CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG A
Lời Chúa: Is 11,1-10; Rm 15,4-9; Mt 3,1-12
DẪN NHẬP
Lời Chúa: "Hãy ăn năn thống hối vì Nước Trời đã gần đến" (Mt 3,2).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 2 mùa vọng hôm nay mời gọi chúng ta hãy ăn năn thống hối, hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối để dọn đường Chúa đến. Vì Chúa sẽ đến như Vị Thẩm phán công minh xét xử mọi người:
Dọn đường đón Đấng Thiên sai,
Đến nơi trần thế triển khai chương trình.
Những ai cộng tác hết mình,
Dẹp đi cuộc sống giả hình mau qua.
Dấn thân thực hiện ý Cha,
Con đường Chúa đến, nở hoa đón Người.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta biết kiểm điểm lại cuộc sống của mình sao cho xứng đáng với việc sám hối, siêng năng cầu nguyện, tích cực thực thi công bình bác ái yêu thương được kiểm chứng bằng những việc lành cụ thể hằng ngày. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa là Vị Thẩm phán công minh sẽ đến để xét xử mọi người. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã sai Thánh Gioan Tẩy giả đến kêu gọi chúng con hãy ăn năn thống hối vì Nước Trời đã gần đến. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa đến để cứu độ trần gian. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Tuần trước, sứ điệp Lời Chúa chúa nhật 1 mùa vọng mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng đón chờ Chúa đến để cùng với Người tiến vào Nhà Chúa. Nơi ấy, là một vương quốc lý tưởng được thiết lập cho hết thảy mọi người, mọi dân nước. Nhưng để được vào Nhà Chúa thì phải chấp nhận và chu tòan một số những điều kiện mà hôm nay Thánh Gioan Tẩy giả loan báo: “anh em hãy sám hối” để dọn đường Chúa đến.
Thưa anh chị em, mong chờ Đấng Thiên sai đến là niềm hy vọng của dân Do thái thời Thánh Gioan tẩy giả. Do đó, người ta tuôn đến nghe lời rao giảng và thực hành sám hối chuẩn bị tâm hồn để đón Đấng Thiên sai, Đấng mà ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ 8 thế kỷ trước công nguyên. Vì lúc bấy giờ dân Do thái chán chường về những ông vua đang cai trị. Họ bỏ bê việc cai trị, chỉ lo vinh thân phì gia, làm cho xã hội xuống cấp trầm trọng, xã hội đầy dẫy những bất công, luân lý suy đồi, đời sống tôn giáo sa sút, nguội lạnh. Đứng trước thất vọng ấy, ngôn sứ Isaia loan báo cho họ biết, Đấng Thiên Chúa sẽ sai đến thiết lập Vương quốc của Người. Đấng ấy sẽ sinh ra từ gốc tổ Giêsê là cha của vua Đavít. Người sẽ được tràn đầy Thánh Thần để xét xử công minh: kết án kẻ hung ác, bênh vực người hiền lành, nghèo khó. Trong nước Đấng Messia sẽ thiết lập, dân chúng sẽ được sống trong công bình và chân lý, trong hạnh phúc và hòa bình thịnh vượng: Sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau, con trẻ sẽ chăn dắt những thú ấy, vui đùa với rắn độc, mọi dân kêu cầu danh Chúa. Thánh Gioan tẩy giả trong Tin Mừng hôm nay bổ túc cho sứ vụ của Đấng Thiên sai: “Ðây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa. Ðấng Thiên sai sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt”. Như thế, điều kiện để vào Nước Thiên Chúa, theo thánh Gioan tẩy giả là phải sám hối: “Hãy ăn năn sám hối, vì nước trời gần đến”.
Có câu chuyện kể rằng, Khấu Chuẩn thuở nhỏ tính nghịch phá, không giữ lễ phép. Bà mẹ là người nghiêm khắc thấy con như thế thì quở phạt luôn mà con không chừa. Một hôm, Chuẩn bỏ học đi chơi, bà mẹ giận lắm, cầm quả cân ném trúng chân ông máu chảy đầm đìa. Từ đó ông không dám lêu lổng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập. Về sau ông thi đỗ làm quan đến chức tể tướng nhưng mẹ ông đã tạ thế rồi. Mỗi khi sờ đến vết thương ở chân, ông lại nức nở khóc lóc mà nói rằng: “Chính vết thương này đã làm cho ta nên người”.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Khấu Chuẩn nên người vì ông đã biết sám hối không dám lêu lổng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập. “Hãy sinh hoa qủa xứng với lòng sám hối”. Cuộc đời mỗi người luôn có những lầm lỗi cần phải sám hối. Sám hối đích thực đòi hỏi con người phải thay đổi tòan diện trong tư tưởng, trong hành động, trong việc làm, một hướng đi, một đời sống mới. Việc sám hối này phải được mọi người thực hiện vì ai cũng đã phạm tội; còn những ai nói mình không cần phải sám hối là những kẻ không biết con người thật của mình, chỉ là những người cố chấp đi sâu vào con đường tội lỗi. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khuyên bảo chúng ta, sám hối phải đối xử tốt với nhau, phải nhất trí trong tình yêu thương, tránh mọi chia rẽ, phải biết thông cảm với nhau, không phân biệt họ là ai, giàu nghèo hay sang hèn.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết thành tâm sám hối dọn đường Chúa đến cứu độ chúng ta, bằng việc dẹp bỏ nếp sống đạo hời hợt, hình thức, màu mè và tích cực thực hiện cuộc trở lại với Chúa được kiểm chứng bằng những việc lành cụ thể hằng ngày. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
MỤC LỤC
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Việc rao giảng của Gioan Tẩy giả, của Chúa Giêsu và các tông đồ đều khởi đầu bằng câu: “Hãy ăn năn trở lại vì nước trời đã đến gần (Mt. 4, 17; 10, 7; Cv. 2, 38). Đây là việc khẩn trương, không thực hiện thì sẽ diệt vong. Khi nghe những lời hô hào của các nhà bác học về cứu thế giới khỏi ô nhiễm môi trường, khởi tệ nạn ma túy và dịch bệnh sida, thì ai cũng lo thực hiện những phương pháp đề phòng, trừ hạng cố chấp liều mạng lao đầu vào chốn tử thần. Lời hô hào của Gioan mang tính chất cứu nguy cho cả thế giới hôm qua, hôm nay và mãi mãi, nếu muốn sống trong nước Trời.
I- Nước Trời là gì cho con người được sống?
Nếu thế giới vật chất muốn tồn tại cần có thiên nhiên nguyên thủy trong lành như Thiên Chúa đã dựng nên nó, thì thế giới loài người muốn trường tồn bất tử còn cần hơn nữa một nước trời như Thiên Chúa muốn. Thiên Chúa đã muốn một nước trời lạ lùng mà tiên tri Isaia chỉ có thể mô tả bằng những hình ảnh kỳ diệu trong bài đọc một:
1- Về Đấng cai quản nước trời: đó là Đấng thần trí Chúa, thần trí khôn ngoan, minh mẫn, thấu hiểu, anh dũng, sáng suốt, sùng tín và sủng ái của Thiên Chúa. Công việc của Ngài là xét xử công minh nhân từ cho người thấp cổ bé miệng, phán quyết vô tư, bênh kẻ nghèo. Lời Ngài như gậy đập tan bọn cường hào, hơi thở Ngài giết chết phường gian ác (Isaia). Ngài là nguồn kiên nhẫn, an ủi và đầy lòng thương xót. Ngài đến phục vụ Do-thái và các dân ngoại (Phaolô).
2- Về dân trong nước trời là ai? đó là tất cả các dân tộc: Do thái cũng như dân ngoại. Họ là những người ăn năn trở lại, được rửa bằng Thánh thần và lửa. Họ được sống trong triều đại đua nở hoa công lý và thái bình thịnh vượng trong hạnh phúc, như beo sống với dê con, bò ăn chung với sư tử và gấu.
II- Điều kiện sống trong nước trời vinh phúc là ăn năn trở lại.
Ăn năn trở lại hay sám hối trở về là từ bỏ tình trạng tội lỗi trở về sống ơn cứu độ, từ bỏ lối sống xa Chúa, về sống với Chúa (Os. 14, 2; Ger. 3, 14), như thế ăn năn trở về là biến đổi sâu xa của hai trạng thái tâm lý: đổi mới não trạng và đổi mới nội tâm do Thần trí Đức Kitô tác động.
a/ Đổi mới não trạng nhờ trí khôn nhận ra và hối tiếc về tội mình (metanoia: repentir). Đây là công việc của trí khôn luôn luôn xét mình, kiểm tra cuộc sống mình đối chiếu với lời Chúa, luật Chúa. Sự ăn năn sám hối được thể hiện qua nhân vật điển hình: người thâu thuế. Khi nhận ra lầm lỗi của mình, ông đã khiêm tốn đấm ngực ăn năn, cúi mặt xuống đất, nhận mình tội lỗi và cũng không dám xin tha. Não trạng ông đã đổi mới vì hoàn toàn nhận ra mình khốn nạn trước mặt Chúa. Trái lại, người biệt phái không thấy tội lỗi mình, chỉ thấy mình đầy công đức, đã kiêu hãnh ngẩng đầu lên khen mình và chê trách người thu thuế.
b/ Đổi mới nội tâm nhờ ý chí quyết tâm trở về nguồn gốc vinh quang của mình (epistrephein: revenir), mình đã bỏ nguồn gốc ra đi, cuộc đời lang thang bơ vơ, trụy lạc, chỉ gặp những khốn cùng “cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”. Đó là thứ con thiêu thân, như đứa con hoang đàng: ôm hết của cha đi ăn chơi trác táng, gặp nạn đói cùng khốn khó mới nhận ra mình xúc phạm đến cha hiền. May thay, anh đã kịp thời ăn năn khóc lóc hối cải, chỗi dậy tiến về nhà cha, nguồn gốc tổ ấm chan hòa tình thương vui mừng hạnh phúc chân thật. Phaolô cũng nhận ra tình thương vô biên đó, đã trở lại và đã mạnh mẽ tuyên bố trước vua Agripa “Tôi đi rao giảng kêu gọi chư dân sám hối và trở về cùng Thiên Chúa” (Cv. 2 6, 20). Đó là nước Trời thật.
HÃY SÁM HỐI VÀ NHỎ BÉ NHƯ GIOAN ĐỂ ĐÓN CHÚA
Mùa vọng là mùa trông đợi. Chúng ta trông đợi Chúa đến trong đêm giáng sinh. Đó là một sự trông đợi có tính cách nghi lễ nhằm kỷ niệm sinh nhật Chúa Giêsu tại Bêlem. Nhưng đồng thời mùa vọng còn là trông đợi Chúa lại đến vào ngày sau hết như lời Ngài đã hứa. Và lời rao giảng của Gioan được coi như là một lời kêu mời chúng ta tích cực chuẩn bị để bước vào thời đại mới ấy.
Trước hết ông đã rao giảng sự ăn năn hối cải vì Nước Trời đã gần đến. Những hình ảnh ông sử dụng gợi lên một cảnh tượng tiêu điều của sa mạc cát nóng, của hoang địa khô chồi cằn cỗi. Thế nhưng, người Do Thái và nhất là giai cấp lãnh đạo đã coi thường lời kêu gọi ấy. Họ nghĩ rằng mình là dân riêng của Chúa, nhưng thực ra họ chỉ là một loài rắn độc. Con rắn của ma quỷ, đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế Gioan đòi buộc họ phải sám hối ăn năn, đừng nại vào dòng dõi xác thịt. Dân riêng của Chúa trong thời đại mới được tạo nên nhờ sám hối khi lãnh nận dòng nước thanh tẩy.
Sám hối là lo buồn về điều đã vấp phạm hay hối hận vì điều mình đã không làm. Thực vậy, tâm tình sám hối không phải chỉ là việc quay trở về dĩ vãng, bằng cách ăn năn những gì đã lỗi phạm, mà hơn thế nữa còn phải hướng tới tương lai, bằng cách dốc quyết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi vấp phạm ấy, để thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời. Và như vậy, sám hối đòi hỏi phải có một cái nhìn mới, một thái độ mới, một cuộc sống mới, và cốt lõi của nó bao gồm sự trở về cùng Chúa.
Trong cuộc sống thường ngày, rất nhiều lần chúng ta đã không thực hiện những điều làm vui lòng Chúa chẳng hạn như: cầu nguyện, học hỏi giáo lý, cảm thông và giúp đỡ những người chung quanh. Trái lại, chúng ta thường hay làm những điều Chúa không muốn, và chẳng bao giờ làm điều Chúa muốn cả.
Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…
Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào ‘trời mới đất mới’ mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.
Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm
Lòng ăn năn tích cực không dừng lại trong ý thức nhìn nhận tội lỗi của mình, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ dày vò lương tâm bất bình bất ổn bất an bất toàn; hay thành một thứ hối hận theo tự điển tra ngược, là “hối thì ít mà xem ra hận lại nhiều!”. Không phải thế, lòng ăn năn tích cực là cả một tâm tình sống ơn tha thứ, sống do ơn tha thứ và cũng sống cho ơn tha thứ, có nghĩa là một sức sống được chuyển dịch một cách cụ thể qua những việc lành mọi lúc mọi nơi cho Chúa và cho anh chị em mình.
Trong phần thứ hai của trang Tin Mừng, Gioan giới thiệu Đấng đến sau ông nhưng lại quan trọng hơn ông gấp bội. Gioan tự nhận không xứng đáng làm một kẻ nô lệ hèn hạ nhất của Ngài.
Những câu hỏi đặt ra cho ông Gioan cho ta thấy dân Do thái đang chờ đợi Đấng Kitô đến trong tương lai rất gần. Nhưng với tất cả các câu hỏi: “ông có phải là Đấng Kitô?”, “ông có phải là Êlia?” “ông có phải là một vị ngôn sứ?”, Gioan Tẩy Giả đều trả lời bằng một phủ định: “không”. Khi được yêu cầu nói về chính mình, ông chỉ nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi.” (Ga 1, 23)
Gioan Tẩy Giả chính là người kêu gọi dân hãy thay đổi cách sống cũ, hãy đón nhận phép rửa thống hối và sẵn sàng đón nhận Đấng Messia đang sống một cách kín đáo giữa họ: « có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.» (Ga 1, 26-27)
Gioan Tẩy Giả chính là vị nhân chứng khiêm nhường, trung thực, không kheo khoang, khoác loác. Ông đã từ bỏ tất cả những danh hoa phú quí để trở nên tiếng kêu trong sa mạc, để trở nên người mở đường cho Con Thiên Chúa đến.
Gioan sống đẹp khi được dân chúng ngưỡng mộ, xem mình như một ngôn sứ cao cả, thì Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cởi quai dép cho (Ga 1, 27), để cho đám đông thôi ngưỡng mộ Gioan mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giê-su.
Thánh Gioan làm cho mình nhỏ bé lại, để cho Chúa lớn cao hơn. Thánh Gioan thực hiện khi nói: tôi cần phải nhỏ đi, mà Chúa cần phải lớn lên. Nghĩa là Gioan phải bỏ mình, phải chịu thiệt thòi, để Chúa được vinh danh hơn. Gioan đã vui lòng mất hai môn đệ, để Anrê và Gioan theo Chúa.
Noi theo và sống gương của Thánh Gioan Tẩy Giả, ta hãy trở nên những ngôn sứ cho thời đại hôm nay, hãy là người dọn đường khiêm hạ cho nhiều người đến gặp Chúa. Ước mong mỗi người chúng ta biết mở rộng lòng để đón nhận niềm vui và trở nên những chứng nhân của niềm vui, của niềm hy vọng về Đấng sẽ đến trong vinh quang. Hãy vui lên vì Chúa sắp đến gần!
Tất cả các lời kinh và các bài đọc của thánh lễ hôm nay đều nói lên tâm tình chuẩn bị đón Chúa cứu thế. Chuẩn bị cách nào thì Phúc Âm trả lời rõ ràng.
Qua bài Phúc Âm ta thấy thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu với ta một cách chuẩn bị tốt nhất mà chính ngài đã rao giảng. Cách chuẩn bị đó là ăn năn sám hối. Ai cũng hiểu ăn năn sám hối là gì. Đó là vấn đề quen, nhưng thực hiện vấn đề quen chưa chắc đã là quen. Vì thế tôi xin chia sẻ vài nhận xét vắn tắt của tôi mong góp phần giúp thực hiện sự ăn năn sám hối một cách chu đáo hơn.
Nhận xét thứ nhất của tôi là khi ăn năn sám hối, ta thường rất chú trọng đến việc nhìn vào chính mình. Đó là việc làm đúng. Nhưng trong tôn giáo của ta, nếu quá nhấn mạnh đến việc nhìn vào chính mình thì sự ăn năn sám hối sẽ rất thiếu sót. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối rất cần nhìn lên Chúa, rất cần gặp gỡ Chúa. Thánh Gioan Tẩy giả chỉ vào Đức Kitô mà nói: Đây Chiên Thiên Chúa. Với lời đó, thánh Gioan Tẩy giả muốn ta nhìn vào Chúa Giêsu, lấy đức tin gặp gỡ Chúa Giêsu, xin Chúa thương xót, ban ơn giúp ta thấy được sự xấu xa độc hại của tội lỗi, giúp ta biết gớm ghét tội lỗi, giúp ta biết chọn lựa đàng lành.
Nhận xét thứ hai của tôi là khi ăn năn sám hối ta thường rất chú trọng đến những bổn phận đối với Chúa, như đi lễ, đọc kinh tin cậy mến, đó là việc làm đúng. Nhưng trong tôn giáo của ta, nếu hầu như chỉ chú trọng đến việc đó, thì ăn năn sám hối rất thiếu sót. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối, rất cần nghĩ tới những bổn phận đối với gia đình, bạn bè, đồng bào, xã hội, tổ quốc, cứ xem lại những lời thánh Gioan Tẩy giả trả lời từng giới người đến hỏi ý kiến ngài, ta sẽ thấy ngài luôn khuyên mọi người giữ đức công bằng. Đừng làm hại đồng bào, dù là của cải, dù là tính mạng, dù là thanh danh, dù là thời giờ. Hơn nữa, hãy đối xử tốt theo đức công bằng với mọi người mình có liên hệ.
Nhận xét thứ ba của tôi là khi ăn năn sám hối, ta thường rất chú trọng đến “tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”, đó là việc làm đúng nhưng trong tôn giáo của ta, nếu hầu như chỉ chú trọng đến những sự đó, thì việc ăn năn sám hối vẫn còn thiếu sót lắm. Theo tinh thần thánh Gioan Tẩy giả thì trong ăn năn sám hối còn cần để ý đến những nguồn, người gốc, đã gây nên những tội tư tưởng, tội lời nói, tội việc làm, và tội do thiếu sót. Một trong những nguồn gốc đó là tính hư nết xấu. Thánh Gioan Tẩy giả đã nói tới những núi đồi cần phải bạt đi, những con đường cong queo đều phải uốn ngay lại. Tôi hiểu ngài cố ý nói về tính hư nết xấu tự nó chưa phải là tội, nhưng nó là đầu mối đưa tới tội lỗi. Tính hư nết xấu, chẳng hạn như tính tự cao tự đại, tính tham lam, tính nhỏ nhen. Đó là những cong queo, đó là những đồi núi cần phải sửa lại.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion … (Này hỡi Dân Sion…) Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy… ” (Ca nhập lễ) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên. Khơi dậy trong ta một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta: « Hãy sửa đường Chúa », nghĩa là: hãy hoán cải tâm hồn đón chờ Chúa đến.
Bài đọc I vang lên làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: “Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống… Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở… ” (x. Is 11, 1-10).
Tin Mừng theo Thánh Matthêu (3, 1-12) trình bày cho chúng ta nhân vật Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, từ trong hoang địa, rao giảng kêu gọi dân Do Thái sám hối. Lời giảng tuy nghiêm nghị nhưng thu hút nhiều người. Gioan đã xuất hiện với những người đương thời như là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Rất ít người nhận ra nhiệm vụ đích thực của ông là để ” dọn đường cho Chúa”, loan báo Chúa đến.
Gioan xuất hiện như Tiếng kêu trong hoang địa, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú. Ông không kêu gọi người ta trở nên nhà khổ tu giống như ông. Ông rao giảng rằng: “Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến … chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng tôi là Abraham. Vì ta bảo cho các người hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa.” Kết quả là: “Dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan.” Lời của Gioan vẫn vang dội qua các thời đại và như một sứ điệp cấp bách gửi đến với chúng ta ngày hôm nay.
Gioan Tiền Hô lớn tiếng kêu gọi: “Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến”. Mùa Vọng năm nay, chúng ta đang sống như thế nào, nếu không phải là chuẩn bị tâm hồn, giục lòng tin, cử hành Phụng vụ cho sốt sáng để lãnh nhận Ân Sũng mà Chúa Kitô đã mang đến trong thế gian cho mọi người hưởng nhờ. Trong năm vừa qua, chúng ta đã đi trọn con đường đặc biệt cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót. Giờ đây, có thể nói là bốn tuần của Mùa Vọng là như “tiền đường” để bước tiếp vào những ngày thánh. Chúng ta hãy chuẩn bị tinh thần bằng lời cầu nguyện, ngõ hầu Mùa Giáng Sinh sắp đến gặp thấy chúng ta sẳn sàng tiếp đón Ðấng Cứu Thế ngự đến!
“Hãy ăn năn thống hối”. Ðể gặp được Ðấng cứu thế, con người cần phải hoán cải chính mình, nghĩa là tiến đến cùng Chúa Kitô với đức tin tươi vui, bỏ đi những cách thức suy tưởng và nếp sống ngăn cản chúng ta sống theo Chúa cách trọn hảo.
“Vì nước trời gần đến”. Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng: Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.
Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Trích “Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng “, § 39, 1-3.
Chúng ta hãy đặt vào tay Mẹ Maria Nữ Vương của niềm hy vọng mọi ước muốn tốt lành của chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta sống Mùa Vọng này cho xứng. Cầu chúc cộng đoàn chúng ta thăng tiến luôn mãi với ơn Chúa. Amen.
Qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã đưa ra một tương lai tốt đẹp, ở đó chỉ có hòa bình và yêu thương, ở đó chỉ có hạnh phúc tinh ròng, không hề bị mây đen che phủ. Người ta sẽ không còn lo sợ chiến tranh và tiền bạc sẽ được dùng để xoa dịu những khổ đau và bất hạnh. Thế nhưng phải chăng đó chỉ là một giấc mơ?
Đúng, đó chỉ là một giấc mơ, nhưng giấc mơ ấy phải biến thành sự thật, nếu như mọi người đều nhận biết Đức Kitô, đều thực thi giới luật yêu thương của Ngài, đều coi nhau như anh em một nhà. Niềm hạnh phúc ấy không phải là một quà tặng được trao banm nhưng là một công trình mà mỗi người chúng ta phải ra sức góp phần, phải cố gắng xây dựng. Thiên đàng chỉ được hứa cho những người tận tâm phục vụ Chúa và anh em.
Chúng ta không phải là những cây khô héo và cằn cỗi, bởi vì như lời thánh Gioan tilền hô đã cảnh cáo: cây nào không đâm bông kết trái sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Và rồi Gioan đã kết luận bằng những lời ld thật nghiêm khắc:
– “Đấng đến sau tôi nhưng lại quyền năng hơn tôi. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Chính đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và trong lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Ngài, rồi Ngài sẽ thu lúa vào kho còn rơm thì đốt trong lửa không hề tắt.
Chúng ta đã được loan báo, nên chúng ta không thể đến cùng Chúa với đôi bàn tay trống rỗng, nhung phải đến cùng Chúa với đôi bàn tay chất đầy công nghiệp. Vậy chúng ta phải làm gì?
Tôi xin thưa hãy tôn vinh Chúa bằng chính những hành động bác ái yêu thương của mình. Hãy giúp đỡ những người có thiện cảm cũng như những kẻ đầy ác cảm với chúng ta, cùng chia sẻ những ước mơ, những sở thích với chúng ta hay không, như lời thánh Phaolô đã yêu cầu: Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Chú đã tiếp rước anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.
Để kết luận, tôi xin đưa ra một vài mẫu gương, như những chứng từ sống đông giữa lòng cuộc đời, để chúng ta bắt chước. Mẫu gương thứ nhất về cha Thelliler de Poncheville. Ngài là một nhà giảng thuyết nổi tiếng, nhưng lại giàu lòng bác ái yêu thương. Ngày kia khi nghe biết có một người đàn bà tội lỗi bị đau nặng tại nhà thương, ngài liền mua một chiếc quạt, đem đến biếu và thăm hỏi. Ngài nói với bà ấy:
– Tôi tới đây thăm bà vì tôi yêu thương linh hồn bà.
Người đàn bà thực sự cảm động và nói:
– Thưa cha, nhiều người cũng đã đến thăm con và nói rằng yêu thương con, nhưng Lời Chúa và chiếc quạt này đã mang lại cho con một ý nghĩa khác.
Tình thương của cha đã làm cho tâm hồn bà tìm về cùng Chúa, trong khi đó, sự khinh bỉ đã đảy bà tới chỗ oán hận và tuyệt vọng.
Mẫu gương thứ hai về thánh Gioan Cottolengô. Ngài là một người đã hiến trọn cả cuộc đời để chăm sóc những người đau yếu, điên khùng và bất hạnh. Ngài tận tình giúp đỡ họ bằng những việc làm cụ thể. Ngài an ủi họ bằng những lời lẽ đơn sơ và chân thành, bởi vì ngài luôn ý thưc mỗi khi làm như thế là làm cho chính Chúa. Từ lời nói đến việc làm, bao giờ ngài cũng tỏ cho họ thấy một tình yêu thương trìu mến.
Noi gương các thánh, chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống để chúng ta luôn bước đi dưới sự soi dẫn của đức tin, nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa.
Cầu nguyện.
Lạy Chúa, trong mùa vọng này, xin cho chúng con biết lắng nghe và thực thi sứ điệp của Gioan tiền hô, bằng cách sám hối ăn năn và chất đầy trên đôi tay nhỏ bé của chúng con những hành động bác ái yêu thương, đó là những hoa trái cuộc đời chung con đem đến cùng Chúa, nhờ đó chúng con sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Mùa vọng là mùa trông đợi. Chúng ta trông đợi Chúa đến trong đêm giáng sinh. Đó là một sự trông đợi có tính cách nghi lễ nhằm kỷ niệm sinh nhật Chúa Giêsu tại Bêlem. Nhưng đồng thời mùa vọng còn là trông đợi Chúa lại đến vào ngày sau hết như lời Ngài đã hứa. Và lời rao giảng của Gioan được coi như là một lời kêu mời chúng ta tích cực chuẩn bị để bước vào thời đại mới ấy. Vậy thì đâu là sứ điệp của Gioan?
Trước hết ông đã rao giảng sự ăn năn hối cải vì Nước Trời đã gần đến. Những hình ảnh ông sử dụng gợi lên một cảnh tượng tiêu điều của sa mạc cát nóng, của hoang địa khô chồi cằn cỗi. Thế nhưng, người Do Thái và nhất là giai cấp lãnh đạo đã coi thường lời kêu gọi ấy. Họ nghĩ rằng mình là dân riêng của Chúa, nhưng thực ra họ chỉ là một loài rắn độc. Con rắn của ma quỷ, đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế Gioan đòi buộc họ phải sám hối ăn năn, đừng nại vào dòng dõi xác thịt. Dân riêng của Chúa trong thời đại mới được tạo nên nhờ sám hối khi lãnh nận dòng nước thanh tẩy.
Trong phần thứ hai của đoạn Tin Mừng, Gioan giới thiệu Đấng đến sau ông nhưng lại quan trọng hơn ông gấp bội. Gioan tự nhận không xứng đáng làm một kẻ nô lệ hèn hạ nhất của Ngài.
Theo tục lệ Do Thái, thì một kẻ nô lệ không buộc phải cởi giày hay xách dép cho chủ. Người môn đệ có thể giúp việc thầy như một nô lệ, trừ việc xách dép hay cởi giày. Trong việc tế tự, trước khi tư tế hành lễ thì một trong các nô lệ phục dịch tại đền thờ, sẽ cởi giày dép để tư tế đi chân không. Hạng người này bị loại vĩnh viễn khỏi mọi đặc quyền Do Thái. Người Do Thái không bao giờ được cưới hỏi với loại người này.
Nếu có ám chỉ đến tục lệ này thì Gioan cũng vạch rõ sự khác biệt giữa ông và Đấng Cứu Thế sẽ đến. Đấng sẽ đến có quyền phán xét, thiêu huỷ kẻ dữ và thánh hoá người lành. Trong khi đó, thanh tẩy của Gioan được hiểu như là một nghi thức áp dụng cho đoàn người hối cải, trông nhờ vào thanh tẩy của thời cứu chuộc để thoát khỏi sự phán xét sắp đến.
Trông chờ Chúa đến, cũng có nghĩa là chuẩn bị đón mừng Chúa trong đêm giáng sinh cũng như trong những biến cố cuộc đời. Và lời kêu gọi của Gioan vẫn có giá trị đối với chúng ta ngày hôm nay: Hãy sám hối, hãy trở nên người mới, trong cách suy nghĩ, trong cách cư xử đối với Chúa và đối với anh em. Bởi vì đón nhận Chúa là đi vào một cuộc sống mới, một thời đại mới.
Nói đến hối cải chúng ta thường chỉ dừng lại ở việc xét mình xưng tội, nhưng lại không mấy nghĩ rằng mình phải trở thành một con người mới, sống trong một thời đại mới, thời đại cứu chuộc, thời đại ân sủng và tình thương của Chúa.
Trong khi thực hiện bức hoạ nổi tiếng “Bữa tiệc ly” Leonard de Vinci đã cãi vã với một người bạn. Ông nhiếc mắng bạn ấy bằng những lời gay gắt và những cử chỉ doạ nạt. Khi cuộc cãi vã đã qua, ông trở lại công việc đang làm là vẽ khuôn mặt Chúa Giêsu. Nhưng ông không thể phác hoạ được một nét. Cuối cùng ông nhận ra sự lo lắng phiền lòng. Ông liền bỏ bút vẽ, đi tìm người bạn mà ông đã xúc phạm và xin người bạn ấy tha thứ cho mình. Thế rồi ông trở về và bình tĩnh vẽ khuôn mặt Chúa Giêsu.
Như nhà hoạ sĩ, chúng ta đang cố gắng đặt Chúa Giêsu vào tác phẩm của mình là lễ Giáng sinh. Chúng ta muốn Chúa Giêsu là trung tâm của việc chúng ta cử hành. Và chúng ta nghe tiếng Gioan Tiền hô khuyên nhủ: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến. Vậy đâu là sự liên kết giữa tâm tình sám hối và việc chuẩn bị đón mừng Chúa đến?
Như chúng ta đã biết trở ngại lớn nhất cho việc đón mừng Chúa đến chính là tội lỗi. Vì thế để dọn đường cho Chúa, chúng ta phải từ bỏ tội lỗi, phải sống tinh thần sám hối. Léonard de Vinci đã không thể vẽ được khuôn mặt Chúa Giêsu khi ông cảm thấy mình còn tội lỗi, mình còn xúc phạm đến người khác. Chúng ta cũng không thể đặt Chúa Giêsu vào bức hoạ giáng sinh bao lâu chúng ta chưa sám hối. Vậy sám hối là gì?
Tôi xin thưa sám hối là lo buồn về điều đã vấp phạm hay hối hận vì điều mình đã không làm. Thực vậy, tâm tình sám hối không phải chỉ là việc quay trở về dĩ vãng, bằng cách ăn năn những gì đã lỗi phạm, mà hơn thế nữa còn phải hướng tới tương lai, bằng cách dốc quyết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi vấp phạm ấy, để thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời. Và như vậy, sám hối đòi hỏi phải có một cái nhìn mới, một thái độ mới, một cuộc sống mới, và cốt lõi của nó bao gồm sự trở về cùng Chúa.
Trong cuộc sống, rất nhiều lần chúng ta đã không thực hiện những điều làm vui lòng Chúa chẳng hạn như: cầu nguyện, học hỏi giáo lý, cảm thông và giúp đỡ những người chung quanh. Trái lại, chúng ta thường hay làm những điều Chúa không muốn, và chẳng bao giờ làm điều Chúa muốn cã. Đó chính là hàng rào cản ngăn Chúa đến với chúng ta, và chúng ta đến với Chúa, nhất là trong mùa Giáng sinh này.
Chính vì thế, trong những ngày nay chúng ta hãy chạy đến nơi toà giải tội để được tha thứ. Việc xưng tội không chỉ để tẩy xoá những vết nhơ tội lỗi mà hơn thế nữa còn giúp chúng ta xa tránh tội lỗi, nhờ đó mà phục vụ Chúa một cách chân thành hơn.
Hãy ra sức khử trừ tội lỗi, Hãy cố gắng phá huỷ cho bằng được những chướng ngại vật trên con đường Chúa sẽ đến viếng thăm. Khử trừ tội lỗi sẽ giúp chúng ta nhìn thấy Đức Kitô một cách rõ ràng hơn. Khử trừ tội lỗi sẽ làm cho con đường Chúa đến với chúng ta và chúng ta đến với Chúa được trở nên bằng phẳng và dễ dàng hơn. Khử trừ tội lỗi sẽ biến tâm hồn chúng ta trở thành một hang đá, máng cỏ sống động cho Chúa. Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì để dọn đường Chúa đến?
CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ
Các nước đang phát triển có hướng đô thị hóa rất mạnh. Dân quê bỏ đồng ruộng ra thành thị. Chính phủ lo đô thị hóa nông thôn. Càng phát triển, người ta càng có khuynh hướng tiêu thụ rất mạnh: ăn sang, mặc đẹp. Vậy mà Phúc Âm hôm nay đưa ra hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô, một người sống trong sa mạc, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo da thú. Phải chăng là Phúc Âm đã lỗi thời, đi ngược với đà tiến hóa của nhân loại?
Để trả lời cho vấn nạn này, trước hết ta hãy cùng nhau đào sâu những sứ điệp Phúc Âm được nhắn gửi qua đời sống của thánh Gioan Tiền Hô. Thánh Gioan Tiền Hô tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đây không phải là một tiếng kêu vô hồn vô nghĩa. Nhưng là tiếng kêu có nội dung, là những sứ điệp gửi đến loài người.
1) Sứ điệp thứ nhất mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy vào sa mạc.
Vào sa mạc là sống với thiên nhiên, sống hòa hợp với đất trời, bảo vệ cây cỏ, dã thú. Trong nền văn minh tiêu thụ hiện nay, người ta khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không nghĩ đến tái tạo. Thiên nhiên đang bị hủy diệt, rừng xanh đang lâm nguy, súc vật đang kêu cứu. Trong bối cảnh ấy, sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô có giá trị như một thức tỉnh con người trước sức tàn phá của nền văn minh tiêu thụ.
Vào sa mạc là tìm nơi yên tĩnh mà nghỉ ngơi. Vì các đô thị lớn đã hoàn toàn bị ô nhiễm: ô nhiễm vì tiếng động, ô nhiễm vì khói xăng, ô nhiễm vì rác rưởi, ô nhiễm vì bụi bặm.
Thế nhưng sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô vượt lên trên những nhu cầu của xã hội, của sức khỏe để nhắm vào đời sống tâm linh con người. Nhịp sinh hoạt trong xã hội công nghiệp càng ngày càng tăng tốc độ. Con người luôn luôn vội vã đuổi theo công việc. Vì thế dễ rơi vào tình trạng sống hời hợt bề mặt. Không có thời giờ lắng xuống bề sâu. Vào sa mạc tâm linh, tức là tạo cho mình một thời gian và một không gian yên tĩnh. Dứt lìa những bận bịu lo toan trong cuộc sống để trở về với mình, đối diện với lòng mình.
Sa mạc không có đường đi. Nên người đi vào sa mạc sẽ đi theo con đường Chúa chỉ dẫn. Như xưa dân Do Thái lang thang 40 năm trong sa mạc, không biết đường đi, chỉ biết đi theo áng mây cột lửa nên đã tìm thấy đường đi về với Chúa, đã gặp được Chúa, đã thành dân của Chúa. Như tiên tri Êlia chạy trốn trong sa mạc đã chẳng tìm được đường thoát thân. Nhưng đã được Chúa chỉ cho con đường hy vọng. Như Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, nên đã tìm thấy con đường của Chúa Cha là hy sinh, khiêm nhường, sống trọn tình con thảo.
Cũng vậy, người vào sa mạc tâm linh sẽ gặp mình và trong sâu thẳm lòng mình sẽ gặp được Chúa. Vì Chúa còn thân thiết với ta hơn chính bản thân ta. Vì Chúa còn sâu xa hơn chính nội tâm ta.
2) Sứ điệp thứ hai mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sống khổ hạnh.
Ta tưởng sống khổ hạnh đã đi vào quá khứ. Thực ra các nước văn minh đang đi vào con đường của thánh Gioan Tiền Hô. Một trong các vấn đề lớn của người phương tây hiện nay là giữ sao cho khỏi lên cân, để khỏi bị cholesterol, để khỏi bị chứng bệnh xơ cứng động mạch, để ngăn chặn bệnh tiểu đường, để khỏi bị mỡ bao tim, người ta đã phải kiêng ăn, bớt uống.
Ăn uống đơn sơ đạm bạc không những có lợi cho sức khỏe mà còn giúp ta tiết kiệm để chia sớt với những vùng thiếu ăn, thiếu mặc. Nhưng vượt lên trên tất cả sức khỏe thân xác lẫn đạo đức liên đới xã hội, nếp sống khổ hạnh trước hết và trên hết nhắm phục vụ đời sống tâm linh. Ăn uống là nhu cầu căn bản của con người. Nó thuộc về bản năng sinh tồn. Ăn uống đứng đầu các khoái lạc. Khi làm chủ được ăn uống, người khổ hạnh cũng dễ tiến tới làm chủ được bản thân. Chế ngự được bản năng ăn uống, ta sẽ dễ chế ngự được tham, sân, si khác trong con người. Đó là bước khởi đầu trên con đường đức hạnh dẫn ta đến gặp Chúa và trở nên thân thiết với Chúa.
3) Sứ điệp thứ ba mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sám hối.
Phải sám hối vì con người là lầm lỗi, là xa lạc. Các thánh chính là những vị không ngừng sám hối để đổi mới bản thân cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng.
Phải sám hối vì đó là điều kiện tiên quyết để đón nhận Tin Mừng, để được vào Nước Trời.
Có hai đặc tính giúp xác định một sám hối đúng nghĩa:
Đặc tính thứ nhất là triệt để. Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…
Đặc tính thứ hai là cấp bách. Không từ từ do dự vì thời giờ đã tới hồi cấp bách. Cái rìu đã đặt sẵn ở gốc cây. Cái sàng đã đặt sẵn ở sân lúa. Cây không sinh trái sẽ bị đốn ngay. Trấu sẽ bị sàng lọc ra ngoài.
Như vậy, con người và sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô không hề lỗi thời. Những sứ điệp sa mạc, sứ điệp khổ hạnh và sứ điệp sám hối vẫn luôn hiện thực. Những sứ điệp ấy soi sáng con đường ta đi, phải tu sửa để gặp được Thiên Chúa Cứu Độ. Cuộc đời gương mẫu của thánh nhân là sức nóng vừa lôi cuốn vừa thúc giục ta. Vì thế Chúa Giêsu đã khen Ngài là “ngọn đèn chiếu sáng và tỏa nóng”. Ánh sáng của Ngài báo hiệu một bình minh chói lọi huy hoàng. Sức nóng của Ngài dẫn ta đến tận nguồn lò lửa. Lò lửa ấy sẽ chiếu sáng, sẽ đốt cháy mọi trái tim trong tình yêu và sẽ thanh luyện ta nên tinh tuyền. Bình minh ấy, lò lửa ấy chính là Mặt Trời Công Chính, là Chúa Giêsu mà chúng ta đang chờ mong trong đêm tối cuộc đời này. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1) Thánh Gioan Tiền Hô chuyển đến ta những sứ điệp nào?
2) Đối với bạn, sứ điệp nào cấp bách hơn cả?
3) Cấp bách và triệt để là hai đặc tính của sám hối Phúc Âm. Bạn có quyết tâm làm lại cuộc đời của mình hoàn toàn và ngay hôm nay không?
4) Bạn đã bao giờ cảm nghiệm niềm vui thiêng liêng do cầu nguyện, sám hối và tự chế chưa?
Những tuần sắp tới Kinh Thánh nhắc nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả vì thế chúng ta đi tìm hiểu về con người đặc biệt này.
Là người đặc biệt với sứ vụ đặc biệt. Sứ vụ đó nghe có vẻ đơn giản nhưng là nguyên nhân dẫn đến việc đầu Gioan lìa cổ. Một là do giằng co giữa hai thế lực giữa sự công chính và sự gian ác. Hai là do quyết định hồ đồ, quyết định lúc cao hứng của người lãnh đạo trong dân chúng. Ba là do con người quan trọng hóa danh tiếng, địa vị cá nhân hơn mạng sống người khác. Điểm này cho thấy việc quí sự sống cách hẹp hòi, ích kỉ dẫn đến tình trạng sự sống cá nhân mình, thân nhân mình thì trọng còn sự sống thiên hạ thì coi thường. Bắt người khác hi sinh để mình sống hạnh phúc đồng nghĩa tội sát nhân.
Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi thay đổi quan niệm sai lầm phò sự sống một cách hẹp hòi, ích kỉ. Sự sống con người quí trọng giống nhau, dù lớn hay nhỏ, dù khôn hay khờ sự sống của họ đều quí vì đều do Thiên Chúa ban cho. Trước khi xuất hiện trước công chúng, rao giảng về thống hối và kêu gọi mọi người hãy tỉnh thức, đừng ngủ mê nhưng tỉnh thức chuẩn bị tấm lòng đón mừng Chúa Cứu Thế, thánh Gioan Tẩy Giả sống một cuộc sống hoang dã thời xưa. Mình mặc áo lông lạc đà, đai lưng bằng da thú và sống nơi xa mạc. Nuôi thân bằng châu chấu và mật ong rừng nhưng ngài nuôi đời sống tâm linh bằng một tình yêu cao vời. Tình yêu cao vời đó thấm nhuần cuộc đời Gioan. Nhờ cha mẹ sống trung tín, thánh thiện của ông Zacaria và bà Elizabeth. Chính lối sống cao trọng đó thấm nhập vào tâm hồn con trẻ Gioan. Ông lớn lên trong một gia đình hết lòng yêu mến Thiên Chúa. Tình yêu chân chính uốn nắn tâm hồn Gioan biến ông thành người khiêm nhường.
Thánh Luca 3,16 thuật lại lời của Gioan
Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho người.
Ơn gọi làm nhân chứng cho Đức Kitô là kêu gọi mọi người thống hối, ăn năn, thay đổi cách sống theo xã hội để trở về với đường lối Chúa. Gioan không mang một chức vị nào trong xã hội thế nhưng lời kêu gọi của Gioan đánh động tâm não hàng nhiều ngàn người. Phúc âm thuật lại khắp mọi ngành nghề tìm đến hỏi Gioan về cách hoán cải tâm hồn. Gioan trở nên nổi tiếng giữa muôn người nhưng danh tiếng vang lừng không mê hoặc lòng ông, không rơi vào cạm bẫy của vinh quang giả tạo, không lạc vào mê hồn của phồn hoa. Gioan đứng vững, không lung lay trước cám dỗ, tán tụng, tung hô của đại chúng mong ông làm lãnh đạo họ. Ông biết rõ nhiệm vụ của mình là mở đường cho Chúa. Ông luôn vững vàng trong ơn gọi chứng nhân. Đời sống chứng nhân được an bài nơi Thiên Chúa. Kinh thánh thuật lại,
Cậu bé càng lớn thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt Israel. Lc 1,80.
Kinh thánh không ghi chép về cuộc đời của phân phụ ông là Zacaria nhưng truyền thống thuật lại là ông bị hoàng đế Hêrôđê cha giết chết nên bà Elizabeth phải bồng con chạy trốn trong hoang địa, trở thành dân tị nạn chính tại quê hương mình.
Dù là dân tị nạn, dù bị bách hại, dù phải sống nơi hoang địa nhưng sứ mạng của Gioan là đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế vẫn được thực hiện một cách trọn hảo. Điều này cho thấy quyền hành, thế lực thế gian không đủ khả năng ngăn cản điều Thiên Chúa muốn thực hiện để cứu dân Người. Thiên Chúa có cách riêng của Ngài và cách đó thường vượt quá trí hiểu, vượt trên suy đoán, vượt qua mọi tính toán của cả ma quỉ lẫn con người. Lời Gioan rao giảng không mới lạ gì. Nếu có mới là cách rao giảng mới mẻ. Cái mới trong con người Gioan chính là ông rao giảng với tất cả tâm hồn và thực hiện điều mình rao giảng và cuối cùng là sẵn sàng đổ máu đào làm chứng điều ông tin và rao giảng. Chính lối sống chứng nhân nhiệt thành làm rung động bao tâm hồn, chuyển hoá bao con tim.
Nhiệm vụ của Gioan được tiên tri Isaiah 40,3 tiên báo trước đó bảy thế kỉ
Có tiếng hô trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chống gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu.
Tiên tri Malachi cũng tiên đoán về ơn gọi của Gioan khi ông thông báo,
Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. 3,1
Sứ giả đây chính là Gioan và Ta chính là nói về Đấng Cứu Thế.
(Suy niệm của Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)
Suốt tuần I Mùa Vọng đã vang lên lời loan báo đầy hứa hẹn của ngôn sứ Isaia về một Đấng Thiên sai cứu độ thuộc vương triều Đavít, mang tên gọi Emmanuel (Is 7,14), sẽ xuất hiện như vị Thủ lãnh để giải cứu dân Chúa khỏi vùng bóng tối (Is 9,1-5) và phục hưng dân Chúa trong trật tự công lý và hoà bình (Is 11,1-9); bấy giờ toàn nhân loại sẽ hành hương về Giêrusalem để phụng thờ Giavê (Is 2,2-5). Vào những lúc bi thảm của lịch sử, những sấm ngôn ấy đã nung nấu nơi tâm hồn con người niềm hy vọng tha thiết: “Trời cao hãy đổ sương mai và ngàn mây hãy mưa vị Cứu tinh”. Chúa nhật II Mùa Vọng hôm nay nói cho ta vị Cứu tinh mà nhân loại ngàn năm chờ mong ấy đang đến qua sự dọn đường của Gioan Tẩy giả, vị ngôn sứ cuối cùng của thời chuẩn bị, đồng thời là vị Tiền hô loan báo và chỉ cho thấy khi Đấng Cứu thế xuất hiện.
Gioan Tiền hô, cũng gọi là Tẩy giả, xuất hiện trên sân khấu cứu độ cách đặc biệt. Đặc biệt vì ông được cưu mang và sinh hạ cách lạ thường khi cha mẹ là Giacaria và Elisabeth đã hết thời sinh nở (Lc 1,7). Điều đó nói lên tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đúng với tên mà thiên thần đã đặt cho ông ngày truyền tin: Gioan nghĩa là “Thiên Chúa thương”. Đặc biệt vì ông đã được thánh hoá từ trong lòng thân mẫu nhờ cuộc viếng thăm của Đức Maria đang cưu mang Ngôi Lời (Lc 1,15.44). Ngày ông sinh ra, phụ thân hết câm và mở miệng tiên báo về sứ mệnh cao cả và định mạng của con mình (Lc 1,64.67), đến nỗi mọi người đều sửng sốt và tự hỏi: “Rồi đây con trẻ này sẽ thế nào?” (Lc 1,66). Ông rút vào hoang địa tĩnh lặng, sống đời khổ chế, ăn châu chấu và uống mật ong rừng (Mt 3,1-4), để trầm tư mặc tưởng về sứ vụ sắp thi hành. Ông xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng và làm phép rửa sám hối chuẩn bị cho phép Rửa của Chúa Giêsu bằng Thánh Thần để ban ơn tha tội (Mt 3,11) Ông khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa (Mt 3,3), là người tôi tớ không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng sắp đến, Đấng có trọn quyền phán xét (Mt 3,11), là tiền hô dọn đường cho Đấng Thiên sai cứu độ đang đến là chính Chúa Giêsu (Ga 1,15). Ông đã làm chứng Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34) và chỉ cho mọi người biết Ngài là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,35). Thế mà khi ngồi trong tù vì đã thẳng thắn vạch tội nhà vua, ông đã băn khoăn sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu là đấng phải đến hay còn phải đợi một ai khác (Lc 7,18). Cái chết của ông vì chân lý cũng loan báo trước cái chết vô tội của Đấng mà ông có sứ vụ dọn đường. Cả cuộc đời của Gioan là một chuẩn bị và dọn đường cho Đấng Thiên sai Giêsu xuất hiện để cứu độ.
Giáo hội tiếp tục bước đi trên con đường của Gioan để thực thi sứ vụ truyền giáo mà Giáo hội xác tín là lý do hiện hữu của mình: “Giáo hội lữ hành, tự bản chất, là truyền giáo”(AG 2). Kitô hữu luôn noi theo gương Gioan để sống ơn gọi của mình là làm chứng nhân cho Đức Kitô, giới thiệu Ngài cho mọi người và dọn đường để Ngài đến với mọi tâm hồn.
Lời rao giảng của Gioan gồm tóm trong câu:Hãy sám hối. Các ngôn sứ thời Cựu ước luôn mời gọi mọi người hãy trở về với Thiên Chúa để được tha thứ. Khi bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu cũng tha thiết mời gọi hãy sám hối (Mc 1,15). Ngài truyền cho các Tông đồ hãy đi rao giảng để mọi người sám hối mà nhận lãnh ơn tha tội (Lc 24,47).
Hoán cải là sự thay đổi tận căn và toàn diện: từ não trạng, tư tưởng đến bản thân, hành động và cuộc sống. Cuộc trở lại nào cũng đòi phải chiến đấu cam go, cho đến lúc được Chúa chiếm hữu qua những thanh luyện. Chướng ngại lớn nhất của hoán cải là tính kiêu căng, sự tự mãn cho mình là công chính không cần ơn cứu độ, là mãi mê với sự đời và hưởng thụ vật chất. Gioan đã tuyên bố cách đanh thép: “Hãy làm việc lành chứng tỏ lòng sám hối. Lưỡi rìu đã kề sẵn gốc cây. Cây nào không sinh quả tốt, sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,7-10). Ông Giakêu đã thật sự hoán cải khi sẵn sàng đền bù gấp bốn cho những ai bị ông làm thiệt hại, bố thí phân nữa tài sản cho kẻ nghèo và từ bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu (Lc 19,8). Hoán cải theo sấm ngôn Isaia là lấp đầy những hố sâu của lòng ích kỷ, tham vọng và hưởng thụ, là bạt đi những đồi cao của kiêu căng tự mãn, là uốn cho ngay những quanh co lươn lẹo trong tư tưởng và hành động dối trá, để có thể đón nhận Đấng Cứu thế và sống tình liên đới huynh đệ với mọi người.
Kết luận
Hãy hoán cải. Hãy thành tâm trở về với Chúa, nổ lực tìm kiếm Người, nhiệt thành đáp ứng lời mời gọi sám hối bằng việc thực thi đức bác ái là giềng mối trọn lành (Cl 3,14) và là sự chu toàn mọi lề luật (Rm 13,10). Đó là điều kiện tiên quyết để dọn đường Chúa đến trong tâm hồn và đời sống của mình và của mọi người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 3,1-12) bắt đầu bằng sự kiện ông Gioan “đến”. “Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê” (c.1). Tác giả Tin Mừng không cung cấp các thông tin chính xác về thời điểm ông Gioan xuất hiện, nhưng cẩn thận cung cấp thông tin về nơi chốn: “trong hoang địa miền Giuđê”. Đây không chỉ là một ghi chú địa dư, mà chính yếu là một ghi nhận thần học. Quả thực, trong truyền thống Thánh Kinh, “hoang địa” là nơi chốn lý tưởng của những cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và chính trong hoang địa, Thiên Chúa đã nói lời của Ngài với ông Môsê, với ông Êlia và với Israel (Xh 3; 1V19; Xh 19).
Vậy, trong nơi chốn đặc biệt như thế, ông Gioan rao giảng. Động từ “rao giảng” là một thuật ngữ của Tân Ước để chỉ việc công bố Tin Mừng. Chủ từ của động từ này là ông Gioan (3,1), Chúa Giêsu (4,17) và các tông đồ (10,7). Nội dung lời rao giảng của ông Gioan là: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” (c.2). “Nước Trời đã đến gần” là thông tin được công bố, và điều kiện để có thể “đi vào” Nước đó chính là sự hoán cải đời sống (metanoia). “Nước Trời” là một kiểu nói sêmít để tránh đọc tên Thiên Chúa, vì thế, có ý nghĩa như kiểu nói “Nước Thiên Chúa” trong các Tin Mừng khác. Để gia nhập Nước Trời, người ta phải hoán cải (metanoeô), tức là thực hiện một sự thay đổi con người mình, từ nội tâm bên trong đến thái độ bên ngoài, hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa. Sự hoán cải đời sống hay cuộc metanoia đó có nền tảng trong lời giảng dạy ngôn sứ, như được trình bày trong Is 1,16-17: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ”.
Trong niềm trông chờ Nước Thiên Chúa, vốn rất mãnh liệt suốt lịch sử Israel, dân chúng nói chung nghĩ rằng Nước ấy sẽ được thực hiện nhờ Đấng Mêsia, vị Vua thuộc dòng dõi Đavít, Đấng sẽ chiến thắng muôn dân và đem lại vinh quang vĩ đại cho Israel. Tuy nhiên, khi rao giảng về sự hoán cải đời sống như là một điều kiện để được gia nhập Nước Thiên Chúa, ông Gioan đã cho thấy rằng Nước Thiên Chúa không chỉ là kết quả can thiệp của Thiên Chúa, mà còn đòi hỏi sự cộng tác của con người.
Tác giả Mt quy chiếu lời rao giảng của ông Gioan về một bản văn ngôn sứ Isaia. Ông viết: “Ông [Gioan] chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c.3). Đây là lời trích từ Is 40,3tt theo bản LXX, khác biệt một chút với bản văn Hípri. Bản văn Hípri viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa hãy dọn sẵn một con đường cho Đức YHWH; trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Lời ngôn sứ này nói đến cuộc giải thoát và hồi hương từ chốn lưu đày của dân Do Thái. Tác giả Tin Mừng áp dụng lời này vào sự kiện ông Gioan rao giảng và công cuộc Đức Giêsu sắp khởi sự. Ngoài ra, cả bản Hípri lẫn bản LXX đều không xác định ai là người cất tiếng hô, nhưng Mt gán vai trò đó cho ông Gioan, và thay thế hạn từ “Thiên Chúa” trong bản văn Is bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Chúa Giêsu. Kiểu nói “hô trong hoang địa” không có nghĩa là tiếng hô vô vọng trong nơi hoang vắng không người, mà là tiếng hô từ hoang địa, nhưng vọng vang ra bên ngoài hoang địa, vang đến tận Giêrusalem và khắp miền Giuđê (c.5).
Thần học của các rabbi Do Thái, dựa trên Ml 3,23 (“Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”), đã khai triển sâu rộng một quan điểm, theo đó, ngôn sứ Êlia sẽ đến như người tiền hô của Đấng Mêsia, để thanh luyện Israel và chuẩn bị cho dân đi vào Vương quốc Mêsia. Chính với hậu cảnh thần học đó mà ông Gioan được miêu tả trong hình dung của chính ngôn sứ Êlia: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (c.4). Quả thực, hình ảnh ông Gioan mặc áo dệt bằng lông lạc đà và nhất là thắt lưng bằng dây da, khiến người đọc nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2V 1,8; chú ý: chỉ Êlia và Gioan mới được Kinh Thánh mô tả là thắt lưng bằng dây da). Có thể nói, trong ý hướng của mình, tác giả Mt có ý khẳng định ông Gioan chính là ngôn sứ Êlia. Mà nếu như thế, thì có nghĩa là biến cố sắp xảy đến chính là “Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”, vì nhiệm vụ của ngôn sứ Êlia quy chiếu về chính Thiên Chúa, và ông không chuẩn bị cho biến cố “đến” của bất cứ ai khác.
Đáp lại lời rao giảng của ông Gioan là một sự kiện đặc biệt.“Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông Gioan” (c.5). Rõ ràng đám đông kéo đến bao gồm hai “cánh” khác nhau: một bên là những người đến từ trung tâm quyền lực tôn giáo – chính trị (Giêrusalem) và bên kia là từ khắp vùng xung quanh “hoang địa miền Giuđê”. Đám đông dân chúng, như vậy, đã tỏ rõ thái độ không hài lòng đối với các thiết chế tôn giáo – chính trị đương thời và đối với những nhà lãnh đạo thuộc về các thiết chế đó.
Đám đông đó kéo đến với ông Gioan, đoạn “họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (c.6). Đương thời, người Do Thái rất quen với những nghi thức thanh đẩy theo luật lệ và thói tục. Nhưng phép rửa của ông Gioan ở đây có những yếu tố khác thường. Thay vì cử hành nghi thức thanh tẩy cho chính mình tại một nơi do Luật ấn định và nước phải được giữ sạch theo quy định, ông Gioan lại làm phép rửa cho những người khác và là trong dòng nước sông Giođan. Đàng khác, phép rửa này được ban với dấu chỉ của một sự hoán cải luân lý, và có ý nghĩa đánh dấu sự thay đổi đã hoặc sắp xảy đến nơi người lãnh nhận.
Trong số những người kéo đến với ông Gioan, có nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc. Những người Pharisêu thường tự hào về sự trung thành của họ đối với Luật được giải thích theo các truyền thống rabbi. Họ có ảnh hưởng trên dân chúng và đại diện cho một thứ quyền bính thiêng liêng. Những người Xađốc thì thuộc về tầng lớp lãnh đạo, gồm phần đông là những nhà quý tộc hoặc giới tăng lữ quý tộc giàu có. Họ là những đại diện cho quyền lực kinh tế, chính trị và tôn giáo. Họ kéo đến với ông Gioan để chịu phép rửa, nhưng lại không ý thức đầy đủ về tình trạng bất chính của mình, trái lại, hình như còn có thể làm cho dân chúng tưởng rằng những hệ thống áp bức bất chính đó không đối nghịch với hình ảnh ngôn sứ của ông Gioan và biến cố mà ông công bố rằng sắp xảy đến.
Vậy, “thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ sắp giáng xuống? Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” (cc.7-8). Ông Gioan không chấp nhận họ, trái lại, còn thẳng thắn và gay gắt khiển trách họ. Ông gọi họ là “nòi rắn độc”, tức là ông xác định bản chất gian ác của quyền bính chính trị – tôn giáo mà họ có trong tương quan với dân chúng. Sau này, chính Đức Giêsu cũng nặng lời như thế đối với những người Pharisêu và các kinh sư (12,32; 23,33). Ông khẳng định rằng điều họ cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”.
Rồi ông Gioan tiếp tục nói với họ: “Đừng tưởng có thể tự nhủ rằng: “Chúng ta có tổ phụ là ông Abraham.” Quả thật, tôi bảo các anh: Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (c.9). Họ tưởng rằng để được cứ, chỉ cần là con cháu ông Abraham là đủ. Ông Gioan cho họ biết rằng không phải dòng dõi mà chính hành động của người ta mới là yếu tố quan trọng. Ông chơi chữ khi cho biết có là con cháu (benayyâ’) của ông Abraham hay chỉ là những hòn đá (abenyyâ’) thì cũng chẳng khác gì. Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10).
Như thế, không phải sự tinh tuyền về di truyền (là người Do Thái chính hiệu), không phải sự thực hiện các nghi lễ phụng tự tại đền thờ (phái Xađốc), cũng chẳng phải sự trung thành giữ những quy định chi li của Luật (phái Pharisêu), mà chính thái độ sống với những người khác trong thực tế, mới là yếu tố làm cho người ta không “bị chặt đi và quăng vào lửa”.
Cuối cùng, ông Gioan so sánh mình với Đấng sắp đến. Ông nói: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh hối cải. Còn Đấng đang đến sau tôi thì quyền thế hơn (ischyroteros) tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (cc.11-12). Ông Gioan tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng đang đến, tức là không đáng làm một công việc bình thường mà người đầy tớ vẫn làm cho chủ mình. Đồng thời, ông cũng cho thấy Đấng đang đến có ba đặc điểm quan trọng: (1) có “quyền thế”, (2) “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”, và (3) là thẩm phán cánh chung rất nghiêm khắc “sẽ rê sạch lúa trong sân”.
Việc gắn tính từ “thánh” vào hạn từ “Thần Khí”, trước hết, có nghĩa là phép rửa trong Thần Khí mà Đấng đang đến sẽ thực hiện chính là thực tại thuộc về cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Thứ hai, điều đó có nghĩa là hoạt động của Đấng đang đến sẽ là hoạt động thánh hóa, tức là đưa con người vào cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Sự thông ban sự sống thần linh từ bên trong sẽ biến đổi con người, làm cho con người gắn kết với Thiên Chúa và trung thành với Người (Ed 36,26t).
Gợi ý suy niệm và chia sẻ:
Đọc bài Tin Mừng hôm nay trong khung cảnh Mùa Vọng, chúng ta có thể suy niệm về ba điểm quan trọng:
Một trong những điểm nhấn quan trọng của bài Tin Mừng hôm nay là việc giới thiệu Đấng đang đến trong dung mạo Đức Chúa. Sứ điệp của ông Gioan (“Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần”: c.2) liên quan đến chính Đức Chúa. Việc giới thiệu ông Gioan là ngôn sứ Êlia cho thấy Đấng sắp đến sau ông sẽ chính là Đức Chúa, vì ngôn sứ Êlia có nhiệm vụ chuẩn bị cho Đức Chúa ngự đến chứ không phải chuẩn bị cho một ngôn sứ khác xuất hiện. Bằng việc cử hành phép rửa, ông Gioan nhấn mạnh sự cần thiết phải thanh luyện để đến gần Đức Chúa đang đến. Khi so sánh mình với Đấng đang đến, ông Gioan nhấn mạnh quyền thế hơn hẳn của Đấng ấy, và nhất là ông khẳng định rằng Thánh Thần (vốn là sự sống và sức mạnh của chính Thiên Chúa) sẽ hiện diện với Đấng đang đến; Đấng ấy sẽ hành động trong quyền năng của Đức Chúa và sẽ ban cho người ta sự sống của Thiên Chúa. Với Đấng ấy, chính Thiên Chúa đến để ban sự sống và đồng thời để phán xét.
Đó chính là Đấng mà chúng ta đang đợi chờ trong suốt Mùa Vọng này. Mùa Vọng không phải là sự chuẩn bị và chờ đợi một lễ hội lớn lao, hoành tráng và vui tươi sẽ được cửa hành vào cuối tháng 12! Mùa Vọng là thời gian đón chờ chính Đức Chúa, Đấng đang đến.
Nội dung căn bản trong lời rao giảng của ông Gioan là: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” (c.2). Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10). Đấng đang đến là Thẩm Phán cánh chung, “tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”” (c.12).
Những người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc muốn tránh cơn thịnh nộ sắp giáng xuống bằng cách đặt mình vào một nghi thức bề ngoài nhưng không thực hiện đòi hỏi nghiêm túc là phải hoán cải đời sống, tức là không thay đổi hệ thống bất chính đang kềm tỏa mình. Theo ông Gioan, những nghi thức bề ngoài không đủ để người ta được bước vào Nước Thiên Chúa; cần phải thay đổi đời sống thật sự.
Đó cũng có thể là vấn đề của chúng ta trong Mùa Vọng này. Tất nhiên những hành động bề ngoài là cần thiết: trong bài Tin Mừng hôm nay, việc hoán cải được thể hiện qua việc để cho mình được dìm trong một phép rửa tỏ lòng sám hối, tức là qua một hành động bề ngoài. Nhưng chỉ những hoạt động bề ngoài thấy được thôi, thì chưa đủ. Điều chính yếu cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”. Đó chính là điều quan trọng nhất trong Mùa Vọng này.
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)
Vâng, người ta thường nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Đó là cụm từ dùng để cổ vũ một nhân vật có thế giá nào đó. Từ bậc quan đến bậc vua chúa, hoặc như quan trạng về làng, hay là “võng anh đi trước, kiệu nàng theo sau”.
Quả thật, một nhân vật trần thế được đón rước một cách trịnh trọng, thì người ta nói: “Tiền hô, hậu ủng”. Nhưng hôm nay, theo lịch phụng vụ Công giáo, Giáo Hội trình bày cho chúng ta một nhân vật đảm nhận vai trò “ Tiền Hô”, đó là Gioan Tiền Hô. Vâng, Gioan Tiền Hô thực thi sứ mạng Tiền Hô của mình đối với ai? Thưa đối với “ Vua Hòa Bình”, vâng, Vị Vua Hòa Bình đến.
Vị Vua Hòa Bình, mà Thiên Chúa đã Hứa từ ngàn xưa qua các tiên tri sẽ đến. Giữa loài người, không có vị vua nào xừng đáng để thay mặt Thiên Chúa chăn dắt muôn dân, thì Thiên Chúa ban Con Một của Ngài cho thế gian, nhưng Vị Vua ấy rất nhân từ, xứng với tước hiệu của Người, đó là “ Vua Hòa Bình” hay là” Vua Bình An”.
Khởi đi từ bài đọc I hôm nay ( Is 11,1-10), chúng ta thấy, Đấng Cứu Thế chính là Vị Vua nhân ái. Sự nhân từ của Người mang đến sự bình an đích thực. Sự bình an đến độ mọi thứ, mọi vật hung ác đều phải hiền hòa. Mọi sự vật phải thay đổi hoàn toàn180 độ. Vì Người là Thần khôn ngoan duệ trí, thần mưu sự can trường, thần thông minh hiếu thảo ( Is11,2).
Vì thế, sự hòa bình và an lạc sẽ ngự trị giữa chúng dân đến độ chiên con chơi đùa với sư tử và trẻ con. Vâng, ngày nay Vị Vua ấy sắp đến, tất nhiên sẽ có một người làm sứ mạng Tiền Hô cho Người, đó là Gioan Tiền Hô, mà Isaia đã nói: “ Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” ( Mt 3,3)
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy, nhân vật Gioan rất thành công trong sứ vụ Tiền Hô của mình. Ông nói: “ Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” ( c 2). Và cách thức sám hối là chịu phép rửa, vì vậy Gioan Tiền Hô được gọi là Tẩy Giả. Nhưng phép rửa được thực hiện bởi Gioan là phép rửa bằng nước, chỉ có giá trị để giục lòng sám hối. ( c11). Nhưng Đấng mà Gioan rao giảng sẽ làm phép rửa trong”Thánh Thần và Lửa”. Thánh Thần và Lửa chính là Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ dùng Thánh Thần để Thánh Hóa và dùng Lửa để thiêu đốt. Có nghĩa là sự thanh tẩy trọn vẹn, chính là tình yêu của Thiên Chúa, là sự cứu chuộc của Đấng Cứu Thế. Thánh Thần và Lửa là một tình yêu bao la, một sự tha thứ vô cùng, vô hạn. Phép Rửa ấy chính là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô. Nhưng Gioan Tiền Hô cũng cho thấy sự công minh, lý đoán của Người bằng một câu nói theo nghĩa đen: “ Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. ( c 12).
Như vậy, Vị Vua Hòa Bình đồng thời cũng chính là Vị Thẩm Phán chí công, Người nhân từ nhưng không nhu nhược. Điều nầy cho thấy, từ khi Người đến lần thứ I cho đến khi Người lại đến, là một hành trình cứu chuộc duy nhất kế tiếp, không đứt quãng. Dựa vào ý tưởng nầy, Giáo Hội mong đợi Đức Kitô lại đến lần Thứ II. Đây cũng là ý nghĩa đích thực của mùa vọng, vì không phải chỉ đón mừng Người đến bằng hình thức bên ngoài là Lễ Giáng Sinh, nhưng quan trọng không kém là chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người trong bất cứ giây phút nào. Đón mừng Lễ Giáng Sinh là Đón Mừng một Mầu Nhiệm Nhập Thể của Đấng Cứu Thế, để suy tôn, thờ là, cảm tạ Người. Nhưng để đón Người đến với chính tâm hồn của từng người trong chúng ta là một điều quan trọng, đó là giờ chết, một sự thật không thể chối cải được.
Nên chi, khi Chúa đến với từng tâm hồn của mỗi người mà chúng ta tỉnh thức thì thật là diễm phúc.
Vậy chúng ta là dân ngoại được kêu mời bởi lòng thương xót của Người, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ mọi người, chúng ta hãy cùng với thánh Phaolô cất lên lời ca: “ Vì thế giữa muôn dân, con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn, ca mừng Danh Thánh Chúạ” ( c 9).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cư ngụ giữa loài người, dù phàm nhân bất xứng. Nhưng để ban ơn cứu độ, Chúa đã trở nên Hy Tế. Khởi sự là Máng Cỏ Bêlem, ôi! Mầu nhiệm thật cao vời, xin cho chúng con biết nhận ra và đền đáp muôn một tình Chúa yêu thương chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề: Populus Sion… (Này hỡi Dân Sion…) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực chuẩn bị đón Chúa đến. Sự kiện này đã được ghi khắc từ lâu trong lịch sử. Một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta: « Hãy sửa đường Chúa », nghĩa là: hãy hoán cải tâm hồn. Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình hài một trẻ thơ, Ngài mời chúng ta đến gặp gỡ Ngài trong khiêm hạ: “Này dân Sion hỡi, Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy… ” (Ca nhập lễ).
Bài đọc I vang lên làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: “Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở… ” (x. Is 11, 1-10).
Tin Mừng theo Thánh Matthêu (3, 1-12) trình bày cho chúng ta nhân vật Gioan Tẩy Giả, là nhân vật đã được tiền báo trong một lời tiên tri nổi tiếng của sách ngôn sứ Isaia (Is 42,3). Gioan Tẩy giả lui vào sa mạc của vùng Giuđêa, dùng lời rao giảng của mình kêu gọi toàn dân hoán cải để sẵn sàng đón Đấng Mesia quang lâm. Lời kêu gọi của Thánh Gioan, vị tiên tri được Thiên Chúa sai đến như là vị tiền hô của Đấng Thiên Sai, vang lên trong tuần thứ II của Mùa Vọng, vạch ra cho chúng ta thái độ cần phải có để sẵn sàng đón chờ Chúa đến: “Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến”. Nếu như xưa kia Gioan rao giảng và kêu gọi người ta ăn năn thống hối, kết quả là: “Dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan”; thì ngày nay sứ điệp này vẫn vang dội qua các thời đại và gửi đến với chúng ta ngày nay với tính cách thật cấp bách.
Với giới biệt phái và văn nhân, Gioan Tẩy Giả bảo họ: “Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối”. Thánh Grêgôriô Cả, Giáo hoàng (540 – 610) đã bình giải rằng: “Gioan Tẩy Giả rao giảng kêu gọi một Đức Tin chân thật và những việc làm tốt lành, để nhờ đó sức mạnh của ân sủng được thấm nhập, ánh sáng của chân lý được chiếu giãi, và những nẻo đường hướng về Thiên Chúa được sinh ra trong những tư tưởng thành tâm thiện chí, sau khi đã lắng nghe Lời Chúa, là Lời dẫn đến mọi sự tốt lành”.
“Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến”. Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng: Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.
Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự bành trướng Vương Quyền Chúa Kitô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn.
Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: “Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an”. Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến. Trích “Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng”, 39, 1-3.
Có thể nói bốn tuần Mùa Vọng là như “tiền đường” dẫn chúng ta chuẩn bị tinh thần sẳn sàng tiếp đón Đấng Cứu Thế ngự đến! “Hãy ăn năn thống hối”. Để gặp được Đấng cứu thế, con người cần phải hoán cải chính mình, nghĩa là tiến đến cùng Chúa Kitô với đức tin tươi vui, bỏ đi những cách thức suy tưởng và nếp sống ngăn cản chúng ta sống theo Chúa cách trọn hảo.
Trước Tin Mừng của một Vị Thiên Chúa vì yêu thương chúng ta đã tự hạ chính mình và mặc lấy thân phận con người, chúng ta không thể nào không mở rộng tâm hồn ăn năn hối cải. Để gặp được Hoàng Tử Bình An, chúng ta phải mở rộng lòng mình, khiêm tốn và ngay thẳng.
Đó là lý do tại sao Mùa Vọng là thời gian chờ đợi và hy vọng. Giáo Hội lấy lại vào chúa nhật II Mùa Vọng lời tiên tri đầy an ủi của ngôn sứ Isaisa như sau: “Mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu rỗi của Thiên Chúa”. Chúng ta hãy đặt tay chúng ta vào tay Mẹ Maria, Nữ Vương của niềm hy vọng để Mẹ giúp chúng ta sống Mùa Vọng này cho xứng. Amen.
Thanh lọc là làm cho trong sạch, làm cho tinh khiết, bỏ chất dơ bẩn và lấy chất tốt lành. Anh ngữ dùng chữ “purge” để chỉ hành động thanh lọc, do đó sinh ra tính từ “purgatory” (có tính chất làm trong sạch), vì thế mà sinh ra danh từ “purgatory” (nơi thanh lọc, chốn thanh luyện). Theo Công giáo, Purgatory có nghĩa là Luyện Hình hoặc Luyện Ngục.
Mùa Vọng là thời gian tẩy rửa linh hồn để đón Con Thiên Chúa giáng sinh. Thanh lọc là hành động cần thiết trong cuộc sống, nhất là thời đại ngày nay, nhiều thứ ô nhiễm. Càng phải thanh lọc kỹ hơn khi sống trong môi trường ô nhiễm nặng như Việt Nam hiện nay – mọi nguồn đều ô nhiễm, kể cả ẩm thực.
Thanh lọc là bảo vệ mình khỏi những thứ tác hại do môi trường. Đơn giản nhất là dạng “khẩu trang” được đa số sử dụng khi ra đường, có người không chỉ đeo vài lớp khẩu trang, mà còn thêm vải tấm chụp từ đầu tới cổ, đôi khi nhìn phụ nữ Việt Nam mà cứ ngỡ là phụ nữ Hồi giáo. Ai cũng bịt kín mít, thật khó có thể nhận biết ai quen hay lạ. Kỹ quá cũng… mệt!
Thể lý đã vậy, tinh thần còn cần được bảo vệ kỹ hơn nữa. Ngày nay có quá nhiều thứ rác rưởi nguy hiểm trên internet – net trắng thì ít mà net đen thì nhiều. Facebook được nhiều người “ưa dùng” nhưng lại có quá nhiều mối nguy hiểm. Có những người commen những câu chẳng đâu vào đâu, vu vơ, linh tinh, vớ vẩn. Và tất nhiên cũng không ít kẻ lợi dụng Facebook để mưu tính những chuyện khuất tất.
Có những tên nghe rất “kêu” hoặc có vẻ “đạo đức” nhưng trong đó có mối nguy tiềm ẩn khó lường trước. Ngay cả hình đại diện cũng chưa đáng tin nếu chúng ta không biết họ là ai, vì có những kẻ lấy “râu ông nọ cắm vào cằm bà kia”, không biết đâu là thật hay giả. Cũng có những trang xem chừng “nghiêm túc” nhưng biết đâu chừng phía sau là một ổ virus độc hại. Những kẻ câu LIKE (thích) là những kẻ tồi tệ. Nên block (khóa) họ để tự bảo vệ, tức là tự thanh lọc trước khi quá muộn!
Vì thế mà luôn phải cảnh giác cao độ, đúng như tiền nhân đã xác định: “Cẩn tắc vô ưu”. Thời buổi này cũng nên “di truyền” máu-đa-nghi của Tông đồ Tôma lắm đấy! Và thật chí lý với câu nói nghe như vè thế này: “Đừng cãi lý với kẻ say, đừng bắt tay với kẻ xấu, đừng chiến đấu với kẻ liều, đừng nói nhiều với kẻ ngu”. Chí lý lắm đấy chứ. Thật thà thì thẳng thắn, thẳng thắn thì thật tốt. Những kẻ nói ngọt và lấy lòng thì chẳng ra gì, người Anh gọi họ là dân “fair-weather” – tức là những người bạn phù thịnh, ưa nịnh, chỉ chấp nhận quen khi chúng ta có cái gì đó mà họ có thể lợi dụng, nhưng khi chúng ta gặp hoạn nạn thì họ không bao giờ xuất hiện.
Mùa Vọng về, năm mới Phụng Vụ tới, đó là thời điểm chúng ta cần thanh lọc kỹ lưỡng hơn, thanh lọc bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.
Trình thuật Is 11:1-10 nói về vị Minh Quân thuộc dòng dõi Đa-vít. Ngôn sứ Isaia mô tả: “Từ gốc tổ Giessê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà. Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành”.
Nông dân Việt Nam có câu: “Nó bé nhưng gié nó to”. Ý nói về những cây lúa tuy nhỏ bé nhưng trổ ra những gié lúa trĩu nặng những hạt căng mọng. Những thứ nhỏ bé thường là những thứ quan trọng và cần thiết. Chẳng hạn như DNA (deoxyribonucleic acid), dạng chuỗi xoắn đôi quá nhỏ bé, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng nó lại khả dĩ duy trì sự sống, khỏe hay yếu lệ thuộc vào nó và nó mang tính di truyền. DNA ở người có khoảng 3 ngàn tỷ cặp base – gồm 4 hóa chất: Adenine (A), Guanine (G), Cytosine (C), và Thymine (T). Thật kỳ diệu, và chỉ có Thiên Chúa mới tạo được như vậy!
Kinh Thánh cho biết về thời đại của Thiên Chúa: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. Đến ngày đó, cội rễ Giessê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang”.
Đó là sự bình an đích thực, chỉ có ở Vương Quốc của Thiên Chúa. Hòa bình mà chúng ta hưởng ngày nay không vững bền, đôi khi chỉ là hòa-bình-ảo, nghĩa là không có chiến tranh súng đạn nhưng vẫn lo sợ đủ thứ, sợ vì nạn ô nhiễm khắp nơi, ngay cả thực phẩm cũng không an toàn thì làm sao bình an được đây? Ảo giác về hòa bình thôi!
Chưa được hưởng nền hòa bình đích thực vì chưa có công lý nghiêm minh. Có công lý mới khả dĩ có hòa bình. Có thời đại nào kỳ cục đến mức độ phải báo cáo hoặc khai báo khi đi làm từ thiện? Những người hảo tâm muốn làm từ thiện là có tội sao? Thật tồi tệ! Thảo nào tác giả Thánh Vịnh đã từng phải tha thiết cầu xin: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:1-2).
Vương Triều Thiên Chúa rất tuyệt vời, bởi vì Ngài là Quốc Vương Chân Lý, và Ngài chỉ tuyển trạch các quần thần thực sự có lòng nhân ái, vì thế “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Tv 72:7-8).
Thế lực trần gian luôn coi thường công lý và rất sợ sự thật, đám dân đen luôn bị những kẻ ăn trên ngồi trước đày đạo và áp bức, ăn chặn mọi thứ, kể cả túi mì tôm. Những người hảo tâm biếu một chút thực phẩm và ít tiền thì bị chúng cướp mất. Từ ngàn xưa, Kinh Thánh đã nói rất chính xác: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn 29:2). Trái ngược với nhân gian, Thiên Chúa là tình yêu, Ngài luôn chạnh lòng trắc ẩn với những kẻ thấp cổ bé miệng: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ” (Tv 72:12-13).
Lời hay thì không thật, lời thật thì không hay, thế nên người ta nói rằng “sự thật thì hay mất lòng”. Thà mất lòng trước rồi được lòng sau. Thiên Chúa luôn thẳng thắn, những người ưa lươn lẹo cảm thấy khó chịu và chói tai khi nghe Ngài giáo huấn, nhưng ai chịu nghe thì sẽ được an tâm và sống thanh thản. Quốc Vương Công Lý là Đức Giêsu Kitô, luôn nói thật và nói thẳng. Không thế cũng không được, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát con người khỏi lầm lạc (x. Ga 8:32).
Kinh Thánh xác định rạch ròi: “Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ, nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời. Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc” (Tv 72:17). Chắc chắn như thế. Sự thật mãi mãi là sự thật, người ta có cố ý bóp méo cỡ nào cũng không được. Người Việt cũng có câu: “Cây ngay không sợ chết đứng”.
Kinh Thánh cũng đã nói rõ: “Nịnh hót ai là giăng lưới dưới chân kẻ ấy” (Cn 29:5). Những kẻ bất tài vô dụng thì ưa nịnh bợ, khoái tâng hót. Chắc chắn kẻ nịnh hót là kẻ xấu, không đáng tin, vì họ là kẻ giăng bẫy hại chúng ta. Vậy mà thế gian lại “chuộng” phong cách đó. Thế nên ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã gióng lên hồi chuông cảnh báo: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:4 & 6). Con đường đó chính là lòng dạ con người, là chính nếp nghĩ và các động thái khúc khuỷu đầy mưu mô thâm độc. Sửa cho thẳng con đường là một cách thanh lọc cần thiết để tâm hồn trở thành nơi xứng đáng cho Thiên Chúa ngự vào.
Dù có thế nào thì cũng đừng tự ái, đừng tuyệt vọng về tình trạng của mình. Mùa Vọng không chỉ nhắc chúng ta mong chờ Đấng Cứu Thế, mà còn dạy chúng ta duy trì niềm hy vọng. Có “lửa” hy vọng rồi sẽ có thể thắp sáng những thứ khác. Hãy lưu ý “chuỗi liên kết” này: Cuộc sống sẽ chấm dứt khi chúng ta NGỪNG mơ ước, hy vọng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn tin tưởng, tình yêu cũng chấm dứt khi chúng ta KHÔNG còn quan tâm người khác. Thật đáng lưu ý biết bao!
Kinh Thánh là kho tàng vô giá, vì mọi thứ đều có thể tìm thấy trong đó. Càng biết Kinh Thánh càng thấy kỳ diệu. Thánh Phaolô cho biết: “Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15:4). Vững lòng trông cậy tức là tiếp tục hy vọng. Niềm hy vọng là cửa ngõ dẫn tới những vùng miền kỳ diệu mà con người chưa bao giờ ngờ tới.
Là con người, ai cũng rất yếu đuối, vấn đề là có cố gắng hay không. Thánh Phaolô đã kinh nghiệm như vậy, thế nên ông chân thành cầu mong: “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 15:4-6).
Không ai có thể giúp mình bằng chính mình tự giúp mình. Thánh Phaolô cầu mong như vậy, nhưng chúng ta có nỗ lực thay đổi hay lại là chuyện khác. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. Thật vậy, tôi xin quả quyết: Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa” (Rm 15:7-9).
Phục vụ là điều cao cả. Chính Chúa Giêsu đã phục vụ và khuyên chúng ta phải phục vụ lẫn nhau. Phục vụ không hẳn là phục dịch như tôi tớ, mà đơn giản chỉ là yêu thương nhau, thiện cảm phải chân thành thể hiện từ ánh mắt.
Trình thuật Mt 3:1-12 nói về “con người giao thời” có tên gọi là Gioan. Ông là người-nối-kết-Tân-Cựu-Ước, là người tiền phong đi trước “mở đường” cho Chúa Giêsu.
Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đã rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Kinh Thánh cho biết rằng ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. DỌN và SỬA là hai hành động cần thiết: DỌN là làm sạch, SỬA là làm cho ngay ngắn. Phải DỌN trước rồi mới SỬA, không thể làm ngược lại.
Ông Gioan là “dị nhân” thứ thiệt, “bụi đời” chính cống, sống rất giản dị: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, thực phẩm là châu chấu và mật ong rừng. Người giản dị là người có chiều sâu nội tâm, thần kinh vững mạnh. Tất nhiên ông cũng có đặc điểm khác người: thật thà và thẳng thắn. Và chỉ vì ông nói thật, nói thẳng, muốn bảo vệ công bình xã hội, bảo vệ luân thường đạo lý nên ông bị những kẻ mưu ác ghét bỏ, toa rập với nhau lấy thủ cấp của ông (x. Mt 14:3-11).
Nghe nói có “anh chàng bụi đời” tên là Gioan ăn nói lưu loát và có phong cách lạ lùng, từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, người ta kéo đến ùn ùn để xem “người cõi trên” thế nào. Có lẽ mới đầu họ chỉ tò mò theo bản tính hiếu kỳ mà thôi, nhưng càng nghe càng thấm. Thế là họ cùng nhau thú tội và xin ông Gioan làm phép rửa cho họ ở sông Gio-đan.
Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc đến chịu phép rửa, ông biết họ giả vờ để mưu mô chuyện khuất tất, nên ông nói thẳng với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham’. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”. Mèn ơi, nói “xóc óc” ghê đi! Nhưng không thể không nói thẳng với những người giả hình, bề ngoài hiền như chiên ngoan mà bề trong là con cọp dự gầm gừ.
Chắc là họ cũng “chạm tự ái” lắm, nhưng họ không biết nói gì để phản đối, và lại họ thấy ông Gioan “chửi” đúng quá trời mà! Thấy họ im như thóc thối, ông Gioan nói luôn một lèo: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Cách thanh lọc của Thiên Chúa rất kỹ lưỡng!
Những lời của ông Gioan nói với nhóm Pharisêu và Sađốc cũng là lời cảnh báo dành cho mỗi chúng ta hôm nay. Có hồn thì tự liệu lấy. Thuận ngôn thì nghịch nhĩ, thuốc đắng mới đã tật. Phúc cho ai cảm thấy “ngứa tai” và “đắng lòng” khi nghe những lời thật như vậy!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận ra Ngài qua các biến cố của cuộc đời để con kịp chấn chỉnh trong thời gian còn Giờ Thương Xót của Ngài. Xin giúp con dọn sạch và sửa lại đường đời con cho ngay ngắn để con được diễm phúc đón Đấng Emmanuel, Con Yêu Dấu Ngài, ngự vào hôm nay và mãi mãi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại và luôn ở với chúng con. Amen.
Trong xã hội ngày nay, con người đề cao tự do nên rất quen thuộc với sự lựa chọn. Khi đi mua quần áo, đồ đạc, người ta lựa chọn những cái có mầu sắc hợp với thị hiếu, kiểu cách hợp với thời trang hoặc sở thích. Khi lựa chọn người để làm nơi nương tựa, các cô thích tìm những anh chàng cao ráo, đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, có bằng kỹ sư, bác sĩ, luật sư…. Và loại bỏ những cậu có chiều cao khiêm tốn, “nhan sắc” kém cỏi, nghèo lủng cả túi quần… Khi lựa chọn những cái đó người ta có quyền đặt tiêu chuẩn theo ý riêng mình. Thiên Chúa cũng lựa chọn con người để cho họ được hưởng phúc thiên đàng hay phải đoạ phạt trong hoả ngục. Hình ảnh tượng trưng mà thánh Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy về Đấng Cứu Thế lựa chọn đó là “cầm nia trong tay mà sảy lúa”; lúa được thu vào kho, còn rơm bị đốt trong lửa không hề tắt.
Thiên Chúa lựa chọn theo tiêu chuẩn nào? Thánh Gioan Tẩy Giả là bậc tiên tri được Thiên Chúa tuyển chọn, cách sống và lối ăn mặc của ngài đã nói lên điều đó. Ngài là ngôn sứ của Thiên Chúa, ánh mắt nhìn và sự xét đoán của ngài dựa vào tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Dân chúng đủ loại từ khắp miền Giuđêa, người giầu sang cũng như nghèo khó, nông dân cũng như thương gia, học giả cũng như người thất học, tuốn đến để xin Gioan làm phép rửa. Gioan không lên án một ai ngoài những người Pharisiêu và ký lục. Họ là những người tự cho mình là công chính, sau này cũng bị Chúa Giêsu lên án. Họ bày tạo ra những luật thanh tẩy rườm rà và giữ rất nghiêm nhặt, nhưng lại lơ là với những điều chính yếu trong sách luật. Chúa đã lên án họ là bọn giả hình, nối dài thẻ kinh và tua áo để nuốt chửng gia tài các bà goá. Gioan cũng thấy việc họ đến xin chịu phép rửa là một hành vi giả tạo nên đã cảnh cáo: đừng tự phụ là con cái Abraham rồi sống bừa bãi, làm điều xằng bậy. Nếu không ăn năn hối cải, sửa đổi đời sống, họ vẫn bị tiêu diệt như một cây sinh ra trái xấu là những hành động tội lỗi ngấm ngầm của họ.
Tật xấu tự phụ, cho mình là người công chính có lẽ ai cũng nghĩ rằng mình không có. Nhưng xét cho kỹ thì hầu như không ai tránh khỏi. Khi chúng ta nhìn người khác làm điều sai rồi kết án họ là người xấu, chê họ thế này, chê họ thế khác, đó là lúc chúng ta ngầm cho rằng mình khá hơn những người đó, nên có quyền xét đoán, kết án họ. Đây là những hoa quả xấu mà cây đời sống của chúng ta có thể sinh ra, còn nhiều hoa quả xấu nữa như lòng ghen tỵ, hằn thù, ganh ghét, kiêu căng, chia rẽ, chống đối, bạo động… Những hoa quả xấu đó sẽ đưa chúng ta vào số cây bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy chúng ta hãy cẩn thận, cố gắng đạt được tiêu chuẩn mà Thiên Chúa muốn tìm kiếm nơi mỗi người chúng ta: đó là hoa quả yêu thương, hy sinh, quảng đại, phục vụ, đoàn kết, tha thứ.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có câu chuyện vui kể rằng: Một lần, để phát động phong trào An Toàn Giao Thông, một tổ chức thuộc Liên hiệp quốc đã tổ chức cuộc thi xã luận quốc tế với chủ đề “Con đường với cuộc sống”. Sau đây là một số bài thi được ban giám khảo đánh giá cao:
– Nước Pháp (2 bài): “Con đường tình yêu”, “Nên tỏ tình trên đoạn đường như thế nào?”.
– Nước Mỹ: “Con đường nào có thể rút lui sau khi phát động cuộc chiến tranh?”.
– Nước ý: Những con đường trong tranh trừu tượng!
– Nước Anh: “Đường đến các trường Đại học và câu lạc bộ bóng đá”!
– Nước Đức: “Luận về con đường trong triết học”!
– Nước Singapor: “Cần phải làm gì để các con đường luôn sạch sẽ?”.
– Nước Trung Quốc: “Người ta có thể làm những con đường… giả, đường nhái được không?”.
– Và… Việt Nam (3 bài): “Tại sao cần đào lấp?”, “Khi đường trở thành dòng sông”, “Những con đường cát bụi”!
Con đường thật muôn màu muôn vẻ. Có con đường vật chất để đi và cũng có con đường là hướng đi của cả một dân tộc, một đất nước. Con đường được làm tốt sẽ phục vụ tốt cho cuộc sống. Ngược lại sẽ là bất hạnh cho những ai đi trên con đường ấy.
Việt Nam đang đi trên con đường hướng tới xã hội chủ nghĩa. Có người bảo sẽ không bao giờ tới. Có người cho rằng tới mà rất chậm. Dù ai nói ngã nói nghiêng thì dân tộc Việt Nam đã đi trên con đường này suốt mấy chục năm dù vẫn xây chưa xong hạ tầng cơ sở, vẫn là bài toán nan giải để hoàn thành.
Người ta nói đường và chân là đôi bạn. Đường không có dấu chân người, sẽ không còn là con đường, chỉ là cỏ dại hoang vu phủ kín lối đi. Người không có đường sẽ không đi về đâu cả. Có khi còn mất cả hường đi. Con người và con đường. Đôi bạn làm nên cuộc đời nhau. Con người làm thành lối mòn cho con đường và con đường thành một kỷ niệm đẹp cho con người một khi đã đi qua.
Nhà văn Lộ Tấn khi 20 tuổi được cha mẹ gửi sang du học tại Nhật. Ông theo học ngành Y. Tình cờ ông được xem một đoạn phim thời sự, trong đó có cảnh một người Trung quốc bị người Nhật hành hình, điều đáng buồn là rất nhiều người Trung quốc khỏe mạnh đứng xem với vẻ mặt đần độn, không phản ứng gì. Ông lập tức bỏ học ngành Y năm thứ 2 và chuyển sang viết văn. Bởi ông nhận thấy học chữa bệnh trong lúc này không quan trọng, bởi dân mà con ngu muội, hèn nhát, thì dù thân thể có khỏe mạnh cũng chỉ là nô lệ mà thôi. Từ đó ông muốn dùng ngòi bút để chữa bệnh tật trong tính cách dân tộc. Chính chàng trai này là tác giả của câu nói nổi tiếng để khích lệ những người mở đường: “Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường, người ta đi mãi rồi thành đường mà thôi”.
Hôm nay giữa sa mạc hoang vu, Gioan mời gọi mọi người hãy làm thành một con đường. Một con đường thẳng ngay thay cho đường quanh co. Một con đường bằng phẳng thay cho đồi núi gồ ghề. Con đường vốn đã không có ở hoang địa, vì hoang địa đâu có người qua lại, nhưng Gioan mời gọi mọi người hãy đi vào hoang địa để tạo thành một con đường sám hối ăn năn cho Con Chúa Trời ngự đến. Hãy mở lối trong hoang địa bằng lối mòn của tình người liên đới và cảm thông. Hãy mở lối cho con người đến với nhau trong hòa bình và thân ái. Đường của yêu thương xóa bỏ ngăn cách hận thù. Đường của thứ tha để xây dựng tình bằng hữu của anh em bốn bể một nhà. Đường của bác ái để xây dựng hạnh phúc cho tha nhân. Con đường của Nước Trời còn hướng cho mọi người biết nhìn về trời cao để sống thanh thoát với những bon chen trần gian, sống vượt lên trên những tham sân si để sống vui tươi và hạnh phúc.
Vâng thưa anh chị em, cuộc đời rất cần những con đường, nhưng đừng bao giờ mở đường để gây đau khổ cho nhau bằng chiến tranh, bằng hận thù. Và cũng đừng mở đường để tìm tư lợi riêng, nhưng mở đường để tạo tình liên đới giữa con người với nhau được gần gũi hơn. Và mở đường phải nhắm đến phục vụ cho nhu cầu con người chứ không phải cho một nhóm người hay một giai cấp nào.
Lời ngôn sứ Gioan vẫn đang mời gọi chúng ta mở lối đường cho Chúa ngự trị. Gioan vẫn thiết tha mời gọi chúng ta hãn san bằng núi đồi của kiêu căng. Hãy lấp đầy thung lũng của đam mê tật xấu. Hãy nắn cho ngay thẳng tính gian dối hại người. Hãy sống một cuộc đời cho xứng với lòng sám hối ăn năn để cho Con Chúa Trời giáng trần nơi cung lòng mỗi người chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quan Trung)
Một trong những điều tôi cảm thấy thấm buồn khi màu tím mùa vọng ngày càng đậm nét trong mùa Phụng vụ đón mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng trần là: “Rất nhiều người không đủ can đảm tha thứ cho chính mình vì những lầm lỗi đã vô tình hay cố ý mắc phải trong đạo làm chủ quản lý đối với tâm hồn và thân xác mình; trong đạo làm người đối với ông bà cha mẹ và tha nhân; và đặc biệt là đạo làm con đối với Đấng đã yêu thương tạo tác nên mình!”
Đâu phải mỗi lần đối diện với thử thách của cuộc sống, là ai cũng thắng được hết đâu? Không ai muốn mình xấu bao giờ! Không ai muốn mình thất bại bao giờ! Và cũng chẳng ai muốn mình sai lầm bao giờ! Nhưng không ai có thể lường trước được hết những gì sẽ sắp xảy tới cho mình! Những “biển báo giao thông tâm linh” vẫn có đó nhưng đâu phải lúc nào mình cũng chú tâm nhìn chúng để đừng vấp ngã, đừng lỡ chân, đừng trật bước trên vạn nẻo đường đời mà ngày ngày mình dấn bước đâu? Chủ quan luôn là một thói tật không hay, không tốt, không đẹp! Nhưng mấy ai trong đời không từng thất bại, không từng đau đớn, không từng cay đắng ngập lòng bởi cá tính này đâu? Và điều này đã từng được Đức Giêsu thốt lên trong đau khổ nhưng với trọn tấm lòng đầy cảm thông cùng ba môn đệ thân tín trong vườn cây dầu năm xưa: “các con hãy canh thức cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối”(Mt 26,41; Mc 14,38). Một sự thương cảm đầy tình người, bởi ngoài Đấng tối cao, còn có ai hoàn hảo?
Mặc cảm lỗi lầm kéo dần ta ra xa nguồn ân phúc; né tránh mối tình tự hiến mà Con Chúa Trời đang mong mõi ban tặng cho đời, cơn cám dỗ “mình không xứng đáng vì đã xúc phạm quá nặng nề đến Đấng Cao Xanh” nên “ làm sao Chúa có thể tha cho tôi được!” đã đẩy ta vào mạng nhện của sự dữ, làm ta quên hay cố tình quên Đấng Cứu Tinh đã từng khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”(Mt 9, 13; Mc 2, 17; Lc 5, 32) bởi vì “người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”(Mc 2,17; Lc 5,32). Biết thụ tạo mạnh sức – yếu hồn, Chúa đã tự nguyện bước tới đưa tay ra trước để chờ đợi ôm ta vào lòng, để Người có cơ hội vỗ về an ủi, để Người có điều kiện thể hiện chức năng của một lương y tâm linh đầy nhiệt huyết, sao ta cứ xa tránh Người?
Khi mở quyển “Vượt Lên Nghịch Cảnh” của loạt sách Chicken Soup for the Surviving Soul” do nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn in ấn, trong câu chuyện đầu tiên “Cậu bé và nhà tỷ phú”, tôi gặp ngay câu tiêu đề cho cả cốt truyện: “Không có cái gọi là tuyệt vọng” (Henry Ford) làm tôi rộn lên trong lòng một niềm vui khó tả vì hiểu rằng, tình đồng loại không thể thiếu cho tôi, nếu tôi biết vượt lên mặc cảm của đời mình. Cậu bé Craig Shergold là niềm vui không những cho gia đình, mà còn cho cả chòm xóm, láng giềng, bạn bè và cả thầy cô nữa. Vậy mà một khối u trong não đã làm cho mọi người thân của cậu bé vùng Carohalton, ngoại ô London hốt hoảng bởi biết rằng sinh mạng của cậu khó được bảo toàn. Nhưng rồi cậu bé đã dũng cảm chấp nhận hoàn cảnh hiện tại để đi vào phòng mổ với lời khuyên của người mẹ thân yêu: “Mẹ muốn con phải thật dũng cảm!” Với khối u ác tính, một dạng ung thư não hoạt tính, mấy ai thoát chết đâu? Nhưng rồi những cánh thiệp khắp nơi đổ về động viên, khuyến khích đã làm cậu bé phấn chấn hơn. Với 1.000.266 thiệp, trong đó có cả những tấm thiệp của một số vị lãnh tụ trên thế giới như Magaret Thatcher, Thái tử Charles, George Bush, Ronald Reagan, Mikhail Gorbachev và cả hai thần tượng của Craig là Michael Jackson và Sylvester Stallone, Craig đã phá vỡ kỷ lục Guinness về người nhận được nhiều thiệp nhất mà trước đây một cậu bé người Anh khác nắm giữ (1.000.265 thiệp). Niềm vui nối tiếp niềm vui, cách đó 6000km nhà tỷ phú 77 tuổi- John Kluge ở Charlottesville, bang Virginia đã nhận được một lá thư từ những người bạn về tình trạng quá hiểm nghèo của cậu bé. Ông đã từng quyên góp hàng triệu đô la cho những người xứng đáng, nhưng chưa bao giờ ông tặng tiền trực tiếp cho một cá nhân nào. Và cũng không muốn tạo thành một tiền lệ hay khơi dậy những hy vọng hư ảo cho gia đình Craig. Nhưng rồi, khi tiếp xúc với gia đình, qua câu nói dũng cảm của cậu bé bởi gia đình không muốn cậu đau đớn nữa vì đã chịu phẫu thuật nhiều lần: “Mẹ ơi, không có thắng lợi nào mà không phải trả giá mà mẹ!” chính ý chí phấn đấu của cậu bé đã làm nhà tỷ phú quyết tâm nổ lực bằng mọi giá giành lại mạng sống cho em.Và rồi nụ cười đã tỏa rạng trên mọi khuôn mặt: Ca phẫu thuật đã thành công vượt quá mong đợi của nền y học hiện đại. Mùa xuân đã trở về trên khắp nước Anh với lời tạ ơn của Manon khi nói với chồng là Ernie lúc nhận được tin nhà tỷ phú John Kluge đã tài trợ trọn vẹn cho ca phẫu thuật của con mình: “Em nghĩ Chúa đã ban cho chúng ta một phép mầu!”.
Nhìn lại đời mình, tôi cũng đã từng chán nản, đã từng thất vọng, đã từng không ít lần mặc cảm với Chúa, tránh né Chúa, xa lìa Chúa vì phải đối diện, phải đối đầu, phải chứng kiến với quá nhiều nghịch cảnh mà sức mình không kham nỗi bởi chẳng ai đỡ nâng, chẳng ai trợ giúp, chẳng ai đồng hành! Nhưng rồi, trong thanh vắng, trong trầm lặng, trong những đêm hôm khuya khoắt, bỗng nghe như có tiếng thủ thỉ bên tai tôi những lời thánh thi trong kinh sáng ngày thường của mùa vọng vọng về:
“Đừng mê ngủ đứng lên hồn ta hỡi,
Dẫu thấy mình còn hôi hám bùn nhơ,
Vì hào quang chói lọi của kim ô
Làm tiêu tan hết những gì nguy hại.
Chiên Thiên Chúa đã từ nơi thượng giới
Xuống cõi trần đền tội vạ chúng ta.
Nào cùng nhau chạy đến lượng hãi hà,
Xin tha thứ bằng lời kinh thắm lệ”
Rồi lời thánh vịnh 26, 10 lại tiếp tục trấn tĩnh tôi:
“Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa,
Thì hãy còn có Chúa đón nhận con”
Và thúc giục tôi hãy xóa đi mặc cảm: mặc cảm thật! bởi thấy mình bất xứng với tình yêu vời vợi từ Trời. Mặc cảm giả! Bởi mình chỉ muốn sống theo ý mình,đạt ý mình mà vẫn biết rõ điều mình đang muốn không phải là ý Chúa! Cũng chẳng đi đúng nền đạo đức nhân gian!
“Hãy cậy trông vào Chúa,
Mạnh bạo lên can đảm lên nào!
Hãy cậy trông vào Chúa.” (Tv 26, 14)
Cậu thiếu niên Craig đã phấn đấu hết mình, cố vượt qua những giây phút chán nản, suy sụp để vươn lên tìm nguồn sống với sự trợ lực của tình người và sự can thiệp thần thiêng của Đấng Tạo Thành. Và cậu đã chiến thắng! Còn tôi? Còn chúng ta? Lời mời gọi từ vị Tiền Hô của Đấng Cứu Tinh thúc giục: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Mt 3, 3), không lẽ nào không động lòng ta? Nếu thực lòng ta quay về với NGUỒN BÌNH AN ĐÍCH THỰC, với tâm tình khiêm tốn như thánh Gioan Tiền Hô: “còn Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến sau tôi, quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách dép cho Người” (Mt 3, 12), chắc chắn cơn cám dỗ với mặc cảm TA KHÔNG XỨNG ĐÁNG sẽ không còn là chướng ngại, không còn là rào chắn, không còn là e dè sợ hãi cản bước ta mở rộng lòng mình, để Đấng Cứu Tinh có thể đến cư ngụ nơi mái nhà đổ nát của ta! Chúa chỉ cần nơi ta tấm lòng chân thành, còn mọi sự, Chúa sẽ tính cho! Ta có tin điều đó không?
Hoang mạc là vùng đất rất khô do có lượng giáng thủy thấp (chủ yếu là mưa, còn tuyết hay sương giá thì rất thấp), thường có ít lớp phủ thực vật. Các hoang mạc còn được mô tả là những khu vực mà nước bị mất theo phương thức bốc hơi nhiều hơn so với mưa. Nhìn chung các hoang mạc có lượng mưa ít hơn 250 mm mỗi năm.
Các hoang mạc chiếm khoảng 1/3 diện tích bề mặt Trái Đất. Các hoang mạc nóng thường có sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm và theo mùa, với nhiệt độ ban ngày cao và ban đêm thấp. Ở các hoang mạc nóng, nhiệt độ ban ngày có thể lên đến 45 °C/318 F, hoặc cao hơn trong mùa hè, và xuống 0 °C/273 F, hoặc thấp hơn vào ban đêm trong mùa đông. Không khí các hoang mạc không có khả năng ngăn chặn ánh sáng mặt trời ban ngày (trời không mây) hoặc giữ nhiệt vào ban đêm. Do đó, vào ban ngày hầu hết nhiệt từ mặt trời sẽ tiếp cận đến mặt đất, và ngay sau khi mặt trời lặn, hoang mạc lạnh rất nhanh. (Wikipedia)
Ông Gioan Tiền Hô đã không khôn ngoan chọn chốn thành thị đông đúc để tiện rao giảng, nhưng lại dại dột vào hoang địa, vốn gay gắt, khắc nghiệt, cả ngày lẫn đêm, lại chẳng khoác áo tu sĩ đúng quy cách, cũng chẳng dùng lương thực đủ dinh dưỡng, thế mà thiên hạ cứ ồ ạt kéo vào hoang địa nghe ông kêu gọi sám hối.
Tịnh tâm
Ngày nay, chỉ những du khách thừa tiền lắm của, mới có thể đi đến hoang địa, để thưởng ngoạn những cảnh vật thiên nhiên kỳ vỹ, cùng thụ hưởng đầy đủ tiện nghi, với chi phí ngất ngưởng cao. Có lẽ bây giờ ông Gioan Tiền Hô sẽ chẳng kêu gọi Kitô hữu đi vào hoang địa nữa, mà chỉ yêu cầu tìm những giây phút tĩnh lặng tại tư gia, hay chốn yên tĩnh nào đó, như giáo đường, tu viện, để tịnh tâm xét mình và cầu nguyện.
Thoát ra khỏi xã hội xô bồ, ô nhiễm tiếng động, vấy bẩn bởi tiền bạc tanh tưởi, ngột ngạt tranh chức, giành quyền, bon chen hưởng lạc, sống mái danh lợi, thì con người mới có thể thư giãn, khỏi trầm cảm, mà thanh thoát, bình tĩnh nhìn lại bản thân, cùng dâng lời nguyện cầu.
Nếu mỗi ngày chỉ dành ít nhất 15 phút trong 1.440 phút, để tịnh tâm, tự vấn đã làm gì tốt và xấu trong ngày, đã kết thêm bạn, giúp đỡ phục vụ ai, hay chỉ chuốc thêm oán thù, ganh ghét, dối gian, để ăn năn, sám hối và cầu nguyện, thì chắc hẳn mai rày sẽ khấm khá hơn, thăng tiến hơn.
Sám hối
“Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng.” Nếu tử tế tịnh tâm, khách quan và khiêm nhu, thì có thể dễ dàng nhận ra mình đã tà tâm, tà ý, tiểu xảo, ma mãnh, ứng xử vụ lợi, vun quén cá nhân, hay đã bỏ mình, hy sinh, dấn thân phục vụ tha nhân. Tư tưởng, lời nói, hành động của mình liệu có cảm thông, chân thành, chính đáng, hữu ích, chia sẻ, giúp đỡ, yêu thương và thương xót tha nhân, hay hoàn toàn ngược lại. Vậy chần chừ chi nữa, mà không ăn năn, sám hối?
Sám hối không dừng lại viêc thống thiết hối hận, xin chừa thói hư tật xấu, mà còn cải tiến, đổi mới, tân trang, lên đời sao cho xứng đáng là chiên ngoan của Mục Tử Nhân Lành. Người luôn đòi hỏi tấm lòng nhân ái chân tình, chứ đâu thích hình thức rềnh rang bề ngoài.“Ta muốn tình yêu, chứ không cần hy lễ.” (Hs 6, 6 & Mt 12, 7)
Ông Gioan Tiền Hô còn chỉ dạy chu đáo về tâm tình sám hối, chứ không chỉ kêu gọi dân chúng đến chịu phép rửa qua loa chiếu lệ cho xong. “Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối.” Như thế, sám hối cần có hành động cụ thể tốt lành tiếp theo, chứ không thể thú tội suông là đã hoàn tất. Với mình, cần chay tịnh, hãm mình, bỏ mình, không chiều theo tánh xác thịt. Với người, cần nhân ái, khoan dung, tha thứ, tận tuỵ phục vụ, vác thập giá mà theo Chúa.
Đón Chúa
Đức Giêsu đã đến rồi, vẫn còn mãi đang đến và sẽ đến. Người đã đến hơn hai nghìn năm tại Bêlem, vẫn đang ở với con người qua Tin Mừng và Thánh Thể, qua tha nhân chung quanh mỗi người. Người đang đến qua Mùa Vọng năm nay. Người còn sẽ đến vào thời mạt thế. “Chính Đấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa.” Với ơn cứu độ, Người đến giải thoát con người khỏi kiếp vong nô, thánh hoá con người, đưa con người trở lại vị thế con Thiên Chúa, nếu con người sẵn sàng hoan hỷ chấp nhận.
Nhưng để xứng đáng đón rước Đấng Cứu Thế, mỗi người cần trở nên bé mọn, đơn sơ, nghèo khó, vâng phục, như chính Người đã làm gương sáng, trở nên hài nhi yếu đuối, bị truy sát giữa một xã hội thực dụng, bái vật, thậm chí từ khước Thiên Chúa. Chính Người đã tiết lộ rằng, những đối tượng đón nhận Chúa là những kẻ bé mọn.”Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Lc 10, 21-24)
Người còn nhiều lần tái khẳng định mục đích đến thế gian cứu độ những kẻ bé mọn lầm lạc, tội lỗi:”Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi.” (Mc 2, 17). Những người đạo đức giả hình, kiêu căng, tự phụ, mạo nhận là công chính, thì dĩ nhiên chẳng thể nào thật lòng muốn đón Chúa.
Ông Gioan Tiền Hô, ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, tuy đã vào sống trong hoang mạc chay tịnh, đạm bạc, kham khổ, nghèo khó, thế mà ngài còn tự nhận rằng không đáng xách giày cho Đức Kitô, thì người Kitô hữu liệu còn hy vọng gì chăng? Rất hy vọng, vì Đức Giêsu vô cùng đại lượng, giầu lòng thương xót, đã mở rộng vòng tay mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.”(Mt 11, 28-30) Vấn đề là có thành tâm ước nguyện đón rước Chúa hay không?
“Người Công Giáo là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, và là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng.” (Đường Hy Vọng, số 950)
Trời cao hãy đổ mưa xuống. Và ngàn mây hãy mưa đấng chuộc tội. Trời cao hãy đổ sương xuống. Và ngàn mây hãy mưa Đấng Cứu đời. Trong đêm u tối chúng con mong ngày mau tới. Như nai đang khát ước mong mau tìm thấy suối. Chúa ơi! Dừng con giận Chúa lại thôi. Chúa ơi! Đoàn con đã hối tội rồi…(sáng tác Duy Tân, Trời Cao)
Kính xin mẹ Maria cầu bầu cho chúng con khiêm nhu, sốt sắng sám hối, đổi mới, hoan hỷ và hy vọng đón Chúa giáng sinh trong tâm hồn chúng con. Amen.
Tự thành lập một tổ chức trẻ em vì môi trường (ECO) khi mới 10 tuổi, hai năm sau đó lại cùng bạn bè quyên tiền, trang trải mọi chi phí tham dự hội nghị thượng đỉnh Trái đất đầu tiên, ở Rio de Janeiro, Brazil, năm 1992, Severn Suzuki đã trở thành “cô gái khiến cả thế giới im lặng trong 6 phút”. Nước mắt và những gương mặt sững sờ của các nhà lãnh đạo trên thế giới còn hiện rõ trong băng ghi hình vì bài phát biểu của cô bé.
“Cháu sợ ra ngoài ánh nắng mặt trời vì những lỗ thủng trên tầng ozone. Cháu sợ hít thở không khí vì cháu không biết có những loại hóa chất gì trong đó. Mới vài năm trước cháu vẫn thường đi câu cá với bốở quê Vancouver, còn bây giờ cháu thấy lũ cá với đầy tế bào ung thư”.
“Cháu đang đấu tranh cho tương lai của bản thân. Cháu ở đây để nói thay cho những đứa trẻ đang chết đói, mà không ai nghe được tiếng khóc của chúng. Cháu ở đây để nói thay cho vô số loài động vật đang chết dần trên cả hành tinh này, vì không có nơi nào để đi.”
Không quá thể hiện cảm xúc bằng đôi mắt hay bàn tay, nhưng với giọng điệu quả quyết, có những lúc cô bé gần như cầu xin các đại biểu: “Cháu chỉ là một đứa trẻ và cháu không biết hết mọi giải pháp, nhưng cháu muốn các cô chú hiểu rằng các cô chú cũng thế. Các cô chú không biết cách xử lý những lỗ thủng ở tầng ozone, không biết cách khiến cá hồi trở lại một con suối đã ngưng chảy, không biết cách hồi sinh một loài vật đã tuyệt chủng và cũng không thể mang lại những khu rừng ở những nơi giờ đây chỉ còn là sa mạc. Nếu các cô chú không biết cách khắc phục hậu quả thì xin đừng phá hoại thêm nữa!”.
Kết thúc sáu phút trình bày của cô bé, ông Al Gore, sau này trở thành phó tổng thống Mỹ, đã chạy tới chúc mừng Severn Suzuki về một bài phát biểu mà ông thấy “hay nhất, muốn nghe nhất tại hội nghị”. (http://www.youtube.com/watch?v=D0Z3EtO0Yx4&feature=player_embedded)
Hiện nay, cô Severn Suzuki đã 34 tuổi, vẫn tiếp tục hiện thực hóa mọi lời nói trong bài phát biểu thành hành động. Cô đã bỏ ra hơn 20 năm đi khắp thế giới, diễn thuyết và cảnh báo về hiểm họa môi trường bị hủy hoại. Còn Thánh Gioan Tiền Hô hơn 2000 năm trước, đã hùng hồn, gay gắt, cảnh báo khẩn cấp và quyết liệt hơn nữa, về cuộc phán xét của Thiên Chúa: “Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa.”
Thời kỳ đã mãn
Con người thường hay quên một thực tế rất quan trọng. Đó là thân phận quá mong manh, mỏng dòn, dễ vỡ, có thể chết bất cứ lúc nào. Biết đâu, đây chính là những dòng chữ cuối cùng của cuộc đời tôi? Ngộ độc thực phẩm, tai nạn giao thông, tai bay vạ gió, cháy nhà, bão lụt, tất cả đều có thể xảy ra cho tôi, cũng như cho người thân, bạn bè, hay kẻ xa lạ bất cứ lúc nào, nơi nào. Thế mà tôi cứ tưởng như sống đời, sỗng mãi, sống hoài, y như vọng tưởng hão huyền của con người hằng bao đời.
Nếu Chúa gọi tôi ngay lúc này, một giờ, một ngày, hay một tháng nữa, tôi phải ứng xử ra sao? Nếu không phải là xưng tội, rước Mình Thánh Chúa? Nhưng tôi có gì đem theo, ngoài tội lỗi đen đúa, ngoài tâm hồn lấm len? Hay là đúng như lời Thánh Gioan Tiền Hô và Đức Giêsu nhận xét: “Nòi rắn độc kia!” (Mt 3,7), hay là “mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23,27)
Sám hối
Thiên Chúa thấu suốt hết mọi sự, từ bên ngoài đến tận cõi lòng, tâm tư, suy nghĩ, ước muốn, đam mê. Tôi chỉ có thể giả vờ đóng kịch với tha nhân, nhưng không thể nào qua mắt Ngài. Tôi có thể là người đàng hoàng tử tế với mọi người, nhưng là người con hoang đàng với Chúa.
Tôi theo Đạo, nhưng chưa sống đạo. Tôi chấp hành và thực hiện đủ những luật lệ, Mười Điều Răn và các điều Hội Thánh dạy, tôi mới chỉ giữ đạo hình thức theo luật buộc. Nào có ích gì trước mặt Chúa? Vì tôi “bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong thì toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23,28). Vì tôi chỉ mới làm những việc đạo dức bắt buộc, chứ tâm hồn tôi còn mải đi hoang, khẩu phật tâm xà.
Chừng nào tôi tự giác theo Chúa, sống đạo, sống Lời Chúa, khiêm tốn, nhìn nhận ra những tội lỗi vấp phạm đến tha nhân và Thiên Chúa, tôi mới thấy cần đến Lòng Thương xót Chúa, mới muốn trở về với Người Cha Nhân Từ, vốn đang mong mỏi chờ đón tôi trở về.
Sinh hoa kết trái
Canh tân, đổi mới tâm hồn, tôi mới sinh hoa kết trái, khi biết nhìn nhận tha nhân là anh em của tôi, thấy động lòng và giúp đỡ những người nghèo khó, hoạn nạn, tàn tật, kém may mắn. Những người lâu nay tôi hờ hững chẳng quan tâm, chẳng để ý gần gũi.
Sinh hoa kết trái là sống Tin Mừng chân thật, thực hiện đúng đắn Lời Chúa, làm chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa, chứng nhân của Đức Giêsu trong môi trường xã hội chuộng vật chất phù phiếm.
Nhưng khó khăn hơn hết là đối phó với chính mình, là vượt qua bản thân với những ích kỷ nhỏ nhen, đố kỵ, ganh ghét, thù hằn, oán hận, với những đòi hỏi hưởng thụ, danh lợi, tà tâm tà ý. Tôi có chịu chết đi thân xác, chết đi những nhục dục, những ham hố, tham lam, thì mới xứng đáng được Chúa đoái thương, ban Ơn Cứu Độ. “Chính khi chết đi là vui sống muôn đời!” (Kinh Hòa Bình).
Lời cảnh báo gay gắt và khẩn cấp của Thánh Gioan Tiền Hô sẽ chẳng thể lay động tôi, bao lâu tôi cứ nhắm mắt theo nếp sống cũ, tham sân si. Nhưng chẳng lẽ tôi đã thấy quan tài mà chưa nhỏ lệ sao?
“Một người giữ đạo, đọc nhiều kinh, dự nhiều lễ, mà không sống đạo, chẳng khác gì người được hỏi: “Bạn có khỏe không?” Liền đáp: “Tôi ăn một ngày sáu bữa.” Chưa hẳn ăn nhiều bữa là đã khỏe.” (Đường Hy Vọng, số 101)
Lạy Chúa Giêsu, xưa Thánh Gioan đã kêu gọi: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần.” Xin Chúa thức tỉnh chúng con khỏi giấc ngủ u mê thế gian, để sốt sắng sám hối, canh tân đời sống, làm việc lành cho xứng với sự thống hối, hầu được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ chúng con biết kết hiệp việc đạo đức với đời sống đạo trung tín, để chúng con thực thi cụ thể và hữu hiệu Lời Hằng Sống. Amen.
(Suy niệm của Lm Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Matthêô bắt đầu nói về Chúa Giêsu từ chương 3 trong tương quan với Gioan Tẩy Giả (3,1-12). Theo sau đoạn nầy là hai biến cố quan trọng: Chúa Giêsu chịu phép rửa (3,13-17), và chịu cám dỗ (4,1-11). Sau đó, sứ vụ của Chúa Giêsu bắt đầu cách chính thức (4,12-17) với lời rao giảng: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (4,17).
Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: – Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6); – Gioan ngỏ với nhóm Pharisêô và Sađucêô (3,7-10); – Gioan loan báo Đấng sẽ đến và sứ vụ trổi vượt của Người (3,11-12). Chủ đề chính của đoạn nầy là “sám hối”, metanoeò (3,2.8 ) và “phép rửa” baptizò (3,1.7.11[2x]). Gioan rao giảng sự sám hối vì “Nước Trời đã gần đến” (3,2), và ông thanh tẩy bằng nước cho những ai tỏ lòng sám hối (c.11). Chúa Giêsu sẽ xuất hiện ở câu 3,13. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trước khi Người đến để chuẩn bị lòng dân đón tiếp Người.
Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6): – Gioan xuất hiện và lời rao giảng của ông (3,1-2); – Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4); – Dân chúng đến với ông (3,5-7).
Trong hai câu đầu tiên Matthêô giới thiệu ngay khung cảnh, thời gian và lời rao giảng của Gioan (c.1). Gioan xuất hiện (c.1), paraginomai, “đến”, động từ nầy cũng được dùng cho Chúa Giêsu (3,13). Matthêô muốn gắn liền sứ vụ của Gioan vào sứ vụ của Chúa Giêsu (4,17). Chỉ dẫn thời gian “trong những ngày ấy” ám chỉ lúc Gioan xuất hiện Chúa Giêsu đang còn ở Giuđêa (x. 2,1). Khung cảnh “trong sa mạc xứ Giuđêa” đặt con người Gioan và lời loan báo của ông liên hệ đến Isaia người loan báo kế hoạch cứu độ mới của Thiên Chúa cho dân Israel (x. Is 40,1-11).
Lời kêu gọi của Gioan là “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (3,2; 4,17; 10,7)
Đặc điểm của Matthêô là đặt việc sám hối liên hệ với Nước Trời, chứ không trực tiếp với việc tha tội (x. Mc 1,4; Lc 3,3). Động từ metanoeò theo nguyên tự có nghĩa là “thay đổi tâm trí” “thay đổi cách hiểu/cách suy nghĩ”; trong meta-noeò có “meta” có nghĩa là “thay đổi”, “chuyển sang”, “biến đổi” (x. 21,29.32; 17,2); và “noeò” có nghĩa là nhận thức bằng tâm trí, là hiểu biết. Matthêô dùng động từ noeò nầy ở thể phủ định trong lời Chúa Giêsu khiển trách hoặc người Pharisêô hoặc các môn đệ của Người, vì họ không hiểu đúng theo cách của Chúa (x. 15,17; 16,9.11). Liên quan đến động từ metanoeò, trong 11,20-21 Chúa Giêsu trách dân thành Kôrazin và Bêthsaiđa vì họ đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện, nhưng họ không “sám hối”, vì họ đã không hiểu/nhận ra Người là ai dù đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện (x. 11,20.21; 12,41). Cũng thế, trong 12,41 Chúa Giêsu lại khiển trách “thế hệ nầy” vì họ đã không “sám hối” khi nghe lời Người rao giảng. Lý do duy nhất là vì họ không nhận Người là “cao trọng hơn Giôna”.
Cách nói “Nước Trời” là theo cách dùng của người Do thái để tránh gọi tên “Thiên Chúa”. Matthêô dùng nó đến 24 lần, trong khi “Nước Thiên Chúa” chỉ bốn lần (12,28; 19,24; 21,31.43). Ý nghĩa của hai cách nói nầy giống nhau (x. 19,23-24). Động từ “gần đến”, egizò, chỉ một sự kiện tới giai đoạn cuối cùng và sắp hoàn tất. Khi Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem là lúc Người sắp kết thúc của sứ vụ cứu chuộc (21,1; 26,45-46); cũng thế về mùa gặt (21,34). Như thế, “Nước Trời đến gần” là giai đoạn cuối cùng trong chương trình cứu chuộc và không còn một nước nào khác nữa. Nước Trời nầy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy, sám hối là thay đổi cách suy nghĩ để nhận ra Nước Trời đang đến và có điều kiện đi vào Nước Trời. Đó cũng chính là nhận ra và tin vào Chúa Giêsu.
Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4)
Câu 3,3 trích dẫn từ phần mở đầu của sách Isaia 40,1-11. Đoạn mở đầu nầy loan báo thời kỳ cứu độ mới cho dân Israel. Tiếng kêu “dọn đường cho Chúa” ngỏ đến một tập thể. Hình ảnh “bạt lối Người đi” nói đến việc tiến vào khải hoàn của một vị vua. Theo sau lời kêu gọi dọn lối sửa đường, Isaia loan báo việc Thiên Chúa đến để cứu độ dân Người (Is 40,4). Matthêô mô tả Gioan Tẩy Giả theo hình tượng của Isaia là thắt lưng bằng da thú vật (3,4; 2 V 1,8) để xác nhận ông là chính là Isaia mà các ngôn sứ loan báo là phải đến trước để dọn đường cho Đấng Kitô (x. 11,14). Như thế sự cứu độ mà Isaia đã loan báo, nay sắp được thực hiện. Như Isaia đã chỉ chuẩn bị đường cho Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả cũng thế. Đấng sắp đến không phải là một ngôn sứ, mà là Thiên Chúa. Tuy nhiên, Gioan còn hơn mọi ngôn sứ thời Cựu ước, khi ông loan báo cùng một sứ điệp Chúa Giêsu và các tông đồ sẽ làm là “Nước Trời đang đến gần” (3,2; 4,17; 10,7). Làm như thế ông được thông phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu thời Tân ước, và được nhận là “còn hơn một ngôn sứ nữa!” (x. 11,9).
Dân chúng đến với ông (3,5-6)
“Tote” “bấy giờ”, mở đầu câu 5, liên kết đoạn nầy lại với câu 3,2. Nghe lời Gioan rao giảng dân chúng kéo đến với ông. Matthêô kể tên Giêrusalem, Giuđêa và vùng dọc theo sông Giorđan (c. 5); nghĩa là cả miền Giuđêa. Khi Chúa Giêsu đến rao giảng, dân chúng sẽ kéo đến với Người, không chỉ từ các vùng nầy mà cả Galilêa và Đêcapolis nữa (4,25). Chú ý ở đây là Matthêô phân biệt “dân chúng từ Giêrusalem” ở đây với “tất cả Giêrusalem với vua Hêrôđê” (x. 2,3). “Tất cả” bấy giờ có cả nhóm Pharisêô và Sađucêô nữa (c. 7). Họ đến để chịu phép rửa tại sông Giorđan trong khi xưng thú tội lỗi (c. 6). Tên Gioan “Tẩy Giả” liên kết với việc thanh tẩy ông làm và sông Giorđan. Việc xưng thú tội của dân chúng được xem là kết quả của lời rao giảng “hãy sám hối” của ông (c. 2; 3,11). Trong Cựu ước sông Giorđan gợi lại giai đoạn sau cùng của thời gian 40 năm lưu lạc trong sa mạc: vượt qua sông để vào đất hứa, theo sự chỉ huy của Giôsuê (Giôsua 3-4). Giôsuê là tên bằng tiếng hipri của cùng tên Giêsu bằng tiếng aramaic. Tên nầy có nghĩa là “Chúa cứu độ” (x. 1,21). Như thế, sông Giorđan có ý nghĩa đặc biệt trong kế đồ cứu chuộc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng sẽ bước xuống sông Giorđan để dẫn đầu cuộc xuất hành mới nầy (3,13-17).
Chúa Giêsu đến để dẫn dân Người vào Nước Trời, chứ không vào bất cứ một đất nước nào. Chỉ ai biết sám hối, nghĩa là thay đổi tâm và trí theo ý Thiên Chúa, mới có thể nhập vào cuộc xuất hành nầy.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng
Ngôn sứ Isaia đã nói trước về ông Gioan Tẩy Giả, gọi ông là “tiếng người hô trong hoang địa”. Hôm nay tiếng hô ấy không lọt tai chút nào, trái lại ít ra làm cho nhiều người thuộc phái Pharisêu và Xa-đốc phải khó chịu hoặc choáng váng mặt mày. Tại sao thế? Vì ông Gioan thẳng thắn sửa sai họ. Vậy chúng ta hãy xem tiếng hô đã nói gì về nhóm người ấy và có lẽ cả về chúng ta hôm nay nữa.
Chúng ta thử hình dung khung cảnh bờ sông Gio-đan, khuôn mặt ông Gioan Tẩy Giả, nhóm người Pharisêu và Xa-đốc. Nét mặt ông Gioan không dữ dằn hay đỏ gay vì nóng giận, nhưng nghiêm nghị và đượm một chút thất vọng. Ông nhìn thẳng vào họ và cất tiếng nói. Ông không nói bóng gió hay rào đón, nhưng đi thẳng vào vấn đề của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa như bao người thì đâu là vấn đề? Theo lời ông Gioan, đây là vấn đề thứ nhất của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” thôi, chứ họ đâu có thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của ông Gioan là một thứ nghi thức hay phù phép để giữ cánh tay trừng phạt của Thiên Chúa lại. Cái chứng đặt nặng hình thức bề ngoài vẫn là căn bệnh trầm kha của nhóm người tự cho mình là công chính! Nhưng thực ra phép rửa của ông Gioan chỉ là dấu hiệu mời gọi họ hãy thay đổi cuộc sống mà “sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”.
Vấn đề thứ hai của nhóm Pharisêu và Xa-đốc là tính tự tôn, dựa vào gốc gác là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Quả thực họ mang cái vỏ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng trong lòng họ đâu còn chút tinh thần nào của tổ phụ Áp-ra-ham nữa! Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của đức tin. Còn họ thì sẽ chẳng tin vào Chúa Giêsu và sứ mệnh cứu độ của Người (xem Gioan 8:31-41). Tổ phụ Áp-ra-ham “đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của [Chúa Giêsu]”. Còn họ thì “lượm đá để ném Người” (8:56-57).
Để sửa sai các “vấn đề” của họ và cũng là vấn đề của chúng ta hôm nay, ông Gioan Tẩy Giả kêu gọi tất cả hãy thực lòng sám hối và tin vào Đấng sẽ đến sau ông, tức là Chúa Giêsu, Đấng “sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa, tay cầm nia rê sạch lúa trong sân”. Nói khác đi, chúng ta phải tin vào sứ mệnh của Chúa Giêsu là làm cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa và sẽ tiếp tục thanh tẩy chúng ta thành “thóc mẩy” để được thu vào kho lẫm đời đời của Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có lẽ chúng ta tự hào mình không giống như những người nhóm Pharisêu và Xa-đốc, và những lời cảnh báo của ông Gioan Tẩy Giả không nhắm vào chúng ta. Không phải vậy đâu! Cách sống đạo của chúng ta nhiều khi không khác gì “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, làm mọi sự vừa đủ để khỏi bị xuống… hỏa ngục! Chúng ta đi lễ Chúa Nhật vì luật buộc, đọc kinh hạt theo số lượng mà không có lòng. Chúng ta cứ tưởng hễ mình mang danh Công giáo là mai sau sẽ ung dung bước vào thiên đàng. Chúng ta không cần để ý phải “sinh quả tốt” là đời sống Kitô hữu đích thực với đức tin sống động ngay ở đời này.
Sứ điệp của ông Gioan Tẩy Giả thuộc loại “sự thật mất lòng”! Nó đòi chúng ta phải can đảm nhìn thẳng vào cuộc sống mình, để nhận diện những “vấn đề” trong đời sống thiêng liêng cũng như gia đình và xã hội của chúng ta. Sứ điệp của ông Gioan không đe dọa, nhưng thành thực giới thiệu với chúng ta Đấng cứu độ là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Vậy thì mùa Vọng cũng là thời gian để chúng ta thay đổi lối sống và theo Chúa Giêsu làm môn đệ Người.
Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.
Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc Âm: Chúa nhật I Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Với Chúa Nhật II, chúng ta bước vào lịch sử: những loan báo trong Cựu Ước bắt đầu thực hiện và giấc mơ của nhân loại trở thành hiện thực. Người loan báo Tin Vui này là Gioan Tẩy Giả, một ngôn sứ đầy tràn ơn Thánh Linh. Gioan mời gọi: “Hãy hối cải vì nước trời đã cận kề”. Giống như các Ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3…), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Ba bài Tin Mừng từ Nhất Lãm (Mt 3, 1-12; Mc 1, 1-8; Lc 3, 1-6), thuật lại niềm hăng say rao giảng của Đấng Tiền Hô, kêu mời hối cải và loan báo sẽ có một đấng quyền năng hơn, Ngài sẽ rửa tội trong Chúa Thánh Thần.
Gioan Tiền Hô, một ngôn sứ luôn gắn bó với Thiên Chúa và cũng rất gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3-12; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Thế giới đang chuẩn bị một trang sử mới. Mọi công sở đều lo tính sổ sách. Nhiều người đưa ra những dự đoán cho năm mới. Báo chí, truyền hình làm thống kê, thường đề cập tới những chuyện không may trong thời gian qua: nơi này phong ba bão tố; nơi kia hạn hán mất mùa, chiến tranh. Ngoài những tai nạn xe cộ, còn có tai nạn máy bay, thậm chí còn đụng nhau trên bầu trời bao la nữa! Sắp tận thế chăng? Khắp nơi đều cho thấy những dấu hiệu bất ổn về mọi phương diện, nhất là về an ninh và kinh tế. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải là ngồi cắt nghĩa điềm thiêng dấu lạ, mà là giữa một thế giới hỗn độn chúng ta sáng suốt nhận ra dấu chỉ của thời đại và lời kêu gọi sám hối ăn năn. Tất cả đều tuỳ thuộc vào đó.
Năm xưa, Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể. Ông được kêu gọi và sai đến với dân Do thái. Sứ mạng của ông luôn gắn liền với khởi điểm của cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Điều này được tất cả bốn tác giả Phúc âm nói đến. Sứ mạng của Gioan được thánh Mátthêu trình bày tóm tắt qua bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay. Ngài nhấn mạnh tới lời kêu gọi sám hối ăn năn hơn là phép Rửa. Có thể nói, phép Rửa của Gioan Tẩy giả là dấu chỉ dành cho những người đã nhận biết lỗi lầm của mình, đồng thời sẵn sàng sám hối ăn năn.
Sám hối trước hết là từ bỏ nếp sống giả hình, nếp sống ‘khẩu phật tâm xà’: môi miệng đọc hết kinh này sang kinh khác nhưng lòng dạ đầy những toan tính xấu xa; ngoài xã hội thì khuyên người khác ăn ngay ở lành còn riêng mình thì lại sống bê tha, khuyên mọi người hãy thương mến nhau nhưng sau lưng thì toàn đi nói xấu kẻ khác!
Sám hối có nghĩa là từ bỏ những hình thức suy tôn tạo vật, những hình thức ỷ lại vào danh vọng, tiền tài. Đừng nghĩ rằng đậu được bằng bác sĩ kỹ sư thì tự cho rằng mình là bậc thông thái, biết hết mọi chuyện. Đừng nghĩ rằng mình sinh ra trong một gia đình giầu có, muốn gì cũng được. Đừng nghĩ rằng mình là con nhà gia giáo, là con ông cháu cha, có quyền ngồi xét đoán kẻ khác. Giống như thái độ kiêu căng tư phụ của dân Do thái xưa: Họ nhìn đời bằng nửa con mắt, vênh vang tự đắc, khinh khi người khác vì nghĩ rằng mình là con cháu Ápraham.
Sám hối không có nghĩa chỉ là nhìn nhận lỗi lầm của mình nhưng còn phải đi xa hơn một bước nữa. Sám hối phải dẫn tới việc sửa đổi đời sống như Gioan đã nói: ‘Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối’, và cụ thể như thánh Phaolô khuyên: ‘Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Đức Giêsu đã tiếp nhận anh em’.
Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào ‘trời mới đất mới’ mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.
Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Gioan, có biệt danh là Tẩy giả. Mátthêu trích dẫn Isaia 40,3 để giới thiệu: Gioan Tẩy giả chính là tiếng kêu trong hoang địa mà ngôn sứ Isaia tiên báo, có nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sống trong hoang địa từ thời niên thiếu (Lc 1, 80), Gioan xa lánh mọi tiện nghi (Mt 11,8; Lc 7,25), xa lánh những khuôn khổ đạo đức Dothái, đặc biệt của đền thờ và hội đường. Ông gần những người Esseniens ở Qumrân. Mátthêu khi phục sức cho Gioan Tẩy giả giống Êlia, mang một bộ áo da lông, ngang lưng thắt dây da (2V 1,8). Mátthêu mặc nhiên bảo, Gioan Tẩy giả chính là Êlia. Theo truyền thống, ÊLia đã được đưa lên trời, không chết, sẽ trở lại làm Tiền hô cho ngày cánh chung, ngày Đấng Messia đến (Mt 3,23).
Trong hoang địa, Gioan lấy châu chấu và mật ong làm thức ăn. Mátthêu không quả quyết Gioan chỉ sống bằng hai thức ăn đó. Châu chấu chẳng phải thức ăn lạ thường. Người Bédouins hiện thời thường ăn châu chấu chiên hoặc ướp muối. Tài liệu Damas ở Qumrân có bảo phải chiên hoặc luộc chúng mà ăn. Còn mật hoặc mật ong tìm trong các hốc đá, hoặc nước rỉ của cây Tây hà liễu.
Bởi cuộc sống đơn sơ đạm bạc, Gioan không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, tiểu đường hay dư cholesterone. Gioan, một con người với thân hình khoẻ mạnh và khắc khổ, nhưng nơi ông toát ra một tâm hồn thánh thiện. Hữu xạ tự nhiên hương, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđêa, cùng khắp vùng ven sông Giođan kéo đến với ông.
Thi hành sứ vụ trong hoang địa, có lẽ Gioan muốn gắn liền với truyền thống khá phổ biến trong Israel. Theo truyền thống, thời Israel lang thang trong hoang địa, từ Ai cập vào đất hứa, được xem như một thời kỳ chứa chan ân sủng, tuyển dân sống thân tình với Thiên Chúa, được Ngài đối xử nhân hậu (Đnl 2,7). Vì thế, người ta tin, thời cánh chung, nước Thiên Chúa sẽ khởi đầu trong hoang địa và Đấng Messia sẽ xuất hiện tại đấy (Mt 24,26). Do đó, một vài thủ lãnh các phong trào thiên sai thường dẫn đồng đảng của mình vào hoang địa (Cv 21,38).
Ở hoang địa Gioan rao giảng gì? Gioan kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì Nước trời đã gần đến”. Sám hối hay hối cải, tiếng Latinh “conversio”, tiếng hy lạp “metanoia”, có nghĩa thay đổi não trạng, ăn năn trở lại, canh tân đổi mới. Trong Cựu ước, từ này có nghĩa bỏ tà thần trở về với Đức Giavê. Trong Tân ước, nó giả thiết một sự thay đổi toàn diện bao hàm cả về phương diện tiêu cực bỏ đàng tội lỗi, lẫn phương diện tích cực hướng con người về Thiên Chúa.
Với Gioan, chốn hoang địa không còn là nơi cô tịch, nó đã trở thành trung tâm khơi động một phong trào sám hối, đầy nghịt những người. Thấy nhiều người thuộc phái Pharisiêu và Sađốc đến chịu phép rửa, Gioan nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” Tại sao Gioan gọi họ như thế? Có lẽ Gioan thấy nơi họ có sự gian dối, giống con rắn trong sách Sáng thế. Họ đến chịu phép rửa không để được tha tội, nhưng để dò xét ông (Ga 1,19-28).
Tuy gọi là “nòi rắn độc”, nhưng Gioan vẫn cho họ một lời khuyên: “Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối, đừng nghĩ: Chúng ta đã có tổ phụ Abraham.” Người Dothái thường tự hào là con cháu Abraham. Họ quan niệm: Ngày cánh chung, ngày Giavê sẽ biểu lộ cơn thịnh nộ của Người. Cơn thịnh nộ ấy sẽ giáng trên lương dân, những kẻ tội lỗi. Còn toàn thể con cái Israel được tham dự vào thế giới tương lai, bởi lời Thiên Chúa hứa cho Abraham và các tổ phụ vẫn có giá trị cho hậu duệ. Theo lối cắt nghĩa của các giáo sĩ, hậu duệ ấy là những người con xác thịt của Abraham. Bởi đấy, trong Dothái có câu châm ngôn quả quyết, ai thuộc dòng máu Dothái, chắc chắn sẽ được cứu rỗi. Một châm ngôn kiểu đó dễ làm cho một số người Dothái sống phóng túng về mặt luân lý và làm cho những người Pharisiêu và Sađốc tự mãn kiêu căng. Đối với Thiên Chúa là con cháu Abraham hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là có giữ giao ước, có yêu mến và thực thi ý Người hay không. Nếu Israel không trung thành với Thiên Chúa, không tin vào Đấng Người sai đến, Người sẽ làm cho những hòn đá trở nên con cháu Abraham, nghĩa là loại trừ Israel và kêu gọi lương dân làm thành một Israel mới phát sinh hoa trái (Mt 8,11-12).
Bởi thế, Gioan đã kêu gọi họ sám hối. Nếu họ không sinh quả phúc đức để chứng tỏ lòng sám hối, họ không thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Theo Gioan điều đó cần thiết và cấp bách, không trì hoãn được, vì Nước trời đã đến: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Cũng như không gì có thể cứu cây khô khỏi lửa đốt, cũng chẳng có gì cứu nổi Israel chai đá khỏi cơn oán phạt.
Đấng sáng lập đến sau ông, quyền thế hơn ông. Sánh với Người ông chẳng là gì. Phép rửa ư? Phép rửa của Gioan là phép rửa tạm thời, phép rửa bằng nước, giục lòng sám hối. Phép rửa của Người là phép rửa bằng Thánh Thần và lửa, là sự thanh tẩy tuyệt đỉnh, ban ơn tha tội và sự sống mới. Con người ư? Ông chỉ là Tiền hô, là người dọn đường không đáng xách dép cho Người. Người là Đấng Messia, là Đấng thẩm phán đầy quyền năng: tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân, thóc mẩy thu vào kho lẫm, thóc lép bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.
Thật tuyệt vời, Gioan Tẩy giả đã khiêm nhường tự xóa mình đi trước Đấng mà ông đã nhận nhiệm vụ dọn đường. Đức Giêsu phải lớn lên, ông phải nhỏ đi. Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ là lúc ông vào nhà tù Macheronte, ở đó ông đã bị chém đầu. Với cái chết, Gioan đã hoàn thành sứ vụ Tiền hô dọn đường. Ông là người vĩ đại. Jean Perron viết: “Thu tóm trong chính mình tất cả những ngôn sứ từ thời Êlia, đấng Tiền hô rõ ràng là ngôn sứ sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo, kết thúc ngôn sứ và mở đầu Phúc âm, ông là bản lề nối Cựu ước và Tân ước”. Đức Giêsu quả quyết: “Trong các người nam không ai trọng hơn Gioan Tiền hô”.
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
TỪ TIẾNG KÊU SA MẠC…
Thành tâm đón nhận:
Nói đến “hoang địa”, “sa mạc”, ta nghĩ ngay đến nơi vắng vẻ, hiu quạnh. Đó là những vùng đồi núi chập chùng cằn khô sỏi đá, hoặc là những vùng đất cát thênh thang trải dài như bất tận. Điều kiện sống ở đây khắc nghiệt quanh năm, nên hầu như không có ai lai vãng đến đây. Sự sống ở đây là một cuộc chiến đấu cam go. Cuộc chiến đấu thanh luyện để tồn tại.
“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắc lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt.3,4).
“Lạc đà” là biểu tượng của sa mạc. Hầu như đó là phương tiện duy nhất để di chuyển trên sa mạc. Người ta gọi con lạc đà là “con thuyền sa mạc, con thuyền trên biển cát”. “da”, “châu chấu”, “mật ong rừng” là những thứ hoang dã. Gioan đã tự nguyện thành “người sa mạc” để thanh luyện mình. Tiếng “người hô trong sa mạc” không phải là người thành phố sang trọng vào sa mạc để réo gọi, Nhưng đó chính là người thật sự đang sống với cung cách sống ở sa mạc, đã kêu lên bằng chính tiếng nói và đời sống của mình. Đời sống được thanh luyện để lời nói được trong sáng, đủ sức chuyên chở thông điệp của Thiên Chúa về ngày Thiên Chúa đến. Như hình ảnh các ngôn sứ xưa, mang sứ mạng chuyển tải Lời Chúa đến với dân riêng Ngài. (2V.1,8).
Tiếng người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa. Hãy bạt lối người đi. (Mt.3,3). (Bản dịch của Cha Thuấn).
Tiếng vọng từ sa mạc, chỉ có ai biết tìm về sa mạc mới nghe thấy được. Tìm về nơi thanh vắng, tìm về cõi tĩnh lặng để lắng nghe tiếng gọi vang vọng trong chính tâm hồn mình.
“Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-dê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan”. (Mt. 3,5-6).
Đón nhận cách giả hình:
“Có tiếng người hô trong sa mạc…” (Mc.1,3).
Sao không là tiếng hô trong thành phố? Sao không là tiếng hô ở Giêrusalem? Vì con người cần phải vào sa mạc. Sa mạc ở đâu? – Sa mạc ngay tại lòng mình.
Đó là cõi nội tâm thênh thang với những buồn vui, những yếu đuối, những khát vọng của kiếp người. Trong thinh lặng nội tâm, ta dễ dàng nhận ra tiếng lòng mình. Tiếng Chúa hướng dẫn đời ta. Đó là giây phút gặp gỡ Chúa một cách thân tình. Đó là giây phút cầu nguyện, ta biết ta yếu đuối và ta biết Chúa yêu thương ta. Ta dọn đường Chúa đến với niềm tin yêu vững vàng. Ta loại trừ những chướng ngại đang vây quanh ta, làm cản bước Chúa đến với ta. Những chướng ngại mà từ lâu ta tưởng chúng bảo vệ ta, hóa ra chúng cô lập ta, chúng làm ta mất liên lạc với Chúa. Chúng ta được vây bọc bởi những tham vọng và thụ hưởng trần tục, và chính ta biết những điều ấy không phải là những điều thuộc về Thiên Chúa, trong sâu xa cõi lòng mình, ta biết mình đang ở vị trí nào trên nấc thang đạo đức, trên nấc thang vươn lên Thiên Chúa ta còn ở vị trí là đà trên mặt đất, nhưng lòng ta vẫn muốn mọi người tin rằng ta cao cả, ta đang ở trên cao, và, thế là, ta sống giả hình. Ta khoát lên mình chiếc áo đạo đức giả hình đề che dấu một tâm hồn kiêu căng và gian dối.
“Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt.23,27).
Thế nên, phải dọn cho Chúa một con đường nội tâm chân chính. Con đường ấy là một cuộc hành trình sa mạc đầy thử thách gian nan, như dân It-ra-en trải qua 40 năm sa mạc để về miền Đất Hứa. Con đường ấy, trong ánh sáng mạc khải Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, đó là Con Đường Thập Giá.
“Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.” (Mt.3,7-8)
… ĐẾN TIẾNG GỌI TRONG LÒNG
Tình Yêu và Chân Lý có tiếng nói mạnh mẽ trong con tim mỗi người, khó mà chối bỏ được. Nhiều khi vì danh vọng, bạc tiền, tư lợi nào đó, người ta tìm cách chối bỏ Thiên Chúa. Người ta khóa chặt cửa lòng từ chối đón Chúa vào căn nhà tâm hồn mình. Nhưng tiếng gọi trong lòng vẫn không hề tắt lịm. Tiếng gọi thiêng liêng vẫn mãi mãi còn đó như Tình Yêu của Thiên Chúa đối với con người mãi mãi còn đó. Con người chối bỏ là sự chọn lựa của chính mình. Là do con tim nguội lạnh. Ngọn lửa tình yêu không còn bùng cháy trong trái tim nữa.
“Thầy đã đến ném lửa trên thế gian và Thầy mong biết bao nhìn thấy nó bùng lên” (Lc.12,49).
Con người chối bỏ Thiên Chúa, vì con người không đón nhận Thánh Thần. Không lớn lên trong Thánh Thần. Không có Thánh Thần con người không thể được nâng lên khỏi lãnh vực xác thịt, không thể trở nên con Thiên Chúa, không có khả năng công nhận Thiên Chúa là Cha.
“Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga.4,24).
Chính vì thế, chúng ta phải dọn cho Chúa một con đường để Ngài đến với ta. Để Ngài thật sự thuộc về ta, ta thuộc về Ngài. Chỉ có Ngài – Đấng Cứu Thế – mới có thể ban phát cho ta hồng ân vô biên đó, vì được làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, là hạnh phúc lớn nhất mà con người tìm kiếm.
“Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt.3,11).
Khi ấy, lòng ta trải rộng, Ta nhận ra Thiên Chúa, Đấng yêu thương ta một cách trọn vẹn. Hình ảnh Thiên Chúa không còn đóng khung trong trí tưởng tượng hẹp hòi của con người. Con tim ta sẽ mở ra, để đón nhận và cho đi suối nguồn tình yêu mà nhờ Chúa Giêsu Kitô ta được ban phát dồi dào đến vô tận. Khi ta khát khao tìm Chúa, ta mới được Chúa soi sáng tâm trí để nhận ra chân dung đích thực của Chúa. Có nhận ra được chân dung đích thực của Chúa, ta mới cảm nhận được sự cao cả và ngọt ngào của Thiên Chúa Tình Yêu. Và đó là niềm tin yêu và hy vọng mà ta hằng luôn ấp ủ trong tận cùng khối óc và con tim ta trong suốt cả đời. Và đó cũng là Mùa Vọng của một đời người.
Có một câu chuyện kể về một bé trai sống trong viện mồ côi: Một đêm nọ, nó giật mình thức giấc. Trời vẫn tối đen, nhưng nó biết rằng hừng đông chẳng mấy chốc nữa sẽ tới. Nó cảm thấy rất nóng lòng muốn thấy cảnh bình minh bên bờ hồ, nhưng các quy định trong viện thật khắt khe: không có lý do chính đáng thì không một em nào được thức dậy trước chuông và cấm ngặt không được ra khỏi phòng ngủ tập thể cho đến khi được phép. Nhưng nó quyết định liều một phen. Nó vội vàng mặc quần áo, cầm giày trên tay và bò ra ngoài để khỏi đánh thức ai. Nó bò một hồi đến hành lang dài và không muốn bắt gặp những cái nhìn không tán thành của các hình ảnh trên tường.
Sau cùng cũng đến được bờ hồ, trong bóng tối, nó ngồi đợi hừng đông. Và kìa! Ngày mới đang bắt đầu, ánh dương ngả từ màu cam sang màu đỏ. Nó mải mê ngắm những tia sáng phản chiếu trên mặt hồ, say sưa với vẻ đẹp tinh khôi. Thình lình nó chợt nhớ đã hết giờ. Lúc này mọi người hẳn đã thức dậy. Nó sẽ trễ mất. Nhất định gặp rầy rà rồi. Nghĩ vậy, nó đứng lên và nói những lời sau cùng với hồ nước: “Bây giờ mình phải về đây. Cám ơn bạn. Mình không lo nếu có bị phạt, bởi vì mình đã hiểu ra rồi. Bây giờ mình biết rằng Thiên Chúa của hồ nước vĩ đại hơn Thiên Chúa của viện mồ côi (Gallagher).
Lạy Chúa,
Xin soi sáng lòng trí con,
Để con nhận ra những lỗi lầm.
Sửa đổi cuộc đời con,
Để nên một con đường,
Ngài đoái thương thăm viếng. Amen.
(Suy niệm của ĐGM. Antôn Vũ Huy Chương)
Giáo hội bước vào Mùa Vọng, 4 tuần lễ chuẩn bị cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngôi Lời Nhập Thể. Ngôi Lời đã làm người bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và đã được Đức Trinh Nữ Maria sinh hạ cách đây hơn 20 thế kỷ. Cử hành Mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh là cử hành việc Chúa ĐÃ ĐẾN để khởi đầu công trình cứu độ trần gian, mà cao điểm là sự kiện CHẾT và SỐNG LẠI của Người, một lần là đủ cho tất cả mọi thời và mọi nơi, nhưng mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo này được cử hành trong Thánh Lễ mà chúng ta cử hành mỗi ngày nhằm “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Chính vì thế, Mùa Vọng còn hướng về việc Chúa SẼ ĐẾN.
Khi cá nhân và tập thể định hướng cho THỜI GIAN thì con người và thời gian đó làm nên LỊCH SỬ. Khi cá nhân người Kitô hữu và tập thể Giáo hội định hướng cho lịch sử theo ý định của Thiên Chúa là cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho lịch sử đó trở thành LỊCH SỬ CỨU ĐỘ. Như thế, lịch sử mỗi người và lịch sử nhân loại nằm giữa RỒI và CHƯA: Chúa đã đến rồi (Giáng Sinh) để định hướng cho Lịch Sử Cứu Độ, nhưng chưa hoàn tất, nghĩa là chưa đạt tới cứu cánh chung cuộc (Cánh Chung). Mùa Vọng vừa cử hành việc Chúa đã đến RỒI, vừa hướng về việc Chúa CHƯA đến. Do đó, nhiệm vụ của mỗi người Kitô hữu cũng như của tập thể Giáo hội, trong thời gian này của Lịch Sử Cứu Độ, là cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô sớm tới ngày hoàn tất, ngày đó Chúa Kitô sẽ đến lần thứ hai để khánh thành công trình cứu độ mà Người đã khởi sự.
Theo bài Tin Mừng, sống tinh thần Mùa Vọng là sống tinh thần SÁM HỐI theo lời mời gọi của ông Gioan Tẩy Giả: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần… Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi… Hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”. Dọn đường là tuyên xưng Đức Tin và Đức Cậy vào Tình yêu Nhập Thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, là sống Đức Ái một cách cụ thể và thiết thực theo gương Người, để đem lại niềm tin và hy vọng cho những người chung quanh. Đặc biệt khi làm việc bác ái từ thiện, mọi người nhớ lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Cagliari: “Chúng ta phải thực thi các công việc từ bi bác ái với lòng từ bi, dịu dàng, và luôn luôn với lòng khiêm tốn! Anh chị em biết không: Đôi khi người ta cũng thấy sự kiêu hãnh trong việc phục vụ người nghèo! Một số người làm đẹp, sống bằng người nghèo; một số người lợi dụng người nghèo để phục vụ cho tư lợi hoặc cho phe nhóm của họ. Tôi biết đó là chuyện phàm nhân, nhưng điều ấy không tốt! Và tôi muốn nói hơn nữa, đó là tội lỗi! Tốt hơn những người ấy nên ở nhà”.
Thánh Gioan Tông Đồ viết: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 9-11). Chúa Giêsu đã không nói “chúng ta cũng phải yêu thương Thiên Chúa”, mà nói “chúng ta cũng phải yêu thương nhau”. Rõ ràng yêu người và mến Chúa là một giới răn duy nhất!
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải cho Môsê biết Ngài là “Thiên Chúa thương xót và nhân hậu, nhẫn nại và đầy lòng trắc ẩn” với những ai cậy trông vào Ngài (Xh 34,6). Trong Tân Ước, lòng thương xót của Chúa Cha trở nên hữu hình và sống động nơi Đức Giêsu, vì ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9). Qua những dụ ngôn nói về lòng thương xót, dụ ngôn về con chiên lạc, dụ ngôn về đồng bạc được tìm thấy và dụ ngôn về người cha với hai người con (x. Lc 15,1-32), Chúa Giêsu đã mạc khải bản tính Thiên Chúa như một người Cha luôn đi bước trước cảm thương và tha thứ.
Chúng ta cùng nhau DỌN ĐƯỜNG TÌNH YÊU để đón Chúa đến trong Mùa Giáng Sinh, đến trong cuộc đời mỗi người và đến trong ngày Chúa quang lâm.
(Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’)
Nếu Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, với lối nhìn viễn cảnh, người ta thấy sáng lên dung mạo của Thiên Chúa, Đấng hằng hy vọng vào con người, đồng thời cũng nhận ra dáng đứng của tín hữu là biết hy vọng vào Thiên Chúa bằng lòng tỉnh thức, để Mùa Vọng được gọi là mùa xanh lên niềm hy vọng thì Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, với lối nhìn cận cảnh, người ta lại thấy Phụng Vụ được diễn tả bằng một màu khác, không còn êm ả mướt xanh nữa mà đã đi vào lắng đọng tím màu để Mùa Vọng cũng gọi được là mùa màu tím.
Tím không ở chân trời nắng xế; tím không ở dòng sông Giođan chiều về nơi Gioan Tẩy Giả làm phép Rửa; tím cũng không ở sắc phục linh mục bước ra dâng lễ, mà tím ở tâm can những tín hữu biết chân thành ăn năn lầm lỗi bao ngày qua để thấy trong lệ sa màu tím của lòng mình. Mùa Vọng đích thực là mùa của màu tím sám hối.
Nhưng làm sao để lòng sám hối diễn tả được nỗi lòng Mùa Vọng, hay nói lên được sắc màu hy vọng? Trả lời câu hỏi này tức là cùng lúc phải xét đến những đặc tính sám hối của Mùa Vọng.
1) Sám hối mang màu hy vọng không cúi gập trên những lầm lỗi của mình mà hướng mở về tình thương Thiên Chúa.
Đối với nhiều người, sám hối cũng đồng nghĩa với lòng hối hận, tức là nhận thức về thân phận tội lỗi của mình, ý thức về những lỗi lầm mình đã phạm và buồn vì mình đã làm xấu cuộc đời mình đi. Tất nhiên, lòng hối hận như thế tự nó có một ý nghĩa nhất định, nhưng nếu chỉ có thế và chấp nhận dừng lại như thế, rõ ràng là có khuynh hướng co cụm lại và cúi gập trên những lầm lỗi của mình. Hối lỗi thì ít mà xem ra hận mình lại nhiều, để rồi khi tự mình vùng vẫy trong tình huống mất thăng bằng ấy, người ta dễ bị rơi xuống vực sâu thất vọng, giống như con muỗi sa vào lưới nhện càng vùng vẫy càng bị xiết chặt, và giống như những kẻ sa vào vũng lầy càng ngoi ngóp càng bị lún sâu.
Thực ra, hối hận chỉ là một thành phần trong hành vi sám hối, hay đúng hơn là khởi điểm của cả một tiến trình trở về mà Thiên Chúa chính là cao điểm và kết điểm. Chính vì đối diện với Thiên Chúa mà tôi biết mình có tội và cũng vì hướng đến Thiên Chúa mà tôi hối hận tìm về. Người ta vẫn bảo sám hối là hai mắt nhìn của con người nội tâm: một mắt nhìn vào mình để nhận ra những tội lụy của một đời xa vắng đã dẫn tới sa ngã rồi xa lìa tình thương Thiên Chúa và mắt khác nhìn vào Thiên Chúa để thấy nơi Ngài một tình yêu như tấm lòng người cha, như trái tim người mẹ bao dung thương xót mà xin ơn làm lại cuộc đời.
Hai con mắt, hai hướng nhìn nhưng vẫn chỉ là một lòng sám hối mang màu hy vọng. Thiếu một trong hai, sắc màu hy vọng đều bị nhạt nhòa. Sẽ là thất vọng nếu chỉ nhìn tội mình mà quên nhìn tình Chúa và sẽ là vô cùng ảo vọng nếu chỉ nhìn tình Chúa mà quên nhìn tội mình; nhưng sẽ là hy vọng dâng đầy cho những ai vươn lên tình yêu Thiên Chúa khởi đi từ lòng sám hối tội lỗi của mình. Hình như trong lời kêu gọi “Hãy sám hối” đã có tiếng giục giã “Hãy hy vọng”, và sở dĩ Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối hôm nay là bởi vì đã có niềm hy vọng dọn đường chờ mong Chúa đến.
2) Sám hối mang màu hy vọng không dừng lại trong nội vi tâm thức mà biết tỏa rộng lên cả cuộc đời.
Đối với một số người khác, sám hối là một cách nói ám chỉ một chuyển biến từ một tình trạng cũ và xấu đến một tình trạng mới và tốt hơn, nhưng hối lỗi chỉ là một chuyển biến xảy ra trong nội vi ý thức của cuộc sống tâm hồn, cùng lắm cũng chỉ được diễn ra bằng những nghi thức đã được quy định. Thế thôi. Rõ ràng cách nhìn như thế quả là không ổn. Không ổn ở chỗ nó quá máy móc, làm như cứ tham dự một số nghi thức sám hối là đương nhiên mình được thanh tẩy bất kể đời sống của mình ra sao; và không ổn ở chỗ nó quá nội giới, làm như sám hối chỉ là một thứ tâm lý liệu pháp nào đó theo kiểu kể tội trong gió, gió thổi bay đi là xong.
Sám hối Mùa Vọng đâu phải là thứ sám hối như thế, mà thật ra phải là thứ sám hối toàn diện đúng mức với lòng hối cải, vốn bao gồm hai động tác cơ bản đan xen: “hối” có nghĩa là hối lỗi và “cải” là kiểu nói tắt của chữ cải thiện. Nếu hối lỗi là lời đoạn tuyệt với quá khứ tội lụy, thì cải thiện là lời quyết tâm dấn bước vào một tương lai tươi mới. Và đến khi sám hối trở thành một thói quen ăn sâu vào trong nhịp sống để nỗ lực chuyển đổi không ngừng lên những tình trạng tốt hơn thì đó chính là một cuộc lột xác đổi đời; không giống như đổi đời xe đời máy mà là đổi đời sống cách sống với những hệ lụy cụ thể không thể lần lữa chần chừ được.
Không phải vô tình mà Gioan Tẩy Giả bảo những kẻ đến với ông là “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối” nhưng qua đó ngài cho thấy lòng sám hối đích thực của Mùa Vọng chính là tích cực đổi mới ngay trong đời sống cụ thể của mình.
3) Sám hối mang màu hy vọng biết vượt qua những động tác để trở thành một thái độ sống.
Đối với một số người khác nữa, sám hối thường được quan niệm như một cao trào chỉ bùng lên một năm vài lần vào những dịp lễ đặc biệt như cách phân bổ Lịch Công Giáo hiện nay, tức là xuân thu nhị kỳ: một lần vào Mùa Vọng để dọn lòng mừng lễ Giáng Sinh cho sốt sắng và lần nữa vào Mùa Chay để tỏ bày sự thông công vào lễ Phục Sinh cho phải đạo, “Xưng tội một năm ít là một lần và chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh”.
Xem ra cách thực hành sám hối như vậy cũng có những nét cụ thể nhất định, nhất là lại phù hợp với đại đa số giáo dân vốn đầu tắt mặt tối chạy vạy với cuộc sống kinh tế gia đình hoặc xã hội. Nhưng từ căn bản có cái gì đó chưa ổn. Một mặt quá gắn liền động tác sám hối với việc đón nhận Bí tích Hòa Giải sẽ dẫn tới ý nghĩ rằng khi mình không nhận Bí tích Hòa Giải thì mình cũng chẳng cần đến sám hối nữa; và mặt khác coi sám hối chỉ như một động tác diễn ra trong khoảnh khắc sẽ tới lúc nghĩ rằng sám hối chỉ là điều kiện ắt có và đủ cho việc xưng tội chứ không như một thái độ thường xuyên phải có trong đời Kitô hữu.
Thực ra sám hối mang màu hy vọng không đơn thuần là một động tác cho bằng là một thái độ. Sám hối là một thành phần của đời sống đức tin, nhưng lại gói ghém và len lỏi vào mọi ngõ ngách của toàn bộ cuộc sống đức tin ấy. Chả thế mà Gioan Tẩy Giả khi trả lời cho đám đông về việc thực thi sám hối đã mở ra cho họ một nhãn giới thật rộng bao gồm cả việc thực thi công bình và sống tình bác ái. “Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt thấp” đâu phải chỉ là chuyện dọn dẹp đường xá, mà đã trở thành chuyện khai quang tâm hồn để nhìn thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. Cũng thế, việc chia cơm sẻ áo đâu phải chỉ là chuyện cứu trợ, mà đích thực đã là cách diễn tả cụ thể của lòng sám hối chờ mong Chúa đến.
Tóm lại, sám hối mang màu hy vọng là sám hối tìm về tình thương Thiên Chúa, chấp nhận thay đổi cuộc đời và biết để cho ơn tha thứ thấm đẫm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống đức tin. Đó là sám hối Mùa Vọng chuẩn bị đón lễ Noel, nhưng đó cũng là thái độ thường xuyên của đời tín hữu. Và cũng vì có sám hối như vậy, Mùa Vọng đúng nghĩa chính là mùa màu tím từ bên trong ra bên ngoài và từ ngôn ngữ tới hành vi. Chúc mọi người những ngày Mùa Vọng thật sốt sắng.
(Trích từ ‘Làm Nụ Hoa Trắng’)
Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại xem như đặc sản của mình. Món ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng kẻ có đạo lại tìm đến ăn như một thứ lương thực sớm tối. Món ăn ấy không có trong thực đơn của những đầu bếp trứ danh nhưng luôn gặp thấy trên bàn ăn của Giáo Hội lữ hành. Món ăn ấy đơn giản lắm nhưng lại là món ăn có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai. Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh. Món ấy là món gì?
Thưa đó là món “ăn năn sám hối”, một món ăn màu tím truyền thống của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, cũng là món ăn hữu ý được nhìn qua trang Tin Mừng hôm nay. Nhưng để tránh dị ứng hoặc phản ứng phụ, đồng thời để tận hưởng những hiệu quả bổ dưỡng, trang Tin Mừng đề nghị ta những động tác quan trọng để hưởng dùng món “ăn năn sám hối”.
1) Động tác thứ nhất là chân thành nhìn nhận tội lỗi của mình.
Đây là động tác mở đầu trong tiến trình ăn năn sám hối, cũng là động tác mở đầu cho bất cứ một sinh hoạt phượng tự nào khi con người tiếp cận với Thiên Chúa: ta vừa mở đầu Thánh Lễ với tâm tình thú tội ăn năn. Chính Chúa Giêsu ngày trước cũng đã mở đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời kêu gọi không quên “Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm”. Và ngay Gioan Tẩy Giả cho dẫu trong hoang địa nắng cháy khô cằn chẳng có gì ăn, cũng hô vang đồi núi: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã đến gần trong không gian và cũng vì Nước Trời đã gần đến trong thời gian.
Động tác “nhìn nhận tội lỗi” trong mắt nhìn của những kẻ xa lạ với Tin Mừng có thể là một thứ tâm lý xa rời thực tế theo kiểu “không ai bắt lỗi ngu gì mà thú nhận”; nhưng đối với những kẻ tin vào Phúc Âm đó lại là hai mắt nhìn của một tấm lòng chân thành: một mắt nhìn vào mình để nhận ra thân phận mình tội lụy và một mắt nhìn lên Chúa để nhận lấy lòng thương bao dung tha thứ của Ngài. Ta nhận mình có tội bởi ta đã nhìn vào tình thương của Chúa từ hồi nào. Ta nhận ra Chúa yêu ta bởi ta đã nhìn thấy từng ngày lỗi tội của mình.
Như vậy, “nhìn nhận tội lỗi” chính là động tác mở đầu của món “ăn năn sám hối”, cũng là động tác mở về tình thương của Thiên Chúa và mở vào kho tàng thiêng liêng chất chứa ơn tha thứ do Thiên Chúa thết đãi con người. Tự căn bản, xưng thú tội lỗi của mình cũng là tuyên xưng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
2) Động tác thứ hai được gặp thấy trong lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả: “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối”.
Có thể có ai đó ngẩn ngơ thầm nghĩ: “Ơ hay, cái ông Gioan Tẩy Giả này mới thật là ngớ ngẩn, sám hối như trong động tác thứ nhất tự nó đã là một việc lành rồi, cần phải làm thêm việc lành khác nữa sao? Vẽ chuyện!”. Xin thưa rằng ông Gioan Tẩy Giả không ngớ ngẩn đâu, ngược lại, trong lời kêu gọi đơn giản của ông đã hàm chứa những ý nghĩa đẹp đến độ ngẩn ngơ cho một lòng ăn năn tích cực và đích thực.
Lòng ăn năn tích cực không dừng lại trong ý thức nhìn nhận tội lỗi của mình, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ dày vò lương tâm bất bình bất ổn bất an bất toàn; hay thành một thứ hối hận theo tự điển tra ngược, là “hối thì ít mà xem ra hận lại nhiều!”. Không phải thế, lòng ăn năn tích cực là cả một tâm tình sống ơn tha thứ, sống do ơn tha thứ và cũng sống cho ơn tha thứ, có nghĩa là một sức sống được chuyển dịch một cách cụ thể qua những việc lành mọi lúc mọi nơi cho Chúa và cho anh chị em mình.
Đó cũng là lòng ăn năn đích thực không đồng hóa với một thứ tình cảm chợt đến chợt đi, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ cảm tình vị kỷ theo kiểu làm việc lành cho “sướng”, thế thôi, trong khi lòng ăn năn đích thực gọi đến một phẩm cách, một trách nhiệm. Gioan Tẩy Giả không bảo làm việc lành cho “sướng” mà hãy làm việc lành cho “xứng” với lòng sám hối.
3) Động tác thứ ba để thưởng thức món “ăn năn”, đó là khiêm tốn đợi chờ Đấng đang đến.
Đấng ấy không phải là người xa lạ, mà là một THỰC KHÁCH viết hoa viết đậm của mọi Kitô hữu quanh bàn “ăn năn”. Đấng ấy là Đức Kitô đã đến lần thứ nhất trong lịch sử với ngả nghiêng cây Thập Tự, sẽ đến lần thứ hai ngày cánh chung với sự công chính và nền hòa bình viên mãn, và Người đến từng ngày cho tất cả những ai khiêm tốn đợi chờ với lòng sám hối.
Thảo nào trang Tin Mừng hôm nay nói nhiều đến từ ngữ “dọn đường và sửa đường”. Dọn đường bởi vì Đấng ấy đang trên đường đến với ta và sửa đường “quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống” là bởi vì Người chỉ thích đến với ta trên đường công chính.
Hiểu như thế, ăn năn không phải là ăn điều gì khác hơn là ăn chính Đấng đang đến: Chúa Kitô. Chính Người là đích điểm của việc sám hối. Vắng Người là thiếu tất cả: việc sám hối có thể co cụm lại như một thứ nghi thức thực hiện cho yên lương tâm; nhưng có Người là có tất cả: việc sám hối bấy giờ sẽ trở nên một mạch nguồn sức sống mới trong Thánh Thần. Nói cách khác, lòng người sám hối Mùa Vọng ví tựa những căn phòng, quá ngổn ngang chật hẹp, Chúa Kitô sẽ không thể chen chân bước đến; nhưng ngược lại biết dọn dẹp sạch sẽ thẳng ngay, Người sẽ ung dung tìm vào như vào trong căn hộ của mình.
Tóm lại, dẫu chẳng phải là “người có tâm hồn ăn uống” mà chỉ vì cái phong phú và lắt léo của tiếng Việt, nên đã xin chia sẻ Phúc Âm hôm nay qua dạng thức của một món ăn: món “ăn năn sám hối” với ba động tác: nhìn nhận tội lỗi, thực hiện việc lành và chờ đợi Chúa đến; một cách trực tiếp là họa lại lời Gioan Tẩy Giả vang lên trong trang Tin Mừng, một cách gián tiếp là lòng hẹn lòng hãy tìm đến món “ăn năn” qua việc sống Bí tích Hòa Giải.
Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách. Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng. Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như Mùa Vọng Mùa Chay, mà là món quanh năm ngày tháng mở cửa cho hết mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé. Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh ân.
Mười năm trước khi kinh tế còn khó khăn, trên đường đi hằng ngày thấy xuất hiện những tấm bảng hiệu nhận phục hồi những cơ phận máy móc, tôi đã có ý nghĩ nên ghi trên tòa Hòa Giải một tấm bảng hiệu nhận “phục hồi sự sống các tâm hồn”. Hôm nay, thời kinh tế mở cửa, trên đường từ chợ Bến Thành về đây thấy nhan nhản những bảng hiệu của các quán ăn đặc sản, từ Hương phố tới Hương đồng, từ Hương xưa tới Hương rừng lao xao. Tôi nghĩ có lẽ phải ghi trên tòa Hòa Giải tấm bảng khác thôi: Hương thiêng đặc sản tâm hồn, món “ăn năn” dẫn đến nguồn thánh ân.
(Chút suy tư và cảm nhận về sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật II Mùa Vọng năm A – Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Mùa Vọng thường gợi lên hình ảnh những con đường: con đường về Núi Thánh Sion, con đường hồi hương tái thiết lại Sa Lem, con đường trong hoang mạc, con đường gồ ghề, con đường cong queo…cùng với những nỗ lực để có những con đường đẹp, con đường thẳng như “bạt thấp nổng đồi”, “lấp đầy hố sâu”, “uốn thẳng con quẹo…”.
Và tất cả những cuộc hành trình đó, những con đường đó chỉ là hình ảnh, biểu trưng để dẫn dắt chúng ta biến thời gian cử hành Mùa Vọng thành một cuộc “lên đường”, một cuộc tiến bước trên “lộ trình” hướng đến và gặp gỡ Thiên Chúa. Và trong cuộc lên đường để gặp gỡ Thiên Chúa không chỉ phải “bạt xuống nhưng đồi núi của kiêu căng, hợm hĩnh, của tham vọng ngông cuồng”, mà còn phải “lấp đi những hố sâu của hận thù chia rẽ, ghen ghét giận hờn, đố kỵ, cách ngăn”. Có nghĩa là để đón nhận Đức Kitô và sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa, phải sửa dọn con đường thích hợp, con đường ăn năn sám hối (metanoia), con đường từ bỏ hy sinh, con đường yêu thương thuận hòa…. Chúng ta cần sửa dọn “con đường tâm hồn” ta, “con đường cuộc sống” ta. Chúng ta cần sửa dọn những con đường đến với anh em, những con đường là các tương quan người với người trong gia đình, trong cộng đoàn, trong môi trường xã hội quanh ta…
Câu chuyện “con đường giữa hai cái hang” sau đây có thể là một minh họa rõ nét cho câu chuyện “dọn đường, sửa đường đón Chúa” mà chúng ta chia sẻ với nhau hôm nay:
Tại một vùng núi nọ, người ta truyền tụng cho nhau câu chuyện nầy: Ngày xưa, có hai thầy dòng quyết tâm nên thánh bằng cách chọn con đường ẩn tu. Để thực hiện việc nầy, cả hai thầy lên núi, tìm hai hang động cách xa nhau làm chỗ dung thân để qua hết cuôc đời trong thinh lặng và kết hợp với Chúa. Để cuôc sống ẩn tu đạt kết quả cao, và để khỏi bận tâm, chia trí về những “sự thế gian”, cả hai quyết định, hang ai nấy ở, mỗi người môt không gian riêng, một thế giới riêng, không liên hệ, không giao tiếp với nhau và với mọi người… Rồi năm tháng qua đi. Cả hai chết lúc nào không ai biết. Hai hang động trở thành hoang phế, như nhai chiếc mồ hoang lạnh giữa rừng sâu. Thời gian sau đó, có hai tên cướp bị săn đuổi, đã thay tên, đổi họ, lần mò trốn lên núi nầy để ẩn danh tìm chút bình an cho cuộc sống thừa. Gặp được hai cái hang hoang lạnh của người xưa, cả hai nẩy sinh sáng kiến: chọn nơi đây làm chốn dừng chân để sám hối và làm lại cuộc đời. Thế là cả hai dọn sạch hang cũ và bắt đầu cuộc sống mới của những người “ẩn tu bất đắc dĩ.” Chỉ khác với hai thầy dòng trước một điều là cả hai quyết định làm một con đường nối liền hai hang để thường xuyên qua lại, thăm viếng, giúp đỡ, ủi an …Dần dà, dọc theo con đường nối hai hang đã mọc đầy hoa, xung quanh hang động cảnh trí phô đầy sức sống và vẻ đẹp. Hai tên cướp năm nào giờ đây đã trở thành hai vị ẩn tu hiền lành, thánh thiện, đến nổi hương thơm thánh đức lan toả khắp vùng khiến nhiều người cất công lên núi để xin “Hai Thầy” cầu nguyện và hưóng dẫn đạo đức. Từ đó, phát xuất phát từ hai cái hang đó, đã có nhiều lối đi, nhiều con đường dẫn đến các khu dân cư, và trên các lối đi đó cùng mọc đầy hoa tươi thắm… Và rồi, hai “thầy tướng cướp ẩn tu” đó qua đời. Vì đời sống thánh thiện và vì có những phép lạ xảy ra cho một số người lên núi cầu xin, nên dân chúng vùng đó “tự động” phong thánh cho hai “thầy cướp ẩn tu” nầy…
Con đường đến với Thiên Chúa và đến với anh em của mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng nầy cũng phải được phát quang và trồng đầy hoa như thế. Và chỉ có những con đường “hiệp thông, chia sẻ, bác ái, khoan dung, quảng đại, tha thứ…như thế mới có thể biến những “hang đá tâm hồn” lạnh lẽo hiu quạnh của những tên cướp trở thành thánh nhân, mới biến chúng ta trở nên những Kitô hữu đích thực, mới biến thế giới quanh ta trở thành an vui hòa bình, và đặc biệt, biến Mùa Vọng, Mùa Giáng sinh năm nay trở thành một “Tin Vui đích thực” cho chính chúng ta và cho mọi người quanh ta. Quả thật trong thế giới nầy, trong cuộc đời nầy, cần thiết biết bao những con đường đầy hoa như thế. Amen.
Các bài Kinh thánh hôm nay cho chúng ta hiểu rõ hơn về Đấng sẽ đến và khuyên chúng ta có thái độ thích hợp với Người.
1) Đấng sẽ đến
Bài sách Isaia tiếp nối tư tưởng Chúa nhật 1 Mùa Vọng: khi Đấng Thiên Sai đến, Ngài sẽ phân xử mọi nước và thiết lập thời đại thái bình. Hai tư tưởng này sẽ được khai triển thêm. Khi xét xử, Đấng Thiên Sai tỏ ra nhân ái một cách đặc biệt với những người nghèo khó. Còn đối với hạng bất nhân vô đạo, thì hơi thở của Ngài sẽ làm họ tiêu tan. Đang khi ấy, những nét tả về thời đại thái bình thật là thi vị. Người ta quên sao được hình ảnh: chó sói sống chung với chiên non, sư tử gặm cỏ như bò và trẻ em giỡn với rắn lửa mà chẳng hề chi?
Tuy nhiên chủ yếu của bài sách Isaia hôm nay không nhằm quảng diễn những tư tưởng của Chúa nhật trước. Nhà Tiên tri còn muốn đi xa hơn và nói một cách cụ thể hơn. Ngay những hàng chữ đầu tiên đã đề cập tới “chồi sẽ xuất từ gốc Giê-sê”; và câu kết còn nhắc lại danh hiệu ấy. Tức là với bài sách Isaia hôm nay, Phụng vụ muốn cho chúng ta hiểu hơn về Đấng sẽ đến sau này. Ngài thuộc tộc Yêssê, thân phụ của Đavít. Ngài sẽ là “Con Vua Đa-vít”. Ngài sẽ đến đầy Thánh Linh, đến nỗi không nơi nào trong Kinh thánh nói đến bảy ơn Chúa Thánh thần như trong đoạn Isaia này. Ngài sẽ xét xử mọi người, và rộng rãi cách đặc biệt với người nghèo khó. Ngài sẽ lập thời đại thái bình và muôn dân sẽ đến thỉnh ý Ngài.
Nhưng người nào trong tộc Đa-vít sẽ là Đấng Thiên Sai? Gioan Tẩy Giả trong bài Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho dân It-ra-en. Họ tuốn đến với ông. Họ xin ông làm phép rửa cho họ. Họ chấp nhận cả những lời khiển trách nặng nề. Nhưng Gioan vẫn chưa bằng lòng. Ông bảo mọi người phải thống hối thêm, để chịu được phép Rửa bởi Thánh Thần và bằng lửa. Chịu rửa bằng nước chưa phải là khó. Chịu rửa bằng lửa sẽ đau đớn hơn vì lửa mới làm cho những dơ bẩn ở trong chảy ra, đang khi nước chỉ rửa được những bụi bặm bám ở ngoài. Thế mà Đấng sẽ đến là Đấng đầy Thánh Thần. Ngài còn khỏe hơn Gioan, tức là đầy Thần lực hơn, đầy thánh thiện hơn, đầy đòi hỏi hơn, Ngài sẽ quan sát mọi người và thấu đạt tâm can như người sàng thóc hay rê lúa. Không ai lọt được sự phán xét của Ngài.
Như vậy, cả bài tiên tri Isaia, cả bài Tin Mừng Matthêu đều muốn cho chúng ta hiểu hơn về Đấng sẽ đến. Ngài sẽ là Đấng xét xử mọi người. Đó là viễn tượng về ngày thế mạt hơn là về ngày Giáng sinh. Chủ yếu của Mùa Vọng vẫn là hướng lòng chúng ta về Ngày Con Người sẽ đến trong những ngày sau hết. Tuy nhiên Mùa Vọng cũng hướng ta nhìn vào Ngày Chúa Giáng sinh như tương lai gần, để chuẩn bị tương lai cuối cùng. Và chúng ta cũng phải nhìn thấy việc Chúa sinh ra như để phán xét mọi người.
2) Đấng phán xét
Nhiều người thường nghĩ chỉ có phán xét khi linh hồn lìa xác về trước Tòa Chúa và đặc biệt lúc sống lại sau hết, mọi người sẽ phải trình diện trước mặt Đấng Chí Công. Nhưng không phải! Cả Isaia, cả Gioan không nghĩ như vậy đâu. Theo các ngài, khi Đấng Cứu Thế đến, dù là đến trong thế gian để làm công việc cứu chuộc, Ngài đã là Đấng Thẩm Phán Chí Công rồi.
Cụ già Simêon chia sẻ quan niệm đó. Nhìn thấy Hài Nhi ở trong Đền thờ, ông đã cất tiếng loan báo: Trẻ này sẽ làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy, nghĩa là hư đi hay được cứu rỗi.
Và thật sự hễ Đức Kitô đến nơi nào là ở chỗ đó có người tin theo và có người chống đối. Giáo lý Ngài truyền ra tức khắc làm cho nhiều kẻ thấy chói tai và nhiều người khác đón nhận như Tin mừng cứu rỗi. Ở nơi thân mật với các tông đồ, Ngài đã khiến Yuđa trở thành tên phản phúc và các người dân chài kia trở nên kẻ đi chài lưới người.
Ở nơi công cộng trên đỉnh đồi Núi Sọ, Ngài cũng làm cho một tên trộm phải lộng ngôn, đang khi người trộm khác được vào nơi an nghỉ.
Đấng Thiên Sai là Đấng Xét Xử. Bản chất Ngài là vậy, vì như Isaia và Gioan nói: Ngài là Đấng đầy Thánh Linh. Mà Thánh Linh là tình yêu. Đấng Thiên Sai mang tình yêu Thiên Chúa nhập thế giáng trần vì Chúa Cha đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho ta. Đức Kitô là Tình yêu của Chúa Cha gửi đến cho loài người. Và tình yêu không chấp nhận dửng dưng. Người ta chỉ có thể đáp trả lại bằng yêu thương hay bằng từ khước, vì dửng dưng đã là từ khước rồi.
Thế nên, đang khi dọn mình mừng lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta phải sẳn sàng đón nhận Đấng đến để phán xét, để phân biệt những người yêu mến Người và những kẻ từ chối Người. Và như vậy cũng là sẵn sàng để đón nhận Đấng sẽ đến phán xét sau này. Chúng ta phải biết ơn Isaia và Gioan. Cả hai đã cho chúng ta hiểu điều đó. Có điều hai ông dường như mâu thuẫn với nhau: Isaia nói đến một Đấng phán xét dịu dàng, còn Gioan lại trình bày Ngài như người sàng thóc, để bỏ trấu vào lửa. Dung hòa hai ông thế nào? Chúng ta phải nghe ai?
3) Thái độ đạo đức
Thật ra, như lời thư Rô-ma nói, mọi điều đã viết xưa kia, thì đã được viết để dạy dỗ ta. Thế nên ta không tìm cách bỏ mất điều nào. Đấng phán xét của Isaia sở dĩ sẽ phân xử công minh cho người hèn yếu và đoán định ngay chính cho kẻ nghèo hèn, là vì Ngài không phân xử theo mã mắt thấy hay đoán định phỏng chừng tai nghe. Ngài thắt đai lưng bằng công chính và nịt hông bằng tín thành. Nghĩa là Ngài là Đấng chính trực và thông suốt. Đứng trước một Đấng Thiên Chúa thánh thiện như vậy, và nhất là phải dọn đường cho Ngài tới giữa một dân tộc còn nhiều tội lỗi, Gioan không thể làm khác hơn là kêu gọi người ta ăn năn thống hối. Ông là người mà tiên tri Isaia đã ám chỉ. Ông tiếp nối sứ mệnh của Isaia. Nhà tiên tri đã báo trước rất xa về Đấng xét xử sẽ đến. Gioan biết Đấng đó đã gần đến rồi. Chính ông đã phải sống cuộc đời tu hành khắc khổ với thức ăn, áo mặc khác thường để mong được cứu độ. Lời ông giảng phát xuất từ đời sống chân thật, khiến người nghe chấp nhận như lẽ đương nhiên phải vậy. Chúng ta không thể nói ông đòi hỏi hơn Isaia hay một tiên tri nào khác. Cả ông lẫn Isaia chỉ nói lên một sự thật: Đấng đang đến sẽ xét xử rất công minh. Thế nên ai nấy hãy thống hối tội lỗi.
Thánh Phao-lô không những được kinh nghiệm của Isaia và của Gioan, ngài còn đã được biết về cuộc đời của Đức Yêsu. Ngài thấy các việc lành Cựu Ước dạy làm chưa đủ để giúp ta được ơn thánh hóa. Các của lễ đền tội ngày xưa không đủ sức xóa bỏ tội lỗi. Duy chỉ có lòng thương xót của Chúa. Việc ta thống hối tội lỗi vẫn cần, nhưng tha thứ vẫn là hành vi hoàn toàn quảng đại của Chúa. Mà rõ ràng Chúa muốn quảng đại. Chúa muốn cứu cả giới cắt bì lẫn lương dân. Ngài muốn thi hành lòng thương xót cho mọi người miễn là người ta muốn đón nhận. Và chỉ ai muốn tha thứ mới đón nhận ơn tha thứ. Có tìm được mảnh đất thích hợp, ơn Chúa mới kết quả như hạt giống rơi vào đất tốt. Thế nên trong ngày Phụng vụ giới thiệu cho ta biết, Đấng sẽ đến là Đấng đến để xét xử, thì không những Giáo hội muốn cho ta thi hành việc thống hối tội lỗi; nhưng để ta chắc chắn nhận được ơn cứu độ thứ tha, dùng lời Thánh Phao-lô, Giáo hội khuyên ta hãy có thái độ chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau và sống thuận hòa với nhau. Bức họa về thời đại thái bình trong bài sách Isaia thúc giục chúng ta xây dựng một nếp sống xã hội thuận hòa để chứng tỏ Nước Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta sẵn sàng cho Ngày Ngài trở lại.
Chúng ta sẽ sống thuận hòa trong mọi ngày chờ đón Chúa đến. Chúng ta cần tinh thần hoà thuận ngay trong lúc này để đi vào Thánh lễ, vì nếu khi mang lễ vật tới bàn thờ mà nhớ đang còn xích mích với ai, hãy đặt của lễ đó, về làm hòa đã rồi sẽ trở lại dâng của lễ sau.
Xin Chúa cho tâm hồn chúng con được thật sự bình an để dâng lễ vật này. Nghĩa là xin Chúa tha thứ những nỗi bất hòa giữa chúng con, để hôm nay dâng lễ vật bình an này về, chúng con sẽ nỗ lực xây dựng xã hội thuận hòa để chờ đón Chúa.
(Trích từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Để hiểu đoạn văn của tiên tri Isaia trích dẫn ở đây, phải nhớ rằng não trạng Do Thái bị đánh dấu sâu xa bởi kinh nghiệm về sự Xuất Hành. Cuộc Xuất Hành đầu tiên là vụ trốn thoát khỏi Ai Cập. Nhưng về sau, dân Israel còn trải qua những cuộc lưu đầy khác, theo sau là những cuộc giải phóng, những vụ Xuất Hành mới. Ở đây lời tiên tri của Isaia liên quan đến cuộc giải thoát khỏi ách thống trị Babylone. Cũng như xưa khi ra khỏi Ai Cập, Do Thái sẽ phải đi qua sa mạc, sa mạc Syria.
Theo Isaia thì tiếng kêu hiệu triệu rằng phải dọn cho Chúa một con đường trong sa mạc. Còn theo Gioan Tẩy Giả, đó lại là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường cho Chúa. Hai cách nói trên không chống nghịch nhau, nhưng bổ túc cho nhau. Nếu biết rằng não trạng Kitô giáo được đánh dấu sâu xa bởi kinh nghiệm trở về với Chúa, bởi cuộc ‘xuất hành thiêng liêng’, người ta có thể chấp nhận rằng tiếng Chúa gọi giữa loài người thường giống như một tiếng kêu trong sa mạc, nhưng đàng khác người ta kinh nghiệm rằng, nếu biết nghe tiếng ấy, thì cuộc trở về với Chúa, nghĩa là sự trở lại, gồm có những giai đoạn ‘lột xác’ trong sa mạc, từ bỏ, trần trụi. Song không được ngã lòng, bởi vì tiếng Chúa là tiếng loan báo Tin Mừng, loan báo Tự Do.
Trong cách thức hành động của Gioan, ta hãy nêu ra hai điểm:
1) Người làm phép rửa trong giòng sông Giođan. Nghi thức tẩy rửa với nước, từ việc rửa tay đến việc tắm gội toàn thân, là một tục lệ thông thường của người Do Thái và nơi các dân tộc khác. Nghi thức đó có ý nghĩa tôn giáo. Mối nguy mà Gioan nói tới, là ở chỗ tin rằng chỉ cần làm nghi thức là có thể coi mình đã trong sạch rồi. Dù vậy Gioan vẫn không coi thường nghi thức ấy, vẫn áp dụng, vẫn làm phép rửa.
Phép Thánh Tẩy Kitô giáo sử dụng nước để rửa, như một dấu hiệu. Con người hiện đại dễ coi khinh các dấu hiệu bên ngoài. Cần phải nhấn mạnh với họ rằng những yếu tố hình thức cho phép đi tới những thực tại sâu xa, miễn là được áp dụng trong một số điều kiện nào đó. Bí tích là những dấu hiệu của một thực tại thiêng liêng; bí tích biểu hiệu bên ngoài điều mà ơn sủng thể hiện bên trong.
2) Phép rửa Gioan kèm theo việc tự cáo tội. Đó là một việc bề ngoài. Thiên Chúa thấy tận thâm sâu của cõi lòng ta, và chính là trong chỗ thầm kín đó mà Người thôi thúc, cật vấn con người. Mà nếu nhìn vào đáy sâu của lương tâm mình, nó không thể không thấy mình khốn nạn. Lúc đó hoặc là nó trở nên mù quáng, hoặc ngã lòng, hoặc sẽ cầu xin Chúa thanh tẩy mình. Chúa thanh tẩy và giúp đỡ con người thành thực có lòng ao ước ra khỏi vòng tội lỗi. Đó là một kinh nghiệm khởi đầu và đi theo suốt cuộc đời người Kitô hữu.
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)
Ba nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh được Giáo Hội nhắc đến trong Mùa Vọng để giúp chúng ta chuẩn bị đón chờ Chúa đến là tiên tri Isaia, thánh Gioan Tiền Hô và Mẹ Maria. Không những các Ngài đã đón Chúa đến trong cuộc đời mình, mà các Ngài còn giúp cho mọi người khác biết cách để đón chờ Chúa đến.
Bài đọc thứ nhất của cả bốn Chúa Nhật Mùa vọng đều trích lại sứ điệp tràn đầy hy vọng của tiên tri Isaia. Trong cảnh sống nhiều thử thách và bóng tối đau thương dường như thể Thiên Chúa không có mặt, như bỏ rơi con người. Tiếng nói đầy hy vọng của tiên tri Isaia vang lên loan báo Thiên Chúa sắp đến thực hiện lời Ngài đã hứa, là thiết lập lại sự công bằng và hòa bình.
Thời của chúng ta đang sống tuy cách xa thời của tiên tri Isaia, nhưng vẫn cần lắng nghe và hy vọng vào sứ điệp của tiên tri Isaia. Con người có âm mưu loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi con người, nhưng phần Thiên Chúa thì Ngài không thể vì thế mà bỏ mặc con người với những thảm cảnh do chính con người tạo nên, như họ muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình. Quyền năng vô cùng của Thiên Chúa luôn luôn có cách thế để vượt thắng những điều tiêu cực trong lịch sử con người và chương trình cứu rỗi vẫn được Ngài thực hiện.
Tiên tri Isaia đã loan báo cho dân Israel đang gặp thử thách ngày xưa và cho chúng ta ngày nay về dung mạo của Thiên Chúa Cứu Chuộc sắp đến là vị Thiên Chúa mà con người cần đến, với những lời được trích lại trong bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật thứ hai Mùa vọng; “Chúa lấy công minh mà xét xử người nghèo” (x. Is 11,1-10). Đó là những đường nét chính của một vị Thiên Chúa cứu rỗi mà con người mọi thời đại cần đến, một vị Thiên Chúa công bằng trong xét đoán và giàu tình yêu thương, vì Ngài đến để thiết lập cuộc sống hoà bình và hoà hợp cho con người. Cuộc sống ấy được tiên tri Isaia loan báo bằng hình ảnh môi sinh, trong đó sói sống chung với chiên, trẻ nhỏ dám tiếp xúc với các thú dữ. Đó là hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người được sống trong cảnh thái bình hoà hợp. Nhưng từ phía con người, họ không được sống ỷ lại để mặc Thiên Chúa muốn làm sao thì làm, nhưng họ phải biết thay đổi cuộc sống của mình mà trở về với Thiên Chúa, đón nhận hồng ân Ngài ban.
Trong viễn tượng này, bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai Mùa vọng nhắc lại sứ điệp của thánh Gioan, kêu gọi con người hãy thực sự trở về với Thiên Chúa bằng hành động thiết thực, chứ không phải bằng lời nói suông cho qua lần. Qua đó chúng ta có thể lưu ý đến những lời sau đây ghi lại điểm chính của sứ điệp là: “Hãy ăn năn và sám hối”.
Sự ăn năn sám hối là bước đầu tiên không thể bỏ qua được trên con đường trở về với Thiên Chúa. Cần dứt khoát, không được chần chờ kéo dài thời gian mãi được: “Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây”. Hơn nữa, trong số những người đến nghe Gioan rao giảng và muốn thực hiện việc ăn năn trở lại, có những người biệt phái và các văn nhân thuộc phái Sadduceo, họ bị thánh Gioan trách nặng lời: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai bảo các ngươi trốn cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối”.
Dù là ai hay trong địa vị nào đi chăng nữa, thì ai ai cũng là kẻ có tội và cần sự ăn năn thống hối, cần thật lòng trở về cùng Thiên Chúa. Chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống của mình xem trong ta còn có trở ngại nào ngăn cản không cho Chúa đến trong chính chúng ta và trong xã hội mà chúng ta đang sống.
Chúng ta hằng ngày hãy đọc kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến…”. Lời chúng ta cầu xin cho Nước Cha trị đến sẽ chỉ là lời nói suông hay chỉ là lời nói theo thói quen bao lâu chúng ta không thực sự canh tân đời sống mình: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần đến”.
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Nước Trời đã gần, Đấng Mêsia sắp đến: đó là điều Gioan đã hô to trong hoang địa miền Giuđê. Đối với ông, Đấng Mêsia thật là vị Thẩm phán đáng sợ. Chính Ngài sẽ tách biệt người lành với kẻ dữ, như người ta phân biệt thóc mẩy với thóc lép, “thóc mẩy thì thu vào kho, thóc lép thì bỏ vào lửa”. Ngày Đấng Mêsia đến cũng là ngày Thiên Chúa thịnh nộ. Rìu đã sẵn, cây không sinh quả thì bị chặt đi. Người ta sẽ phải chịu phép rửa trong lửa hồng. Chính vì thế Gioan khẩn trương mời gọi dân chúng sám hối. Thực tế cho thấy Đức Giêsu không phải là Đấng Mêsia kinh khủng như ông nghĩ.
Tuy nhiên lời mời gọi sám hối của Gioan vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta không sám hối vì bị đe dọa và sợ hãi, nhưng vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương nơi Đức Giêsu.
Mùa Vọng là mùa sám hối để đón Chúa đến. Chúa đã đến âm thầm ở Bêlem. Chúa sẽ đến khải hoàn vào ngày tận thế. Chúa vẫn đang đến với chúng ta mỗi ngày qua các bí tích và các biến cố lớn nhỏ.
Để chuẩn bị Hội Thánh mừng Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã chọn chủ đề cho năm 1996 là Sám hối và Canh tân.
Sám hối là nhìn nhận mình đã gieo rắc bao gương mù khiến khuôn mặt Đức Giêsu trở nên khó tin. Sám hối là tự vấn về những hành động gây chia rẽ các anh em Kitô hữu với nhau. Sám hối là ăn năn về những cử chỉ thiếu khoan dung, về việc đôi khi dùng bạo lực để bắt người khác chấp nhận chân lý. Sám hối là nhìn nhận phần trách nhiệm của mình trước bao sự ác của thế giới hôm nay.
Đây không phải là việc của cá nhân, nhưng là việc của cả Hội Thánh. Một Hội Thánh có can đảm sám hối là một Hội Thánh đang vươn tới sự thánh thiện.
Chúng ta cần nghe lại những lời nhắc nhở của Gioan. Ông kéo chúng ta ra khỏi sự tự mãn: “Đừng tưởng mình có cha là Apraham” (Mt 3,9). Đừng tưởng mình đương nhiên được vào Nước Trời.
Gioan mời mọi người xưng thú tội lỗi (Mt 3,6).
Sông Giođan đã thành nơi con người làm hoà với Thiên Chúa.
“Hãy dọn đường cho Chúa đến”
Hội Thánh và mỗi Kitô hữu là những con đường, để Chúa đến với nhân loại và để nhân loại đến với Chúa.
Ước gì đó là những con đường thẳng và phẳng phiu, để ai cũng muốn đi và đi tới đích.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Thánh Cha mời gọi Hội Thánh sám hối và canh tân. Bạn có thấy giáo xứ, gia đình hay nhóm của bạn làm điều gì ngược với tinh thần Đức Kitô và gây gương mù cho người khác không?
Bạn nghĩ gì về đời sống của bạn? Hiện nay, bạn thấy mình cần hoán cải và canh tân về những điểm nào?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
Hãy ăn năn thống hối vì nước trời đã gần đến
Trong bài Phúc Âm, thánh Mathêu đoạn 3, câu 1 đến 12 đã nói đến lời tiên tri Isaia, một vị tiên tri sống vào khoảng 765 năm trước Chúa Cứu Thế đã nói: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Một lời mà Gioan tiền hô đã suy gẫm, đã ăn chay, đã sống nhiệm nhặt, ăn chay đánh tội, đến nỗi Chúa khen ông là người cao trọng nhất trong Cựu Ước (Mt.11:11). Ngài đã kêu gào người ta thống hối và tin vào phép rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa của đấng đã thiết lập sau này.
Mùa Vọng này, Giáo Hội muốn chúng ta dọn đường cho Chúa, hãy dọn tâm hồn mình cho trong sạch, đời sống của mình còn có điểm nào quanh co, hãy sửa chữa cho ngay thẳng, cho đoan chính, cho ăn nhập với lời khuyên của Phúc Âm. Những hố sâu tội lỗi, hãy bồi đắp cho bằng, những quăn queo, gồ ghề của tư tưởng vẹo vò, của kiêu ngạo, của tự ái, của ích kỷ, hãy bạt xuống cho bằng. Hãy nghe lời Gioan Tiền hô kêu gọi mà thực hành cho ráo riết, đừng coi thường và hãy thúc đẩy mọi người trong gia đình, trong chòm xóm thi hành lời kêu gọi. Hãy lấy đức ái mà che lỗi cho người sai lầm, chữa chạy cho họ, để cả hai được minh chính trước mặt Chúa, kẻo cái rìu đã đặt dưới gốc cây, cây nào mà không sinh trái, người nào mà không sửa mình sẽ bị chặt và quăng vào lửa. (Mt.3:10).
Cũng tại Hoa Kỳ, Luật Tiểu Bang cấm gọi điện thoại khi lái xe. Ai vi phạm sẽ bị phạt 100 đồng. Một hôm ông Thị Trưởng đi làm bị kẹt xe giữa đường. Hàng xe dài nối duôi nhau chẳng tiến mà cũng chẳng lùi được. Quên luật cấm, ông Thị Trưởng móc điện thoại di động ra liên lạc xem Ty Cảnh Sát có trách nhiệm giải quyết vụ kẹt xe đến đâu rồi. Bị nhà báo chụp hình ông đang nói điện thoại vi phạm luật cấm. Khi nạn kẹt xe được tháo gỡ, lưu thông trở lại bình thường. Ông Thị Trưởng lái xe thẳng tới sở Cảnh Sát, ông bình thản móc túi nộp 100 đồng tiền phạt.
Khi được hỏi, ông trả lời: “Đã có luật thì phải chấp hành, bất kể trong trường hợp nào và là ai. Tôi vi phạm nên tôi phải nộp phạt”.
Khi đã khẳng định: Thượng bất chính thì hạ tắc loạn, nghĩa là người trên, kẻ lớn chả ra sao, thì cấp dưới, con cái nhất định cũng chẳng ra lề thói gì. Ngược lại, lời khẳng định trên cũng hàm chứa điều này: Nếu người trên, kẻ cả tuân thủ luật pháp một cách nghiêm túc, thì chắc chắn cấp dưới sẽ chẳng có cửa nào để làm càn. Chẳng cần ngồi lắc đầu nhìn những việc lỗi đạo hoặc than ngắn thở dài về sự xuống cấp đạo đức nơi gia đình, ngoài xã hội, có lẽ nên bắt chước gương người cha hoặc gương cấp trên của ông Thị Trưởng, chắc là hữu ích.
Lạy Chúa, để dọn mình chờ đón Chúa đến, con xin hứa sẽ nghe lời Gioan kêu gọi mà thực tâm cải thiện đời sống chính mình và kêu gọi người khác cùng thi hành với con.
(Trích từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Mùa Vọng là hướng tới tương lai. Các tiên tri là những người đã nhìn thấy tương lai. Các tiên tri lãnh sứ mạng loan báo cho Dân Chúa một tương lai huy hoàng, một niềm hy vọng phấn khởi vào thời đại Thiên Sai Cứu Thế sắp đến.
Tiên tri Isaia trong Bài đọc 1 hôm nay đã mô tả thời đại Thiên Sai như một thời đại thái bình, bằng những hình ảnh thật là thi vị: “Chó sói chung sống với chiên con, sư tử gặm cỏ với bò và trẻ em chơi chung với rắn lửa…”. Đó là cảnh thơ mộng của vườn Địa Đàng với những con thú dữ nằm kề bên thú hiền mà không cắn xé nhau. Tiên tri Isaia muốn nói đến một thời đại chung sống hoà bình trên trái đất. Ở đây không nhằm vào các con thú cho bằng nói đến con người, nói đến các dân tộc trên trái đất mà tiên tri Isaia sánh ví với các con thú hiền và các con thú dữ đã trở thành bạn hữu thân thiết, thành anh em. Thời đại hoà bình ấy sẽ đến, khi mọi người đều nhận biết Thiên Chúa và từ Thiên Chúa, con người tìm đường để đi đến với nhau. Còn đối với Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng, thì thời đại của Đấng Thiên Sai Cứu Thế là thời kỳ thịnh nộ, thời phán xét của Thiên Chúa đối với dân Israel. Gioan Tẩy Giả kêu gọi Dân Chúa hãy sám hối tội lỗi. Khác hẳn với giọng điệu dịu hiền trong Tin Mừng của Chúa Kitô, Gioan Tẩy Giả còn đưa ra “cái rìu và cái nia” để hù doạ dân chúng: “Đây cái rìu để sẵn dưới gốc cây: cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt đi và quẳng vào lửa”. Và đây nữa: “Tay Ngài cầm cái nia, Ngài sẽ rê lúa trong sân. Lúa chắc hạt thì thu vào kho lẫm, còn lúa lép thì làm mồi cho lửa, thứ lửa không hề tắt!”. Lời rao giảng của vị tiên tri cuối cùng này vang lên theo một cung điệu thắm thiết: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Gioan Tẩy Giả tố cáo sự giả hình của lối sống đạo thuần tuý bên ngoài. Ông chống lại óc vụ luật, thái độ tự mãn, tự trấn an mình là con cháu Abraham. Gioan Tẩy Giả kêu gọi sự hối cải đích thực, đòi hỏi sự phát sinh hoa trái bên ngoài.
Đấng Thiên Sai đã đến và đã đến từ lâu. Kỷ nguyên mới đã mở ra. Muốn gặp gỡ Ngài cùng với triều đại của Ngài, chúng ta phải cấp tốc “bố trí” lại cõi lòng và cuộc đời của mình.
Trong phim “Người giàu cũng khóc”, mãi lâu lắm Luis mới khám phá ra Mariana chính là ánh sáng của đời mình. Sự khám phá này vẫn chưa tức thì đem lại hạnh phúc cho anh. Một quá khứ lôi thôi, với những tật xấu cùng những hậu quả xã hội của nó vẫn dai dẳng ngăn cản không cho anh bắt đầu một đời sống mới như anh hằng mơ ước khi yêu Mariana. Phải bố trí lại cách sống, phải sửa chữa lại những hậu quả xưa cũ, phải vượt qua rất nhiều khó khăn, Luis mới hội đủ điều kiện cần thiết để xây dựng một cuộc sống yêu thương hạnh phúc trong lành.
Cũng thế, không phải khi Đấng Thiên Sai xuất hiện là mọi ước vọng của con người lập tức được mãn nguyện. Bởi vì, con người vẫn có khả năng từ chối Đấng Thiên Sai, và trong thực tế vẫn thường xuyên từ chối chính bản thân của Đấng Thiên Sai, cũng như khước từ con đường Ngài đề nghị cho con người. Cõi lòng ngổn ngang tù túng của con người phải được sắp xếp bố trí lại. Mọi chướng ngại như đồi cao, hố sâu phải được san bằng, lấp đầy, thì bước chân của Đức Kitô mới tiến vào được. Lời của Gioan Tẩy Giả đã vang lên trong chiều hướng này: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy làm việc lành phúc đức để chứng tỏ lòng ăn năn sám hối”.
Lại quay về với cuốn phim quen thuộc: Khi biết chắc Mariana và Leonardo hứa hôn với nhau, chàng Luis rơi vào cơn hoảng loạn. Trước tình thế có thể mất Mariana vĩnh viễn, anh lao vào cuộc như điên dại. Anh không thể làm khác, vì anh quá yêu Mariana, anh không thể sống thiếu nàng.
Trong tầm nhìn của đức tin, đối với ta, Đức Giêsu còn hơn hẳn Mariana đối với Luis. Vì Ngài là tất cả niềm hy vọng, là trọn vẹn tương lai, và cũng là sự sống hiện tại của ta. Ngài phải là tình yêu tha thiết của ta, thúc đẩy ta cấp tộc “bố trí” lại cuộc đời mình, để cuộc chung sống giữa ta với Ngài có thể thực hiện được và thực hiện ngay bây giờ, không trì hoãn. Cuộc sống chung này sẽ mở ra một kỷ nguyên êm đềm tươi thắm diệu kỳ mà ta phải cấp bách đạt được bằng bất cứ giá nào. Sự chậm trễ trong việc thay đổi cách sống là dấu chứng ta chẳng hề yêu Ngài, và như vậy thì thật là không có gì tệ hại hơn. “Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây”: không có tình yêu Đức Giêsu, cây sẽ không sinh trái và chỉ còn có một cách là đốn ngay đi mà quăng vào lửa.
Anh chị em thân mến. Lời mời gọi của Chúa Nhật 2 Mùa Vọng là tiếng kêu “Hãy sám hối” của Gioan Tẩy Giả. Sám hối ở đây đồng nghĩa với Kitô hoá, nghĩa là “hãy để Đức Kitô chiếm hữu con tim của ta, hãy để cho Ngài cuốn hút ta vào một kỷ nguyên mới”. Muốn vậy, hãy hâm nóng tình yêu và cấp tộc bố trí lại cõi lòng cũng như cách sống của mình.
Chúng ta lại sắp được nên một với Đức Giêsu trong Thánh lễ hôm nay, điều đó càng đòi hỏi chúng ta sửa sang lại tâm hồn ngay bây giờ và trong từng giây phút cuộc đời. Rồi thì những điều kỳ diệu sẽ đến đáp ứng cho mọi khát vọng khôn nguôi của chúng ta.
Cây nào không sinh trái sẽ bị chặt và quăng vào lửa. Một cây cột gỗ có nhiệm vụ chống đỡ cho căn nhà, nếu nó mục nát không còn chống đỡ được nữa, người ta sẽ hạ xuống làm củi thổi. Một mái lá bị dột, không còn che nắng che mưa được nữa, người ta sẽ dỡ xuống để đun bếp. Mặt trời và mặt trăng có nhiệm vụ soi sáng ban ngày và ban đêm. Nếu chúng không còn tỏa sáng, thì sẽ không đủ lý do tồn tại, mặt đất sẽ tối om. Xem đó, chúng ta thấy mặc dù là vật chất vô linh, chúng vẫn làm việc nhờ đó mà trái đất xanh tươi, muôn loài sống động.
Bước vào thế giới loài vật, chúng ta cũng thấy như vậy. Con chó để coi nhà, con mèo để bắt chuột, con gà để đẻ trứng, con heo để bán thịt. Những con vật đó làm tròn bổn phận thì chủ được hài lòng. Nếu con chó thôi coi nhà, con gà thôi đẻ trứng, con mèo thôi bắt chuột, con heo thôi không lớn, chủ sẽ bực mình và lúc bấy giờ chỉ có nước hạ thịt mà thôi.
Đối với loài người cũng vậy. Trông ra đường, chúng ta thấy kẻ ngược người xuôi, mục đích của họ là gì? Tôi xin thưa, là kiếm tiền bằng cách này hay cách khác vì có làm mới có ăn, có hoạt động mới có tiền bạc. Ngay cả những nhà trí thức, chúng ta tưởng họ nhàn hạ. Không phải là như thế, họ không lao động bằng chân tay nhưng lao động bằng trí óc, và công việc lao động này cũng vất vả, cũng mệt mỏi, nhưng nhờ đó mà đem lại những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật. Suốt nhiều năm vùi đầu vào phòng thí nghiệm để nghiên cứu, Pasteur mới tìm ra phương thuốc chủng, Edison mới phát minh ra điện, Marconi mới hoàn thành xong hệ thống điện báo. Xem như thế, chúng ta thấy nhờ việc làm con người góp tiếng của mình vào bản hòa tấu chung của vũ trụ, cộng tác với Thiên Chúa trong công việc sáng tạo.
Bởi vậy, không có lý do để lười biếng, chơi bời và ăn bám. Đời ta sống lâu lắm là một trăm năm, cắt xén hai đầu lúc trẻ thơ và già cả, còn lại tám mươi năm. Trong quãng tám mươi năm này, đâu phải sung sướng hạnh phúc luôn. Nào bệnh hoạn, nào tai ương, nào chiến tranh, làm vẩn đục niềm hạnh phúc của chúng ta… thế mà chúng ta vẫn tha thiết, vẫn lo lắng, vẫn cặm cụi để bám lấy.
Còn cuộc đời tương lai, kéo dài mãi mãi thì chúng ta lại thờ ơ, không lo, không làm, như vậy đâu phải là khôn ngoan và sáng suốt. Hãy làm việc cho đời sống hiện tại và nhất là cho đời sống tương lai.
Cho đời sống hiện tại, chúng ta làm việc để nuôi sống mình và gia đình. Cho đời sống tương lai, chúng ta làm việc bằng cách sống đạo để được hưởng niềm hạnh phúc bất diệt. Đừng tham cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng. Đừng cúi gằm mặt xuống đất mà quên mất quê trời mai sau, nhưng hãy lợi dụng cuộc sống hiện tại với những thực tại trần gian làm bàn đạp đưa mình vào quê hương nước trời.
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Ông Khấu Chuẩn thuở nhỏ tính hay du đãng, không giữ lễ phép, lại thích chơi chim chơi chó. Bà mẹ vốn là người nghiêm khắc thấy con như thế thì quở phạt luôn mà cậu vẫn không chừa.
Một hôm, ông bỏ học đi chơi, bà mẹ giận lắm, cầm quả cân ném trúng chân ông máu chảy đầm đìa. Từ bấy giờ ông không dám lêu lổng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập.
Về sau ông thi đỗ làm quan đến chức tể tướng. Lúc ông quí hiển thì mẹ ông đã tạ thế rồi. Mỗi khi ông sờ đến vết thương ở chân thì ông lại nức nở khóc lóc mà nói rằng: “Chính vết thương này đã làm cho ta nên người”.
Có nhiều dòng nước mắt trong cuộc đời: Có những nước mắt của đau khổ, nước mắt của niềm vui, nước mắt của ly biệt, nước mắt của tiếc thương. Nhưng chỉ có nước mắt của sám hối là có giá trị hơn cả. Nước mắt sám hối khép lại quá khứ để mở cửa tương lai. Nước mắt sám hối rửa sạch tội lỗi để lộ ra ân sủng.
Trong Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy giả đã khơi lên dòng nước mắt ấy: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2). Chính Chúa Giêsu khi bắt đầu cuộc đời rao giảng cũng đã gói trọn sứ điệp nền tảng của Kitô giáo trong lời kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Sám hối là bước khởi đầu và là nền tảng của đời sống đức tin. Một trong những nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo là càng nhận ra sự nhỏ bé yếu đuối của mình, con người càng lớn lên trong ân sủng và tình thương của Chúa. Càng nhận ra thân phận tội lỗi của mình, con người càng dễ cảm thông trước vấp ngã của anh em.
Thiên Chúa không mong chờ nơi con người điều gì khác hơn là tấm lòng sám hối: “Chúa ở bên những người sám hối, và cứu chữa những ai sầu khổ” (Tv 33,19). Chính lòng sám hối chân thành đã đem lại niềm vui cho cả thiên đàng: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 17,7). Toàn bộ Tin Mừng cao rao Đức Giêsu nhân hậu với người tội lỗi.
Tuy nhiên, lòng sám hối đích thực đòi hỏi con người phải có một quyết định dứt khoát. Sám hối, theo truyền thống Kinh Thánh, chính là quay trở lại hoàn toàn theo hướng ngược lại. Sám hối, theo tiếng Hy Lạp “metanoia” có nghĩa là “thay đổi = Meta não trạng = noia”. Như vậy, sám hối đòi hỏi người ta phải triệt để thay đổi: từ tư tưởng cho đến hành động, từ hướng đi cho đến cách sống. Cuộc đời của thánh Phaolô là một kinh nghiệm thật sâu sắc về lòng sám hối, và ngài có đầy uy tín để khuyên bảo chúng ta: “Hãy quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước” (Pl 3, 13b).
Sám hối không chỉ là công việc của cá nhân mà là của cả Giáo hội. Đức Thánh Cha Phaolô VI là vị Giáo Hoàng đầu tiên thay mặt Hội Thánh bày tỏ lòng sám hối: “Nếu có lỗi lầm nào về sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là do lỗi lầm của chúng tôi, chúng tôi thành thật xin Chúa tha thứ và chúng tôi cũng xin anh em bị xúc phạm tha thứ cho chúng tôi”. Đặc biệt, trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã liệt kê rất nhiều lỗi lầm của Giáo hội trong hai thiên niên kỷ qua. Ngài đã công khai cử hành nghi thức sám hối và xin tha thứ hôm 12 tháng 3 năm 2000.
Ngọn lửa sám hối mà Đức Thánh Cha đã thắp lên trong lòng Giáo hội, không chỉ là ánh sáng xua tan bóng đêm tội lỗi, mà còn là sức nóng thôi thúc mỗi người tín hữu Kitô cũng hãy thật lòng sám hối những lỗi lầm của mình xúc phạm đến Chúa và anh em.
Trước hết, ta tìm hiểu 3 điều:
1/ Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay không phải là Gioan Tông đồ. Gioan hôm nay là con ông bà Giacaria và Elizabet, bà đã sinh Gioan lúc tuổi già. Không rõ Gioan bỏ nhà, vào sống trong rừng hồi nào. Nay ông cũng tới 30 tuổi như Chúa Giêsu. Ông được gọi 2 tên: 1/ là Gioan Tiền hô, vì xuất hiện trước để kêu gọi dân thống hối dọn đường cho Chúa, 2/ là Gioan Tẩy giả, vì ông làm phép Rửa cho Chúa dưới sông Giodanô.
Gioan Tẩy giả tu rừng thời đó mặc áo lông thú vật, ăn châu chấu, mật ong rừng, đó là thức ăn của người nghèo, từ bỏ thú vui trong đời để trở thành người của Thiên Chúa.
Gioan kêu gọi người dân Thống hối: Nghĩa là “Thay đổi con người, từ xấu nên tốt, từ tốt nên tốt hơn, từ tư tưởng, lời nói, hành động, quay về cùng Thiên Chúa, để được sống muôn đời.
2/ Phép rửa của Gioan: đây là nghi thức bên ngoài “gìm người xuống nước” để tỏ ra lòng thống hối bên trong, không phải là Bí tích như Chúa Giêsu lập sau này”.
3/ Phép Rửa của Chúa Giêsu: Là Bí tích (bí: bên trong, mắt không thấy nhưng 1/ tha tội, 2/ban đức tin, 3/ cho làm con Chúa. Tích: bên ngoài mắt ta thấy đổ nước trên trán, xức dầu thánh).
Ta suy 3 điều:
1- “Anh em hãy thống hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Đây là một thông điệp rất ngắn mở đầu sứ mạng của thánh Gioan. Ngắn thì dễ nhớ, nhưng không dễ thực hành.
Lời của thánh nhân có một sức mạnh to lớn làm cho nhiều người Do thái ” từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, khắp vùng bờ sông Giođan kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” . Những người không thành tâm bị ông mắng là “nòi rắn độc, đừng hòng thoát cơn giận của Chúa. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt và ném vào lửa Hỏa ngục. Mọi người đều có tội. Người ăn năn thống hối thì được tha, người không thống hối sẽ bị phạt.
2- Phần mỗi người chúng ta ngày nay, có cần thống hối không?
Vậy tôi cần thống hối. Lỗi tại tôi mọi đàng.
Truyện: Có một gương lành ăn năn thống hối, đền tội cải thiện đời sống đáng nhớ hôm nay, đó là thánh Khảm, được kính ngày 13 tháng 1 hàng năm:
Thánh Luca Phạm Trọng Thìn, người tỉnh Nam Ðịnh, trí khôn thông minh, nhanh nhẹn, được lên chức Chánh tổng hồi còn trẻ, và giao tiếp với nhiều người quan quyền, ông đã có vợ nhỏ, như nhiều người thời đó, vì thế sống thờ ơ với đạo.
Nhưng nhờ lời khuyên của bố, của cha giải tội, có thể của bà tổng, ông đã thành tâm thống hối, cải thiện đời sống. Sự thành tâm của ông sinh quả tốt là sau khi xưng tội, ông đã đổi đời, nên người đạo hạnh, một gia trưởng và hội viên dòng Ba Ðaminh đạo đức, một ông Chánh tổng đáng tin cậy. Hơn nữa, khi bị bắt vì đạo, ông đã cương quyết trước tòa, dù bị đánh, đập, mất danh dự, ông không bước qua Thập giá. Ông khai trong bản tuyên xưng đức tin rằng:
“Tôi là người có đạo Kitô, tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, ngay cả cái chết đau đớn nhất, hơn là phạm một lỗi rất nhỏ trong đạo. Chính tay tôi viết điều này. Luca Thìn”.
3- Tôi quyết tâm: theo của lễ 3 nhà đạo sĩ dâng Chúa Hài đồng (Vàng, nhũ hương, mộc dược)
1/ Trong tuần này, tôi chú ý hơn mục YÊU MẾN (vàng): mỗi ngày làm tử tế 50 lần Tác động Mến yêu “Giêsu-Maria-Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi các linh hồn” để làm hang đá thiêng liêng mừng Chúa Hài đồng.
2/ Xin Mẹ Maria giúp con gia tăng lòng mến Chúa mến Mẹ và Thánh Giuse, Bạn Trăm năm của Mẹ, và cứu các linh hồn.
* Nhớ lời kêu gọi của Thánh Gioan Tiền hô:”Anh em hãy thống hối, vì Nước Trời đã đến gần.”
(Ca: Hãy chỗi dậy hỡi ai ngủ mê)
Có bao giờ chúng ta nghĩ đến những hình phạt mà Thiên Chúa sẽ đổ xuống trên nhân loại này hay không? Xã hội chúng ta đang sống chìm ngập trong tội lỗi, thế nhưng nhiều người lại không nhận ra điều đó.
Trước kia, lề luật của Thiên Chúa được coi là khuôn vàng thước ngọc, được coi là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động, từ gia đình cho tới học đường, từ làng xã cho đến quốc gia và quốc tế. Đâu đâu người ta cũng nói đến Thượng đế, đến Ông Trời, đến Thiên Chúa. Kẻ làm điều ác sẽ bị mọi người cảnh cáo, khinh bỉ và có khi còn bị loại trừ. Dĩ nhiên không phải vì thế mà tội lỗi biến đi, nhưng ít ra còn có những người can đảm dám nói lên tiếng nói của lương tâm, phủ nhận tội ác, không dung túng cũng như không đứng về phe tội ác.
Trái lại, trong thời buổi hiện nay phạm tội nhiều khi còn được coi là một hành động anh hùng và nếp sống vô luân trở thành một nếp sống bình thường. Đã có những người cho rằng không phạm tội mới là bất bình thường. Có người chưa dám phạm tội, nhưng lại khoác lác như mình đã phạm tội để cho thiên hạ phải nể phục. Đã có những người tuyên bố rằng:
– Thời vàng son của tự do đã tới, con người được thoải mái sống theo bản năng, muốn làm gì thì làm.
Từ đó, lòng trung thành với tình yêu bị phai mờ. Sự ngay thẳng bị rút vào bóng tối. Tham nhũng hối lộ là chuyện thường ngày. Kẻ lường gạt được coi là khôn ngoan. Người ta không cho kẻ gian ác bị tống ngục là điều chính đáng, nhưng chỉ tiếc là hắn ta thiếu khôn ngoan. Ngay cả những nơi trước kia nền luân lý được coi là khắt khe nhất, thì bây giờ cũng đã bị bóng tối che phủ.
Biết bao nhiêu tội nhân không hề biết dừng bước trên con đường tội lỗi. Ho ung dung bước đi, đến nỗi cảm thấy áy náy nếu không phạm tội, đúng như lời Đức Thánh Cha Piô XII đã cảnh cáo:
– Tội nặng nhất của con người thời nay, đó là họ đã mất ý thức về tội lỗi.
Hình như càng văn minh, con người càng phạm nhiều tội ác. Ngày xưa chỉ có một ngọn tháp Babel, chứ ngày nay không biết có bao nhiêu ngọn tháp như thế? Chúng ta có nghĩ rằng mình đang sống ngoài vòng tội lỗi hay cũng đang lặn ngụp trong đó? Chúng ta có ghi nhận những lời cảnh cáo của Chúa hay không? Ngài sẽ làm gì khi thấy chúng ta như những con thiêu thân lao mình vào lửa?
Nếu đã nói nhiều về tình thương của Chúa, thì hôm nay chúng ta cũng phải nói về cơn thịnh nộ của Ngài. Thực vậy, tình yêu không phải chỉ được biểu lộ qua những ân huệ trao ban, mà còn được biểu lộ qua những hình phạt sửa dạy. Kinh Thánh cũng đã cho thấy:
Một trận đại hồng thủy đã vùi dập nhân loại thuở ban sơ đang chìm đắm trong tội lỗi.
Một dân tộc Do Thái, dù đã được chọn làm dân riêng của Thiên Chúa, thế mà khi phản bội, Ngài cũng không ngần ngại trừng phạt họ một cách đích đáng, khiến bản thân họ bị tàn sát bởi những dân tộc hùng mạnh và đất nước họ bị đổ vỡ tan hoang.
Chúng ta liệu có xứng đáng hơn những người thời ông Noe, liệu chúng ta có trung thành hơn những người Do Thái hay không? Chưa chắc đâu, bởi vì tội ác đã lên ngôi và Thiên Chúa sẽ trừng phạt:
– Cây nào không sinh trái thì sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Nói tới đây, hẳn chúng ta sẽ liên tưởng đến những trái bom nguyên tử đang treo lơ lửng trên đầu nhân loại. Một trái bom loại này ngày xưa đã hủy diệt cả một thành phố như Hiroshima, còn hôm nay chỉ trong nháy mắt có thể san bằng cả một lục địa. Đúng là gậy ông đập lưng ông.
Thực vậy, chính tội ác của chúng ta đã làm nên những trái bom khủng khiếp ấy, để rồi một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu lãnh nhận hậu quả thảm khốc của nó.
Tuy nhiên, ngày xưa cũng như hôm nay, Thiên Chúa luôn tìm kiếm và cứu vớt những người kính sợ Ngài. Nếu ngày xưa tám người trong gia đình ông Noe được cứu thoát trên chiếc tàu do tay ông đóng lấy, thì hôm nay, chúng ta hãy biết sám hối trở về cùng Chúa, để nhờ đó thoát khỏi án phạt của Ngài, vì này đây, chiếc rìu đã được đặt sát gốc cây.
Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì đế quốc La mã đang ở vào thời đại hoàng kim, thời đại rực rỡ nhất với uy quyền bành trướng khắp nơi. Vi hoàng đế không phải chỉ cai trị một cách tuyệt đối tại kinh thành La mã, mà còn ở tất cả những quốc gia, những dân tộc nằm trong lãnh địa của mình.
Nếu vị hoàng đế quyết định ghé thăm thủ đô của một thuộc địa xa xôi nào đó, ông ta sẽ sai sứ giả đi trước, có nhiệm vụ báo tin cho dân chúng biết cuộc viếng thăm và đốc thúc họ chuẩn bị đón rước sao cho linh đình và trọng thể. Trong khi chờ đợi, chính vị sứ giả ấy cũng sẽ được tiếp nhận với tất cả vinh dự của mình.
Đúng thế, vào lúc vị Vua tối cao của trời và đất sắp đến thăm hành tinh nhỏ bé này để ở giữa chúng ta, chia sẻ thân phận làm người của chúng ta và nhất là để cứu chuộc chúng ta, Ngài cũng đã chọn lựa cho mình một vị tiên tri, một vị sứ giả, như lời tiên tri Malachia đã loan báo: Này đây, ta sai sứ giả của ta đi trước con để dọn đường cho con.
Lời loan này ám chỉ về Gioan Tẩy giả. Đúng thế, bên bờ sông Giođan, Gioan Tẩy giả đã rao giảng và trao ban phép rửa sám hối cho người Do thái để họ chuẩn bị đón mừng đấng cứu thế: Có tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa, (Mt 3,3), quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Gioan Tẩy giả không bảo họ treo cờ, giăng biểu ngữ hay làm cổng chào, nhưng bảo họ hãy sống tinh thần sám hối, xa lánh tội lỗi, vì tội lỗi chính là những chướng ngại vật ngăn chặn không cho Chúa đến với chúng ta. Nếu không hoán cải, nếu không quay trở về với Chúa, thì này đây, cái dìu đã được đặt dưới gốc cây và cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt và quăng vào lửa. (Mt 3,10).
Ngoài ra, cũng như các vị tiên tri đi trước, Gioan Tẩy giả còn tố cáo sự giả hình và thái độ tự mãn của người Do thái vì cho rằng mình đã có tổ phụ Abraham. (Mt 3,9). Đúng thế, đức tin không phải là một di sản của nòi giống, của chủng tộc, nhưng là một cuộc dấn thân đích thực, một cuộc tự đặt lại vấn đề không lúc nào nguôi. An phận trong ơn gọi là một cạm bẫy không ngừng đối với người Do thái, trong lúc sự hoán cải đích thực đòi hỏi phải luôn canh tân và đổi mới.
Thái độ của người Do thái phải chăng cũng là thái độ của chúng ta, những người luôn tự hào: Tôi là người đạo gốc, tôi là người đạo dòng, tôi giữ đạo từ tấm bé, tôi luôn thuộc về Giáo Hội, tôi xưng tội rước lễ thường xuyên và như vậy đã bảo đảm cho tôi phần rỗi linh hồn.
Gioan trả lời cho chúng ta hay: Không phải là như thế. Chính Chúa Giêsu cũng xác quyết: Thiên Chúa có thể biến những hòn đá trở nên con cháu Abraham. (Mt 3,8). Và như vậy, trong ngày sau hết, con cháu trong nhà sẽ bị quăng ra ngoài, vào chốn tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. (Mt 8,11-12).
Thực vậy, danh hiệu người có đạo mà thôi không đủ để miễn trừ cho chúng ta bổn phận phải sám hối ăn năn, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, nhờ đó thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời. Bởi vì sống là bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, chúng ta sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.
Mùa vọng đã trở về, đây chính là thời gian thuận tiện nhất để chúng ta lắng nghe và thực thi sứ mạng của Gioan Tiền hô: sám hối và canh tân để dọn đường đón mừng Chúa đến, bởi vì tâm tình sám hối chính là bước chân đầu tiên trên con đường trở về cùng Chúa và cõi lòng ăn năn chính là một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ.
Hay như thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Tâm tình sám hối ăn năn chính là sự cộng tác, chính là sự góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Cách đây không lâu có một bài báo viết về một chương trình rất đặc biệt. Chương trình nói về việc tẩy xóa những vết xăm không còn muốn giữ lại trên thân mình, đặc biệt là những dấu xăm có liên hệ đến băng đảng của các bạn trẻ. Một điều rất ngạc nhiên xảy ra là sau khi bài báo xuất hiện, đã có trên 1000 lá thư từ các bạn trẻ khắp nơi gửi về tòa soạn hỏi thêm chi tiết về chương trình. Nhờ sự đáp ứng đáng kể đó mà một cơ quan giáo dục tại Los Angeles đã phối hợp với một hãng truyền hình địa phương sản xuất một cuốn phim gọi là “Untatoo You” – “Tẩy vết xăm cho bạn”.
Cuốn phim nói về những nguy hiểm của việc xăm mình và trình bày sự khó khăn của việc tẩy đi những dấu xăm nhỏ trên những cánh tay, khuôn mặt, và những vết xăm lớn hơn trên ngực và sau lưng. Các tài tử đóng phim này chính là những bạn trẻ đã xăm mình. Họ nói một cách thành thật về lý do tại sao lúc ban đầu họ đã xăm, và bây giờ tại sao họ lại muốn tẩy xóa đi. Sau cùng, cuốn phim đã chiếm được giải thưởng quốc gia, và bây giờ đã được phát hành trên khắp nơi.
Câu chuyện đằng sau cuốn phim nói với chúng ta một điều quan trọng. Trong cuộc đời chúng ta đã làm những điều mà bây giờ cảm thấy ăn năn sám hối và muốn tẩy xóa đi. “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng”.
Giống như những người trẻ vui mừng khi khám phá ra cách tẩy xóa những dấu xăm không còn muốn giữ nữa, chúng ta, những người Kitô hữu, cũng vui mừng vì Chúa Giêsu Kitô đã cho chúng ta một cách để tẩy xóa tội lỗi của mình. Chính Ngài đã đến để xóa tội trần gian. Chính Ngài đã lập ra Bích tích Hòa giải để tẩy xóa tội lỗi ta.
Chủ đề chính của Chúa nhật thứ II mùa vọng hôm nay là sự sám hối chân thành và lòng ăn năn trở về với Thiên Chúa. Sự sám hối chân thành được thể hiện bằng những thái độ, sự lựa chọn và cách sống phù hợp với những giảng huấn của Chúa Giêsu và Giáo Hội. Điều này được thực hiện trong Bí tích Giải tội với những tên gọi khác nhau như Bí tích của sự trở lại, Bí tích sám hối, Bí tích của ơn tha thứ, Bí tích hòa giải.
Trong tiếng Hy Lạp chữ sám hối, metanoia, vừa có nghĩa một cảm xúc hối tiếc về những tội lỗi quá khứ làm xúc phạm đến Thiên Chúa, vừa là việc xét mình tỉ mỉ những tội đã phạm, từng tội một, để xin Chúa tha thứ, vừa là một sự đòi hỏi hoán cải sâu xa trong tâm trí và cuộc sống.
Sự biến đổi cuộc sống là dấu chỉ của lòng sám hối đích thật. Phải thay đổi cách suy nghĩ, cách cư xử, và cách hành động. Giáo Hội vừa thánh thiện, vừa gồm những tội nhân. Như một thành phần trong Giáo Hội, chúng ta chưa là thánh, nhưng đang được kêu gọi để trở nên thánh, và luôn được mời gọi để thay đổi.
Nhưng trong quá trình hoán cải, giống như thánh Augustinô, đôi khi chúng ta cũng có khuynh hướng cầu xin với Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy thay đổi con, nhưng xin thay đổi con từ từ thôi”. Chúng ta cũng còn muốn giữ lại một điều gì đó dính bén với tật xấu, thói quen tội lỗi và trần gian. Sự do dự chần chừ trong việc thay đổi cuộc sống như thế thường xảy ra trong đời sống thiêng liêng của con người. Hay tệ hơn nữa chúng ta lại còn có những cảm xúc hối tiếc giả tạo, đánh lừa chính mình nữa.
Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả thật rõ ràng: hãy nhận lấy trách nhiệm về những hành động của mình. Phải phục hồi lại cảm giác luân lý trong lời nói và việc làm. Phải nhìn thấy sự khác biệt giữa sự giả trá và lòng chân thành. Phải có bằng chứng hiển nhiên rằng mình thành thật ước muốn thay đổi cuộc sống. Một sự sám hối chân thành sẽ phát sinh hoa trái đạo đức: “Hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối”.
Hôm nay thánh Gioan Tẩy giả cũng giảng dạy cho những người Kitô hữu ở thế kỷ 21 đang hờ hững và lạt lẽo với đời sống tinh thần. Ngài thách thức họ phải vứt bỏ những cái mặt nạ giả hình, dối trá, và gian tà bằng sự chân thành sám hối có sức mạnh biến đổi cuộc sống, và trở về với Thiên Chúa. Vì chỉ có lòng sám hối chân thành và ngay thực mới phát sinh được hoa trái đạo đức và mang lại ơn cứu độ như thánh Grêgôriô thành Nazianzê đã nói: “Các giáo phụ đã có lý để gọi sự sám hối là ‘một phép rửa tội gian khổ’. Bí tích sám hối này cần cho ơn cứu độ của những người phạm tội sau khi chịu phép rửa tội…”
Mùa vọng là thời gian để phục hồi lại đời sống tinh thần lạt lẽo của chúng ta và đặt Thiên Chúa lên hàng ưu việt trong thái độ sống và trong các chọn lựa. Đối với Kitô giáo, không có sự hoàn thiện nào mà không đòi hỏi một sự sám hối chân thành.
“Hãy cải thiện đời sống! Triều đại Thiên Chúa đã đến”
Nếu chủ đề của Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm A tuần trước là “Hãy leo lên núi Chúa, tới nhà của Thiên Chúa Giacóp” , mà “leo lên núi Chúa”, như bài chia sẻ tuần trước cho thấy, là “hãy loại trừ những việc làm tối tăm” theo lời khuyên của Thánh Phaolô trong bài đọc hai tuần trước, chúng ta mới có thể gặp được Chúa Kitô, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, thì lời kêu gọi của tiên tri Isaia trong bài đọc một tuần trước đã nên trọn nơi lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay: “Hãy cải thiện đời sống! Triều đại Thiên Chúa đã đến”. Căn cứ vào mối liên hệ sâu xa nơi hai lời kêu gọi hết sức tương hợp với nhau này, một trong Cựu Ước và một trong Tân Ước, chúng ta có thể chuyển dịch ý nghĩa của hai lời mời gọi này như sau: “Hãy leo lên núi Chúa” tức là “hãy cải thiện đời sống”, và “tới nhà của Thiên Chúa Giacóp” tức là “Triều đại Thiên Chúa đã đến”.
Thật vậy, như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, theo tiến trình cứu độ, Mùa Vọng là thời điểm trông đợi Chúa Kitô đến cứu thế, song theo ý nghĩa phụng vụ, Mùa Vọng là thời điểm cảm nghiệm thần linh, cảm nghiệm Đấng đã thực sự đến trong thế gian và không ngừng ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế, bởi vậy Mùa Vọng của Giáo Hội Chúa Kitô cũng hướng về biến cố Chúa Kitô lại đến trong vinh quang. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể cảm nghiệm thần linh, có thể thực sự nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Lời Nhập Thể, là Thiên Chúa Làm Người, cho dù Người có đang ở với mỗi người chúng ta bằng Thánh Sủng, và có ở cùng Giáo Hội bằng Thần Linh của Người, nếu chúng ta không “leo lên núi Chúa”, tức không “cải thiện đời sống”. Bởi vì, “nhà của Thiên Chúa Giacóp” ở trên ngọn của “đỉnh núi cao nhất”, nơi chúng ta “thuộc về hạ giới” (Jn 8:23) không thể tới được, thậm chí không thể thấy được, nếu chúng ta không muốn hay không chịu khó “leo lên núi Chúa”. Thật vậy, “nhà của Thiên Chúa Giacóp” đây là gì, nếu không phải là nhân tính của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Làm Người, một ngôi nhà không phải do tay người ta làm ra, mà là do chính Thiên Chúa, “là do Chúa Thánh Thần”, như thiên thần báo mộng cho Thánh Giuse biết trong Phúc Âm của Chúa Nhật Thứ Tư Năm A Mùa Vọng hai tuần tới đây. Nếu “Thánh Thần sẽ xuống trên trinh nữ và quyền phép Đấng Tối Cao sẽ bao phủ trinh nữ; bởi thế trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”, như Phúc Âm Thánh Luca trình thuật ở đoạn 1 câu 35, thì quả thực “nhà của Thiên Chúa Giacóp”, một ngôi nhà đã được dựng lên bởi “quyền phép Đấng Tối Cao”, chính là ngôi nhà đã được xây cất ở trên ngọn của “một đỉnh núi cao nhất vượt trên các ngọn đồi”. Và nếu “trẻ thánh được sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” đây chính là Đấng, cũng theo lời thiên sứ cho biết ở Biến Cố Truyền Tin trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 1 câu 32-33: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời và triều đại Người sẽ vô tận”, thì một khi “nhà của Thiên Chúa Giacóp” được xây cất trên ngọn của “đỉnh núi cao nhất” bấy giờ cũng là lúc “Triều đại Thiên Chúa đã đến”, như lời Gioan Tiền Hô loan báo trong bài Phúc Âm hôm nay.
Thế nhưng, nếu thực sự “Triều đại Thiên Chúa đã đến”, hay nếu Thiên Chúa Đã Làm Người, tại sao không ai trong dân Do Thái biết, không ai thấy, ngoại trừ một số rất hiếm, như tư tế Simêon và nữ tiên tri Anna như được Phúc Âm theo Thánh Luca thuật lại ở đoạn 2 câu 28-38? Phải chăng vì “nhà của Thiên Chúa Giacóp” này xây trên “đỉnh núi cao nhất”, hết sức khó thấy. Đúng thế, Thiên Chúa Nhập Thể là một mầu nhiệm, do đó, nếu không có ơn Chúa đặc biệt, con người không thể nào nhận ra Người, dù Người có thực sự ở giữa họ, như lời Tiền Hô Gioan khẳng định với dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26: “Có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”. Vậy mà tại sao Gioan Tiền Hô lại biết và loan báo cho dân chúng biết, trong khi chính ngài đã thẳng thắn tuyên bố với dân chúng trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 31 rằng: “Thú thực, tôi không biết Người, mặc dù tôi đến lấy nước mà rửa để Người có thể tỏ mình ra cho dân Yến Duyên”? Trong khi tuyên bố “thú thực, tôi không biết Người” như thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan Tiền Hô lại nói rất rõ về thân phận và vai trò của “Đấng đến sau” mình. Về thân phận của Đấng “tôi không biết”, Gioan Tiền Hô tiết lộ: “Tôi lấy nước mà rửa cho các người hoán cải, nhưng Đấng đến sau tôi là Đấng quyền thế hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Người”; về vai trò của Đấng “tôi không biết”, Gioan Tiền Hô cũng đã nói rõ: “Người là Đấng sẽ rửa các người trong Thánh Thần và trong lửa… Người sẽ dọn sạch sân lúa của Người, thóc thì Người thu vào kho, còn rơm thì Người cho vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Quả thực Đấng “tôi không biết” của Gioan Tiền Hô đã đến “rửa trong Thánh Thần và trong lửa”: Người đã “rửa trong Thánh Thần”, qua việc Người “thổi hơi” trên các tông đồ sau khi sống lại từ trong kẻ chết, để các vị “nhận lấy Thánh Thần”, như Phúc Âm theo Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 20 câu 22; và Người cũng đã “rửa trong lửa”, qua biến cố “những lưỡi như lửa xuất hiện tản ra đậu trên đầu mỗi một vị. Tất cả đều được đầy Thánh Thần. Các vị bắt đầu nói tiếng lạ và hiên ngang rao giảng theo Thần Linh thúc đẩy”, như được Thánh Ký Luca thuật lại trong Sách Tông Vụ ở đoạn 2 câu 3.
Phúc Âm cho thấy khi Gioan Tiền Hô đang kêu gọi dân Do Thái “cải thiện đời sống” và làm phép rửa thống hối cho họ ngài chưa thực sự tận mắt thấy Đấng “tôi không biết”, thậm chí cho đến lúc thánh nhân làm phép rửa cho Người, và thấy được những dấu chứng tỏ và chứng thực về “Đấng đến sau” mình, như ngài cho biết trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 2 câu 32-34: “Tôi đã thấy Thần Linh như chim bồ câu từ trời xuống đậu trên Người. Tuy nhiên, tôi không biết Người. Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa đã bảo tôi rằng ‘Khi nào ngươi thấy Thần Linh xuống và đậu trên ai thì người ấy là Đấng rửa trong Thánh Thần’. Nay tôi đã tận mắt thấy và làm chứng ‘Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn’”. Tuy nhiên, theo Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 3 câu 13 và 14, ngay trước khi Đấng “tôi không biết” của Gioan Tiền Hô chịu phép rửa bởi ngài, thánh nhân hình như đã linh cảm được Người chính là “Đấng đến sau” mình rồi, nên thánh nhân đã từ chối làm phép rửa cho Người: “Tôi phải được Ngài rửa cho mới đúng, chứ đâu có chuyện Ngài lại đến xin tôi!”. Vấn đề ở đây là tại sao Gioan và chỉ có một mình Gioan bấy giờ linh cảm thấy Vị Thiên Chúa Làm Người trước khi làm phép rửa cho Người, và chẳng những nhận ra Vị Thiên Chúa Làm Người mà còn làm chứng cho Vị Thiên Chúa Làm Người này sau khi làm phép rửa cho Người, trong khi đó, đám dân chúng đông đảo đang kéo đến với thánh nhân, gồm có cả thành phần thông luật, thông Kinh Thánh, như phái Pharisiêu và Sađucê trong bài Phúc Âm hôm nay, không hề nhận ra Người?
Vẫn biết, nguyên do trước hết và trên hết khiến cho Gioan Tiền Hô có thể linh cảm thấy và nhận ra Vị Thiên Chúa Làm Người là vì, theo thánh nhân nói, như vừa được trích dẫn, “Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa đã bảo tôi”, thế nhưng, Đấng sai thánh nhân đến “lấy nước mà làm phép rửa” đây là ai? Vào lúc nào? Tại đâu? Sao thánh nhân lại tin vào Đấng ấy? Không ai biết, và chính ngài cũng không tiết lộ một tí gì về những chi tiết này. Về vấn đề nguồn gốc sứ vụ của Gioan Tiền Hô đây cũng đã được Chúa Giêsu đặt ra cho thành phần trưởng tế và kỳ lão lãnh đạo trong dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 21 câu 24 thế này: “Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?” Nhưng họ không trả lời được, nói rõ hơn, họ không muốn trả lời, hay nói chính xác hơn, họ không dám trả lời, như Phúc Âm theo Thánh Mathêu cùng đoạn tiếp tục thuật lại như sau: “Nếu chúng ta đáp là bởi ‘thần linh’ thì hắn sẽ vặn chúng ta rằng ‘thế thì tại sao các người không tin vào phép rửa này?’ Bằng nếu chúng ta bảo bởi ‘loài người mà thôi’, chúng ta không thể nào lại không sợ dân chúng, vì toàn thể dân chúng đều coi Gioan như là một vị tiên tri vậy”. Đến đây, qua sự kiện thành phần lãnh đạo dân Do Thái bấy giờ lập luận để giải đáp về nguồn gốc phép rửa của Gioan, chúng ta mới thấy được lý do chủ quan tại sao Gioan Tiền Hô có thể tự mình linh cảm thấy “Đấng đến sau” khi vừa thấy Người đến xin thánh nhân làm phép rửa cho, trước khi thánh nhân nhận ra Người căn cứ vào chính mạc khải từ “Đấng đã sai tôi lấy nước mà làm phép rửa”.
Thật vậy, nếu lý do dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo dân chúng là Hội Đồng Do Thái bấy giờ nói riêng không nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, cho dù họ đã tận tai nghe lời Người giảng dạy vô cùng khôn ngoan cũng như đã tận mắt chứng kiến các phép lạ Người làm, chỉ vì họ muốn chối bỏ sự thật, không muốn chấp nhận sự thật, thì lý do chủ quan khiến Gioan Tiền Hô cảm nhận được ngay Vị Thiên Chúa Làm Người, đó là vì thánh nhân đã sống trong sự thật và tìm kiếm sự thật. Do đó, cho dù “toàn thể dân chúng” có trọng vọng thánh nhân “như một vị tiên tri”, thậm chí tưởng ngài là “Đấng Thiên Sai” (xem Jn 1:25), thánh nhân đã thành thực tuyên bố: “Tôi không phải là Đấng Thiên Sai” (Jn 1:20). Vì sống trong sự thật như thế, nên có lần nghe thấy các môn đồ của mình nói đến sự kiện dân chúng kéo tới xin Chúa Giêsu làm phép rửa cho đông hơn thánh nhân (xem Jn 3:26), thánh nhân liền nói: “Ngài phải được nổi nang hơn còn tôi cần phải lu mờ đi” (Jn 3:30). Gioan Tiền Hô tự mình chẳng những đã sống trong sự thật như vậy, mà còn mạnh mẽ rao giảng sự thật và cương quyết làm chứng cho sự thật nữa. Thánh nhân đã mạnh mẽ rao giảng sự thật, ở chỗ, như Phúc Âm hôm nay thuật lại, khi ngài lên tiếng khiển trách “nhiều người Pharisiêu và Sađucê đến xin chịu phép rửa: ‘Đừng có mà tự phụ cho rằng Abraham la cha của mình. Tôi bảo cho các người hay Thiên Chúa có thể biến chính những hòn đá này thành con cái Abraham cũng được… Cây nào không sinh hoa kết trái sẽ bị chặt đi và quặng vào lửa”; chưa hết, thánh nhân chẳng những rao giảng mà còn hiên ngang “làm chứng cho sự thật” (Jn 5:33) nữa, ở chỗ, ngài đã lên tiếng phản đối việc hôn nhân bất chính của Hêrôđê và vì thế đã bị mất đầu, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 14, câu 4 và 11.
Vâng, cho dù Thiên Chúa Làm Người có thực sự tỏ mình ra, tỏ mình ra hoàn toàn nhất, đích thực nhất, hiển nhiên nhất nơi Con Người Giêsu Nazarét, và cho dù con người có được soi động cho biết những dấu hiệu đích thực để có thể chắc chắn nhận ra Ngài, nhận ra “Sự Thật”, chẳng hạn như trường hợp Gioan Tẩy Giả qua “Đấng đã sai (ngài) lấy nước mà làm phép rửa”, hay như trường hợp của thành phần lãnh đạo dân Do Thái trước vấn nạn Chúa Giêsu đặt ra cho họ về ngồn gốc phép rửa của Gioan Tẩy Giả, tự mình con người vẫn cần phải thành tâm tìm kiếm sự thật và sống trong sự thật nữa mới có thể nhận ra Người. Vì Người đã quả quyết với Philatô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 18 câu 37: “Lý do Tôi được sinh ra, lý do Tôi đã đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tìm kiếm sự thật thì nghe thấy tiếng Tôi”. Cho dù thành phần tìm kiếm sự thật này chưa gặp được Người là chính “Sự Thật” (Jn 14:6), nơi họ cũng đã có sẵn tính chất là chiên của Người rồi, và bởi thế họ đã có khả năng làm chiên của Người nữa, khả năng nghe được tiếng chủ chiên của mình, khả năng nghe được “Sự Thật”, nhận biết “Sự Thật” khi được “Sự Thật” tỏ mình ra cho, vì Chúa Giêsu đã tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 10 câu 27 và 16: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”; “Tôi còn những chiên khác chưa thuộc về đàn này. Tôi phải dẫn dắt cả chúng nữa, và chúng sẽ nghe thấy tiếng Tôi. Sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu Mùa Vọng chẳng những là thời điểm đợi trông Chúa Kitô đến lần thứ hai mà còn là thời điểm để Kitô hữu chúng ta cảm nghiệm được thực sự Chúa Kitô đã đến rồi và đang ở nơi mỗi một người chúng ta bằng Thánh Sủng cũng như ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế bằng Thần Linh của Người, và nếu muốn thực sự cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa Làm Người này nơi mỗi người cũng như trong Giáo Hội, Kitô hữu chúng ta cần phải như Gioan Tiền Hô sống trong sự thật, mà Sự Thật lại chính là Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa Làm Người, vậy sống trong sự thật phải chăng là tuyệt đối tin tưởng rằng Thiên Chúa thực sự đã Làm Người, và vì hoàn toàn tin tưởng nơi Vị Thiên Chúa Làm Người như vậy, Kitô hữu chúng ta sẽ không dám sống ngược lại với Đường Lối Nhập Thể của Người là khiêm nhượng, thanh bần, phục vụ và chịu đựng khổ đau, tóm lại, chúng ta luôn phải biết “bỏ mình đi và vác thập giá mà theo Thày” (Mt 16:24)?
Để hiểu được vai trò và sứ mạng của Gioan tiền hô, chúng ta hãy nhìn vào bối cảnh xã hội của người Do Thái thời bấy giờ.
Thực vậy, thời bấy giờ là thời đô hộ của đế quốc La mã, thời ra oai tác quá của Hêrôđê, thời dân Do Thái tìm mọi cách để được giải phóng.
Giữa lòng dân tộc và đặc biết tại thủ đô Giêrusalem, nhiều phe nhóm đã được hình thành với những khuynh hướng và lập trường khác biệt nhau.
Trước hết là nhóm Biệt phái. Nhóm này phát sinh từ thời Macabêô, qui tụ chừng sáu ngàn người, trong đó có một vài tư tế, các tiến sĩ luật, ký lục và thường dân. Nhờ trung thành với lề luật và truyền thống của cha ông, họ trở nên những nhà lãnh đạo tinh thần của dân chúng. Do đó, họ có một ảnh tưởng đáng kể về phương diện tôn giáo và luân lý. Riêng trong lãnh vực chính trị, họ bênh vực sự tự trị của dân tộc Do Thái và tỏ ra dè dặt đối với việc tiếp xúc với người La mã.
Bên cạnh họ là nhóm Sađucêô, con cháu của Sađốc, vị thượng tế thời Salomon. Vì thế họ làm thành phái các tư tế vì qui tụ những gia đình tư tế khá giả. Họ chấp nhận các phong tục Hy Lạp và thích nghi với chế độ thống trị của đế quốc La Mã. Về phương diện tôn giáo, họ chối bỏ truyền thống và niềm tin về sự sống lại, sự hiện diện của các thiên thần cũng như sự quan phòng của Thiên Chúa.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải ghi nhận nhiều khuynh hướng cực đoan, chẳng hạn nhóm Zélote, là một đảng phái chính trị và tôn giáo quá khích, được Giuđa người xứ Galiêa thành lập vào năm thứ sáu với ước vọng hình thành một quốc gia thần quyền, trong đó chỉ mình Đức Giavê mới là vua dân Do Thái, đồng thời chủ trương dùng bạo lực để bẻ gẫy ách thống trị của đế quốc La mã. Họ từ chối đóng thuế và lánh vào hoang địa để chuẩn bị một cuộc thánh chiến. Và cuộc thánh chiến này đã bùng nổ vào năm 66.
Ngược lại, những người phái Esseni cũng vào hoang địa, nhưng để âm thầm sửa soạn cho một cộng đồng thiên sai của giao ước.
Chính trong môi trường đa diện ấy, khuôn mặt Gioan xuất hiện như một con người đang cực lực kêu gọi toàn dân Israel hãy ăn năn sám hối và quay trở về cùng Thiên Chúa.
Vậy lời kêu gọi của ông có ý nghĩa gì?
Đối với Gioan, lời kêu gọi ấy xác quyết rằng:
– Sự nong chờ của toàn dân đã đến ngày toại nguyện.
Cũng như những người đương thời, ông tin rằng:
– Niềm chờ mong sẽ được toại nguyện khi Đấng Thiên sai xuất hiện, Đấng mà ông giới thiệu như vị thẩm phán của thời sau hết…
Thực vậy, giữa thời Gioan rao giảng và thời sau hết, giữa lúc bấy giờ và ngày cuối cùng chỉ còn chỗ cho một biến cố duy nhất, đó là việc quang lâm của Đấng sẽ đến để chấm dứt mọi sự.
Cũng như các vị tiên tri đi trước, Gioan tố cáo sự giả hình và thái độ tự mãn của người Do thái chỉ vì mình là con cháu Abramham.
Thế nhưng, đức tin không phải là một di sản của giống nòi, của chủng tộc, nhưng là một cuộc dấn thân đích thực, một cuộc tự đặt lại vấn đề không lúc nào nguôi.
An phận trong ơn gọi là một cạm bẫy không ngừng đối với dân Do thái,trong lúc sự hối cải đích thực đòi hỏi phải luôn canh tân và đổi mới.
Thái độ của người Do thái phải chăng cũng là thái độ của chúng ta, những người luôn tự hào: – Tôi là người đạo gốc, tôi là người đạo dòng, tôi giữ đạo từ bé, tôi luôn thuộc về Giáo Hội, tôi xưng tội rước lễ thường xuyên và như vậy đã bảo đảm cho tôi phần rỗi linh hồn.
Gioan trả lời: – Không phải là như thế.
Chính Chúa Giêsu cũng xác quyết:
– Thiên Chúa có thể biến những hòn đá trở nên con cháu Abraham…Và như vậy trong ngày sau hết, con cháu trong nhà sẽ bị loại ra ngoài.
Thực vậy, danh hiệu người có đạo mà thôi không đủ để miễn cho chúng ta bổn phận phải sám hối ăn năn, phải uốn nắn sửa đổi những thói hư tật xấu, nhờ đó thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời. Bởi vì sống là bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, chúng ta sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.
Một hôm, cột đèn điện xanh đỏ giữa công trường chính tại một thành phố lớn kia nổi hứng trở nên như điên dại. Trong chốc lát, cả ba bóng đèn xanh, đỏ, vàng đều tỏa ra một thứ ánh sáng màu xanh lơ. Người đi đường trở nên lúng túng, phân vân không biết phải đi hay phải dừng lại. Nhìn trước nhìn sau, đâu đâu người ta cũng chỉ nhìn thấy một mầu xanh lơ, không khác chi bầu trời xanh thăm thẳm vậy.
Trong lúc mọi người dừng lại ngơ ngác muốn hiểu sự lạ kỳ này có ý nghĩa gì, thì những người mất kiên nhẫn bắt đầu la lối, người lái xe hơi bóp còi inh ỏi, người chạy xe đạp cũng rung chuông rùm beng vì cũng muốn đi trước. Những người có tính khôi hài bắt đầu nói cười với nhau:
Đèn mầu xanh, có lẽ đã bị ai ăn cắp đem sơn nhà nghỉ mát của họ ở miền quê nào đó rồi.
Còn màu đỏ, có lẽ ai đã lấy đem sơn cá vàng trong hồ nước rồi.
Biết màu vàng họ lấy làm gì không? Để pha loãng dầu đem bán hốt bạc của thiên hạ. Sau cùng, giữa đám người đông đảo hỗn độn, một bác cò xuất hiện đến giữa ngã tư công trường, giơ tay làm hiệu cho xe cộ và khách bộ hành qua lại. Người đứng chờ, kẻ tiến bước. Trong khi đó, mấy chú thợ điện cũng chạy lăng xăng tìm công tơ và hộp điện trung ương để sửa chữa và nối lại các mối dây. Trước khi cúp điện, cột đèn xanh lơ chỉ kịp thốt lên một câu:
Thật tội nghiệp cho những người khách đi đường mù quáng, mình ra hiệu đường tự do về trời cho họ, thế mà họ lại không biết đọc. Giá như họ biết đọc dấu hiệu của màu đèn mới này, có lẽ họ đều có thể bay bổng về trời cả rồi, nhưng tiếc là không một ai có đủ can đảm để cất cánh bay bổng lên.
Câu chuyện thần thoại trên đây muốn nói lên một ý nghĩa sâu xa. Đèn điện đường màu xanh lơ ám chỉ một bất ngờ, một sự bất ngờ giữa các sự việc đều đặn như thoi đưa của nếp sống hằng ngày, nó báo hiệu sự khám phá bất ngờ về một chiều kích mới của cuộc sống. Thế nhưng, vì đã quá quen thuộc với nếp sống đều đặn họ không biết nhận ra cái mới mẻ. Như những người lái xe rất lành nghề, họ chỉ biết cúi đầu trên bánh tay lái, chỉ biết nhìn xuống đường đi, họ đành để mình chịu đóng kín trong cái hộp sắt với những cửa sổ bằng kiếng, họ chỉ bận tâm đến công ăn việc làm, đến tiền bạc, danh vọng và trăm ngàn thứ lo lắng hằng ngày.
Bóng đèn điện đường xanh đỏ bỗng dưng đổi màu xanh lơ, là như lời cảnh tỉnh đánh thức họ khỏi cảnh nhàm chán hằng ngày, như muốn nói với họ: Hãy dừng lại, hỡi những người đang đi đường, các ngươi đang bỏ mất một kho tàng quí giá. Trên trần gian này không chỉ có đất mà thôi, hãy nhìn lên cao còn có trời nữa. Tiếc thay, lời thức tỉnh đó quá yếu ớt, chỉ trong nháy mắt đã bị tắt lịm, đã bị tan biến trong làn gió nhẹ.
Tin mừng Phúc âm, chính là lời thức tỉnh nhẹ nhàng đó, nó vang dội khắp nơi, nhưng chỉ ai biết dừng lại, biết đưa mắt nhìn lên cao mới nhận ra tiếng đó được. Đó là những người có thiện chí đi tìm kiếm chân lý và sự thật, những người không chỉ đóng kín trong thế giới vật chất, nhưng còn biết khao khát những gì cao thượng và bất diệt. Biết tìm kiếm chiều kích thánh thiêng của đời sống con người nữa..
Lạy Chúa, hôm nay con muốn nhớ đến những người đang sống xa Chúa, những người mù quáng khẳng quyết rằng không có Thiên Chúa. Những người tin rằng họ là những con vật được khép kín với trời cao, nhưng thực sự họ lại là những người khát vọng trời cao hơn cả mà họ không biết, hoặc không dám tự thú nhận, có lẽ họ đang chờ đợi một cái gì đó đem xuống cho họ một niềm vui, nhóm lên trong tâm hồn họ một niềm hy vọng đích thực.
Lạy Chúa, ước chi tất cả đời sống con có thể là một tia lửa, cho dù thật nhỏ bé, nhưng đủ để nhóm lên niềm hy vọng trong tâm hồn những người còn sống xa Chúa, vẫn còn hững hờ, dửng dưng, vẫn còn chưa nhận biết những dấu hiệu của tình thương vô biên của Chúa. Amen.
Ai trong chúng ta chẳng đôi khi mơ ước một thế giới tốt đẹp hơn? Một thế giới không có lầm than, một thế giới trong đó những con người và các quốc gia sống hòa thuận với nhau, một thế giới của công lý và hòa bình. Lòng con người vẫn ấp ủ khát vọng dai dẳng này nhưng luôn luôn bị các sự kiện trấn át, luôn luôn bị thực tế phũ phàng bóp nghẹt.
Các nhà chính trị sử dụng khát vọng sâu xa này để thu được nhiều phiếu. Ngày xưa tổng thống Johnson hứa “làm cho sa mạc trổ hoa và cho đại dương hết mặn”. Những người khác thì nói về “Xã hội công bằng”, “Hòa giải dân tộc”. Tất cả đều hứa một thế giới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Một số cử tri tin vào những lời hứa này và về sau đã bị thất vọng; còn những người khác thì vẫn không tin.
Vào thời của ông, Isaia không phải là một nhà chính trị. Ông là ngôn sứ. Nghĩa là lời của ông cũng có giá trị cho cả ngày nay nữa. Ông cũng dựa trên khát vọng sâu xa và dai dẳng của chúng ta về một thế giới tốt đẹp hơn. Một thế giới không hận thù, không bạo động, một thế giới không còn gây hấn, một thế giới được hòa giải.
Isaia mô tả cho một thứ thiên đàng được tìm lại. Trong mười hàng, ông phác họa cho chúng ta vài hình ảnh chớp nhoáng của thế giới tốt đẹp hơn đó. Sói và chiên con ở một chỗ với nhau; một cậu bé dẫn bê và sư tử con ra đồng cỏ; gấu con và bò cái ở chung với nhau; sư tử ăn rơm; một đứa bé hai tuổi thọc tay vào hang rắn lục.
Những tấm ảnh này trong thế giới tốt đẹp của Isaia đều mang cùng một đặc điểm, đó là sự thay đổi. Gấu, chó sói, rắn lục, sư tử đã thay đổi nếp sống. Chúng đã mất đi tính bạo động, hung hãn của chúng. Chúng không còn là thú dữ nữa. Con sư tử đã biến đổi đến nỗi ăn rơm, đàng khác bò cái, bê, cừu con cũng thay đổi. Chúng không còn sợ hãi nữa, vì đã hết thú dữ rồi. Isaia mô tả cho một cuộc thuần hóa toàn bộ các thú vật. Nhưng lại chẳng phải ông muốn nói những điều ấy để ám chỉ về con người sao?
Ta suy nghĩ một chút. Ta hãy tự hỏi chúng ta phản ứng thế nào trước thế giới tốt đẹp mà ngôn sứ Isaia trình bày đây. Chúng ta đón nhận bản văn này thế nào? Một số người sẽ nói: “Đẹp đẽ thật… Nhưng liệu có đúng như vậy, liệu điều này có thể xảy ra không?” Họ chỉ thấy những chuyện đó toàn là mơ mộng đạo đức hão huyền thôi. Hoàn toàn không tưởng, không chú ý đến thực tế của thế giới này đầy dẫy xung đột, nơi mà bạo lực càng ngày càng lan rộng. Những kẻ khác dứt khoát từ chối ý nghĩ về một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới của công lý và hòa bình, vì mơ mộng như vậy là nguy hiểm và tai hại. Điều này chỉ làm cho con người yếu đi trong cuộc đấu tranh của mình mà thôi.
Với tư cách là tín hữu, chúng ta không thể ủng hộ những ý kiến này, cũng không thể tạo cho mình những thái độ như thế. Bản văn của Isaia là lời Chúa buộc chúng ta tin. Thế giới của công lý và hòa bình là dự án của Thiên Chúa dành cho con người. Và Thiên Chúa đã bắt đầu thực hiện nó nơi Chúa Giêsu Kitô.
Ngài yêu cầu chúng ta là những tín hữu tham gia vào công cuộc này. Để có thể cộng tác với Ngài, chúng ta phải hoán cải nhiều hơn nữa.
Dụ ngôn của Isaia cho chúng ta thấy loài thú được thuần hóa, được hoán cải. Đối với chúng ta hoán cải trước hết là đón nhận, chấp nhận dự án của Thiên Chúa về một thế giới công bằng và huynh đệ. Chúng ta chấp nhận hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có một thế giới như thế, bất chấp tất cả những thực tại cho thấy điều ngược lại. Chúng ta luôn lạc quan… Nhân danh đức tin Kitô của chúng ta.
Thứ hai, hoán cải là trở nên công bằng và huynh đệ hơn tại nơi chúng ta đang sống: Gia đình, khu xóm, môi trường làm việc. Chính ở những nơi đó mà chúng ta được mời gọi xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Công lý nói trên là công lý của Thiên Chúa, không phải chỉ trả lại cho mỗi người những gì thuộc về họ mà thôi, vì có những người không có quyền gì cả. Đây là thăng tiến những người yếu kém nhất, những kẻ thiếu thốn đủ loại. Như Thiên Chúa, người kitô hữu có lòng ưu ái đối với những kẻ yếu kém.
Mỗi người trong chúng ta phải nhận biết điều Thiên Chúa mời gọi mình làm tại nơi mình đang có mặt. Nhưng đối với mọi người có đức tin thì ý tưởng của Francoise Gaudet-Smet vẫn có giá trị: “Người ta không chờ đợi những ngày tốt đẹp hơn, người ta phải tạo nên những ngày đó”. Thánh lễ chúng ta đang cử hành đây sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để làm việc này.
Câu hỏi gợi ý
Suy niệm
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Câu nói ấy của Gioan Tẩy Giả cho thấy: nếu Nước Trời sắp đến thì con người cần phải sám hối. Sám hối là gì? Sám hối trước tiên là nhận ra mình đã phạm sai trái, lầm lỗi hay có tội, đồng thời hối tiếc vì thấy được hậu quả tai hại của chúng, sau đó quyết tâm thay đổi, sửa chữa, không tái phạm nữa. Nhưng điều quan trọng cần sám hối và sửa sai chính là quan niệm của mình. Quan niệm sai lầm sẽ dẫn đến tư tưởng và hành động sai lầm. Nhưng nhận ra quan niệm hiện có của mình là sai lầm là một điều hết sức khó: ai cũng cho quan niệm của mình là đúng. Vì có cho là đúng thì mình mới dùng nó làm căn bản để tư tưởng và hành động. Tuy nhiên, có một tiêu chuẩn để biết quan niệm của mình đúng hay sai, đó là đối chiếu nó với quan niệm của Thiên Chúa, được bầy tỏ trong Tin Mừng qua Đức Giêsu.
Chẳng hạn, rất nhiều Kitô hữu quan niệm sai lầm về đạo đức, về sự thánh thiện. Họ nghĩ đạo đức thánh thiện là siêng năng làm các “việc đạo đức”. Đối với họ, các “việc đạo đức” chủ yếu là tham dự thánh lễ, xưng tội, rước lễ, đọc kinh (chung hoặc riêng), lần chuỗi, bỏ tiền vào nhà thờ, v.v… Và khi siêng năng làm các việc ấy, họ cảm thấy an tâm về phần rỗi của mình vì nghĩ rằng mình là một người đạo đức, mặc dù họ thường cư xử thiếu tình nghĩa với những người chung quanh, mặc dù những “việc đạo đức” ấy chẳng ảnh hưởng bao nhiêu đến cách sống và hành xử của họ.
Quan niệm như thế quả rất khác với quan niệm của Tin Mừng. Theo Tin Mừng, người đạo đức là người biết quên mình, biết coi nhẹ “cái tôi” và quyền lợi riêng của mình, biết vượt thắng bản năng ích kỷ để yêu Chúa và thương tha nhân hữu hiệu hơn, sẵn sàng hy sinh, chịu thiệt chịu khổ vì tình yêu ấy. Đạo đức thật sự phải được thể hiện cụ thể qua cách sống, cách cư xử đầy công bình và bác ái với mọi người. Các “việc đạo đức” như tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích… chỉ là những phương tiện đem lại ơn Chúa và sức mạnh để ta thật sự yêu Chúa và tha nhân bằng những hành động cụ thể. Nếu ta không nhắm thực hiện sự yêu thương ấy như là điều cốt yếu nhất của đạo đức, mà lại coi những “việc đạo đức” kia là chính yếu, thì những “việc đạo đức” ấy trở nên phản tác dụng. Chúng có thể thành cớ để ta tự mãn và lên mặt với mọi người, đang khi thực tế trước mặt Chúa ta chẳng có giá trị gì. Còn biết bao nhiêu quan niệm sai lầm khác ảnh hưởng tai hại đến đời sống tâm linh của ta.
Vì thế, để sám hối, không gì quan trọng và nền tảng bằng lấy ánh sáng Tin Mừng để chỉnh đốn lại những quan niệm sai lầm đang chi phối tư tưởng và cách hành động của ta. Tư tưởng và hành động mà sai trái chính là vì quan niệm chưa đúng. Khi đã sửa đổi quan niệm cho đúng, tự khắc tư tưởng và hành động cũng sẽ đúng theo. Điều này đòi hỏi ta phải dành nhiều thì giờ đặt mình trước mặt Chúa để suy nghĩ, phản tỉnh và tự xét.
Biết bao người cảm thấy an tâm về phần rỗi đời đời của mình, đồng thời tự hào trước mặt mọi người vì mình là Kitô hữu, là tín đồ của một tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập… Nhưng Gioan Tẩy Giả đã cảnh cáo bọn kinh sĩ: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham”. Điều quan trọng là “hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Như vậy, điều quan trọng và cần thiết để được cứu rỗi không phải là chuyện có là Kitô hữu hay không, mà là có sống tinh thần Kitô hữu, tức tinh thần yêu thương của Đức Kitô hay không.
Nếu Thiên Chúa có thể biến những hòn đá thành con cháu Abraham, thì cũng có thể biến chúng thành những Kitô hữu. Điều Thiên Chúa đòi hỏi ta chính là tình yêu, là hoa quả tất yếu của lòng sám hối. Và tình yêu ấy cũng phải sinh hoa kết trái thành hành động, để đem lại bình an, hạnh phúc và những điều tốt đẹp khác cho những người chung quanh ta, cho Giáo Hội và xã hội. Tôi rất thích tư tưởng sau đây của Raoul Follereau: “Thiên Chúa không thích những bàn tay tinh sạch nhưng trống rỗng cho bằng những bàn tay tuy hơi dơ nhưng lại đầy quà dâng lên Ngài”. Ngài đòi hỏi chúng ta nếu có 5 nén thì phải làm lợi thành 10 nén, nếu chỉ có 2 thì cũng phải làm thành 4 (x. Mt 25,14-30, Lc 19,12-27). Nếu không sinh hoa kết trái, chúng ta chỉ là những Kitô hữu “hữu danh vô thực”. Chúng ta cần phải tỏ ra mình là người Kitô hữu qua cách hành xử của chúng ta trong mọi tình huống và qua cách cư xử của chúng ta đối với mọi người. Phải làm sao để người khác nhìn thấy Chúa Kitô và tinh thần của Ngài trong cách sống của chúng ta.
Gioan dùng lời của ngôn sứ Isaia để nói lên sứ điệp của mình: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, hãy sửa lối cho thẳng để Ngài đi”. “Đường” và “lối” ở đây chắc chắn không hiểu theo nghĩa vật chất, mà chủ yếu theo nghĩa tâm linh. Nghĩa là tâm hồn chúng ta phải thật thẳng, không quanh quéo. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa của Công Lý, Ngài ưa thích sự công minh chính trực, đường đường chính chính, luôn luôn sáng tỏ. Ngài rất ghét sự quanh co, mờ ám, dối trá. Tuy rất ghét sự xấu, sự ác, nhưng Ngài vẫn sẵn sàng tha thứ cho người xấu người ác khi họ hối cải. Điều Ngài ghét thậm tệ là sự xấu ác được che đậy bằng cái vỏ thánh thiện, đạo đức. Ta thấy: Đức Giêsu cũng như Gioan Tẩy Giả không hề kết án hay chửi rủa những người tội lỗi như bọn đĩ điếm, thu thuế. Đối tượng để các Ngài kết án và chửi rủa là:
– những hạng đạo đức giả hình kiểu “khẩu Phật tâm xà”: “bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong thì toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23,28), “rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ” (23,25).
– những người có chức có quyền trong đạo Do Thái nhưng đã dùng những chức quyền ấy chẳng phải để bênh vực người nghèo, người bị áp bức, mà trái lại để hà hiếp bóc lột họ: “họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt 23,14). Những người này đã coi tôn giáo như một cơ hội thuận lợi giúp mình thăng quan tiến chức hầu có thể sống trên đầu trên cổ người khác.
Các Ngài chửi rủa họ một cách thậm tệ, có thể nói là cạn tàu ráo máng: nào là “Nòi rắn độc kia!” (Mt 3,7), nào là “mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23,27), v.v…
Vì thế, để đón Chúa đến, người Kitô hữu phải tránh tất cả mọi thứ quanh quéo trong tâm hồn, lời nói và hành động. Không dùng những xảo thuật như treo đầu dê bán thịt chó, lập lờ đánh lận con đen, tráo trở, có nói không không nói có, nói một đằng làm một nẻo. Trái lại, cần phải có tâm hồn ngay thẳng: “hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,36). Khi phải lên tiếng thì cứ theo công tâm mà nói, không thiên lệch bên nào, không nói lấy được cho mình, cho phe của mình, cho tôn giáo của mình. Điều chúng ta phải bênh vực là công lý và tình thương, chứ không phải một đối tượng nào khác. Nếu có bênh vực người nghèo thì không phải vì họ nghèo, mà vì họ thường là nạn nhân của bất công. Đừng để cho quyền lợi cá nhân hay tập thể chi phối lời nói và hành động của ta, làm ta mất đi sự trong sáng và công tâm của mình. Đừng nói quá nhiều quá hay, mà làm thì quá ít quá dở; đó cũng là một thứ thiếu thẳng thắn.
Là người Kitô hữu, môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta phải hành xử làm sao để mọi người có thể tin vào lương tâm, vào lời nói của chúng ta, nhất là những người chính thức mang danh theo Chúa. Nếu không, chúng ta sẽ làm ô danh Đức Giêsu và tôn giáo mà chúng ta theo. Đó là cách tốt nhất để đón Chúa đến trần gian, nhất là đến trong tâm hồn mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con đang đón chờ Đức Giêsu trở lại trần gian lần thứ hai. Xin cho chúng con biết đón Ngài đến bằng sự sám hối, bằng một sự thay đổi hữu hiệu, mà quan trọng nhất là thay đổi quan niệm. Xin cho chúng con quan niệm mọi sự giống như Đức Giêsu đã quan niệm, được bày tỏ trong các sách Tin Mừng. Xin cho chúng con biết yêu những gì Ngài yêu như sự ngay thẳng, công bình, trong sáng, và ghét những gì Ngài ghét như sự giả hình, quanh co, che đậy. Để càng ngày chúng con càng nên hoàn hảo, giống Ngài hơn. Amen.
Việc Chúa Nhập thể nguyên nó đâu cần chúng ta sám hối, chúng ta hoán cải. Như một em bé vốn đang trong vòng tay âu yếm của mẹ, nó dở chứng muốn buông ra để được tự do trên đất, rồi lại muốn tự chỗi dậy, nhưng làm sao được vì nó bé bỏng quá. Lúc ấy, người mẹ lại phải cúi xuống bồng nó lên và ôm nó vào lòng. Cũng thế, tội lỗi khiến cho con người xa rời Thiên Chúa và hoán cải làm cho con người trở về với Chúa. Việc hoán cải hay sám hối này chẳng qua chỉ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy chúng ta. Như thế, chính Thiên Chúa là tác nhân của việc chúng ta hoán cải. Và việc Chúa Giáng sinh chẳng qua cũng chỉ là điều kiện tiên quyết để tình yêu của Thiên Chúa được hiển hiện. Khi ấy, sám hối như là ánh sáng báo hiệu sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Như ánh sáng chiếu soi trên khắp ngọn đồi, xua tan mọi bóng mờ tăm tối, sự tha thứ của Thiên Chúa cũng đáng tan mọi quá khứ u tối và còn lôi cuốn cơn khát khao gặp gỡ chính nguồn mạch của sự tha thứ.
Là “tiền hô” của Đấng Cứu Thế, chúng ta phải nên như những dấu chỉ loan báo Đấng Cứu Thế qua lối sống của chúng ta hay cách xử thế của chúng ta đối với những người chúng ta có dịp gặp gỡ. Khi ấy, chúng ta như ngọn lửa nóng cháy chiếu sáng và sưởi ấm môi trường sống của chúng ta với họ. Và khi ấy, chúng ta không có mối quan tâm nào khác ngoài việc ước ao và nỗ lực làm cho tha nhân ngày một lớn lên hơn và hạnh phúc hơn.
Sống như thế, chúng ta sẽ thấy ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế đang thực sự triển nở trong mọi người: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”.
Gia đình bà Tâm có 7 người con, 4 trai 3 gái. Gia đình sống hạnh phúc, đầm ấm, đến nỗi làm cho nhiều người phải thán phục khen ngợi. Nhiều vị phụ huynh thấy thế đã sinh lòng thèm khát ước mong gia đình mình cũng được như vậy; nhưng trái lại, toàn gặp phải những đau xót chua cay tủi nhục. Một hôm, một bà hàng xóm đã giãi bày tâm sự với bà Tâm về nỗi lòng đau buồn của bà, chồng bà thì rượu bia nhậu nhẹt tối ngày, nóng nảy đập đánh vợ con; con cái thì lêu lổng chơi bời và luôn xảy ra những cuộc tranh cãi bất bình và đánh lộn. Trong gia đình thường luôn phải hô hấp một bầu không khí chiến tranh.
Để an ủi bà bạn, bà Tâm đã chân thành tỏ bày tâm sự một cách khiêm nhu sự thật về gia đình mình: “Chị thấy gia đình em được như ngày nay thật là một ơn trọng Đức Mẹ ban; nhưng đồng thời chúng em cũng phải cộng tác với Mẹ, bằng cách cố gắng lo giáo dục con cái nên người tốt, xứng với nhiệm vụ Chúa trao phó. Sự thực thì 7 đứa con nhà em, tính tình cũng rất ngạo ngược, xung khắc nhau, không đứa nào chịu đứa nào cả… luôn có những bất đồng cãi vã. Trước tình cảnh đau buồn đó, vợ chồng em đã cầu nguyện và bàn tính với nhau tìm cách nào để giúp đỡ các con. Một buổi tối nọ, em đã họp các cháu lại trước sự chứng giám của chồng em, em đã thành thật nói với các cháu: “Chúng con tuy tính tình khác nhau, sở thích khác nhau, quan niệm và nghề nghiệp cũng khác nhau; nhưng chúng con cũng hãy nhớ rằng: Chúng con là con cùng một cha một mẹ. Chính do lòng mẹ đây đã sinh ra các con. Vậy tại sao chúng con không thương yêu nhau, đùm bọc và xây dựng cho nhau?”
Rồi như để nêu cho các con một tấm gương, bà Tâm đã cảm động nói với các con: “Chính cha mẹ đây cũng đã phải nhường nhịn nhau nhiều, cha mẹ không những khác nhau xa vời về phái tính; mà sở thích, xu hướng và quan niệm của mẹ cũng rất khác với ba, nhưng vì yêu thương nhau, chấp nhận nhau và đã được Chúa liên kết nên một, nên cha mẹ đã sẵn sàng hy sinh cho nhau, bù trừ, chịu đựng, tha thứ lẫn cho nhau, để tạo nên một gia đình và nếp sống hạnh phúc cho nhau như chúng con đã thấy đây. Vậy mẹ xin chúng con hãy tha thứ cho cha mẹ về những điều thiếu sót và xin chúng con hãy noi gương cha mẹ, để chúng con biết hiệp nhất nên một, hòa thuận thương yêu nhau, hy sinh cho nhau, hầu cùng nhau tạo dựng một cuộc sống an bình và hạnh phúc”.
Đó là tất cả một nghệ thuật mà bà Tâm đã giáo dục con cái bà và do sự tài khéo đó, gia đình bà đã được nhiều người khen ngợi.
Qua thư gởi Tín Hữu Roma, Thánh Phaolô cũng đã cầu nguyện cùng Chúa cho chúng ta: “Xin Thiên Chúa là nguồn sự kiên tâm và an ủi, ban cho anh chị em biết thông cảm với nhau theo gương Chúa Kitô, để anh chị em đồng tâm tôn vinh Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rom 15:5). Ai trong chúng ta cũng đều thực nghiệm thấy rằng: “Bá nhân bá tính”, trăm người trăm tính, không ai giống ai. Điều đó không lạ gì, vì một bàn tay có 5 ngón, cũng có ngón dài ngón vắn. Mà cũng chính vì sự khác biệt, sự bất đồng ý kiến, những tương phản đó mà chúng ta đã tìm ra những điểm tương đồng, những lẽ phải, để cùng nhau chấp nhận một luật lệ, một lẽ sống xứng hợp với chân lý, với thánh ý tối thượng của Thiên Chúa.
Không quốc gia hay cộng đồng nào, không đoàn thể hay gia đình nào không có những khác biệt, đối chọi, xung khắc nhau; nhưng nếu chúng ta biết tôn trọng nhau, nhường nhịn nhau, hy sinh tư kiến và chấp nhận lẽ phải, coi nhau như anh chị em con cùng một Cha Trên Trời, cùng chung một Giáo Hội duy nhất chính Chúa Kitô thiết lập, cùng tuân giữ một luật lệ, cùng tiến về một mục đích là Thiên Chúa, thì tất cả những xung khắc dị biệt sẽ được giải quyết dễ dàng.
Nếu chúng ta có tình bác ái huynh đệ chân thành, có lòng xả kỷ vị tha, chúng ta sẽ có thể đoàn kết xây dựng công ích để làm vinh danh Thiên Chúa, khi đó chúng ta mới dễ dàng: “Biết đón nhận anh chị em mình như chính Chúa Kitô đã đón nhận chúng ta, để làm rạng danh Thiên Chúa” (Rom 15:6-7) theo giáo huấn của Thánh Tông Đồ đã dạy. Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ không còn lý do để chia rẽ nhau; mà trái lại, chúng ta sẽ biết xích lại gần nhau hơn, thông cảm chia sẻ, tôn trọng yêu thương và đùm bọc lẫn nhau, chỉ lo xây dựng hạnh phúc cho nhau, tạo nên một sức mạnh vô song của tập thể, một đại gia đình Thiên Chúa, là anh chị em con cùng một Cha Trên Trời.
Mùa Vọng là mùa trông đợi Chúa đến, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta sống theo lời kêu gọi của tiên tri Isaia và lời kêu gọi của Thánh Gioan Tiền Hô: “Hãy dọn đàng Chúa cho ngay thẳng, đồi cao hãy bạt xuống, hố sâu hãy lấp cho đầy, đường cong queo hãy nắn cho ngay, nơi gồ ghề hãy san cho phẳng” (Lc 2:4-5). Chúng ta hãy bạt núi đồi kiêu căng tự phụ, hãy lấp đầy hố chia rẽ ganh tỵ, hãy nắn cho ngay những mưu mô quanh quéo, hãy san cho phẳng những bất đồng ý kiến… Khi đó, chắc chắn chúng ta sẽ cùng nhau tạo dựng được một đại gia đình hiệp nhất và vững mạnh của Giáo Hội Chúa Kitô, cổ động được tình đoàn kết đồng hương dân tộc, biến đổi gia đình chúng ta nên một tổ ấm yêu đương, trên thuận dưới hòa, cha mẹ, con cái, anh chị em thương yêu nhau, tâm đồng ý hiệp để cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc.
Kết Luận
Vậy để đón Chúa ngự đến cộng đồng chúng ta, gia đình và tâm hồn chúng ta cách xứng đáng, chúng ta hãy đón rước Mẹ Maria ngự đến làm Nữ Vương cai trị cộng đồng, gia đình và tâm hồn chúng ta trước. Với tư cách là một người Mẹ, Mẹ có biệt tài chinh phục, hướng dẫn, giáo huấn chúng ta nên những người con ngoan thảo của Thiên Chúa, biết thương yêu nhường nhịn nhau, xây dựng hạnh phúc cho nhau, như anh chị em con một Cha Chung Trên Trời và con cùng một Hiền Mẫu Maria, là Mẹ yêu dấu của tất cả và của riêng mỗi người chúng ta.
Hình ảnh bà Tâm trong câu truyện vừa kể trên đây, chính là hình bóng Mẹ Maria ngự giữa chúng ta. Bao lâu chúng ta biết lắng nghe và tuân giữ lời giáo huấn đầy yêu thương của Mẹ, gia đình chúng ta sẽ thuận hòa hạnh phúc, vợ chồng thương yêu nhau, con cái theo gương tốt lành của cha mẹ, trọng kính và ngoan thảo với cha mẹ, cha mẹ yêu thương săn sóc giáo dục con cái Chúa trao ban theo tinh thần Chúa, anh chị em biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, và tất cả tạo nên một cuộc sống hạnh phúc, xứng danh con cái ngoan thảo của Thiên Chúa và của Mẹ Maria.
Để mang lại kết quả, mỗi công việc cần được chuẩn bị kỹ lưỡng và thích hợp. Thiếu chuẩn bị hay chuẩn bị không đúng cách sẽ trở thành nguyên nhân của những thất bại. Đón nhận Nước Trời là công việc rất quan trọng vì liên quan đến định mệnh mai sau của nhân loại.
Trong bài giảng hôm nay, Gioan Tiền hô đề ra cho chúng ta hai khía cạnh của việc chuẩn bị: tiêu cực và tích cực.
Tiêu cực: Cản trở lớn lao nhất trong việc đón nhận ơn Cứu độ là các khuynh hướng xấu và tội lỗi. Thật vậy, chính các khuynh hướng xấu đã đẩy con người xa lìa Thiên Chúa, làm con người lạc hướng và quên hẳn cuộc gặp gỡ quan trọng của mình với Thiên Chúa. Chính tội lỗi đã tạo nên bức tường ngăn cách giữa con người và Thiên Chúa, một hố sâu giữa thân phận nhân loại và Ơn Cứu độ. Chúa Giêsu đã từng nói:Chỉ những tâm hồn trong sạch mới nhìn thấy Thiên Chúa. Nhưng thật đáng tiếc, các khuynh hướng xấu và tội lỗi đã dần dần làm lu mờ tâm hồn con người, đánh mất sự trong sạch nguyên thủy. Gioan Tiền hô đã cụ thể hóa thái độ tiêu cực này bằng hình ảnh con rắn độc hay một cây cằn cỗi không sinh hoa trái.
Tích cực: Sau khi dẹp bỏ những cản trở, con người sẽ dễ dàng nhìn thấy đích điểm cần tiến tới, rồi hăng hái bước đi, bước đi về phía Nước Trời, về phía ơn Cứu độ. Nói cách cụ thể, nhân loại phải đến gặp Thiên Chúa, Đấng không còn xa lạ và cao vời ở một thế giới thần thánh nào đó, nhưng đã nhập thể hóa thân làm người mà Gioan tuyên bố: “Đấng ấy sẽ đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Chính Đấng ấy sẽ thanh tẩy anh em…” Bước về phía Nước Trời, có nghĩa là chúng ta cần tích cực trong cuộc sống Đức Tin của mình: cầu nguyện, tham dự các Bí tích, chia sẻ cơm áo cho tha nhân, sống hòa hợp và tạo niềm cảm thông với người khác, v..v..
Công việc chuẩn bị này cần được thực hiện liên tục để tạo nên tư thế “sẵn sàng”, vì chúng ta không biết ngày nào giờ nào Con Người sẽ đến, như ông chủ đi xa bỗng trở về, như tân lang xuất hiện lúc nửa đêm. Nói theo kiểu của Gioan: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây.”
Mùa Vọng này chính là thời gian thuận tiện, thời gian cứu rỗi, để mỗi người chúng ta, theo lời kêu gọi của Gioan và sự trợ giúp của Thiên Chúa, mạnh dạn dẹp tan mọi cản trở và những ràng buộc bất chính, rồi hăng hái nhanh bước tiến về phía Đức Kitô để lãnh nhận Nước Trời.
“Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” (Mt 3:3)
Tại sao tiếng hô lại được cất lên trong sa mạc mà không phải là thành thị, phố xá hay phòng trà, chợ búa, nơi người ta đang quây quần đông đúc hay vui chơi tội lỗi? Tiếng hô phải được cất lên chính những nơi này mới có người nghe, mới mong có kẻ hồi đầu qui chánh, sửa đường bạt lối, làm nên nẻo chính đường ngay cho Đấng Thiên Sai chứ.
Gioan sống trong sa mạc. Tiếng hô của ông vang lên giữa vùng hoang vắng.
Không biết chốn trời không mông quạnh thế kia thì tiếng hô được mấy ai chú ý. Tiếng hô vang. Vang lên mãi. Nhưng trong nơi trống vắng thì ai nghe cho!
Phải chăng Gioan đã hô lên cho chính mình? Nếu thế thì lời kêu gọi “Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” trước tiên phải là lời nói với chính mình.
Nhờ biết hô với chính mình trước hết nên Gioan đã có sức lôi kéo từng đoàn người từ khắp xứ Giuđê đến với ngài, để nghe tiếng ngài hô, và chịu làm theo lời răn dạy. Nhờ hô với chính mình mà tiếng hô đã vang đến tận khắp các vùng Giêrusalem, xâm nhập tới cõi lòng của bao kẻ sa đoạ khô khan.
Không phải chỉ sau khi nghe tiếng hô của Gioan mới bắt đầu có người ăn ăn hối cải, chịu thanh tẩy để dọn đường cho Chúa đến. Đúng hơn, từ hoang vắng của sa mạc và trong nơi tịch liêu của cõi lòng, Gioan đã nghe tiếng hô “hãy dọn đường cho Chúa đến” phát ra. Lời đó vang đi dội lại trong lòng ông, thúc bách ông nối dài tiếng hô bằng cách ra đi “dọn lòng người cho Chúa đến.”
Cho nên, Gioan chính là người đã dọn đường lòng mình trước nhất. Vì biết lắng nghe những điều mình hô nên tiếng hô của mình có người đáp lại. Sự lắng nghe không chỉ bằng thính giác, nhưng còn bằng tâm hồn. Và từ tâm hồn mới phát sinh những thái độ sống. Một đứa trẻ “biết nghe” không cứ phải là một đứa trẻ có thính giác tốt, song là một đứa trẻ biết ghi tâm lời nói của bố mẹ, thầy cô, và thực thi.
Những gì phát xuất từ con tim cũng đều mang sắc thái của tình yêu và sự sống.
Thế ra, không biết lắng nghe bằng con tim thì con tim sẽ không thể cất lời. Và nếu lời cất lên không phát xuất từ con tim, lời đó sẽ chẳng mang hiệu quả gì. Thomas Merton đã từng nhận xét:
“Nếu đời ta cứ phun ra những lời vô ích
Chẳng bao giờ ta nghe được bất cứ điều gì,
Chẳng bao giờ ta trở nên bất cứ điều gì,
Chẳng bao giờ ta trở nên bất cứ cái gì.
Thế rồi,
Vì cứ nói mãi trước khi có cái gì để nói,
Ta trở thành người không biết nói.”
Không biết nói hoặc nói điều vô ích mà cứ bắt người khác lắng nghe thì chỉ tạo nên những cực hình, phản kháng.
Nhiều gia đình bất an, nhiều cộng đoàn bất thuận, nhiều quốc gia bất hoà chỉ vì có kẻ không biết nói. Nguyên do là thiếu lắng nghe, sự lắng nghe của tâm hồn. Tâm hồn không nghe được vì còn ngổn ngang đây đó nhiều chướng ngại của tự ái, ích kỷ, kiêu căng, tự mãn…
Lắm khi ta than thở: Chúa không chịu nghe tiếng tôi. Nhưng thử hỏi: Chúa không nghe tiếng tôi hay vì tôi không nghe được tiếng Ngài? Rồi khi nghe được tiếng Chúa, liệu tôi có chấp nhận để tiếng ấy nhồi nắn biến đổi đời mình chăng?
Nhiều lúc tôi buồn vì người ta không chịu nghe điều tôi muốn nói. Nhưng thử hỏi: họ không nghe tiếng lòng của họ? Mà nghe tiếng lòng người khác sao được khi chính tôi lại bịt tai tâm hồn? Âm thanh của lời tôi nói sẽ chẳng truyền lan nếu nó không phải là Lời đã vang dội lại trong sa mạc lòng mình.
Có nghe được tiếng nói nơi lòng mình mới mong đổi được đời mình. Có đổi được đời mình mới làm thẳng đường cho Chúa đến. Chúa đến trong đời tôi để rồi qua tôi Ngài đến với người khác.
“Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi.” Tôi muốn hô vang lời ấy cho mọi người nghe. Nhưng trước hết, tôi bắt chước thánh Gioan, đi vào sa mạc cuộc đời, tức là bước vào nơi thanh vắng và tĩnh lặng của nguyện cầu, nơi đó tâm hồn tôi sẽ nghe được tiếng nói của trời cao. Tiếng ấy sẽ dần dần lớn mạnh, cho đến khi oà vỡ và tuôn chảy đến muôn tâm hồn.
Phải chăng đó chính là thái độ sống mà Tin Mừng mùa Vọng năm nay muốn tôi mặc lấy.
Đứng trước tình trạng của một quốc gia không còn nhận biết hồng ân Thiên Chúa, Tổng thống Abraham Lincoln đã chỉ định ngày 30 tháng 4 năm 1863 là Ngày Toàn Quốc Chay Tịnh, Hãm Mình, và Cầu Nguyện. Trong dịp này, Tổng thống Lincoln đã nói: “Chúng ta đã được lãnh nhận biết bao ơn phúc của trời cao. Qua nhiều năm, chúng ta được sống trong bình an và thịnh vượng. Đất nước chúng ta đã phát triển về dân số, thế lực, và kinh tế, như chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Nhưng chúng ta đã quên Thiên Chúa… Với một trái tim đầy ắp tự mãn, chúng ta mộng tưởng rằng những gì chúng ta có là do sự khôn ngoan vượt mực của mình. Say sưa trong sự thành công của mình, chúng ta không còn thấy sự cần thiết của ơn thánh Chúa, và trở nên kiêu hãnh đến nỗi không còn cảm thấy nhu cầu phải cầu nguyện với Đấng đã tác thành nên mình. Vì vậy, chúng ta cần phải hạ mình xuống trước Đấng mà chúng ta đã xúc phạm, phải xưng thú tội chung của quốc gia, và cầu xin ơn thương xót và tha thứ.”
Đó cũng là lời kêu gọi của Thánh Gioan Tẩy giả đối với mỗi người chúng ta trong những ngày chuẩn bị mừng kỷ niệm ngày Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần đến.” Nhưng phải chăng, cũng như các tiên tri trong thời Cựu Ước, chúng ta không muốn nghe những lời kêu gọi này. Chúng ta không muốn nghe là vì chúng ta đã quá chán ngán khi nghe những lời này, hay cũng có thể vì chúng ta không muốn phải bỏ đi nếp sống thoải mái, bỏ đi những đam mê, tật xấu, và phải ép mình để tuân theo những điều Chúa dạy, và cũng có thể vì chúng ta thấy chúng ta có tội lỗi gì đâu mà phải ăn năn thống hối.
Mới đây, khi nhìn vào hiện trạng của thế giới, mục sư Billy Graham đã có nhận xét sau đây: “Chúng ta đang mắc phải một chứng bệnh trầm trọng. Chứng bệnh này không liên quan đến vấn đề chủng tộc, không phải là cảnh nghèo khó, và cũng không phải là chiến tranh. Chứng bệnh trầm trọng này liên quan đến trái tim của chúng ta. Chúng ta cần một trái tim đổi mới.” Chúng ta cần một tấm lòng dám nhìn thẳng vào sự thật về con người của mình. Nhưng đối với con người, đây là một vấn đề thật khó khăn. Người Rôma có những cách xử tử tội nhân thật man rợ, như đóng đinh vào thập giá, dùng người để làm đuốc, hay…nối kết người sống với người chết. Họ lấy giây buộc người bị xử tử dính liền với một người đã chết: mặt đối mặt, tay liền tay. Sức sống của người tử tội tiêu hao một cách mau chóng, để rồi cũng đồng hóa với người chết. Con người chúng ta có lẽ phần nào cũng vậy. Khuyết điểm tội lỗi đã ăn liền với con người của mình, đến nỗi cho dù muốn thoát ly, chúng ta cũng không thể tự giải thoát mình được. Nhưng chúng ta đã có ơn phù trợ của Thiên Chúa. Ngài đã kêu gọi chúng ta hãy ăn năn thống hối trở về với Ngài, thì chắc chắn Ngài sẽ ban ơn cho chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta muốn.
Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay là cơ hội để chúng ta trở về với tâm hồn mình, để chúng ta ý thức rõ ràng hơn những lỗi tội nào đang làm cho chúng ta xa cách Chúa, để chúng ta bắt đầu con đường trở về với Thiên Chúa trong tâm tình ăn năn thống hối, và nhất là để chúng ta có một thái độ khác đối với Thiên chúa. Ngày nay, nhiều người nhận mình là Kitô hữu, nhưng trong hành động họ lại sống như Thiên Chúa không hiện hữu. Những người này tỏ ra họ không cần ơn phù trợ của Chúa và bất chấp những giáo huấn của Ngài. Một cách nào đó, có lẽ cũng có những lúc chúng ta sống như vậy, và vì thế, với tấm lòng ăn năn thống hối, chúng ta hãy bỏ đi thái độ tự kiêu, tự mãn, và thay vào đó, là tấm lòng thảo hiếu tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời. Ngài đã tạo dựng chúng ta, đã cứu chuộc chúng ta, và đã ban tràn đầy ơn phúc cho chúng ta. Trong thời gian qua, chúng ta đã bội bạc với tình yêu thương của Ngài, thì giờ đây chúng ta hãy đền bù bằng tấm lòng thảo hiếu mến yêu. Chíng tấm lòng thảo hiếu mến yêu này sẽ giúp cho chúng ta có được một tấm lòng ăn năn thống hối thật, và giúp chúng ta bền vững trong ơn nghĩa Chúa.
“Hãy hối cải, vì nước trời đã gần”
Truyện ngắn Lời Khuyên Duy Nhất đăng trên Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp từ số tháng 12/1996-05/1997 là một truyện giả tưởng thuật về việc Chúa Giêsu đích thân đến giảng tĩnh tâm vào mùa Vọng 1999 ở một giáo xứ của người Việt Nam tại Hoa kỳ, để giúp mọi người chuẩn bị bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Vì được cha xứ cho biết chính Chúa Giêsu sẽ đến giảng tĩnh tâm cho giáo xứ vào tối thứ bảy 27/11/1999, áp Chúa nhật thứ nhất của mùa vọng dẫn vào năm 2,000, mọi người trong xứ đều thu xếp công việc để đến tham dự. Ai nấy đều cảm thấy mình bị đánh động mãnh liệt khi lắng nghe những lời giảng dạy từ môi miệng của chính Chúa Giêsu. Sau khi nghe Chúa giảng, một số người muốn xin Chúa cho họ một lời khuyên để làm hành trang cho cuộc sống mới của họ sau khi gặp gỡ Chúa.
Lời khuyên duy nhất mà Chúa nói với mọi người – từ những người mang tiếng là xấu xa tội lỗi như cậu Johnny Lê, cô Tư Ngựa và ông Sơn Rô đến những người được tiếng là đạo đức thánh thiện như “bà Năm xướng kinh”, từ giáo dân trong xứ đến cả cha xứ và cha phó – chính là những lời Chúa đã nói với mọi người khi bắt đầu cuộc đời truyền giáo công khai của Người. Đó là: “Hãy hối cải và tin vào Tin mừng”. Và ai nấy đều cảm nhận rằng đó chính là lời khuyên thích đáng nhất, cần thiết nhất, và ích lợi nhất cho họ.
Với Johnny Lê, hối cải nghĩa là phải bỏ lối sống đi hoang và băng đảng để trở về nhà giúp mẹ, học hành tử tế và sống đạo tích cực qua việc xin làm huynh trưởng đoàn thiếu nhi.
Với Tư Ngựa, hối cải nghĩa là phải trở về làm hòa với cha mẹ, bỏ lối sống lang chạ để bắt đầu một cuộc đời trong sạch.
Với ông Sơn Rô, hối cải nghĩa là đóng cửa sòng bài, sàn nhảy, bỏ luôn lậu cần sa, không tiếp tụd mướn bọn cao bồi cướp phá uy hiếp các cửa tiệm của bà con đồng hương, bồi thường các thiệt hại đã gây cho người khác, và trở về sống với vợ con và sinh hoạt cùng giáo xứ.
Với “bà Năm xướng kinh”, hối cải nghĩa là phải từ bỏ hình ảnh một Thiên Chúa khó tính và khắc nghiệt để tin tưởng nơi một Thiên Chúa đầy lòng khoan dung từ ái; phải tìm sự an bình nội tâm bằng cách cậy trông nơi tình thương vô cùng của Chúa và công nghiệp Chúa Kitô chứ không phải dựa vào các việc thiện của riêng mình.
Với ông chủ tịch hội đồng giáo xứ, hối cải nghĩa là phải bỏ đi sự tự ái, tính sợ dư luận gièm pha, để dấn thân cho lợi ích chung.
Với cha phó, hối cải nghĩa là phải từ bỏ lối nhìn Giáo hội với con mắt thế gian, phải cố gắng sống theo các Giáo huấn chân thực tốt lành của Giáo hội chứ không đòi Hội thánh phải thay đổi Giáo huấn cho phù hợp với lối sống của mình, và phải gia tăng lòng yêu mến gắn bó với Mẹ Maria và Hội thánh.
Với cha xứ, hối cải nghĩa là phải tận lực quan tâm làm đẹp lòng Chúa hơn là tìm cách lấy lòng dân chúng, phải sống như một ngôn sứ chứ không phải một chính khách, phải quan tâm đến việc truyền giáo chứ không được tự thỏa vì sự sung túc điều hòa của giáo xứ.
Câu truyện kết thúc bằng việc chính cha xứ đã thực hiện lời khuyên ấy trước tiên qua việc ngài xin xưng tội cùng cha phó khi đồng hồ điểm 12:00 AM, giờ bắt đầu Chúa nhật thứ nhất mùa vọng dẫn vào năm 2000.
Cũng như Chúa Giêsu đã kêu gọi mọi người phải hối cải và tin vào Tin mừng trong truyện Lời Khuyên Duy Nhất, trong Tin mừng hôm nay, thánh Gioan Tiền hô đã kêu gọi mọi người “Hãy hối cải, vì nước trời đã gần bên.”
Lời mời gọi hối cải của Gioan mà Giáo hội muốn chúng ta lắng nghe trong phụng vụ Chúa nhật tuần này tiếp tục lời mời gọi phải tỉnh thức và sẵn sàng của chính Chúa Giêsu như chúng ta đã được nghe trong Phúc âm tuần trước. Đây là một sự nối tiếp rất hợp lý và cần thiết. Thực vậy, chúng ta sẽ không cảm thấy phải mau mắn hối cải, phải thay đổi tâm hồn và cải thiện đời sống, nếu chúng ta không tỉnh thức để nhận ra sự hèn yếu, tội lỗi và bất toàn của mình, nếu chúng ta không nhận ra tính cách khẩn cấp của sứ điệp Tin mừng. Cái đẹp của truyện ngắn Lời Khuyên Duy Nhất trên đây là trong đó con người cảm thấy chính mình là người tội lỗi cần phải hối cải hơn cả, không phải là ai khác những lại chính là cha xứ, người từng được bà con trong xứ khen là hiền lành, khiêm nhường và thánh thiện.
Những người không nhận ra nhu cầu phải hối cải thường lại là những người cần phải hối cải hơn cả. Tin mừng hôm nay nói đến việc những người biệt phái và Sađốc đến với Gioan và xin thanh tẩy. Họ là những người thường được tiếng là đạo đức trong dân và tự hào là con cháu Abraham, nhưng họ đã bị Gioan gọi là “nòi rắn độc” đáng “cơn thịnh nộ” của Chúa. Ngài còn cảnh cáo họ phải gấp rút ăn năn thống hối vì “lưỡi rìu đã sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa.”
Nhiều lần chúng ta được nhắc nhở phải cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại, cho những người chưatin Chúa, chưa biết Chúa, chưa yêu Chúa, được ơn tin Chúa, biết Chúa, và yêu Chúa. Đó là điều chúng ta phải luôn ghi nhớ và thực hiên trong liên hệ yêu thương đối với người khác. Nhưng điều chúng ta phải ghi nhớ và thực hiện hơn cả đó là chúng ta phải thành thực xét mình trước mặt Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối và là Đấng đã mời gọi chúng ta nên thánh, để nhận biết và xác quyết rằng chính chúng ta là những người tội lỗi cần phải hối cải hơn cả, chính chúng ta là những người cần đến lòng thương xót của Chúa hơn cả. Chúng ta phải nhận ra rằng mình chưa thực sự biết Chúa và yêu Chúa cách hoàn hảo như Chúa muốn nơi chúng ta. Vì thế, chúng ta phải có tinh thần khiên cung thống hối trong mọi nơi mọi lúc vì “không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa” (Mc 10:18).
Cha giáo tập của tôi trước đây, cha Andrew Costello, CSsR, trong cuốn sách của Ngài mang tựa đề “Thank God – It’s Friday” có viết như sau: “Người phải hối cải chính là người đang ngồi trong chỗ tôi ngồi, đang ở trong làn da của tôi, đang suy tưởng với khối óc của tôi.”
Chính tôi là người phải hối cải hơn cả, phải hối cải trước hết.
Nếu tôi là người đang sống trong tội lỗi như ngoại tình, tà dâm, gian dối, bất công, tham lam, ghen ghét, tị hiềm, tôi phải gắng chừa bỏ và xa lánh dịp tội.
Nếu tôi là người đang lãnh đạm thờ ơ, đang khô khan nguội lạnh và biếng nhác trong đời sống đức tin, tôi phải sốt sắng nhiệt thành và siêng năng hơn.
Nếu tôi là người có cảm nghĩ lệch lạc và thiếu sót về Chúa Kitô và Hội thánh của Người, tôi phải ra công học hỏi để hiểu biết và yêu mến Chúa và Giáo hội một cách đúng đắn và đầy đủ hơn.
Nếu tôi chưa dấn thân vào việc tông đồ, chưa hề giúp người khác biết Chúa và yêu Chúa, tôi phải nổ lực trong việc giúp những người khác cũng biết Chúa và yêu Chúa.
Bao lâu còn sống ở trần gian, bấy lâu tôi còn phải nỗ lực hối cải liên lỉ cho đến lúc tôi được Chúa biến đổi để nên giống hệt Chúa Kitô và nên một với Người trong cõi vĩnh hằng của Chúa Ba Ngôi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ “cầu cho chúng con là kẻ có tội” biết nhìn nhận sự yếu đuối, tội lỗi, và thiếu sót của mình, nhất là biết cậy trông ở ân sủng và lòng thương xót Chúa, để nỗ lực cải thiện đời sống không ngừng đùng như lời Chúa khuyên dạy chúng con. Amen.
HÃY TRỞ THÀNH CON ĐƯỜNG TỐT CHO CHÚA NGỰ ĐẾN
Mỗi khi chuẩn bị đón tiếp một vị khách đặc biệt nào đó, người ta thường hay thăm dò để biết vị thượng khách này thích những thứ gì, hầu đáp ứng nhu cầu để làm hài lòng khách đến chơi.
Cũng vậy, Đức Giêsu chính là vị Đại Thượng Khách. Ngài đến viếng thăm dân của Ngài. Không những thế, Ngài còn ở lại và đồng hành với mọi người. Vì thế, Gioan, trong vai trò là người chuẩn bị, ông đã làm những điều cần thiết để sửa soạn lòng dân đón đợi Đấng Cứu Thế đến một cách xứng đáng.
Một trong những điều mà Gioan chú tâm và không ngừng lên tiếng, đó là sự sám hối, ông nói: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,1); “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi” (Mt 3,3).
Lời mời gọi của Gioan cộng với đời sống gương mẫu nơi ông trong hoang địa đã khiến cho dân chúng từ khắp nơi, đâu đâu người ta cũng hướng về ông như một điểm quy chiếu. Cũng chính vì uy tín của ông nên lời mời gọi một khi cất lên, đã được hưởng ứng cách rất tích cực qua tất cả mọi thành phần.
Thật vậy, không chỉ những người bình dân học vụ đến nghe giảng, mà cả những người học thức sâu rộng; không dừng lại ở người thường dân, mà cũng rất nhiều binh lính; không chỉ với người nghèo mà cả giới thượng lưu; không chỉ người đạo đức, nhưng có luôn cả những người tội lỗi…
Tại sao Gioan lại hấp dẫn đến như vậy? Lời rao giảng sao lại hợp thời đến thế? Thưa, bởi vì nơi ông, ngôn hành thống nhất. Ông đã thực hành rồi mới nói. Quả thật, Gioan đã sám hối, ăn chay, hãm mình trước rồi mới khuyên răn người khác, vì vậỵ: “Hữu xạ tự nhiên hương” .
Khi đã thu phục được lòng dân, Gioan lên tiếng kêu gọi họ hãy sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi, trở về với Thiên Chúa. Nói cách khác, sám hối chính là thay đổi lối sống cho phù hợp với Tin Mừng.
Vào thời Gioan, khi ông cất tiếng kêu gọi dân chúng sám hối, người ta đã ùn ùn kéo đến với ông và nghe ông giảng. Người ta không cần phải thắc mắc xem: tôi có cần phải sám hối hay không? Nhưng lòng dân lúc này là: cần phải lãnh nhận phép rửa để tỏ lòng sám hối và quay trở về với Thiên Chúa.
Còn thời nay, lời mời gọi của Gioan có còn trở nên cấp bách hay không? Ai là người cần sám hối?
Trước khi đi sâu vào vấn đề, chúng ta cần phải khẳng định ngay rằng: lời mời gọi của Gioan: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,1); “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối ngay thẳng để Ngài đi” (Mt 3,3), vẫn rất thời sự và khẩn thiết ở mọi thời.
Tuy nhiên, khẩn thiết là vậy, cấp bách là thế, nhưng con người ngày hôm nay lại xem thường đến độ dửng dưng. Họ viện đủ mọi lý do để không cần phải sám hối, hay sống như vậy là đủ rồi…
Nguyên nhân chính yếu dẫn đến thái độ tự mãn như vậy chính là không biết mình, nhưng lại đề cao cái tôi.
Nếu không biết mình thì không thể sám hối được. Cũng vậy, nếu đề cao cái tôi sẽ dẫn đến thái độ kiêu ngạo. Biết mình chính là điều cốt yếu trong hành trình sám hối. Từ bỏ cái tôi chính là biết ý thức giới hạn của kiếp con người.
Nhà hiền triết Socrate đã khởi đầu triết thuyết của mình bằng câu châm ngôn “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même). Ông nói như thế là vì nếu không biết mình thì không thể nào phát huy cái tốt và loại trừ cái xấu được. Không biết mình thì chẳng khác gì: “Vô tri bất mộ”. Những người không biết mình thì không hề biết sai trái để mà sửa, cũng chẳng cần biết những điều hay mà học. Vì thế, người ta rất sợ những người không biết mình. Vì thế có câu: điều làm ta sợ nhất chính là “người không biết sợ”. Nói cách khác: “Sợ nhất là người không biết mình”.
Khi họ không biết những giới hạn của mình, lúc đó, họ ung dung và coi mình là “đệ nhất đế vương”, là “cái rốn của vũ trụ”.
Thấu hiểu được lòng dạ con người, vì thế, thời xưa Gioan đã kêu gọi mọi thành phần cần phải sám hối để quay trở về với Thiên Chúa. Không ai là người tinh tuyền đến độ không cần phải sám hối. Thì ngày nay, cũng lời mời gọi ấy, Gioan tiếp tục kêu mời mỗi người chúng ta cần phải sám hối để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì đã là con người, không ai là người vô tội.
Lời Chúa hôm nay làm cho chúng ta nhớ lại suy tư của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp Đấng Cứu Độ Nhân Trần số 4, ngài viết: “Con người là con đường của Giáo hội”.
Nói cách khác, mỗi người là một con đường. Ngang qua con đường ấy, Thiên Chúa có thể đi vào cuộc đời của ta và đi đến với tha nhân.
Tuy nhiên, muốn cho con đường ấy được xứng đáng để đón Chúa ngự đến, chúng ta hãy thực thi những gì mà Gioan đã kêu gọi dân chúng khi xưa.
Nếu con đường tâm hồn chúng ta đầy rẫy những sự hận thù, chia rẽ, ghen ghét, nói hành nói xấu, thì giờ đây, hãy thay thế nó bằng con đường của yêu thương, bác ái, hiệp nhất, chân thành.
Nếu lòng dạ chúng ta không trong sạch, mà là đầy những âm mưu đen tối, lừa thầy, phản bạn, gian dối lọc lừa, luôn trách móc, than phiền và lợi dụng nhau, thì giờ đây, hãy thay vào đó một trái tim nhân hậu, một lối sống công bằng, liêm chính, trung thực, nhất là ý ngay lành.
Nếu lựa chọn của chúng ta là sống huênh hoang, tự đắc, kiêu ngạo, coi khinh người khác, ham mê danh vọng, tiền bạc và sắc dục, thì giờ đây, hãy thay vào đó một tâm hồn khiêm nhường, yêu thương, tôn trọng anh chị em thật lòng, sống trong sạch và biết từ bỏ…
Nếu thái độ chúng ta đang thờ ơ, lãnh đạm, dửng dưng trong mối tương quan với Thiên Chúa và vô cảm với nhu cầu và sự liên đới với anh chị em, thì giờ đây, hãy thay vào đó một ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn, yêu anh chị em như chính mình.
Nếu chúng ta can đảm để cho lời mời gọi của Gioan chạm đến tâm hồn, trái tim và khối óc của mỗi chúng ta, thì chắc chắn mỗi người sẽ là một con đường xứng hợp để cho Thiên Chúa đi vào cuộc đời của mình và đến với tha nhân.
Lạy thánh Gioan Tiền Hô, lời mơi gọi của ngài đã vang lên cách đây hơn 2000 năm. Tuy nhiên, ngày nay chúng con vẫn thấy rất cấp bách và ý nghĩa trong thời đại mà chúng con đang hiện diện. Vì thế, xin ngài bầu cử cho mỗi người chúng con biết sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón nhận lời mời gọi của ngài để biết sám hối, ngõ hầu tâm hồn được trở nên xứng đáng đón Chúa ngự đến trong cuộc đời của chúng con cũng như đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.
Qua báo chí, truyền hình chúng ta thường nghe nói tới những chuyện rủi nhiều may ít: nơi này phong ba bão tố, lụt lội; nơi kia hạn hán, mất mùa, chiến tranh. Ngoài những tại nạn xe cộ, còn có tai nạn máy bay, thậm chí còn đụng nhau trên bầu trời bao la nữa! Sắp tận thế chăng? Khắp nơi đều cho thấy những dấu hiệu bất ổn về mọi phương diện, nhất là về an ninh và kinh tế. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải là ngồi cắt nghĩa điềm thiêng dấu lạ, mà là giữa một thế giới hỗn độn chúng ta sáng suốt nhận ra dấu chỉ của thời đại và lời kêu gọi sám hối ăn năn. Tất cả mọi sự đều tuỳ thuộc vào đó.
Năm xưa, Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể. Gioan được kêu gọi và sai đến với dân Do thái. Sứ mạng của Gioan luôn gắn liền với khởi điểm của cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Điều này được tất cả bốn tác giả Phúc Âm nói đến. Sứ mạng của Gioan được thánh Mátthêu trình bày tóm tắt qua bài Phúc Âm Chúa nhật hôm nay. Ngài nhấn mạnh tới lời kêu gọi sám hối ăn năn hơn là phép Rửa. Có thể nói, phép Rửa của Gioan Tẩy Giả là dấu chỉ dành cho những người đã nhận biết lỗi lầm của mình, đồng thời sẵn sàng thống hối ăn năn.
Sám hối trước hết là từ bỏ nếp sống giả hình, nếp sống “khẩu phật tâm xà”: môi miệng đọc hết kinh này qua kinh khác nhưng lòng dạ đầy những toan tính xấu xa; ngoài xã hội thì khuyên người khác ăn ngay ở lành còn riêng mình thì lại sống bê tha, khuyên mọi người hãy thương mến nhau nhưng sau lưng thì toàn đi nói xấu kẻ khác.
Sám hối có nghĩa là từ bỏ những hình thức suy tôn tạo vật, những hình thức ỷ lại vào danh vọng, tiền tài. Đừng nghĩ rằng đậu được bằng bác sỹ kỹ sư thì tự cho mình là bậc thông thái, biết hết mọi chuyện. Đừng nghĩ rằng mình sinh ra trong một gia đình giầu có, muốn gì cũng được. Đừng nghĩ mình là con nhà gia giáo, là con ông cháu cha, có quyền ngồi xét đoán kẻ khác. Giống như thái độ kiêu căng tự phụ của dân Do thái xưa; họ nhìn đời bằng nửa con mắt, vênh vang tự đắc, khinh khi người khác vì nghĩ rằng mình là con cháu Ápraham.
Sám hối không có nghĩa chỉ là nhìn nhận lỗi lầm của mình nhưng phải dẫn tới việc sửa đổi đời sống như Gioan đã nói: “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng thống hối”, và cụ thể như thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Đức Giêsu đã tiếp nhận anh em”.
Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào “trời mới đất mới” mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục,… Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.
Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi âu lo bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phân biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phân biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm.
(Suy niệm của Lm. Đinh Tất Quý)
Hằng năm cứ mỗi lần mùa vọng trở về là chúng ta có dịp gặp lại một trong những khuôn mặt rất đặc biệt của Tin Mừng. Tôi muốn nói đến Gioan Tẩy Giả
Ông xuất hiện với một cung cách rất đặc biệt. Tin Mừng nói về Ông như sau: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưngh bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng”.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao ông lại làm thế? Phải chăng ông lập dị, muốn khác người? Không, ông không lập dị muốn khác người. Ông làm thế là vì ông mang một sứ mệnh cao cả. Ông từ bỏ hết mọi thứ mà người đời thường tìm kiếm để sống và chết cho sứ mệnh của mình.
a/ Ăn – Mặc
– Làm người ai mà chẳng muốn ăn ngon mặc đẹp? Gioan có đủ và còn có dư điều kiện để làm việc đó. Ông là người con duy nhất của một gia đình giầu có. Cha mẹ ông là người có địa vị, có thế giá trong xã hội. Vì cha của Gioan thuộc giai cấp tư tế. Thế nhưng Gioan đã hy sinh. Của ăn thức uống của ông không phải là những thứ cao lương mỹ vị.? Tin Mừng cho chúng ta biết ông ăn châu chấu và thêm vào đó có một chút mật ong trong rừng.
Áo mặc của ông cũng không phải là thứ đắt tiền. Tin Mừng bảo ông áo ông mặc làm bằng lông da thú, một thứ áo mặc thường dùng của những người mục tử nghèo khó. Đôi dép ông mang ở dưới chân cũng thế. Tất cả đầu bằng da thú – vừa sẵn có vừa rẻ tiền.
b/ Về cuộc sống thường ngày của ông thì Thánh Luca bảo ngay từ thuở còn niên thiếu ông đã chọn chốn hoang vu làm nơi cư ngụ cho mình. Ông tự nguyện sống một cuộc sống khắc khổ khó khăn như thế để tự rèn luyện mình nên một con người sắt đá hầu có đối mặt, đương đầu với những thách đố do sứ mệnh của ông đòi buộc.
Claude Tassin nói về ông như thế này:”Ông không lập dị nhưng ông coi thường những tiện nghi vật chất. Ông muốn sống hoàn toàn tự do, không để cho mình bị ràng buộc vào bất cứ một thứ gì mà người trần thế coi trọng”. Ta có thể tóm lại trong bằng một ít tiếng sau đây: Ông muốn sống siêu thoát để ông được tự do hành động theo sứ mạng của mình.
a/ Những lời ông tuyên bố thật quan trọng. Nó liên hệ đến một Đấng mà các tiên tri trước ông đã loan báo.
– Ông nói với mọi người: “Nước Trời đã kề bên” Hãy ăn năn sám hối. Hãy dọn đường Chúa – Sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
– Ông cảnh cáo nặng lời đối với những người có nhiều thành tích bất công: “Hỡi nòi rắn độc. Dừng hòng tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa – Cái rìu đã để sẵn gốc cây – Thiên Chúa sẽ cầm nia mà sảy sân lúa của Người rồi thu lúa vào kho còn rơm thì Người đốt đi.
– Ông khuyên mọi người hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối.
b/ Nhiều người đã đến với ông. Nghe những lời ông giảng. Họ cảm thấy bức xúc nơi cõi lòng. Họ đã thành khẩn sám hối và để cụ thể hóa những khát vọng muốn đổi mới của mình, họ đã xin ông làm phép rửa sám hối cho họ.
– Tất cả những việc đó chỉ nhắm duy nhất có một điều đó là được nhận ra Đấng mà ông nói:”Người đến sau tôi nhưng có trước tôi. Phần tôi tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dép cho Người”
III. Áp dụng.
a/ Đấng mà Gioan loan báo Ngài đã đến rồi. Đó là Đức Giêsu Kitô Chúa của chúng ta.
Chúng ta đã biết rõ nơi Ngài đã sinh ra
Chúng ta đã biết những nơi Ngài đã sống
Chúng ta đã biết những lời Ngài đã dạy dỗ chúng ta
Chúng ta đã biết những việc Ngài đã làm
Chúng ta đã biết những đau khổ Ngài đã chịu?
Chúng ta đã biết cái chết đau thương của Ngài ỡ trên cây Thánh giá
Chúng ta đã biết sự Phục sinh vinh hiển của Ngài
Trước khi về trời, Ngài còn tuyên bố một lời mà tất cả chúng ta vẫn không thể quên: “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”
b/ Ngài vẫn ỡ giữa chúng ta những rất nhiều người trong chúng ta vẫn không nhận ra Ngài. Tại sao thế?
Có nhiều lý do nhưng trước hết có một lý hết sức quan trọng đó là con người hôm nay quá bám víu vào những giá trị của trần thế.
* Đây là một trong những kinh nghiệm mà Jacque Maritain và Réxa là 2 triết gia của Pháp vào đầu thế kỷ này kể lại. Họ là những con người xết về phương diện trần thế thì quả thực họ không thiếu một thứ gì trên đời. Họ rất yêu thương nhau, đã tích trữ cho mình được một gia sản khếch xù ít có ai sánh bằng, thế nhưng họ vẫn cảm thấy cuộc đời thật vô nghĩa. Họ thiếu một cái gì đó mà họ vẫn chưa tìm ra. Thế rồi một hôm họ cùng nhau đến một công viên. Và chính từ trong công viên này mà họ đã đi tới một quyết định rất táo bạo ít có ai dám làm như thế. Họ thề với nhau rằng nếu trong một năm mà họ không tìm ra được một ý nghĩa cho cuộc sống của mình thì họ sẽ cùng nhau tự tử. Rất may, sau 12 tháng, họ đã tìm ra. Ý nghĩa ấy nằm trong hai tiếng Yêu thương và ân sủng của Thiên Chúa.
Họ đã thực sự gặp được Thiên Chúa, cảm nghiệm được Tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình. Từ đó trở đi hai người dùng cả quãng đời còn lại 50 năm trời để làm chứng cho một cuộc đời có Chúa ở cùng.
Trong một tác phẩm “Thủ lãnh của thế gian” nổi tiếng của mình, Bà Réxa đã viết những lời rất cảm động này: “Ma quỉ đã tung ra một màng lưới ảo tưởng trên chúng ta. Màng lưới này tuy vô hình nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho chúng ta yêu thích những giây phút chóng qua hơn vĩnh cửu. Nó khuyên dụ chúng ta chạy theo sự vô định hơn là chân lý. Nó bảo chúng ta rằng ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy nó mà thôi.” Và chính vì thế mà người ta không thể nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình.?
* Thứ đến như Gioan nói trong bài Tin Mừng hôm nay: Muốn thấy Chúa, muốn gặp được Ngài con người phải dẹp qua một bên những chướng ngại làm cho con đường gặp gỡ không được khai thông. Gioan đã nói đến hố sâu của hận thù, nói đến nuí cao của kiêu ngạo, nói đến quanh co của những nẻo đường bất chính gian dối.
Một hôm thần dữ Satan triệu tập tất cả các sứ giả của mình lại để sai đến trần gian với sứ mạng duy nhất này là giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi.
Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả đều trở về. Thần dữ Satan ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao các ngươi thực hiện công tác nhanh như thế? Hay là có chuyện gì trục trặc?
Các sứ giả đồng thanh đáp:
– Thưa Ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi quan trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết rồi. Họ hận thù, chém giết nhau, gian tham, trộm cắp. Không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này mà ngược lại như là loan báo Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy chúng ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa.
Đó là những chướng ngại ngăn cách làm cho Chúa và con người không thể gặp nhau.
Con người sống như Thiên Chúa đã chết. Đó là một thảm cảnh đáng thương cho tất cả mọi người nhất là những người còn bảo rằng mình vẫn tin có Chúa. Sống mà coi như Thiên Chúa đã chết thì làm sao có thể “GẶP” được Ngài.
Xã hội chúng ta, đất nước, quê hương chúng ta đang cần những chứng nhân của Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có sứ mệnh làm chứng cho Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta phải dùng chính cuộc sống tốt lành của mình để xác quyết Thiên Chúa đang sống và hành động trong trần gian này. Amen.
Một lối sống, một lối nghĩ của Tin Mừng
Trong “Người phu quét lá” Lm. Nguyễn Khảm đã ví von đời Linh mục như người phu quét lá. Ngài mượn bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để diễn tả đời Linh mục: “Người phu quét lá bên đường. Quét cả nắng chiều quét cả mùa thu”
Người phu quét lá, hàng ngày dù mưa dầm hay nắng hạn vẫn luôn có mặt từ sáng sớm tinh sương trên mọi nẻo đường thành phố để dọn đường sạch sẽ cho ngàn ngàn con người sắp đi qua. Linh mục mỗi ngày cũng dọn đường tâm hồn cho con người đi đến với Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người. Trong ý nghĩa đó có thể nói Gioan Tiền Hô cũng là “Người phu quét lá” dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với nhân loại.
Chúa nhật II Mùa vọng, Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt của Gioan Tẩy Giả, vị Ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng Ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Cuộc đời của Gioan là một thiên anh hùng ca: bất khuất trước cường quyền và bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu với mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú, sống nơi hoang địa vắng người trơ trụi. Nhưng chính nơi đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Càng lúc Gioan càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã kiên nhẫn đợi chờ nhiều năm tháng cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông. Lời của Chúa đưa ông ra khỏi hoang địa để đến gặp gỡ con người qua mọi vùng ven sông Giođan. Lời Chúa ông nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.
Gioan đã sống trong dòng lịch sử của Đạo và Đời: Thời hoàng đế Ti-bê-ri-ô, hai Thượng tế Khan-na và Cai-pha, một Phi-la-tô tham lam tàn bạo -Tổng trấn Giu-đê-a, một Hêrôđê tiểu vương Ga-li-lê-a -kẻ giết Gioan sau này. Gioan đã đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy để làm trọn sứ mạng Tiền Hô, Dọn Đường cho Đấng Cứu Thế.
Gioan đã kêu gọi dân chúng “Hãy sám hối vì Nước trời đã gần đến”. Ông đã mạnh dạn mời gọi mọi hạng người, từ kẻ cao sang quyền thế cho đến người dân thường: hãy sống cách ngay chính theo địa vị của mình để sẵn sàng đón Chúa đến.Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Phải sửa lối cho thẳng để Chúa đi. Dân chúng lũ lượt đến với ông, họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan. Đúng là Gioan đang “quét dọn” tâm hồn mọi hạng ngưòi cho sạch sẽ tội lỗi xứng đáng đón Đấng Cứu Thế.
Đường quan trọng nhất là đường đi vào cõi lòng. Mỗi người chúng ta không ít thì nhiều đều có những đồi núi kiêu ngạo, những thung lũng ích kỷ hẹp hòi, những cây cầu tự ái khoe khoang, những mấp mô ghồ ghề trong mối quan hệ với người khác như kỳ thị, gian dối, thiếu công bằng, nói hành nói xấu. Cũng có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vắng ánh sáng tình yêu.
Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay,san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp mà Thánh Gioan gởi đến cho chúng ta trong Mùa vọng này, giúp chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở về Chúa Cứu Thế. Điều đó cũng chẳng dễ dàng chút nào vì nó thường gây đau đớn. Không phải trong Mùa vọng chỉ đi xưng tội qua loa sau khi xét mình 5-10 phút cho yên ổn lương tâm, mà quan trọng là một lối sống, một lối nghĩ của Tin Mừng: Uốn nắn những quanh co, san phẳng gò cao hay hố thẳm và dẹp bỏ chướng ngại trong tâm hồn từng ngày? để có chổ cho Chúa đến và ở lại.
Gioan Tiền Hô là một Ngôn sứ bất khuất, bao dung và khiêm tốn, chỉ một tâm nguyện là làm “Người phu quét lá” dọn lòng người khác cho Chúa đến. Mỗi người chúng ta cũng theo mẫu gương của Gioan trở thành “Người phu quét lá” cho chính tâm hồn mình, cho gia đình mình và rồi cho người khác nữa. Dọn đường cũng chính là lên đường theo Chúa Cứu Thế, cho nên dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long, ofm)
1.- Ngữ cảnh
Phần Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai, có hai người khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường song song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4). Giuse thì được thiên thần Chúa báo tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua Đavít, còn Gioan thì được một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt các vị được mời đảm nhận trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng Mêsia trong phép rửa. Trong cả hai trường hợp, cảm thức về sự bất xứng của hai vị đã là động lực khiến các vị có thái độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải hiểu sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối rối của các vị đã được thiên thần hoặc chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp nhận đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê, Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là phân đoạn đầu thuọc nửa hai của Phần Mở.
Phần hai của phần Mở dường như làm thành một bức tranh bộ đôi: ba đoạn liên hệ đến Gioan, và ba đoạn liên hệ đến Đức Giêsu. Về Gioan: giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của ông (3,1-6); lời rao giảng sự sám hối (3,7-10); lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12). Về Đức Giêsu: phép rửa (3,13-17); các cám dỗ (4,1-11); các lời mào đầu về sứ vụ (kết thúc sứ vụ của Gioan, Đức Giêsu trở về Galilê, Người cư ngụ ở Caphácnaum: 4,12-16).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Những chi tiết tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (3,1-6);
2) Lời rao giảng sự sám hối (3,7-10);
3) Lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12).
3.- Vài điểm chú giải
– Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến (1): Động từ paraginomai có nghĩa là “đến, xuất hiện [trên sân khấu]”. Sau này, Đức Giêsu cũng được TM I giới thiệu như thế ở 3,13. Gioan Tẩy Giả chính là người giới thiệu trước Đức Giêsu. Cả hai đều hoạt động tại hoang địa, loan báo Nước Trời và sự hoán cải (3,2 // 4,17), và có làm một phép rửa (c. 11a // c. 11c). Chỉ có điều Đức Giêsu “mạnh hơn” (c. 11), nên Gioan không xứng đáng xách dép cho Người (c. 11), càng không xứng đáng làm phép rửa cho Người (c. 14).
– hoang địa (1): Đây là một ghi chú địa lý (thung lũng sông Giođan), nhưng hơn thế nữa, còn là một ghi chú thần học. Trong truyền thống Kinh Thánh, “hoang địa” là nơi lý tưởng để gặp gỡ Thiên Chúa (x. Hs 12,16-22; Gr 2,2-3; Ed 16,23; Đnl 8,2). Trong hoang địa, Đức Chúa (Yhwh) đã nói với Môsê (Xh 3), với Israel (Xh 19), với ngôn sứ Êlia (1 V 19).
– Ông rao giảng (1): Động từ Hy Lạp kêryssô, “làm người tiền hô; rao giảng; loan báo”. Đây là một động từ chuyên biệt của Tân Ước (61 lần) để chỉ công việc công bố Tin Mừng. Các chủ từ của động từ này luôn luôn là Gioan (3,1), Đức Giêsu (4,17) và các Tông Đồ (10,7). Đối tượng của việc công bố này luôn luôn là Tin Mừng, Nước Thiên Chúa. Vì được vay mượn từ Cựu Ước (38 lần, theo Bản LXX. Xem chẳng hạn Is 61,1tt), như thế động từ này nối kết Gioan Tẩy Giả vào truyền thống các ngôn sứ, thiên sai và khải huyền.
– hối cải (2): Động từ metanoeô, “suy tưởng sau”, “suy nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải” (động từ Híp-ri shub). Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác, tức là thay đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một phương diện tiêu cực (bỏ [apo, from] con đường tội lỗi: x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương diện tiêu cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa: Cv 20,21; 26,20).
Trong Tin Mừng Mt, danh từ metanoia được dùng 2 lần (3,8.11) và động từ metanoeô được dùng 5 lần (3,2; 4,17; 11,20; 11,21; 12,41). Xin so sánh: metanoia: Mc một lần, Lc 5 lần, Ga 0 lần, Cv 6 lần, Phaolô 4 lần, Dt 3 lần, 2 Pr một lần; metanoeô: Mc 2 lần, Lc 9 lần, Ga 0 lần, Cv 5 lần, Phaolô một lần, Kh 12 lần. Tác giả chỉ áp dụng động từ metanoeô cho hoạt động của Gioan Tẩy Giả (3,2) và Đức Giêsu (4,17) mà thôi, tức là chỉ liên kết vị Tiền Hô và Đức Giêsu với nhau.
– Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (3): Câu này trích ở đầu “Sách Yên Ủi” (Is 40–55). Bản văn Híp-ri là: “Có tiếng người hô: Trong hoang địa, hãy dọn sẵn một con đường cho Yhwh (Đức Chúa); trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Bản LXX: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, hãy sửa cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta”. Các bản văn đều không xác định ai là “người hô”; phải chăng một thiên thần? Các Tin Mừng đã trích Bản LXX, và gán cho Gioan là “người hô”, và thay thế “Thiên Chúa” bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Đức Giêsu.
– mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn (4): Trichas kamêlou, “lông lạc đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà; đây là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà. Zônê, “dây thắt lưng”, không phải là dây thắt lưng của người Tây phương, nhưng là một thứ như cái “ruột tượng” của ta. “Châu chấu” là thức ăn của các dân trong sa mạc (rang với muối hay phơi khô, ăn với dấm và mật ong rừng hoặc làm nhân bánh đa). Kiểu mô tả Gioan khiến độc giả nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8); thật ra Mt mặc nhiên nói rằng Gioan là ngôn sứ Êlia.
– nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa (7): dịch sát là “đến với (giới từ epi + đối-cách[1]: “trên; về phía; nhằm mục đích”) phép rửa”. Câu văn có phần hàm hồ: có thể hiểu là họ đến nhận phép rửa hoặc đến nơi có ban phép rửa. Một đàng, chúng ta được biết là họ không tin vào Gioan và không chấp nhận phép rửa của ông (x. Mt 21,32), nên có thể cho rằng họ đến là để điều tra về ông (x. Ga 1,19-28). Nhưng đàng khác, vì có lời trách của Gioan: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ…”, nên rất có thể họ đến nhận phép rửa thật sự, dù lòng họ không tin.
Phái Pharisêu (= những người “tách biệt”) phát sinh vào thời dòng họ Macabê (x. 1 Mcb 2,42). Sử gia Gioxép cho biết vào lúc đó, họ có khoảng 6.000 thành viên (Ant. J., 18,42), trong đó có một vài tư tế, còn đa số là giáo dân, được chiêu mộ trong số các kinh sư hoặc tiến sĩ Luật. Là những người trung thành với Lề Luật và truyền thống truyền miệng nhận từ các tiền nhân, họ đã trở thành những người linh hoạt đời sống thiêng liêng của dân Chúa vào thời Đức Giêsu. Về mặt chính trị, họ bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc Do Thái và tỏ ra dè dặt trong các quan hệ với người Rôma.
Phái Xađốc, là hậu duệ của thượng tế Xađốc (thời vua Salômôn: 1 V 2,35), chính là phái các tư tế, vì quy tụ các gia đình tư tế giàu có. Họ chấp nhận các thói tục Hy Lạp và thích nghi với nền đô hộ Rô-ma. Về phương diện tôn giáo, họ nhìn nhận Tôra, tức Bộ Ngũ Thư, loại bỏ truyền thống khẩu truyền, không tin vào sự sống lại, sự hiện hữu của các thiên thần và sự quan phòng của Thiên Chúa.
– Nòi rắn độc (6): nghĩa là dòng dõi của Satan. St 3 đã coi con rắn là loài “rất tinh khôn” (phronimôtatos). Nó là biểu tượng của sự “khôn khéo” (như rắn: 10,16), nhưng hơn nữa là biểu tượng của sự gian tà xấu xa, do nó cắn và giết người ta bằng nọc độc (x. 12,34; 23,33). Sau này, con rắn được kết nối với Satan (x. Kh 12,9). Lời mắng của Gioan hoàn toàn ngược lại với niềm tự hào của người Pharisêu về bản thân họ (“Chúng ta có tổ phụ [cha] là ông Ápraham”, c. 9; x. Ga 8,3).
– cơn thịnh nộ (7): “Cơn thịnh nộ [orgê]” ở dạng tuyệt đối[2] có nghĩa là cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, được tỏ ra trong “Ngày của Đức Chúa” (x. Is 13,6-9; Xp 2,2; Ml 3,2.23-24). Các ngôn sứ khẳng định “cơn giận” này sẽ được giáng xuống trên những kẻ tội lỗi (x. Am 3,2), nhưng Do Thái giáo thời Tân Ước lại dạy rằng cơn giận này chỉ được giáng xuống trên Dân Ngoại, đặc biệt trên những kẻ áp bức Israel: như thế là bắt đầu quan niệm về Đấng Mêsia chính trị.
– những hòn đá này trở nên con cháu (9): Có lẽ ở đây có một kiểu chơi chữ bằng tiếng A-ram: hai từ số phức abenyyâ’, “những hòn đá” và benayyâ’, “những con cháu”, nghe gần giống nhau.
– gốc cây (10): Trong Cựu Ước, “cây” là hình ảnh chỉ “dân chúng” (cây vân hương: Is 6,13; cây hương bá: Ed 31,10-13; một cây [= đế quốc Babylon]: Đn 4,7-12).
– quăng vào lửa (10): Lửa thiêu đốt tượng trưng hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên kẻ vô đạo (x. Am 1,4–2,5; Ed 22,18-22; Xp 1,18; Ml 3,2-19; Is 66,15-16).
– quyền thế (11): dịch sát là “mạnh hơn” (ischyroteros, do danh từ ischys, “sức mạnh; quyền lực; quyền thế”).
– trong Thánh Thần và lửa (11): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23; Ml 3,2; Dcr 13,9), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy có thể hiểu là Chúa Thánh Thần tẩy luyện như lửa (Khi đó, liên từ và có vai trò giải thích). Nhưng ở c. 10 và đến c. 12, “lửa [không hề tắt]” lại là “hình phạt, tức là “cơn thịnh nộ” của Thiên Chúa (x. c. 7). Vậy hợp lý là cho rằng không lý gì mà tác giả thay đổi quá nhanh ý nghĩa của một từ như thế từ c. 10 sang 11 rồi lại trở về nghĩa cũ ở c. 12 mà không báo trước gì cả, nên “lửa” ở cc. 11-12 đều có nghĩa là “cơn thịnh nộ” con người gánh chịu khi đối diện với sự thánh thiện của Thiên Chúa (Khi đó, liên từ và thêm vào một sắc thái đặc biệt). Xem dụ ngôn “Cỏ lùng” (Mt 13,37-42).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (1-6)
Các ghi chú của Mt về Gioan không phải là một bản tiểu sử, nhưng là một bản văn mang tính thần học và biện giáo. Các ghi chú này không nhắc đến hoàn cảnh gia đình ông, cuộc chào đời, ơn gọi (như Lc 1–2), nhưng chỉ nêu ra những điểm liên hệ đến con người và hoạt động của ông, nơi chốn, đề tài và nội dung lời ông rao giảng, các nghi thức kèm theo.
Gioan xuất hiện trong hoang địa, nơi gặp gỡ với Thiên Chúa, nơi đã là sân khấu cho một thời kỳ hồng ân, khi dân Israel đang tiến về Đất hứa, sống trong tình trạng thân mật với Thiên Chúa (Đnl 2,7; Gr 2,2t; Hs 2,16). Ông xuất hiện như là nhà rao giảng về Đấng Mêsia (cc. 1-3) với dáng vẻ một ngôn sứ (c. 4); đặc biệt với y phục của ông, ông giống với ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8) là vị ngôn sứ mà dân chúng chờ đợi đến để khai mạc thời đại thiên sai (x. Ml 3,23; Mt 11,10). Quả thật, vào thời ấy, người ta tin rằng Êlia chưa chết thật, nên ông sẽ tái xuất hiện để giới thiệu Đấng Mêsia cho thế giới. Nhưng Mt cho biết rằng ngôn sứ Êlia mà người Do Thái vẫn trông mong chính là Gioan (x. Mt 11,14; 17,13). Mt giới thiệu Gioan như một ẩn sĩ (x. 11,8), ăn mặc thô sơ, ăn uống kham khổ (3,4) và so sánh lời rao giảng của ông với một lời than vãn trong đám tang (x. 11,17). Ông đã loan báo một sứ điệp được tóm tắt là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (c. 2).
Ông Gioan không nói cho biết “Nước Trời” nghĩa là gì; nhưng chúng ta biết những nỗi niềm chờ mong của dân chúng thời Đức Giêsu. Israel đã được những vị vua bất trung và bất xứng cai trị lâu quá rồi. Ho nghĩ, nay đã đến lúc Thiên Chúa nắm lấy mọi sự và thay đổi. Có những nhà thuyết giảng đến bảo dân chúng đừng mất tinh thần, họ bảo rằng thế giới cũ sắp chấm dứt rồi, và một thế giới mới sẽ đến. Khi đó, những buồn phiền đau khổ không phải là dấu chỉ của sự chết, mà là của sự sống, giống như những đau đớn của người mẹ sắp sinh con. Đấng Mêsia sẽ chà đạp những kẻ áp bức và một vương quốc mới sẽ được thiết lập, trong đó Thiên Chúa trực tiếp cai quản. Dân chúng sẽ làm bất cứ đòi hỏi nào để được vào trong vương quốc ấy.
Dân chúng “từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến” với Gioan. Ghi chú này có phóng đại nhưng không phải là không có phần đúng, bởi vì vào những thời điểm có những căng thẳng trầm trọng về tôn giáo và chính trị, một ngôn sứ thường thành công. Gioan làm một nghi thức diễn tả lòng thống hối kèm theo lời rao giảng (c. 6). Cách làm của Gioan hoàn toàn phù hợp với bối cảnh thời ông, khi mà người ta vẫn cử hành các nghi thức thanh tẩy được Lề Luật quy định (x. Lv 14–15). Nhưng cách làm của ông cũng có phần khác: phép rửa của ông được ban dưới dấu chỉ metanoia, của sự hoán cải luân lý, tức là lấy lại điểm cốt yếu trong giáo huấn của Cựu Ước, nhưng đặt vào viễn tượng của Nước Thiên Chúa đang đến gần. Không có chỗ nào nói rằng nhờ nghi thức này, người ta được tha các tội, nhưng nghi thức này đánh dấu việc thay đổi đã xảy đến hoặc sắp xảy đến nơi người nhận phép rửa.
* Lời rao giảng sự sám hối (7-10)
Lời rao giảng của Gioan mà Mt ghi lại là những lời đe dọa hơn là một lời loan báo đầy tính an ủi. Giọng điệu của bài là giọng châm biếm, nội dung thì mang tính khải huyền. Thay vì nói đến ơn cứu độ gần kề, hay là giảng về phép rửa, Gioan cho thấy “ngày của Đức Chúa” (ngày phán xét) đã gần bên, ngày chất chứa cơn thịnh nộ đổ xuống dân Chúa (x. Am 5,18-20; Hs 6,1-3; 9,7-9; Mk 4,6-7).
Có những người thuộc phái Pharisêu và Xađốc đã đến có lẽ để nhận phép rửa dù không tin, Gioan đã gọi họ bằng một tên rất nặng: “nòi rắn độc”, họ là những đứa con thoái hóa của tổ phụ Abraham (c. 9), những cây không sinh quả (c. 10). Không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước đã nói với cử tọa nặng lời như thế. Và Gioan khẳng định rằng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên mọi kẻ tội lỗi, dù là Dân Ngoại hay Do Thái; do đó, mọi người phải hoán cải và nhận phép rửa để được tái tháp nhập vào dân Israel chân chính. Sau này tư tưởng này được hỗ trợ bằng các hình ảnh “cái rìu”, “lửa” và “công việc sàng sảy lúa” (cc. 10.12). Đứng trước cái khối người kiêu ngạo và phản loạn này, Gioan nói như thể để phản đối và thách thức: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống?” Câu hỏi này là kiểu nói hùng biện nhằm nhấn mạnh rằng không thoát được án phạt. Dù thế vị Tiền Hô cũng nói với họ một lời khích lệ. Để tránh được “cơn thịnh nộ gần kề”, chỉ có một con đường duy nhất, con đường hoán cải, được chứng thực không phải bằng lời nói suông, mà bằng những công việc tốt lành (c. 8; x. 5,16). Người hoán cải là một cây mới đang cho thấy có sự thay đổi tích cực (“quả”). Dân Do Thái tưởng rằng họ sẽ thoát khỏi án phạt bởi vì họ là thành viên của dân Thiên Chúa tuyển chọn (“con cháu tổ phụ Abraham”); chính sự yên tâm này đã đưa một số người đến chỗ sống buông thả về luân lý và giải thích thái độ tự mãn tự phụ của người Pharisêu. Gioan khẳng định rằng tư cách đó không bảo đảm gì cả và có là “con cháu” (benayyâ’) hay là “các hòn đá” (abenyyâ’) thì cũng như nhau. Người Do Thái tưởng có thể kết luận rằng vì Thiên Chúa đã hứa, thì Ngài cần có Israel để trung thành với lời hứa. Gioan phản ứng để khẳng định sự tự do hoàn toàn của Thiên Chúa: Ngài có thể hoàn tất lời hứa khi loại trừ con cháu Abraham về xác thịt, nếu họ từ chối hoán cải, bởi vì Ngài có thể tạo thành một Israel mới (x. Mt 8,11-12; 21,43; Rm 9,6-8). Israel là một cây, nếu không sinh hoa kết trái tốt lành thì chỉ đáng chặt đi mà quăng vào lửa.
* Lời rao giảng về Đấng Mêsia (11-12)
Bây giờ bản văn giới thiệu dung mạo Đấng Mêsia. Ở đây nổi rõ những bận tâm Kitô học, nhưng cũng có bận tâm biện giáo: tác giả giới thiệu Đức Giêsu nhưng cũng xác định khoảng cách giữa Đức Kitô và vị Tiền Hô. Gioan đi trước Người, nhưng chỉ như người nô lệ đi trước chủ mình, để dọn đường. Gioan làm phép rửa, nhưng chỉ là phép rửa trong nước để thôi thúc đi tới hoán cải. Đấng Mêsia (“Đấng đang đến”: erchomenos) thì “mạnh [quyền thế]” hơn (ischyroteros) và làm một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. “Quyền lực” (ischys) là một phẩm tính của Thiên Chúa; nhưng đối với Is (9,6), đây là một đặc điểm của Đấng Emmanuel, và đối với Mt, đây là một đặc điểm của Đấng Mêsia (x. 12,29). Đứng trước Người, Gioan không xứng đáng làm công việc của một người nô lệ thông thường là xách dép cho chủ. Điểm này cho thấy vị Tẩy Giả hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng Mêsia.
Đấng Mêsia được giới thiệu như là Vị thẩm phán cánh chung: Người sẽ đến với sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa để loại trừ các kẻ bất chính và bất lương. Lịch sử Israel đã đến lúc kết thúc. Thời gian thu hoạch đã gần kề. Lúa đã được gặt về và đập rồi, nay chỉ con chờ được rê để tách vỏ trấu ra khỏi hạt gạo. Nhưng người nông phu (Đức Kitô) đã cầm nia trong tay mà rê sạch gạo. Rơm và trấu thì cháy nhanh, nhưng lửa sẽ thiêu đốt người gian ác thì sẽ cháy mãi cũng như sự gian ác của họ vẫn còn đó.
+ Kết luận
Như thế, bằng ba cách, Gioan đã khẳng định sự trổi vượt của Đức Giêsu: 1) Người là Đấng mạnh hơn, Người vượt xa Gioan bằng sức mạnh thực thụ. 2) Người có phẩm giá cao vời: ngay đến việc xách dép cho Người, Gioan cũng không xứng đáng. 3) Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, trong khi Gioan chỉ làm phép rửa trong nước.
Tuy nhiên, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả còn giúp chúng ta ở nhiều điều khác nữa. Đây không chỉ là một hồi niệm, nhưng còn là một lời khuyến cáo nghiêm khắc cho mọi người mọi thời. Qua bút pháp của Mt, lời rao giảng của Gioan cũng phản ánh cuộc bút chiến giữa các Kitô hữu tiên khởi với hội đường. Tuy nhiên, Mt cũng muốn gửi đến cho giáo đoàn Kitô hữu một sứ điệp. Lời mời gọi “hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” hẳn là nhắm đến các Kitô hữu hơn là đến người Pharisêu. Các Kitô hữu có thể nhìn vào người Pharisêu như nhìn vào một tấm gương để điều chỉnh đời sống mình.
Lời đe dọa bị kết án cũng liên hệ đến các Kitô hữu nào chỉ bằng lòng với việc nhận bí tích thánh tẩy mà không quan tâm sống phù hợp với những cam kết đã lấy. Vẫn còn đó ảo tưởng cho rằng mình là môn đệ của Đức Giêsu, là thành viên thực thụ của Họi Thánh, thì đã được bảo đảm hạnh phúc muôn đời.
5.- Gợi ý suy niệm
___________________
[1] Accusative.
[2] Nghĩa là không có bổ ngữ nào theo sau. Bản dịch CGKPV đã thêm “của Thiên Chúa” vào cho rõ nghĩa.
Hồi ấy…
Ta hãy ngờ vực. Ta đừng bị lẫm lẫn. Cách nói này không chỉ là câu nói tầm thường chuyển tiếp theo thói quen: Nhưng ngày mà Matthêu muốn nói đến là những ngày quyết định.:. Có một sự khẩn trương đang đến gần. Ngày mai thì quá trễ rồi. Đó là ngày N, đó là Giờ G sắ đến ngay bây giờ.
Ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng
Nếu ta đọc Matthêu như những người đọc ông ban đầu, không biết đến Tin Mừng Luca (trong đó Gioan Tẩy Giả đã choán hết thời thơ ấu của Đức Giêsu), thì mọi chuyện diễn ra ở đây như thể chúng ta đang chứng kiến một ‘khởi đầu tuyệt đối’: “Hồi ấy, Gioan Tẩy Giả đến”. Giáo Hội sơ khai khi ấy bắt đầu Tin Mừng trực tiếp bằng hoạt động của Gioan Tẩy Giả (Cv 10,37; Mc 1,4; Ga 1,19). Những Tin Mừng thời thơ ấu chỉ được đưa vào sau này, như một thứ dẫn nhập thần học trước.
Ta hãy thử tưởng tượng mình vào trong sa mạc này ở bên bờ sông Giođan. Tất cả lịch sử Kitô giáo bắt đầu bằng tiếng kêu của Gioan:
“Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”
Đấy là chuyện “khẩn trương”. Đấy là “Tin Mừng” Thiên Chúa sắp ngự trị.
Ta đang ở vào mùa thu năm 27, có thể như thế. Ta khó tưởng tượng ra một “tiếng kêu” như thế sẽ gợi ra chuyện gì Đối với những người vào thời đó, thì nó có tác dụng như một trái bom. Đấy là một chàng điên nói… hay nếu đúng thế, thì đấy là cả một sự chờ đợi hừng hực của Do Thái sắp được mãn nguyện: một “chồi non của cội nguồn Đavít sẽ nảy sinh”; “một nhánh lá, một hy vọng điên cuồng”; “Người sẽ dùng công lý phán xét những kẻ bé mọn”; “một nền hòa bình phổ quát và dứt khoát sẽ thành hình trên mặt đất: Sói sẽ ở với chiên. Sư tử và bò cùng ăn cỏ với nhau, trẻ thơ sẽ vui đùa trên ổ rắn hổ mang”; “sẽ không còn sự ác nữa”; “mọi người sê nhận biết Thiên Chúa” (Is 11,1-10).
Chính đó là tin vui: đấy là “Tin Mừng”, là “loan báo tốt lành”; “eu-angelion” trong tiếng Hy Lạp, “besôrâ” trong tiếng Do Thái. Đó là “tin lành” mà, trong hai năm Đức Giêsu đến lượt Người bắt đầu kêu lên. Đó chính là cùng một thứ tin vui mà Đức Giêsu rao giảng (Mt 4,17). Thiên Chúa đến gần rồi. Thiên Chúa ở giữa người ta, Thiên Chúa ở trên đường đi, Nước Người đang đến gần! Hãy đến! Hãy đến! Chớ chi Nước người ngự đến! Chớ chi tình yêu Người đến! Chớ gì hòa bình đến! Chớ chi công lý đến! Tất cả những của cải mà loài người khát mong.
Tất cả đều ở đó! Gioan Tẩy Giả nói. Ta hiểu rằng cái “tin” này không thể để cho ai còn dửng dưng được. Còn tôi, tôi có phải là một người khát khao không? Tôi có biết phát hiện ra trong thế giới thực tế mỗi ngày, tất cả những khát vọng sâu xa này không? Cái “mong chờ” này không?
Nhưng, chú ý! chú ý! Gioan Tẩy Giả kêu lên. Đừng chỉ mong chờ, khát khao suông. Hãy xây dựng “Nước Thiên Chúa” này, hãy làm đi. Đi đi, lên đường đi, hãy năng động, hãy sám hối; hãy thay đổi!
Gioan chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong sa mạc. Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi”.
Lạy Chúa, chúng con được “giải ngũ”, chính chúng con, so với những người kia, thế đấy! Chúng con đã làm dịu bớt Tin Mừng. Chúng con đã làm cho Tin Mừng thành một sức mạnh “truyền không”. “bảo thủ” quá khứ. Và khi đó chính là niềm hy vọng lớn lao của quần chung muốn biến đổi xã hội. Thế thì chúng ta hãy cứ lạ lùng trước các chủ nghĩa vô thần hiện đại đã đến tiếp sức khi chúng ta bỏ chạy: “đó là cuộc đấu. tranh cuối cùng. Chúng ta hãy tập hợp lại và ngày mai cuộc đấu tranh quốc tế sẽ là loài người?, là Kitô hữu, chúng ta có say mê xâydựng một thành thị mới không? Chúa chúng ta không phải chỉ “ở trên cao”, Người “ở phía trước”. Người đến, người gần quá rồi; bạn hãy làm cho Người đến, hãy dọn đường cho Người!
Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.
Đó là một “tay cứng cỏi”, một “anh chàng nổi tiếng”, cái gã đó, đã kêu lên: “hãy sám hối”. Chính bản thân anh, anh ta đã bắt đầu thực hiện. Anh ta sống một cuộc đời đạm bạc, sơ khai, hợp với môi sinh một cách lành mạnh từ lâu rồi: Không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, hay dư cholesterol!
Khi đó người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê đến với ông.
Chốn hoang mạc này đang đầy nghịt những đám đông! Nó sống lại! Chốn hoang mạc ở chỗ bờ sông Giođan này trở thành một trung tâm, khởi động một phong trào từ khắp nơi: từ thành thị (Giêrusalem!) ở phía Tây, miền thôn dã (sông Giođan!) ở phía Đông.
Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trên sông Giođan.
Vâng đúng là hoang mạc tâm hồn bỗng nhiên bắt đầu sống lại trong khiêm tốn và sám hối. “Thay đổi xã hội” không chưa đủ nhưng cũng phải thay đổi chính bản thân mình. Thời gian của Mùa Vọng trước hết không phải thời gian bày ra những mặt hàng đầy thực phẩm và tặng phẩm. Chính là thời gian trở về lòng mình. Thời gian Mùa Vọng trước hết không phải thời mơ mộng của những bé ngoan: đó là thời gian ‘phải quyết định’. Đối với truyền thống Kinh Thánh: “sám hối” chính là quay trở lại hoàn toàn để đi theo chiều hướng ngược lại với chiều mà ta đã đi theo. Tiếng La tinh “conversio”, từ đó mới có tiếng “conversion”, phiên dịch tiếng Hy Lạp “metanoia”, có nghĩa theo sát chữ là: ‘thay đổi’= meta, ‘não trạng’= noia’. Và hai từ này phiên dịch tiếng Do Thái “shub”, đặc trưng về rao giảng có tính ngôn sứ. Mùa Vọng năm nay, đối với tôi, phải chăng sẽ là một thời gian ‘trở lại’, một thời gian ‘canh tân’, một thời gian ‘thay đổi’, một thời gian ‘sám hối’? Hay là phải chăng tôi cứ tiếp tục cuộc đời rong ruổi của tôi, đôi chân rúc vào đôi giày bố xó nhà, và ngồi ghế bành thoải mái bên tách cà phê? Khi nghe loan báo “Tin mừng về Nước Thiên Chúa đã gần kề, người người thời đó chạy bộ tuồn đến hoang mạc, và nhận ra tội lỗi của mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao? Phải chăng lương tâm của ta có lẽ không bị va chạm với tội lỗi? Chúng ta có lẽ bị mù quáng chăng? Có lẽ chúng ta thiếu một sự trong sáng cơ bản nhất? Để chuẩn bị cho con đường Giáng sinh, ta có “nhận ra” điều xấu trong ta không? Và đón nhận “nhiệm tích thánh tẩy thứ hai”, nhiệm tích kỳ diệu của hòa giải không? Hay là có lẽ ta giống như người Pharisêu và Xa-đốc chăng?
Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa. ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia. ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa kết quả đế chứng tỏ lòng sáng hối “. Đấng tưởng có thế bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì tôi nói cho các anh hay, “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham”.
Khi có một điều gì hoàn toàn mới đang bắt đầu đối với tất cả những người sáng suốt, thì một số người nào đó lại không “động đậy”, dù một cách lầm lẫn, bọ đã trấn an mình bằng những điều chắc chắn: nhưng cứ xem kìa, chính họ, chẳng có gì thay đổi nơi họ, họ thuộc “chủng người được tuyển chọn”.
Họ tưởng là mình tự do. Họ không nhận thức được rằng họ chịu ảnh hưởng của “một người khác”. Một người bí nhiệm chống lại dự tính về Nước Thiên Chúa trên họ: Một người “không được nhận dạng”. “Ai” đã chứng minh cho bạn cách thoát khỏi Thiên Chúa? Kẻ đối phương là người không lộ mặt đối mặt, nhưng hành động không cho ai biết. Gioan Tẩy Giả đã lột mặt nạ của hắn: chính là Con Rắn tứ thời Eva, đã xúi đàn ông và đàn bà cứ ăn trái cấm không có gì liều lĩnh đâu; và đã biến đổi một cách tinh ma tất cả những người nghe nó thành “nòi rắn” (St 3,15), thành “nòi rắn độc” (Mt 3,7). Không “trở lại”, thì chính là thần phục “nòi kia”.
Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.
Khẩn cấp! Khẩn cấp! Ta hãy mau lên!
Chỉ nữa giây, lưỡi dao sắc bén của cây rìu sẽ làm cho cây đổ máu và hạ nó xuống, để quăng vào lửa, cái cây vô ích kia không sinh hoa trái. Và chúng ta hé thấy số phận của “cây vả không sinh sản” trên đường Giêrusalem, hai năm sau (Mt 21,18). Lạy Chúa, xin giúp con sản sinh được những quả “tốt”.
Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và Lửa.
“Người ngự đến… còn mạnh mẽ hơn” (x. Mc 1,7; Lc 3,16). ở nơi Gioan Tẩy Giả, người cuối cùng trong các ngôn sứ, đấy không phải là một tuyên ngôn khiêm tốn: Tôi không đáng là đầy tớ của Người; chính là một tuyên ngôn đức tin: “Người ngự đến, đó là một linh thể” đó là Vua của Nước Thiên Chúa, đó là phán quan thời thế mạt, đã mặc lấy cơn lôi đình của Thiên Chúa chống lại cái ác.
Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu và kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.
Những hình ảnh Kinh Thánh truyền thống để chỉ về Ngày Phán xét! Cuộc phán xét chỉ dành cho một mình Thiên Chúa! Và tất cả bối cảnh của truyện kể buộc chúng ta phải nhận diện. “Người” ngự đến là chính Đức Giêsu! Tuyên ngôn thuộc lãnh vực thần học. Sân rê lúa là nơi phân biệt hẳn ‘lúa mì’ và ‘trấu’. Một thứ thì đem vào lẫm, còn thứ kia chỉ đáng bỏ vào lửa. Xấu và Tốt không thể đánh đồng với nhau. Ai có dị ứng khi “xưng thú tội lỗi mình”, nếu người đó nhận thức ra, hắn sẽ đắn đo khi phải nhận các trọng lượng nhẹ nhõm của cái vỏ trấu phù du, thay vì làm “lúa mì”.
HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
Chính dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh sẽ đến trong ngày quang lâm mà ta khai mạc mùa Vọng này. Cũng chính dưới ánh sáng ấy, với thánh Matthêu, ta cùng đến vào thời đầu sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Một câu nói đủ gợi lên sự nhập vai của Gioan: “Vào những ngày ấy, Gioan xuất hiện, loan báo trong hoang địa rằng: Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần” Vào lúc ấy một công thức báo trước một giai đoạn mới. Một bắt đầu mới. “… Gioan xuất hiện”
+ Sự bắt đầu mới này loan báo việc nhập vai của Gioan, giới thiệu sự xuất hiện của Đức Giêsu, trong câu 3,13: “Bấy giờ, Đức Giêsu đến từ Galilêa, xuất hiện bên bờ sông Giôđan”.
+ Ở đây, Gioan nhận lấy biệt danh: Tẩy Giả (người làm phép rửa), danh hiệu xếp ông vào vòng ảnh hưởng những nhóm tu sĩ thực hành nghi thức làm phép rửa, vào thời Đức Giêsu; một nghi thức mà các Kitô hữu sẽ du nhập. Và có thể đó là dấu vết của sự căng thẳng liên lỉ, mãi cho tới thời thánh Matthêu, giữa một số môn đồ của Gioan Tẩy Giả và cộng đoàn các môn đệ Đức Gìêsu?
+ Ông loan báo trong hoang địa xứ Giuđê.
Trong ký ức tập thể của dân Israel, hoang địa là nơi thử thách, nhưng cũng là nơi tình nghĩa cha con của Thiên Chúa, và là nơi của mọi khởi đầu. Chỉ cần gợi lại bốn mươi năm vượt qua sa mạc, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của tiên tri cha trên đường về nơi Herob, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của Đức Giêsu nơi hoang địa, bắt đầu sứ vụ của Ngài.
+ Ông loan báo điều gì? “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Thiên Chúa đã gần đến. Trọng tâm của lời giảng của Gioan Tẩy Giả, trong Phúc âm Matthêu, cũng sẽ là trọng tâm của lời công bố của Chúa Giêsu (Mt 4,l7), cũng như sẽ là trọng tâm lời rao giảng của Giáo Hội, theo Tông đồ Công vụ 10,7. Điều Gioan loan báo đã là Phúc âm rồi: Phúc âm của Đức Kitô, Phúc âm của Giáo Hội Ngài. Từ nay, theo sự hướng dẫn của Matthêu, chúng ta có thể hiểu con người của hoang địa này hơn, ngài vừa nhập vai mở màn cho một đoạn mới của lịch sử ơn cứu độ
+ Vấn đề một tiên tri mà sứ mạng làm trọn lời tiên báo của Isaia 40: trong sa mạc có tiếng kêu: Hãy dọn đường Chúa, hãy săn phẳng lối Ngài”.
Cl. Tassin chú giải: “Ngày xưa, Isracl sinh ra từ hoang địa trong cuộc xuất Hành, rồi từ chuyến trở về từ nơi lưu đày. Ngày nay, phải tái sinh nhờ lắng nghe lời tiên tri, và phải dọn đường Chúa đến. Chính Đức Giêsu sẽ làm gương qua việc Ngài chịu phép rửa và thời gian ở trong hoang địa”
+ “Y phục ngài bằng lông lạc đà, nghệ thuật làm tượng thường trình bày như thế, có thể là rất lạ lùng đối với chứng ta ngày nay. Vào thời đó, nó có giá trị biểu tượng rất lớn, bởi vì nó gợi nhớ y phục của Elia (xem sách Các Vua, quyển thứ hai 1,8), mà theo truyền thống Do Thái, sự trở lại phải mở đầu cho chính Đấng Cứu Thế đến (xem Mt 11,4).
+ Còn sự toả lan ra của lời giảng của ngài, thì cũng giống như của Đức Giêsu trong câu 4,23-25, “Giêrusalem, tất cả xứ Giuđêa và khắp miền sông Giođan”. Theo lời kêu gọi của tiên tri trong sa mạc, một dân tộc tội lỗi sẽ đến dìm mình trong dòng nước mà ngày xưa họ đã vượt qua để vào Đất Hứa: “Họ để ông làm phép rửa trong sông Giôđan khi nhìn nhận tội lỗi họ. Đó là một khởi đầu mới, một sự sinh thành mới được chuẩn bị kỹ lưỡng. Jean Perron kết luận trong “Lire la Bible”, số 52, trang 14-15: “Thu tóm trong chính mình tất cả những tiên tri từ thời Elia, Đấng tiền hô rõ ràng lời tiên tri sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo; kết thúc tiên tri và mở đầu Phúc âm, ngài là bản lề nối kết Cựu ước và Tân ước”.
Sau khi đưa ra một cái nhìn tổng quát về những đám đông tuốn đến sông Giođan, tác giả Phúc âm kể ra những loại người đặc biệt: “Những người biệt phái và những người Sađuceo” đến “chịu phép rửa” rất đông?
+ Xuất thân từ giới bình dân, danh xưng biệt phái (Pharisêu) chỉ “những người tách biệt”, “những người tinh sạch”, họ rất lo lắng đến sự tinh sạch và tuân theo lề luật đó cũng là một khuynh hướng nệ luật triệt để và nẹ hình thức tôn giáo.
+ Xuất thân từ giới thượng lưu và tư tế, những người thuộc phái Saduceo, đồng minh với trật tự đã được thiết lập, chấp nhận sự có mặt của người Roma, khác với những người biệt phái, nỗi tiếng bảo thủ trong vấn đề tôn giáo. Tuy hoàn toàn đối lập họ với nhau, hai nhóm tôn giáo này cùng có mặt ở đây, cùng đi về sông Giođan theo lời kêu gọi của Gioan, cũng như chẳng bao lâu sau, họ sẽ cùng liên kết với nhau để bắt bẻ Đức Giêsu Nagiarét. Vị tiên tri của sa mạc không nể nang họ. Vừa nhìn thấy họ, ông đã mạt sát: “Hỡi loài rắn độc” nghĩa là: “những môi miệng chỉ tuôn ra những lời độc địa”, ai đã chỉ dạy cho các ngươi tránh khỏi cơn thịnh nộ sắp tới?”. Liệu những con người độc địa, túi tiết ra nọc độc có thể thoát khỏi sự phán xét sắp tới của Thiên Chúa không? Lời nói nghiêm khắc nhắm vào họ tựu trung ở hai điểm, bằng một lời đe doạ tương tự như nhau: ở câu 10, “cái rìu đã ở kề gốc cây”, và ở câu 12, “tay Người cầm nia”.
+ Điểm thứ nhất là một lời khuyến khích “sinh hoa kết quả”, một hoa trái diễn tả sự trở về của các anh”. Kêu nài đến Abraham cũng không ích lợi gì cả. “Con cái đích thực của Abraham” không phải là những người nói hay nghĩ những điều đúng đắn về Thiên Chúa, mà là những người sống theo ý Thiên Chúa. Cl. Tassin chú giải: “Như thế, trái ngược với một phép rửa cứu thoát một cách tự động, Gioan đòi phải có một sự trở lại thục sự (OC. trang 40).
+ Sau cùng, trong điểm thứ hai, Gioan trình bày phép rửa “trong nước dẫn đến sự trở lại” như để chuẩn bị cho một phép rửa khác, một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. Bởi vì kẻ “đến sau ông (một từ ngữ chỉ môn đệ), thực ra lại “mạnh mẽ” hơn ông. Đến độ Gioan nhìn nhận rằng mình “không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”, là nhiệm vụ dành riêng cho người nô lệ. Gioan Tẩy Giả đã khiêm nhường tự xoá mình đi trước Đấng mà ông đâ nhận nhiệm vụ dọn đường.
BÀI ĐỌC THÊM
“Gioan chất vấn bằng lời nói, nhưng cũng bằng cách sống của ông: hoang địa, y phục, lương thực… Chính cuộc sống của ông đặt vấn đề và lôi cuốn. Sau này, Đức Giêsu nhắc lại điều đó: “Các ông nhìn thấy gì nơi hoang địa. Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy thì các ông thấy gì? Một người ăn mặc lịch sự sang trọng ư? Nhưng những người ăn mặc lịch sự sang trọng thì ở trong cung điện nhà vua” (11,7-8). Tiên tri là người đầu tiên phải trở lại. Trước khi loan báo Nước Trời cho người khác, chính ông phải sẵn sàng đón tiếp Nước ấy. Không thể nào loan báo cho người khác nếu chính mình không hồi tâm trở lại, bởi vì đó không phải chỉ đơn thuần là chuyển giao một kiến thức. Thông tin về Nước Trời chỉ có thể được tiếp nhận bởi người nào chấp nhận biến đổi đời mình: Hãy ăn năn thống hối Nước Trời đã gần đến. Không ăn năn trở lại, thì Nước Trời vẫn ở ngoài cửa mà thôi. Chúng ta cần nghe lại sứ điệp của Gioan Tẩy Giả. Trong một thế giới mà việc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa là nước không được nhận biết, không được chấp nhận, thì không được quên rằng, sẽ không được Phúc âm hoá nếu không có sự ăn năn trở lại của người loan báo, cũng như của người lắng nghe Phúc âm. Chúng ta luôn luôn phải chạm trán với sự không tin hay với sự thờ ơ? dửng dưng. Chúng thách thức ta phải kiểm điểm lại sự trung thành với Phúc âm, trình bày Phúc âm không phai là một giáo huấn đơn thuần cho trí hiểu nhưng là một lời mời gọi biến đổi đời mình. Bởi vì Phúc âm là sức mạnh đổi mới, hướng dẫn đời sống một cách khác. Phúc âm khơi gợi một sự ý thức về tội lỗi một ý chí muốn thay đổi cuộc sống. Đó là ý nghĩa của phép rửa của Gioan: trong khi xưng thú tội lỗi, họ để ông làm phép rửa trong sông Giođan”.
Gioan không rào trước đón sau, mắng nhiếc thậm tệ những người đến với ông. Chúng ta có thể nghĩ rằng những người đến với ông đều tỏ ra thiện chí. Bởi vì họ đã bước xuống nước sông Giođan. Bởi vì họ đã dầm mình xuống dòng sông thanh tẩy. Nhưng không đúng thế.
Nghi thức tự nó không đủ. Chính con tim và cách sống mới can hệ. Và khi Thiên Chúa đến thì sẽ là phép rửa bằng lửa: một ngọn lửa tinh luyện và đức rèn. Một ngọn lửa thiêu đốt thế giới. Một ngọn lửa cháy lên huy hoàng vinh quang. Chúng ta thấy đó: không phải là vấn đề giả bộ. Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận. Và nhất là, nếu chúng ta để Thiên Chúa hành động thì Ngài sẽ cho thực hiện các phép lạ. Các bạn sẽ sản xuất ra nhiều hoa trái một cách dồi dào phong phú, các kho lẫm trên trời se đầy tràn chan chứa. Nhưng trước tiên, các bạn hãy ăn năn trở lại! Hãy từ bỏ sự tự mãn! Hãy để Thiên Chúa tràn ngập các bạn và đốt lửa lên trong lòng các bạn! Các bạn hãy thành thật đi! Đừng tìm cách đánh lừa, Thiên Chúa, hãy từ bỏ sự bảo đảm dựa trên các tập quán để mở rộng con tim các bạn đón nhận những cái mới căn bản của Nước Trời!
Sự xuất hiện của Gioan giống như tiếng nói của Thiên Chúa thình lình vang lên. Lúc bấy giờ người Do Thái buồn bã vì tiếng nói của các ngôn sứ không còn nữa. Trải qua bốn trăm năm không hề có ngôn sứ nào, suốt bốn thế kỷ dài đằng đẵng tiếng nói ngôn sứ hoàn toàn yên lặng. Như chính họ đã ghi nhận “không có tiếng nói, cũng chẳng có tiếng đáp”. Nhưng trong Gioan, tiếng nói ngôn sứ lại đang vang lên. Vậy đặc điểm của Gioan và sứ điệp của ông là gì?
Người Do Thái tin tưởng Êlia sẽ trở lại trước khi Đấng Cứu Thế đến và ông là người báo tin cho công chúng biết về vị Vua tương lai “Này ta sẽ sai ngôn sứ Êlia đến cùng các ngươi trước ngày lớn lao và đáng sợ của Thiên Chúa chưa đến” (Ml 4,5). Gioan mặc áo bằng lông lạc đà, thắt dây lưng bằng da, đây là hình ảnh chiếc áo ngôn sứ Êlia đã mặc (2V 1,8).
Matthêu liên kết Gioan với lời tiên tri trong Isaia 40,3. Trong thời cổ đại, đường xá phương Đông rất xấu. Có một châm ngôn phương Đông nói rằng: “Có ba điều khốn khổ: đau ốm, nhịn ăn và du lịch”. Một nhà du lịch sắp lên đường thường được khuyên trả tất cả nợ nần, chuẩn bị mọi sự cho vợ con, trao những quà tặng chia tay, trả lại những món đồ ký thác, lấy tiền rồi chuẩn bị cho cuộc hành trình và chào từ biệt mọi người. Quốc lộ chẳng hơn gì các lối mòn và không hề được trải đá, vì đất xứ Palestine cứng có thể chịu được sự lưu thông lừa, la và xe bò, xe ngựa. Cuộc hành trình trên một tuyến đường như thế quả là phiêu lưu, một cuộc phiêu lưu cần phải tránh. Cũng có một số ít đường trải đá, tỉ dụ như Josephus nói rằng Salômôn đã đắp một con đường cao bằng đá đen dọc theo những đường dẫn đến Giêrusalem để dễ dàng cho những người đi viếng nơi thánh và để “bày tỏ sự giàu có sang trọng của nước mình”. Tất cả những đường đá đắp bằng sức người đó do các vị vua làm chỉ đặc biệt dành cho vua sử dụng. Bởi vậy chúng được mệnh danh là “xa lộ hoàng gia”. Đường ấy chỉ được tu bổ khi vua cần dùng cho một cuộc du hành nào đó. Trước khi vua đến, dân chúng được loan báo để chuẩn bị đường cho xa giá vua đi. Gioan thật đang sửa soạn cho con đường của vua. Những người rao giảng lời ngôn sứ không nói về mình nhưng nói về Thiên Chúa.
Mục tiêu của người giảng không phải là làm cho người ta chú ý đến sự khéo léo của mình nhưng vào sự oai nghiêm của Thiên Chúa. Nhà truyền giáo chân thật là người tan biến trong sứ điệp của chính mình.
Người ta nhìn nhận Gioan là ngôn sứ dù cho sau bao nhiêu năm dài không hề vang lên tiếng nói ngôn sứ nào, vì ông là ánh sáng phơi bày sự dữ, là tiếng nói hiệu triệu con người đến sự công chính, là bảng chỉ đường để con người đến cùng Thiên Chúa, và vì ông có một uy quyền không thể giải thích được, một thứ uy quyền chỉ có sau khi đã ở lâu với Thiên Chúa.
Trong sứ điệp của Gioan có cả sự ngăm đe lẫn lời hứa. Cả đoạn này đầy những bức tranh linh động. Gioan gọi những Pharisêu và Xađốc là dòng dõi rắn độc và hỏi ai đã chỉ cho họ chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Có thể Gioan nói lên hai hình ảnh sau đây: Một là Gioan biết rõ hình ảnh hoang địa, có những nơi cỏ mọc ngắn thưa, khô héo với những bụi gai cằn cỗi, gầy, dòn vì thiếu hơi ẩm. Thỉnh thoảng có những đám cháy rừng, lúc ấy lửa như con sông đỏ rực tràn qua, và ngọn cỏ, bụi cây như mới bùi nhùi. Trước đám cháy, rắn rết, bọ cạp vội vã trốn chạy, cả đến những loài thường sống ẩn náu trong bụi cỏ hoặc lùm cây cũng phải bỏ nơi trú ẩn để chạy cứu mạng mình. Cũng có thể một hình ảnh khác mà Gioan dùng ở đây, có nhiều loài vật và côn trùng nhỏ trong cánh đồng bắp như chuột đồng, thỏ và chim chóc, nhưng kh người thợ gặt tới thì chúng bị đuổi khỏi tổ, khỏi hang, chúng phải chạy trốn cứu mạng khi cánh đồng bị gặt trụi… Gioan đã dựa vào những hình ảnh này để suy nghĩ. Nếu các Pharisêu và Xađốc thật tâm xin chịu phép rửa thì họ chỉ như những con thú chạy gấp để cứu mạng trước ngọn lửa hoang địa hoặc trước lưỡi hái của thợ gặt.
Gioan cảnh cáo dù họ có nại ra Ápraham là tổ phụ của họ cũng chẳng ích gì. Đối với người Do Thái chính thống, đó là một câu nói không thể chấp nhận được. Đối với người Do Thái, Ápraham thật độc đáo, độc đáo đến nỗi những công đức của người, cả về sự thiện hảo và ơn Chúa, Ápraham có đủ cho mình và còn cho cả dòng dõi ông nữa. Ápraham đã tích trữ một kho tàng công đức mà tất cả những đòi hỏi và nhu cầu của dòng dõi ông không thể dùng hết được. Vì vậy người Do Thái tin rằng, một người Do Thái tầm thường dù chẳng có công đức riêng nào cũng sẽ được an toàn trong tương lại. Họ nói “tất cả người Israel đều có phần trong thế giới sắp đến”. Họ nói về “những công đức giải phóng của tổ phụ”. Họ nói rằng Ápraham ngồi ở các cổng địa ngục để đuổi người Israel nào chẳng may bị đưa đến chốn kinh khiếp đó trở về, những công đức của Ápraham đã khiến những con tàu thuận buồm xuôi gió trên biển cả, cũng bởi công đức của Ápraham mà mưa sa trên đất. Công đức của Ápraham đã đưa Môsê lên trời để nhận luật. Bởi công đức của Ápraham mà Đavít được Chúa nhậm lời, những công đức này cũng đủ cho người gian ác nữa. Họ nói về Ápraham “nếu con cháu người chỉ là những thi hài, không có mạch máu hay xương cốt, thì công đức của người cũng có lợi cho chúng”. Gioan quở trách tinh thần ỷ lại đó. Có lẽ người Do Thái đã đưa vấn đề đi quá xa, nhưng bao giờ cũng cần cảnh cáo rằng chúng ta không thể sống trên số vốn thuộc linh trong quá khứ. Một thời đại suy đồi không thể trông mong được cứu rỗi dù đã thừa hưởng một quá khứ anh hùng. Một đứa con hư hỏng không thể hy vọng viện dẫn công đức của một người cha thánh thiện.
Một lần nữa, Gioan trở lại với hình ảnh về mùa gặt. Cuối mùa, người giữ vườn nho và vườn vả sẽ kiểm tra kết quả. Nếu chúng không có trái và vô dụng sẽ bị nhổ tận gốc, vì đã choán đất vô ích. Sự vô dụng bao giờ cũng chuốc lấy tai hoạ. Một người vô dụng đối với Thiên Chúa và đồng loại thì ở trong sự nguy hiểm trầm trọng và bị kết án.
Sau lời ngăm đe của Gioan là lời hứa, trong đó cũng bao hàm một lời hăm doạ. Như chúng ta biết, Gioan xuất hiện để chỉ cho mọi người thấy Đấng trổi vượt hơn ông sắp đến. Lúc đó Gioan đang nổi danh và đang có ảnh hưởng rất lớn. Tuy nhiên, ông nói rằng mình không đáng xách dép cho Đấng sắp đến. Xách dép là phận sự của người nô lệ. Thái độ của Gioan là thái độ tự xoá mình đi không tự cho mình là quan trọng. Tính cách quan trọng của ông là làm bảng chỉ đường dẫn đến Đấng sắp đến. Ông nói Đấng đến sau ông sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Trong suốt cả lịch sử, người Do Thái để tâm tìm kiếm thời đại Thánh Thần sẽ đến. Êdêkien đã được nghe Thiên Chúa dạy: “Ta sẽ ban lòng mới cho cho các ngươi và đặt thần mới trong các ngươi. Ta sẽ đặt thần Ta trong các ngươi và khiến các ngươi noi theo luật lệ Ta, các ngươi sẽ giữ mệnh lệnh Ta mà làm theo” (Ed 36,26.27), “Ta sẽ đặt thần Ta trong các ngươi và các ngươi sẽ sống” (Ed 37,14). “Ta sẽ không che mặt khỏi chúng nó nữa vì Ta sẽ đổ thần Ta trên nhà Israel, Chúa dạy vậy” (Ed 39,29), “Vì Ta sẽ rót nước trên kẻ khát, cho suối chảy nơi đất khô, Ta sẽ đổ thần Ta trên dòng dõi ngươi và phước lành Ta trên những kẻ ra từ ngươi” (Is 44,3), “Trong những ngày đó, dầu những đầy tớ trai và đầy tớ gái, Ta cũng đổ thần Ta lên” (Ge 2,29). Vậy ân tứ và công việc của Thánh Thần Thiên Chúa là gì? Khi thử giải đáp câu hỏi ấy, ta nên nhớ trả lời theo nghĩa của người Do Thái. Gioan là người Do Thái và đang nói với người Do Thái, ông đang suy nghĩ và nói không theo nghĩa giáo lý Kitô giáo về Thánh Thần mà theo nghĩa giáo lý của người Do Thái.
Đó là những ân huệ của Thánh Thần mà Gioan đã thấy và là những ân huệ sẽ do Đấng sắp đến mang lại.
Có một chữ và một hình ảnh trong sứ điệp của Gioan chứa đựng cả lời hứa lẫn ngăm đe. Gioan nói Đấng sắp đến sẽ làm phép rửa trong lửa. Phép rửa trong lửa cho ta ba ý niệm sau đây:
Vì vậy, lửa bao gồm sự soi sáng, sự ấm áp và tinh sạch cho tấm lòng người nào có Chúa Giêsu ngự vào.
Bức tranh về sân đạp lúa củ Gioan cũng gồm cả lời hứa lẫn ngăm đe. Cái quạt để rê lúa trông giống như cái xẻng gỗ lớn để hất lúa lên cao. Thóc nặng rơi xuống trước còn trấu nhẹ bị gió lùa đi. thóc được gom vào bồ, còn trấu thì dùng để đốt.
Khi Chúa Giêsu đến thì buộc phải có sự phân rẽ. Người ta hoặc tiếp nhận Ngài hoặc chối bỏ Ngài. Đối diện với Chúa, họ đứng trước một lựa chọn không thể tránh né được. Hoặc thuận hay nghịch với Ngài. Sự lựa chọn đó định đoạt số phận con người. Con người được phân chia do phản ứng của họ đối với Chúa Giêsu.
Theo quan niệm Kitô giáo thì không ai có thể tránh việc lựa chọn số phận đời đời. Tại làng Bedford, John Bunyan đã nghe một tiếng gọi thình lình đưa ông đối diện với cõi đời đời: “Ngươi có bằng lòng từ bỏ tội lỗi để vào thiên đàng hay cứ giữ tội để xuống địa ngục?”. Phân tích cho cặn kẽ thì không ai có thể trốn tránh một lựa chọn dứt khoát cho chính mình.
Trong tất cả các lời giảng của Gioan, điều đòi hỏi cơ bản là: “Hoán cải” (Mt 3,2). Đó cũng là sứ điệp cơ bản của Chúa Giêsu. Ngài đã đến và truyền dạy: “Anh em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Rõ ràng chúng ta cần tìm hiểu hoán cải là gì và yêu cầu cơ bản của Vua và của người dọn đường của Ngài là gì. Điều đáng chú ý là Chúa Giêsu và Gioan đều dùng chữ hoán cải mà không có lời giải thích. Cả hai đều coi chữ này như một từ chắc chắn mà người nghe sẽ biết và hiểu rõ ý nghĩa.
Chúng ta hãy xem người Do Thái dạy thế nào về hoán cải. Đối với người Do Thái, hoán cải là trọng tâm của mọi đức tin tôn giáo, mọi sự liên hệ với Thiên Chúa. G.F. Moore đã viết: “Hoán cải là điều kiện duy nhất và bất khả thay thế để được Thiên Chúa tha thứ, phục hồi ân huệ của Ngài. Sự tha thứ cùng ân huệ ấy không bao giờ phụ lòng hoán cải chân thành”, “Thiên Chúa hoàn toàn tha thứ tội lỗi của người hoán cải là lẽ đạo chủ yếu của Do Thái giáo”. Các Rápbi bảo rằng hoán cải rất là vĩ đại vì nó đem sự chữa lành đến cho thế gian. Hoán cải thật vĩ đại vì nó đạt đến vinh quang của Thiên Chúa. C.G.Montefiore đã viết: “Hoán cải là mối ràng buộc hoà giải lớn giữa Thiên Chúa và loài người”.
Luật được lập hai ngàn năm sau cuộc sáng tạo nhưng các Rápbi Do Thái dạy rằng hoán cải là một trong những điều sáng tạo trước cả luật. Có sáu điều quan trọng là: Hoán cải, thiên đàng, địa ngục, ngai vinh quang của Chúa, đền thánh trên trời và Danh của Đấng Cứu Thế. Họ nói: “Một người bắn mũi tên có thể tới vài trăm thước nhưng hoán cải tới được cả Thiên Chúa.
Câu chuyện danh tiếng sau đây của các Rápbi cho thấy hoán cải được đặt vào hàng đầu: “Ai giống như Thiên Chúa là thầy giáo dạy các tội nhân để họ hoán cải?”. Họ hỏi sự Khôn Ngoan: “Hình phạt cho tội nhân sẽ là gì?”. Khôn Ngoan đáp: “Tai hoạ đuổi theo kẻ có tội” (Cn 13,21). Hỏi ngôn sứ, ngôn sứ đáp: “Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết” (Ed 18,4). Hỏi Luật, Luật trả lời: “Người ấy phải dâng lễ vật” (Lv 1,4). Người ta hỏi Thiên Chúa và Ngài đáp: “Ngươi hãy hoán cải để được chuộc tội. Hỡi các con, điều Ta đòi hỏi nơi các con là gì? Hãy tìm kiếm Ta và được sống”. Cũng vậy, đối với người Do Thái, cổng duy nhất để trở về với Thiên Chúa là cổng hoán cải.
Chữ Do Thái Teshubah dùng chỉ hoán cải cũng rất hay. Đó là danh từ của động từ shub có nghĩa quay lại. Hoán cải là quay bỏ điều dữ và quay lại cùng Thiên Chúa, thay đổi cách ăn nết ở, cải tạo đời sống luân lý và tôn giáo của toàn dân hoặc của cá nhân. C.G.Montefiore viết: “Đối với các Rápbi, bản chất của hoán cải là ở chỗ hoàn toàn thay đổi tâm trí, từ đó đem lại sự thay đổi trong cuộc sống và trong cách cư xử”. Maimonides, một học giả Do Thái danh tiếng trong thời trung cổ định nghĩa hoán cải như sau: “Hoán cải là gì? Hoán cải là tội nhân lìa bỏ tội và khai trừ nó ra khỏi tư tưởng mình, hoàn toàn quyết định trong tâm trí sẽ không tái phạm nữa như có chép rằng: “Kẻ ác bỏ đường mình, người bất nghĩa bỏ các ý tưởng”.
Có một định nghĩa về hoán cải mà người Do Thái hoàn toàn có thể chấp nhận được trừ mấy chữ trong ngoặc đơn: “Hoán cải để được sống là một ân sủng cứu rỗi, nhờ đó tội nhân nhận biết được ý nghĩa của tội lỗi, hiểu rõ lòng thương xót của Thiên Chúa (trong Chúa Kitô) với nỗi đau buồn và chán ghét tội lỗi, thật lòng quay lại với Thiên Chúa, nỗ lực và quyết tâm vâng lời Ngài”. Nhiều lần Kinh Thánh nói về quay lưng lại tội lỗi và trở lại cùng Thiên Chúa. Êdêkien chép: “Thật như Ta hằng sống, Ta chẳng coi kẻ dữ chết làm vui, nhưng vui vì nó bỏ đường lối mình và được sống. Các ngươi hãy bỏ đường lối xấu xa của mình. Sao các ngươi muốn chết, hỡi nhà Israel?” (Ed 33,11). Giêrêmia chép: “Xin Chúa cho tôi trở lại, thì tôi sẽ được trở lại vì Chúa là Thiên Chúa tôi” (Gr 31,18). Hôsê dạy: “Hỡi Israel, hãy trở lại cùng Thiên Chúa ngươi… Các ngươi hãy lấy lời nói mà trở lại cùng Chúa” (Hs 14,1.2).
Từ những điểm kể trên, rõ ràng trong Do Thái giáo hoán cải tự nó đã có một đòi hỏi đạo đức, đó là bỏ tội lỗi mà đến cùng Thiên Chúa với một thay đổi tương xứng trong hành động. Khi Gioan đòi hỏi người nghe phải có kết quả xứng đáng với hoán cải thì đòi hỏi đó hoàn toàn nằm trong truyền thống dân tộc. Có một lời cầu nguyện thật đẹp thường được đọc trong hội đường: “Lạy Cha, xin làm cho chúng con trở lại với luật Ngài. Xin kéo chúng con đến phục vụ Ngài, hãy đem chúng con trở lại trong hoán cải hoàn toàn trước nhan Ngài. Chúng con ca ngợi Chúa, vì Ngài vui thích lòng người hoán cải”. Nhưng hoán cải đó phải được minh chứng qua nếp sống thay đổi.
Bình luận về Giôna 3,10, một Rápbi đã viết: “Hỡi anh em, Kinh Thánh không chép Thiên Chúa thấy bao gai và sự kiêng ăn của người Ninivê, nhưng Ngài thấy việc làm của họ và từ bỏ con đường gian ác”. Các Rápbi nói: “Đừng như kẻ ngu dại khi phạm tội thì dâng lễ vật mà không hoán cải. Nếu có người nói rằng: Tôi cứ phạm tội rồi hoán cải, thì người ấy không còn được phép hoán cải nữa”. Người ta liệt kê năm hạng tội nhân không được tha thứ, trong đó có “những người phạm tội để hoán cải và những người vừa mới hoán cải xong lại tái phạm”. Họ nói: “Một người cầm một vật ô uế trong tay, thì dù có rửa tay bằng nước của cả đại dương tay vẫn không sạch, nhưng ném vật dơ bẩn đó thì chỉ một chút nước là xong”. Các giáo sư Do Thái thường nói về “chín quy tắc hoán cải” tức là chín điều cần thiết cho hoán cải thật. Chín điều này viết trong Isaia 1,16-17 “Hãy rửa, hãy làm cho sạch. Hãy tránh những việc ác khỏi mặt Ta, đừng làm dữ nữa, hãy học làm lành, tìm kiếm sự công bình, hãy đỡ đần kẻ bị hà hiếp, và kẻ mồ côi, bênh vực người goá bụa”.
Con trai Sirach viết trong sách nguỵ kinh Ecclesiasticus (Huấn ca): “Đừng nói tôi đã phạm tội, có việc gì xảy đến cho tôi đâu?”. Vì Chúa là Đấng khoan nhân. Đừng dại dột tin vào của lễ chuộc tội để rồi cứ tiếp tục thêm tội vào tội, và đừng nói Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài sẽ tha thứ vô số tội lỗi tôi “vì Ngài là Thiên Chúa của tình thương lẫn của thịnh nộ; Ngài sẽ giáng thịnh nộ trên kẻ phạm tội. Đừng trì hoãn việc trở lại cùng Chúa và đừng chần chừ ngày này qua ngày khác” (Hc 5,4-7). Người viết tiếp: “Một người đụng đến xác chết bị ô uế đi tắm để được tinh sạch nhưng lại rờ đến xác chết ấy nữa thì tắm rửa có ích gì? Cũng vậy một người kiêng ăn vì đã phạm tội nhưng lại tái phạm thì ai sẽ nghe lời cầu xin của người ấy? Kiêng ăn hãm mình của người đó có ích gì?” (Hc 34,25-26).
Người Do Thái chủ trương hoán cải thật không chỉ biểu hiện bằng một cảm xúc buồn thảm mà còn phải thật sự thay đổi đời sống. Đây cũng là quan niệm của Kitô giáo. Người Do Thái chủ trương kết quả chứng minh cho hoán cải thật. Kitô hữu cũng thế. Người Do Thái còn nhiều điều khác nói về hoán cải và chúng ta phải tiếp tục tìm hiểu.
Có điểm đáng sợ trong đòi hỏi đạo đức về hoán cải của người Do Thái, nhưng đồng thời cũng có nhiều điều khích lệ.
Lúc nào cũng có cơ hội để hoán cải. Họ nói: “Hoán cải giống như biển cả muốn tắm lúc nào cũng được”. Có những khi cánh cổng cầu nguyện đóng chặt, nhưng các cổng hoán cải thì không bao giờ đóng, cũng không ai đóng được.
Hoán cải hoàn toàn cần thiết. Người ta kể một câu chuyện Ápraham tranh luận với Chúa, ông thưa với Chúa rằng: “Cùng một lúc Chúa không thể nắm hai đầu dây. Nếu Chúa đòi hỏi sự công chính tuyệt đối thì thế gian không chịu nổi, nếu Chúa muốn bảo toàn thế gian thì lại không thể duy trì sự công chính tuyệt đối”. Nếu không có lòng thương xót của Chúa và hoán cải, thế gian không thể tiếp tục tồn tại. Nếu không có gì khác ngoài sự công chính của Chúa thì mọi người và mọi vật không thể tồn tại. Hoán cải rất cần thiết để Chúa bãi bỏ đòi hỏi của Ngài: “Hoán cải trước mặt Chúa thật đáng quý, vì Ngài đã bãi bỏ chính lời Ngài vì hoán cải”. Lời ngăm đe huỷ diệt tội nhân bị bãi bỏ vì Chúa chấp nhận hoán cải của tội nhân.
Hoán cải kéo dài suốt đời. Chừng nào còn sự sống thì còn có thể hoán cải. “Bàn tay Chúa đưa ra để giựt người hoán cải ra khỏi điều công chính đòi hỏi”. Rápbi Simeon ben Yohai nói: “Một người suốt đời công chính nhưng cuối cùng phản loạn, là đã phá huỷ hết vì có lời chép: Sự công chính sẽ không cứu được nó trong ngày nó phạm tội” (Ed 33,12). Nhưng nếu có một người cả đời sống gian ác, đến cuối cùng lại hoán cải, thì Chúa vẫn tiếp nhận người ấy vì có lời chép: “Sự dữ của kẻ dữ không làm cho nó sa ngã vào ngày nó từ bỏ sự dữ ấy” (Ed 33,12). Họ nói: “Nhiều người, phải sau nhiều năm mới vào được thiên đàng trong khi người khác chỉ trong một giờ”. Một thi sĩ nói về một người tìm ơn thương xót của Thiên Chúa trong giờ phút lâm chung: “Trong khoảnh khắc còn lại của cuộc đời, tôi tìm kiếm ơn thương xót của Chúa và tôi đã gặp”.
Lòng thương xót của Thiên Chúa cao cả đến nỗi Ngài chấp nhận cả hoán cải kín đáo nữa. Rápbi Eleazar nói: “Đây là cách của thế gian, một người công khai nhục mạ đồng bào, sau một thời gian lại tìm đến làm hoà thì người kia sẽ nói: “Anh đã nhục mạ tôi công khai bây giờ lại chỉ muốn làm hoà giữa hai người thôi sao? Không được, hãy đem những người chứng kiến sự nhục mạ của anh đến đây, trước mắt họ, tôi sẽ giảng hoà với anh…” Nhưng Chúa không như thế, đối với người nhạo báng, xúc phạm Chúa ngay giữa chợ, Chúa vẫn dạy: “Hãy hoán cải giữa hai ta, ta sẽ tiếp nhận ngươi”. Lòng thương xót của Chúa vẫn dành cho người hổ thẹn đến nỗi không dám nói điều xấu hổ với ai trừ Chúa.
Thiên Chúa không có sự quên lãng vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng lòng thương xót của Ngài lớn lao đến nỗi không những Ngài tha thứ mà còn quên tất cả tội của người hoán cải nữa. “Thần Minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu đựng lỗi lầm, Đấng bỏ qua tội ác cho phần còn sót lại của cơ nghiệp Ngài?” (Mk 7,18), “Chúa đã tha gian ác cho dân Chúa và khoả lấp mọi tội lỗi của họ” (Tv 85,2). Tha thứ thì loài người có thể làm được, nhưng quên, bỏ thì chỉ có Thiên Chúa.
Điều đẹp hơn hết là Chúa đã đi hơn phân nửa đường để đến gặp tội nhân hoán cải. “Hãy trở lại theo khả năng của con, đi được bao xa thì đi, còn Ta, Ta sẽ đến với con, đi phần còn lại của quãng đường”. Sâu sắc lắm thì các Rápbi cũng chỉ thoáng thấy được tình yêu của cha khi người cha chạy ra đón đứa con hoang đàng trở về. Tuy nhiên dầu nhớ hết sự thương xót này của Chúa, trong hoán cải thật vẫn còn có sự bồi hoàn, sửa chữa trong phạm vi khả năng. Các Rápbi nói: “sự thiệt hại phải được đền bồi, thì ơn khoan dung và tha thứ sẽ đến”. “Người hoán cải thật là người có dịp để phạm cùng một tội lần nữa trong cùng một trường hợp mà không làm”. Các Rápbi nhấn mạnh luôn về tầm quan trọng của mối tương quan nhân loại và việc cần sửa chữa cho mối tương quan đó tốt đẹp. Có một đoạn sách giáo huấn nói: “Người nào tốt với trời và với anh em mình là một zadik tốt (zadik nghĩa là một người công chính”. Người nào tốt với trời mà không tốt với anh em là một zadik xấu. Người nào gian ác với trời và gian ác đối với anh em là một tội nhân tệ hại. Người nào gian ác với trời mà không gian ác đối với người anh em thì là tội nhân không tệ hại”. Sự sửa chữa bồi hoàn cà cần thiết nên ai xúi dạy người ấy phạm tội là tội nhân xấu xa nhất, tệ hại nhất, vì đó là việc không thể sửa chữa bồi hoàn được, bởi người ấy không thể lường được hậu quả và ảnh hưởng của tội lỗi mình. Chẳng những sửa chữa cần thiết cho hoán cải thật mà xưng tội cũng vậy. Đòi hỏi này được nhắc đi nhắc lại trong Kinh Thánh “Khi một người nam hay một người nữ phạm một trong những tội mà người ta thường phạm, thì người ấy phải xưng tội của mình ra” (Ds 5,6.7). “Người nào giấu tội lỗi của mình sẽ không được may mắn, nhưng ai xưng nó ra và lìa bỏ nó sẽ được thương xót” (Cn 28,13), “Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu điều gian ác của tôi. Tôi nói: Tôi sẽ xưng các lỗi phạm của tôi cùng Chúa, còn Chúa tha tội ác tôi” (Tv 32,5), “Người nào nói mình vô tội và chối không nhận mình đã phạm tội thì bị lên án” (Gr 2,35). Maimonides đưa ra một lời xưng tội mẫu để người ta dùng khi xưng tội: “Lạy Chúa, con đã phạm tội, con đã làm điều gian ác, con đã phạm lỗi trước mặt Ngài và đã làm những việc này. Con hối tiếc về việc làm của con. Từ nay con sẽ không bao giờ tái phạm”. Hoán cải thật cần hạ mình để thừa nhận và xưng tội lỗi ra. Không có trường hợp nào là vô vọng đối với hoán cải, cũng không người nào không thể hoán cải. Các Rápbi khuyên: “Đừng ai nói tôi đã phạm và vậy là vô phương cứu vãn”, nhưng hãy tin cậy Chúa và hoán cải thì Ngài sẽ tiếp nhận. Có một trường hợp dường như không thể cải tạo được là Mơnase. Ông thờ ngẫu tượng Baan, ông đem các thần lạ vào Giêrusalem, thậm chí đem các con trẻ dâng cho Môlóc tại thung lũng Hinôm. Khi bị lưu đày qua Assyria trong gông cùm và nằm trên gai, ông cầu nguyện cùng Chúa trong cơn khốn khó và Ngài đã nghe lời cầu khẩn của ông đưa ông trở lại Giêrusalem. Khi ấy Mơnase mới nhận thức Chúa là Thiên Chúa (2Sb 33,13). Đôi khi Chúa phải dùng sự ngăm đe và kỷ luật để đem một người trở về và không có trường hợp nào vượt quá khả năng của Chúa đến nỗi Ngài không thể đem về được.
Còn một những gì cuối của người Do Thái về hoán cải và chắc đó là Gioan liên tưởng tới. Ít nhất cũng có một vài giáo sư Do Thái dạy rằng: Nếu Israel thật sự ăn năn hoàn toàn dù chỉ trong một ngày thì Đấng Mêsia sẽ đến. Chỉ tại lòng người cứng cỏi khiến cho việc sai phái Đấng Cứu Chuộc xuống thế gian phải trì hoãn lại.
Hoán cải chính là trọng tâm của đức tin Do Thái mà cũng chính là trọng tâm của đức tin Kitô hữu vì hoán cải là quay lưng lại với tội lỗi để đến với Chúa, với cuộc đời Ngài muốn chúng ta sống.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn