giáo Hội, Vương Quốc hữu hình của Chúa nơi trần gian, Đấng mà chúng ta có thể mệnh danh là Chúa Kitô đang sống nơi trần gian. Đấng mà mọi tôn giáo, mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi sắc tộc dù theo chính thể nào, ngay cả những kẻ thù cũng phải kính nể, tôn trọng ngài như vị Đại Diện tối cao của Thiên Chúa, vị Lãnh Đạo tinh thần thế giới.
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta tôn xưng Chúa là Vua chúng ta, Vua các tâm hồn, Vua toàn thể vũ trụ và muôn loài thụ tạo trên trời dưới đất và trong hỏa ngục. Không gì làm Chúa hài lòng và chứng minh lòng chúng ta thần phục Vương Quyền Người, bằng cách chúng ta hãy mặc lấy tinh thần lòng chân thật, nhân từ tha thứ và thánh thiện của Chúa.
Thánh Gioan Cantius người Balan là một vị Thánh có lòng chân thật, khiêm nhu, nhân từ tha thứ, khiến cho kẻ trộm cướp, người tội lỗi cũng phải kính phục sám hối trở lại. Còn chúng ta, là con cái Chúa, chúng ta đã sống thế nào?
Tôi còn nhớ vào lúc lên 12 tuổi, vừa bắt đầu vào lớp trung học, cái thú của tuổi trẻ là đấu kiếm và mê “Thần tượng Đồ Long Đao, chém một nhát 7 đầu người khỏi cố”. Trong lóp tôi có một người bạn giỏi đấu kiêm mà cả lớp không ai địch lại được những đường lả lướt của hắn. Ai cũng tôn hắn là “Đại Ca mắt lươn”. Bao nhiêu trận đụng độ với các lớp, chúng tôi đều phải nhờ đại ca mắt lươn này dàn trận.
Thần tượng của giới học sinh là ông thầy giỏi, là bà cô giỏi.
Thần tượng của đám trẻ chơi là người bạn có mưu cao và có tài biến báo.
Thần tượng của các tay anh chị Bến Nghé là Dũng Đakao hoặc Năm Mỏ Lét.
Thần tượng của Tôn Giáo là đấng sáng lập nên tôn giáo đó (Như Thích Ca Mâu Ni, như Lão Tử, như Khổng Tử hay như Chúa Giêsu…) Các ngài đã tìm ta một con đường giúp người ta giải thoát khổ nạn và tìm được niềm hạnh phúc.
Đọc cuốn sách “Những bộ xương khô” của một nhà sưu tầm tôn giáp Pháp, kể lại chuyện của những nhà sư nổi tiếng trở lại Công Giáo, trong đó có một cầu chuyện rằng: Nhà sư T….. áo vàng Ấn Độ ngồi trên xe lửa bên vị Linh Mục. Dựa vào cảnh toa xe không có khách, hai vị tu hành ngồi nói chuyện tôn giáo với nhau. Vị khất tu T…. đặt câu thắc mắc:
– Tại sao nhân sinh lại theo nhiều tôn giáo khác nhau? Sao Cha lại theo Chúa Giêsu mà không thờ đức Thích Ca là người dẫn đường đi trước? Vị Linh Mục trả lời:
– Chuyện đó dễ thôi, thế giới ngay nay người nào giỏi thì được tôn làm đại ca. Nhưng những đại ca gở thì ai thèm ngó tới. Tôi rất kính phục các vị đại ca của các tôn giáo, vì các ngài đã tìm ra một lối giải thoát cho con người. Còn tôi, tôi không phục hết cả các ngài trừ ra đấng Đại Ca của tôi. Xưa kia tôi cũng là một nhà sư như đại đức đây. Cũng chính tại nghĩ đến lời đại đức vừa nói mà tôi tìm ra được vị đại ca tối cao này. Vị đại ca có quyền thế trên các vị đại ca khác là Đức Kitô. Tôi trà tầm hết cả các đường lối dẫn độ của các tôn giáo, nhưng tôi chỉ thấy có một vị dám xưng là “Chúa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao trên toàn cõi đất” Các vị khác không ai dám xưng như vậy.
Điều chứng minh Ngài chính là đại ca đã nhiều người được thấy tận mắt những việc Ngài làm mà chúng tôi gọi là phép lạ chứ không phải là phép phù thủy.
Ngày thứ 6 tuần thánh, Chúa Giêsu bị người Do Thái tố cáo rằng Ngài tự xưng là vua. Do đó quan Philatô hỏi:
– Ông tự xưng là vua Do Thái ư? (Mt.27:11).
Philato đâu có ngờ đó là một sự thật, sự thật mà Chúa không thể nói cách nào khác để tránh né. Ngài phải nhận:
– Tôi là vua.
Ngài cũng đã dám tuyên xưng vương quyền của Ngài chẳng phải ở thế gian này và giáo lý của Ngài không ai áp đảo được như thánh Phaolô nói:
– Ngài là vua đứng đầu mọi thụ tạo. Ngài là vua vô hình và mọi loài trên trờ dưới đất đều phải thờ lạy. Ngài cai quản mọi loài, và Ngài có trước mọi loài.
Người trộm lành trong giây phút cuối cùng đã đặt hết hy vọng vào Ngài , nên Ngài đã hé môi “Hôm nay con sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng” Chúng ta đang sống trong cảnh thiếu hạnh phúc cũng cần nhằm đến một thần tượng, một vua bất diệt.
Chuyện kể rằng: Trong lúc phong ba bão lớn, người nào cũng tin có Đấng Thượng Đế tối cao có quyền trên biển cả, nên họ kêu gào cầu cứu. Nhiều khi họ hứa sống hứa chết thay đổi cuộc đời xin Ngài cứu thoát. Tiếng lòng thành kêu xin được đáp lời ai nấy đều sửng sốt nói lên lời cảm tạ. Nhưng tháng ngày trôi qua, việc an lành đã đến, lúc đó họ chỉ còn nhìn thấy “thần Dolas” trước mắt. Họ cố gắng quên lời thể hứa đã qua.
Thần tượng của đời này được người ta tôn thờ là “Thần Tài, Thần Danh” Thực ra đó chỉ là phương tiện mà chúng ta đặt lên làm cứu cánh, còn chính Chúa Giêsu là cứu cánh, chúng ta hạ xuống làm phương tiện. Phương tiện cũ rồi không xài nữa, để cho màng nhện chăng. Chúa lúc nàu cầu không thiêng, thôi dẹp.
Nhân dịp cuối năm, Giáo Hội mừng kính Chúa Kitô là vua, nhắc nhở chúng ta xét lại quan niệm sống và cách xử đối với Đấng là Vua, là minh chủ, là đại ca mà chúng ta tôn thờ. Hãy tôn vinh Người là vua thực sự trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong gia đình và ngoài xã hội.
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước. Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến ngài càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu mình nữa hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để ngỏ lời yêu thương với nàng.
Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôm, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”. Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một “Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài. Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta. Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn, qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?
Hôm nay, là ngày lễ Chúa Giêsu là Vua, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta, Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen.
(Suy niệm của Achille Degeest)
Bài Phúc Âm nêu rõ ngộ nhận cơ bản ngăn cách kẻ thiển cận với Đức Giêsu. Một bên là những kẻ luẩn quẩn trong cái nhìn thuần tuý trần tục về sự vật, bên kia là những tâm hồn được Đức Kitô tác động cho nên mở rộng đến cực độ. Địch thủ của Chúa đứng ở bình diện những viễn ảnh sơ đẳng mà tước hiệu ‘Vua’ gợi ra trong trí họ. Trái lại, Đức Giêsu mở ra cho kẻ tội lỗi những viễn ảnh vô tận về một Vương quốc của tha thứ và yêu thương. Hai bình diện hoàn toàn khác biệt. Con người bị ràng buộc nặng nề vào những chân trời hạ giới, cho nên thảm trạng của Đức Kitô (cũng là thảm trạng Giáo Hội) ở chỗ rất khó đưa con người lên tới tầm cao định mệnh toàn diện và siêu nhiên của nhân loại. Bản thân Đức Giêsu là một cơ may lịch sử tặng cho con người để gặp Thiên Chúa. Thế mà trong lịch sử thời Phúc Âm và trong Giáo Hội ngày nay, chúng ta thấy gì? Một số từ chối Đức Kitô vì mắt họ vấp phải cái khía cạnh trông thấy được của Đức Kitô làm người, của Giáo Hội gồm toàn những con người với bản chất rất nhân loại. Những kẻ khác thì thích ứng, đức tin họ chỗi dậy, và nhờ được tha thứ cho những giây phút yếu đuối, họ tiến vào Nước Thiên Chúa. Chúng ta nhận xét thêm. Đứng trước nhân loại, Giáo Hội có trọng trách phải có bộ mặt giống tôn nhan Đức Kitô khiêm hạ, nghèo khổ, không vị lợi, quay về cả hai phía Thiên Chúa và con người, cho nên Giáo Hội thu hút những tâm hồn muốn tiến lên trong đức tin. Chúng ta nhấn thêm vào hai điểm trọng yếu trong bài Phúc Âm hôm nay.
1) Đức Kitô không thiết lập một triều đại thế gian có quyền năng kỳ diệu hoặc nhiều phép thần thông. Con người, nhất là kẻ không tin, rất háo hức muốn được chứng kiến những cuộc biểu diễn phép thần. Kẻ thù của Chúa đứng bên chân thập giá, tấn công về điểm tâm lý ấy. Họ nói: Chúa hãy làm cử chỉ phi thường xuống khỏi thập giá là người ta sẽ tin vào Chúa ngay. Chúa đáp lại bằng sự im lặng. Chúa sống trên một bình diện quá cao. Ở đây chúng ta có nên đặt ra một câu hỏi có tính chất thời sự không? Phải chăng một số nào đó, gồm cả Kitô hữu, đòi Đức Kitô dùng phép thần làm cho thế giới hết đau khổ, bất công, giặc giã, …? Có những kẻ dám nói, nếu Đức Kitô có quyền năng của một ông vua thì xin hãy cải thiện xã hội! Với những kẻ ấy, Đức Giêsu không đáp lời bằng phép lạ, bằng điều phi thường.
2) Đức Kitô thiết lập triều đại tha thứ yêu thương. Tha thứ yêu thương là những ân huệ nhận được từ Trên, như thể muốn biểu hiện luật nội tâm của Trái Tim Thiên Chúa. Kẻ nào lãnh nhận ân huệ đó cũng phải lấy tha thứ yêu thương làm luật nội tâm cho mình trong cách đối xử với anh em. Đứng trước Đức Giêsu chịu đóng đinh, mỗi người chúng ta có thể, trong sự thật, nói như kẻ trộm lành: Lạy Chúa, xin nhớ đến con khi vào Nước Trời. Thốt lên như thế là cầu xin cho định mệnh vĩnh cửu của chúng ta, nhưng cũng là xin được hưởng ngay bây giờ ơn yêu thương tha thứ của Chúa. Toàn bộ Phúc Âm khẳng định: Trong cách đối xử với anh em, chúng ta không được chậm trễ, ngay hôm nay chúng ta phải sống ơn tha thứ, sống tình thương yêu. Đó là hai thực tại cực kỳ ý nghĩa của vương quốc Đức Kitô.
(Trích từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Vua, một tước vị đã bị dìm dưới bùn đen do những vua chúa, những hoàng đế độc tài, tham quyền cố vị, giết cả bạn cả anh em, kể cả cha mẹ như một Nêron bạo vương, dìm mình trong dâm ô với hàng ngàn cung phi. Tai chúng ta vừa nghe tiếng vua, trí chúng ta liên tưởng ngay đến cảnh tượng ghê tởm khủng khiếp đó.
Thế nhưng tại sao chúng ta lại mừng lễ Chúa Giêsu là Vua. Vua Giêsu của chúng ta có như thế không? Hay là cần phải thay đổi tiếng vua thành chủ tịch, tổng thống, quốc trưởng cho hợp thời? Nhưng có thay đổi danh xưng, thì bản chất của những kẻ tham quyền cố vị, háo danh háo sắc chẳng có gì thay đổi. Điều đó đang diễn ra trước mắt chúng ta, vì “ai lấy thúng úp được voi”? đổi danh xưng làm gì, đổi bản chất người mới đáng kể.
Bài đọc I cho thấy dân Do Thái truất phế vua Saolê, một vị vua bất xứng, để chọn Đavit lên thay thế. Hết vua nầy đến vua khác. Vua nào cũng thế thôi. Suốt đời Chúa Giêsu, Ngài chưa hề một lần ngồi trên ngai vàng. Ngài không hề làm vua của một quốc gia hày trên một mảnh đất nào. Ngài đã không tỏ vẻ gì là một hoàng đế, là một ông vua. Ngài còn nhất quyết từ chối và lẫn trốn mỗi khi dân chúng có ý định tôn Ngài lên làm vua. Cũng có lần người ta gọi Ngài là “Vua Dân Do Thái”, nhưng là để chế nhạo Ngài, như chúng ta thấy trong Tin Mừng hôm nay.
Lúc đó Chúa Giêsu đang là một tên tử tội bị kết án đóng đinh thập giá giữa hai tên gian ác. Từ dưới chân thập giá, giới lạnh đạo cũng như quân lính và dân chúng đều chế giễu thách thức Ngài. Những lời giảng dạy và những việc Ngài làm để cứu chữa người khác được đưa ra để nhạo báng Ngài: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì ông hãy tự cứu mình đi!” Một trong hai tên gian ác bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu cũng lặp lại lời chế giễu thách thức đó: “Nếu ông là Đức Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu cả chúng tôi nữa!” Trên đầu thập giá của Chúa Giêsu, tấm bảng cáo trạng đã ghi rõ: “Giêsu – Nagiaret, Vua dân Do Thái”. Còn Chúa Giêsu thì vẫn im lặng trước những lời chế nhạo và thách thức của họ. Sự im lặng của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không phải là vua theo kiểu người dân Do Thái chờ đợi, một vị vua chính trị giải phóng dân tộc, cũng không phải là vua theo kiểu là người “cướp chính quyền”, tranh giành quyền thống trị của hoàng đế Xêda hay của bất cứ vị lãnh tụ nào trên trần gian nầy. Trước toà án của Tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là Vua, nhưng nước Tôi không thuộc về thế gian nầy”.
Lúc nầy, đang khi người ta chế nhạo vương quyền của Chúa Giêsu, thì tên ác kia – mà người ta gọi là “tên trộm lành” đã nhận ra vương quyền đích thực của Chúa Giêsu. Anh nhìn nhận Chúa Giêsu là người vô tội, Ngài thạt là Đức Kitô, là Đấng Thiên Chúa sai đến cứu độ nhân loại. Anh đã diễn tả lòng tin của anh bằng một lời cầu xin: “Lạy Ngài, khi nào về Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đã xác nhận vương quyền của Ngài bằng cách nhận lời cầu xin của anh: “Tôi nói thật với anh, ngay hôm nay, anh sẽ ở với Tôi trên Nước Trời”.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu là Vua. Vua là người dựng nước, Vua là người cứu nước, Vua là người của dân tộc. Thánh Phaolô đã triển khai ba điểm nầy trong Bài đọc II hôm nay. Chúa Giêsu là Vua, vì Ngài là Con Một của Thiên Chúa Cha. Vương quốc là của Con, là Trưởng Tử của mọi tạo vật, vì Ngài hiện hữu trước mọi tạo thành, mọi sự được dựng nên “nhờ Ngài và trong Ngài”. Như vậy Chúa Giêsu Kitô là đầu toàn thể vụ trụ: vật hữu hình và vô hình, trái đất chúng ta và không gian liên hành tinh, cả những tinh vân cực xa. Sau cùng, Hội Thánh là Thân Thể của Ngài và thế giới người chết cũng là nơi Ngài cai trị như là Trưởng Tử, là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Lịch sử sẽ hoàn tất nơi Chúa Kitô, bởi vì toàn thể vũ trụ đang tiến tới chỗ hòa giải trọn vẹn “nhờ Ngài và trong Ngài” và chính máu Ngài đổ ra trên thập giá để thiết lập nền hòa bình vĩnh cửu.
Chúa Giêsu là Vua, nghĩa là Ngài đã lãnh đạo, mở đường đưa cả loài người vào cõi sống vĩnh cửu, vào Nước Trời. Ngài đã giải thoát loài người khỏi mọi ách thống trị của sự ác và sự chết, để con người được gặp Thiên Chúa, được tham dự vào tình yêu, sự thật và sự sống của Thiên Chúa. Để hoàn thành sứ mạng đó, Ngài đã chấp nhận bị liệt vào hàng gian ác và đã chết cùng với những kẻ gian ác để đem họ vào cõi sống với Ngài.
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ là Vua cả nhân loại, nhưng Ngài đã thi hành vương quyền của Ngài bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Chúa Giêsu Vua, ngai vàng là thập giá, vương miện là mão gai, thay cho tiếng hoan hô là những tiếng chữi rủa, thách thách, nhạo cười, đả đảo…
Chắc hẳn không ai thích làm vua kiểu đó. Nhưng thích hay không, chúng ta cũng phải làm vua, vì khi được rửa tội, chúng ta đã là dân tộc vương đế, vương đế theo kiểu Chúa Giêsu: Phải làm vua dục vọng của mình, phải dám lên tiếng bênh vực sự thật, phải dám hy sinh cho những người nghèo khổ. “Ai biết phục vụ anh em, người đó là người chỉ huy”: Phục vụ là cai trị.
Muốn được vào Nước của Thiên Chúa, được làm công dân Nước Chúa, không có con đường nào khác ngoài con đường của “người trộm lành”, đó là khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ có tội “Phần chúng ta, thế này là phải lắm”. Tin tưởng: “Còn Ngài có làm gì xấu đâu”, và cầu xin: “Lạy Ngài, xin nhớ đến tôi’.
Nếu Chúa Giêsu thực sự là Vua của lòng chúng ta, là Vua của đời ta, thay cho các “thần tượng” vua chúa khác, thì chắc chắn chúng ta sẽ được nghe Chúa đáp lại vào lúc cuối đời mình: “Ta bảo thật với con, hôm nay con sẽ ở với Ta trên Nước Trời”.
Một lần nọ, hai người lữ khách đi qua một khu rừng khi màn đêm buông xuống. Chỉ trong ít phút, con đường nhỏ hẹp mà họ đang đi trở nên tăm tối. Một bóng tối khủng khiếp bao trùm mọi vật. Kế đó sự việc còn tệ hại hơn, một cơn bão có sấm sét nổ ra trong khu rừng. Ánh sáng của chớp lóe lên kèm theo những tràng sấm làm rung chuyển mặt đất dưới chân họ. Mưa đổ xuống như trút nước trên người họ. Cây cối rung chuyển một cách nguy hiểm. Người thứ nhất coi cơn bão như một tai họa ghê gớm. Mỗi khi có chớp lóe ra, anh ta nhìn lên bầu trời và nguyền rủa. Kết quả là anh ta đi chệch khỏi con đường và lạc vào rừng. Người thứ hai trái lại coi cơn bão như như một ơn lành hóa trang. Mỗi lần tia chớp lóe lên, soi sáng một đoạn đường trước mặt anh, và do đó anh có thể tiến lên từng bước một. Luôn giữ đầu cúi xuống sẵn sàng nhìn cho rõ, anh vẫn luôn theo đúng con đường. Và cứ thế, bước đi từng bước một, anh theo con đường để ra khỏi khu rừng.
Một đôi khi, đó là con đường trong cuộc đời: chỉ có đủ ánh sáng để bước được bước kế tiếp; chỉ có đủ sức mạnh để làm nhiệm vụ hiện nay. Cơn bão có sấm chớp đều như nhau đối với hai người lữ khách. Tuy nhiên, đối với người kia, nó là viên đá dùng để bước qua.
Những người lữ khách ấy nhắc chúng ta nhớ đến hai người gian phi trong câu chuyện Tin Mừng. Cả hai đều bị rơi vào bóng tối khủng khiếp. Trước hết là bóng tối của đời sống tội lỗi của họ. Rồi bóng tối khủng khiếp bao trùm trên núi Canvariô lúc Đức Giêsu bị đóng đinh.
Một người thì nguyền rủa bóng tối. Người kia đã thấy một tia sáng yếu ớt xuyên qua bóng tối. Ánh sáng ấy đến từ sự hiện diện của Đức Giêsu, Đức Giêsu người bạn của những người tội lỗi, đã đến để tìm và cứu những người lạc mất. Lời xưng tội trong sáng và khiêm nhường đi thẳng vào tâm hồn của Đức Giêsu để rồi anh ta nhận được không những ơn tha thứ, mà còn nhận được chính thiên đàng.
Sau cùng, Đấng duy nhất biết và hiểu chúng ta trọn vẹn là Thiên Chúa. Người là nhà viết tiểu sử mà chúng ta hoàn toàn tín thác vào sự chính xác của Người bởi vì chỉ có Người nhìn thấu suốt tâm hồn chúng ta. Người thấy ở đó những tổn thương và đau buồn, những tì vết và tật nguyền, những hy vọng và khát khao của chúng ta. Đức Giêsu nhìn vào người gian phi và thấy những mảnh vụn đau buồn của đời anh, và động lòng trắc ẩn, thương xót anh.
Người gian phi tốt lành đem lại niềm hy vọng cho tất cả chúng ta, nhưng đặc biệt cho những người mà đến cuối đời không có gì để khoe mình ngoài những việc làm của bóng tối. Cho dù là giờ thứ mười một, người ta vẫn còn có khả năng để ánh sáng mặt trời chiếu vào. Nhờ lòng nhân hậu tuyệt đối của Người, Đức Giêsu biến đổi bóng tối thành ánh sáng. Sự cứu chuộc luôn luôn là một ơn của Thiên Chúa. Người ban một cách quảng đại nhất cho những người (giống như người gian phi tốt lành) biết mình nghèo khó và cầu xin với đôi bàn tay không và tâm hồn trông cậy.
(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD.)
Để diễn tả quyền năng tột đỉnh của Đức Giêsu Ki-tô, Vua Vũ Trụ, Giáo Hội đã chọn bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh khác nhau. Năm A với bài Tin Mừng Mát-thêu (Mt 25, 31-46), tôn vinh Đức Vua Giêsu như một vị Thẩm phán tối cao ngự trên ngai toà vinh hiển xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gio-an (Ga 18, 33-37) dùng chính miệng Phi-la-tô tuyên xưng Đức Giêsu là Vua, nhưng là Vua của một “nước không thuộc thế gian”. Từ đó, đưa ra một cái nhìn thần học về uy quyền của Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể và nhập thế để làm chứng cho Sự Thật: Thiên Chúa yêu thương con người đến độ sai Con Một xuống thế chịu khổ hình và chịu chết để cứu độ nhân loại. Năm C với bài Tin Mừng Lu-ca (Lc 23, 35-43) trình thuật Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Vương quyền của Người là do việc Người tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để tiêu diệt tội lỗi, đem lại sự sống vĩnh cửu cho loài người.
Ngoài ra, đọc cả 4 sách Tin Mừng sẽ thấy các môn đệ cũng như nhiều người khác đều tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Vua It-ra-en. Đó là những chứng tích minh hoạ cho ngôi vị Vương Giả của Đức Giêsu. Thánh danh Giêsu có nghĩa là “Đấng Cứu Độ” (Mt 1, 21; Lc 2, 11) – Đấng Cứu Độ là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật – mà Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, vậy chẳng phải Người chính là Vua Vũ Trụ đó sao? Một cách cụ thể thì có thể khẳng định ngôi vị Vua Vũ Trụ đã được tiền định từ trước vô cùng, nên trong Cựu Ước đã tiên báo (“Con Người đang ngự giá mây trời mà đến… Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” – Đn 7, 13-14; xc thêm Is 9, 1-6; 52, 7-10).
Cũng đã có một số người chê đạo Công Giáo vẫn còn duy trì chế độ quân chủ (vua làm chủ) lỗi thời, vẫn sùng bái tôn thờ một vị Giáo chủ một triều đại cách đây 2000 năm gọi là Vua Giêsu, thậm chí còn coi vị Giáo chủ ấy là Vua cả vũ trụ. Cái chế độ quân chủ ấy vẫn được tiếp nối đến tận ngày nay và gọi những vị Giáo chủ là Giáo hoàng (hoàng: vua), gọi nơi làm việc của Giáo hoàng là thủ đô (Giáo đô La Mã) và gọi bộ máy hoạt động là triều đình (Giáo triều Rô-ma). Trong khi đó thế giới đã hầu như không còn chế độ quân chủ, mà hầu hết đều theo chế độ dân chủ. Cứ kể xét về mặt từ ngữ, về tên gọi, thì nhận định trên không sai. Nó cũng không khác bao nhiêu với những quan điểm nhận định đánh giá con người qua cái áo, qua bộ cánh (sang trọng hay thấp hèn) và như thế là đã quên mất cái cốt lõi của vấn đề, bởi “cái áo không làm nên thầy tu”.
Danh hiệu vua thực chất chỉ là một cách gọi những người đứng đầu trị vì một quốc gia thời phong kiến, mà về sau được gọi bằng danh xưng khác như: tổng thống, thủ tướng, quốc trưởng, chủ tịch nước v.v… Với Đức Giêsu thì vì Người là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật (điều này không phải chỉ do Người tự xưng – đến nỗi đã bị nhóm Pha-ri-sêu cho là phạm thượng – mà còn được chính Thiên Chúa Cha phán bảo khi Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan, khi Người biến hình trên núi Ta-bo, đồng thời Chúa Thánh Thần còn linh hứng, mạc khải cho các Thánh sử, các vị tiên tri, ngôn sứ nữa).
Còn một điều mấu chốt là Đức Giêsu tuy được tôn xưng là Vua Vũ Trụ, nhưng Người không hề sống như kiểu các ông vua phong kiến hay các ông trị vì quốc gia hiện đại (hét ra lửa, mửa ra khói). Người đã hành xử vương quyền bằng cách “không ngựa xe đưa rước, không võng gấm lọng vàng, không tiền hô hậu ủng”, mà đến với những người nghèo hèn, bệnh tật, tội lỗi. Người thu nhận môn đệ nơi những giai cấp thấp cổ bé miệng (chài lưới, nông phu, lao động…), hoặc bị xã hội lên án là tội lỗi (người thu thuế). Một ông vua mà lại quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, đầy tớ của mình, rồi còn nói “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15). Và những Lời Người giảng dậy thì toàn là khuyên bảo ăn ngay ở lành, thật thà công chính, khiêm nhường bác ái, thậm chí còn dậy người ta yêu thương cả kẻ thù (Mt 5, 43-44). Người không chỉ dậy bằng Lời, mà bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cả sinh mạng của Người khi bị treo trên thập giá cho đến chết để đền thay tội lỗi loài người. Trước khi chết treo trên thập tự, Người còn cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ đã đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23, 34). Đức Vua Giêsu là như vậy đó.
Rõ ràng Đức Giêsu Ki-tô chính là “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình” (Cl 1, 15-16). Người là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, muôn loài; như vậy Người là chủ muôn loài, chủ vũ trụ (Vua vũ trụ) cũng là lẽ đương nhiên. Đó là xét về mặt danh nghĩa, nhưng còn mặt thực chất của vấn đề, và cũng là điều quan trong nhất, ấy là Người đã vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Không cần nói đến những phép lạ, những linh hứng, mạc khải, mà chỉ cần suy niệm vào chính cuộc đời trần thế của Người (từ cách sống, cách giảng dạy, cách chữa trị bệnh nhân, đến chính việc hy sinh cả tính mạng mình vì yêu thương loài người tội lỗi), cũng đủ để xác tín Người chính là Vua – VUA TÌNH YÊU. Và chính điều này một lần nữa khẳng định Đức Giêsu Ki-tô thật sự là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, Người chính là VUA VŨ TRỤ vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Từ xưa đến nay, chúng con vẫn luôn xưng tụng Đức Giêsu là Vua của loài người, của vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Tuy nhiên, hành động của chúng con, cách cư xử và đời sống của chúng con dường như lại đi ngượic với những lời chúng con tuyên xưng. Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí Tình Yêu cho chúng con, để chúng con đủ can đảm sống đúng những điều chúng con tuyên xưng. Ôi! Lạy Chúa! Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng con xin tuyên xưng từ ngay trong bản thân, trong gia đình chúng con, qua chính cách sống và hành động của chúng con: Đức Giêsu Ki-tô là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, Người chính là Vua Vũ Trụ, Vua của mỗi người, mỗi gia đình chúng con.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Ðức Kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Ðấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Giêsu Ki-tô, Vua Vũ Trụ).
Vào một đêm khuya ở Dublin, một cô y tá vội vã đi dọc theo một bến cảng để đón xe buýt, bỗng cô thấy một thanh niên đang nằm trên vỉa hè ngay phía trước cô. Anh ta có vẻ bị bệnh hoặc bị thương. Cô dừng lại để xem cô có thể giúp gì cho anh ta. Nhưng khi cô cúi xuống, anh ta nhảy dựng lên và giật cái túi xách của cô. Cô ghì chặt lại. Sau đó một cuộc chiến đấu xảy ra. Đến một lúc nào đó, hai cặp mắt gặp nhau. Thình lình, người thanh niên buông ra và nói: Ồ, cô có phải là y tá O’Reilly!”
Họ bắt đầu chuyện trò thân mật. Thì ra trước đó ít lâu, anh ta phải vào bệnh viện vì bị gãy chân, và y tá O’Reilly đã rất tử tế với anh ta. Anh hỏi cô định đi đâu. Cô nói cô định đón xe buýt. Anh ta đưa cô đến trạm xe buýt và chờ cho đến khi xe buýt đến. Rồi xin lỗi những gì đã xảy ra, anh ta nói lời chào.
Đó là một câu chuyện có thật. Nó dạy chúng ta điều gì? Có lẽ bài học chính là: Người ta không bao giờ hoàn toàn đánh mất mình trong điều xấu chừng nào người ta còn nhận ra lòng nhân từ và đáp lại nó.
Một đôi khi chỉ cần nhìn sự nhân từ tỏa sáng nơi một người khác đủ để người ta khám phá ra sự nhân từ ấy nơi chính mình. Một kỷ niệm tốt đẹp sẽ cứu được một số tính cách vào những lúc quyết định. Sự thấu cảm là điều kêu gọi một người quay lưng lại bóng tối.
Nếu đêm hôm ấy, một người phụ nữ khác đi dọc theo bến cảng thì người thanh niên sẽ không hành động như thế. Anh ta sẽ cướp giật người ấy và không cảm thấy hối hận vì đã làm thế. Nhưng vì là một người mà bản thân anh có kinh nghiệm là một cô y tá tốt lành, anh không thể tìm thấy điều gì làm anh đối xử tồi tệ với cô. Lòng nhân từ của cô làm cho anh ta thấy điều xấu anh đang làm. Điều gì còn quan trọng hơn nữa: sự việc làm cho anh ta nhận thức khả năng của mình về lòng nhân từ. Nó đánh thức chút nhân từ vẫn còn sót lại trong anh.
Câu chuyện trên nhắc chúng ta đôi điều về sự gặp gỡ giữa Đức Giêsu và các gian phi trên núi Canvariô. Một gian phi đã hoàn toàn lạc mất trong bóng tối của điều xấu đến nỗi không còn thích ánh sáng. Người kia nhận ra ánh sáng của lòng nhân từ của Đức Giêsu và đáp lại lòng nhân từ ấy.
Người gian phi tốt lành nhận ra rằng Đức Giêsu vô tội. Và hơn thế nữa, người ấy còn bênh vực Người trước người gian phi kia. Anh ta là người duy nhất làm chứng về sự vô tội của Đức Giêsu. Lòng nhân từ của Đức Giêsu làm cho anh nhìn thấy cuộc đời anh ta quả là xấu nhưng cũng đánh thức lòng nhân từ đã mất của anh ta. Anh ta quay về với Đức Giêsu, nhận biết rằng Người là Đấng duy nhất có thể giúp anh trong phút cuối cùng của đời mình. Và Đức Giêsu đã không làm cho anh thất vọng.
Dĩ nhiên, Đức Giêsu là vua, nhưng là một loại vua lạ lùng. Người đã đến không phải để chinh phục mà để hoán cải, không phải để thống trị nhưng để giải phóng, không phải để chỉ huy nhưng để phục vụ. Người đã chết như một tội phạm, nhưng trị vì từ trên thập giá. Người đáp lại điều xấu nhất với điều tốt nhất trong Người. Tại sao Người không phản ứng lại những kẻ xử Người? Thi sĩ Seamus Heaney nói về thứ “quyền lực không được thi hành bằng quyền lực”.
Tất cả những gì chúng ta có thể làm là lặp lại lời thánh Phaolô đã nói: “Hãy cảm tạ Chúa Cha, Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được tha thứ tội lỗi”.
CÁCH TIẾP CẬN KHÁC
Câu chuyện về người gian phi sám hối trên núi Canvariô làm nổi lên một vấn đề quan trọng: Có phải người ta chết theo cách người ta đã sống? Và câu trả lời dường như là: Không nhất thiết như thế. Có những người đã sống một đời sống như trong địa ngục nhưng lại có cái chết rạng rỡ. Ân sủng của Thiên Chúa không liên quan gì đến công nghiệp.
MỘT CÂU CHUYỆN
Mẹ Têrêxa kể lại một ngày nọ ở Calcutta, mẹ đã nhặt được một người đàn ông ở một rãnh nước và đưa ông ta về nhà nuôi người hấp hối. Trước khi chết, ông ta nói với mẹ: “Tôi đã sống như một con vật nhưng tôi đã chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc”. Mẹ Têrêxa nhận thấy sự cao cả của ông ta, người có thể nói được như thế và có thể chết mà không trách móc hoặc chửi rủa một ai. Mẹ cảm thấy mình được đặc ân đã có thể giúp ông ta sống những giờ phút cuối đời trong sự cảm nhận mình được yêu thương và quý trọng.
MỘT MINH HOẠ
Những cảnh hoàng hôn đẹp nhất không phải xảy ra khi bầu trời không có mây nhưng xảy ra khi có vài đám mây trong bầu trời. Mây phản chiếu ánh sáng mặt trời và làm ánh sáng toả lan qua bầu trời, một đôi khi với những màu sắc kỳ ảo.
Ở Mỹ, có một ngày tháng tám lạ lùng. Suốt buổi sáng có sấm chớp và những cơn mua ngắn nặng hạt. Suốt buổi chiều trời nóng và ẩm. Buổi tối thì tối đen và khốn khổ. Tuy nhiên, khi màn đêm buông xuống một ngày tồi tệ thì một cảnh tượng rất đẹp xảy ra. Đó là một trong những buổi hoàng hôn đẹp nhất mà người ta vẫn mong ước ngắm xem. Và như thế ngày tháng tám với thời tiết xấu ấy kết thúc trong cảnh đẹp.
Nó nhắc chúng ta nhớ đến điều đã xảy ra với người gian phi tốt lành trên núi Canvariô. Khi bức màn đã buông xuống trên đời sống tội phạm tăm tối của anh ta. Một điều gì đó đã khiến anh ta bênh vực Đức Giêsu và đây là lời bênh vực duy nhất trên núi Canvariô. Rồi anh ta quay về Đức Giêsu và nói: “Ông Giêsu ơn, khi ông vào Vương Quốc của ông, xin nhớ đến tôi”. Và Đức Giêsu nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”.
Người gian phi tốt lành đã sống một đời tồi tệ, tuy nhiên, nhờ gặp gỡ với Đức Giêsu, anh ta đã tìm thấy yêu thương, bình an và hy vọng vào lúc cuối đời. Câu chuyện về anh dạy chúng ta rằng không có sự gì quá trễ. Đức Kitô Vua có thể làm cho sự kết thúc đen tối nhất toả sáng niềm hy vọng. Người có thể biến đổi sa mạc thành khu vườn, và gỉ sắt thành vàng ròng.
Kinh thưa quý vị! Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng kính trọng thể và tôn thờ một Vị Vua, một Vị Vua đích thực, Người là Vua Sự Thật, Vua Tình Yêu, Vua Sự Sống. Vâng, Vị Vua ấy là” Giêsu Nzaret”, một Vị Vua mà trong bối cảnh Tin Mừng hôm nay (Lc 23,35-43) cho chúng ta thấy về “Người Tôi Tớ của Giavê”. Có nghĩa là: Vị Vua mà chúng ta tôn thờ không phải ở trên ngai vàng, mà là ở trên một “cái ngai cao hơn ngai vàng”, vâng, cái ngai ấy chính là “Thập giá”. Thập giá là một hình phạt cao nhất dành cho tội nhân của người Dothai, nhưng Vua Giêsu đã chọn lấy, dù Người vô tội, đó là một bản án bất công nhất, vì một án phạt nặng nhất lại dành cho một “Con Người “vô tội. Nhưng đối với Vua Giêsu là một bản án “vì tình”, bởi vì Người là” Vua Tình Yêu”.
Đoạn Tin Mừng (Lc 23,35-43) hôm nay là đoạn Tin Mừng diễn tả một mầu nhiệm chóp đỉnh của sự đau khổ. Mầu nhiệm ấy gọi là mầu nhiệm Thập giá, bởi vì từ cổ chí kim và mãi mãi, duy nhất trong lịch sử loài người, không có một cảnh tưởng nào hãi hùng, khinh khiếp bằng cảnh tượng Thập giá. Vì nơi đó, đã thỏa mãn cơn điên loạn, sự độc ác, sự căm thù, sự ích kỷ, sự nhỏ nhen thâm độc nhất của loài người, tất cả cũng chỉ vì muốn thỏa mãn tính người, tính ngạo mạn của satan, phủ nhận chân lý, muốn xóa mờ tình yêu của Thiên Chúa, muốn khỏa lấp Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với người công chính. Vì thế, thảm cảnh Thập giá đã xảy ra, nhưng tình yêu đã chiến thắng. Vì Thiên Chúa là tình yêu.
Lời lẽ sỉ nhục Đức Kitô, là lời lẽ thách thức Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa không theo bất cứ thế lực nào, bất cứ lời lẽ nào, vì Ngài là Thiên Chúa. Một ý nghĩa chân lý là nếu Thiên Chúa theo tư tưởng của loài người thì không có mầu nhiệm ơn Cứu Độ. Vì: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của loài người bấy nhiêu” (Isaia 55,9). Nên Đấng Cứu Thế Kitô phải chịu khổ hình và treo lên, vì chương trình cứu độ của Thiên Chúa chính là Thập giá Đức Kitô. Khi nhân tính biểu lộ trọn vẹn sự hữu hình trong mầu nhiệm tử nạn, đồng thời cũng là lúc Thiên Tính biểu lộ trọn vẹn quyền phép cao cả của Thiên Chúa, và giá trị siêu nhiên cùng với ơn Cứu Độ được hình thành nơi Đức Kitô- Giêsu.
Vinh quang Thiên Chúa không dừng lại nơi Thập giá, mà là vinh quang của Thiên Chúa chính là sự Phục Sinh của Đức Kitô. Thập giá, nơi biểu lộ tình yêu, chứ không phải nơi biểu lộ quyền năng, Thập giá, nơi biểu lộ án phạt mà nhân loại phải chịu. Nhưng, kẻ có tội, thì mất quyền tha thứ, mất quyền tự do, không thể cứu người khác được. Nên chi, theo lẽ tự nhiên là thế, Thiên Chúa phải dùng lẽ tự nhiên bởi một Người vô tội, là Đấng Cứu Thế, có nghĩa là Kitô. Đấng vô tội chịu mức án của kẻ có tội, như vậy mới có giá trị “cứu” kẻ có tội. Xét theo lẽ tự nhiên, đó là sự bất công, nhưng theo lẽ siêu nhiên, thì đây là Hy Lễ Cứu Chuộc. Như vậy, Thập giá là Hy Lễ Cứu Chuộc. Mà Hy Lễ ấy được một Con Người vô tội thực hiện, thì có giá trị vô song. Nhưng mầu nhiệm Cứu Chuộc không dừng lại nơi Thập giá, mà là bước qua Thập giá (không phải theo nghĩa đen là “quá khóa”), mới đến Vinh Quang của Thiên Chúa
Đức Kitô là Vị Vua không tự tìm vinh quang cho mình, mà là “Vị Vua” tìm vinh quang cho Thiên Chúa. Nơi trần gian, con người tìm gì? Chắn chắn là tìm vinh quang trần thế. Vinh quang trần thế chắc chắn không phải là vinh quang Nước Trời. Vì vậy, con người trần thế muốn tìm vinh quang thế trần, thì họ phải tôn thờ những thứ “vua” của trần thế. Còn thần dân của Nước Trời, thì phải tôn thờ “Vua Giêsu”, là Vua trên các Vua, Chúa của các chúa. Đó là hợp lẽ.
Theo trần gian, người nào tài giỏi về một điều gì đó, thì người ta gọi là vua, như vua dầu lửa, vua xe ơi, vua caphê, vua bóng đá v.v…. Nhưng tất cả những vị vua đó chỉ tìm vinh quang cho họ, chứ không tìm vinh quang cho Thiên Chúa. Ai tìm vinh quang cho Thiên Chúa là thần dân trong Nước Của Vua Giêsu, Vị Vua của chân lý, tình yêu và sự thật.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến thế gian không tìm vinh quang của trần thế, mà là đã chọn Thập giá là vinh quang cho Hy lễ Cứu Chuộc. Xin thương cho chúng con biết tôn thờ sự thật ấy, là vinh quang vĩnh cửu cho chúng con, vì Chúa là Vua mà chúng con tôn thờ. Amen.
Qua trình thuật trên, Thánh Luca không trình bày gì về những đau khổ thể xác hay tinh thần Đức Kitô phải chịu. Thánh Sử chú trọng đến việc trình bày Đức Giêsu như một Đấng đem lại ơn cứu thoát, là Đấng Cứu Thế thực sự và vì thế số đông đã ghét bỏ Ngài.
Sự đối kháng: Sự đối kháng này xảy ra ngay trong khi đóng đinh Chúa. Đức Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, bị đối xử ngang hàng với hai tên gian phi, một tên bên hữu, một tên bên tả Ngài, (Thánh Luca ghi rõ sự kiện này) hành hạ phạm nhân rồi, họ mới đem đi xử tử. Chính Israel dân Ngài, đã lên án loại trừ Ngài, và đối với họ, phải làm như thế mới rảnh mắt. Ngay cả các lý hình cũng chia chác áo xống Ngài. Phần còn lại, chúng sẽ bắt thăm. Nhưng ta còn thấy sự đối kháng cũng xuất hiện trong ngôn ngữ nữa. Các thành viên của Hội đồng nhạo cười Ngài, họ cố ý nhạo báng cười chê Đấng Xức dầu, Người được Thiên Chúa tuyển chọn. Tất nhiên Ngài là Đấng Thiên Sai làm sao được khi mà cái chết của Ngài trên thập giá quá đủ. Họ rêu rao như thế và đang khi trông chờ một đấng khác, họ loại trừ, tẩy chay người mà họ đóng đinh. Binh lính cũng hành động như vậy. Họ cũng chế diễu Vua dân Do thái và vương quyền Ngài. Philatô cũng tỏ dấu khinh khi Ngài qua việc ông cho viết tấm bảng treo trên thập giá với hàng chữ mỉa mai: ‘Vua dân Do thái’ và sau hết sự đối kháng còn phát khởi từ câu hỏi: ‘Nếu ông là Đức Kitô của Thiên Chúa, hãy cứu lấy mình và chúng tôi nữa’. Đó là một lời xúc phạm ghê gớm của một kẻ cùng chịu một án với Ngài. Ơn cứu thoát do cây thập tự luôn luôn gặp phải nhẫn tâm, đối kháng và chối từ. Con người quan niệm cứu thoát bao hàm thoải mái, mạnh khoẻ, hứng thú, đầy sức sống, tất cả những gì đối nghịch với Thập giá. Vì thế ơn cứu thoát bắt nguồn từ cây Thập giá đối với con người là một thách đố đối nghịch mà con người không thể lý hoà được. Tuy nhiên Đức Kitô đã dùng Thập tự như là khí cụ cứu thoát được đặt trên bình diện khác và sẽ được hoàn tất trong những thời gian khác. Ở đây điều gì được thực hiện vô hình trong lãnh vực tâm hồn và siêu nhiên thì đối với con người là một nghịch lý nguy hiểm, và sẽ chỉ hoàn tất ở trên trời cách nhãn tiền, cả về thể chất lẫn tinh thần. Bởi thế Thập giá hẳn là một giá trị đảm bảo của Đức Giêsu Cứu Thế.
Giải đáp: Thánh Luca đã trình bày lối giải đáp của Đức Kitô qua hai câu nói sau. Câu thứ nhất Chúa nói với mọi người. Đó là lời trối khi hấp hối: ‘Lạy Cha xin tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm’. Không một lời than trách không một tiếng rủa nguyền, nhưng đầy lòng tha thứ và còn khẩn nài Cha trên trời thứ tha… Đức Giêsu chết với tư cách là Đấng Cứu Thế. Ngài phó nộp sự sống Ngài để chuộc lại nhân loại, và lời cầu xin cuối cùng là xin cho mọi người được ơn cứu thoát.
Họ không biết việc họ làm. Vì nếu họ hiểu thấu ý nghĩa sâu xa của giờ cứu thoát này, nhận biết một nhân loại mới đang phát sinh, một Giáo Hội đang khai mở, nhận ra giai đoạn từ gian nan đến cứu thoát, từ cái chết đến sự sống thì hẳn họ sẽ không hành động như thế. Thái độ vô tri sâu xa ấy có tội chăng. Không nên đề cập đến vấn nạn này. Một điều chắc là họ không biết và vì đó Đấng bị lên án, đang khi bị hành xử vẫn luôn bênh vực những kẻ lên án và hành xử Ngài. ‘Nemo contra Deum nini Deus solus”. (không ai chống nổi Thiên Chúa trừ một mình Ngài). Ở đây phải hiểu Thiên Chúa đối nghịch laị mình để biện hộ bênh đỡ con người. Ân sủng con Thiên Chúa đối nghịch với sự công thẳng của Chúa Cha như thế để ân sủng vượt trên hẳn lề luật và sức mạnh, tình yêu phải thắng vượt công lý nghiêm nhặt.
Câu nói thứ hai Chúa nói với một người thôi. Người này cũng bị treo trên Thập giá đã ghé nhìn Đức Giêsu khẩn nài Ngài. Hắn là một trong hai tội phạm: ‘Lạy Đức Giêsu, khi Ngài đến trong nước của Ngài’. Chính tên trộm này là kẻ duy nhất nói đến vinh quang Chúa, vào lúc Ngài hạ mình chịu nạn và chỉ có hắn mới nhận ra nơi Người bị hành quyết đây thực là một vị Vua. Chính hắn tuyên cáo tội mình: ‘Phần chúng ta, như thế này là đích đáng vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm’. Và hắn tuyên dương sự vô tội của Đức Kitô, ‘nhưng ông này, ông không hề làm điều gì sai trái’. Ngoài ra, hắn còn công bố rằng Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Nơi người này đã có một đức tin vững mạnh, kèm theo một cái nhìn về vĩnh cửu nữa. Vì thế hắn sẽ được cứu thoát. Đức Giêsu lên tiếng đáp lại: ‘Quả thật, tôi bảo anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi’. Vì tội mà cửa đóng kín lại, nhờ ơn cứu độ mà nay được mở ra, tội lỗi bị ơn cứu độ vượt thắng. Nhân loại sa ngã và lầm lạc giờ đây bắt đầu trở lại. Sự lầm lạc đã đi đến chỗ cùng đường. Phải quay đầu trở lại, phải bước qua một khúc quanh dứt khoát. Chính con người bị lên án vì tội lỗi mình lại là người đầu tiên được bước đi trên con đường mới đó. Trong cuộc sống, tội đã phạm không phải là yếu tố quyết định, nhưng chính là Đức tin có dẫn đến Đức Kitô và đem lại ân sủng mới là yếu tố quyết định. Nhìn lại mình để nhận ra lỗi lầm mình phạm là một điều kiện tiên quyết để quay về, cải tạo đích thực và sống cuộc sống mới trong Đức Kitô và nhờ Ngài được hưởng ơn cứu thoát.
Như thế qua trình thuật Chúa chịu đóng đinh trên cây Thập giá, Thánh Luca cho ta thấy hai câu nói của Chúa đã làm đảo ngược sự tối tăm và thê thảm của những tiếng ‘phản kháng’: Một lời Ngài ‘nài’ xin lòng nhân từ thương xót của Chúa Cha và một lời ‘chấp nhận’ Ngài nói với người tội lỗi ăn năn xin tha thứ. Ơn cứu độ vinh thăng sự dữ. Đấng hấp hối chính là Đấng Cứu chuộc thế gian.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Đôi khi chúng ta là những người Mỹ suy nghĩ vì sao người Anh lại chán chế độ quân chủ của họ. Sự kiện thí dụ như là Nữ hoàng, điều đó đối với chúng ta có vẻ như là một người đại diện hầu như không có quyền lực. Và trong chúng ta cũng có một số người ước muốn có một người nào đó mà chúng ta có thể nhìn lên, một người nào đó hiện thân cho những giá trị và chinh phục sự kính trọng của chúng ta, một người làm cho chúng ta cảm thấy tốt hơn là chính chúng ta.
Nhiều người Mỹ một cách nào đó, đã tìm thấy môt con người như vậy trong cuộc bầu cử tổng thống, đó là tổng thống Kennedy, tổng thống của nước Mỹ. Ông còn trẻ, đẹp trai, thông minh, và ăn nói lưu loát. Ông kết hôn với một phụ nữ xinh đẹp và đối với chúng ta có thể trở thành nữ hoàng và người đó có thể giới thiệu với nước Mỹ những đưa con xinh đẹp, những công chúa và những hoàng tử. Nhà Trắng được biết đã trở thành giống như điện Camelot, nước Mỹ có một gia đình mà người Mỹ coi như là một vương triều. Vào ngày thứ sáu 22-11-1963 giấc mơ đó bị tan vỡ. Trong suốt bốn ngày người Mỹ đã kinh ngạc trước máy truyền hình, họ xem đi xem lại những hình ảnh không thể tin được về cuộc ám sát và đám tang đau khổ, mà đám tang đó đã giúp thuyết phục chúng ta rằng, cái chết của vị tổng thống là thật sự. Từ đó những câu chuyện dần dần trở nên hé mở và tiết lộ mọi sự đều không hoàn hảo như chúng ta tưởng tượng. Giấc mơ về một Camelot đã bị tan vỡ, và những ảo tưởng về vương triều đã hoen úa.
Hầu hết tất cả chúng ta đã định hướng sai lầm khi hướng về nhà Trắng ở Washington D.C như là một hoàng cung. Chúng ta sẽ nhìn trở lại Calvariô bởi vì thánh giá thật sự là ngai của Đức Kitô Vua. Cái chết của Ngài không phải là một bi kịch, không phải là một cú sốc mau qua. Nó là một cuộc khải hoàn chiến thắng trên cả hai kẻ thù của chúng ta, đó là tội lỗi và sự chết. Trên đầu của Chúa Giêsu trên thánh giá nhà cầm quyền Philatô đã đặt lên một bảng khắc: “Đây là Vua dân Do Thái”. Chúng ta đã thay thế bảng khắc đó bằng lời tuyên xưng đức tin của chúng ta: “Đức Kitô là Vua của chúng tôi”. Với Người chúng ta cầu xin: “Xin hãy nhớ đến chúng con khi Ngài bước vào vương quốc của Ngài”.
Đó là lời cầu nguyện đã được đáp lời bởi vì qua Đức Kitô chúng ta đã được cứu chuộc. Chúng ta đã được cứu thoát khỏi vương quốc của tội lỗi, việc cử hành hy tế Thánh Thể của chúng ta vào ngày Chúa Nhật: “Là dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa Cha đã làm cho chúng ta trở nên giá trị, chia sẻ với các thánh trong ánh sáng. Ngài đã cứu thoát chúng ta khỏi quyền lực của tối tăm và đưa chúng ta vào vương quốc của Con yêu dấu Ngài”.
Thiên Chúa đã làm cho chúng ta trở nên những thần dân của Đức Kitô Vua. Ngài đã biến đổi chúng ta qua những đặc ân là ân sủng để chúng ta trở nên anh chị em của Người. Anh chị em của Vua là những hoàng thân và quận chúa. Chúng ta là thần dân của vương quốc, đã được sở hữu những giá trị và phẩm giá mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho.
Chúng ta không cần những quyền lực thuộc thế gian này làm cho chúng ta được kính trọng. Vua của chúng ta thật sự là thuộc vương triều. Nước của Ngài không phải là một Camelot tưởng tượng. Đó là vương quốc hoàn vũ và vững bền, một vương quốc của sự thật và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện và ân sủng, một vương quốc của công lý và công chính, của tình yêu và sự bình an. Vua của chúng tôi là Đức Kitô, là Chúa Kitô.
Lời nài xin trung thành với Đức Kitô Vua.
Ngày Chúa Nhật này là thời gian thích hợp để nài xin cho chúng ta sự trung thành với Đức Kitô Vua. Theo những hình thức đề nghị bài kinh làm nền tảng cho kinh tiền tụng của kinh nguyện Thánh Thể vào lễ trọng hôm nay, kinh này có thể dùng vào Thánh Lễ bởi những người lập lại những dòng nài xin theo sau linh mục hoặc vị thừa tác.
Chúng con nài xin được trung thành với Đức Kitô Vua. Chúng con âu yếm vương quốc vũ hoàn và đời đời của Ngài. Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài là một vương quốc của sự thật và sự sống, của sự thánh thiện và ân sủng. Chúng con ước ao làm một điều gì đó mà chúng con có thể, qua hành động và cầu nguyện. Để mang thế giới đến với vương quốc của Ngài. Vương quốc công chính, tình yêu và sự bình an.
Thiên Chúa đã tuân giữ lời Ngài đã phán hứa, bằng cách sai phái vị cứu tinh đến, để thiết lập một vương quốc, thế nhưng vương quốc của Ngài không giống như vương quốc con người đã mường tượng ra. Chính Ngài đã xác nhận cho Philatô biết được sự thật ấy.
Đúng thế, những vương quốc trần gian do con người thiết lập bằng sức mạnh, thường đem lại sự giàu sang và vinh quang. Nhưng vương quốc của Đức Kitô thì không do trần gian và cũng không giống với trần gian.
Ngài từ chối loại vương quốc huy hoàng do Satan đề nghị: Nếu ông quỳ gối thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông mọi vương quốc làm sản nghiệp. Ngài thường lẩn trốn mỗi khi dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua theo nhãn quan của họ. Ngài không dùng những phương tiện trần gian để bảo vệ nước của mình, cũng không tự biện hộ, để tránh né khỏi bản án tử hình. Nhưng cho dù phải chết, Ngài vẫn xác quyết mình là vua và nước Ngài đã thực sự bắt đầu nơi trần gian: Tôi sinh ra là để làm vua, và tôi đến để làm chứng cho chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi, và người ấy sẽ thuộc về nước của Tôi.
Đây chính là điểm then chốt của sứ điệp. Thế nhưng chân lý của Chúa là chân lý gì? Tôi xin thưa, chân lý Ngài mang đến là ý định cứu rỗi của Chúa Cha, muốn thu thập mọi người trở thành con dân Ngài. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho ý định của Chúa Cha, và chứng cớ của Ngài thì trung thực bởi vì Ngài bởi Chúa Cha mà ra, Ngài biết Chúa Cha yêu thương nhân loại và Ngài nhận lãnh sứ mạng nói cho nhân loại biết được sự thật ấy.
Không những Ngài chỉ nói mà hơn thế nữa, Ngài còn làm chứng bằng cả con người và cuộc đời của mình nữa. Ngài chính là tiếng nói yêu thương của Chúa Cha phán với nhân loại. Bằng việc làm vì Ngài đã trở nên một người ở giữa chúng ta, cùng đau khổ, và cùng chết với chúng ta. Nhưng Chúa Cha đã cho Ngài sống lại.
Từ đấy và trong Ngài, nhân loại múc lấy khả năng có thể sống lại, có thể trở về với Chúa Cha. Bởi đó, thánh Phaolô đã gọi Ngài là trưởng tử, là người tiền phong của nhân loại, đã mở một lối đi cho chúng ta. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã qui tụ muôn người thành một vương quốc, thành một dân riêng. Vương quốc này, dân riêng này sẽ tồn tại cho đến muôn ngàn đời.
Dân Do Thái chỉ dừng lại nơi của cải, giàu sang và uy quyền. Tất cả những cái đó sẽ tan biến theo dòng thời gian, vì thế họ không chấp nhận Ngài. Nhưng nước vĩnh cửu Chúa hứa ban còn vượt trội gấp bội những gì con người mong ước, Ngài hứa và sẽ trao ban vì Ngài đã chiến thắng sự chết và địa ngục. Điều gay go nhất, đó là chúng ta phải đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài. Vì với những kẻ tin thì lời Ngài hứa mới chính là điều đáp lại ước muốn căn bản nhất của con người, đó là ơn phúc và bình an.
Báo chí Saigon có một dạo đã xôn xao bàn tán: Ngày 15.11.1969, một cô bé da đen đang sống vất vưởng trong một cô nhi viện tại xóm Gà, lối đi Gò vấp, thì bỗng dưng có một người da đen sang trọng đến thăm, ông đem tới cho cô một sự thật làm đảo lộn đời cô: Cô chính là con của Bokassa, hoàng đế của nước Trung Phi. Từ một cô bé lọ lem, cô nghiễm nhiên trở thành một nàng công chúa.
Còn với chúng ta, thuộc về nước Chúa, trở nên con dân của Chúa, chân lý này có ảnh hưởng gì đến đời sống chúng ta hay không?
Khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, thì điều ấy có ý nghĩa gì? Hay nói cách khác Đức Kitô là gì đối với chúng ta?
Tôi xin trả lời:
– Trước hết Ngài là ánh sáng.
Chúng ta thường nói:
– Người là một con vật có trí khôn.
Với trí khôn, chúng ta không ngừng băn khoăn và thắt mắc, để rồi tạo được những tiến bộ trong mọi lãnh vực.
Vì thế, hai chữ “tại sao” thường được lặp đi lặp lại trên đôi môi của chúng ta, nhất là đối với những vấn đề quan trọng.
Chẳng hạn: Ai đã dựng nên tôi? Tại sao tôi lại sống trên trần gian này? Tôi từ đâu mà đến? Và tôi sẽ đi về đâu? Đâu là con đường tôi phải bức đi và đâu là những bổn phận tôi phải tuân giữ?
Nếu Đức Kitô không trả lời được cho tôi những băn khoăn và thắc mắc kể trên, thì cuộc đời tôi sẽ chìm vào trong tăm tồi, trong tuyệt vọng.
Thế nhưng, Ngài đã xác quyết:
– Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Ngài không lừa dối ai. Ngài đến để tỏ lộ cho chúng ta biết những chân lý, những sự thật. Nhờ Ngài, chúng ta biết được chúng ta bởi đâu mà đến và chúng ta sẽ đi về đâu. Ngài đã chỉ cho chúng ta biết con đường và đã xác định cho chúng ta những bổn phận phải tuân giữ, nếu chúng ta muốn tiến đến với chân lý, với Nước Trời.
Vua thánh Đavít đã diễn tả niềm vui mừng và hạnh phúc của những người sống gắn bó kết hiệp với Thiên Chúa trong thánh vịnh 23 như sau:
– Chúa chăn nuôi tôi,
Tôi chẳng thiếu thốn chi.
Trên đồng cỏ xanh rì,
Ngài để tôi nằm nghỉ.
Tới nguồn nước,
Chỗ nghỉ ngơi.
Ngài hướng dẩn tôi.
Tâm hồn tôi,
Ngài lo bồi dưỡng.
Tiếp đến, Đức Kitô là sức mạnh.
Thực vậy, Chúa Giêsu không phải chỉ nói, mà Ngài còn làm gương trước cho chúng ta noi theo và bắt chước. Ngài không phải chỉ chiếu tỏa ánh sáng và truyền ban những mệnh lệnh, nhưng chính Ngài đã thực thi trước đã. Nhìn vào Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm an ủi và sức mạnh.
Ngài không truyền cho chúng ta:
– Hãy sống hiền lành và khiêm nhường.
Nhưng Ngài đã bảo chúng ta:
– Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Ngài cũng đã phải lần từng bước một trên con đường lên đỉnh Canvê. Ngài đã sống tinh thần nghèo khó. Ngài đã thực sự cầu nguyện, kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Ngài đã thực thi những hành động bác ái yêu thương trước khi truyền dạy.
Hơn thế nữa, Ngài còn ban sức mạnh để chúng ta tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, với điều kiện là chúng ta phải gắn bó và cộng tác với Ngài.
Sau cùng, Đức Kitô còn là niềm hạnh phúc của mỗi người chúng ta.
Thực vậy, nếu chúng ta sống kết hiệp mật thiết với Ngài và chu toàn những điều Ngài mong muốn, thì định mệnh cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm, như lời sách “Gương Phúc” đã viết:
– Gắn bó với Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm hạnh phúc Nước trời. Tìm thấy Đức Kitô là tìm thấy cả một kho tàng quí giá. Trái lại, mất Đức Kitô là mất tất cả.
Ngày kia, thánh Bemoit mệt mỏi vì đường xa, đã ngồi nghỉ dưới một gốc cây và dùng bữa. Bữa trưa của Ngài chỉ có bánh mì đen và nước lạnh. Giữa lúc đó có một đám người đi dự tiệc cưới trở về. Nhìn thấy thánh nhân với bữa cơm thanh đạm, họ liền tỏ lòng thương xót. Nhưng thánh nhân đã trả lời như sau:
– Không, có nhiều người còn đáng thương hơn tôi nữa. Tôi là một người bạn hữu nghĩa thiết cùng Chúa, chỉ điều này mà thôi cũng đã là làm cho tôi được hạnh phúc.
Hãy gắn bó mật thiết với Chúa, để rồi chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc Nước trời, một niềm hạnh phúc tuyệt vời như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
– Tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa sẽ dành cho những người trung thành phụng sự Ngài.
Hôm nay Chúa nhật cuối cùng trong năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Kitô Vua. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, của lịch sử nhân loại và Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta.
Với tâm tình của người trộm lành bên cạnh Chúa Giêsu trong những giờ phút cuối cùng, chúng ta cũng hãy tuyên xưng vương quyền của Ngài và nói lên với Ngài tất cả niềm tín thác của mình, xin Ngài tiếp tục đồng hành và gìn giữ chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.
Thật vậy, nếu phong thánh là một cữ hành, qua đó Giáo Hội long trọng tuyên bố rằng, một người nào đó đang được hưởng phúc trên thiên đàng, thì con người đầu tiên phải được phong thánh chính là một trong hai người cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu, tức là người thường được mệnh danh là “kẻ trộm lành”.
Trong một số tài liệu không được Giáo Hội nhìn nhận là linh hứng thì kẻ trộm có tên là Dysmas, theo truyền thuyết thì ngay cả thập giá của Dysmas cũng đã được mang về bên Italia. Nhiều vị thánh trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo đã kính nhớ một cách đặc biệt vị thánh Dysmas này. Dysmas kẻ trộm lành quả thật là một vị thánh đầu tiên trong Giáo Hội đã được chính Đức Giêsu phong thánh khi Ngài tuyên bố rằng: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. Còn bằng chứng nào hùng hồn hơn chính lời của Chúa Giêsu. Dysmas đã được Chúa Giêsu phong thánh, bởi vì ông là người đầu tiên trong nhân loại đã tuyên xưng niềm tin vào vương quyền của Chúa Giêsu, khi ông thưa với Chúa rằng: “Lạy Ngài, khi nào về về Nước Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi”.
Vậy có thể nói được rằng, hẳn phải có một niềm tin sâu sắc của một vị thánh thì người ta mới có thể thốt lên được một lời tuyên xưng như thế trong một hoàn cảnh nghiệt ngã hầu như tuyệt vọng. Dysmas kẻ trộm lành đã có thể thách thức và nguyền rủa Chúa Giêsu như người bạn cùng treo với ông hoặc như đám lý hình đang đứng dưới chân thập giá. Thế nhưng ông đã không làm thế, ông đã có tâm hồn của một vị thánh khi ông biết nhìn xuyên qua cái bề ngoài tất tưởi thương đau bất lực của Chúa Giêsu để thấy được quyền năng của một vị vua mà vương quốc của Ngài không thuộc về trần thế này. Chính trong cái cảnh trơ trụi và tàn bạo nhất do con người tạo ra đó mà Chúa Giêsu đã đăng quang như một vị vua.
Thật thế, các sách Tin Mừng đã đặt lễ đăng quang của Chúa Giêsu trong chính cuộc tử nạn của Ngài. Khởi đầu là cuộc khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, trong đó Chúa Giêsu đã ngồi trên lưng của một con lừa con. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng Ngài là Vua, nhưng Ngài là Vua không theo các cung cách của vua chúa trần gian. Tất cả bản án của Chúa Giêsu đều xoay quanh tước hiệu Vua của Ngài.
Mặt khác, lời tố cáo mà nhiều người đã đưa ra để buộc tội Ngài là: “Hắn đã tự xưng mình là vua”, và quan tổng trấn Philatô đại diện cho chính quyền Lamã cũng hỏi Ngài: “Ông có phải là vua dân Do thái không? Và Chúa Giêsu đã trả lời: Ta là Vua”. Sau cùng, bản án của Ngài được ghi trên thập giá và được viết bằng ba thứ tiếng: Hy lạp, Latinh và tiếng Do thái, bản án được ghi như sau: “Jesu Nazareth, vua người Do thái”.
Chính trong niềm đau tột cùng và cái chết tất tưởi trên thập giá mà Chúa Giêsu đã đăng quang như một vị vua, nhưng cũng chính trong cuộc tử nạn ấy mà Ngài đã xác quyết rằng: “Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này”, và Ngài không làm Vua theo các cung cách của vua chúa ở trần gian. Chúa Giêsu là Vua, nhưng Ngài là Vua của phục vụ, của khiêm hạ, của quên mình và nhất là của tha thứ trong yêu thương.
Thật vậy, còn gì vương giả cho bằng khi Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho những kẻ đã làm hại Ngài. Chúa Giêsu là Vua của Tình Yêu, chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố: “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy Đức Giêsu làm cái mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường của phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cữ chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành: “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.
(Trích từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Các tông đồ ngày xưa, từ khi bắt đầu theo Chúa cho đến khi được Chúa Thánh Thần biến đổi sau biến cố Phục sinh, và chúng ta hôm nay nếu không được Chúa Thánh Thần soi sáng thì không thể nào hiểu được mầu nhiệm thập giá. Trong cuộc đời của Chúa cũng như trong cuộc đời của mỗi lần Chúa mạc khải mầu nhiệm thập giá mà chính Ngài đã thực hiện là mỗi lần các tông đồ hoặc né tránh hoặc hiểu sai ý nghĩa và tranh nhau chỗ vinh quang tả hữu, nhất nhì trong Nước Chúa.
Trong ngày lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, kết thúc năm phụng vụ theo chu kỳ C, để rồi vào tuần tới Chúa nhật I Mùa vọng, khai mào năm phụng vụ mới theo chu kỳ A, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm và sống mầu nhiệm Nước Chúa, tôn vinh Chúa Kitô làm Vua vũ trụ dựa theo Tin Mừng thánh Luca mà chúng ta vừa đọc lại trên đây, mô tả cảnh Chúa Giêsu chịu chết treo trên thập giá giữa hai kẻ trộm, một kẻ dữ buông lời xúc phạm và một kẻ lành thành tâm thống hối ăn năn và nhận được lời bảo đảm của Chúa: “Hôm nay con sẽ được ở với Ta trên thiên đàng”.
Tại sao trong ngày lễ Chúa Kitô Vua mang màu sắc đầy vinh quang chiến thắng, Giáo Hội lại nêu cao biến cố đau thương Chúa chịu chết treo trên thập giá như vậy? Chúng ta không có nhiều giờ để chú giải sâu rộng đoạn Phúc âm trên, nhưng một cách vắn tắt chúng ta có thể nói trước hết bản chất của Nước Chúa được Chúa Giêsu mạc khải nơi đây cho người trộm lành, đó là được ở với Chúa. Nước Chúa là nơi Chúa ở với ta, ta ở với Chúa, được vui hưởng sự hiện diện của Ngài và Chúa Giêsu đã thực hiện Nước Chúa là ban ơn cứu rỗi cho con người qua cái chết hy sinh trên thập giá, không có con đường nào khác và Chúa Giêsu đã nhiều lần xác nhận: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Chúa Giêsu chiến thắng những sự dữ, những bạo lực, những sự ác ôn âm mưu mánh mung trong tâm hồn con người bằng cái chết hy sinh trên thập giá và Chúa vẫn còn tiếp tục làm như vậy, tiếp tục chịu chết như vậy, cả trong ngày hôm nay nữa để thực hiện quyền làm chủ của Ngài trên mọi sự.
Thật ra, là Đấng Tạo Hóa mọi loài, mọi vật, Chúa làm chủ mọi loài mọi vật, Chúa đã làm vua mọi loài mọi vật, nhưng Chúa đã tạo dựng con người có tự do và con người đã dùng tự do này để thoát ra khỏi bàn tay Chúa, thoát ra khỏi quyền làm chủ của Ngài. Không những con người thoát ra khỏi quyền làm chủ của Ngài, mà con người còn dùng quyền tự do của mình để làm cho vạn vật này thoát ra khỏi quyền làm chủ của Thiên Chúa.
Chúa làm vua, nhưng Chúa muốn cho con người nhìn nhận Ngài làm vua qua con đường thập giá. Chúa biết rõ đây là cách thế duy nhất để chiến thắng sự tự do của con người, để chiến thắng sự dữ mà tự do của con người gây ra trên trần gian này đó là cái nhìn từ Thiên Chúa, Thiên Chúa Cha luôn nhìn về lịch sử của con người từ trên cao xuống qua thập giá của Chúa Giêsu.
Nói đến đây tôi nhớ lại một bức tranh của một nghệ sĩ tài ba về cảnh Chúa Giêsu chịu chết treo trên thập giá không theo cách thông thường nhìn từ dưới lên, mà một cách đặc biệt nhìn từ trên cao xuống. Thiên Chúa Cha nhìn vào trần gian qua thập giá của Chúa Giêsu từ trên cao xuống và nhìn từ phía con người thì sao?
Bài Phúc âm hôm nay cũng gợi lại cho chúng ta một khía cạnh căn bản thường bị bỏ quên, đó là khía cạnh được người trộm lành thực hiện việc ý thức về tội lỗi của mình, anh đã thống hối nhìn nhận lỗi lầm, khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Thiên Chúa không thể cứu rỗi con người, nếu con người không muốn được cứu rỗi. Con người có tự do, họ có thể chống lại Ngài, khước từ ơn cứu rỗi Ngài ban, hoặc lãnh nhận một cách tích cực và sốt sắng. Chúa Giêsu chỉ thực hiện quyền làm vua của Ngài, quyền làm Chủ của Ngài trên con người, khi con người biết thống hối ăn năn quay trở về với Ngài. Chúng ta chỉ có thể nhìn nhận Chúa Giêsu là Vua, nhìn nhận ơn cứu rỗi của Chúa để Chúa thực hiện nơi mình và để mình được hiện diện với Chúa.
Đây là bước đầu tiên căn bản không thể thiếu được. Chính vì thế mà tác giả Phúc âm thánh Marcô khi mô tả giây phút khởi đầu cuộc đời rao giảng Tin Mừng của Chúa đã xác nhận một cách mạnh mẽ qua lời Chúa Giêsu: “Nước Trời đã gần đến. Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng”.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, chúng ta không nên dừng lại ở nơi những khẩu hiệu hoan hô bên ngoài: “Chúa là Vua”, nhưng mỗi người chúng ta cần phải ý thức về những lỗi lầm của mình và thống hối ăn năn trở lại xin Chúa tha thứ. Xin Chúa thực hiện quyền làm chủ của Chúa trên con người của chúng ta, trên cuộc đời chúng ta. Xin Chúa tha thứ tất cả tội lỗi mà chúng ta đã xúc phạm đến Chúa, để chúng ta được trở nên con cái Chúa, để Chúa thực sự là chủ, là Vua trên cuộc đời của mỗi người chúng ta. Xin Chúa củng cố đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
Khi nói Chúa Giêsu là vua, chúng ta có thể thắc mắc ngay: Chúa là vua của nước nào? Nước Chúa ở đâu? Và ai là dân của Chúa? Những thắc mắc này, chính Chúa đã trả lời khi Chúa nói với tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Câu trả lời ấy cho chúng ta biết: đâu không phải là Nước Chúa và đâu là Nước Chúa. Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hóa với nước Chúa. Vậy Nước Chúa ở đâu? Thưa Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật. Như vậy, Nước Chúa gồm tất cả các tâm hồn yêu chuộng sự thật. Do đó, Nước Chúa rộng hơn Hội thánh, bởi vì ngoài Hội thánh, vẫn có biết bao nhiêu người yêu chuộng sự thật. Đang khi đó, trong Hội thánh cũng có thể có nhiều người không thuộc về Nước Chúa, vì họ không yêu chuộng sự thật, không đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu đem đến.
Vậy, tất cả những ai đón nhận tình yêu cứu độ đó, họ sẽ được nhận vào Nước Chúa, điển hình như người trộm lành kể lại trong bài Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, những người chứng kiến đã có những thái độ khác nhau: có kẻ xót thương, có người lãnh đạm vô tình, có kẻ thách thức, nhục mạ, nhưng cũng có người nhận ra Chúa và van xin Chúa. Đó chính là người trộm lành. Anh không dám thách thức Chúa như người trộm khác cùng bị đóng đinh với anh hay như những người vô lễ khác, nhưng anh biết tội mình và suy đoán rằng vương quyền mà Chúa liều chết vì nó phải là một vương quyền tốt đẹp vô lường nên anh kêu xin Chúa cứu vớt để được đưa vào vương quốc ấy. Đúng vậy, giữa đám đông mù quáng, ngược ngạo, ít ra cũng còn một tâm hồn ngay tình. Đó là người trộm lành trong một hoàn cảnh thật bi đát bị treo trên thập giá, anh đã biết nhận tội của mình và nhìn nhận sự vô tội của Chúa Giêsu. Giữa lúc mọi người đều bỏ rơi Chúa, đã quên hết những phép lạ, những lần đi theo Chúa lúc Ngài được tôn vinh, người trộm đã nhận ra vương quyền của Chúa và tuyên xưng đức tin của mình bằng một lời van xin đầy hy vọng sâu xa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Lời cầu nguyện khiêm hạ của anh đã mở được cửa vương quốc đó cho anh.
Đó, chúng ta thấy, cả hai người trộm cùng có những hoàn cảnh như nhau, nhưng chỉ có người trộm lành bên phải Chúa đã được cứu rỗi, vì anh đã nhận ra tình yêu cứu độ và biết cầu xin. Chắc chắn anh ta không phải là loại người thuộc giáo lý, hiểu biết lý thuyết về đạo, nhưng vì anh ta đã tin và cầu nguyện với lòng khiêm tốn chân thành, nên anh đã được cứu độ. Thánh Âu tinh đã nói về người trộm này như sau: “Từ tội giết người, y được dẫn đến thẩm phán, từ thẩm phán đến thập giá, từ thập giá đến thiên đàng”. Và thánh Gioan Kim Khẩu cũng nói: “Từ thập giá y đã bay bổng lên trời. Thực vậy, tự thân là một tên ăn trộm chuyên nghiệp, y đã dùng ngón nghề của mình để cướp lấy Nước Trời, bằng lòng sám hối và lời tuyên xưng đức tin”.
Ngoài ra, về hai người trộm này còn cho chúng ta một bài học khác nữa, đó là vác thập giá có công và vác thập giá không có công. Chúng ta thấy: người trộm bên trái Chúa đã vác thập giá, hơn nữa, đã bị đóng đinh trên thập giá nhưng không có công gì. Trái lại, người trộm bên phải cũng vác thập giá và bị đóng đinh vào thập giá, sau cùng đã được thưởng công lên thiên đàng. Cái khác nhau về sự thưởng phạt giữa hai người là do cách vác thập giá của mỗi người: người trộm bên trái đã kiêu căng, khích bác và chỉ trích Chúa, nên đã không có công trạng gì. Trái lại, người trộm bên phải Chúa đã khiêm nhường, cậy tin vào Chúa, nên anh đã được công, được Chúa ban phúc thiên đàng.
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa hứa trả công cho mỗi người tùy theo công việc họ đã làm. Công việc của mỗi người chúng ta là vác thập giá theo Chúa. Lời Chúa hứa thật khích lệ chúng ta. Giả sử Chúa căn cứ vào những thành tích to lớn hay lấy lương trả công cho mỗi người, thì nhiều người chúng ta chắc sẽ là tay không, vì mình chẳng có công trạng gì như thế. Nhưng Chúa nói Chúa sẽ căn cứ vào công việc của mỗi người vác thập giá theo Chúa mà thưởng công. Như vậy thì tất cả chúng ta: những người già yếu, những người khốn khó, những người nghèo túng, những người bệnh tật, những người neo đơn, những người kém cõi… tất cả những ai đang vác thập giá vì Chúa đều là đối tượng được Chúa thưởng sau này.
Lễ Chúa Kitô Vua kết thúc năm phụng vụ là đoạn cực mạnh trong bản Allêluia của Giáo Hội, hô vang niềm hy vọng, niềm vui và sự phấn khởi của người có lòng tin vào Chúa. Ngày lễ hôm nay đem lại cho chúng ta một tâm tình lạc quan tin tưởng, một lòng quảng đại vô bờ bến, một sức mạnh để vươn lên mà không chông gai nào làm chùn được, không đau khổ nào ngăn được, Chúa Kitô Vua đã toàn thắng đau khổ và sự chết để cho chúng ta được toàn thắng đau khổ và sự chết. Allêluia, Allêluia, Allêluia.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Kitô – Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ. Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể, khai triển qua cuộc tử nạn, Phục sinh để rồi kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Cho nên thật thích hợp khi kết thúc năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chỉ một mình Đức Kitô mới là vua đích thực. Chỉ một mình Ngài mới là Đấng để con người lệ thuộc và tôn thờ.
Tuy nhiên để có thể sống nội dung đích thực của ngày lễ Chúa Kitô vua hôm nay, chúng ta cần suy nghĩ xem: tước hiệu Vua Kitô phải được hiểu như thế nào? Và việc tuyên xưng Đức Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu?
Lần giở những trang Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu không có thiện cảm lắm với tước hiệu vua, một tước hiệu vốn gắn liền với hình ảnh độc tài, độc đoán. Và vì thế cũng dễ gây cảm giác khó chịu cho con người thời đại dân chủ hôm nay. Đức Giêsu đã dứt khoát thắng được cơn cám dỗ về quyền bính khi Ngài ở trong sa mạc chuẩn bị cho sứ vụ công khai. Có lần, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng tôn phong Ngài làm vua, nhưng Ngài tránh đi nơi khác.
Vậy mà trong những giờ đau đớn nhất, khi bị nộp trước quan tổng trấn của đế quốc Lamã, tay bị trói, đầu đội mão gai, thì Đức Giêsu lại nhận mình là vua, nhưng Ngài minh định ngay: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Và Ngài không làm vua theo cung cách của các vua chúa trần gian. Đức Giêsu là vua nhưng Ngài là vua của phục vụ, của khiêm hạ, của quên mình, nhất là của vua tha thứ trong yêu thương.
Chính trong niềm đau tột cùng và cái chết tất tưởi trên thập giá mà vương quyền của Đức Kitô được tỏ hiện. Và điều này một số người đã không nhầm lẫn. Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe nói về anh trộm lành. Anh trách mắng người bạn cùng chịu hình phạt với mình đã chế nhạo vương quyền Đức Kitô, rồi quay sang Đức Kitô, anh bày tỏ với hết lòng tin tưởng: “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Và Đức Giêsu nhận lời anh: “Ngay hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Cái vương quyền ấy, vào thời điểm ấy mới đẹp làm sao! Đức Kitô trên thập giá hoàn toàn là kẻ bại trận. Chỉ có người đặt lòng tin vào sự phục sinh của Ngài mới có thể hiểu được vương quyền ấy. Ở đây, chúng ta đứng trước một vương quyền thiêng liêng, nghĩa là vương quyền theo Thánh Thần Thiên Chúa, được trang bị chỉ bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nếu vị vua ấy có giải phóng thì theo một nghĩa sâu sắc là giải phóng tâm hồn.
Vị vua ấy đòi hỏi gì ở thần dân mình? Một điều duy nhất, đó là đức tin. Nghĩa là tin tưởng vào lời Ngài, Ngài mới làm cho chúng ta nên cao trọng. Thay vì bắt buộc phải sống sát mặt đất, đến với đêm đen, đối diện với một tương lai u tối và vô định, nhất thiết dẫn đến sự chết thì Ngài lại cho phép chúng ta tin tưởng cậy trông. Và như thế không phải Ngài đã làm cho chúng ta nên trưởng thành đó sao? Sự tin tưởng cậy trông khiến con người lớn lên, chính là điều dẫn con người đến với sự yêu thương. Sự tin tưởng cậy trông chính là điều cho phép con người trực diện với cái chết bởi vì đã có lời loan báo sự yêu thương và sự sống vĩnh cửu.
Vua của chúng ta là như thế đó! Chức vị vua của Ngài là để phục vụ cho thần dân. Uy quyền của Ngài, sự toàn năng của Ngài đó là quyền tối thượng để yêu thương và tha thứ. Ngài đã thi hành vương quyền ấy bằng cách lôi kéo con người ra khỏi tội lỗi và sự chết để đưa vào vương quốc của sự sống vĩnh cửu. Không, vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này. Nguồn gốc và uy quyền chính đáng của Ngài không tìm thấy trong thế gian này. Ngài múc lấy nó từ Thiên Chúa để rồi Ngài cho phép chúng ta đi suốt cuộc đời trần thế này, không phải trong điệu nhạc buồn thảm chết chóc nhưng là trong lời ca vẻ vang của ngày lễ Phục sinh, vì được cùng Ngài sống lại vinh quang.
Mừng lễ Chúa Kitô – Vua vũ trụ, có nghĩa là chúng ta tuyên xưng vương quyền của Đức Kitô để bước đi trong vương quốc của Ngài. Do đó việc tuyên xưng Đức Kitô là Vua phải dẫn đưa người tín hữu đến một thái độ cần có trong đời sống đức tin.
Tuyên xưng Đức Kitô là Vua chính là mặc lấy thái độ của anh trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay: biết sám hối, ăn năn, tin vào quyền năng yêu thương của Ngài. Chỉ những ai biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời.
Tuyên xưng Đức Kitô là Vua là đi theo con đường của phục vụ và phục vụ cho đến cùng.
Khi vua Hêrôđê được các đạo sĩ báo tin sự ra đời của vị Vua Israel, ông ta run sợ, ông sợ một sự cạnh tranh… Xin tất cả các vua Hêrôđê trên trần gian hãy an tâm, vương quyền của Đức Kitô không cạnh tranh với ai cả. Ngược lại, nó mời gọi tất cả những ai, cách nào đó đang thực thi quyền bính, hãy noi theo vua vũ trụ, làm tôi tớ cho những người mà họ cai trị.
Dĩ nhiên lời mời gọi này ưu tiên hướng đến những Kitô hữu, những người mà nhờ Bí tích Rửa tội, đã được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô. Nếu Đức Kitô là Vua Tình Yêu thì người Kitô hữu cũng được mời gọi đi theo con đường của Đức Kitô đã đi: con đường của yêu thương, phục vụ để xây dựng vương quốc của Ngài trên trần gian này;vương quốc của huynh đệ, vương quốc của tình thương, vương quốc của công lý và hòa bình.
Và mỗi một lần, chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cữ chỉ yêu thương, dù nhỏ bé nhất, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nhận được lời hứa của Đức Giêsu: Hôm nay đây, con sẽ ở cùng ta trong vương quốc của Ta.
Lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ nhắc nhớ cho mỗi người Kitô hữu chúng ta về một vương quốc đích thực mà mỗi người phải mong đợi bước vào, về một vương quyền đích thực mà mỗi người phải tôn nhận và quy phục. Hãy thực sự chọn Đức Kitô là Vua và là Cứu Chúa của đời ta và hãy bước đi trong đường lối của Ngài, vì chỉ nơi Đức Kitô chúng ta mới tìm được sự sống viên mãn cho chính mình.
Giáo hội luôn nhắc nhở chúng ta về phẩm giá cao cả của mỗi người Kitô hữu, đó là được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô. Mỗi người chúng ta được mời gọi tham dự vào vương quyền của Đức Kitô bằng cuộc sống phục vụ, yêu thương quên mình. Lạy Chúa Kitô Vua vũ trụ và Vua của mỗi người chúng con. Xin Chúa đón nhận chúng con vào vương quốc của Chúa và thêm sức để chúng con sống xứng đáng với tước hiệu là thần dân của Chúa.
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: “Homo homini lupus”: con người là lang sói của con người. Lang sói là một loài thú dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết chóc nhau.
Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên: lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình? Hầu hết thời gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết trên 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phồng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.
Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách ngu xuẩn như vậy? Thưa vì trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người; tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ, biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài lang sói đích thực nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sử quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.
Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền của Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, Đức Giáo Hoàng coi đó là chấm dứt chiến tranh.
Sở dĩ loài người cứ luôn làm hại làm khổ lẫn nhau là vì loài người còn sống theo cái tính thú trong mình. Vậy nếu muốn cho loài người hòa thuận với nhau để cùng nhau chung hưởng thái bình thì loài người phải sống theo cái tính người, gồm có những đức tính mà Chúa đã dạy chúng ta trong Tin Mừng. Con người sống đúng là con người. Chúa Giêsu gọi đó là sự thật; còn ngôn ngữ phụng vụ hôm nay thì gọi đó là vương quyền, vương quốc của Chúa Kitô. Nước Chúa. Ai sống theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước Chúa; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người đó đang mở mang Nước Chúa; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo, đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Giáo Hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa: đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hòa thuận yêu thương, một nước thái bình hạnh phúc.
Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hòa thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống hòa thuận yêu thương, sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy.
(Trích từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn tùy tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi: – Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười
Án Tử trả lời:
– Nếu các vua đời trước mà sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được?
Vua trần gian có thần dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan.
Chúa Giêsu trái lại, Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Vì thế, cung cách của vị vua Giêsu hoàn toàn mới lạ. Tin Mừng hôm nay sẽ nói lên tính cách Vương Quyền ấy của Người.
Dưới hình thức nhạo báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập giá, đã nói lên vương quyền của Chúa Giêsu: “Hắn đã cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa tuyển chọn” “Đấng Kitô” chính là người được xức dầu, là tước hiệu của vua. “Người Thiên Chúa tuyển chọn” chính là tước hiệu Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Nhất là lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói lên vương quyền của Người: “Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến tôi”.
Tuy nhiên, Nước của Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng không để ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình Yêu, vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không “xuống khỏi thập giá” cách ngoạn mục, nhưng đã “kéo mọi người” lên với Người. Người đã không “cứu lấy chính mình”, nhưng đã “cứu lấy mọi người” khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của Người.
Người đã sẵn lòng chịu chết giữa hai tên gian phi, như lời Kinh thánh rằng: “Người đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân”. Người đã hòa mình trong đám người tội lỗi, đã chịu chung số phận của họ, Người đã sống và đã chết giữa đám tội nhân, như lời đồn đại về Người: “Bạn của người thu thuế và phường tội lỗi”.
Vâng, vương quyền của Người không cai trị bằng sức mạnh biểu dương, nhưng chinh phục bằng “khối” tình yêu thương. Chính vì thế mà Người đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng, là lời thách thức xuống khỏi thập giá, để sẵn lòng chịu chết hầu cứu chuộc con người tội lỗi, chính là thần dân của Người.
Thần dân đầu tiên mà vị vua có vương miện là mão gai, và ngai vàng là gỗ thánh giá đã chinh phục, chính là người trộm lành. Giữa lúc những kẻ trước đây tung hô vạn tuế nay lại nhạo báng Người, giữa lúc các môn đệ thề sống chết với Người nay lại bỏ trốn hết, thì chỉ có một mình anh, người trộm lành, lên tiếng bênh vực Người: Anh mắng người trộm dữ: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này có làm điều gì trái!” Anh tỏ lòng kính sợ Chúa và ăn năn sám hối, đó là thái độ của người sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ.
Hơn nữa giữa lúc chương trình của Chúa Giêsu dường như thất bại, không còn hy vọng cứu vãn; giữa lúc thập tử nhất sinh, gần kề cái chết, thì chỉ mình anh, người trộm lành, đã tin vào Chúa, tin vào sự sống đời sau, và tin vào vương quyền của Người. Anh cầu nguyện: “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Người nhận lời tức khắc: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Một lời hứa mà Người chưa hề ban cho ai dù đó là người thân tín và yêu quí nhất của Người.
Một lời hứa được thực hiện ngay tức thì, không đợi đến sáng Phục sinh hay ngày thế mạt.
Một lời hứa đi vào vương quốc của những người công chính, qui tụ quanh vua Giêsu vinh hiển.
Lời hứa ban hạnh phúc cho anh trộm lành chính là cuộc sống thân mật với vua Giêsu, mà anh đã chia sẻ số phận của Người trên thập giá. Cuộc đời của anh tưởng chừng như vĩnh viễn khép lại, nhưng chỉ với một chút niềm tin trong anh bừng sáng, một lòng sám hối chân thành, đã khiến cửa trời rộng mở, đón tiếp anh thênh thang bước vào. Chính từ khi anh trộm lành nhận ra người tử tù bị đóng đinh là vua trời, nhận ra sự sống trong cõi chết, phục sinh trong tử nạn, thì vua Giêsu tiếp tục lan rộng cuộc chinh phục đến viên đại đội trưởng khiến ông cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này quả thật là công chính”.
Và trong suốt 2000 năm qua, Người vẫn luôn đón nhận vào trong vương quốc tình yêu của Người; những thần dân biết duy trì tinh thần hiệp nhất, phục vụ và yêu thương. Chỉ những ai biết sám hối ăn năn, tin nhận vào quyền năng và tình thương của Chúa như anh trộm lành, mới được vào trong vương quốc của Người. Chỉ những người biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời.
Lạy Chúa, xin cho đức tin chúng con đủ mạnh để thấy Chúa không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Người.
Xin dạy chúng con luôn cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này, nhờ biết đẩy lui sự dữ trên địa cầu, trong khi kiến tạo an bình và yêu thương. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội cử hành lễ trọng kính Chúa Kitô Vua Vũ Trụ. Đức Kitô là Chúa, là Vua chúng ta. Nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này. Trong năm phụng vụ chúng ta đã thấy xuất hiện các sự kiện tiên tri như sự tôn kính của các nhà đạo sĩ, xức dầu tại Bêthania, hoặc qua các dụ ngôn… xác định Đức Kitô như là “Vua”, theo ý nghĩa “Thiên Sai”, nghĩa là “kẻ thừa tự ngai vua Đavid, thể theo những lời hứa của các tiên tri, thừa hưởng vương quốc không bao giờ cùng tận (x. Lc 1,32-33).
Hôm nay, chúng ta cử hành với niềm vui khôn tả và quả quyết rằng Đức Giêsu là Vua. Câu hỏi được đặt ra: Vậy Ngài là Vua những gì? Câu trả lời: Đức Giêsu không là vua của những gì hết. Ngài là Vua vinh quang, Vua mọi sự. Đơn giản, Ngài là Vua, hoàn toàn là Vua. Thực tế xem ra khó chấp nhận, vì con người muốn biến Đức Giêsu trở nên trò cười khi mặc cho Ngài áo tím và đội mão gãi.
Các bản văn phụng vụ trình bày vương quốc của Đức Giêsu như một bức tranh đầy ấn tượng. Mỗi lần đọc nhấn mạnh vai trò trung tâm của Chúa Kitô. Ngài là Chúa Cứu Thế, Người đã được xức dầu (x. 1Col 1, 12-20), Ngài là Thiên Chúa duy nhất của vũ hoàn, trong đó chúng ta là anh em, Ngài là Vua khiêm nhường, luôn nhớ kẻ có tội mà phải chịu đau khổ.
Thánh giá thẳng đứng trong vinh quang. Ngai vàng, gợi lên những sự khiêu khích. Ba lần Đức Giêsu bị hỏi: “Nếu ông là Đấng Kitô” (x. Lc 23, 35-43). Mỗi nhóm cáo buộc Ngài đều hỏi về tình trạng cá nhân của chính Ngài. Các nhà lãnh đạo tôn giáo mong đợi Người Thiên Chúa tuyển chọn nên hỏi: “Nếu ông là Đấng Mê-si” (Lc 23, 35). Những tên lính bảo vệ sức mạnh của Đế chế La Mã, thách thức Ngài: “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”(Lc 23, 38). Một tên trôm cướp cùng bị đóng đinh cũng kêu lên trong đau đớn nhằm thoát khỏi cái chết: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” (Lc 23, 40). Địa vị của họ khác nhau, nhưng họ lại giống nhau ở điểm thách thức Chúa: “Ông hãy tự cứu mình đi!” Như thể thách Đức
Giêsu xuống khỏi thập giá để chứng minh vương quốc của mình! Đây là cơn dám dỗ cuối cùng. Nhưng Chúa Kitô đã không đến thế gian để biểu dương sức mạnh của Ngài cho ta thấy, Ngài đến để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa Cha và nhân loại với nhau, đồng thời ban lại cho chúng ta tự do đã bị đánh mất vì tội, nhất là trao ban cho chúng ta chính tình yêu. Khi chịu treo thên thập giá Đức Giêsu đã mạc khải vinh quang của Ngài, Ngài là Con Chiên bị sát tế để xóa tội trần gian.
Giữa những lời nhạo báng và thách thức, có một lời công nhận vương quốc của Thiên Chúa. Anh thì thầm: ” Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23, 42). Một tên trộm bị đóng đinh công nhận Đức Giêsu là Vua, thế là Ngài cho anh vào vương quốc của Ngài như anh xin: “Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”(Lc 23, 42).
Vương quốc của Vua Giêsu không hão huyền, trừu tượng, vương quốc ấy có mặt ngay hôm nay, nơi Chúa Kitô hiện diện. Như vậy, bản cáo trạng chống lại Đức Giêsu viết, “Đây là Vua dân Do Thái ” là thật trớ trêu, bởi từ trên thập giá vương quốc của Đức Kitô tỏa sáng vinh quang. Điều mà theo ý các kẻ thù của Người có thể là sự biện minh cho bản án của Ngài, thì trong con mắt của Cha trên trời, đó là sự công bố quyền cai trị phổ quát của Vua Giêsu. Cái chết của Ngài trên thập giá là hành động đẹp nhất chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.
“Chúng ta hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho chúng ta trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp… trong cõi đầy ánh sáng”. Cùng với Thánh Phaolô, chúng ta vui mừng hân hoan và biết ơn vì chúng ta được kêu gọi trở nên thành phần của Vương quốc Vua Kitô: “Người giải thoát ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi” (Cl 1, 12-20). Nhờ sự chết của Ngài, Vua Giêsu đã hòa giải tất cả mọi sinh linh; “nhờ máu Người đổ ra trên thập giá” Ngài đã đóng ấn một giao ước muôn đời. Khi phục sinh, Thiên Chúa Cha tôn phong Ngài làm Vua và là “trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại”, “Người là đầu của thân thể, nghĩa là đầu Hội Thánh.” Bài thánh ca được hát bởi Thánh Phaolô, kỷ niệm sự vĩ đại vô song của Chúa Kitô, và đưa chúng ta đến chiêm ngắm Thánh giá, nơi vương quyền của Chúa Giêsu Kitô được tỏ hiện.
Ai sẽ loan báo cho thế giới vương quốc của Đức Giêsu, nếu không phải là những chi thể của Thân Thể Người? Một vị vua không được thiết lập chỉ để ngưỡng mộ và tôn thờ, sứ mạng của vị vua sẽ vô hiệu, nếu đối tượng của mình không phục vụ. Câu hỏi đặt ra cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Kitô có phải là Vua và là Chúa của đời tôi không? Ai hiển trị trong tôi, ai đặt những mục tiêu và thiết lập những ưu tiên: Chúa Kitô hay ai khác? Theo Thánh Phaolô, có hai con đường có thể để sống: “hoặc cho mình hay cho Chúa” (x. Rm 14:7-9), vậy tôi sống cho chính mình hay sống cho Chúa?
Lạy Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ Vua Giêsu, Vua Tình Yêu. Xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua vũ hoàn nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, mọi vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.
Benjamin Franklin, một con người say mê sách vở, đã viết một tấm bia cho chính ông, mà ông hy vọng rằng nó sẽ được đặt trên phần mộ của ông. Tấm bia như thế này: “Thân xác của Benjamin Franklin, tựa như bao bìa của một cuốn sách cũ, những gì của nó bị xé bỏ và tẩy đi cả chữ khắc mạ vàng của nó nữa, và nó nằm đây cho dòi bọ; nhưng tác phẩm của nó sẽ không bị mất, vì nó sẽ được tái hiện một lần nữa trong hình thức mới với nhiều vẻ đẹp huy hoàng hơn, và được tu sửa bởi tác giả, như nó đã tin.
Franklin đã nói đúng: “Tác phẩm của ông sẽ không bị mất!” Benjamin Franklin cũng không bị mất! Quí bạn sẽ không bị mất! Cả tôi cũng không bị mất! Thiên Chúa, Cha chúng ta, sẽ không bỏ rơi chúng ta. Đức Kitô, Vua chúng ta, đã hứa cho chúng ta được vào Vương Quốc Tình Yêu muôn thuở của Ngài trong đời sống mới.
Vương Quốc Tình Yêu được thể hiện qua tình yêu của chúng ta đối với mọi người. Qua cảm nghiệm của tình yêu, ở nơi đây và trong lúc này, Thiên Chúa nhân từ đã ban cho chúng ta một chút cảm nghiệm của sự toàn hảo để vào Nước Tình Yêu Vĩnh Hằng của Ngài. “Chúa Giêsu đến không chỉ mang nhân loại vào thiên đàng, nhưng còn mang thiên đàng vào trong nhân loại; lại nữa không chỉ mang nhân loại ra khỏi địa ngục, nhưng còn mang địa ngục ra khỏi nhân loại.”
Thật là lạ lùng cao cả thay những chương trình và mục đích Mầu Nhiệm của Thiên Chúa! “Đây là Vua dân Do thái,” những chữ này có thể nhìn thấy nơi bảng viết được treo phía trên đầu Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Vua gì? Chắc chắn không phải con người đầy thương tích và máu me bị án phạt dã man đã bị treo trên Thánh Giá! Thưa Vâng! Chính là Con Người này! Người đã nhận lấy dụng cụ xử hình mà biến đổi thành biểu ngữ hy vọng chiến thắng của sự nhân từ.
Trong sách Samuel, chúng ta đọc thấy Chúa phán cùng Đa-vít rằng, “Ngươi sẽ là người dắt dân Israel của Ta, và ngươi sẽ là lãnh tụ của chúng. Bởi đó họ đã xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Israel… và ông đã cai trị suốt 40 năm trên toàn Israel và Giuđa” (2 Sam. 5:3,5). Kể từ đó Giáo Ước giữa Thiên Chúa, Vua Đa-vít, và toàn dân được thiết lập, và Giao Ước đó ngày nay vẫn còn uy quyền.
Hiện nay, ở Jerusalem, Pari, New York, Madrid, Morocco, Buenos Aries, trên toàn thế giới, và ngay tại đây, Đức Kitô, Con Vua Đa-vít, được xưng tụng là Vua Kitô! Vua Kitô đã mang ý nghĩa đến cho sự hiện hữu vô lý và không quan trọng mỗi người chúng ta. Vua Kitô bảo đảm cho chúng ta rằng bất sự gì là sự thật, tốt lành, và đẹp đẽ — bất kể nó bị xem như hiện nay bị đả bại — thì sẽ được bào chữa và hoàn hảo khi Thiên Quốc ngự đến.
“Nước Ta không thuộc thến gian này,” Chúa Giêsu đã nói với Philatô như thế. Vương Quốc của Đức Kitô không xây dựng như những vương quốc trần ai khác. Vương Quốc của Đức Kitô không xây trên nền móng những hiến pháp, sắc lệnh, súng ống, và khủng bố, cũng không dựa trên những giao tiếp xã hội mơ hồ, như những nhà chính trị triết gia đặt nó. Không, Vương Quốc của Đức Kitô được thiết lập trên Giao Ước Tình Yêu. Nhưng thế giới chưa được sẵn sàng để sống bằng Giao Ước này. Chỉ khi nào Tình Yêu Thiên Chúa hoàn toàn ngự trị trong mỗi tâm hồn và đời sống của mọi người thì Vương Quốc đó sẽ toàn vẹn. Thời gian đó sẽ đến! Thiên Chúa đã hứa như thế.
Qua cuộc chiến thắng sự chết của Chúa Giêsu, Quyền Lực Hồi Sinh của Thiên Chúa đã ban phát. Từ khi sự chết bị đánh gục, sợ hãi không còn thị oai hay đánh ngã được những ai sống trong Chúa nhờ đức tin. Chúng ta, con dân của Giao Ước tin tưởng rằng: cùng một Thiên Chúa, Đấng đã làm Chúa Giêsu phục sinh từ cõi chết cũng sẽ nâng dậy tất cả những ai tin nơi Ngài.
Như một điệp khúc được lập đi lập lại nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy rằng sự toàn hảo của chúng ta là vô kỷ và vị tha. Chúa Giêsu nói, “Hãy yêu tha nhân như chính Ngài đã yêu chúng ta.” Chúa Giêsu đã dạy bài học này, bằng lời nói cũng như việc làm cho tới hơi thở cuối cùng trên Thánh Giá. Ngài bị treo giữa hai tên cướp, mà một kẻ thì chỉ lo cho riêng thân mình, còn người kia lại tỏ lộ sự lo lắng cho Chúa Giêsu. “Chúng ta chỉ phải trả cho những gì chúng ta đã làm,” người ấy nói, “Nhưng ông này đã làm gì sai đâu.” Bởi đó mà Chúa Giêsu dù đang hấp hối cũng đã trả lời, “Ta bảo thật: ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta” (Lk. 23:43).
Có một câu chuyện ở Đông Phương kể rằng có một người đàn ông kêu xin từ vực sâu địa ngục cho được thả ra. Ông ta bị hỏi là đã làm được gì tốt khi còn sống. Ông ta chỉ có thể nhớ có một việc duy nhất là ông đã không giết một con nhện khi ông tản bộ trong vườn. Ngay lúc ấy một sợi tơ nhện mong manh màu bạc được thà xuống cho ông. Ông vội vã nắm thật chặt vào sợi tơ và ông đã từ từ kéo lên khỏi nơi khốn khổ ấy. Lúc bấy giờ, những người cùng khổ với ông, thấy ông được cứu thoát, cũng vội bám vào áo và chân ông ta, và thế là mọi người được kéo lên. Song ông ta sợ rằng sợi tơ bạc mỏng manh ấy sẽ bị đứt nên ta đã la lên, “Bỏ ra! Buông tôi ra!” Và khi những người kia buông ông ta ra, sợi tơ cũng bị đứt theo và thế là tất cả lại tỏm xuống địa ngục. Mặc dầu sợi tơ nhện bền đủ để nâng tất cả mọi người lên nhưng lại không đủ chắc để chịu sức nặng của một linh hồn ích kỷ.
“Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến tôi khi Ngài vào nước Ngài.” Chúa Giêsu nhìn rõ chúng ta là ai và yêu chúng ta như chúng ta là: Con cái yêu dấu của Thiên Chúa.
Ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính trọng thể Đức Yêsu Kitô Vua.
Vua: người trổi vượt trên tất cả
Vua là người trổi vượt hơn người khác, thắng được tất cả, nên có quyền trên người khác. Lịch sử Việt Nam cho thấy, sau “ngàn năm nô lệ giặc Tàu” Đinh Bộ Lĩnh là người đầu tiên thắng được các sứ quân và là vị vua đầu tiên “Đinh Tiên Hoàng”. Ngày nay khi người ta nói vua bóng đá, người ta nhắc tới người chơi bóng đá rất giỏi và trổi vượt hơn người khác, chẳng hạn như Pélé và Maradona. Khi nhắc tới môn cờ vua, người ta nhắc tới tên những vua cờ như Karpov và Kasparov.
Đức Yêsu là Vua. Ngài là vua các vua, ngài làm vua cả hoàn vũ này, vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đều đã được ban cho Ngài (Mt.28, 18). Đức Yêsu chấp nhận thân phận con người trọn vẹn, Ngài bất lực như tất cả mọi người khi Ngài đang sống đời tại thế, nhưng khi Ngài chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá, Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại, và ban cho Ngài quyền năng trên tất cả trời và đất. Đức Yêsu là vua cả hoàn vũ này.
“Chính để anh em được tự do mà Đức Yêsu đã giải phóng anh em” (Gl.5, 1). Với tình yêu và bằng tình yêu, Đức Yêsu đã giải phóng chúng ta khỏi tất cả, để chúng ta được tự do và làm chủ tất cả. Tình yêu giải phóng chúng ta khỏi nô lệ, và giúp chúng ta làm chủ, làm vua và là người tự do.
Đức Yêsu: người “yêu” trổi vượt tất cả những người đang yêu
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu ở Colôsê cho thấy Thiên Chúa biểu lộ quyền năng và tình yêu của Ngài nơi Đức Yêsu. Đức Yêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Nhờ Ngài, mọi vật được tạo thành, hữu hình hay vô hình. Mọi vật được tạo thành nhờ Ngài và cho Ngài. Ngài là đầu của Giáo Hội, là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Ngài hoà giải tất cả với Thiên Chúa trong máu Ngài.
Đức Yêsu trổi vượt trên tất cả vì yêu. Ngài là vua tình yêu, không ai yêu mãnh liệt như Ngài. Ngài dám chết, để người Ngài yêu được sống. Ngài hiến mạng Ngài, để thành lương thực nuôi dân Ngài. Ngài để lại cho họ một mệnh lệnh rất đơn sơ: hãy yêu nhau như Ngài yêu họ: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga.13, 35). Ngài không đòi con người làm điều gì khác ngoại trừ yêu thương, ngài muốn tất cả những người thuộc về Ngài làm mọi công việc vì yêu thương. “Yêu thương là chu toàn tất cả lề luật”.
Trước những lời nhạo báng của những người ghét Ngài, Ngài vẫn không oán hận. Ngài tha thứ. Ngay trong những lúc cùng quẫn nhất, Ngài vẫn luôn độ lượng, quên mình để yêu thương người khác: “hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Lời của Đức Yêsu cũng là lời tình yêu, đem lại an ủi và ban bình an.
Con vua lại được làm vua: chúng ta được mời gọi làm vua
Vua là nét đặc trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa có quyền trên tất cả, Ngài thống trị vũ trụ, vì vũ trụ đều do Ngài tạo dựng, tất cả phải tùng phục Ngài. Thiên Chúa khi tạo dựng nên con người, Ngài đã trao cho con người sứ mạng và quyền thống trị trên cá biển chim trời (St.1, 28). Làm chủ vũ trụ này, là sứ mạng của con người và của mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài tạo dựng chúng ta qua cha mẹ mỗi người chúng ta. Ngài không tạo dựng chúng ta như những người nô lệ, nhưng như những người tự do, để chúng ta làm chủ vũ trụ này, để chúng ta được cai trị vũ trụ này. “Con vua lại được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Chúng ta là con Thiên Chúa, Ngài cho chúng ta quyền thống trị trên mặt đất, và Ngài muốn chúng ta làm chủ vũ trụ này với lý trí và tài năng Ngài ban cho chúng ta.
“Được làm vua, thua làm giặc”. Người thắng, làm chủ, làm vua. Người thua, làm nô lệ, làm tôi đòi. Thiên Chúa muốn chúng ta làm chủ, Ngài không muốn chúng ta làm nô lệ, Ngài mời gọi chúng ta chiến thắng chính con người chúng ta, chiến thắng những khuynh chiều xấu nơi mỗi người. Nếu chúng ta thua, chúng ta làm nô lệ cho những khuynh chiều hạ đẳng, chúng ta làm nô lệ xác thịt, nô lệ tiền bạc, nô lệ danh vọng hão huyền. Thiên Chúa muốn chúng ta chiến thắng, Ngài muốn chúng ta làm vua với Ngài, với Đức Yêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh – lấy phần chính từ cha Hàm)
Hôm nay Lễ Kitô Vua. Nhưng bài Tin Mừng năm C lại cho ta một cung vua khác lạ. Năm A, hoàng cung là nơi Vua phán xét: “Khi Con Người ngự đến trên mây trời…” Năm B, hoàng cung là mượn tạm dinh Philatô: “Phải tôi là Vua.” Còn năm nay, cung điện của Vua Kitô lại chỉ là 2 thanh gỗ kết hình khổ giá với hai thần dân đạo tặc hai bên.
Ta sẽ nói về một trong hai thần dân này, y là tên trộm, mà là tên trộm biết ăn năn, thậm chí ở nhiều nước đạo gốc có nơi còn thờ y như một vị thánh.
Anh ta được gọi bằng những tên khác nhau như Dismas, Demas, Dumachus. Việt phiên âm là Đích Ma. Có người kể hắn là một thứ Robin Hood của Do-thái, chuyên ăn cướp của người giàu để phân phát cho người nghèo. Nhưng chuyện rất đáng yêu kể rằng khi Chúa Giêsu còn nhỏ được gia đình đem sang Ai-cập trốn Herôđê, dọc đường bị một bọn cướp tấn công. Một thanh niên là con của thủ lãnh bọn cướp thấy con trẻ Giêsu dễ thương quá nên không nỡ ra tay, hắn tha Ngài và nói: “Hỡi con trẻ rất có phước, nếu sau này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến tôi, đừng quên giây phút này nhé!” Tên cướp đó là kẻ đã cứu Chúa Giêsu khi còn nhỏ, nay lại gặp Ngài trên thập giá tại đồi Gôn-gô-tha. Lần này thì Chúa Giêsu đã cứu lại anh ta.
Câu chuyện thực hư thế nào không ai được rõ nhưng điều rõ rệt ấy là quang cảnh đóng đinh này đã ứng nghiệm điều mà trước đó cả bảy trăm năm tiên tri I-sai-a đã tuyên sấm: “Ngài đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân” (53,12). Mà chẳng những trong hàng phạm nhân mà thôi, nhưng theo vị trí xếp đặt, Ngài được coi là phạm nhân thượng hạng, là xếp sòng trong bọn đầu trộm đuôi cướp nữa, nếu hai tử tội đứng bên cạnh Ngài đúng là những tên trộm cướp.
Không biết ai đã bày ra cái trò này, xếp đặt thập giá của Ngài ở giữa hai tên cướp.
– Nếu là Phi-la-tô thì quả ông quan xâm lược này muốn làm tăng vẻ khôi hài của bản án mà ông treo trên đầu “Vua Do-thái”.
– Cũng có thể do các đầu mục Do-thái, theo dõi kẻ thù đến đỉnh núi Sọ, mua chuộc bọn lính sắp đặt để tăng sỉ nhục cho nạn nhân, “cho biết mặt!”
– Hay có lẽ là chính bọn lính sắp đặt như vậy vì hiển nhiên Ngài là tử tội đáng chú ý hơn cả trong bọn.
Nhưng… nếu đây là một cái gì hiểm độc về phía loài người, thì điều ti tiện trước mặt người đời, lại cao sang trước mặt Thiên Chúa. Điều mà lòng độc ác của loài người bêu xấu Ngài, thì lại tôn vinh Ngài trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, vị trí của Ngài giữa hai tên trộm cướp đúng là địa vị của Ngài.
Bởi, từ lâu Ngài được gán cho danh hiệu “bạn của người thâu thuế và phường tội lỗi” (Mt 11,19). Giờ đây, qua hành động đóng đinh Ngài giữa hai người trộm cướp, ý tưởng ấy được thực hiện cách rõ rệt nhất. Chúa Giêsu đã đến thế gian để tự hòa mình vào đám tội nhân, Ngài đã chịu chung số phận của họ, Ngài đã sống giữa họ, và thật là thích hợp Ngài chết giữa họ. Cho đến lúc này, Ngài đang ở giữa họ. Và thái độ kỳ lạ của hai người đã bị treo hai bên Ngài, là một ứng nghiệm và và là một báo hiệu.
Ứng nghiệm điều cụ Simêon nói về Hài Nhi Giêsu trong Đền Thờ: “Con trẻ này có mệnh làm cho nhiều người trong dân vấp ngã trong khi nhiều người được giải cứu.” (Lc 2,34) Và báo hiệu điều sẽ xảy ra luôn luôn sau này, một số người tin nhận Ngài và được cứu, trong lúc một số khác không tin. Lịch sử loài người luôn luôn như thế, Tin Mừng sẽ đem lại sự sống cho nhiều người, và cũng đem lại án phạt cho nhiều người. Tình trạng ấy sẽ kéo dài cho đến ngày tận cùng, Ngài sẽ ở giữa họ, kẻ ăn năn đứng một bên, bên phải, và bên trái Ngài là những kẻ không ăn năn. Mát-thêu và Lu-ca đều ghi lại: “Cả những kẻ bị đóng đinh với Ngài cũng xỉ nhục Ngài,” Lu-ca ghi rõ hơn: Kẻ bên trái mắng nhiếc, kẻ bên phải ăn năn.
Ăn năn cách nào? -Lên tiếng Bênh vực. Giữa lúc những kẻ trước đây cuồng nhiệt tung hô nay lại phản đối Ngài, giữa lúc đám môn đệ thề quyết trung tín bỏ trốn hết, thì một mình tên trộm lên tiếng bênh vực Ngài.
Nếu chàng thanh niên con của góa phụ thành Na-im, được cải tử hoàn sinh, lên tiếng tin vào quyền năng của Đấng xem ra mất hết quyền đế vương; nếu Phê-rô đã từng chứng kiến Chúa biến hình trên núi, tuyên xưng Đấng “coi vậy chứ không phải vậy”; nếu anh mù thành Giê-ri-khô đứng lên công nhận thần tính nơi Ngài …, chúng ta không ngạc nhiên. Phải, nếu một trong những người trước đây đã hưởng ân huệ của Chúa lên tiếng, có lẽ các môn đệ nhát sợ lấy lại can đảm, đám dân vô tâm sẽ tỉnh ngộ, bọn ký lục và biệt phái sẽ tin theo … Nhưng giữa lúc cái chết gần kề, giữa lúc Chúa Cứu Thế như hoàn toàn thất bại trước mặt người trần, chỉ có một người lên tiếng tin nhận Ngài, đó lại là tên trộm bị đóng đinh:
Anh thấy cây thập giá nhưng tôn thờ như ngai Vua Cả. Anh thấy người bị đóng đinh nhưng kêu cầu như Chúa Tể. Anh thấy sự sống trong cõi chết, anh thấy vinh quang trong nhục nhã … “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi.”
Có thể đây là lần đầu tiên tên trộm cầu nguyện và có lẽ cũng là lần cuối cùng, dầu vậy Đấng đã được tiên báo “Ngài không bẻ đứt cây sậy dập gẫy, không tắt hẳn tim đèn còn khói” (Mt 12,20), lại không đáp ứng lại một niềm tin như vậy sao? Và đấng tuyên bố: “Người nào đến với Ta, chẳng bao giờ bị Ta xua đuổi” (Ga 6,37) lại đuổi xua sao? Chúa Giêsu đã giữ lời và còn giữ hơn cả điều người ta trông đợi.
Trong khi nhà cầm quyền Giê-ru-sa-lem không thể làm Ngài rời khỏi thập giá; trong lúc mọi tố cáo bất công không thắng được sự yên lặng của Ngài; trong lúc những lời gào thét “nó đã cứu được người khác, mà không cứu nổi mình” không làm Ngài hé môi …, thì Ngài nghiêng đầu về người yếu đuối cạnh Ngài, Ngài nói và cứu một tên trộm: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta.”
Trước đây không một ai được hứa như thế, dầu người đó là Áp-ra-ham, quốc mẫu tổ phụ của Giêsu; dẫu người đó là Mô-sê, đại ngôn sứ, thủ lãnh Dân Riêng; hay Gio-an, kẻ Giêsu yêu. Ngay cả Ma-da-lê-na hay chính Đức Ma-ri-a, Mẹ Ngài cũng vậy, vậy mà, Ngài lại hứa với tên trộm, thần dân đầu tiên của Ngài trên Nước Trời.
Augustino đã tinh ý khi sánh ví: khen thay cho tên trộm này, cả một đời trộm cắp mà đến giờ chót khi ra trước toà còn trổ nghề ăn trộm được cả Nước Trời. (Không biết vào Nước Trời rồi, có ăn trộm chìa khoá của Phêrô để mở cửa thiên đàng cho đồng nghiệp bên trái nhiếc mắng Chúa hay không? Biết đâu!
Có một người ăn xin nọ ngày kia gặp một hiền sĩ ở dọc đường, ông ta đã chạy lại van xin hiền sĩ bố thí cho mình. Nhà hiền sĩ đã từ chối và cứ đi tiếp con đường ông đang đi. Người ăn xin vẫn tiếp tục đuổi theo, miệng không ngớt xin bố thí. Ông ta đã theo nhà hiền triết ra đến tận đầu phố, cuối cùng nhà hiền triết tuyệt vọng, dừng lại và nói:
– Được rồi, ta sẽ cho ngươi tiền, nhưng với điều kiện: trong hai con mắt của ta có một con mắt thủy tinh, ngươi hãy nói nó là mắt nào. Nếu nói đúng ngươi sẽ có tất cả những gì ta có.
Người ăn xin nhìn ông chăm chú, cuối cùng nghiêm giọng nói:
– Thưa thầy, con mắt trái là thủy tinh ạ.
Hiền sĩ kinh ngạc kêu lên:
– Hãy nói làm sao ngươi biết được điều đó. Con mắt đó do một người thợ giỏi nhất thế gian này làm ra, không thể nào phân biệt được mắt nào của ta là mắt thật, mắt nào là mắt thủy tinh?
– Thưa thầy, vì -người ăn xin chậm rãi đáp- mắt phải của thầy ánh lên lòng thương xót.
Vâng có lẽ người ăn trộm bên phải cây Thánh giá của Chúa Giêsu cũng có được con mắt phải “ánh lên lòng thương xót.” Chàng thương xót cho tử tội vô tội Giêsu, nên đã gặp được cặp mắt giàu lòng thương xót của Vua Giêsu bị xét là tử tội.
Tin giờ chót tôi mới nhận được qua email từ Giêsu.net, là trong vương quốc của Vua Giêsu, chỉ có những người có cặp mắt ánh lên lòng thương xót mới vào được.
Bạn muốn vào, xin hãy ánh lên lòng xót thương.
Trong mục “Cánh cửa rộng mở” của báo Catholic Digest có câu chuyện rất cảm động về một chủng sinh. Anh lớn lên trong một gia đình Công giáo. Anh là một tín hữu rất mộ đạo và thường tham gia vào các công việc ở nhà thờ. Anh đi chủng viện để học làm Linh mục. Trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam, người chủng sinh đó đã bỏ chủng viện và gia nhập đảng chống chiến tranh. Không những thế, anh còn bỏ luôn cả Giáo hội, và còn hơn nữa, anh bắt đầu tìm cách chống lại đức tin và những lý tưởng anh đã một lầm ôm ấp. Càng ngày, anh càng coi tôn giáo như là một kẻ thù. Gia đình anh rất buồn và họ đều mất hy vọng cứu vãn được anh.
Vào một ngày thứ Sáu Tuần thánh, người thanh niên đó lái xe đi ngang một nhà thờ Công giáo. Anh nhận ra tên của linh mục mà anh đã kính trọng được ghi trên tấm bảng ở trước nhà thờ. Một cái gì đó đã thúc đẩy anh ngừng xe lại và vào trong nhà thờ. Khi anh vừa bước vô thì nghi lễ Suy tôn Thánh giá cũng vừa bắt đầu. Anh ngồi xuống ở hàng ghế cuối hết và nhìn những người lên thờ lạy và hôn Thánh giá trong khi ca đoàn hát bài: “Trong khi người ta đóng đinh Chúa tôi, bạn có ở đó không?”
Một sự việc đáng ghi nhớ đã xảy ra. Người chủng sinh trẻ bỏ đạo đó đã viết lại như sau: “Trong tâm hồn, tôi cảm thấy rất xúc động và tôi bắt đầu khóc. Cố gắng kìm hãm lại cảm xúc, tôi nhớ lại những năm trước đây khi tôi còn là một chủng sinh sống trong sự bình an. Đức tin đơn sơ của những ngày tháng xa xưa, đã bị phủ lấp và nằm chìm sâu kín trong tâm hồn tôi bao năm qua nay vụt bùng dậy. Một sức lực nội tại giục giã bắt tôi phải đứng lên, rời khỏi ghế đang ngồi và đến quì sụp lạy trước Thánh giá và hôn Thánh giá. Vị linh mục trong nhà thờ đã nhận ra tôi và đã đến ôm lấy tôi. Trong ngày đó, tôi lại được tái sinh trong đức tin Công giáo.”
Câu chuyện ở trên rất phù hợp với các bài đọc trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay. Bài Phúc âm hôm nay thuật lại một người thanh niên mà chúng ta thường gọi là tên trộm lành, đã được ơn trở lại trong ngày thứ Sáu Tuần thánh cách đây hai ngàn năm. Điều mà Chúa Giêsu đã nói với tên trộm lành trên Thánh Giá cũng chính là điều mà Ngài đã phán với người chủng sinh trẻ: “Amen, Ta nói thật với con… hôm nay con sẽ ở trên Thiên đàng với Ta.”
Chúng ta nhận thấy không có bài đọc nào thích đáng hơn bài đọc hôm nay để kết thúc một năm phụng vụ. Nó tóm tắt lý do tại sao Chúa Giêsu đã đến thế gian. Lý do đó là vì để tỏ lòng tha thứ khoan nhân cho các tội nhân, giống như tên trộm lành và người chủng sinh trẻ.
Điều đó đưa chúng ta đến một điểm áp dụng thực tế trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu muốn tha tất cả tội lỗi của chúng ta cho dù tội lỗi của chúng ta có chất đống đến đâu đi nữa. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: “Amen, Ta nói thật với con… hôm nay con sẽ ở trên Thiên đàng với Ta.”
Các thánh sử đều kể lại câu truyện tang thương của cuộc khổ nạn một cách hết sức vắn gọn, mặc dù trong truyền thống Do Thái tường thuật những vụ tử vì đạo rất tỉ mỉ (2 Macc 7:3-19). Phúc âm theo thánh sử Luca kể lại cách sơ sài sự kiện một tử tội mang danh là Giêsu thành Nazareth đang hấp hối trên cây thập giá. Thánh Luca còn bỏ cả chi tiết cho ông Giêsu uống rượu pha mật đắng. (Mk 15:22; Mt27:33). Tuy nhiên trong bài trích Phúc âm cho Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, thánh Luca đã tỉ mỉ nói lên bốn phản ứng của những người hiện diện tại đồi Golgotha để chứng minh con người và căn tính siêu việt của Chúa Giêsu.
Thái độ thứ nhất là thái độ dửng dưng của những người qua đường. Là khách bàng quang, họ đến xem cho biết chuyện gì đang xảy ra. Thánh Luca phân biệt rõ những người dân và các vị lãnh đạo. Đám dân thường chỉ đứng quan sát sự việc cách thụ động. Họ không biết rõ căn tính và con người ông Giêsu. Chính vì thế mà họ được ơn thống hối ăn năn. (Lc 23:48)
Còn hàng lãnh đạo tôn giáo thời đó thì chủ động nhạo báng ông Giêsu. Họ không tin ông Giêsu là Vua dân Do thái, đấng được tuyển chọn để cứu dân Chúa khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự dữ. Họ chế nhạo: “Nếu ông là vua dân Do thái. ông hãy tự cứu mình đi.” Họ hiểu “Vua” theo nghĩa trần gian, một vị lãnh đạo chính trị sẽ giải thoát dân Chúa thoát ách thống trị của Đế quốc Rôma. Một tử tội đang hấp hối trên thập tự không thể giúp họ thực hiện ước mộng đó của họ.
Thái độ của người trộm dữ cũng giống như thái độ của đám lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Hắn buông lời hằn học và sỉ nhục: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa.” Hắn biết mình đã rơi vào tình trạng “thập tử nhất sinh” và biết chẳng còn ai có thể cứu mình khỏi chết. Có thoát lời thóa mạ ai cũng chẳng thiệt thòi gì hơn. Đối với hắn, chết là hết.
Nhưng người trộm lành đã thực sự được ơn giải thoát khỏi sự ngu muội và sự không tin. Hắn nhận ra Đức Giêsu là người vô tội nhưng lại bị án tử hình như những kẻ phạm trọng tội như hắn. Hắn nhận ra rằng vị Vua này không phải là một nhà lãnh đạo chính trị, nhưng là một lãnh đạo tinh thần, và nước của Ngài chính là thiên đàng vĩnh cửu. Chính vì được ơn giác ngộ và thống hối, hắn đã thốt lên lời đầy tin tưởng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” (Bản dịch mới của nhóm Phiên Dịch VN, 1998, có lẽ chính xác hơn: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi.” Người trộm lành đã kêu đích danh của Chúa Giêsu, danh hiệu có nghĩa là “Chúa chữa.” Chính vì niềm tin nơi Chúa Giêsu, người trộm lành đã được tha thứ mọi lỗi lầm và được hưởng phúc thiên đàng.
Chúng ta là những Kitô hữu có lẽ chúng ta không bao giờ dám nhạo báng Chúa Giêsu như tay trộm dữ và những vị lãnh đạo cứng lòng tin. Cùng lắm khi vì tính yếu đuối xác thịt để cho mình rơi vào tình trạng dửng dưng với Chúa Kitô và công việc của Giáo Hội, nhiệm thể của Ngài. Đôi khi chúng ta muốn Chúa Giêsu trở thành một vị lãnh đạo chính trị giải thoát chúng ta khỏi những đau khổ phần xác và những bất công xã hội. Bằng chứng của lòng mong ước này là phong trào thần học giải phóng, là phong trào phụ nữ bình quyền… Dĩ nhiên khi còn ở thế gian, Chúa Giêsu đã cứu chữa biết bao nhiêu tật nguyền và đả phá những hủ hóa của giới lãnh đạo. Nhưng Ngài đã không giải phóng dân Israel khỏi ách thống trị Rôma và không làm phép để giải vòng vây cho chính Ngài. Lý do: vì Ngài không phải là Vua trần gian. Như Chúa Giêsu nói rõ với Philatô khi Ngài bị bắt: “Nước ta không thuộc về thế gian này.” (Ga 18:36) Nước của Ngài là Thiên đàng mai sau, chỉ có nơi đó mới không còn đau khổ phần hồn phần xác, không còn áp bức và bất công xã hội.
Chắc hẳn, chúng ta đều muốn được ơn giác ngộ và trở lại như người trộm lành. Chúng ta muốn tôn thờ Chúa Giêsu là Vua của vũ trụ và là vị Vua của từng tâm hồn mỗi người. Lời nguyện nhập lễ trong thánh lễ Chúa Kitô Vua: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô là Người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng.”
Năm 1925, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng Mười. Trong một bản tông huấn, Đức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua: thế giới cần một nền hòa bình chân thật, nhưng hòa bình đó chỉ có được dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình thương và Hoàng tử Bình an.
Về sau, khi có cuộc cải cách Phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vu, tức Chúa nhật thứ 34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu kỳ mới.
Một linh mục đã nhận xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều ý nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một đức vua.
Nhớ lại ngày Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, ba đạo sĩ phương Đông đã tìm đến dâng các lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng là món quà tượng trưng cho vương quyền. Thế nên, từ thuở ấu thơ, Ngài đã được nhìn nhận như một đức vua. Và rồi, trong những giờ phúc cuối cùng của cuộc sống làm người, Đức Giêsu cũng được suy tôn như vị quốc vương cao cả.
Thói thường khi quân Rômma đóng đinh ai cũng đều kèm tho một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ phạm pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái bằng cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ “Đây là Vua dân Do thái.” Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Đức Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là Hoàng đế (x. Thomas Kemp, Homilies on the Sunday Gospel).
Việc làm vô tình của Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng.
Số là trên đồi Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính thì mắng nhiếc chế diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ nhục. Trong mớ âm thanh hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài ngôn từ đáng suy nghĩ.
Ngay trên khổ giá của mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ về những ngôn từ đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu như: “Nếu là Đức Kitô”, “Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Nếu là Vua Do thái”. Anh ta ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.”
Chính việc “thấy” và “nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái.” (Lc 33:41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài.” (Lc 23:42).
Làm sao trong cảnh hấp hối tột cùng của Đức Giêsu và của chính mình mà anh “trộm lành” lại cất lên được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng xoáy của sự chết, anh đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Điều gì đã giúp anh, ngay giữa lằn ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một quốc vương, Đấng đang bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?
Một nhà thần học trả lời: Tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu người, xót thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình yêu.
Mà tình yêu sẽ tồn tại muôn đời anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn đau của thân xác, anh vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó đang rộng lòng tha thứ, xóa hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia tăng cường độ khiến miệng anh bật lên lời nài van: “Xin Ngài nhớ đến tôi.”
“Ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta” (Lc 23:43). Không lời nào yên ủi cho người sắp chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly. Nhưng tình thương lại luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu nhớ đến mình, nhưng Ngài lại hứa ở cùng anh. Nói đến nhớ là nói đến cách xa. Vì yêu nhau nhưng không được gần nhau nên sinh ra nỗi nhớ. Tình yêu có nỗi nhớ là tình yêu chưa được vuông tròn. Còn khi “ở làm một với nhau” thì tình yêu đã thật sự lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là “nên một” và “ở cùng.”
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đức Kitô, Người Thiên Chúa tuyển chọn, Đấng Cứu Thế, Vua Tình Yêu.
Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành trình dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, là ta đang tìm thấy hòa bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, và thế giới.
Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.
Khung cảnh đồi sọ vào giờ tử nạn của Chúa Giêsu quả thực u ám. Đám đông dân chúng trước đây theo Chúa, được chứng kiến những phép lạ nhãn tiền như việc Lazarô chết chôn ba ngày được sống lại, phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá nuôi năm ngàn người, không kể đàn bà trẻ con, ăn no nê… Chính đám đông đã có lần định tôn Chúa lên làm vua, đã trải áo và ngành ô liu đón mừng Chúa vào thành Thánh Giêrusalem hôm đầu tuần, đám đông ấy đang hùa theo các thủ lãnh và quân lính cười nhạo và chế giễu Chúa: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn.” Bên cạnh thập giá Chúa cũng có hai người trộm cướp bị đóng đinh. Một trong hai kẻ trộm sỉ nhục Chúa rằng: “Nếu ông là Đấng Kitô hãy tự cứu Ông và cứu chúng tôi nữa.”
Nếu đứng về khía cạnh và quan điểm của nhân loại, thì quả thực Chúa Giêsu đã hoàn toàn bị thảm bại, đúng như lời than thở của hai môn đệ Emmau: “Về Đức Giêsu Nagiarét, là Đấng tiên tri, có quyền phép trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và cả dân chúng: mà các trưởng tế, các nghị viên ta đã nạp Ngài để xử tử và đóng đinh vào thập giá. Chúng tôi vốn trông mong Ngài sẽ cứu chữa dân Isarel: dầu thể ấy, việc đã xảy ra đã được ba bốn hôm nay rồi.” Nhưng chính vào giây phút tăm tối ấy, một ánh sáng vừa lóe lên. Một người trộm thưa với Chúa: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” Chúa Giêsu đáp: “Ta bảo thật ngươi ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với ta.” Lời tuyên xưng của người trộm lành vào lúc sắp kết thúc tấn bi kịch thương khó của Chúa đã đảo ngược thế cờ: Chúa Giêsu đã mạc khải cho người trộm lành, cho toàn thể dân chúng, quân lính, các thủ lãnh và toàn dân Isarel đang đứng dưới thập giá: Người là vua nhân hiền, đầy tình thương xót và tha thứ. Nước Người là Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Thần dân của Ngài là tất cả những tâm hồn thành tâm thiện chí, biết mở rộng lòng đón nhận Tin Mừng Cứu Độ. Cờ hiệu của Ngài là thập giá đưa đến vinh quang. Hiến pháp của nước Thiên Chúa là giới luật yêu thương: yêu Thiên Chúa hết linh hồn, hết sức, hết trí khôn và yêu thương và anh em đồng loại như chính mình.
Người trộm lành là hình ảnh của cả nhân loại hư đốn và sa ngã, nhưng được cứu thoát nhờ biết nhìn nhận ra Đấng Cứu Chuộc là Vua đầy tình lân mẫn. Đúng như thánh Phaolô đã ca ngợi trong thư gửi cho tín hữu thành Colossê: “Chúa đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, đem chúng ta về nước Con yêu dấu của Chúa, trong Người chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ máu Người, và được ơn tha tội. Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật, vì trong Người, muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình… Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người và Người có trước mọi loài và mọi loài tồn tại trong Người, Người là đầu thân thể tức là Hội Thánh, là nguyên thủy và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hòa vạn vật nhờ Người và vì Người, nhờ máu Người đã đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hòa bình trên trời dưới đất.” Vương quyền của Chúa đã được thánh Phaolô tuyên xưng và tung hô. Quả thực, Đức Kitô là đầu và là tận điểm của lịch sử nhân loại: Hội Thánh đã tôn vinh vương quyền Chúa vào Chúa Nhật kết thúc năm phụng vụ.
Trước kia khi còn ở Việt Nam, nhiều gia đình đã có thói quen mời cha xứ đến làm phép nhà mới và đặt tượng Chúa là Vua trong bàn thờ của gia đình. Chính người gia trưởng đã đem tượng Chúa lên bàn thờ, giữa lúc tất cả gia đình, thân tộc và hàng xóm láng giềng đọc kinh tôn vương hay hát bài: “Lạy trái tim Chúa Giêsu, làm vua cai trị mọi loài, xin trái tim Chúa làm vua, cai trị lòng con suốt đời.” Cảm động và ý nghĩa thay hành động nhận Chúa làm vua gia đình và vua tâm hồn chúng ta. Chớ gì thói quen tốt lành ấy được tái diễn ngay trong hoàn cảnh sống mới của chúng ta ở xã hội Âu Mỹ này.
Chúa Giêsu đăng quang làm Vua khi bị đóng đinh trên Thập giá. Vương miện là mão gai, ngai vàng là thập giá. Trên Thập giá, Chúa Giêsu lên ngôi Vua. Khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Ngài.Trên Thập giá, Vua Giêsu đã mang lấy tất cả tội lỗi nhân loại, gánh chịu mọi khổ đau, nhục nhã. Chính tình yêu chiến thắng của Vua Giêsu đã cứu chuộc nhân loại, đã nối kết con người lại với Thiên Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết: “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).
Ngày lễ hôm nay, Giáo Hội công bố bài Tin Mừng Chúa chịu đóng đinh. Giây phút Chúa được tuyên xưng là Vua chính là khi bị treo trên Thập giá, đầu gục xuống. Thật lạ lùng! Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, Vị Vua Bị Đóng Đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng: “Hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng”.
Vị Vua lên ngôi trên thập giá bị nhạo báng. Các vị thủ lãnh cười nhạo: “Hắn cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được Chúa tuyển chọn!”. Bọn lính tráng chế giễu: “Chúng lại gần, đưa giấm cho Ngài uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”. “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!”. “Và có tấm bảng trên đầu Người” muốn ám chỉ điều ghi trên tấm bảng “Người nầy là Vua dân Do thái” tương phản với người đang bị đóng đinh, như thế tấm bảng nối dài lời nhạo báng của lính tráng.
Đối nghịch với ba lời nhạo báng và nhục mạ là phản ứng của người trộm lành: “Nhưng tên kia mắng nó rằng: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái”. Anh ta thừa nhận hành vi gian ác mà anh đã phạm và tính chính đáng của bản án dành cho anh. Đó là dấu hiệu của sự sám hối.
“Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!”. Lời van xin của anh ta rõ ràng mang đậm tính chất một lời cầu nguyện của những Kitô hữu gốc Do Thái. Trong lời cầu nguyện này, anh tuyên xưng lòng tin mạnh mẽ vào vương quyền Mêsia của Đức Giêsu. “Và Người nói với anh: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Đức Giêsu bảo đảm cho anh một ơn cứu độ của “hôm nay” với một lời hứa long trọng. Ngài hứa ban cho người trộm lành này một sự sống hiệp thông trọn vẹn với Ngài ngay hôm nay. Trong viễn tượng Kitô giáo, sự hiệp thông này là sự sống viên mãn phúc lạc trong vinh quang của Đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi.Trong viễn tượng của tin mừng theo Thánh Luca, cảnh người trộm lành hối cải và cầu xin với Đức Giêsu này tạo nên đỉnh điểm của trình thuật về sự kiện đóng đinh Đức Giêsu. Cảnh này kết thúc chuỗi những lời nhạo báng và tạo ra một sự đảo ngược quan trọng, trong đó, người trộm lành không chỉ tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu, mà xa hơn nữa, anh tuyên xưng lòng tin vào vương quyền đích thực của Ngài, vương quyền bị các thủ lãnh, lính tráng và tên gian phi đem ra nhục mạ. Đức Giêsu trong đoạn tin mừng này quả thực là một vị vua, nhưng Ngài là vua theo một cách thức hoàn toàn khác với những mong đợi mang tính chính trị. Ngài thật là Đấng Cứu Độ, nhưng không phải là một nhà giải phóng chính trị và quân sự. Ba hạng người nhạo báng Ngài đều đưa ra lời thách thức rằng nếu Ngài là Vua Kitô thì Ngài hãy tự cứu mình đi và cứu cả những người khác nữa. Đức Giêsu sẽ đáp trả với thách thức ấy, nhưng không phải là theo cách thế mà những người kia mong đợi. Ngài cứu một con người, ngay khi ấy, tức là ngay khi Ngài trút hơi thở, nhưng không phải là cứu khỏi cái chết tạm thời, song là đưa người đó đi vào sự sống viên mãn và niềm phúc lạc đích thực.Ngài không làm những hành động chính trị hay những pha biểu diễn ngoạn mục.Vương quyền của Ngài là vương quyền siêu việt và vĩnh cửu.Trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta mừng kính vương quyền đích thực đó và đặt mình đầu phục vương quyền cứu độ đó, chứ không phải đi tìm hay khao khát những thực tại thế trần và mau qua. (Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện).
Chúa Kitô lên Ngôi Vua vũ trụ trên Thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa. Ngài là vua sự thật, vua tình yêu, vua niềm tin.Vương quyền Chúa Giêsu là vương quyền yêu thương, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô đã gọi Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử, là người tiền phong của nhân loại đã mở một lối đi cho chúng ta. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã qui tụ muôn người thành một vương quốc, thành một dân riêng. Vương quốc này, dân riêng này sẽ tồn tại cho đến muôn ngàn đời.
Vương quốc Chúa Giêsu không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của yêu thương và tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng lại ở trong trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương Thiên Chúa mới thuộc vương quốc của Ngài.
Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố: “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy ngày Giáng Sinh của Đức Giêsu làm cột mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Thánh Gioan Phaolô II: “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cử chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành: “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.
Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân chưa? Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa? Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta? “Xin nhớ đến con”, chúng ta phải lập đi lập lại lời ấy mỗi ngày trong suốt cuộc sống của mình.
Mừng lễ Chúa Giêsu – Vua Vũ Trụ – Vua Sự Thật, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người mình, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện công lý và tình yêu hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.Chúa Giêsu đăng quang làm Vua khi bị đóng đinh trên Thập giá. Ngày lễ hôm nay, Giáo Hội công bố bài Tin Mừng Chúa chịu đóng đinh. Giây phút Chúa được tuyên xưng là Vua chính là khi bị treo trên Thập giá, đầu gục xuống. Thật lạ lùng! Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, Vị Vua Bị Đóng Đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng: ” Hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Người trộm bên hữu đã nhận ra vị vua tình yêu, nên anh đã xin với Ngài nhớ đến anh khi vào vương quốc của Ngài.Anh đã tuyên xưng vị vua tình yêu chiến thắng.Tình yêu đã chiến thắng mọi trở ngại: từ những lời thách thức của những người đòi một vị vua uy quyền đến cái chết khổ đau. Trên Thập giá, Vua Giêsu đã mang lấy tất cả tội lỗi nhân loại, gánh chịu mọi khổ đau, nhục nhã. Chính tình yêu chiến thắng của Vua Giêsu đã cứu chuộc nhân loại, đã nối kết con người lại với Thiên Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết: “Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã giao hòa với mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”(Cl 1,20).
Trong tất cả những gì đã viết về Chúa Kitô, có lời nào bi đát hơn lời của Thánh Gioan ở lời tựa sách Tin Mừng: “Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận” (Ga 1,11). Bêlem không có chỗ cho Ngài sinh hạ, Nadarét không có chỗ cho Ngài sinh sống, Giêrusalem không có chỗ cho Ngài chết.
Bốn mươi ngày sau khi Ngài sinh hạ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ Maria: “Ngài sẽ là dấu gợi lên chống đối”(Lc 2,34). Đó là một kiểu nói khác chứng thực điều Thánh Gioan đã nói. Chưa được hai tuổi, Ngài đã bị binh lính Hêrôđê lùng sục để sát hại. Suốt những năm tháng rao giảng Tin Mừng, Ngài cũng bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị kết án loại trừ và bị đóng đinh khổ giá.
Chúa Giêsu Kitô đã chọn Thập giá làm phương thế thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự hận thù ghen ghét của thế gian; thanh đứng tượng trưng cho tình yêu và sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết; giữa vui và buồn; cười và khóc; hận thù và thứ tha; ghen ghét và yêu thương; giữa ý muốn của con người và ý muốn của Thiên Chúa. Đặt thanh sự sống và tình yêu lên thanh sự chết và oán thù là cách duy nhất để làm nên một thập giá.
Chúa Kitô lên Ngôi Vua vũ trụ trên Thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa. Vì vậy Giáo hội đã chọn bài Tin Mừng Đức Giêsu bị đóng đinh trên Thập giá giữa hai người trộm cướp cho ngày lễ hôm nay.
Nói đến vua, chúng ta thường nghĩ đến con người uy quyền, đầu đội vương miện, mình mặc cẩm bào, ngồi trên ngai vàng xét xử trăm họ.Ngày nay, người ta còn nói đến vua xe hơi, vua bóng đá, vua dầu lửa, vua vi tính… Đó là những thần tượng giàu có, sang trọng của con người thời đại. Chúa Giêsu là vua không phải theo kiểu trần thế, vương quyền của Ngài không theo kiểu chính trị. Chúa Giêsu là vua sự thật, vua tình yêu, vua niềm tin.Vương quyền Chúa Giêsu là vương quyền yêu thương, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.
Bài Tin Mừng đưa chúng ta về với Chúa Giêsu trên Thập giá.Vị Vua bị lăng nhục, các thủ lãnh thế gian cười nhạo, lính tráng chế diễu, một trong hai kẻ gian phi cũng tranh thủ nhục mạ. Những lời chế diễu cũng là những thách thức và cám dỗ gay gắt. Chẳng lúc nào Chúa làm Vua rõ ràng bằng lúc này. Tấm bảng trên Thập giá ghi bằng tiếng Hípri, Latinh và Hylạp chữ INRI – Jesus Nazarenus Rex Judaeorum – Giêsu Nadarét là Vua dân Do Thái.
Nhưng kiểu làm Vua của Ngài thật khác thường: không có vương miện mà chỉ có vòng gai, không có cẩm bào mà chỉ có trần trụi nhơ nhuốc, không có câu tán tụng mà chỉ có lời nhạo báng khinh chê. Bị treo trên Thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc rất ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ của Satan buổi đầu: “Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình.Hãy xuống khỏi thập giá” (Mt 27,40). Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là chinh phục được mọi người, từ giới lãnh đạo đến những người chưa tin.Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là có ngay được một thành công rực rỡ. Nhưng Đức Giêsu đã không xuống khỏi Thập giá. Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến. Chính vì Ngài là Con của Chúa Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi Thập giá, như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.
Đức Giêsu không muốn chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác.
Mừng Lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, người Kitô hữu muốn khước từ những thần tượng trần thế, muốn để Ngài làm vua của lòng mình.Người Kitô hữu muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực của cuộc sống: văn chương, khoa học nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội…để xây đắp hoà bình và tình thương cho trần thế.
Vương quốc Chúa Giêsu không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của yêu thương và tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng lại ở trong trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương Thiên Chúa mới thuộc vương quốc của Ngài.
Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố: “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy ngày Giáng Sinh của Đức Giêsu làm cột mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cử chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành: “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.
Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân chưa? Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa? Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta? “Xin nhớ đến con”, chúng ta phải lập đi lập lại lời ấy mỗi ngày trong suốt cuộc sống mình.
Lạy Chúa Giêsu, Vua Tình yêu, Chúa đã yêu thế giới đến nỗi đã ban chính sự sống mình, xin Chúa chiếm trọn con người chúng con từ tư tưởng, lời nói đến việc làm, để chúng con không còn thuộc về thế giới của bóng tối, của tội lỗi, nhưng thuộc về vương quyền của Chúa, là vương quyền của sự sống và chân lý, của ân sủng và thánh thiện, của công lý và hoà bình. Amen.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Có những người mang cái tên họ nhà vua như họ Trần, họ Nguyễn, họ Lý, họ Lê, họ Trịnh, họ Đinh.. Mang cái tên họ hoàng tộc có thể có liên hệ gần hay xa đến hoàng tộc đó, có thể làm người ta hãnh diện hoặc mắc cở với hoàng tộc nào liên hệ. Riêng người công giáo, họ còn thuộc dòng tộc Kitô giáo, mang dòng máu đức tin vào Đức Kitô, vua vũ trụ. Như trong kinh Tiền tụng Chuá nhật Thường niên I, Giáo hội tuyên xưng qua miệng chủ tế: Bởi đó, chúng con được hân hạnh mang danh là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tư tế, là dân thánh, dân riêng của Chúa.
Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô vua. Khi quan Philatô hỏi Chúa Giêsu xem Người có phải là vua dân Do thái không? Chúa trả lời đó là ý tưởng của Philatô. Philatô phải hiểu rằng câu trả lời của Chúa có nghĩa là Ngài chối từ danh hiệu là vua dân Do thái. Tuy nhiên Philatô vẫn cho khắc trên Thánh giá dòng chữ: Đây Là Vua Dân Do Thái (Lc 23:38). Thực ra dòng chữ khắc trên Thánh giá là một tính toán sai lầm của Philatô. Bởi vì các thày cả thượng phẩm trong dân không muốn Chúa Giêsu làm vua của họ. Và Chúa cũng không muốn tước hiệu là vua của dân Do thái. Sau khi chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn vinh Chúa làm vua. Còn Chúa thì lại không muốn can dự vào việc cai trị một vương quốc trần thế.
Vậy thì vương quốc của Đức Kitô là gì và ở đâu? Theo Phúc âm thánh Gioan, Chúa trả lời Philatô rằng: Vương quốc của tôi không thuộc thế gian này (Ga 18:36). Đứng bên Thánh giá Chúa, ta thấy có hai loại người: một loại chế diễu và nhạo báng Chúa, một loại người khác khóc than và thương tiếc Chúa. Trong số những người khóc than và thương tiếc Chúa, có một người Trộm lành, cũng chịu đóng đinh với Chúa, đã nhận ra được tội lỗi mình. Anh ta có lòng kính sợ Chúa và tin vào sự sống vĩnh cửu. Người Trộm lành có tên là Điđimô nhận ra Đức Kitô đích thực là Con Thiên Chúa và là Vua vũ trụ nên đã xin với Chúa: Lạy Ngài Giêsu, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi (Lc 23:42). Bằng lời nói đó, người Trộm lành đã tuyên xưng vương quốc và chấp nhận vương quyền của Chúa. Và Chúa hứa với anh ta: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng (Lc 23:43).
Hôm nay mỗi người cần tự hỏi xem mình có chấp nhận vương quyền của Chúa chưa? Ta có để Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống chưa? Ta đã tuyên xưng và loan truyền vương quốc của Chúa như thế nào? Nhận Chúa làm Vua là việc xem ra dễ dàng. Còn để Chúa làm vua và làm chủ tâm hồn và đời sống mình lại là chuyện khác. Để Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống có nghĩa là gì? Điều đó có nghĩa là để Chúa làm chủ tư tưởng, lời nói, ước muốn và hành động. Còn khi ta bực mình về những sự việc xẩy ra ngoài ý muốn như mưa bão làm hỏng chương trình đi du ngoạn là ta không muốn để Chúa làm chủ đời sống. Để Chúa làm chủ tâm hồn sẽ gặp khó khăn khi ta được thành công. Còn khi gặp thất bại, người ta sẽ nảy sinh ta hai thái độ: hoặc là hận Chúa rồi bỏ Chúa hay phó thác vào Chúa, để Chúa làm chủ. Có những người nghĩ nếu để Chúa làm chủ, họ sẽ mất đi cái tự do. Những ai đã sống theo đường lối vã thánh ý Chúa, chắc hẳn đã cảm nghiệm được thế nào là tự do của con cái Chúa. Cái tự do đó chính là sự bình an trong tâm hồn. Vậy hiện thời thì ai đang làm chủ tâm hồn và đời sống ta? Có phải Chúa làm chủ đời sống hay ta đã để cho tiền tài, danh vọng, thú vui làm chủ? Ta có mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa để quyền năng Chúa có thể biến đồi hay ta vẫn còn chần chừ trong bóng tối của sự chết, tính ích kỷ, đam mê và lười biếng.
Giáo hội thiết lập lễ Chúa Kitô vua để kêu gọi loài người công nhận vương quyền của Chúa trên đời sống cá nhân và gia đình. Lời kêu gọi này rất là cần thiết trong thời đại ta đang sống khi mà những tham lam thế gian và tham vọng trần thế đang lôi kéo tâm trí loài khỏi Thiên Chúa và những lãnh vực thiêng liêng.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Trên trần gian này, có nhiều cách làm vua. Có những vị vua hay tổng thống cai trị đất nước với quyền lực trong tay, ngồi trên ngai vàng và ra lệnh, buộc các thần dân phải tuân phục. Có những vị vua không ngai, không lãnh thổ, nhưng làm chủ một lãnh vực kinh tế nào đó trên thế giới. Họ cũng được gọi là vua, như vua dầu lửa (Rockfeller), vua xe hơi (Ford), v.v…
Hôm nay, Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua, không phải chỉ của thế giới này, mà của toàn vũ trụ. Nhưng chúng ta cần phải xác định xem Ngài là Vua theo nghĩa nào? Vì quả thật Ngài chưa bao giờ làm vua theo kiểu các vua chúa ở trần gian, cũng chưa bao giờ làm chủ một lãnh vực kinh tế nào. Ngài là Vua theo một nghĩa hoàn toàn khác.
Hiện nay trên thế giới, 34,86% nhân loại – tức khoảng 2 tỷ trên 6 tỷ người – là Kitô hữu thuộc nhiều giáo phái khác nhau (Công giáo, Tin Lành, Chính Thống…). Họ là những người theo Ngài, làm môn đệ Ngài, đồng thời nhìn nhận Ngài là lẽ sống, là gương mẫu hoàn hảo nhất cho cuộc đời mình, và coi giáo huấn của Ngài là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Họ theo Ngài chủ yếu không phải vì giáo huấn của Ngài cao siêu, vì nhân cách của Ngài đáng phục nhất (mặc dù họ tin đích thực là như vậy). Họ theo Ngài vì họ tin Ngài là Con Thiên Chúa, là thần linh cao cả vô cùng, lại là người yêu thương họ hơn bất kỳ ai khác trên đời, yêu họ đến nỗi sẵn sàng đau khổ và chết cho họ. Nhất là Ngài là người duy nhất có thể đem lại hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu cho họ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một cảnh tượng cảm động chứng tỏ tình yêu thương vô bờ bến của Ngài đối với nhân loại. Ngài đã chấp nhận một cái chết thật đau khổ và nhục nhã, giữa sự chế giễu của mọi người, vì yêu thương con người. Và câu cuối cùng của bài Tin Mừng là «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng» cho thấy Ngài có khả năng ban hạnh phúc vĩnh cửu cho con người. Ngài có thể ban hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta, cho dẫu chúng ta tội lỗi đến đâu, miễn là chúng ta thành tâm sám hối và liên kết chặt chẽ với Ngài.
Tin và cảm nhận được tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, nhiều Kitô hữu đã tự nguyện đáp lại bằng tình yêu thương của họ. Thế là cuộc đời họ trở nên hạnh phúc và mang một ý nghĩa cao đẹp vì yêu và biết mình được yêu. Tương tự như một cô gái yếu đuối hèn mọn được một chàng trai cao sang để ý yêu thương, yêu thương đến độ sẵn sàng hy sinh tất cả cho mình, kể cả mạng sống. Thế là cô thấy đời mình hạnh phúc và có ý nghĩa hoàn toàn khác trước. Để đáp lại tình yêu cao cả ấy, cô tự nguyện dâng hiến đời mình cho chàng, làm tất cả những gì chàng muốn để chàng được hạnh phúc. Hạnh phúc lớn nhất của nàng là được biết chàng hạnh phúc, vì chính chàng cũng đối xử như thế với nàng. Chàng trở thành vua lòng nàng, và nàng trở thành hoàng hậu của lòng chàng.
Biết bao Kitô hữu trên đời đã có một tình yêu song phương như thế đối với Đức Giêsu. Đối với họ, Đức Giêsu chính là vị Vua duy nhất của lòng họ, chiếm trọn vẹn trái tim họ. Họ đã hiến trọn cuộc đời mình để phụng sự Ngài nơi những hiện thân cụ thể của Ngài là những người chung quanh họ, những người họ gặp trong cuộc đời, nhất là những người nghèo khổ nhất, bị bỏ rơi hoặc chịu áp bức bất công nhất trên đời.
Với họ, tình yêu đối với Đức Giêsu được biến thành tình yêu đối với tha nhân. Vì Đức Giêsu đã nhiều lần tự đồng hóa Ngài với những người nhỏ bé nhất, đau khổ nhất trên đời (xem Mt 25,40.45; 10,40; 18,5; Lc 10,16). Hai tình yêu ấy chỉ là hai mặt khác nhau của một tình yêu duy nhất. Đối với họ, sự phân biệt giữa yêu Đức Giêsu và yêu tha nhân chỉ có trong lý thuyết chứ không có trong thực tế của đời sống. Nghĩa là yêu Đức Giêsu thì tất nhiên phải yêu tha nhân, và yêu tha nhân chính là yêu Đức Giêsu. Họ đã yêu Ngài, và phụng sự Ngài trong tha nhân đến mức sẵn sàng chịu tất cả mọi đau khổ có thể xảy đến, thậm chí hy sinh mạng sống mình (điển hình: gương của 2 linh mục Ba Lan Maximilianô Kôlbê và Jerzy Pôpiêlúskô).
Nếu phải tranh luận về thần học xem Đức Giêsu có phải là Vua của nhân loại, của vũ trụ không, thì chắc chắn biết bao người trong chúng ta sẽ tỏ ra hăng say nhiệt tình như thể sẵn sàng sống chết để bảo vệ luận điểm ấy. Nhưng nếu phải tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân ta chưa, nghĩa là đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa, thì chắc chắn rất nhiều người sẽ phải ngập ngừng, hoặc phải trả lời «CHƯA!» Thực tế thật đau lòng: Ngài là Vua của cả vũ trụ, nhưng đời sống và cách hành xử của ta lại chứng tỏ Ngài chưa phải là Vua của chính bản thân ta! Chân lý kia chỉ được ta công nhận trên lý thuyết, chứ không trở thành thực tế trong đời sống. Trong thực tế, vua của tâm hồn ta, thường xuyên ảnh hưởng mạnh mẽ đến những động lực của ta không phải là Ngài, mà là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta!
Nói một cách cụ thể hơn, nhiều khi miệng chúng ta tuyên xưng rất mạnh mẽ rằng Đức Giêsu là Vua của cả vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của toàn nhân loại, đồng thời kết án và tẩy chay những ai tuyên xưng bằng miệng khác với chúng ta, dẫu chỉ là một chút… Nhưng hành động và cách cư xử của chúng ta đối với mọi người lại tuyên xưng rất rõ ràng rằng tiền hay quyền bính mới là Vua của vũ trụ, mới là đấng cứu độ duy nhất của nhân loại! Thế mà chẳng ai kết án ta cả?! Liệu tuyên xưng kiểu ấy có phù hợp với tinh thần Kitô giáo chăng? Dẫu sao, ta có thể chắc chắn một điều là: nó không phù hợp với tinh thần của Đức Giêsu.
Nếu Ngài chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng hùng hồn kia ấy có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của tổng thống Bush: «Show, but don’t tell!»: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói xuông!
Trong ngày sau cùng, khi Đức Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài sẽ không thèm hỏi ta đã chấp nhận và tuyên xưng những giáo điều nào, những luận điểm nào, hay đã tuyên xưng Ngài là Vua của cả vũ trụ chưa… Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?
Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là «người khôn ngoan xây nhà trên đá» (Mt 7,24). Nhân dịp này, ta thử xét lại xem cách sống đạo hiện tại của chúng ta là «xây nhà trên đá» hay «trên cát»?
Cầu nguyện
Lạy Cha, từ xưa đến nay, con luôn luôn xưng tụng Đức Giêsu là Vua của nhân loại, của vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Nhưng hành động của con, cách cư xử và đời sống của con dường như muốn nói rằng không phải như thế. Xin Cha hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn nữa, để con đủ can đảm sống đúng những điều con tuyên xưng. Con xin bắt đầu việc tuyên xưng Đức Giêsu là Vua từ ngay trong bản thân con, qua chính cách sống và hành động của con, chứ không phải từ bên ngoài và lời nói xuông. Amen.
ĐỨC VUA CŨNG LÀ ĐẤNG CỨU THẾ CHỊU ĐÓNG ĐINH
1.- Ngữ cảnh
Đây là đoạn văn trích từ bài tường thuật của tác giả Luca về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu. Trong bản văn này, Đức Giêsu đã đến điểm chung kết số phận Người; cuộc “xuất hành” của Người (9,31) đi từ cuộc đời này đã đưa Người đến chặng cuối này. Người đã bị đóng đinh tại nơi gọi là “Cái Sọ” giữa hai tên gian phi (23,33). “Quyền lực tối tăm” (22,53) đã khép lại trên Người. Bây giờ, đến lúc các thủ lãnh và lính Rôma sỉ vả Người. Nhưng cũng trong tình cảnh này, Người được chính thức gọi là “vua dân Do Thái”.
Tiếp nối cảnh tang thương này, là một bản văn chỉ có trong TM III: một tên gian phi nhục mạ Người, nhưng tên kia đã mắng lại vì nhận biết sự vô tội của Đức Giêsu và xin Người nhớ đến anh. Đức Giêsu đã ban một lời hứa thật đẹp.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng đối với Đức Giêsu (23,35-38);
2) Hai tên gian phi đối với Đức Giêsu (23,39-43).
3.- Vài điểm chú giải
– Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo (35): Theo thói quen của ngài, tác giả Lc không trích nguyên văn bản văn Kinh Thánh, nhưng bản văn thánh vẫn bàng bạc trong bài tường thuật. Ở c. 35 này, chúng ta có thể nhận ra Tv 22,8 LXX (“Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai” [Bd CGKPV]): “Hễ thấy (theôrountes) tôi là họ nhạo cười (exemyktêrisan), họ trề môi, họ lắc đầu” (NTT), vì Lc 23,35 dùng lại hai động từ này: “Dân chúng đứng nhìn (theôrôn), còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo (exemyktêrizon)”. Bằng cách này, tác giả cho thấy là quang cảnh này lại hoàn tất Kinh Thánh cách bí nhiệm.
– Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được Chúa tuyển chọn (35): “Đấng Kitô của Thiên Chúa” là danh hiệu vương giả; “người được Chúa tuyển chọn” là danh hiệu của Đấng Mêsia.
– đưa giấm cho Người uống (36): Oxos (do tính từ oxys, “cay”) được dùng trong vùng đông Địa Trung Hải thời cổ. Đây là một thứ rượu chua, hoặc cay, khác với oinos là rượu ngọt. Ta không rõ vì sao người ta lại cho Đức Giêsu uống thứ rượu này, chỉ biết là Lc đã bỏ đi thứ “rượu pha mộc dược” nhằm giảm đau (esmyrnismenon oinon) trong Mt 15,23.
– Nếu ông là vua dân Do Thái (37): Câu này gợi ý tới lời quan Philatô hỏi Đức Giêsu (23,3) cũng như tới tấm biển ghi bản án trên thập giá (23,38).
– Chúng ta chịu như thế này là đích đáng (41): Tên gian phi thứ hai nhìn nhận tội mình, và như thế là mặc nhiên diễn tả tâm tình metanoia (hoán cải) trước nhan Thiên Chúa.
– hôm nay, anh sẽ được ở với tôi (43): “Hôm nay” đây không phải là “ngày đóng đinh theo lịch”, nhưng là ngày “ơn cứu độ thiên sai được ban”, đặc biệt nhờ cái chết của Đức Giêsu.
– thiên đàng (43): Danh từ Hy Lạp paradeisos lấy từ tiếng Ba Tư cổ (pairidaêza) được dùng ba lần trong Kinh Thánh với nghĩa là một khu vườn có cây cối (Dc 4,13; Nkm 2,8; Gv 2,5). Bản LXX đã dịch “khu vườn” ở Êđen là paradeisos (St 2,8.9.210.15.16; 3,1…). Người Do Thái diễn tả thế giới bên kia bằng những công thức liên hệ đến không gian: “sheol” hoặc nơi cư ngụ của tất cả những người đã chết, “lòng Abraham” hoặc “thiên đàng”, là nơi mà những người công chính quây quần quanh các tổ phụ mà chờ đợi được nhận vinh quang trọn vẹn vào lúc tận thế.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Vào lúc Đức Giêsu chào đời, thần sứ Chúa đã loan báo: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Như thế, ngay từ khi mới xuất hiện, Đức Giêsu đã có một nhiệm vụ lớn lao. Ngay từ đầu, câu hỏi này đã được nêu ra: Đức Giêsu sẽ thực hiện nhiệm vụ này như thế nào? Người có ở ngang tầm với mọi tình cảnh bần khốn của con người chăng? Phải chăng Người là Đức Kitô, là Đức Vua vĩnh viễn được Thiên Chúa sai phái đến, để đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn?
Câu hỏi này được đặt ra hết sức trầm trọng sau khi Đức Giêsu bị đóng đinh, không phải là đặt ra trên bàn giấy, trong cuộc tranh luận, nhưng được ném ra cho Đức Giêsu đang ở trên thập giá, giữa hai tên gian phi. Toàn bản văn được đặt dưới dấu chỉ là “đức vua”, có khi là đối tượng cho người ta mỉa mai (cc. 35-39), có khi là đối tượng cho người ta tin tưởng để rồi được ban thưởng (cc. 40-43).
* Dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng đối với Đức Giêsu (35-38)
Trước tiên, có đoàn dân chúng. Họ có vẻ không hiểu những gì đang xảy ra. Rất có thể họ đang tự hỏi làm thế nào mà con người đã không kháng cư lại cái chết lại có thể là đức vua bao đời mong đợi và nếu Người là vị vua ấy, tại sao Thiên Chúa không cứu Người? Chúng ta biết tác giả Lc vẫn có thiện cảm với những người nghèo nhất, những người cùng rốt. Ngài cho thấy dân chúng đứng lặng thinh và cho biết rằng họ không chịu trách nhiệm về cái chết của Đức Giêsu. Một vài câu sau, ngài sẽ nhận xét: “Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về” (c. 48). Những con người này có thể đại diện cho tất cả những người có thiện chí đang muốn hiểu được chương trình của Thiên Chúa, nhưng không thể được, vì những người có thể soi sáng cho họ đều mù quáng và không ý thức về điều dữ họ đang làm.
Dưới chân thập giá, cũng có các nhà lãnh đạo, các đối thủ của Đức Giêsu, những người chịu trách nhiệm về cái chết của Người. Bây giờ họ chỉ còn có thể chế nhạo Người về biết bao tự phụ và điên rồ mà Người đã chứng tỏ trước đây thôi. Một kẻ đã bị buộc phải đi đến thập giá và bị người ta làm cho mình tất cả những gì mình không muốn, có thể nào lại là Đức Vua Cứu thế được Thiên Chúa gửi đến? Đáng giá gì một Đức Kitô mà đến việc cứu chính mình khỏi chết cũng không làm nổi? Nếu ý đồ của hắn ta là thật, hắn chỉ việc chứng minh ngay bây giờ đi!
Câu nói chế nhạo sau đây trở đi trở lại như một điệp khúc: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi”; “Nếu ông là Đấng Kitô thì hãy chứng tỏ sức mạnh của mình đi!”. Các lời này, các thủ lãnh nói ra để sỉ vả Người. Thật ra, khi vừa bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã bị Satan cám dỗ như thế (4,3), rồi tại Nadarét, Người cũng đã bị yêu cầu như vậy (4,23); nay là tại chặng chót của hành trình trần thế.
Còn một nhóm thứ ba có mặt là toán lính. Họ cũng là những người nghèo, nên vì một ít tiền bạc, có thể dùng vũ lực để áp đảo những người có lối ăn nói, thói tục và tôn giáo khác họ. Họ có tội, nhưng họ cũng là nạn nhân của sự điên rồ của các sĩ quan của họ; họ phải vâng lệnh. Họ đóng kịch như dâng rượu lên đức vua, để chế nhạo Người. Ngay cả tấm biển ghi bản án, “Đây là vua dân Do Thái”, thật ra là một cái nhãn hiệu đầy mỉa mai do quan Philatô tạo ra (x. Ga 19,15.19.22). Tên gian phi thứ nhất cũng yêu cầu được cứu với giọng cay độc. Thập giá đặt một dấu chấm hỏi to lớn trên tất cả công trình trước đây của Đức Giêsu. Thập giá dường như đã bác bỏ cao vọng của Người. Một con người đã bị đóng cứng trên thập giá và sắp chết thì còn có thể giúp đỡ ai? Trong bầu khí đen tối này, chi tiết: “Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về” (c. 48), là chi tiết đầy an ủi và hy vọng.
Trước tất cả những lời sỉ nhục và thách thức đó, Đức Giêsu không trả lời một tiếng nào.
* Hai tên gian phi đối với Đức Giêsu (39-43)
Một tên gian phi cũng cùng với tập thể kia hòa lời mỉa mai sỉ nhục Đức Giêsu. Thế nhưng tên gian phi thứ hai lại trách bạn mình. Anh nhìn nhận tội lỗi mình và nhìn nhận cái chết thập giá dành cho mình là xứng đáng, nhưng anh tuyên bố Đức Giêsu vô tội. Chẳng những thế, anh còn công nhận rằng con người bị đóng đinh và bị chế giễu này, con người không xuống khỏi thập giá dù bị thách thức, chính là Đức Vua Cứu thế. Anh đã diễn tả lòng tin vào Đức Giêsu như Đấng Mêsia vương giả bằng lời thỉnh cầu: “Khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi”; lòng tin này được bày tỏ với một tình yêu đặc biệt qua lời kêu cầu rất thân thương: “Giêsu ơi!”. Anh ta không xin Đức Giêsu cứu cho khỏi chết, vì anh chấp nhận cái chết như là hình phạt đích đáng. Nhưng anh xác tín rằng Đức Giêsu không chấm dứt cuộc đời với cái chết, mà qua cái chết, Người sẽ đi vào trong vương quốc Người. Anh tin rằng Đức Giêsu cứu người ta không phải chỉ là khỏi cái chết, nhưng là đưa sang bên kia cái chết. Như thế, câu viết trên bản án đầy vẻ bôi bác, “Đây là vua dân Do Thái”, lại đạt được nội dung đích thực: Đức Giêsu đúng là Vua Cứu thế; Người đi vào vương quốc của Người và đưa vào đó tất cả những ai tín thác nơi Người.
Với anh gian phi này, Đức Giêsu trả lời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Qua câu nói này, Người cho hiểu rằng, với cái chết, Người sẽ đi vào trong sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa; nhưng cũng cho hiểu rằng chính Người quyết định ai sẽ vào đó với Người: chính Người bố trí để đưa người ta đi vào hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.
+ Kết luận
Tất cả những điều xảy ra trên Núi Sọ hôm ấy có thể được nhìn theo theo nhiều quan điểm: đối với các thủ lãnh, đây là một thành công vì họ đã trừ khử được một kẻ lâu nay cứ ngáng đường họ. Đối với dân chúng, dường như họ còn chờ đợi để hiểu rõ biến cố này hơn. Nhưng đối với tác giả Lc khi suy gẫm về câu chuyện này, thì đây là chương trình của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh nay đã hoàn tất.
Ngoài ra, tư cách “Vua” của Đức Giêsu, điều mà các thủ lãnh và lính tráng đưa ra làm trò cười bởi vì họ chỉ đầy ứ sự căm hờn và mỉa mai, lại đã được khẳng định tích cực khi người gian phi thứ hai lấy đức tin nhìn nhận Người và được Người hứa cho vào thiên đàng, “Nước của Ngài”. Cho đến chết, Người vẫn là Đấng cứu độ những người tội lỗi.
Chúng ta ghi nhận trong mỗi phân đoạn có một cảnh đối lập:
– Trong phân đoạn 1: Trong khi dân chúng đứng nhìn (rồi họ sẽ hoán cải: c. 38), các thủ lãnh và lính tráng lại chế giễu Đức Giêsu;
– Trong phân đoạn 2: Trong khi tên gian phi thứ nhất nhục mạ Người, tên gian phi thứ hai lại tin tưởng trao phó cuộc đời cho Người.
5.- Gợi ý suy niệm
Lễ Đức Kitô Vua là một ngày lễ rất gần đây bởi vì lễ này đã cử hành lần đầu tiên năm 1925. Những canh tân phụng vụ thời nào cũng có. Thật vậy, việc cử hành thật sự vương quyền của Đức Giêsu là ngày lễ Thăng Thiên: Nhưng, trong Chúa nhật cuối cùng này của năm phụng vụ, chúng ta chiêm niệm “Triều đại của Thiên Chúa” đến từ từ xuyên qua, lịch sử và đạt đến sự thực hiện viên mãn vào thời cách chung.
Để mừng lễ Đức Kitô Vua chúng ta, một cách rất nghịch lý, Giáo Hội đưa ra cho chúng ta cảnh tượng mà Đức Giêsu khai mạc triều đại của Người: ngai vàng của Người là thập giá. Vương miện Người là một vòng gai làm đổ máu khuôn mặt Người… lễ phong vương của Người là một “danh hiệu” của việc kết án tử được đóng đinh bên trên đầu Người. “Đây là vua dân Do Thái! Hai chứng nhân, hai nam tước của Người, là hai tên gian phi bị kết án với Người.
Nghịch lý cao cả của Tin Mừng! Vua ư? Phải! Nhưng chắc chắn không như cách hiểu của những người hoặc muốn đứng về phe Người để hoan hô tôn phong Người hoặc là những đối thủ của Người để lên án Người. Vua “theo cách của Thiên Chúa”!
Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm. Dân chúng đứng nhìn.
Vậy đây là đinh điểm!
Đó là “đỉnh núi” của Tin Mừng. Sau “Núi Bát Phúc” nơi Đức Giêsu lần đầu tiên công bố sứ điệp của Người… sau “Núi Ta-bo” nơi Đức Giêsu biến hình và nhận sự tấn phong của Chúa Cha: “Đây là Con Ta. Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”. Đây là đỉnh điểm thứ ba và cao siêu của Tin Mừng. Ở cổng vào thành phố Giê-ru-sa-lem và gần cổng Ép-ra-im, trong một nơi khai thác đá cũ những thợ khai thác đá còn để lại tại chỗ một tảng đá cứng hơn chỗ khác, một khối đá biệt lập cao khoảng 5 mét. Đối với mọi người, đó là “Golgotha”, từ này có nghĩa là cái sọ (tiếng Hy-lạp là Kranion; tiếng La-tinh là Calvanô) vì hình dạng của tảng đá. Một truyền thuyết lâu đời cho rằng đó là cái sọ của A-đam được chôn cất mãi mãi ở đó! Đỉnh núi ấy của Tin Mừng là một ngọn “núi trọc”, một ngọn núi “cô độc”. Một nơi buồn thảm: một miếng đất nhỏ xíu, cao hơn mặt đất dùng để đặt giá treo cổ những tử tội, gần con đường có nhiều người đi qua, để mọi người có thể nhìn thấy các tội nhân bị hành hình và lấy đó mà làm gương!
Thật vậy đám đông đang ở đó… và nhìn… ao ước nhìn! Ở đây, Luca dùng một từ rất có ý nghĩa: Ngài không dùng từ “đám đông”, nhưng dùng từ “dân chúng” (tiếng Hy-lạp là saos), một từ thường dùng để chỉ “dân Thiên Chúa”. Cũng từ ấy dùng để nói “toàn dân say mê nghe Người giảng dạy trong Đền Thờ” (Lc 19,48) trong lúc mà các thượng tế và kinh sư cả các thân hào trong dân tìm cách giết Người (Lc 19,47). Luca thường ghi nhận rằng đối với Đức Giêsu, “dân chúng” khác với các thân hào (Lc 20,1 -20,45 – 21,38)
“Và dân chúng đứng nhìn” như biến cố làm họ chán ngán. Sự im lặng của dân chúng rất ấn tượng. Dân chúng Israel hiền lành không còn hiểu gì cả. Họ đã chờ đợi Đấng Mêsia như một “ông vua”, một vua Đa-vít mới. Trong lịch sử của họ, vương quyền không kéo dài được bao lâu và các ông vua của họ, không phải thiếu nhưng không có được tầm cỡ của vua Đavít và Salômôn; nhưng đó là thời kỳ huy hoàng của Israel. Từ nhiều thế kỷ, họ đã không ngừng mơ ước có một vị vua là Đấng Mêsia, hưng thịnh, chiến thắng kẻ thù làm vị thẩm phân của Thiên Chúa. Vâng họ cứ ngỡ rằng Đức Giêsu đến để “phục hưng vương quyền của Israel”. Họ đã thử tôn Người lên làm vua”: Người lại tránh né (Ga 6,15; Lc 19,38). Và giờ đây, Người kia kìa, bị kết án tử hình! Còn dân chúng đứng nhìn.
Còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”
Khác với những người dân đen đang đứng nhìn, đã hẳn, ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng. Các thủ lãnh cười nhạo và buông lời thách thức. Thách đố của họ là Đức Giêsu hãy tỏ vương quyền của Người là Đấng Mêsia. Đấng được Thiên Chúa xức dầu là một danh hiệu vương đế bởi vì các vua Israel được gọi như thế, và quả thực đã “thánh hiến” bởi dầu thánh, (Chrême) làm họ trở thành những Đức Kitô (tiếng Hy-lạp Christos dịch từ tiếng Mêsia trong tiếng Do Thái). Nếu Đức Giêsu là Đức Kitô, Đấng được tuyển chọn (từ này lấy trong sách Isai-a 42,1) nếu Người là Cứu Chúa của thế gian trước tiên Người phải tự cứu lấy mình.
Những lời gào la chế nhạo ấy là tiếng vang của những lời ma quỷ cám dỗ trong sa mạc lúc Đức Giêsu bắt đầu đời sống công khai của Người (Lc 4,3); cũng là tiếng vang của những lời chê trách mà các người đồng hương Nagiarét đã nói với Người: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình” (Lc 4,23) Trong thế giới hiện đại của chúng ta, “những kẻ thế thạo Thiên Chúa” không còn lớn tiếng như thế, nhưng chẳng phải vẫn luôn có cùng một vấn đề, cùng một lời khinh chê: “Thiên Chúa phải tỏ mình ra đi, cho người ta thấy! Phải hiện ra đi, nếu Người hiện diện! Và câu trả lời của Thiên Chúa vẫn luôn là câu trả lời của Đức Giêsu: Người im lặng và không can thiệp vào bình diện các sự vật trần thế mà Người để chúng tồn tại hoàn toàn tự lập. Người không biện hộ cho mình. Người để cho mình bị lên án là bất lực và không hiện hữu. Đức Giêsu, cũng như Thiên Chúa, không bao giờ nhượng bộ sự cám dỗ để “hành động vì mình”, sử dụng sự Toàn Năng của mình chỉ vì chính mình.
Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi!”
Đó là những binh sĩ La Mã, những dân ngoại trong đoàn quân xâm lăng; họ dùng từ “vua” mà họ nhìn thấy ghi phía trên đầu Người. Một sự chế giễu cao siêu lại một lần nữa nhắm vào kẻ bị loại trừ đó, bị treo trên thập giá… thở khò khè chờ tắt thở!
Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do thái”.
Nghi lễ lên ngôi của các ông vua bao gồm một bản phong vương: một Thượng tế nhân danh Thiên Chúa ban cho nhà vua “danh hiệu” của vua, như người ta thấy trong Thánh Vịnh 109: “Ngày đăng quang con nắm tuyển thủ lĩnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh con”.
Ở đây bên trên “ngai vàng” ứng biến là thập giá, bản án dùng làm bản phong vương, giống như Lời của Chúa Cha tấn phong Con Người trên sông Giođan ngày Người chịu phép rửa: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Trong Tin Mừng thánh Luca, bản án trên thập giá không được trình bày như một “lời lên án”. Đức Giêsu đã được giới thiệu như một ông vua, nhưng “Nước Người không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Trong một sứ vụ của Người, Người đã hết sức cẩn thận không cho người ta giải thích sứ vụ của Người theo nghĩa chính trị. Vương quyền của Người được thiết lập ở trần thế nhưng không cạnh tranh với “các vương quốc hoặc hệ thống chính trị trần thế”. Thập giá ấy, ngai vàng ấy, danh hiệu ấy đã làm tan tành mọi niềm hy vọng hoang tưởng của chủ nghĩa Đấng Mêsia vua dân Israel.
Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Câu chuyện của Luca được xây dựng theo kiểu bi kịch, trong sự căng thẳng tăng lên dần: dân chúng đứng “nhìn”, các thủ lãnh “cười nhạo”, lính tráng “chế giễu”, những tên gian phi “nhục mạ”.
Luật của Môsê đòi phải có “hai chứng nhân” để mọi hành động trở thành hợp pháp. Như thế, các chứng nhân của việc tôn phong Chúa: Biến hình là hai nhân vật chính của Cựu ước. Môsê và Êlia (Lc 9, 28.36). Hai chứng nhân của sự sống lại sẽ là hai người lữ hành dễ thương và bí hiểm trên đường trở về Emmau (Lc 24,18), trước đó ít lâu là hai chứng nhân không kém huyền bí của Ngôi Mộ trống (Lc 24,4). Nhưng ở đây, hai chứng nhân cho sự lên ngôi ở Núi Sọ chỉ là hai tên cướp tầm thường. Đức Giêsu, vị vua bị nhạo báng đến cùng!
Đức Giêsu, vị vua của ngày thứ Sáu Tuần Thánh là một vị vua bị bóp méo xuyên tạc mà người ta ngần ngại chỉ ra như một người bị nhạo báng, trần truồng, bị khạc nhổ và đầy những vết thương đẫm máu, hai bên có hai tên gian phi.
Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”
Trong tiếng ồn ào của sự khinh bỉ chung, đây là một tiếng nói yếu ớt và nghèo nàn dám nói chen vào. Chính Đức Maria ở dưới chân thập giá đã nghe được và đã thuật lại cho Luca, là người duy nhất đã kể lại cho chúng ta. Luca vị thánh sử của lòng “nhân hậu” và của những “người nghèo hèn” đã phải vui mừng đặc biệt về việc này. Triều Đại của Đức Ki tô, Nước Thiên Chúa chỉ mở ra cho những người “hối cải”. Đối với Đức Kitô, cách thực thi vương quyền của Người trên mọi người, kể cả những kẻ thù của Người, chính là ban cho họ ơn tha thứ (Lc 23, 34.43); một sự tha thứ không hạn chế? Để vào được Nước Chúa, không cần điều lớn lao là “công chính”. Người tội lỗi cũng có chỗ trong Nước Chúa với một điều kiện duy nhất: đón nhận ơn tha thứ mà Thiên Chúa lúc nào cũng ban cho chúng ta. Người đầu tiên sống sự hòa giải hoàn vũ này là một “kẻ cắp”, kẻ đã biết nhận ra tội lỗi của mình và đồng thời công bố sự vô tội của Đức Giêsu.
Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”
Đức Giêsu đúng là “Ađam mới”, giúp nhân loại về lại địa đàng đã mất. Chia sẻ “cùng một nỗi khổ cực như Đức Giêsu, chết, đó là bắt đầu “sống với Đức Giêsu”.
TRÊN THẬP GIÁ, KHI BAN ƠN THA THỨ CHO MỘT NGƯỜI BẠN CÙNG CHỊU KHỔ HÌNH VỚI MÌNH.
ĐỨC GIÊSU KHAI TRƯƠNG TRIỀU ĐẠI CỦA NGƯỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Khi đến nơi gọi là “Đồi sọ”, hay đồi Canvê, Đức Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, cùng lúc vởi hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái”. Người vừa mới xin ơn tha thứ cho những tên lính có nhiệm vụ hành quyết Người, và họ cũng đã chia nhau xong những tấm áo của Người.
Đang lúc dân chúng đứng “nhìn” thì “những lời nhục mạ” hai chi tiết này cùng ứng nghiệm lời Thánh Vịnh 21 – được “xổ” ra từ phía các thủ lãnh Do Thái, binh lính và một tên gian phi. Những lời nhục mạ của họ mang hình thức một bộ ba cám dỗ như dư âm của những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu đã chiến thắng hồi Người mởi bắt đầu thi hành sứ vụ. Thời ‘Lc 4,13’ cho cuộc chiến đấu cuối cùng nay đã tới.
Các “thủ lãnh” Do Thái diễn đạt tư tưởng cùng một kiểu như quỷ sa tan đã dùng xưa khi cám dỗ Chúa ở trong hoang địa: “Hắn hãy cứu lấy mình đi nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Người được tuyển chọn”; hắn hãy dùng quyền mình có mà mưu ích cho mình đi!
“Lính tráng” cũng dựa vào bản án xử tội gắn trên đầu người mà chế giễu Người rằng: “Nếu ông, là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”.
Sau cùng, “một trong hai tên gian phi” lặp lại cùng một điệp khúc, tiếp thêm mấy lời là cứu cả chúng tôi với. Nếu Đức Giêsu yên lặng từ chối cho mình hưởng ơn cứu độ theo đúng nghĩa là ơn giải thoát, liệu người có thể từ chối cứu thoát kẻ khác chăng, bởi lẽ Người “chỉ có thể tỏ mình là Đức Kitô thực sự khi thực thi quyền năng của mình để cứu thoát người ta” (cf. Dupont).
Thế rồi, xen giữa những lời phỉ báng nhạo cười, thì một tiếng nói khác cất lên, khác vởi các tiếng nói kia, tiếng nói của một tên gian phi khác.
Anh chính là điển hình cho con người hối cải, con người khốn khổ biết nhìn nhận mình có tội và chịu nhận hình phạt. Anh trả lời người bạn nhục mạ Chúa Giêsu: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Cùng lúc ấy anh tuyên xưng Chúa Giêsu vô tội: “Ông này đâu có làm điều gì trái”. Hơn nữa, đang khi mọi người chế giễu tư cách là Đấng Mêsia và là Vua của Người, thì chính anh lại lên tiếng tuyên xưng niềm tin vào ông Giêsu này là Đấng Mêsia vua, mà vẫn nghĩ rằng quyền cứu thoát của Người sẽ chỉ được tỏ ra vào lúc tận cùng thời gian: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”.
Đáp lời anh thỉnh nguyện, Chúa Giêsu long trọng loan báo cho anh ơn giải thoát: “Tôi bảo thật anh…”. Và ơn giải thoát Chúa báo cho anh đây, không phải chỉ xảy ra vào cuối thời gian, mà diễn ra ngay “hôm nay”: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Thiên đàng theo truyền thống Do Thái là nơi tượng trưng bằng cây sự sống mà tất cả những ai sau khi chết được Chúa xét là công chính sẽ được hưởng.
Thiên đàng ấy anh sắp được biết nó rồi, và cốt lõi của nơi hạnh phúc và được sống mãi ấy, chính là được “ở với Người” là Đức Giêsu. J. Dupont kết luận: “Như thế, Đức Giêsu đã trả lời thách thức là coi khinh tất cả những gì mà người ta đã nhục mạ Người trước đó; Người đã cứu thoát một tên gian phi, một con người, không phải bằng cách cứu cho anh khỏi cái chết đời này, nhưng làm cho anh biết dùng cuộc sống này như bước vượt qua tiến đến sự sống thật và hạnh phúc thật “.
BÀI ĐỌC THÊM:
(“Missel Emmaus”, trg 1l58).
Cuộc đời Đức Kitô được hoàn tất trên thập giá. Vì thế một vấn đề căn bản được đặt ra, vấn đề tách biệt ai là kẻ tin và ai là người không tin.
Cuộc đời Người là một thất bại ư? Ngay cả một số người vốn ngưỡng mộ Người cũng nghĩ như thế. Đối với họ, Đức Giêsu là một người có một nhân cách tuyệt vời đấy. Nhưng Người đã sống trên một giấc mơ đã sụp đổ. Bất công đã chiến thắng và vẫn tiếp tục chiến thăng trong thế giới của ta đây. Rất tiếc nhưng đó là một thực tế.
Cũng là thất bại, dưới con mắt của những kẻ chống đối Người. Nhung con người này tỏ ra vui mừng, nhân danh lạc thú của họ, hoặc nhân danh Lề Luật là cả chính tôn giáo nữa.
Thế mà kìa, anh chàng bị đóng đinh bên cạnh Đức Giêsu, một tên cướp, lại đang mở to mắt, ngỡ ngàng: ông này là ai vậy, mà phải chết như thế này? Nơi anh đang diễn ra cảnh đảo lộn cả một khung trời anh đang sống. Với con người như thế, Đức Giêsu, mặc dầu đang hấp hối lại dám hứa rằng: “Hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng”. Ảo tưởng hết chỗ nói chăng? Hay là vén màn lên cho thấy một thực tại không thể ngờ được?
Đối với người có lòng tin, thì đây chính là thời điểm quang vinh. Tình thương đã chứng tỏ mạnh hơn hận thù. Triều đại của Đức Giêsu bắt đầu.
Phục vụ Đức Kitô-vua, chẳng có sức mạnh nào cưỡng ép được nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực của tình thương. Quyền lực của Người tuy là vô biên, nhưng lây lan dần nhờ những đốm lửa nhỏ của Tình yêu.
Đức Giêsu bị ngay cả những người cùng chịu khổ hình với mình khinh chê, nhục mạ, sỉ nhục đến thế là cùng. Thế nhưng, giờ đây lại xảy ra một sự đảo ngược tình thế lạ lùng: một trong hai tên gian phi từ chối hùa theo những lời xúc phạm mà tên kia tuôn ra; anh thú nhận cả hai đều có tội, nhìn nhận Đức Giêsu vô tội, rồi diễn tả lòng tin của anh bằng lời thỉnh cầu khiêm tốn. Đức Giêsu đáp lại lòng tin này bằng cách báo cho anh biết anh sẽ được như lời thỉnh cầu ngay lúc ấy: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (23,43).
Chính bằng cách đó, Luca đã chứng thực hiệu quả hy lễ của Đức Giêsu: thập giá Đức Giêsu biến đổi thế giới, khi làm nẩy sinh ơn sám hối nơi các tâm hồn và mở cửa thiên đàng cho họ. Cùng vởi người trộm lành, chính mỗi người chúng ta phải coi mình như được mời gọi gẫm suy cho kỹ những đau khổ của Đức Giêsu và tự vấn lương tâm: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng… chứ ông này, đâu có làm điều gì trái” (23,41).
Vừa khơi dậy lòng sám hối thập giá Đức Kitô còn làm nẩy sinh sự đổi mới lạ lùng với lòng tin cậy của trẻ thơ: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (23,42). Và câu trả lời của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng lòng tin tưởng của trẻ thơ kia hoàn toàn có cơ sở Đấng Chịu-đóng-đinh đang mở toang mọi cánh cửa của lòng thương xót (cf. Lc 6,36; 18,9-14): Người thực hiện điều mà tên gian phi thứ nhất kia đã thách thức Người làm, nhưng ở một bình diện hoàn toàn khác, bình diện thiêng liêng, nơi tâm hồn: “Ông hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với” (23,39).
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo)
Năm phụng vụ kết thúc với lễ Đức Kitô Vua vũ trụ. Nhưng Chúa Kitô làm vua như thế nào? Vương quốc Người ở đâu?
Trong suốt cuộc đời của Người, Chúa Giêsu chưa hề một lần ngồi trên ngai vàng. Người không hề làm vua một quốc gia hay một mảnh đất nào, dù là như một ông vua lưu vong. Có một lần đám đông dân chúng phấn khởi vì Người đã làm phép lạ cho họ ăn uống no nê, đã muốn tôn Người làm vua nhưng Người đã trốn khỏi họ. Cũng có lần người ta gọi Người là vua dân Do Thái nhưng là để nhạo báng Người. Lúc đó Người chỉ là một tên tử tội. Bọn quân lính đặt Người ngồi lên ghế, khoác cho Người chiếc cẩm bào là tấm áo choàng đỏ, đặt lên đầu Người một vòng gai như vương miện và bắt cầm cây sậy làm phủ việt, rồi họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: “Vạn tuế Đức Vua dân Do Thái!” (x. Mt 27, 27-29) Trước lời vặn hỏi của quan tổng trấn Philatô, Đức Giêsu đã nhận mình là vua, nhưng để tránh mọi ngộ nhận, Người tuyên bố: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. ” (Ga 18, 36). Nhưng trong sách Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Maccô, tước hiệu “vua dân Do Thái” chính là một lý do người ta trưng ra để kết án Chúa Giêsu.
Cuộc đời trần thế của Đức Giêsu đã chấm dứt trên thập giá. Bài Tin Mừng Lc 23, 35-43 trong ngày lễ năm C giới thiệu Chúa Kitô Vua của chúng ta đang bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp. Các đối thủ của Người muốn nói gì qua cách hành xử này thì đã quá rõ. “Hắn ta xưng mình là vua, nhưng vua cái nỗi gì, chỉ là một tên bịp bợm không hơn không kém, chỉ đáng chết như một tên gian phi mà thôi. “
Chọn đoạn Tin Mừng này mà đọc trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, thật cũng lạ thường. Nhưng chính cái lạ thường đó lại giúp ta hiểu đúng, hiểu rõ hơn Chúa Giêsu làm vua như thế nào và Nước của Người là gì?
Trên thập giá, chính Chúa đã phong thánh cho một trong hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người. Anh ta đã làm gì mà được phong thánh mau lẹ vậy? Anh thật lòng nhận mình đã lầm đường lạc lối và nhìn nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa, là Chúa cứu chuộc. Anh tin vào ơn cứu rỗi do Người mang đến. Anh phó mình cho Đức Kitô Vua Tình Thương: “Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!” Và Đức Giêsu đã nhận lời cầu xin của anh: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. ” Làm thánh đơn giản thật! Tên cướp sám hối đã tuyên xưng Đức Giêsu có một Nước, một Vương Quốc. Đức Giêsu xác nhận điều đó là đúng và tuyên bố Người có quyền đưa anh ta vào vương quốc của mình.
Vậy Vương Quốc của Chúa Giêsu là vương quốc tình yêu, quyền hành của Người cũng là quyền hành của tình yêu, dùng để cứu độ con người.
Làm vua tình yêu như thế, tất nhiên Chúa Giêsu đã không ngồi trên ngai vàng, đã không có dinh thự lâu đài, không có ngân hàng hay kho báu, không có quân đội chinh nam dẹp bắc…, Người không tìm kiếm thế lực, không thống trị ai, cũng như không có tôi tớ ra vào phục dịch… nhưng trái lại đã hạ mình làm tôi tớ phục vụ mọi người và hy sinh tính mạng vì hạnh phúc nọi người.
Chúa Giêsu làm vua và thống trị bằng một cuộc đời hy sinh từ bỏ, và bằng cái chết đẫm máu trên thập giá. Chính từ cái chết đó đã phát sinh sự sống. Người đã thực hiện điều Người không ngừng dạy bảo: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15, 13). Và Người cũng đòi hỏi các môn đệ mình: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả thực, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt16, 25)
Phục sinh sẽ là tột đỉnh cuộc đời Chúa Giêsu và là sự thành tựu của công trình cứu thế Người thực hiện. Tuy nhiên đường dẫn tới phục sinh không phải là một đại lộ thênh thang mà là con đường thập giá cam go. Người tiến tới vinh quang theo con đường tự hiến, liều mấy mạng sống mình vì tình yêu. Phục sinh là cùng đích, còn thập giá là con đường dẫn tới đích. Nhưng linh hồn của thập giá là tình yêu. Thiếu tình yêu, thập giá (tức là đau khổ, hy sinh và cái chết) sẽ trở nên không những là nặng nề mà còn vô nghĩavà vô lý. Chúa Giêsu đã thiết lập vương quốc của mình bằng một cái chết-vì-tình-yêu. Sống chính là chết vì tình yêu, và thống trị là hạ mình phục vụ cho đến chết vì sự sống của kẻ khác.
Phải chăng lý tưởng sống đó hoàn toàn đi ngược với nền văn minh hiện đại?
Lễ Chúa Kitô Vua (Lc 23, 35-43)
Vương quyền của Chúa Kitô là một dữ kiện của Tin Mừng, nhưng không dễ gì thấy được điều mà vương quyền này mang lại cho cuộc sống chúng ta ngày nay. Chúa Giêsu có thể là vua của chúng ta theo nghĩa nào?
Chúng ta hãy khởi đi từ khái niện vương quyền: vương quyền này được làm cho rõ nét bằng mối liên quan của nó với thực tại chính trị, nghĩa là với một quyền lực trên cuộc sống tập thể. Một ông vua tạo ra hạnh phúc hoặc bất hạnh cho thần dân do nền chính trị tốt hay xấu của ông. Chúa Giêsu vua có một nền chính trị hay không? Một số người nghĩ rằng người ta có thể tìm thấy tất cả các yếu tố đó trong Tin mừng. Trong khi áp dụng các yếu tố đó thì người ta sẽ thấy Chúa Giêsu là một vị vua.
Trong thực tế, điều này đã không diễn ra xuôi chảy. Vào thời Trung Cổ chẳng hạn, Giáo hội đã nghĩ rằng Chúa Kitô có thể thực thi quyền bính qua Giáo Hội. Điều này đã làm cho Giáo Hội dấn sâu vào các hoạt động trấn áp và đàn áp. Đàn áp nhân danh Chúa Kitô, loại trừ nhân danh Chúa Kitô, đây là những điều ngày nay có vẻ không thể tưởng tượng được. Sau đó, Giáo Hội gắn bó khá chặt chẽ với các chế độ bảo thủ. Hiện nay, một số Kitô hữu muốn liên kết Chúa Giêsu và Tin mừng với những ý thức hệ tả khuynh.
Nhưng, đối với phần lớn các Kitô hữu, Tin mừng không liên quan gì đến chính trị cả. Chúa Giêsu là vua chăng? Không có vấn đề gì cả! Chỉ có vấn đề các “con tìm”, quan hệ rất cá nhân và rất riêng tư với Chúa Giêsu mà thôi. Chúng ta hãy để cái chính trị xấu xa, do bẩn cho “những người khác”. Mặc kệ nếu những cơ cấu tập thể làm cho nhiều người trong các anh em của chúng ta bất hạnh, còn chúng ta, chúng ta hát những bài thánh ca và cùng nhau đọc những bài kinh đẹp đẽ.
Trong khi giản lược hóa đến cùng cực, chúng ta thấy hai khuynh hướng trái ngược nhau: gán Chúa Giêsu vào một nền chính trị nào đó, hoặc tách Ngài ra khỏi mọi nền chính trị. Chúng ta có thể thoát ra khỏi thế phải chọn giữa đôi ngả này hay không? Tôi nghĩ là có thể được trong mức độ chúng ta thấm nhuần Bát Phúc, hiến chương “chính trị” của Chúa Giêsu: “Khó nghèo còn hơn là giàu có mà ích kỷ và bóc lột những người nghèo.”
– Các chính trị gia sẽ nhạo cười.
– Nhưng chúng ta cũng thế khi các chính trị gia này muốn thuyết phục chúng ta rằng học có thể làm cho nhiều người sống chung với nhau một cách công bằng và hạnh phúc (đay là định nghĩa của chính trị) mà không làm thay đổi các con tim.
Chúa Giêsu sẽ thực sự là vị vua của chúng ta như sau, Ngài không chỉ ngự trị trên các con tim mà còn trên các con tim đã được biến đổi. Các Kitô hữu phải ý thức hơn về tầm quan trọng của các cộng đồng, và do đó ý thức về chính trị, vì hạnh phúc của nhiều người, nhất là những người nghèo, những người thấp cổ bé miệng.
Thế là Tin mừng tỏ ra sức mạnh xã hội cua mình. Tin mừng không cung cấp cho một nền chính trị lý tưởng, mà là không ngừng phê bình tất cả các chế độ cụ thể. Tin mừng rèn luyện những con người có khả năng hình dung ra những chế độ tốt nhất là có khả năng dấn thân.
Khi con người vượt lên trên những vấn đề cá nhân để cố gắng xây dựng theo Bát Phúc một thế giới huynh đệ hơn thì ở đó Chúa Kitô ngự trị.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Bài Tin Mừng mô tả cảnh ba tử tội bị hành quyết, trong đó có 2 tên gian phi và 1 thầy đạo. 2 tên gian phi bị tử hình thì cũng đáng đời, họ là những cặn bã xã hội, bị coi là những phần tử xấu xa nhất của con người, cần phải loại trừ. Nhưng thầy đạo Giêsu thì chẳng những hoàn toàn vô tội, mà còn là con người thánh thiện nhất nhân loại, thậm chí nhất vũ trụ. Thật là hai thái cực cùng gặp nhau trong một cảnh ngộ đặc biệt. Chính trong cảnh ngộ này, một trong hai tên gian phi, từ một kẻ đầy tội lỗi, trong phút chốc, đã trở nên vô tội và công chính trước mặt Thiên Chúa, xứng đáng được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Còn tên kia thì «mèo vẫn hoàn mèo», tội lỗi vẫn hoàn tội lỗi. Sự biến đổi nội tâm của tên gian phi diễm phúc ấy sở dĩ thành tựu là do hội đủ hai yếu tố quan trọng này: một đằng là quyền năng cứu chuộc và tha tội của Đức Giêsu, Ngài đã chết như thế là để cứu loài người chúng ta trong đó có hắn; một đằng là niềm tin của tên trộm vào Đức Giêsu và lòng hối cải thành thật của hắn. Thiếu một trong hai yếu tố đó, sự biến đổi hay cứu rỗi không thành tựu được.
Câu chuyện xảy ra mang một ý nghĩa hết sức sâu xa. Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng để cứu chuộc nhân loại, Ngài đã tự xóa, tự hạ mình từ địa vị Thiên Chúa, mức cao nhất của vũ trụ, xuống đến mức thấp hèn nhất của loài người. Từ Thiên Chúa hạ mình xuống làm người đã là một hành động xóa mình không thể hiểu nổi. Thế mà khi đã làm người, Ngài còn tiếp tục xóa mình hơn nữa bằng cách hạ mình đến cùng tột trong trật tự con người: sinh ra nghèo nàn trong chuồng bò, làm con của một phụ nữ và con nuôi của một ông thợ mộc rất tầm thường về mặt xã hội và tôn giáo thời đó, cả cuộc đời sống rất nghèo nàn, và cuối cùng chết một cách thảm thiết, nhục nhã, dường như mất hết danh dự. Ngài chết không một mảnh quần áo che thân, giữa hai tên trộm cướp: khó có một cái chết của một đạo sư thánh thiện nào lại thê thảm và nhục nhã như vậy.
Như vậy, để nâng phẩm giá con người lên trước mặt Thiên Chúa thì Đấng có phẩm giá cao nhất đã phải tự hạ đến mức tận cùng thấp nhất. Để con người được hạnh phúc thì Đấng hạnh phúc nhất phải chịu đau khổ đến tận cùng. Để thánh hóa con người, Đấng thánh thiện nhất phải hòa mình và trở nên đồng hàng với những con người tội lỗi nhất. Để cứu chuộc con người, Đấng cứu chuộc phải chấp nhận cảnh cùng khốn nhất, nguy hiểm nhất, và vô phương cứu chữa nhất. Để thực hiện công lý, Đấng công bình nhất phải chịu cảnh bất công nhất của con người… Theo luật công bằng, đó là cái giá tất yếu phải trả để cứu chuộc. Và hành động cứu chuộc như thế đó chính là tư cách phải có – theo quan điểm của Thiên Chúa – của một Vị Vua Vũ Trụ, Vua Thế Giới. Muốn là Vua cách xứng đáng nhất thì phải yêu thương và phục vụ đến tận cùng, phải tự xóa mình để mọi tạo vật được nổi bật lên. Chính Thiên Chúa đã tự hạ đến tận đất đen để đưa con người lên tận mây xanh! Đó là đường lối và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa: «Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người» (Mc 9,35; x. Mt 20,26).
Nhờ hòa nhập vào cảnh cùng cực và nhục nhã của hai tên gian phi, Ngài đã tạo cơ hội cho hai tên này được cứu rỗi. Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp? Không ra khơi, làm sao bắt được cá? Người muốn cứu rỗi linh hồn mọi người, mà không chịu ra khỏi tháp ngà đầy nhung lụa của mình để đến với họ, cứ đòi họ phải đến với mình, làm sao cứu ai được? Làm tông đồ kiểu đó, chắc chắn không phải là tông đồ của Đức Giêsu. Nếu Ngài cũng như ta, đòi ai muốn được cứu phải lên trời gặp Ngài, Ngài mới cứu, thì liệu chính ta có được cứu không?
Cùng chịu đóng đinh bên cạnh Đức Giêsu, hai tên gian phi đều có cơ hội được cứu rỗi như nhau. Nhưng họ có được cứu rỗi hay không còn tùy thuộc vào chính bản thân họ có thiện chí và có muốn được cứu hay không. Cũng như trước hai dĩa đồ ăn như nhau, cả hai đều có cơ hội no bụng như nhau, nhưng no hay không còn tùy thuộc vào việc họ có chịu ăn đồ ăn đó hay không. Không ai có thể ăn dùm ta mà ta no được! Việc cứu rỗi cũng thế, cũng tùy thuộc hai yếu tố: «Có Trời mà cũng có ta» (Nguyễn Du). Thiên Chúa đã làm đủ mọi sự để ta có thể được cứu rỗi, sẵn sàng ban đủ ân sủng để ta nên công chính, nhưng ta có được cứu, được nên công chính hay không, còn do ta nữa. Thánh Âutinh nói: «Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta. Nhưng để cứu rỗi ta, nếu ta không cộng tác, Thiên Chúa không thể thực hiện được». Không có ta cộng tác, Thiên Chúa đành chào thua! Việc nên thánh, việc tông đồ, hạnh phúc gia đình và bản thân, việc làm ăn… của ta ở đời này cũng thế, thành công hay thất bại một phần do hoàn cảnh khách quan, và một phần do chính bản thân ta.
Để được cứu, được nên công chính trước mặt Thiên Chúa – như trong trường hợp của hai tên gian phi kia – xem ra quá dễ dàng, thế mà chỉ có một người được cứu. Vấn đề không hệ tại ai tội lỗi hay tốt lành hơn ai, chưa chắc tên trộm được Chúa tha thứ kia trước đó đã phạm ít tội ác hơn tên kia. Vấn đề cốt yếu nằm ở chỗ: có tin vào quyền năng và lòng nhân từ của Thiên Chúa, của Đức Giêsu, và có thật sự muốn sống theo niềm tin đó hay không. Đức Giêsu nói: «Ai tin sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án» (Mc 16,16); Phaolô nói với viên cai ngục: «Hãy tin vào Chúa Giêsu, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ» (Cv 16,31). Niềm tin không chưa đủ, còn phải sống theo niềm tin ấy, là tinh thần của Tin Mừng: «Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo; bằng không thì anh em có tin cũng vô ích» (1Cr 15,2); «Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?» (Gc 2,14).
Theo tinh thần trên thì Đức Giêsu có làm đủ mọi thứ cho ta để ta được cứu rỗi cũng trở nên vô ích cho ta nếu không có sự tự nguyện cộng tác của ta. Cũng vậy, Đức Giêsu có là Vua của vũ trụ, có xóa mình tự hạ, có yêu thương và hy sinh chết cho ta cả trăm lần đi nữa cũng vô ích cho ta, nếu ta không nhận Ngài là Vua của lòng ta, và ta không sống đúng tinh thần từ bỏ mình và yêu thương của Ngài. Thật vậy, ta chỉ nhận được sức mạnh từ nơi Ngài khi nào ta từ bỏ mình đi trước mặt Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta, và ta hoàn toàn sống theo thánh ý của Ngài. Điều rất nghịch lý nhưng lại rất đúng là chỉ khi nào ta để Ngài làm chủ bản thân ta, thì ta mới thật sự làm chủ bản thân mình. Vì Ngài mới chính là bản thân đích thực của ta: «Thiên Chúa còn thân mật với tôi hơn chính bản thân tôi» (Thánh Âu Tinh), nghĩa là Ngài là tôi hơn chính tôi.
Nếu không để Ngài làm chủ bản thân ta, thì kẻ làm chủ bản thân ta sẽ là dục vọng hay ý ngông của ta. Và vì bản thân ta đã bị hư hoại bởi tội nguyên tổ và tội riêng, nên kẻ âm thầm làm chủ dục vọng hay ý ngông của ta lại chính là ma quỷ. Vì thế, rất nhiều khi ta tưởng ta đang làm theo ý muốn của ta, nhưng rốt cuộc là ta đang làm theo ý muốn của ma quỷ, là kẻ luôn luôn muốn làm hại ta.
Nhân dịp Giáo Hội mừng kính Đức Giêsu là Vua Vũ Trụ, ta cần nghiêm túc xét lại xem ta đã thật sự để Ngài làm Vua của tâm hồn ta chưa? Nếu chưa, hãy thống hối và quyết tâm để Ngài làm Vua thật sự của ta. Việc làm Vua của Ngài trong tâm hồn ta phải được thể hiện thật sự và cụ thể trong cuộc sống, chứ không chỉ qua lời tuyên xưng xuông của ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con vẫn tuyên xưng Cha là Thiên Chúa, tuyên xưng Đức Giêsu là Vua cả vũ trụ. Nhưng trong thực tế của đời sống con, dường như Cha chưa phải là Thiên Chúa của lòng con, Đức Giêsu chưa phải là Vua của lòng con. Có lẽ vua của lòng con từ xưa tới nay vẫn là danh vọng, tiền bạc, quyền hành, lạc thú chứ chưa phải là Đức Giêsu. Thực tế là như thế, nhưng con lại không đủ can đảm để nhìn nhận thực tế đó để ăn năn hối cải. Con vẫn chưa sống thực với chính mình. Chính vì thế, con chưa được sống trong bình an và hạnh phúc đích thực của Cha. Xin cho con biết thật sự nhận Cha là Thiên Chúa của bản thân con, và nhận Đức Giêsu là Vua của lòng con, trong thực tế hằng ngày của đời sống con.
Người ta nói nhiều về người trộm biết ăn năn, thậm chí ở nhiều nước đạo gốc có nơi thờ một vị thánh. Được gọi bằng những tên khác nhau như Dismas, Demas, Dumachus. Có một chuyện kể hắn là một thứ Robin Hood của Do thái, ăn trộm của người giàu để phân phát cho người nghèo. Có chuyện rất đáng yêu kể rằng khi Chúa Giêsu còn nhỏ được gia đình đem sang Ai-cập, dọc đường bị một bọn cướp tấn công. Một thanh niên là con của thủ lãnh bọn cướp thấy con trẻ Giêsu dễ thương quá nên hắn không nỡ ra tay, hắn tha Ngài và nói: “Hỡi con trẻ rất có phước, nếu sau này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến tôi, đừng quên tôi giây phút này nhé!” Tên cướp đó là kẻ đã cứu Chúa Giêsu khi còn nhỏ đã gặp Ngài trên thập giá tại đồi Gôn-gô-tha, lần này thì Chúa Giêsu đã cứu anh ta.
Câu chuyện thực hư thế nào không ai được rõ nhưng điều rõ rệt ấy là quang cảnh đóng đinh này đã thực hiện điều mà trước đây cả bảy trăm năm Isaia đã tuyên sấm: “Ngài đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân.” (53,12). Mà chẳng những trong hàng phạm nhân mà thôi, nhưng theo vị trí xếp đặt, Ngài được coi là phạm nhân hạng nặng, đứng đầu trong bọn đầu trộm đuôi cướp. Không biết ai đã bày ra cái trò này, xếp đặt thập giá của Ngài ở giữa hai tên cướp. Nếu là Philatô thì quả ông quan xâm lược này muốn làm tăng vẻ khôi hài của bản án mà ông treo trên đầu “Vua Do thái”, cũng có thể do bọn đầu mục Do thái, theo dõi kẻ thù đến đỉnh núi Sọ, mua chuộc bọn lính sắp đặt để tăng sỉ nhục cho nạn nhân, hay có lẽ là chính bọn lính sắp đặt như vậy vì hiển nhiên Ngài là tử đáng chú ý hơn cả trong bọn. Sự thật ấy là có một cái gì hiểm độc trong hành động này về phía loài người. Thế nhưng, điều ti tiện trước mặt người đời, lại cao sang trước mặt Thiên Chúa. Điều mà lòng độc ác của loài người bêu xấu Ngài, thì lại tôn vinh Ngài trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, vị trí của Ngài giữa hai tên trộm cướp đúng là địa vị của Ngài. Từ lâu Ngài được gán cho danh hiệu “bạn của người thây thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11,19). Giờ đây, qua hành động đóng đinh Ngài giữa hai người trộm cướp, ý tưởng ấy được thực hiện cách rõ rệt nhất. Chúa Giêsu đã đến thế gian để tự hòa mình vào đám tội nhân, Ngài đã chịu chung số phận của họ, Ngài đã sống giữa họ, và thật thích hợp Ngài đã chết giữa họ. Cho đến lúc này,Ngài đang ở giữa họ. Và thái độ kỳ lạ của những người đã bị treo hai bên Ngài, là một thực hiện và là một báo hiệu. Thực hiện điều cụ Si-mê-on nói về Chúa Giêsu trong Đền Thờ: “Con trẻ này có mệnh làm cho nhiều người trong dân vấp ngã trong khi nhiều người được giải cứu.” (Lc 2,34), và báo hiệu điều sẽ xảy ra luôn luôn sau này, một số người tin nhận Ngài và được cưu, trong lúc một số khác thông tin. Lịch sử loài người luôn luôn như thế, Tin Mừng sẽ đem lại sự sống cho nhiều người, và cũng đem lại án phạt cho nhiều người. Tình trạng ấy sẽ kéo dài cho đến ngày tận cùng, Ngài sẽ ở giữa họ, kẻ ăn năn đứng một bên phải, bên trái Ngài là những kẻ không ăn năn. Mát-thêu và Luca đều ghi lại: Cả những kẻ bị đóng đinh với Ngài cũng xỉ nhục Ngài, Luca ghi rõ hơn: Kẻ bên trái mắng nhiếc,kẻ bên phải ăn năn. Có thể lúc đầu hắn cũng hùa theo tên bạn rồi sau mới tỉnh ngộ. Nếu thế, thì đây không phải lần đầu tiên, hắn ta bị lôi cuốn vào vòng tội lỗi, có lẽ tên đồng bạn này từ lâu vốn là ác quỷ bên cạnh hắn, đã phá đổ cuộc đời hắn, và cuối cùng đưa hắn vào kết thúc nhục nhã này. Một con người, mà cuộc đời đã đến chỗ sắp tàn như thế, mà lại còn đi mắng nhiếc người đồng cảnh ngộ, thì hèn hạ không biết chừng nào! Đau quá hóa điên, làm liều tất cả để tạm quên những đau đớn của mình, y như một con vật mắc bẫy cắn bất cứ cái gì nó gặp… Đó là tình trạng của tên cướp không chịu ăn năn! Còn tên kia thì kinh hãi lùi xa bạn, chính tội ác ấy đến mức lằn tối đã khựng lại và quay ngược lại. Lần đầu tiên trong đời, hắn nhận thức được con người thực của hắn: hèn hạ xấu xa.Ý thức ấy hắn có được, là nhờ nét tương phản với vẻ mặt bình tĩnh của Đức Giêsu. Đã từ lâu, tên bạn tàn bạo kia vẫn là lý tưởng của hắn, thế nhưng, giờ đây đối chiếu với thái độ bình tĩnh chịu đựng của Đức Giêsu, sự hung bạo kia chỉ là thấp hèn. Để giải thích sự ăn năn đột ngột này, có người cho rằng tên cướp này đã gặp Đức Giêsu rồi, chắc chắn là hắn đã nghe Ngài cầu xin tha thứ cho kẻ thù, đã thấy thái độ của Ngài trên đường dẫn tới Núi Sọ, được nghe lời Ngài nói với nhóm phụ nữ thương hại Ngài. Rồi, chính những tiếng nhục mạ của kẻ thù đứng dưới chân thập giá ném vào Ngài những danh hiệu mà Ngài tự xưng hay bị ghép cho, giúp hắn nhận ra Chúa Giêsu là ai! Có thể, hắn còn được chứng kiến, hay nghe được vụ xử của Ngài trước tòa Philatô… Còn lùi xa hơn nữa thì quả chúng ta không có bằng chứng chắc chắn. Hắn được nghe Ngài giảng chưa, đã được thấy phép lạ nào của Ngài chưa? Hắn đã biết được gì về vương quốc mà hắn đã cầu xin với Ngài không? Dầu sao đi nữa, thì lúc này, lòng hắn cũng tràn ngập đau đớn hối hận vì tội lỗi, và tràn đầy tin yêu, nên chỉ cần một tàn lửa phát xuất từ thánh giá Chúa Cứu Thế, cũng đủ làm cho đức tin bùng lên. Lòng ăn năn được biểu lộ qua câu nói với đồng bạn: “Mày không sợ Thiên Chúa sao?” chắc hẳn, trước đây hắn đã quên Chúa, dẹp Ngài qua một bên trong suốt thời gian tội lỗi, nhưng giờ đây Chúa đang ở gần, và trong ánh sáng của Ngài, hắn đang nhìn ra tình trạng tội lỗi của mình. Hắn công khai thú nhận, chẳng những trong lòng, mà còn bằng lời nói. Như vậy là vứt bỏ dĩ vãng, quá khứ tội lỗi, mà còn cắt đứt liên hệ với tên cướp không chịu ăn năn. Lại nữa, nhìn lại cuộc đời đã qua, hắn thấy đã bị nhơ nhuốc vì những hành động mà hắn biết rằng chỉ có cái chết là hình phạt xứng đáng. Kẻ thống hối sợ đến với Chúa là chuyện rất bình thường, vì nghĩ rằng tội họ quá lớn không thể tha thứ được. Thế nhưng, trường hợp của tên cướp ăn năn, là một bảo đảm rằng Chúa ban đầy đủ ơn tha thứ cho những người như thế. “Máu Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, rửa sạch tất cả mọi tội lỗi chúng ta.” (1 Ga 11,7) “Lạy Chúa, khi nào về nước Chúa, xin nhớ đến con.” Câu nói thật đơn sơ và khiêm nhường, nhưng biểu lộ rõ ràng niềm tin nơi Chúa; tất cả điều dám mơ ước là Chúa nhớ đến anh ta khi về nước Ngài. Chúa Cứu Thế được nhận biết giữa những tiếng kêu gào của đám quần chúng bị sách động, giữa những tiếng kêu than ai oán vì tội ác, giữa những tiếng cuồng loạn của đám người chống đối. Thiên Chúa chỉ nghe thấy có một tên trộm bị đóng đinh. Giữa lúc, những kẻ trước đây cuồng nhiệt tung hô nay lại phản đối Ngài, giữa lúc đám môn đệ thề quyết trung tín bỏ trốn hết, thì một mình tên trộm lên tiếng bênh vực Ngài. Nếu thiếu niên con của góa phụ thành Na-im, được cải tử hoàn sinh, lên tiếng tin vào quyền năng của Đấng xem ra mất hết quyền đế vương, nếu Phê-rô đã từng chứng kiến Chúa biến hình trên núi, nếu anh mù thành Giê-ri-khô đứng lên công nhận thần tính nơi Ngài… chúng ta không ngạc nhiên. Phải, nếu một trong những người trước đây đã hưởng ân huệ của Chúa lên tiếng, có lẽ các môn đệ nhát sợ lấy lại can đảm, đám dân vô tâm sẽ tỉnh ngộ, bọn ký lục và biệt phái sẽ tin theo… Nhưng giữa lúc cái chết gần kề, giữa lúc Chúa Cứu Thế như hoàn toàn thất bại trước mặt người trần (ngoài ba người đứng dưới chân thập giá), chỉ có một người lên tiếng tin nhận Ngài, đó lại là tên trộm bị đóng đinh. Anh thấy tiếng tin nhận Ngài, đó lại là tên trộm bị đóng đinh. Anh thấy cây thập giá nhưng tôn thờ như ngai vua cả, thấy người bị đóng đinh nhưng kêu cầu như Chúa Tể, thấy sự sống trong cõi chết, vinh quang trong nhục nhã… “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.”
Có thể đây là lần đầu tiên tên trộm cầu nguyện và có lẽ cũng là lần cuối cùng, dầu vậy Đấng đã được tiên báo “Không bẻ đứt cây sậy dập gẫy, không tắt hẳn tim đèn còn khói” (Mt 12, 20), lại không đáp ứng lại một niềm tin như vậy sao? “Người nào đến với Ta, chẳng bao giờ bị Ta xua đuổi.” (Ga 6, 37). Chúa Giêsu đã giữ lời và còn giữ hơn cả điều người ta trông đợi. Minh chứng của tên trộm là một chiến thắng vĩ đại của Chúa Giêsu, và Ngài đã dùng nghị lực mạnh mẽ hơn khi chế ngự thiên nhiên, Ngài mất sự sống nhưng cứu một linh hồn, tay Ngài bị đóng chặt vào thập giá vẫn có thể mở được cửa trời. Trong khi nhà cầm quyền Giê-ru-sa-lem không thể làm Ngài rời khỏi thập giá, trong lúc mọi tố cáo bất công không thắng được sự yên lặng của Ngài, trong lúc những lời gào thét “Nó đã cứu được người khác, mà không cứu nổi mình” không làm Ngài hé môi… Ngài nghiêng đầu về người yếu đuối cạnh Ngài, Ngài nói và cứu một tên trộm “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta.” Trước đây không một ai được hứa như thế, dầu người đó là Áp-ra-ham, Mô-sê, Ngài hứa và nói về thế giới vô hình ấy như một nơi quê hương quen thuộc, nơi mà Ngài nắm quyền hành, Ngài ban cho ai tùy ý…
Trong lời Chúa hứa: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”, từ thiên đàng dịch từ Paradi, và theo nguyên ngữ từ tiếng Ba-tư có nghĩa là “một khu vườn rào kín”. Khi vị vua Ba-tư muốn đặc biệt tôn trọng một bày tôi nào của Ngài, thì người ấy được cùng dạo mát với vua trong vườn thượng uyển. Chúa Giêsu đã hứa cho tên trộm ăn năn đó một sự gì quý báu hơn là sự bất tử, Ngài hứa cho hắn vinh dự được làm bạn của Ngài trong vườn cực lạc trên trời.
Để được vinh dự như người trộm lành, thánh Phê-rô đã khuyên bảo các tín hữu đầu tiên cũng như tất cả chúng ta: “Anh em hãy nỗ lực chứng tỏ mình đã thật được Thiên Chúa kêu gọi và tuyển chọn, anh em sẽ không còn vấp ngã nữa. Thiên Chúa sẽ mở rộng cửa tiếp đón anh em vào nước vĩnh cửu của Chúa Cứu Thế Giêsu, Đấng cứu rỗi anh em.” (2 Pr 1, 10.11). và trước đó thánh Phê-rô đã khai triển việc nỗ lực chứng tỏ ơn gọi chọn đó bằng: “Không phải chỉ có tin là đủ, mà còn phải sống cuộc đời đạo đức. Lại phải học hỏi và biết rõ Chúa hơn và tìm hiểu Chúa muốn mình làm gì. Lại phải biết tự chủ và kiên tâm sống cuộc đời tin kính. Nhờ đó, anh em biết đối xử với người đồng loại trong tình huynh đệ và nhất là yêu thương họ cách chân thành” (2 Pr 1, 5s)
Ngày nay, trên thế giới, chúng ta nhận thấy: cứ chuẩn bị đến dịp bầu cử là các ứng viên thường vận động cử chi bầu cho mình, và muốn được trúng cử thì đương sự phải đưa ra những kế hoạch mình sẽ làm trong nhiệm kỳ tới. Nếu lòng dân thấy thuận thì họ bầu cho. Rồi đến khi đắc cử, thường họ hay mở tiệc ăn mừng. Đến ngày ra mắt công chúng, đương sự phải có một bài diễn văn rất hay… như là một cách thức cám ơn dân chúng đã bầu cho mình. Và khi thi hành, người ta dùng quyền để cai trị con dân và giữ gìn an ninh quốc gia.
Hôm nay, kết thúc năm Phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta có một vị Vua là Vua các vua, Chúa các chúa, nhưng lại không theo kiểu người đời, vị Vua ấy lại chọn cho mình một đời sống từ bỏ, khiêm hạ, yêu thương, khước từ vinh hoa phú quý, lợi lộc trần gian. Vị Vua ấy không cai quản và điều hành bằng quyền lực, mà bằng tình yêu. Rồi cuối cùng trở nên Đấng xóa tội trền gian qua cái chết (x. Ga 1,29). Vị Vua ấy chính là Đức Giêsu Kitô.
Nếu một vị vua theo kiểu trần gian, ngày đăng quang và xưng vương phải là một ngày trọng đại, có các lễ nghi trang trọng, có dân chúng reo hò chúc tụng, thì Đức Giêsu làm vua, lại là vị vua âm thầm, khiêm hạ, cả cuộc đời, không hề có kiểu “diễu sĩ dương oai” không kèn không trống.
Vương quyền của Ngài được tỏ lộ không phải qua một nghi thức trọng thể, mà lại qua một tấm bảng bêu xấu mà Philatô truyền lệnh đóng trên thập giá, phía đầu Ngài: “Đây là Vua dân Do Thái”. Ngai vàng không phải là một cái nghế được sơn son thiếp vàng lộng lẫy cao sang, mà là hai thanh gỗ được ghép lại với nhau thành hình thập tự để làm ngai cho Vua trời ngự giá. Đây là một hình khổ mà người Do thái thời bấy giờ dành cho những kẻ bị kết án tử.
Vương niệm của Ngài không phải là mũ làm bằng kim loại quý (thường là bằng Vàng) và được khảm những châu báu, ngọc ngà, đá quý, kim cương. Còn Đức Giêsu lại có một vương niệm đặc biệt, đó là một vòng gai được đội trên đầu. Vương trượng là cây sậy yếu ớt, được người ta đưa cho để nhằm chế giễu, chọc ghẹo. Các quan hầu cận là 12 tông đồ, ít học, kém hiểu biết và hoàn toàn không mảy may am tường về chuyện binh đao, họ còn là kẻ bán Chúa, trối Thầy, những kẻ khác thì chạy trốn,… Áo cẩm bào thì lại là thân hình ô nhục. Người thân dự lễ phong vương lại là kẻ thù, chỉ có một vài người vỏn vẹn là Mẹ Ngài, Gioan, mấy phụ nữ và 2 tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Ngài. Lẽ ra thần dân tung hô “chúc tụng vạn tuế đức vua” thì lại là: “đóng đinh nói đi”, “đóng đinh nó vào thập giá”, đến nỗi ngay cả kẻ cùng chịu đóng đinh với Ngài cũng cất lên những lời nguyền rủa, nhục mạ, thách thức: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. Khung cảnh phong vương thì lại ở trên núi sọ, thay vì ở trong thành phố… Diễn từ khai mạc là: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ” và sau cùng: “Mọi sự đã hoàn tất”.
Khi lập pháp thì lại hoàn toàn “Vâng theo ý Cha”. Khi truyền lệnh hành pháp thì lại chỉ có vỏn vẹn trong giới luật Yêu thương: “Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Và “Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta”(Is 53,7-8). Suốt cả hành trình loan báo về Nước Trời, Ngài đã không ngồi yên, mà nay đây mai đó, miễn sao Tin Mừng cứu độ được loan báo và không hề có một dinh thự, lâu đài, mà là: “con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ dựa đầu”.
Như thế, triều đại của Đức Giêsu được kết thúc qua cái chết ô nhục trên thập giá.
Thế nhưng, đường lối của Thiên Chúa thì vượt xa trí hiểu của con người. Thật vậy, Người đã dùng hành động tưởng chừng như bêu xấu này để mặc khải một lần nữa về bản chất Tình Yêu của Thiên Chúa qua người Con Một của Người là Đức Giê su Kitô.
Ngài là Vua, nhưng lại là một vị vua khiêm nhường, nhân hậu, Ngài là Vua của Hoà bình, Vua Tình yêu. Một vị vua thiếu thốn đủ điều: “Con Người không có nơi tựa đầu”, một vị Vua chết cho thần dân được sống. Ngài là một vị vua của lòng người, của nhân tâm. Ngài xử dụng quyền lực, nhưng là thứ quyền lực “mềm” chứ không phải là quyền lực “cứng” như các nhà lãnh đạo vẫn thường xử dụng.
Vị Vua ấy được ví như người mục tử nhân lành, biết và hiểu rõ từng con chiên trong đàn. Người Mục Tử ấy sẵn sàng bảo vệ đoàn chiên khi gặp sói dữ và chấp nhận hy sinh mạng sống vì đoàn chiên của mình (x. Ed 34,11-12.15-17). Thật vậy, người mực tử chân chính là người còn yêu thương cả những con chiên hư hỏng, đi lạc và tìm cách đưa nó về ràn: vị Vua ấy đến trần gian để cứu vớt những gì đã hư mất (x. Lc 19,1-10). Và vì yêu, Ngài đã “đền bù tội lỗi cả thế gian” (1 Ga 2,2), cũng vì yêu mà: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21). Đức Vua ấy đã trở nên: “Người Tôi Tớ khổ đau của Giavê Thiên Chúa”, Đấng gánh lấy mọi tội lỗi của trần gian, và dùng chính cái chết của mình để mưu cầu ơn tha tội cho nhân loại. Ngài “đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (x. Is 53,2-12). Vì yêu, Ngài đã chấp nhận làm bạn với những ai bé nhỏ nghèo hèn, những kẻ tội lỗi, thu thuế, gái điếm, những người ốm đau, bệnh tật, thấp cổ bé họng… Vì thế, Ngài đã lên tiếng bênh vực những người cô thế cô thân. Và mời gọi mọi người hãy Yêu như Thầy là hy sinh mạng sống cho người mình yêu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Và như một quy luật: sự sống, niềm vui và hạnh phúc nơi con người chính là vinh quang của Thiên Chúa. Vì thế, mới nghe người trộm lành cất tiếng kêu xin: “Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!” thì ngay lập tức, Ngài đã đưa anh ta vào vương quốc của mình qua lời tuyên bố: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng “.
Mỗi người Kitô hữu đều được tham dự vào sứ vụ Vương Đế của Đức Kitô ngày ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Qua Bí tích này, chúng ta được dìm vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh của chính Đức Kitô, Đấng đã yêu mến, vâng phục Cha hết lòng và, cuối cùng đã chết vì yêu để làm vinh danh Đấng đã sai mình đến trần gian hầu biểu lộ tấm lòng từ ái của Thiên Chúa cho nhân loại.
Khi thông chia và được thừa tự sứ vụ đó của Đức Giêsu qua Giáo Hội, nơi Bí tích Rửa Tội, mỗi chúng ta đều có bổn phận thi hành sứ vụ đó trong cuộc đời Kitô hữu của mình.
Là người kitô hữu, chúng ta chỉ có thể chu toàn bổn phận này với một cách tốt đẹp khi noi gương và trở nên giống Đức Giêsu là dám chấp nhận khước từ những vinh hoa lợi lộc thuần túy trần thế. Ở điểm này, thánh Phaolô đã diễn tả: “Đức Kitô, Đấng vốn dĩ giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta trở nên giàu có nhờ cái nghèo của Người (x. 2 Cr 8,9).
Thật vậy, muốn được cứu độ, ta phải sống thực sự với tinh thần nghèo như Chúa, vì nghèo thì mới dễ yêu và khi yêu mới mong được trọn vẹn. Nếu chúng ta là con người đúng nghĩa thì phải có cả hồn và xác trong một thân thể, thì nghèo và yêu được ví như hai mặt của cùng một tấm mề đai.
Lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy đến với tôi, hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11: 28-29). “Mang lấy ách” của Chúa là gì nếu không phải là: “Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em”. Ách này không thể mang vác được, nếu ta kiêu căng, ngạo mạn và tự mãn, nhưng chỉ với sự hiền lành, khiêm nhường và tình yêu phát xuất từ con tim chân thành.
Thật vậy, chúng ta không thể cùng lúc vừa là Kitô hữu vừa mang tinh thần thế tục. Nếu để hai yếu tố đó thường trực trong con người chúng ta cùng một thời điểm, thì mọi việc chúng ta làm và suy nghĩ sẽ rơi vào tình trạng hư ảo, ngạo mạn, tự đắc.
Ước gì sống tinh thần nghèo và đến với người nghèo bằng một trái tim yêu thương rộng mở sẽ là hướng đích của mỗi chúng ta khi noi gương của vị Vua tình yêu, đã sống và chết vì yêu.
Sống được như thế, chúng ta mới có hy vọng được hưởng lời chúc phúc của Chúa: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi” (Mt 25,34), nơi đó có Vua Tình Yêu ngự trị (x. Pl 2,6-11).
Lạy Đức Giêsu là Vua vũ trụ, xin cho danh Cha được cả sáng, Nước Cha được hiển trị đến tận cùng bờ cõi trái đất. Xin Chúa hãy thống trị lòng trí chúng con bằng tinh thần của Chúa. Xin cho chúng con được sống trong quỹ đạo của tình yêu, để sau cuộc đời này, chúng con được vào Vương Quốc của Chúa trên trời là nơi dành cho những người yêu và được yêu. Amen.
LỄ CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ VUA
Nói đến Vua là nói đến quyền lực, sức mạnh, sự giàu sang phú quý. Nhưng với vị vua Giê-su thì điều hoàn toàn ngược lại. Sức mạnh nơi Ngài là tình yêu, quyền lực của Ngài là sự khiêm hạ, và giàu sang của Ngài là phục vụ. Giáo Hội suy tôn Ngài là Vua vũ trụ, bởi chính Ngài là khởi thủy, và cùng tận.
Vua tình yêu
Thiên Chúa là tình yêu. Định nghĩa của Gioan rất đơn giản nhưng chứa đựng cả một bể khơi nguồn tình yêu. Đức Giê-su đã tế hiến cuộc đời của mình cho tình yêu nhân loại. Ngài là vua của tình yêu. Vương quốc của Ngài không xây dựng trên bạo lực, bạo quyền, mà được xây dựng trên tình yêu thương. Khí giới Ngài dùng là đỉnh cao Thập Giá. Phía trên đầu Ngài là tấm bảng được ghi: “ Đây là vua người Do Thái”(Lc 23,38).
Vua khiêm hạ
Thông thường các vị vua chúa trần gian hay kiêu căng, ác độc. Hê-rô-đê bạo chúa đã gây biết bao tội ác và đưa đến cái chết cho Gioan Tẩy Giả. Tần Thủy Hoàng với Vạn lý trường thành đã nhuộm đỏ máu xương của biết bao người. Kiêu ngạo và độc ác đã gây nên biết bao là oan khiên. Còn Đức Giê-su, vị vua không biên cương lãnh thổ, không triều đình không quân lính. Vị vua cỡi trên lưng lừa trong ngày vào thành Giê-ru-sa-lem để hoàn tất cuộc đời mình, với cái chết cô đơn trên Thập Giá, giữa những người gian phi.
Vua phục vụ
Ngài đến trần gian là để hầu hạ và phục vụ con người. Bao năm rao giảng Tin mừng, Đức Giê-su đã tận tụy phục vụ một cách nhưng không cho con người. Ngài rong ruổi khắp nơi, để tìm kiếm và cứu chữa con người. Những người đau ốm, những kẻ bị quỷ ám, những người đơn côi, những kẻ tội lội đều được Ngài tận tình chăm sóc cả hồn lẫn xác. Cử chỉ phục vụ của Ngài được thể hiện cô đọng lại trong đêm bị trao nộp. Ngài đã cúi xuống và rửa chân cho các môn đệ. Cử chỉ của một người tôi tớ phục vụ cho các ông chủ của mình. Ta đến không phải để phục vụ mà là phục vụ muôn người: “ Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng mình là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em thì phải nên như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, thì hãy nên như người phục vụ” (Lc 22, 25-26).
Lạy Đức Vua Giê-su, xin cho chúng con là những kẻ tôi tá Ngài biết sống yêu thương, khiêm nhường và phục vụ anh chị em mình. Xin cho chúng con chỉ biết phụng sự, và tôn thờ một mình Ngài là Vua của chúng con. Amen.
Lm Giacobe Tạ Chúc
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn