Các bài suy niệm Chúa nhật 27 C

Thứ năm - 03/10/2019 05:23

CÁC BÀI SUY NIỆM  CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – C

Lời Chúa: Kb 1, 2-3; 2, 2-4; 2Tm 1, 6-9.13-14; Lc 17, 5-10

MỤC LỤC

  1. Đức tin bằng hạt cải – ViKiNi 2
  2. Đức tin. 6
  3. Đầy tớ vô dụng. 8
  4. Khoảng cách – Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 10
  5. Xin ban thêm lòng tin cho chúng con – Huệ Minh. 14
  6. Đức tin. 19
  7. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con – Dã Quỳ. 21
  8. Đức tin và những điều kỳ diệu. 25
  9. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 30
  10. Làm điều phải làm.. 41
  11. Tin Tưởng Vào Chúa – An Phong. 44
  12. Bổn phận – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 46
  13. Phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi 51
  14. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc. 54
  15. Nếu các con có lòng tin. 58
  16. Hãy bật rễ lên. 62
  17. Suy niệm của Lm Đaminh Trần Đình Nhi 65
  18. Chiếc bình trống rỗng – Thiên Phúc. 69
  19. Đức tin và người đầy tớ vô dụng. 71
  20. Xin thêm niềm tin cho chúng con. 74
  21. Nhận và cho không vị lợi – Achille Degeest 77
  22. Đức tin sống động – Lm. Minh Vận, CRM… 79
  23. Ai là người thay đổi? – Charles E. Miller. 85
  24. Phép lạ của lòng tin. 88
  25. Đức tin – McCarthy. 92
  26. Phục vụ Thiên Chúa vì yêu thương. 95
  27. Đức tin và khiêm nhường – Veritas. 98
  28. Đức tin và khiêm nhường. 101
  29. Khiêm nhường và tin tưởng. 104
  30. Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn hay nhỏ?. 107
  31. Đức tin. 111
  32. Niềm tin. 115
  33. Đức tin. 119
  34. Đức tin giúp con người hạnh phúc. 122
  35. Ba con đang bị đè dưới đó. 126
  36. Suy niệm của Đaminh Cao Tấn Tĩnh. 130
  37. Máy thời gian- Lm. Vũ Minh Nghiễm.. 136
  38. Suy niệm của Lm. Bùi thượng Lưu. 141
  39. Nếu các con có lòng tin- Br. Minh Trân. 143
  40. Cần một niềm tin- Lm. Bùi Mạnh Tín. 146
  41. Gian nan cho một niềm tin- Lm. Bùi Quang Tuấn. 148
  42. Đức tin trong bóng tối 151
  43. Con luôn tin yêu Chúa trọn đời – Lm. Jude Siciliano. 153
  44. Chú giải của Noel Quesson. 160
  45. Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục vụ. 167
  46. Chú giải của Fiches Dominicales. 176
  47. Suy niệm của William Barclay. 180
  48. Đầy tớ vô dụng – Lm. G. Phạm Văn Phượng. 185
  49. Xin thêm lòng tin cho chúng con. 189
  50. Chỉ là người tôi tớ – Lm G. Nguyễn Cao Luật 192
  51. Phục vụ – Như Hạ. 197
  52. Nếu chúng con có đức tin…… 202

1. Đức tin bằng hạt cải – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Sau khi nghe Đức Giêsu nói một loạt những dụ ngôn như: Men trong bột, muối đất, con chiên lạc, người cha nhân hậu với đứa con phung phá, quản lý bất trung, ông phú hộ … và những lời khiển trách Pharisiêu ham tiền, cảnh cáo kẻ gây cớ cho người ta và nhất là kẻ bé nhỏ vấp ngã sẽ bị cối đá buộc vào cổ ném xuống biển. Đức Giêsu khuyên các môn đệ tha thứ cho nhau, đặc biệt khuyến khích các ông từ bỏ mình, vác thập mình mà theo Người. Các tông đồ đã xin Đức Giêsu: “Thưa Thầy xin thêm lòng tin cho chúng con”.

Người kêu gọi các ông phải có đức tin chỉ lớn bằng hạt cải thôi, cũng có một sức mạnh chuyển núi dời non để có tinh thần khiêm tốn phục vụ như một đày tớ hết lòng chu toàn mọi việc cho chủ mà vẫn thấy mình vô dụng.

Đức Giêsu đòi các tông đồ, các môn đệ và mọi tín hữu phải có đức tin như thế. Biết bao nhiêu vị Thánh đã đáp lại lời khuyên đó.

Vị tông đồ vĩ đại như Phaolô, đức tin mạnh mẽ như sắt đá, không sức mạnh nào khuất phục được, dù binh hùng tướng mạnh của Đế quốc Rôma, dù cực hình, dù biển cả, dù sự chết, cũng không làm Ngài chùng bước phụng sự Chúa và đi cứu hàng triệu các linh hồn thuộc hàng chục quốc gia về cho Chúa. Thế mà Ngài chỉ thấy mình như một đứa trẻ sinh sau đẻ muộn, thiếu ngày tháng, luôn luôn nhận mình tội lỗi nhất. Ngài viết: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đó là Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ số một là tôi” (Tm. 1, 15). Thánh Phaolô viết thư này trong tù để, khuyến khích Timôthêu tin tưởng mạnh mẽ vào việc loan báo Tin Mừng. “Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người”. Như vậy, Thánh Phaolô muốn thúc giục Timôthêu và chúng ta tin mạnh mẽ vào Đức Giêsu, dù chúng ta gặp bất cứ khốn khó nào, cũng được Người cho chúng ta chiến thắng và đầy tràn ân sủng (Bài II).

Tiên tri Habacúc sống 600 năm trước Đức Giêsu, khi thấy dân Chúa bị quân Babilon chiến thắng, bạo tàn, phá hủy vương quốc Giuda, ông đã kêu gọi họ tin tưởng nhẫn nại chờ ngày Thiên Chúa đến cứu độ đúng kỳ Chúa hẹn (Bài I). Nhiều lần Đức Giêsu đã nói: “Đức tin của con đã cứu con”. Theo bài Tin Mừng hôm nay, Người còn nói mạnh mẽ hơn: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Nhưng dù làm được việc lạ lùng như thế, “thì hãy nói: Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng”.

Quả thực, chính đức tin cho chúng ta làm được những việc lạ lùng và đồng thời cho biết: Chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, vì không có ơn Chúa, Chúng ta chẳng làm được gì.

Thánh Phanxicô Salê lúc 19 tuổi bị bệnh nặng, nghĩ mình sắp chết và thấy mình thật vô dụng. Ngài đã nói với thầy dậy y khoa rằng: “Khi con chết, xin thầy lấy xác con để cho sinh viên học tập mổ sẻ”. Thời đó, năm 1587, mổ xẻ xác người, ăn cắp xác người chết là thứ tội gớm ghiếc. Vì thế, trường y khoa buộc lòng phải ra nghĩa địa ăn trộm xác về cho sinh viên học tập. Nên ông thầy trả lời: “Chắc gia đình sẽ kết án thầy”. Vị thánh trẻ nài van: “Điều đó rất an ủi con khi con chết. Con nghĩ rằng khi còn sống, con chỉ là đầy tớ vô dụng. Con muốn ít nhất sau khi chết, còn có cái gì tốt”. Sau này ngài đã làm Giám mục thành Giơ-ne-vơ. Vua Louis IV phải công nhận rằng: “Giám mục Geneve có tất cả mọi nhân đức và không hề lầm lỗi! Ngài đã làm bao nhiêu việc tông đồ lớn lao và giúp giáo phái Calvin trở lại. Thế mà ngài vẫn luôn luôn nói: “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”

Ngày nay, trong thế giới văn minh hiện đại này, không ai không biết đến một bà già qua đời năm 87 tuổi (-1997). Bà không một địa vị, chức quyền trong xã hội. Thế mà từ Tổng thống, Chủ tịch các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ, đến các nước nhỏ như Việt Nam, Lào, Cam Bốt đều mời bà đến viếng thăm, đó là Mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ chỉ là một chị Dòng Bác Ái. Năm 1948, Mẹ nhìn thấy một bà đói ăn nằm bên đống rác, một trẻ sơ sinh bị vất vào sọt rác, lòng mến Chúa và thương người mạnh mẽ của Mẹ đã khiến Mẹ xúc động vô cùng đau xót. Mẹ nhìn thấy những người đau khổ đó như Đức Giêsu bị bỏ rơi. Từ đó Mẹ đã hiến cả cuộc đời cho những người phong cùi, đau ốm, cùng khổ đang hấp hối nằm hè phố, ở ổ chuột, nơi cống rảnh để đưa về phục vụ họ như ông chủ của mình, như Chúa của mình, Mẹ đã lập gần 300 nhà dòng trên khắp thế giới và nhất là Ấn Độ để nuôi dưỡng, chăm sóc các người đau khổ, neo đơn, bệnh tật, cô nhi. Và có lẽ không ai trên thế giới này đã được tặng nhiều giải thưởng cao quý bằng mẹ. Ấn Độ tặng Mẹ giải thưởng Bông Huệ tuyệt vời năm 1963. Phi Luật Tân tặng Mẹ giải thưởng Massaysay. Rôma tặng Mẹ giải Hòa Bình Gioan 23 năm 1974 và Mẹ được tặng giải Nobel Hòa Bình thế giới năm 1979. Thế mà mẹ luôn coi mình là cây bút chì nằm trong tay Thiên Chúa, không dám coi mình là đầy tớ vô dụng nữa.

Lạy Chúa, đức tin của Mẹ Têrêxa cho Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người hèn mọn đau khổ, và thấy mình chỉ là thứ đồ vật nhỏ bé chưa đáng là đầy tớ của Thiên Chúa. Đức tin đó đã làm rung chuyển cả thế giới này. Xin cho chúng con cũng được đức tin khiêm tốn tột cùng đó, mới mong làm rung chuyển lòng Người.

 

2. Đức tin

Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy được một bài học quý giá: Đức tin là một yếu tố quyết định cho việc can thiệp của Thiên Chúa vào đời sống.

Chúa Giêsu đã làm phép lạ tuỳ theo lòng tin của mỗi người. Rất nhiều lần Người đã phán với các bệnh nhân: Đức tin của con đã cứu chữa con, con hãy về bình an. Hay: Con tin thế nào thì sẽ được như vậy. Nơi khác, Chúa Giêsu còn xác quyết với chúng ta: Nếu các con có được một đức tin bằng hạt cải, thì các con cũng có thể làm được những việc hệ trọng như chuyển núi dời sông. Vậy chúng ta phải tin những gì?

Trước hết là hãy tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Đúng thế, Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Với quyền năng ấy, Ngài đã tạo dựng vũ trụ. Với quyền năng ấy, Ngài vẫn luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, bởi vì nơi Ngài không có biến dịch và thay đổi. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn chỉ là một. Điều cần thiết là chúng ta phải tin tưởng chạy đến với Người như lời Thánh vịnh: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành trì Chúa chẳng giữ trọng, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì. Trong Phúc Âm, chính Chúa Giêsu cũng đã bảo: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Hay như lời sứ thần Gabriel: Không có sự gì mà Thiên Chúa chẳng làm được. Tin tưởng chạy đến với Chúa để rồi được Ngài nâng đỡ và phù trợ, như vậy chúng ta sẽ chẳng còn phải lo sợ điều chi nữa. Với Chúa thì màng nhện cũng có thể trở nên tường thành, trái lại, không có Chúa thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

Tiếp đến, chúng ta hãy tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài. Như chúng ta cũng đã nhiều lần xác tín Thiên Chúa là một người Cha nhân từ. Người Cha nhân từ ấy vốn hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Sự yêu thương chăm sóc ấy nhiều khi chúng ta không để ý tới. Chẳng hạn không có khí để thở, không có nước để uống, không có cơm để ăn, thì chỉ trong một thời gian ngắn chúng ta sẽ không thể nào sống nổi.

Ngay cả trong những giây phút đen tối dưới con mắt đức tin, chúng ta vẫn nhìn ra bàn tay uy quyền của Thiên Chúa hướng dẫn dòng đời của chúng ta. Biết đâu nhờ những gian nguy thử thách ấy mà chúng ta biết ăn năn sám hối, quay trở về cùng Thiên Chúa. Biết đâu nhờ những đau khổ và buồn phiền mà nhân đức của chúng ta được củng cố và niềm tin của chúng ta sẽ được kiên vững hơn lên, bởi vì tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa Giêsu đã phán: Các con hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo không gặt mà chẳng con nào bị chết đói. Các con hãy nhìm xem cánh hoa đồng nội chúng không dệt không may mà ngay như áo cẩm bào của Salomon cũng không rực rỡ cho bằng, các con hãy tin tưởng, các con càng quý giá hơn chim trời và hơn cánh hoa đồng nội rất nhiều. Hay như Thánh vịnh cũng đã bảo: Kẻ kính sợ Chúa sẽ không thiếu thốn chi. Sư tử con không kiếm ra mồi chứ người kính sợ Chúa sẽ không hề đói, bởi vì Ngài hằng đoái nhìn kẻ công chính. Bằng đó mà thôi cũng đủ để cho chúng ta an tâm cho tương lai, cho ngày mai. Bởi vì, ngày mai và tương lai lại hệ tại ở lòng tin.

 

3. Đầy tớ vô dụng

Dụ ngôn chúng ta vừa nghe nói lên mối liên hệ giữa ông chủ và người đầy tớ, hay nói đúng hơn kẻ nô lệ của ông ta.

Thực vậy, nơi dân Do Thái vào thời Chúa Giêsu vẫn còn tồn tại chế độ nô lệ. Kẻ nô lệ bị coi như là một tài sản của ông chủ, khác với người làm công. Người làm công chỉ phục vụ cho ông chủ trong một số công việc và trong một số giờ giấc nào đó, ngoài ra anh ta là người tự do. Kẻ nô lệ sau những giờ giấc cực nhọc ở ngoài đồng ruộng, khi trở về nhà, không được phép nghĩ đến việc ăn uống nghỉ ngơi. Ông chủ cũng không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm hay hầu hạ để cám ơn. Kẻ nô lệ phải lập tức làm những công việc khác để phục vụ cho ông chủ, đến khi chủ không còn sai khiến điều gì nữa, thì kẻ nô lệ mới được nghỉ ngơi. Và không bao giờ ông chủ nghĩ đến việc cám ơn hay trả lương cho nô lệ của mình vì nô lệ là tài sản của chủ. Kẻ nô lệ được phép ăn uống, nhưng bị coi là phương tiện bảo vệ mạng sống và sức lực mà ông chủ cần đến.

Vậy đâu là ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắn gởi qua câu chuyện kể trên? Chúng ta không được phép vội vã kết án là Chúa Giêsu ủng hộ cho chế độ nô lệ, nhưng Ngài chỉ muốn dùng những hình ảnh sống động và cụ thể để dạy cho chúng ta thái độ phải có đối với Thiên Chúa. Đúng thế mục đích Ngài nhắm tới, đó là chống lại với giáo lý về công nghiệp của bọn biệt phái. Những người này chủ trương, tất cả những việc lành, việc thiện đều là công nghiệp trước mặt Thiên Chúa, để rồi Thiên Chúa phải tính công và trả ơn cho họ theo lẽ công bằng.

Hẳn chúng ta còn nhớ lời cầu nguyện của một người biệt phái trong đền thờ: Lạy Chúa, tôi đội ơn Ngài, vì tôi không phải như những người khác, gian tham, bất lương, ngoại tình hay là như tên thu thuế kia. Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần. Tôi nộp thuế thập phân về mọi thứ hoa lợi. Chính sự tính toán này, người Pharisêu đã biến Thiên Chúa thành một con nợ của mình.

Thế nhưng qua dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta thái độ khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa bởi vì tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân của Ngài hay như lời Ngài đã nói: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Như thế thì làm sao chúng ta có thể kể công trước mặt Thiên Chúa. Mọi cố gắng luân lý của chúng ta không có giá trị gì trước mặt Ngài. Mọi việc đạo đức chúng ta làm chỉ là bổn phận chúng ta phải chu toàn. Mọi hành động bác ái của chúng ta cũng không đủ để cảm tạ những ơn huệ của Ngài và của anh em đồng loại. Suốt cuộc đời chúng ta cũng chẳng đủ để cám ơn Ngài, thì làm gì gọi được là công lao. Cho dù chúng ta có trung thành với Ngài đến hơi thở cuối cùng thì chúng ta cũng vẫn phả kêu lên: Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô dụng, con chỉ làm việc bổn phận của con mà thôi.

Lẽ tất nhiên, Thiên Chúa không phải là một ông chủ hà khắc, nhưng Ngài là một người cha yêu thương, luôn chăm sóc và mong muốn cho chúng ta được mọi sự tốt đẹp, và chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ chịu thua trước tình yêu của chúng ta.

 

4. Khoảng cách – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau.

  1. Khoảng cách đời này

Người phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Lazarô rách nát tả tơi. Người phú hộ nhà cao cửa rộng, Lazarô lê lết bên cổng ăn xin. Người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Lazarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.

Hai con người ấy thật gần nhau trong khoảng cách, chỉ cách nhau có cái cổng, một cái cổng luôn khép kín như lòng người giàu có. Nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người.

Thánh Luca với ngòi bút sắc bén, linh hoạt, đầy thương cảm đã nói lên một nghịch lý cuộc đời. Đọc dụ ngôn ai cũng cảm thấy xót xa chua chát, xót xa cho người giàu và chua chát cùng kẻ nghèo. Khoảng cách giữa hai người thật xa vời vợi trong một lối so sánh đầy ấn tượng: người phú hộ sống trong nhung lụa, hưởng thụ mê say đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi xuống từ bàn ăn mà chẳng có, chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chóc. Phú hộ giàu có của cải nhưng lại nghèo nàn tình người. Lazarô nghèo khổ mà chẳng được xót thương. Cả hai đều nghèo tình thương, kẻ không ai thương, người không thương ai.

  1. Khoảng cách đời sau

Cái chết đến làm đổi thay tất cả. Cái chết đồng đều cho mọi người nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau. Một cuộc hoán đổi thật thú vị. Lazarô từng lê lết dưới chân bàn ăn được đưa lên mây trời, còn người ngồi nơi cao sang với mâm cao cỗ đầy bị đày xuống vực thẳm. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Một lần nữa, dụ ngôn mô tả khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Lazarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt.”

  1. Khoảng cách đời này và đời sau

Khoảng cách nơi cuộc sống trần gian sẽ được hoán đổi vị trí sau cái chết. Vậy phải chăng dụ ngôn muốn trình bày vấn nạn: hễ sung túc giàu có ở đời này thì bất hạnh cực hình ở đời sau? Hôm nay khốn khổ đói nghèo thì mai sau được hạnh phúc sung sướng? Có phải đó là lối an ủi ru ngũ, là thuốc phiện xoa dịu những người nghèo hãy chấp nhận, hãy an phận? Đời này cùng khốn, rách rưới thì đời sau sẽ hưởng phúc thiên đàng?

Chắc chắn Thánh Kinh không bao giờ trình bày như thế. Giàu có không phải là tội lỗi và nghèo khổ không là giấy thông hành vào Nước Trời. Trình thuật dụ ngôn rất ăn khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Luca thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo để khuyến cáo hay khích lệ tuỳ trường hợp. Dụ ngôn nằm trong chủ đề của chương 16 giáo huấn về việc sử dụng tiền bạc của cải làm sao để đạt tới ơn cứu độ.

Người phú hộ bị luận phạt hoả ngục không phải vì ông ta giàu có mà vì ông đã khép cửa khép lòng, sống dửng dưng, làm ngơ trước nổi khổ đau của người khác. Cái tội phú hộ mắc phạm là phớt lờ người nghèo, là “mackeno” (mặc kệ nó) trước sự cùng khốn của tha nhân. Phú hộ không la mắng chửi bới, không đuổi Lazarô ra khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van lơn. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.

Trong bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát đã tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho những kẻ giáu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết xót thương người khốn khổ. Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, người giàu có sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết đến tha nhân, khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này.

Lazarô không phải vì nghèo khổ mà được trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì biết chấp nhận số phận hẩm hiu và đặt niềm cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa. Danh xưng Lazarô theo Luca có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Người nghèo biết tin tưởng và phó thác, điều đó mới mang lại cho họ ơn phúc làm con tổ phụ Abraham, cha những kẻ tin.

Con người đi đến vong thân khi sống thiếu tình thương và thiếu tình người. Khi khép kín lòng mình với Thiên Chúa, chỉ bằng lòng với của cải trần gian mà quên đi cuộc sống vĩnh cữu; và khi khép kín lòng mình với tha nhân, mắt không xót thương, lòng không xúc động trước các nghịch cảnh thì chính họ ngày càng nghèo nàn tình thương. Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.

Chúa Giêsu đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo. Ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa, tất cả là anh em của nhau, là con cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời gọi sống Tin Mừng, sống liên đới với nhau và với người nghèo.

Lý tướng Kitô giáo không phải là yêu mến sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và sống liên đới với người nghèo. Vì vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để trở nên giống Ngài. Tông huấn Giáo Hội Á Châu dạy rằng: Người đời dễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính Kitô hữu biết sống giản dị theo gương Chúa Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống đức tin sâu xa và tình yêu không giả vờ đối với mọi người, nhất là người nghèo và bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động (GHAC số 34).

Vẫn còn quá nhiều người nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người Kitô hữu được mời gọi sống quãng đại, liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở rộng lòng cho yêu thương, cho chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày. Đừng sống hững hờ, cần rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh đời bất hạnh, biết quãng đại chia sẽ với những người thiếu thốn.

Lạy Chúa, xin mở mắt mở, mở tai vả mở trái tm con để con thấy, con nghe, con biết sẽ chia niềm vui nổi buồn, hạnh phúc đau khổ với hết mọi người. Amen.

 

5. Xin ban thêm lòng tin cho chúng con – Huệ Minh

“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5). Lời cầu xin đó của các tông đồ cho thấy đức tin không phải do cố gắng của con người mà đạt được, nhưng nó được xuất phát từ Thiên Chúa và do tình thương của Ngài. Vì vậy, Ngài trao ban cho ai tùy ý. Hệ quả chân thực của đức tin chính là lòng kiên trì, trung thành, can đảm và phó thác nơi Thiên Chúa (x. Mt 6, 25 -34).

Tin Mừng của phần phụng vụ Chúa Nhật tuần này là một phần của một đoạn Phúc Âm tiêu biểu và dài của Luca (Lc 9, 51 đến 19, 28), trong đó mô tả chuyến đi lên Giêrusalem chậm chạp của Chúa Giêsu, nơi Người sẽ bị trở thành tội nhân, bị kết án và chịu chết. Một phần lớn của đoạn Tin Mừng này là để hướng dẫn cho các môn đệ. Trang Tin Mừng của chúng ta là một phần của lời hướng dẫn ấy. Chúa Giêsu chỉ dạy cho các ông cách sống trong cộng đoàn (Lc 17, 1).

Để nói về đức tin, Chúa Giêsu dùng một kiểu nói của người Palestin, kiểu nói nghịch lý. Hạt cải là loại nhỏ nhất trong các loại hạt, nó chỉ bằng mũi đinh ghim. Cây dâu là cây đại cổ thụ sống tới 600 năm, rất khó bật rễ. Thế mà, Đức Giêsu bảo: “Chỉ cần có đức tin bằng hạt cải, có thể bảo cây dâu bật rễ mọc dưới biển”.

Chúa Giêsu trả lời: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển,’ nó liền vâng lời các con”. Câu nói này của Chúa Giêsu đặt ra câu hỏi: Có phải Chúa đang nói bóng gió rằng các thánh tông đồ không có đức tin lớn bằng hạt cải không? Sự so sánh của Chúa Giêsu thật là mạnh mẽ và bóng gió xa xôi. Hạt cải thì rất bé, nhỏ bé như sự tầm thường của các môn đệ. Nhưng với đức tin, các ông có thể trở nên mạnh mẽ, mạnh hơn núi rừng hoặc biển cả! Nếu là thời bây giờ, có lẽ Chúa Giêsu sẽ nói: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt nguyên tử, các con có thể san bằng ngọn núi này.”

Niềm tin đưa một người đi vào tương quan với Thiên Chúa; và như mọi mối tương quan bất kì, nó có khả năng làm thay đổi vị thế và quyền lực nơi người đó. Trong Cựu Ước những ai đi vào tương quan với một Đức Chúa hùng mạnh và thánh thiện vô song chắc chắn cũng được tham dự phần nào vào vinh quang thánh thiện đó. Môsê từ trên núi Sinai đi xuống với khuôn mặt sáng chói tới độ dân không dám ngước nhìn.

Sau khi Êlia được Đức Chúa đưa về trời trên cỗ xe bằng lửa, chỉ một chiếc áo choàng ông ném lại đã đủ để Êlisêu có quyền năng rẽ nước sông Gióc đan… Trong cái ngôn ngữ Cựu Ước đang rất phổ thông thời bấy giờ, hình như Đức Giêsu cũng muốn xác quyết cho các Tông Đồ rằng, nếu các ông có được một chút niềm tin như thế, các ông cũng sẽ nhận được một quyền năng nào đó mà Đức Chúa sẽ ban cho.

Chúa Giêsu đã đáp lại lời cầu xin của các tông đồ. Người không nói sẽ ban thêm lòng tin cho các ông. Người đáp trả bằng việc: khơi thêm lòng tin ấy. Người nói để các ông tin thêm nữa. Người bảo: Nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì dầu các ngươi có bảo cây dâu này: “Hãy bứng rễ này đi mà xuống mọc dưới biển”, nó cũng sẽ vâng lời các ngươi.

Chúng ta ngày nay gọi lòng tin như thế là lòng tin chuyển núi dời non. Nhưng có lẽ chúng ta chú trọng đến hiệu quả công việc mà không chú ý đến chính việc làm. Chúng ta chờ có thể sai bảo được núi non. Chúng ta muốn thấy cây dâu nghe lời chúng ta mà bứng rễ nó đi mà xuống mọc dưới đáy biển. Nhưng chúng ta lại ít muốn làm việc với lòng tin. Tôi thiển nghĩ ở đây Chúa muốn nói rằng chúng ta cứ lấy lòng tin mà làm việc đi thì rồi chúng ta sẽ thấy những kết quả lạ lùng. Chúng ta muốn có kết quả này trước khi thi hành việc Chúa truyền dạy, thế nên chúng ta chưa thấy Lời Chúa là chân lý và là sức mạnh.

Vậy Chúa muốn chúng ta có lòng tin mà làm việc, làm tất cả công việc mà phận sự đòi buộc. Và vì đa số chúng ta chẳng làm gì trong xã hội, huống nữa là ở trước mặt Chúa, nên Người đã nói thêm một hình ảnh. Người đầy tớ trong nhà làm việc thế nào? Anh ta làm hết công việc cày bừa ngoài đồng, rồi lại về làm các việc trong nhà. Anh không đòi được trả công tức khắc. Lòng tín nghĩa bảo anh làm hết mọi công việc đã phân chia cho anh. Mặc nhiên anh chắc chắn chủ sẽ thi hành phận sự của chủ.

Người có đức tin cũng phải như vậy. Họ sống đúng chức năng khi làm việc hết khả năng theo như phận sự đòi buộc; và dành quyền xét xử cho Thiên Chúa. Và làm như vậy, họ sẽ thực hiện được những điều lạ lùng. Họ đã phát huy hết khả năng của họ và nhìn lại họ thấy chính nỗ lực đã đạt được những kết quả phi thường. Ðang khi ấy có nhiều người phí sức sống không nỗ lực theo khả năng của mình và cứ ngồi than thân trách phận, kêu ca người khác và dĩ nhiên phàn nàn cả Thiên Chúa nữa. Hạng người này sẽ không bao giờ thấy khả năng “chuyển núi dời non”. Hạng người trên luôn thấy rõ lòng tin khiến họ làm được nhiều kỳ diệu.

Muốn nói cho hết, thiết nghĩ nên gợi đến nếp sống của một hạng người thứ ba. Họ làm việc, họ cố gắng, họ tưởng sức mình có thể dời núi chuyển non. Họ tin vào mình mà không tin vào Chúa. Các thành quả của họ đạt được chẳng là gì trong một lịch sử chung. Cuối cùng họ cũng chỉ thấy mất mát. Ðang khi công việc của người tín hữu, luôn đem lại bình yên thoải mái.

Nhờ đức tin, người tín hữu mở lòng ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức Giêsu và như thế họ được chính quyền năng của Người đến hỗ trợ. Cho dù đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó chỉ như một hạt cải, nếu nó thực sự là đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ làm cho họ tiến tới. Điều cần thiết là họ không khép lòng lại với Ngài, ít ra họ giơ bàn tay về phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ phải té ngã. Ngài sẽ nắm chắc bàn tay của họ và dẫn đưa họ tới đích

Như vậy lòng tin thật là cần thiết, không những trong các hoàn cảnh éo le như bài học thứ nhất gợi lên, mà ngay trong đời sống hằng ngày để làm mọi công việc theo chức năng và ơn gọi. Ðiều này khiến chúng ta thấy lời Phaolô nhắn nhủ chúng ta qua Timôthê rất thực tế. Đức tin giúp ta giải đáp những vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, nó cho ta thấy mọi sự trở thành có ý nghĩa, kể cả đau khổ và cái chết, nó cũng đem lại niềm mơ ước. Cuộc sống không có mơ ước, khác nào đêm tối không có trăng sao.

Cuộc sống cần hy vọng, ta cần có hy vọng, như cần thức ăn. Nhưng không thể có hy vọng nếu ta không có niềm tin. Niềm tin dẫn đến niềm vui. Phúc cho những ai khám phá ra niềm vui trong niềm tin. Niềm vui sướng mê li của lòng tin vào Thiên Chúa, sự ngất ngây hướng theo lời mời gọi và nắm chặt bàn tay của Chúa chìa ra khi nhắm mắt lìa đời.

Chỉ cần một đức tin nhỏ xíu, ta có thể làm được những việc lớn lao cả thể, con người không làm được, bởi ta được tham dự vào sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, ta hãy nhìn xem, chỉ một chút đức tin, bà Sara già nua 90 tuổi, bỗng sinh con hồng hào khỏe mạnh. Chỉ một chút đức tin, Đavít thắng Gôliát. Chỉ một chút đức tin, Maria một trinh nữ, sinh con.

Xin Chúa thêm ơn đức tin cho ta để ta luôn phó thác cuộc đời của ta trong bàn tay quan phòng của Chúa. Có đức tin, ta sẽ làm được tất cả những gì mà ta muốn bởi hiệu quả lòng tin của ta.

 

6. Đức tin

Nếu các con có được một đức tin bằng hạt cải.

Giả sử như chúng ta có được một cỗ máy thời gian đi ngược dòng lịch sử trở về trước một thế kỷ. Khi gặp gỡ những người của năm 1895 và đưa cho họ tờ nhật báo hôm nay, chắc hẳn tờ nhật báo ấy là một cái gì xa lạ và họ chẳng hiểu được bao nhiêu. Chỉ cần nêu ra một số từ ngữ, chẳng hạn như phi thuyền, siêu thị, chứng khoán, vi tính…

Nếu như họ hỏi: Truyền hình là gì? Hẳn chúng ta sẽ không ngần ngại trả lời đó là một chiếc máy giúp chúng ta nhìn thấy sự việc xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ, bên Tàu đúng lúc nó đang thực sự xảy ra ở những nơi ấy. Giả sử họ hỏi: Hoả tiễn hạch tâm tầm xa là gì? Hẳn chúng ta sẽ sẵn sàng trả lời đó là một trái đạn khổng lồ được bắn đi có thể tiêu diệt bất kỳ thành phố nào cách xa hàng ngàn cây số. Giả sử họ hỏi: đổ bộ mặt trăng là gì? Chúng ta sẽ mau mắn cắt nghĩa đó là việc con người dùng phi thuyền bay lên và đáp xuống mặt trăng.

Trước những câu trả lời này, dân chúng của thế kỷ trước sẽ nghĩ gì về chúng ta? Chắc hẳn họ sẽ cho chúng ta là những kẻ điên khùng, bởi vì một người tỉnh táo thời bấy giờ sẽ cho rằng chúng ta không thể ngồi ở Việt Nam mà lại biết được những việc đang xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ và bên Tàu. Và họ cũng cho rằng chúng ta không thể nào bay được như một con chim để lên tới mặt trăng. Câu chuyện khoa học giả tưởng trên cho chúng ta thấy: điều mà dân thế kỷ này cho là vô nghĩa và bất khả, thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện đương nhiên và bình thường. Điều mà dân thế kỳ này không bao giờ dám mơ ước thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện bình thường. Và bây giờ cùng với cỗ máy thời gian ấy, chúng ta đi vào tương lai, tới năm 3000. Trên những tờ báo lúc bấy giờ không còn đăng tải những tin tức về bạo lực, nghèo đói và chiến tranh, mà chỉ có tình yêu, sự thịnh vượng, hoà bình và thân hữu. Chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ thầm rằng một thế giới như vậy chỉ là chuyện mơ tưởng, không thực, bởi vì ở đâu có loài người thì ở đó có bạo lực, có hận thù, có bóc lột và giàu nghèo.

Thế nhưng, từ đó chúng ta đi tới một kết luận: Nếu chúng ta tin rằng hoà bình không thể có trên mặt đất, thì làm sao chúng ta thành công trong việc xây dựng nó. Nếu chúng ta cho rằng tự cõi lòng con người vốn ích kỷ, thì chắc hẳn chúng ta không thể tạo được một xã hội công bằng.

Tuy nhiên với đức tin, chúng ta phải nhìn nhận rằng có thể có bình an trên mặt đất, có tình yêu giữa con người và có sự hoà điệu giữa các dân tộc. Sở dĩ như vậy là vì Đức Kitô đã đến giữa chúng ta, dạy cho chúng ta cách sống, cách thực hiện những điều trên. Đây chính là sứ điệp Ngài muốn gởi gắm chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.

Nếu các ngươi có được một đức tin bằng hạt cải, các ngươi có thể chuyển núi dời sông. Nhờ đức tin mà chúng ta có được quyền năng của Thiên Chúa trong tầm tay của mình. Và với quyền năng ấy, không gì là không có thể, kể cả một thế giới không còn chiến tranh, hận thù và nghèo đói.

 

7. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con – Dã Quỳ

Đức Tin là ân huệ, là món quà quí giá Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Bí tích Rửa Tội. Món quà Đức Tin ấy đã được mở ra và cần được làm cho lớn lên từng ngày, như lời thánh Phaolô khuyên Timôthê “Hãy làm sống lại Ơn Huệ nhưng không Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha.”(2Tm 1,6) Vậy phải làm thế nào? Ngay từ khi theo Chúa, các môn đệ đã được nghe nhiều lời Chúa nhắn nhủ về những gian nan, thử thách mà tất cả những ai theo Chúa sẽ gặp. Và để có thể sống được những giới răn, những giáo lý của Chúa và theo Chúa đến cùng, chắc chắn các môn đệ cũng như tất cả chúng ta rất cần một đức tin vững mạnh.

Ý thức được những khó khăn trong cuộc sống và sứ mệnh, các môn đệ đã dâng lên Chúa lời cầu xin thật đẹp: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” Cuộc đời của mỗi Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Điều quan trọng là phải quay về cầu nguyện, xin Chúa ban thêm lòng tin, ân sủng để chúng ta có thể thực hiện được những đòi hỏi của Lời Chúa. Chúa biết rõ thân phận mỏng dòn, giới hạn của ta. Chúng ta như những kẻ nghèo nàn trước Chúa! Chân thành cầu xin Chúa ban cho ta thêm đức tin lớn bằng hạt cải và trợ giúp ta trong những lúc yếu lòng “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa giúp lòng tin yếu kém của con.”(x. Mc 9,24)

Trong đời sống thiêng liêng, đôi khi đức tin của ta sẽ bị thử thách. Ta cầu xin mà dường như chưa thấu đến tai Chúa, như lời phàn nàn của Ngôn sứ Khabacuc “Cho đến bao giờ, lạy Chúa, con kêu cầu mà Chúa chẳng đoái nghe?”(Kb 1,2) Những lúc ấy, chẳng phải là Chúa không nghe, nhưng là lúc Chúa dùng để tăng thêm lòng tin cho ta. Vì “Người công chính sẽ sống nhờ lòng trung tín của mình.”(Kb 2,4) Hãy kiên trì cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, tham dự các Bí tích, nhất là lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể-là Mầu Nhiệm Đức Tin, chúng ta sẽ được tăng thêm sức mạnh và đức tin của ta sẽ được nuôi dưỡng để lớn lên. Chính khi ta bền lòng, vững chí thể hiện lòng tin tưởng vào Chúa, gắn bó với Chúa, đức tin của chúng ta mới tăng trưởng và sinh hoa trái. Nếu không, chúng ta sẽ chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực, không sống đức tin và cũng không thể theo Chúa đến cùng.

Thật vậy, sống đức tin, đó là sống chứng nhân. Sống đức tin, đó là ta mạo hiểm, không sợ hãi trước những kỳ thị, những chế nhạo, chống đối,… nhất là trong đất nước của chúng ta, con số người Công Giáo chỉ có hơn 7% dân số. Sứ mệnh của chúng ta là đem Chúa vào cuộc đời, vào môi trường mình sống, mang ngọn lửa đức tin chiếu sáng thế gian. Chắc chắn Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta ơn khôn ngoan, sức mạnh, lòng nhiệt thành và những tư tưởng để ta có thể nói về Chúa cho mọi người. Vậy chúng ta hãy cầu xin với Chúa những ơn huệ ấy, và với Chúa Thánh Thần hướng dẫn, giúp sức, ta có thể can đảm dấn thân trong mọi hoàn cảnh.

Đức tin của người Kitô hữu qua mọi thời, từ thuở Giáo Hội sơ khai đến nay, và trong nhiều quốc gia, vẫn mãi phải chịu thử thách, bách hại nhiều cách. Những anh em Kitô hữu tại các nước vùng Trung Đông, Bắc Triều Tiên,Trung Quốc, Ấn Độ…và ngay tại Quê hương Việt Nam, đã và đang sống tử đạo hằng ngày và kéo dài. Anh chị em của chúng ta đang bị bắt bớ, áp bức, tra tấn, ngược đãi khủng khiếp, bị giết chết khi mang danh Kitô hữu và sống đạo! Thế nhưng, đức tin và lòng can trường của anh em chúng ta vẫn vững mạnh, vẫn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô cho dù cái chết gần kề. Anh chị em đã “Không hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, nhưng đã đồng lao cộng khổ để loan báo Tin Mừng.”(x. 2Tm 1,8)

Nhìn vào những tấm gương sống đức tin cách sống động và trung tín của biết bao anh chị em tại quê hương hay trên khắp thế giới, chúng ta tạ ơn Chúa và tiếp tục kiên trì cầu nguyện, xin Chúa ban cho ta lòng tin kiên vững. Chúng ta quyết chọn Chúa là Chúa và là Chủ của đời mình, để rồi trong địa vị là con, là tôi tớ, chúng ta hân hoan phụng sự Chúa. Tất cả những gì chúng ta phục vụ Chúa, đó là trách nhiệm, là bổn phận và hơn nữa là vì tình nghĩa con cái đối với Thiên Chúa. Vì sự sống, khả năng, tài trí, sức khỏe, điều kiện…ta có là do chính Chúa ban. Vậy ta hãy khiêm tốn như một đầy tớ nhỏ chỉ mong làm vui lòng Chủ.

Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ nhìn nhận mình như những “đầy tớ vô dụng”. Người cũng mong mỗi Kitô hữu chúng ta biết cởi bỏ và để “Cái Tôi” của mình sang bên cạnh. Đừng tìm kiếm sự công nhận hay chờ đợi sự biết ơn, chúc mừng và khen ngợi của người khác, nhất là khi chúng ta làm những công việc phục vụ Chúa và tha nhân. Chúng ta là tôi tớ thì luôn phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa. Tất cả thuộc về Người và chúng ta cần thi hành sứ mạng một cách tốt nhất có thể, trong đức tin và trong niềm xác tín rằng Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta vô biên, và những gì chúng ta làm cho Chúa sẽ mang chiều kích vĩnh cửu.

Trong Nước Trời, chính Chúa sẽ là Chủ nhà phục vụ: “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.”(Lc 12,37) Vậy chúng ta hãy sống như những đầy tớ trung tín, tỉnh thức và khiêm nhường. Vì trước Chúa, ta chỉ có đôi bàn tay trắng, ta không có quyền đòi cho mình có giá trị. Thế nên, đừng làm vinh danh mình về những công trình này, cơ sở nọ hay Nhà thờ kia trước mặt Thiên Chúa, cũng đừng tự cao tự đại, khoe khoang về những tổ chức lễ lạc hay công việc bác ái… Vì những gì ta làm được không phải tự sức riêng hay vật chất ta có, mà là do công sức và của cải tinh thần, vật chất của bao tấm lòng quảng đại góp lại, và ta đã chỉ làm theo lệnh của Chúa. Uớc gì mỗi Kitô hữu hãy biết nhiệt thành sống đức tin trong phục vụ và khiêm tốn thân thưa với Chúa: “Chúng con là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” Chúng ta không bao giờ thực hiện đủ và cũng không thể hoàn tất việc phục vụ Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con. Xin giúp chúng con luôn biết dấn thân làm chứng cho Chúa và sống đức tin cách can trường trong mọi hoàn cảnh. Xin dạy chúng con biết phục vụ Chúa và tha nhân cách vô vị lợi mà không mong chờ phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng chúng con đang thi hành Ý Chúa. Amen.

 

8. Đức tin và những điều kỳ diệu

(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Đức tin có một sức mạnh thật kỳ diệu. Các tác giả Tin Mừng đã chứng minh với chúng ta điều đó. Đối với những ai đến với Chúa và tín thác nơi Ngài, họ nhận được những ơn lạ lùng vượt xa sự mong đợi.

Một người bất toại đã lâu năm, nay chỉ mong có thể cử động đi lại. Khi gặp gỡ Chúa và được Người chữa bệnh, ông đã trở nên khỏe mạnh, không chỉ đi lại được như mọi người, mà ông còn vác chõng mà đi, trước sự kinh ngạc của mọi người (x. Mc 2,3-12). Một người mù từ bẩm sinh, chỉ ước mong con mắt mình sáng để được nhìn thấy mọi người và mọi vật xung quanh. Khi được Chúa chữa, anh không chỉ sáng con mắt thể xác, mà còn sáng cả con mắt tâm hồn. Anh được Ngài soi lòng mở trí để hiều biết những điều cao siêu. Những suy tư về sự thánh thiện và tội lỗi của người mù vừa được chữa lành, xem ra còn khôn ngoan hơn cả những người biệt phái và luật sĩ (x. Ga 9,1-41). Một người què, đi lại khó khăn, chỉ mong được bước đi như những người khác. Nhờ tác động và quyền năng của Chúa, thông qua trung gian của hai vị tông đồ là Phêrô và Gioan, không những anh có thể đi lại được, anh còn “vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa”. Tác giả sách Công vụ Tông đồ trình bày anh giống như một vũ công, múa nhảy ca hát để tỏ bày niềm vui trước những điều lạ lùng Thiên Chúa vừa thực hiện (x. Cv 3,1-10). Một phụ nữ tội lỗi cả thành đều biết tiếng, qua cuộc gặp gỡ với vị ngôn sứ có tên là Giêsu, chị đã sám hối ăn năn và trở nên con người mới. Không chỉ được hội nhập vào xã hội, chị còn trở nên một nữ tông đồ năng động nhiệt thành và là người đầu tiên loan báo Chúa đã phục sinh (x. Lc 8,2).

Đức tin có thể mang lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Những điều kỳ diệu ấy đến từ quyền năng của Chúa. Ngài là chủ vũ trụ, là nguyên lý của mọi nguyên lý. Quyền năng của Chúa bao trùm vũ trụ và cuộc sống con người. Trong xã hội văn minh hiện đại, con người lầm tưởng rằng họ có thể thay thế Thiên Chúa. Ý tưởng điên rồ này đã phải gánh lấy thất bại đắng cay. Một khi gạt bỏ Thiên Chúa khỏi cuộc sống, điều còn lại sẽ là bạo lực, hận thù và tội ác.

Những điều kỳ diệu của đức tin cũng đến từ nỗ lực cố gắng của con người. Đức Giêsu đã nói đến hiệu quả của đức tin: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia’, thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được” (Mt 17,20). Hạt cải thật nhỏ bé và núi đồi lớn lao. Đó là hai hình ảnh tương phản nhau. Sự tương phản ấy càng làm nổi bật sức mạnh của đức tin. Tác giả thư Do Thái đã nhắc đến gương mẫu đức tin của các Tổ phụ và những nhân vật của lịch sử dân tộc, đã nhờ đức tin mà họ vượt lên biết bao gian nan thử thách để trung thành với Chúa và thực hiện tốt đẹp những sứ vụ Chúa trao (x. Dt 11). Họ là những người đã cộng tác với Chúa, nỗ lực làm cho đức tin sinh hoa kết trái nơi cuộc đời của họ cũng như nơi tha nhân. Nếu được liệt kê vào danh sách những gương mẫu đức tin trong thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta sẽ nói đến các thánh tử đạo Việt Nam. Đức tin là bí quyết đem lại cho các ngài sức mạnh. Các ngài là những người thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau: từ những quan lại trong triều đình đến những nông dân chân lấm tay bùn; từ những người giàu có đến những người nghèo nàn cơ khổ. Tất cả đều tìm được nguồn sức mạnh đến từ đức tin vào Chúa, thà hy sinh mọi sự còn hơn là mất ơn nghĩa với Chúa. Họ chấp nhận đánh đổi tất cả để được sự sống đời đời. Sức mạnh của đức tin kỳ diệu là thế.

Sức mạnh của đức tin còn thể hiện qua sự gắn bó của người tín hữu đối với Giáo Hội. Giáo Hội là bí tích phổ quát của ơn cứu độ. Giáo Hội là chiếc thuyền chuyên chở các tín hữu đến gặp gỡ Chúa, đồng thời cũng chuyên chở Chúa đến gặp Dân của Ngài. Lịch sử hai ngàn năm đã chứng minh sức mạnh của Giáo Hội. Mặc dù thời nào cũng có những tội lỗi và gương xấu, con thuyền Giáo Hội không vì thế mà bị nhấn chìm, vì Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng đức tin, được diễn tả qua hình ảnh tảng đá góc là chính Đức Giêsu. Hãy chiêm ngắm một khung cảnh phụng vụ sẽ thấy sức mạnh của đức tin thật kỳ diệu: những cụ ông cụ bà, những em bé thiếu nhi, những người trưởng thành… tất cả đều toát lên niềm vui khôn tả, khi họ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được tâm sự với Ngài. Mặc dù cuộc đời vẫn còn lắm truân chuyên, nhưng những giây phút tĩnh lặng ấy giúp họ gột bỏ bụi trần, tìm được niềm vui vì có Chúa. Chính đức tin nói với họ về sự hiện diện nhiệm màu của Chúa, đồng thời thúc đẩy họ đến với Chúa để được trang bị thêm sức mạnh và ý chí vươn lên.

Trong cuộc sống hôm nay, xung quanh chúng ta những điều kỳ diệu vẫn đang xảy đến. Biết bao người đến với Chúa đã nhận được sự an ủi đỡ nâng thể xác cũng như tinh thần. Có thể khi đến với Chúa, người què vẫn chưa tự mình đi được, người mù vẫn chưa thể thấy được, người liệt chưa thể tự mình trỗi dậy, nhưng chắc chắn một điều, khi đến với Chúa với đức tin và niềm phó thác, họ đã nhận được nghị lực và niềm vui rất lạ lùng, để họ vươn lên, vượt qua khó khăn, đón nhận thực tại, lạc quan và yêu đời hơn, vì họ tin chắc chắn rằng có Chúa cùng đi với họ trong cuộc đời này. Có thể họ bị thiệt thòi về một điểm nào đó, nhưng Chúa lại bù cho họ những khả năng phi thường ở một lãnh vực khác. Đức tin vẫn đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu là thế.

Người tín hữu còn có sứ mạng đem những điều kỳ diệu của đức tin cho anh chị em đồng loại. Hình ảnh những nữ tu dấn thân hy sinh phục vụ người phong cùi hay những trẻ mồ côi, hình ảnh những tín hữu nhiệt thành bất chấp mọi ngờ vực để đến với người nghèo, người nhiễm HIV, hình ảnh các linh mục đến với người dân tộc thiểu số hay những nơi vùng sâu vùng xa để đem ánh sáng Tin Mừng cho những anh chị em vừa nghèo về vật chất vừa nghèo về tình người. Những thực hành bác ái này là những điểm sáng trong đời sống đức tin, đồng thời thể hiện sứ mạng cao cả của người tín hữu, đó là đến với con người để mang cho họ niềm vui và góp phần củng cố đức tin nơi họ. Thiên Chúa đang qua chúng ta để ban phúc lành cho nhân thế. Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên những cánh tay nối dài của Người, để làm những việc chính Người đã làm cho con người đương thời tại xứ Palêtin. Chính qua chúng ta mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện những điều kỳ diệu.

Chúng ta đang cùng chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa thể hiện qua một trẻ thơ vừa chào đời. Hài nhi nằm trong máng cỏ lại là chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng mọi sự từ ban đầu của lịch sử, nay trở nên người phàm để sống cùng, sống với và sống cho chúng ta. Hai ngàn năm đã qua, biến cố Máng cỏ Bêlem và mầu nhiệm Thập giá đồi Canvê vẫn gửi đến chúng ta những sứ điệp quan trọng. Đó là sứ điệp của tình Chúa tình người. Tình Chúa sẽ biển đổi đời ta nên cao thượng. Tình người sẽ giúp ta tìm thấy niềm vui, bởi khi cho đi là ta được nhận lãnh.

Một tác giả là Robert Schuller viết: “Việc bạn hiện hữu trên cuộc đời đã là một quà tặng lớn lao của Thiên Chúa”. Ý thức mình là điều kỳ diệu của Chúa, mỗi chúng ta cần làm cho ánh sáng và vinh quang của Chúa thể hiện nơi cuộc đời mình. Có những điều kỳ diệu được xây nền trên những điều rất bình dị của đời thường. Các thánh là những người đã nỗ lực cố gắng để nên thánh khởi đi từ những điều rất đơn giản của cuộc sống. Một người nông dân, một người ít học, một người sống trong cảnh đạm bạc thanh bần, một người cha người mẹ âm thầm nuôi dạy con cái… tất cả đều có thể làm tỏa sáng vinh quang của Chúa và làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc sống thân yêu của chúng ta.

 

9. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Ðề: Đức tin và Phục vụ

“Hãy bật rễ đi” (Lc 17, 6)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Chúng ta vẫn nói rằng mình là tín hữu, nghĩa là người có đức tin. Nhưng thực ra đức tin của chúng ta còn rất yếu, và chúng ta chưa thực sự sống đức tin của mình.

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy thưa với Chúa như các tông đồ xưa “Thưa Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.

  1. Gợi ý sám hối

Chúng ta giao động không muốn tin nữa khi gặp phải những khó khăn trong đời sống.

Chúng ta chưa thể hiện đức tin mình ra bằng một cách sống siêu nhiên phó thác nơi Chúa quan phòng.

Chúng ta không khiêm tốn phục vụ mọi người như một người tôi tớ.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Kb 1, 2-3; 2, 2-4)

Ngôn sứ Kha-ba-cúc than thở với Chúa về những cảnh bất công cứ tồn tại và những người ác cứ nhởn nhơ. Đáp lại, Thiên Chúa bảo ông hãy giữ vững lòng tin và đừng nản lòng, vì khi đến thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính.

  1. Đáp ca (Tv 94)

Tiếp nối tư tưởng của đoạn sách trên, Thánh vịnh 94 kêu gọi đừng khép kín cõi lòng, nhưng hãy biết lắng nghe tiếng Chúa để biết được ý định của Ngài trong những lúc gian truân thử thách.

  1. Tin Mừng (Lc 17, 5-10)

Đoạn Tin Mừng này gồm 2 giáo huấn của Chúa Giêsu: a/ Về sức mạnh của Đức tin; b/ Về việc phục vụ cách khiêm tốn.

  1. Đức tin: Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin của mình. Nếu có lòng tin thì sẽ làm được nhiều điều phi thường.
  2. Phục vụ: Chúa Giêsu dạy muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác ta đều là bổn phận.
  3. Bài đọc II (2 Tm 1, 6-8. 13-14)

Thánh Phaolô kêu gọi Timôtêô đừng ngả lòng trước những khó khăn mục vụ, trái lại hãy củng cố đức tin bằng cách khơi dậy đặc sủng của Thánh Thần mà Timôtêô đã nhận được khi được đặt tay trao sứ mạng, và hãy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa để tiếp tục nhiệm vụ mình.

  1. Gợi ý giảng

* 1. Đức tin – phục vụ

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca ghi lại 2 điều Chúa Giêsu căn dặn những kẻ muốn làm môn đệ Ngài.

  1. Điều thứ nhất là về đức tin: Câu chuyện khởi đầu với lời xin của các tông đồ “Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con”. Ta hãy chú ý họ là các tông đồ chứ không phải chỉ là môn đệ thường. Họ đã từng sống với Chúa Giêsu một thời gian dài, nghe biết bao điều Ngài giảng dạy, thấy biết bao điều Ngài làm. Họ là thành phần ưu tú được chọn riêng ra trong số 72 môn đệ. Thế mà họ vẫn cảm thấy mình thiếu đức tin.

Các tông đồ mà còn cảm thấy thiếu đức tin, thì huống chi chúng ta! Nhiều khi chúng ta quỳ chầu trước Thánh Thể mà hình như không tin có Chúa đang ngự trong Nhà tạm. Nhiều khi chúng ta rước lễ mà hình như không tin có Chúa đang thực sự ở trong lòng ta. Và nhiều khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hình như không tin lời Chúa dạy “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”. Mặc dù chúng ta đã học giáo lý nhiều, đã đọc Thánh Kinh nhiều, nhưng tại sao chúng ta không vững đức tin? Như thế đủ biết Đức tin không phải là kết quả của học hỏi, của kiến thức. Đức tin chính là một ơn ban. Tại sao rất nhiều bậc thông thái không có đức tin, còn chúng ta không thông thái gì, thế mà có đức tin. Rõ ràng vì Chúa thương chúng ta nên ban đức tin cho chúng ta. Và chính vì đức tin là một ơn ban, cho nên chúng ta phải xin như các tông đồ ngày xưa: “Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.

Đức tin không phải là kết quả của học hỏi và của kiến thức. Ngược lại nhiều khi càng học biết nhiều thì càng khó mà tin. Tại sao thế? Thưa tại vì trong đức tin luôn có một phần mờ tối, khi ta tin thì luôn có một phần mạo hiểm. Nếu tất cả đều sáng tỏ hết rồi ta mới tin thì đấy không phải là đức tin. Nếu tất cả đều chắc chắn rồi ta mới dấn thân thỉ đấy cũng không phải là một hành vi đức tin. Đức tin luôn có phần mờ tối, tin luôn đòi ta mạo hiểm dấn thân. Nhưng nói thế không phải là chúng ta tin cách mù quáng, trái lại chính vì chúng ta yêu. Xin lấy một thí dụ trong đời thường: ở một vùng kinh tế mới nọ, có một thanh niên và một thiếu nữ quen nhau. Mỗi người họ đến từ một miền khác nhau. Quen nhau một thời gian rồi họ yêu nhau. Và một hôm người thanh niên ngõ lời xin cưới cô gái. Cô gái ưng thuận ngay. Người thanh niên mới hỏi: Em không biết gốc gác của anh, không biết gia đình anh, em không sợ bị anh gạt hay sao mà dám giao phó cuộc đời cho anh? Cô gái đáp: không. Anh chàng hỏi thêm: Tại sao? Và cô gái trả lời rất gọn: vì em yêu anh.

Người con gái ấy vì yêu nên đã tin người thanh niên nọ. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta yêu Chúa thì chúng ta mới tin Chúa được, yêu càng nhiều thì tin càng mạnh. Cho nên ngoài việc xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng yêu mến cho chúng ta.

  1. Điều thứ hai Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là: người môn đệ Chúa phải biết phục vụ, và phục vụ cách vô vụ lợi. Giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày, sau khi đã chăn chiên rồi về nhà còn phải dọn cơm cho chủ, đứng đó hầu hạ chủ, rồi dọn dẹp. Xong xuôi hết thì nói “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”. Nhiều chuyên viên Thánh Kinh nói rằng dịch chữ vô dụng không được đúng lắm. Ý nghĩa của nó là “Tôi chỉ là một người đầy tớ mà thôi, không hơn không kém”. Người đầy tớ thì đương nhiên phải phục vụ, phục vụ là bổn phận của người đầy tớ. Cho nên dù có phục vụ nhiều thì cũng không có gì là công lao để đòi chủ biết ơn.

Khi Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ để làm bài học cho các môn đệ, Ngài muốn nhắc chúng ta rằng làm môn đệ, làm tông đồ chính là làm đầy tớ. Bởi thế Đức giáo Hoàng xưng mình là “Đầy tớ của các đầy tớ”.

Có một điểm rất sâu sắc về từ ngữ: trong Thánh Kinh, chữ “phục vụ” vừa chỉ việc làm của một người đầy tớ đối với chủ, vừa chỉ việc làm của người tín hữu phụng thờ Chúa. Tế lễ là phục vụ Chúa. Như thế, khi chúng ta phục vụ người ta thì cũng có nghĩa là chúng ta đang phụng thờ Chúa. Và nếu như suốt ngày chúng ta lo phục vụ anh em thì điều đó có nghĩa trọn ngày hôm đó của chúng ta là một Thánh lễ nối dài.

* 2. Chiếc bình trống rỗng

Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.

Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi”.

Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi:

– Ông có nghe họ ca tụng ông không?

– Có.

– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế?

Vị Rabbi than phiền:

– Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi?

***

Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.

Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các Tông đồ: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17, 10). Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là “đầy tớ của các đầy tớ Chúa”. Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận “mến Chúa yêu người”, có ai đám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.

Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.

Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.

Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là “đầy tớ vô dụng”, thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xoá mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.

***

Lạy Chúa, có một ân huệ nào chúng con đã nhận lãnh mà không phải do Chúa thương ban, có một điều thiện nào chúng con thực hiện mà chẳng do Chúa tác thành.

Xin tiếp tục đổ đầy vào tâm hồn nhỏû bé, yếu đuối và bất toàn của chúng con những điều tốt lành mà Chúa đã khởi sự cho chúng con. Amen. (Thiên Phúc)

* 3. Phục vụ trong tình yêu

Nhiều người xem Chúa như một ông chủ thuê người làm việc và con người là những người được thuê ấy. Bởi thế, sau khi làm được một việc gì, họ nghĩ rằng Chúa phải ban ơn cho họ, như một cách trả tiền công.

Suy nghĩ trên hoàn toàn sai. Và rất may là suy nghĩ đó sai, bởi vì nếu Chúa thực sự đối xử với ta như một ông chủ đối xử với người làm thì chắc chúng ta chẳng nhận được bao nhiêu từ tay Ngài, bởi vì công lao của chúng ta chẳng có là bao.

Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta biết rằng tương quan của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta là tương quan ân sủng và tình yêu, bởi vì Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Con cái làm việc theo ý Cha đâu phải để được Cha trả lương; và Cha ban gì cho con đâu phải vì trả nợ.

Vả lại Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và ban rất nhiều ơn cho chúng ta trước khi chúng ta làm được việc gì xứng đáng với tình yêu của Ngài. Thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân. Vì thế tất cả những gì chúng ta làm bây giờ chỉ là để đáp lại tình yêu của Ngài.

Còn nữa, chúng ta tuân giữ những điều răn của Chúa không phải để được Ngài yêu thương, nhưng chúng ta tuân giữ các điều răn Chúa bởi vì Ngài yêu thương chúng ta.

Toàn bộ Tin Mừng của Chúa Giêsu có thể được diễn tả thế này: Chúa nhân từ kêu gọi các môn đệ hãy phục vụ Ngài vì tình yêu chứ không phải vì bổn phận. Vì vậy, chỉ đức tin thôi chưa đủ, còn phải có tình yêu nữa. Trong khi đức tin khiến cho mọi sự trở thành có thể, thì tình yêu khiến cho mọi sự trở thành dễ dàng. (FM)

  1. Chuyện minh họa

a/ Đức tin lớn lao

Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:

– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?

– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.

b/ Tin người đáng tin

Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên:

– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?

– Phải đó bà.

Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:

– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?

– Phải đó bà.

Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà hỏi:

– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?

– Phải, thưa bà.

Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế!

c/ Phục vụ là hạnh phúc

Tại văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể: chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc”. Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).

  1. Mảnh suy tư

Đức tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa: vì một cuộc đời không có niềm tin cũng giống như một đêm tối không ánh sao.

Đức tin ban cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng: vì chúng ta cần hy vọng cũng như cuộc sống cần lương thực. Nhưng muốn hy vọng thì phải có đức tin, và đức tin sẽ mang đến niềm vui.

Nhưng chúng ta đừng mong rằng đức tin sẽ soi tỏ hết mọi vấn đề, bởi vì đức tin là trông cậy chứ không phải là sự hiển nhiên chắc chắn.

Đức tin không phải là một sự vật mà là một mối tương quan, tương quan với Chúa.

Người ta không nhận được đức tin trọn vẹn trong ngày rửa tội, nhưng phải nuôi lớn đức tin hằng ngày.

Đức tin lớn dần lên qua việc tập sống đức tin.

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, đức tin là món quà vô giá Chúa ban tặng cho mỗi người chúng ta. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Tình yêu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Đức Thánh Cha có sứ mạng củng cố đức tin của toàn thể dân thánh Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ân cần săn sóc giữ gìn người / để nhờ người / đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắt son.
  2. Tin là gắn bó với Chúa / là dấn thân theo Người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / nhất là các Kitô hữu trẻ / dám xả thân vì Chúa và vì anh em / hầu mang sứ điệp yêu thương đến cho biết bao người chưa nhận biết Chúa.
  3. Ngày nay / một số thanh niên đánh mất niềm tin của mình vì vốn liếng giáo lý còn quá ít / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết tận dụng thời giờ Chúa ban / để học hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhờ đó đức tin của họ ngày càng trưởng thành và vững chắc hơn.
  4. Tin còn là vâng theo thánh ý Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết noi gương Đức Mẹ / vâng theo thánh ý Chúa trong đời sống đức tin thường ngày.

Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con phải luôn tin tưởng vào Chúa giữa muôn vàn thử thách của cuộc đời, nhưng do bản tính yếu đuối, chúng con dễ buồn chán và thất vọng khi gặp khó khăn. Vậy xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con. Chúng con cầu xin:

  1. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta không phải là đầy tớ của Chúa, mà là con của Ngài. Vậy chúng ta hãy hân hoan trìu mến cùng dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha.

VII. Giải tán

Trong Thánh lễ hôm nay, Chúa đã nhắc chúng ta rằng Ngài là Cha của chúng ta và tha nhân là anh em của chúng ta. Vậy trong tuần này chúng ta hãy sống với Thiên Chúa trong tin yêu như con cái đối với Cha, và hãy phục vụ tha nhân như anh em phục vụ nhau.

 

10. Làm điều phải làm

Suy Niệm

Người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên suốt ngày. Khi chiều về, anh còn phải lo cơm nước cho chủ. Anh chỉ được ăn uống nghỉ ngơi khi chủ đã ăn xong. Đó là chuyện hết sức bình thường và tự nhiên đối với một người làm công được ông chủ mướn. Chủ không cần phải tỏ lòng biết ơn anh đầy tớ vì anh đã vâng phục mọi lệnh truyền của ông.

Chúng ta có thể là một Kitô hữu đạo đức, có thể đã vất vả nhọc nhằn phụng sự Chúa suốt đời. Nhưng Thiên Chúa không phải chịu ơn hay mắc nợ chúng ta, và chúng ta không có quyền đòi Ngài phải trả công cho xứng. Đơn giản chúng ta là tôi tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm điều phải làm.

Khó biết chừng nào khi làm được nhiều điều tốt đẹp mà vẫn giữ tấm lòng khiêm nhu.

Những việc đạo đức chúng ta làm có thể khiến chúng ta tự mãn trước Thiên Chúa. Đó là sa ngã của một số người Pharisêu và đó vẫn là cám dỗ thường xuyên của chúng ta.

Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện, mà thực ra là khoe công trạng của mình (x. Lc 18,9-14).

Công trạng, công đức, công nghiệp có thể thành vật cản khiến tôi chỉ thấy sự thánh thiện của tôi mà không thấy, cũng chẳng cần tình thương của Chúa.

Việc tốt tôi làm có thể làm tôi tự tôn trước anh em.

Người anh cả chỉ thấy những năm dài phục vụ cha, không khi nào trái lệnh, nên anh chẳng muốn đón nhận người em út.

Làm thế nào để chúng ta thật sự khiêm hạ trước Thiên Chúa, trước tha nhân và trước cả lòng mình.

Nhận mình chỉ là đầy tớ bình thường, không gì nổi bật, mình chỉ cố làm tròn bổn phận được giao.

Có nhiều bổn phận ta phải chu toàn.

Bổn phận của một thụ tạo trước Thiên Chúa Chí Thánh.

Bổn phận là con cái của Cha trên trời.

Bổn phận là môn đệ trung tín của Đức Kitô.

Bổn phận là anh em của mọi người.

Yêu mến, phụng sự, tôn kính, ca ngợi Thiên Chúa: đó là điều ta chẳng dám tự hào mình đã vuông tròn.

Giả như ta có làm được điều gì sáng danh Chúa thì cũng là nhờ ơn Chúa đỡ nâng.

Cả một ước muốn tốt lành nơi ta cũng đến từ Chúa.

Thiên đàng không phải là sự trả công của Thiên Chúa. Ngài không ký hợp đồng với người sống đạo đức để rồi Ngài buộc phải cho họ thiên đàng.

Thiên đàng là một quà tặng bất ngờ, ngỡ ngàng, không do công của tôi, nhưng do lòng tốt của Thiên Chúa.

Thiên đàng hạnh phúc vì tôi được gần Chúa hơn bao giờ.

Chúng ta không chọn Chúa để được thiên đàng.

Chúng ta mong thiên đàng để được gần Chúa.

Gợi Ý Chia S

Theo ý bạn, dám hy sinh hạnh phúc đời này để được hạnh phúc đời sau, đó có phải là một tính toán vụ lợi không? Con người có quyền tìm cho mình hạnh phúc thực sự không?

Con người khao khát hạnh phúc thực sự và lâu bền. Bạn nghĩ mình có thể tìm được hạnh phúc đó ở đâu? Ở thiên đàng có thứ hạnh phúc đó không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hàng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

 

11. Tin Tưởng Vào Chúa – An Phong

Ngôn sứ Kha-ba-cúc thốt lên lời than thở như một người gặp hoạn nạn mà không được Thiên Chúa đoái nhìn: “Lạy Chúa, đến bao giờ con kêu cứu mà Chúa chẳng đoái nghe: con kêu la trước cảnh hung tàn mà Chúa không cứu vớt?”

Và Thiên Chúa, qua miệng ngôn sứ Kha-ba-cúc đã trả lời: “Kẻ nào không có tâm hồn ngay thẳng thì ngã gục; còn người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình”.

Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng vậy, các ngài thấy mình bơ vơ, yếu đuối và cầu xin: “Thưa Thầy, xin cho chúng con được thêm lòng Tin”. Chúa Giêsu nhắc nhủ các ông cứ kiên tâm thi thành những điều Người truyền dạy, không phải để đổi chác, để đòi lấy công lênh của mình, nhưng như người đầy tớ trung tín, tận tâm thi hành những điều thuộc trách vụ của mình.

Nhìn lại chính mình, chúng ta cũng nhận thấy đời mình chẳng thiếu những khó khăn, cũng bao lần đầy đau khổ; và có lẽ cũng không ít lần chúng ta phàn nàn kêu trách Thiên Chúa.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhủ: “Nếu anh em có đức Tin lớn bằng hạt cải thôi…”. Nếu chúng ta nhận ra đức Tin của mình, đức Tin chỉ bằng hạt cải thôi, chúng ta có thể làm được mọi sự; nếu chúng ta tín trung với Niềm Tin của một người đầy tớ “làm việc bổn phận mình”, thì Thiên Chúa sẽ chẳng “thua” lòng trung tín của chúng ta.

Thiên Chúa không ban cho chúng ta một “kho Đức Tin” để dành ở đó, để khoe mẽ hay để trang trí mà thôi. Nếu chúng ta biết khởi sự sống niềm Tin bằng hạt cải, Người sẽ làm tăng trưởng Niềm Tin trong ta; nếu chúng ta biết thể hiện Niềm Tin của mình trong việc bổn phận thường ngày, thì dù là không xứng đáng… “chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12,37).

Lạy Chúa Giêsu,

Chẳng có chi của chúng con xứng đáng dâng cho Chúa, nhưng Chúa lại sẵn sàng đón nhận tất cả.

Chẳng có chi trong chúng con có thể “chứa đựng” được Chúa; nhưng Chúa lại ban đầy tràn, khởi sự từ một “Đức Tin bằng hạt cải” của chúng con.

Chẳng có chi do chúng con, để được phép đòi công lênh, nhưng Chúa đã vui lòng ban tặng cho chúng con chính “Thịt và Máu” Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mãi mãi là người tôi tớ tín trung của Chúa.

 

12. Bổn phận – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chúng ta biết rằng đức tin không là một mớ kiến thức trong tâm trí mà là đức tin sống động trong việc làm. Đức tin sống với cả con người trong niềm tin, suy tưởng, lời nói và hành động. Truyện kể: Một nhà truyền giáo tới Phi Châu giảng đạo. Ngài muốn chuyển dịch phúc âm thánh Gioan sang thổ ngữ địa phương. Ngài gặp nhiều khó khăn vì ngôn từ rất giới hạn, khó tìm được những chữ thích hợp ý nghĩa từ tiếng Anh. Thí dụ: chữ ‘to believe”. Không có ngôn từ nào trong thổ ngữ địa phương phỏng dịch chính xác. Ngài đến hỏi một trong những người dân làng xin giúp đỡ. Khi ngài giải thích những khó khăn, ông ta trả lời theo sự hiểu biết của ông ‘to bebieve – tin’ nên dịch là ‘to listen with the heart- lắng nghe với trái tim’.

Một số người nghĩ rằng họ đang làm ơn cho Chúa khi họ giữ các giới răn và thờ phượng Chúa. Chúng ta phục vụ thờ phượng Thiên Chúa là một đặc ân. Tiên tri Khabacúc than phiền với Chúa về sự bị đối xử bất công. Ông kêu van: Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao? (Kb 1, 2). Ai cầu xin cũng muốn được nhậm lời. Tiên tri đối diện nhiều khó khăn và chịu nhiều đắng cay, ông cầu xin Chúa mau đáp lời và giải thoát. Ông kêu cầu Chúa và muốn rằng Chúa phải thực hành trá oán cho những bất công ngay. Chúa hứa với ông là sự công chính sẽ được vãn hòa và sửa phạt công minh. Người làm ác sẽ bị oán phạt: Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín (Kb 2, 4).

Trong đời sống đạo, đôi khi chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta một số điều. Chúng ta là những người rất chân thành thực thi các giới răn, tham dự đầy đủ các nghi lễ, tụ nhóm cầu nguyện hằng tuần và chu toàn mọi điều luật dạy. Chúng ta nghĩ rằng Chúa phải ban phần thưởng. Có người tưởng nghĩ rằng Chúa như ông chủ, chúng ta là những người làm công. Làm xong việc là phải trả lương sòng phẳng. Chúng ta thường quan niệm giữ đạo và thực hành đạo để được an tâm và lãnh phần phúc. Thái độ phục vụ Thiên Chúa bị giảm bớt coi như một khế ước trao đổi. Phần thưởng trên nước trời là công lao chúng ta phục vụ dưới thế. Sự phục vụ như thế sẽ mất đi ý nghĩa tinh ròng. Thực ra việc làm của chúng ta chẳng có công lênh gì trước mặt Chúa. Phần thưởng ngày sau hoàn toàn là hồng ân Chúa ban. Chúng ta cũng chỉ là người đầy tớ phục vụ Chúa trong tin yêu.

Có lần nghe có vị đại diện tôn giáo bạn thuyết pháp rằng các tín đồ không nên tin thờ Thượng đế hay chúa bà nào cả, không có thần thánh, không có niềm tin và mọi sự do chính con người phấn đấu và tu luyện mà thành. Không lệ thuộc vào thế giới thần thánh vì mọi quyền lực ở trong tay con người. Vị thuyết pháp đặt vấn đề: Nếu tin có sự hiện diện của Thiên Chúa quyền năng, vậy bây giờ tôi sẽ cầu xin Chúa hãy làm cây xoài sinh ra trái khế. Nếu Chúa không làm được, vậy là không có Thiên Chúa. Cách lý luận nghe cũng lạ lạ. Thách thức Thiên Chúa qua lời cầu nguyện thể theo ý mình. Về vấn đề niềm tin, Chúa Giêsu đi xa hơn: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con (Lc 17, 6).

Chúng ta tin vào Kinh Thánh mạc khải và tin vào Đấng Trung Gian được sai đến. Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha và đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm về Thiên Chúa Ba Ngôi và chương trình cứu độ nhân loại. Tất cả những điều mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính là nguồn mạch và cốt lõi của đạo. Tìm đọc lại từng chi tiết trong Kinh Tin, chúng ta sẽ thấy sự quan phòng của Thiên Chúa cách đặc biệt cho sự sống con người. Con người là chi mà Chúa để ý chăm nom. Con người được tạo nên giống hình ảnh của Thiên Chúa nên cũng được mời tham dự vào sự sống đời đời. Chúng ta hãy lắng nghe và thực hành tin mừng của Chúa. Vì Lời Chúa là lời hằng sống ban cho chúng ta sự sống đời đời. Tất cả là hồng ân.

Đức tin là nhân đức đối thần. Tin là lần bước trong đêm tối của sự phó thác. Tin như tổ phụ Abraham, ông tuyệt đối tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Tin là thái độ không nghi ngờ, không cần lý luận và không đòi hỏi phải hiểu thấu. Nếu mọi sự nhãn tiền trước mắt, chúng ta không cần phải có đức tin. Trong đời sống tôn giáo, niềm tin là cột trụ và là tâm điểm của mọi sinh hoạt sống đạo. Tiên tri Khahabúc kêu cầu Chúa trong sự mong mỏi đợi chờ. Hầu như Chúa vẫn lặng im nhưng ông luôn đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Sống đức tin là biết sống phó thác mọi sự trong tay Chúa.

Con người là loài thụ tạo giống như chiếc bình gốm mỏng dòn dễ bể. Người thợ gốm muốn nắn nên hình thể nào mặc ý, bình gốm không có quyền đòi hỏi. Bình gốm được trưng bày trang trí mỹ thuật là một hạnh phúc tuyệt vời. Con người cũng thế, được hiện hữu là một ơn trọng. Tất cả những gì chúng ta làm chẳng thêm gì cho Chúa nhưng mang lại lợi ích cho chính chúng ta. Chúa Giêsu nói: Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: ‘Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm’ (Lc 17, 10). Nhận ra chân giá trị của đời sống để chúng ta tôn thờ Chúa cho phải đạo.

Truyện kể: Có một bà cụ già trải qua thời gian rất nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Bà bồn chồn lo lắng vì chưa bao giờ xảy đến với bà như thế. Trong thất vọng, bà chạy đến với một vị linh mục xin lời khuyên. Bà hy vọng vị linh mục sẽ lý luận để chứng minh cho bà là Thiên Chúa hằng sống và tốt lành. Bà rất ngạc nhiên rằng linh mục chẳng nói gì về vấn đề này. Lời khuyên rất đơn sơ và xem ra không ăn nhập gì cả. Linh mục nói với bà hãy ra đi và thực hành những nghĩa cử yêu thương, tử tế và cảm thông với những người bà gặp trong đời, mọi sự sẽ tốt đẹp. Bà thực hành lời khuyên và thời gian trôi qua, tất cả những nghi ngờ về Thiên Chúa hoàn toàn biến mất.

Thánh Phaolô là tông đồ nhiệt thành luôn khuyến khích mọi người liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô. Kêu gọi sống kiên tâm và vững mạnh trong ơn nghĩa của Chúa. Phaolô phó dâng hoàn toàn cuộc đời trong Chúa. Những thơ viết cho cá nhân hay các giáo đoàn luôn là những lời khuyên răn, khích lệ và hướng dẫn sống đạo: Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần khí nhát sợ, mà là thần khí dũng mạnh, bác ái và tiết độ (2Tm 1, 7). Phaolô say mê trong việc rao truyền Chúa Kitô phục sinh và mọi sự đều qui hướng về Đức Kitô. Đến nỗi ngài đã phải thốt lên rằng tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi. Ngài tiếp tục khuyên răn môn đệ luôn sống trong sự thật của đức ái: Con hãy lấy những lời lành lẽ phải, con đã nghe cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Đức Giêsu Kitô (2Tm 1, 13).

Lạy Chúa, chúng con chỉ là đầy tớ vô dụng. Tất cả cuộc sống đều nhờ bởi ơn Chúa. Xin Chúa đừng để chúng chìm đắm trong sự hão danh và háo thắng. Mọi công trình vĩ đại thuộc tinh thần cũng như vật chất đều qui hướng để làm sáng danh Chúa hơn nữa. Xin Chúa chúc lành cho mọi công việc bổn phận hằng ngày của chúng con. Amen.

 

13. Phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Với trí tưởng tượng phong phú kết hợp với tài nghệ văn chương tuyệt vời, nhà văn Đan-mạch Hans Christian Andersen đã dựng nên một nhân vật rất độc đáo là “Chiếc bóng.”

Ai cũng có chiếc bóng đi theo mình. Chiếc bóng hoàn toàn lệ thuộc chủ: khi chủ đi, bóng đi theo, khi chủ chạy, bóng chạy; khi chủ dừng, bóng dừng; chủ đi đâu, bóng theo đến đó.

Vậy mà nhân vật “Chiếc Bóng” trong chuyện của Andersen lại tách ra khỏi người chủ của mình vốn là một nhà khoa học, để trở thành một nhân vật độc lập, đòi sống riêng không lệ thuộc chủ, rồi dần dà y dám gọi mày xưng tao với ch… Một thời gian sau, y lên mặt sai khiến cả chủ của mình, và thật trớ trêu, y tự tôn mình lên làm chủ và bắt chủ phải làm “chiếc bóng” của y và cuối cùng, y lập kế tống giam chủ mình vào ngục và sát hại người chủ ngay trong tù.

Tương quan giữa con người với Thiên Chúa cũng như bóng với hình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên loài người và mọi người hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa, nhờ Chúa con người mới tồn tại được. Chúa là Chủ, con người là tôi tớ. Chúa là Hình, con người là bóng. Vậy mà nực cười thay, một số người lại làm như nhân vật “Chiếc Bóng” trong tác phẩm của Andersen. Họ đòi quyền làm chủ và bắt Thiên Chúa lệ thuộc họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những đòi hỏi của họ mà không nghĩ rằng họ phải đáp ứng những đòi hỏi của Thiên Chúa trước đã.

Chẳng hạn khi yếu đau, người ta yêu cầu Chúa chữa họ cho lành. Khi túng thiếu, người ta đòi hỏi Chúa cho no đủ. Khi gặp thất bại trong cuộc đời, người ta yêu cầu Chúa đem lại sự thành công!… Nếu Chúa không mau mắn làm theo yêu cầu, người ta sẽ trách móc Chúa, oán ghét Chúa, loại trừ Chúa ra khỏi đời mình!

Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu chính đáng của họ, nhưng không phải vì thế mà con người có quyền đòi Thiên Chúa phải luôn luôn phục vụ mình mà quên rằng mình là người tôi tớ của Thiên Chúa nên phải lo phụng sự và thực hiện ý Chúa trước đã.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn đưa chúng ta trở về lại đúng vị trí của mình, vị trí của người tôi tớ và nhiệm vụ của người tôi tớ là lo phục dịch hầu hạ chủ mình mà không được kể lể công lao.

Chúa nói: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi”, chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?

Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

Hai vị tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa

Một trong những nét đẹp của Mẹ Maria là Mẹ biết nhìn nhận mình là tôi tớ Thiên Chúa nên sẵn sàng vâng lệnh Chúa truyền. Khi được sứ thần Gáp-ri-en cho biết Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ một sứ mạng thật cao cả nhưng cũng đầy khó khăn, Mẹ sẵn sàng vâng phục vì ý thức mình chỉ là tớ nữ hèn mọn của Thiên Chúa. Mẹ thưa với sứ thần: “Nầy tôi là tớ nữ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Chúa truyền.” Vì thế, Mẹ làm đẹp lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa nâng lên địa vị tối cao.

Ngay cả Chúa Giêsu, “vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,… Người lại còn hạ mình vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự…” (Philip 2, 6-8)

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa là Thiên Chúa quyền năng mà còn hạ mình làm tôi tớ, vâng phục Chúa Cha trong mọi sự cho dù phải chết trên thập giá và Đức Maria là hiền mẫu của Chúa, dù được diễm phúc làm Mẹ của Chúa, mà vẫn sẵn sàng phụng sự Thiên Chúa Cha như nữ tỳ khiêm tốn, thì xin cho chúng con là người phàm hèn mọn, luôn biết nhìn nhận mình chỉ là tôi tớ thấp hèn của Thiên Chúa và hết lòng phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi.

 

14. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc

Cha Jacques Loeuw, trong một bài giảng đã nói một câu làm mọi người sửng sốt: “Có thể bạn là một vị khổ tu, bạn cũng có thể là người “không có Chúa”. Một linh mục khác cũng nói: “Có những người công giáo vô thần và có nhiều người không giữ đạo mà lại tin Chúa”.

Điều nầy là một sự thật. Tại sao thế?

Vì nhiều người công giáo chỉ giữ một thứ đạo “ngoài da”, một thứ đạo không hồn: đọc kinh, dự lễ, xưng tội, chịu lễ, nhưng cuộc sống hoàn toàn không có Chúa. Nhìn vào cuộc sống của họ, người ta chỉ thấy tiền bạc, mua sắm, tranh giành, nói xấu…Như thế có thể nói là có đức tin không?

Tin không phải chỉ là chấp nhận một số giáo điều, làm một số việc, mà nhìn nhận sự có mặt của một người trong đời mình, đó là Chúa Giêsu, Đấng Tuyệt Đối, nắm trọn quyền trên tôi và tôi hoàn toàn thuộc về Ngài, vô điều kiện.

Tin là trao phó tất cả cuộc đời cho Thiên Chúa để Ngài dẫn dắt, và chúng ta chỉ vâng nghe. Nhưng trước hết, tin là lãnh nhận một hồng ân nhưng không Chúa trao ban. Con người có thể tìm thấy Chúa nhờ trí khôn của mình, thánh Phaolô đã nói như thế, nhưng tin vẫn là một hồng ân. Các Tông đồ đã xin Chúa thêm lòng tin, nhưng Chúa không nói đến lời yêu cầu của các ông mà bảo: “Nếu anh em có niềm tin lớn bằng hột cải thôi, thì dù anh em có bảo cây dâu nầy xuống biển, nó cũng vâng lời anh em”. Thế nghĩa là sao?

Hạt cải ở xứ Do thái là một thứ hột li ti. Chúa muốn nói rằng, chúng ta chỉ cần tin thôi, nghĩa là chấp nhận để Chúa làm tất cả. Cây dâu kia vâng lời chúng ta, nhưng thực sự nó vâng lời Chúa chứ không phải chúng ta. Chính Chúa bảo nó xuống mọc dưới biển qua lòng tin của chúng ta chứ không do quyền năng của chúng ta.

Khi chúng ta trao trọn mọi sự trong tay Chúa, chính Chúa sẽ sử dụng chúng ta để làm công việc của Ngài.

Trong lịch sử Giáo Hội, các thánh đã làm những việc vĩ đại, nhưng cá nhân của các ngài chỉ là những con người như chúng ta thôi. Họ đã làm được vì họ đã tin.

Thánh Phanxicô Assisi, với hai bàn tay trắng, với một cái áo dính da, đã lập ra dòng Anh Em Hèn Mọn, và từ hơn mười thế kỷ nay, những anh em hèn mọn ấy đã mang lại biết bao nhiêu kết quả tốt đẹp cho Giáo Hội và cho các linh hồn. Ngài đã chuyển núi dời non, với hai bàn tay trắng.

Đức Mẹ đã hiểu điều đó khi Ngài nói: “Chúa đã làm cho tôi những điều trọng đại” chứ không phải tôi. Chúa đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Ngài”. Đức tin bằng hạt cải là như thế, là cảm thấy mình nhỏ bé trong tay quyền năng của Chúa, trao phó cho Chúa tất cả và để Chúa sử dụng theo ý Ngài.

Không có gì đơn sơ hơn, nhưng cũng không có gì khó hơn.

Nói như thế không phải là thụ động, mà đem tất cả sức lực, khả năng làm những việc Chúa muốn. Kết quả không do nỗ lực của chúng ta mà do Chúa: “Vì không có gì mà Tiên Chúa không làm được”.

Con người thường tự hào về những thành công của mình. Họ nghĩ rằng họ thông minh. Họ không biết rằng chỉ cần một gân máu nhỏ bị đứt trong não, là mọi sự tiêu tan. Thánh Phaolô nhìn nhận: “ Tôi không xứng đáng được gọi là Tông đồ vì tôi đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”. Nơi khác ngài nói: “Tôi trồng, Apôlô tưới và Chúa cho mọc lên”.Tất cả là do quyền năng của Chúa.

Còn tôi, tôi có tin không? Đức tin của tôi có tầm vóc của một hạt cải chưa? Vì chúng ta không tin, chúng ta không thể chuyển núi dời non như Chúa nói, chúng ta chưa làm được gì.

Chuyển núi dời non cũng còn dễ, hoán cãi một tâm hồn càng khó hơn. Chúng ta đã làm được gì? Chúng ta đừng ngạc nhiên, vì chính chúng ta cũng chưa tin Chúa đủ, chưa yêu mến Chúa.

Chúa Giêsu lại nói đến người đầy tớ. Tên đầy tớ chính là chúng ta. Chúa đặt chúng ta vào cuộc sống nầy, không phải để rong chơi, hưởng thụ, nhưng để xây dựng hạnh phúc cho chúng ta và cho anh em.

Hạnh phúc từ đâu đến? Hạnh phúc không có sẵn như một món hàng chỉ cần có tiền là mua được. Hạnh phúc là một công trình phải xây dựng từng ngày, từng lúc. Xây dựng bằng gì? Không phải bằng gạch đá hay cẩm thạch, nhưng bằng vâng phục.

Vâng phục như một đầy tớ vâng phục chủ mình. Nhiều người cho như vậy là mất phẩm giá, là lệ thuộc. Trong thực tế, cuộc sống chúng ta vẫn là một lệ thuộc liên lỉ. Chúng ta phải tuân theo luật của sự sống, phải thở, phải ăn…Đó chẳng phải là một lệ thuộc sao? Ông Frédéric Nietzsche, một triết gia vô thần đã nói: “Các anh, người công giáo, như những con lạc đà, quỳ gối xuống để người ta chất lên lưng những gánh nặng và lê lết suốt đời dưới gánh nặng đó”. Ông ấy đã sai lầm. Cuộc sống vẫn là một gánh nặng rồi.Chúng ta không thể né tránh. Hơn nữa, còn một gánh nặng khác ghê gớm hơn là gánh nặng của đam mê, của nết xấu và tội lỗi. Vâng lời Chúa, chúng ta mới có thể chiến thắng tội lỗi và những đam mê xấu xa,bẻ gãy xiềng xích của gian ác, chúng ta mới thực sự tự do.Bao lâu con người còn tội lỗi và gian ác, con người vẫn còn nô lệ.

Chúa Giêsu đã đến giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Chúng ta chỉ được tự do khi chúng ta đi theo Ngài, vâng theo Ngài tôi, và nếu chúng ta có làm được gì, thì cũng nhờ Ngài mà thôi. Chúng ta chỉ là “những đầy tớ vô dụng”; “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì”.

Thánh Phaolô đã kiệt lực vì Nước Trời, phục vụ Tin Mừng cho đến chết, nhưng cuối cùng ngài nhìn nhận: “Tôi có là gì là nhờ ơn Chúa mà thôi” và chúng ta cũng có thể thêm: “Vì tôi chỉ là đầy tớ vô dụng thôi”.

Càng ý thức mình nhỏ hèn Chúa mới sử dụng chúng ta để làm những việc trọng đại nơi “ những đầy tớ vô dụng” đó: “Nếu Chúa kông xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổn công”.

Vì thế, chúng ta mãi mãi là những “đầy tớ vô dụng”. Hãy làm những gì chúng ta phải làm với tất cả tình yêu và phó thác cho Chúa, Ngài sẽ biến mọi cố gắng của chúng ta thành hồng ân.

Chúa Giêsu, Đấng làm được mọi sự, sẽ đến với chúng ta qua tấm bánh Tình Yêu của Ngài. Hãy ăn lấy Ngài với tất cả yêu thương và trao trọn cho Ngài cuộc sống nhỏ hèn của chúng ta, để Ngài dùng chúng ta “chuyển núi dời non”, để hoán cải bao nhiêu tâm hồn đang còn quá xa lạ với Ngài. Chúng ta sẽ thấy cuộc đời chúng ta tươi sáng, mặc dù khó khăn vẫn còn và không thiếu. Hãy là những đầy tớ vô dụng nhưng tràn trề phó thác và tình yêu.

 

15. Nếu các con có lòng tin

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Khi nghe giáo huấn của Chúa Giêsu về điều kiện điều kiện để vào Nước Trời, các Tông đồ cảm thầy mình bất xứng. Xót thương cho thân phận bất toàn của chính mình, các ông thấy cần phải có ơn phù trợ đến từ Thiên Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời, nên đã kêu lên: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con!”(Lc 17,5).

Bài Tin Mừng Chúa Nhật này bắt đầu bằng lời van xin các tông đồ với Chúa Giêsu là xin ban thêm lòng tin. Thay vì thỏa mãn lòng ao ước của các ông, Chúa Giêsu xem ra muốn làm đức tin lớn mạnh hơn, nên Ngài nói: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải…”

Đức tin là chủ đề nổi bật của Chúa Nhật này, Chúng ta cũng nghe về đức tin trong bài đọc thứ nhất, trong hàng danh tiếng của Khabacúc, được Thánh Phaolo lấy lại trong thơ gởi tín hữu Roma: “Người công chính sẽ nhờ đức tin mà được sống” (1,17).

Các môn đệ hiểu rằng lời dạy của Thầy Giêsu không phải là tư tưởng mới, nhưng kêu gọi họ hoán cái tận căn, từ bỏ hoàn toàn để theo Đấng mà họ gọi là “Chúa” và là “Thầy”. Đức Giêsu khẳng định rằng nếu có đức tin, họ sẽ tìm được câu trả lời. Vì thế, khi đối diện với lời van xin của họ là gia tăng về số lượng, Ngài liền phán rằng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con”.

Đức tin không hành động theo trật tự lô gích của thế giới này. Đức tin hành động các tổng quát bất ngờ và không thể dự kiến trước được, như: “Gió muốn thổi đâu thì thổi: ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy”. (Ga 3, 8). Theo nguyên lý sự sống: “Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là thần khí.” (Ga 3, 6). Thế nên, đức tin đặt chúng ta vào trong tương quan trực tiếp với Thiên Chúa và cho phép chúng làm điều tưởng chừng như không thể.

Tiếp theo Đức Giêsu trình bày cho chúng ta một dụ rất thường ngày, có tính so sánh trong tương quan giữa chủ nhà và đầy tớ, đúng hơn giữa ông chủ với nô lệ của ông. Người nô lệ chu toàn bổn phận thường ngày đúng như ông chủ mong đợi như: cày bừa hay là chăm sóc đàn vật. Khi về đến nhà, ông chủ lại gọi người đầy tớ vào hầu bàn ăn, từ ‘hầu hạ’ bắt nguồn từ chữ “phó tế” trong sách Công vụ Tông đồ, ám chỉ tích đặc thù của việc bồi bàn là bằng lòng phục vụ vì đức ái.

Ông chủ được phục vụ nhưng lại không mang ơn người đầy tớ; đây là việc đầy tớ phải làm, không có đòi hỏi khắt khe, nặng nề gì cả, anh đã làm việc suốt cả ngày, nhưng là nhiệm vụ của anh, đó là sứ mệnh được ông chủ trao cho với tất cả sự tín nhiệm, ngay cả con trai ông. Khi hoàn thành nhiệm vụ, người đầy tớ được được cất nhắc lên, nhưng không biết lý do tại sao. Giống như kẻ có đức tin bằng một hạt cải có thể chuyển núi, rời non cũng không hiểu tại sao.

Từ những lời dạy trên, Đức Giêsu muốn người kitô hữu chúng ta cố gắng chu toàn bổn phận, từ việc nhỏ nhất, để có thể thay đổi tình trạng hiện hữu của chúng ta, điều này thật là cần thiết. Chúng ta tham dự bàn tiệc Lời Chúa hay Thánh Thể, để tái khám phá ra trong đức tin, mình không phải là “quân nô lệ, mọi người vẫn còn sợ; Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ hãi như xưa; nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: “Ápba! Cha ơi!” Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau

khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8, 15-17) ).

Qui chiếu về khổ đau có thể làm chúng ta lo sợ; nhưng đức tin giúp chúng ta không bị chi phối bởi những thất bại của thế gian này; vì “người công chính sẽ sống nhờ trung tín” (Hab 2, 4)), nghĩa là đức tin chịu thử thách. Đúng là để có thể cầm cự tốt cho đến thời đã ấn định, như Thánh Phaolô mời gọi Timôthê người con yêu quý của ngài “Con thân mến, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha” (2 Tim 1, 6-8). Đức tin là tham dự vào “sức mạnh của Thiên Chúa” trong Thánh Thần của tình yêu và lý trí, làm cho chúng ta trở nên người phục vụ, đầy tớ đức ái, nghĩa là tôi tớ của Tin Mừng, mà chúng ta được “ủy thác” như thánh Phaolô kêu gọi chúng ta.

Trong khi đợi chờ sự can thiệp cuối cùng của Thiên Chúa và ngày trở lại trong vinh quang của Chúa Kitô, vẫn còn hạt giống của niềm tin cho phép chúng ta tuyên xưng rằng Chúa đến là điều chắc chắn như lời Ngài hứa: “Người sẽ thực hiện, không chỉ với thời gian ấn định. Chắc chắn giờ sẽ đến”. Chúa không cho chúng ta biết ngày giờ khi ánh sáng Phục Sinh xua tan bóng tối Thứ Sáu Tuần Thánh, mở rộng màn che sự chết trên trái đất của chúng ta (Mt 25, 13). Đó là lý do tại sao chúng ta tiếp tục cuộc hành trình trên thế gian này, trong tin tưởng và hy vọng vào lời Chúa hứa.

Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con và ban Thánh Thần tình yêu xuống đầy lòng chúng con, để chúng con có sức nhổ tận gốc tất cả những ngờ vực và sống bằng lòng trung thành của chúng con. Amen.

 

16. Hãy bật rễ lên

Suy Niệm

Cây dâu là một loại cây tương đối lớn ở đất Israel, nó có bộ rễ rất to và khỏe. Còn hạt cải là thứ hạt nhỏ xíu như đầu kim. Đức Giêsu dùng một hình ảnh rất sinh động để nói lên sức mạnh của lòng tin: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, anh em có thể ra lệnh cho cây dâu bật rễ lên, mọc dưới biển, nó sẽ vâng lời anh em.”

Để làm bật rễ một cây dâu thật to, chỉ cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một thứ đức tin vững vàng mạnh mẽ.

Có nhiều thứ bám rễ trong đời tôi: những khuynh hướng xấu, những thói quen do môi trường, lối nhìn, lối nghĩ, lối đánh giá tha nhân, lối sống đạo theo thói quen, hình thức… Rễ chằng chịt khiến tôi khó gỡ ra để ném tất cả xuống lòng biển.

Chỉ khi có lòng tin vào quyền năng Thiên Chúa, tôi mới có thể gỡ mình khỏi những ràng buộc, mới làm được những điều tưởng như không sao làm nổi.

Với lòng tin đơn sơ, kiên vững, các ngư phủ đầu tiên của Hội Thánh chẳng những đã chuyển được núi, dời được non, mà còn làm chuyển rung cả thế giới.

“Xin thêm lòng tin cho chúng con”:

Lời nài xin của các tông đồ cũng là của chúng ta, những người có đức tin nhỏ hơn hạt cải.

Tin là nghe theo lời Chúa, bước ra khỏi thuyền, đi trên sóng gió và tin mặt nước sẽ cứng như đá.

Tin như thế là dấn thân, là buông mình trọn vẹn, là thắng vượt được nỗi sợ và lý luận tự nhiên.

Tin là thái độ can đảm của người trưởng thành, chứ không phải là thái độ dựa dẫm của người ấu trĩ.

Người có lòng tin thì làm được những việc lớn lao, vì người đó đón lấy sức mạnh của Thiên Chúa và để cho sức mạnh ấy tự do hoạt động nơi mình.

Thế giới hôm nay có vẻ từ chối niềm tin, thật ra nó đang tìm kiếm một niềm tin nào đó.

Có biết bao giáo phái đủ loại xuất hiện khắp nơi.

Một số thanh niên Nhật tìm lẽ sống nơi giáo chủ Asahara.

Khi thanh niên Singapore có nhà, có xe và thẻ tín dụng, thì họ lại thấy thiếu một cái gì đó rất sâu.

Con người còn khắc khoải hoài cho đến khi gặp được Đấng Tuyệt Đối.

Chúng ta xin Chúa ban thêm lòng tin cho ta, để cuộc sống của ta bừng tỏa ánh sáng cho những người đang tìm kiếm Chân Lý cứu độ.

Gợi Ý Chia Sẻ

Ngày nay, nhiều bạn trẻ đánh mất niềm tin vào cuộc sống và không thấy cuộc sống có ý nghĩa. Theo bạn, đâu là những nguyên nhân dẫn đến thái độ chán nản trên đây?

Có những bạn trẻ không tin vào Thiên Chúa, nhưng lại tin vào những nỗ lực của mình. Họ cố xây dựng cuộc đời bằng đôi tay và khối óc. Bạn nghĩ gì về họ? Đức Tin có giúp gì cho bạn không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô Hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ sát đau thương của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.

 

17. Suy niệm của Lm Đaminh Trần Đình Nhi

Chúa Giêsu mời gọi ta tin vào Người. Trước lời mời gọi này, nhiều người Do-thái và các nhà lãnh đạo của họ từ chối không nhìn nhận Chúa Giêsu cũng như sứ mệnh cứu thế của Người. Trái lại, các môn đệ và Kitô hữu thì khẩn cầu Người: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” Lời cầu xin của các môn đệ và lời giải thích của Chúa Giêsu giúp ta hiểu được những chiều kích khác biệt của đức tin. Tại sao ta xin Chúa thêm lòng tin cho ta? Đâu là sức mạnh của lòng tin? Ngoài ra, Chúa Giêsu dùng tỉ dụ người đầy tớ làm việc bổn phận để làm sáng tỏ ý nghĩa nào về lòng tin của ta?

  1. a) Lòng tin là một ân huệ Chúa ban

Giáo lý Công giáo gọi đức tin là nhân đức đối thần, nghĩa là chính Thiên Chúa mới là đối tượng của lòng tin. Đức tin không khởi đầu từ nơi ta, nghĩa là không phải tự ta muốn tin vào Chúa mà là Chúa muốn ta hãy tin vào Người. Nhưng tại sao Người muốn ta phải tin vào Người? Bởi vì Người có tất cả những đặc tính để ta có thể nhìn nhận Người là Đấng nào, phó thác mọi sự trong tay uy quyền của Người và nhất là có thể lãnh nhận tình yêu Người dành cho ta. Tất cả những đặc tính ấy làm cho Người trở nên đối tượng lòng tin của ta. Người đã tỏ mình cho ta biết về Người, đó là một ân huệ cho ta và là khởi đầu cho một mối quan hệ Người muốn thiết lập giữa Người với ta. Vì thế, đức tin có hai phía: về phần Chúa, Người là Đấng “trung thành” trong giao ước Người thiết lập với ta; về phần ta, ta có bổn phận phải đáp lại lòng trung thành của Người. Người muốn đưa ta tới cùng đích của đời ta là được cứu rỗi và sống bên Người mãi mãi.

Đức tin có lịch sử của nó, lịch sử gắn liền với lịch sử của một dân tộc. Ông Áp-ra-ham, cha các kẻ tin, đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm tổ phụ dân tộc Do-thái vì ông “đã tin vào Thiên Chúa” (St 15,6). Người gọi ông thi hành sứ mệnh dẫn đầu một dân tộc để chuẩn bị cho toàn thể nhân loại đón nhận ơn cứu rỗi. Ông là gương mẫu sống đức tin. Cả cuộc đời ông là luôn tín thác vào Thiên Chúa là Đấng trung thành và toàn năng (Dt 11,11; Rm 4,21). Mà tin vào Thiên Chúa tức là vâng lời Người và thi hành những điều Người dạy. Tiếp đến, ông Mô-sê và các ngôn sứ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để hướng dẫn dân Chúa luôn biết tin vào Người và kế hoạch cứu độ Người sẽ thực hiện qua dân Do-thái. Thăng trầm của lịch sử đức tin phản ảnh qua lịch sử dân Do-thái. Tuy nhiên cuối cùng, theo thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, lịch sử đức tin vẫn diễn tiến theo “kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,9-10). Đức tin đạt tới mức hoàn hảo nơi Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đã lên đường đi Giê-ru-sa-lem mà “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2,7t) để dẫn đưa đức tin của ta đến mức toàn thiện (Dt 12,2).

Như vậy, đối với một cá nhân hay đối với một dân tộc, lịch sử đức tin là một diễn tiến quy chiếu về Chúa Kitô và đưa ta đến kết hiệp với Người để nhờ Người, với Người ta đến với Thiên Chúa Cha.

  1. b) Sức mạnh của lòng tin

Các môn đệ xin Chúa Giêsu thêm lòng tin cho các ông. Hoặc nói khác đi, các ông xin Chúa giúp cho các ông tin vào Người mỗi ngày một hơn. Lập tức Chúa nói đến hiệu quả của lòng tin ấy. Dĩ nhiên, Chúa không có ý nói đến những phép lạ bề ngoài của lòng tin là những điều họ đã chứng kiến và nhờ đó họ được tăng thêm niềm tin vào Người. Nhưng Chúa muốn nhắm tới những phép lạ xảy ra trong tâm hồn mỗi người môn đệ theo Người. Người hứa: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em.” Người muốn nói đến những cây dâu của tính hư nết xấu đã mọc rễ sâu trong tâm hồn ta từ bao năm, đúng như Người đã khuyến khích ta khi gọi ta làm môn đệ: “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.” Chúa Giêsu bảo ta hãy để cho lòng tin vào Người tỏa ra sức mạnh tiêu diệt con người tội lỗi của ta, nhờ đó ta được biến cải thành mẫu người vâng lời và phục vụ giống như Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.

  1. c) Phục vụ trong khiêm tốn

Đức tin luôn ràng buộc với sứ mệnh. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh cứu thế với đức tin hoàn hảo, tin vào tình yêu của Chúa Cha. Trước khi chết, Người chỉ nói: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30). Một câu nói ngắn gọn, nhưng chứa đựng biết bao tâm tình. Tâm tình cảm tạ Thiên Chúa Cha. Tâm tình biểu lộ lòng vâng phục. Và tâm tình khiêm tốn, không kể công hoặc khoe khoang. Sở dĩ Chúa Giêsu có được những tâm tình ấy là vì suốt cuộc sống trên trần gian, tâm niệm của Người chỉ là thi hành thánh ý Chúa Cha hoặc tin vào Thiên Chúa Cha mà thôi. Cho nên hôm nay Người dạy ta cùng một bài học ấy: “Đối với anh em cũng vậy. Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

Tỷ dụ người đầy tớ chu toàn bổn phận cũng cho ta thấy rõ hơn khía cạnh ân huệ của lòng tin. Ta có được lòng tin vào Chúa, đó là ân huệ Chúa ban nhưng không. Mà Chúa đã dạy: ta nhận được nhưng không thì cũng hãy cho nhưng không. Nhận lấy và cho đi là năng động của đức tin được thể hiện trong đời sống phục vụ của người môn đệ, y hệt như Chúa Giêsu đã lấy tất cả những gì Chúa Cha ban cho Người mà ban lại cho các môn đệ Người, kể cả sự sống của chính Người. Một đức tin như thế mới đích thực là đức tin sinh động, chứ không phải đức tin chết (Gc 2,17).

  1. d) Suy nghĩ và cầu nguyện

“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” là lời cầu nguyện hằng ngày của tôi, hay chỉ là lời kêu cứu khi tôi gặp khó khăn hoạn nạn? Lời cầu nguyện ấy có đồng nghĩa với lời cầu xin cho tôi “được biết Chúa Giêsu rõ ràng hơn, yêu mến Người nồng nàn hơn và theo Người mỗi ngày một trung thành hơn”?

Tôi thử nhìn lại lịch sử đức tin của tôi. Đức tin của tôi đang ở giai đoạn nào? Vẫn còn là những điều học thuộc lòng về đạo hay đã bắt đầu tiến đến giai đoạn nhận ra ơn gọi và sứ mệnh của mình, để sống mối quan hệ với Chúa?

“Những cây dâu” nào trong tôi cần phải bật rễ đi để tôi trồng những cây trái sinh hoa quả đạo đức?

Cầu nguyện:

“Lạy Chúa Giêsu, con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phê-rô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám dỗ cuốn hút con vô vực sâu. Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. A-men.”

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 55)

 

18. Chiếc bình trống rỗng – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.

Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi”.

Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: “Ông có nghe họ ca tụng ông không? – Có.

– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế?

Vị Rabbi than phiền: – Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi?

Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.

Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là Đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là “Đầy tớ của các đầy tớ Chúa”. Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận “Mến Chúa yêu người”, có ai dám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.

Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.

Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.

Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là “đầy tớ vô dụng”, thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xóa mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.

 

19. Đức tin và người đầy tớ vô dụng

(Trích dẫn từ ‘Bước Theo’ – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)

Chúa nhật XXVII thường niên hôm nay, được kính trọng thể Lễ Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Là Chúa nhật đầu tháng Mân Côi, nên chi ý nghĩa đoạn Tin Mừng (Lc 17,5-10) được phép suy tư về Đức Mẹ. Theo đó, đoạn Tin Mừng hôm nay có hai phần:

– Sức mạnh của ĐỨC TIN

– Khiêm tốn khi phục vụ

Hai chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay thật là ăn khớp (logic) với nhau. Có thể nói, chủ đề thứ nhất là chủ đề của sự cần thiết trong năm Đức Tin nầy. Đức Tin là một chủ đề không dễ suy tư, nhưng giá trị của nó rất lớn lao, vì qua sự giải thích của Chúa Giêsu, thì đức tin không cần “to lớn”, chỉ cần như hạt cải là đủ. Kích thước và sự đo đếm của đức tin, được Chúa Giêsu công khai một cách cụ thể. Theo đó, lòng tin của con người thật là quá nhỏ bé, không bằng hạt cải. Đức tin là một khái niệm trừu tượng, nhưng được chính Chúa Giêsu đánh giá cụ thể bằng một hình ảnh rõ ràng. Ai cũng biết, hạt cải nhỏ bé như thế nào. Nhưng cây cải bên Israel thì không nhỏ, nó có cành cây rất to, không phải như cây cải ở Việt Nam, nó có cành lá đến nỗi chim trời đến làm tổ được. Có lần Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu nầy: ‘Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em’ (Lc 17, 6). Từ đó, chúng ta hiểu rằng, đức tin của chúng ta không bằng hạt cải. Điểm quan trọng của việc bước theo Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính là niềm tin. Niềm tin mà không đủ lớn mạnh, thì như hạt giống bị thối, không vươn mầm được, vì mọi nhân tố sống đạo được hệ tại bởi niềm tin. Tại sao vậy? Thưa, vì tất cả mọi sự thiêng liêng đều thuộc về mầu nhiệm, mà mầu nhiệm là điều không thể nhìn thấy qua con mắt thể xác. Từ đó, nếu muốn xác tín những mầu nhiệm thiêng liêng, chúng ta cần đến đức tin. Hơn nữa, bản thân đức tin cũng là một mầu nhiệm. Như vậy, theo đoạn Tin Mừng hôm nay, các Tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho các ông. Chúa Giêsu đã ban thêm lòng tin cho các Tông đồ bằng cách nào? Rõ ràng, chúng ta thấy Chúa ban thêm lòng tin cho các Tông đồ không phải như cho thêm bánh, hoặc cho thêm đường vào bánh. Mà là Chúa đã ban thêm cho các ông bằng cách mạc khải cho các ông biết chiều kích của đức tin.

Theo đó, đức tin càng lớn thì sự khiêm tốn càng cao, nên chi giá trị của đức tin thì không thể đo lường được. Vì đức tin là sức mạnh có thể làm được những việc phi thường. Qua đó, chúng ta thấy chưa ai đạt đến niềm tin bằng hạt cải như Chúa Giêsu nói, ngoại trừ chính Thân Mẫu của Người, Đức Maria, Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi. Mẹ Maria là người đã thể hiện niềm tin sắt son, một niềm tin hạt cải thôi, cũng đủ chứng minh được Lời Chúa nói. Hành trình bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ là một hành trình đầy chông gai thử thách, nếu không có niềm tin và không giữ vững đức tin, Mẹ dễ dàng chối bỏ Chúa. Cùng với nhiều áp lực của xã hội đương thời, đa số chống lại Chúa Giêsu. Nhưng chính trong những giây phút đó, từ lúc Mẹ thưa tiếng xin vâng, Mẹ đáp Lời Sứ thần, cũng chính là Lời của Thiên Chúa, Mẹ luôn trung thành bước theo, và luôn trung tín trong sứ mạng cứu rỗi nhân loại của Con Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa. Một đức tin bằng hạt cải thôi, của Mẹ đã đủ minh chứng Lời của Con Mẹ. Vì thế, cho đến ngày nay, Đức Maria luôn là người dẫn đầu, “người có đức tin bằng hạt cải”, bởi vì sao? Thưa, vì tất cả những gì Mẹ có thể làm được cho nhân loại trong hành trình cứu chuộc của Con Mẹ, đều do đức tin bằng hạt cải của Mẹ. Điều nầy, cho thấy sự công bằng của Thiên Chúa, Thiên Chúa không thiên vị Đức Mẹ. Một sự nổ lực nơi Mẹ cùng với Thánh ân mà Mẹ đã đón nhận nơi Thiên Chúa đã cho Mẹ một đức tin bằng hạt cải.

Phần hai của Đoạn Tin Mừng: Khiêm tốn khi phục vụ

Tuy đoạn hai có nhiều câu hơn, nhưng ý dễ diễn đạt hơn, đó là: khi làm việc thiêng liêng chúng ta đừng câu nệ về công trạng của mình. Vì không có người đầy tớ nào đòi dùng bữa trước khi chủ mình chưa dùng bữa. Tất cả những ai bước theo Chúa Giêsu để phục vụ Hội Thánh, dù phẩm trật cao thấp đều là những đầy tớ vô dụng, chỉ làm việc theo bổn phận. Vì Ông Chủ chính là Thiên Chúa chứ không phải là chúng ta, Thiên Chúa toàn quyền trên mọi sự, và là Đấng công bằng, công minh cho mọi loài thụ tạo, nên chi, khi con người được kêu mời phục vụ, thì nên làm vì mục đích khiêm tốn, chứ không nên tự cao, tự mãn.

Hai chủ đề riêng biệt, nhưng được bổ túc cho nhau để đón nhận và phục vụ Thiên Chúa qua tha nhân là lý tường cao đẹp của người môn đệ Đức Kitô. Được vậy, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Để minh chứng cho sự khiêm tốn phục vụ, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết kich thước của “Đức Tin”.

Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con.

Lạy Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi, xin cầu cho chúng con. Amen.

 

20. Xin thêm niềm tin cho chúng con

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Đây là lần duy nhất, các tông đồ xin Đức Giêsu một điều như thế. Tại sao các Tông đồ không xin quyền cao chức trọng, giàu có mà lại xin đức tin? Đối với các Tông đồ, đức tin là điều quan trọng nhất, không có đức tin, các ông không thể là tông đồ, không hoàn thành sứ mạng. Bởi lẽ, sứ mạng của các tông đồ là rao truyền cho mọi người biết: Giêsu Nagiaret bị đóng đinh, chết, đã sống lại vì Người là Thiên Chúa. Điều đó ngược với trí khôn của con người không bao giờ xảy ra trong lịch sử, muốn chấp nhận thì phải có Đức tin. Đức tin là ân ban của Thiên Chúa. Dĩ nhiên cũng cần có sự cộng tác của con người. Tựa như muốn có ánh sáng vào nhà, bạn phải mở cửa, muốn có Đức tin, bạn phải mở cửa lòng mình. Ơn Chúa được ban nhưng không, nhưng phải cầu xin. Lời cầu nguyện là cánh cửa của đức tin, phải được mở ra để đón nhận ơn Thiên Chúa.

Để nói về đức tin, Đức Giêsu dùng một kiểu nói của người Palestin, kiểu nói nghịch lý. Hạt cải là loại nhỏ nhất trong các loại hạt, nó chỉ bằng mũi đinh ghim. Cây dâu là cây đại cổ thụ sống tới 600 năm, rất khó bật rễ. Thế mà, Đức Giêsu bảo: “Chỉ cần có đức tin bằng hạt cải, có thể bảo cây dâu bật rễ mọc dưới biển”.

Dĩ nhiên, Đức Giêsu không khuyên ta cầu xin những phép lạ lẫy lừng. Người không bao giờ dời cây dâu xuống biển. Nhiều lần Người đã từ chối các dấu chỉ kỳ diệu người Dothái yêu cầu. Nhưng bằng hình ảnh hạt cải và cây dâu, cũng như hình ảnh con lạc đà chui qua lỗ kim, Đức Giêsu mạnh mẽ nói với ta, điều con người không thể, đức tin mở cho ta thấy lại dễ dàng với Thiên Chúa.

Chỉ cần một đức tin nhỏ xíu, ta có thể làm được những việc lớn lao cả thể, con người không làm được, bởi ta được tham dự vào sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, ta hãy nhìn xem, chỉ một chút đức tin, bà Sara già nua 90 tuổi, bỗng sinh con hồng hào khỏe mạnh. Chỉ một chút đức tin, Đavít thắng Gôliát. Chỉ một chút đức tin, Maria một trinh nữ, sinh con.

  1. Bessière kể: Tôi biết một người nhờ ngọn cỏ mà sống. Một cô gái đã bị tai ương hoạn nạn đè bẹp cô. Trước mặt cô chỉ là một tương lai xám xịt, dễ chịu nhất đối với cô là được ra đi cho rảnh nợ đời. Những bước chân vô hồn vô định trên hè phố, đã tình cờ dẫn cô đến một cọng cỏ. Cọng cỏ xanh non đang cố trổi lên khỏi kẽ nứt bê tông để vươn lên ánh sáng. Sự sống nhỏ nhoi yếu ớt nhưng xanh tươi có vẻ mạnh hơn cả tấm xi măng nặng nề, đã cho cô một dấu chỉ. Cô lấy lại can đảm, để đương đầu với những năm tháng lê thê đầy khó khăn. Hỏi rằng trong số nhan nhản những người qua đường, có bao nhiêu người đã trông thấy cọng cỏ ấy. Chắc hẳn chỉ có cô là người duy nhất nhận ra từ cọng cỏ ấy một sứ điệp. Cọng cỏ đã cứu sống cô.

Trong các nhân đức đối thần: Đức tin, đức cậy, đức mến, Thánh Phaolô dậy: đức mến là cao trọng hơn cả, bởi lẽ về thiên đàng, không có đức tin và đức cậy chỉ còn đức mến. Nhưng trong cuộc sống trần thế, đức tin lại cần thiết, bởi không có đức tin thì không có đức cậy và đức mến. Đức tin khai mở cho người ta được lãnh các bí tích, là căn cước để vào được Thiên đàng. Bởi thế, khi ban bí tích rửa tội, linh mục chủ sự hỏi người dự tòng: “Con xin sự gì cùng Hội thánh?” Người dự tòng thưa: “Con xin đức tin”. Linh mục hỏi tiếp: “Đức tin sinh ơn ích gì cho con?” Người dự tòng đáp: “Thưa đức tin đem lại cho con sự sống đời đời “.

Thật may mắn cho ta, được sinh ra trong đức tin từ nhỏ. Đức tin không phải là tĩnh tại, đức tin cần phát triển. Để lớn mạnh trong đức tin, người tín hữu cần phải nuôi dưỡng, bằng việc làm, cầu nguyện, học hỏi lời Chúa, đặc biệt với người trí thức trình độ văn hóa và giáo lý phải cân xứng. Họ phải có khả năng biện bạch đức tin của mình cho người khác, cũng như cho chính mình. Họ cũng cần có khả năng đó khi mỗi ngày phải chạm trán nhiều hơn với thuyết vô thần và thái độ dửng dưng đối với tôn giáo. Họ buộc lòng phải lý giải niềm tin đối với Thiên Chúa của mình.

Bởi thế, đức tin không chỉ được khẳng định suông, nó đòi lý lẽ. Đức tin có lý lẽ là một đức tin vững mạnh. Đức tin đó giúp ta giải đáp những vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, nó cho ta thấy mọi sự trở thành có ý nghĩa, kể cả đau khổ và cái chết, nó cũng đem lại niềm mơ ước. Cuộc sống không có mơ ước, khác nào đêm tối không có trăng sao. Cuộc sống cần hy vọng, ta cần có hy vọng, như cần thức ăn. Nhưng không thể có hy vọng nếu ta không có niềm tin. Niềm tin dẫn đến niềm vui. Phúc cho những ai khám phá ra niềm vui trong niềm tin. Niềm vui sướng mê li của lòng tin vào Thiên Chúa, sự ngất ngây hướng theo lời mời gọi và nắm chặt bàn tay của Chúa chìa ra khi nhắm mắt lìa đời.

Tuy nhiên, ta đừng mong rằng, đức tin làm sáng tỏ mọi điều. Ta sống trong một thế giới có biết bao cuộc tìm kiếm hão huyền, nhằm tìm ra mọi lời giải đáp. Ta có đức tin, không có nghĩa ta hiểu biết mọi điều. Mà ta cũng không cần biết mọi lời giải đáp. Một điều cần, ta phải vững niềm tin. Và như các Tông đồ đã xin: “Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”.

 

21. Nhận và cho không vị lợi – Achille Degeest

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Hình như chọn đoạn Phúc Âm hôm nay Giáo Hội chủ ý đặt một tương quan giữa sức mạnh đức tin và phục vụ không vị lợi vì đức tin. Đức tin làm được những việc phi thường, nhưng xong việc người ta không có quyền chờ mong ân thưởng. Hành động theo đức tin của mình, người tín hữu không được cho là mình có công trạng đặc biệt, nhưng phải nghĩ rằng hành động như vậy là bình thường, là tất nhiên, thế thôi –cũng như người nội trợ chu tất công việc gia đình là điều bình thường, không cần gì khen ngợi. Dụ ngôn mang cái tựa hơi lạ ‘những người đầy tớ vô dụng’, do một sự phiên dịch dễ gây hiểu lầm. Nói đúng ra, đầy tớ nào cũng hữu dụng. ‘Đầy tớ vô dụng’ ở đây có nghĩa đầy tớ làm bổn phận cách bình thường. Chúng ta suy niệm về thái độ người có đức tin.

1) Trước hết chúng ta ý thức rằng đức tin là một ân huệ.

Khi các tông đồ nài xin Chúa: Xin Thầy ban thêm đức tin cho chúng con, chắc chắn các ông được Chúa Thánh Linh thần ứng. Thật vậy, đức tin phát sinh và lớn mạnh là trực tiếp nhờ ơn Thiên Chúa. Cũng như cuộc sống hồn xác của chúng ta tùy thuộc một hành vi sáng tạo thiên nhiên, đời sống đức tin của chúng ta tùy thuộc một hành vi yêu thương nâng chúng ta lên tầm cao đời sống siêu nhiên. Trong cả hai hành vi, ân huệ Thiên Chúa tuyệt đối không vị lợi, sáng kiến hoàn toàn là của Thiên Chúa. Có ý thức được như thế mới không dám nghĩ đến đòi hỏi yêu sách Thiên Chúa, mới có được tâm tình thực tiễn vui sướng, thờ kính cảm tạ. Vả lại tinh thần Phúc Âm của chúng ta nhờ đó được tiếp sức sinh động bằng những việc nhận và cho không vị lợi, bởi lẽ chúng ta nhận được đức tin Thiên Chúa cho không và chúng ta cảm tạ Thiên Chúa mà không đòi hỏi Người trả công, ban thưởng.

2) Đức tin phải ở trong thế hành động

Nhân danh đức tin mình, Kitô hữu là một người đầy tớ. Đầy tớ làm việc và phục dịch. Công việc cơ bản người Kitô hữu phải chu tất là ngợi khen Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Hai việc ấy dính liền mật thiết trong một hành vi bác ái duy nhất. Ngợi khen là bày tỏ niềm xác tín và cảm biết Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối hoàn toàn hay thương xót, vì vậy Người có quyền đòi hỏi con người thờ kính, vâng phục, cảm tạ. Phục vụ đồng loại là biểu lộ niềm xác tín rằng họ có quyền đòi hỏi chúng ta phục vụ họ. Con người đối với nhau trong tư cách anh em, đối với Thiên Chúa trong tư cách con cái. Vậy thì thờ kính, ngợi khen là gì? Đó là hình thái cao nhất của cầu nguyện. Phục vụ, bác ái là gì? Đó là sự biểu lộ tình yêu thương của Thiên Chúa sống động trong con người, là thực hành những điều cảm biết được nhờ cầu nguyện, tức là nhờ việc thờ phụng Thiên Chúa và thực thi bác ái. Đức tin thêm sức mạnh vì ở trong thế hành động. Sức mạnh tăng thêm cho đức tin, đó là phần thưởng vậy.

 

22. Đức tin sống động – Lm. Minh Vận, CRM

Trên một chuyến xe lửa từ Lion đến Paris, có một chàng sinh viên trẻ tuổi ngồi bên cạnh một cụ già có vẻ quê mùa chất phác, mặc một bộ đồ bình dân, mang một đôi giầy cũ kỹ, mái tóc cắt vắn và gương mặt nhân từ đạo hạnh. Điều làm cho chàng sinh viên này khó chịu là thấy trên tay cụ già một cỗ tràng hạt, lộ vẻ đạo đức sùng mộ, miệng lâm râm cầu nguyện. Chàng ta không nén nổi lòng bực rọc khó chịu, lên tiếng hỏi móc cụ già:

– Tôi thấy cụ còn tin tưởng những điều có từ thời trung cổ về chuỗi tràng hạt? Chắc cụ cũng tin Bà Maria Đồng Trinh và một mớ tín điều tôn giáo, do mấy ông cố đạo dạy chứ gì?

– Đúng thế, còn cậu thì sao? Cụ già điềm tĩnh trả lời.

– Tôi mà lại tin những điều vô lý và dị đoan như thế à! Chàng sinh viên cười rộ lên cách ngạo nghễ đáp lời, tôi đã tìm được sự thật nơi trường đại học. Nếu cụ muốn sống hợp thời hơn, cụ hãy ném xâu chuỗi này đi và ghi tên học một vài khoa học tân tiến của thời hiện đại.

– Khoa học tân tiến à? Cụ già hỏi lại và nói tiếp: Tôi sợ tôi không hiểu nổi khoa học, chắc cậu có thể giúp tôi được chứ?

– Được, nếu cụ biết đọc, chàng sinh viên cao hứng nhận lời, tôi rất sung sướng được gởi tặng cụ một số sách.

– Tôi cũng biết đọc sách mà, cụ già khiêm tốn đáp lời.

– Tốt, vậy tôi phải gởi theo địa chỉ nào? Chàng sinh viên hỏi lại.

Cụ già lấy trong túi áo ra một tấm danh thiệp trao cho cậu. Trên tấm danh thiệp ghi rõ địa chỉ, số phone, với danh tánh và chức vị như sau:

LOUIS PASTEUR

Viện Nghiên Cứu Khoa Học Paris

Phải chăng khi đọc mấy hàng chữ trên tấm danh thiệp, chàng sinh viên trẻ tuổi kiêu hãnh này đã phải đứng tim và hối hận, vì cái thông thái rởm và thái độ tự kiêu lố bịch của mình, trước sự hiện diện của Louis Pasteur, một nhà bác học nổi danh của thế giới trong thời hiện đại.

  1. ĐỨC TIN CẦN THIẾT CHO CUỘC SỐNG

Nhìn vào thực trạng của thế giới ngày nay, nhất là nơi những người theo thuyết vô thần duy vật và hiện sinh; hẳn chúng ta thấy không thiếu những hạng người thông thái rởm, họ tự hào mình thông biết mọi sự, họ chỉ cậy dựa vào trí khôn hữu hạn và nông nổi của mình, mọi sự đều phải được khoa học giải quyết, điều gì khoa học không chứng minh được, họ cho là mê tín dị đoan. Do đó, họ từ chối tất cả những chân lý siêu nhiên như linh hồn bất tử, hạnh phúc đời sau, Thiên Chúa hiện hữu và các phép lạ Ngài đã thực hiện, những ơn phúc Ngài đã ban cho nhân loại… Chính vì thiếu niềm tin vào Thiên Chúa, con người đã ra tối tăm mê muội, trở nên nô lệ cho thú tính, cho đam mê, cho dục vọng. Chính vì thiếu niềm tin vào Thiên Chúa, con người đã chúi đầu xuống với kiếp sống thú vật, họ chỉ biết tận hưởng cho thỏa mãn những thú vui đê hèn, những cảm giác mau qua, những của cải tạm bợ phù ảo đời này. Chính vì thiếu niềm tin mà xã hội đã phát sinh biết bao tội ác, gây nên biết bao đồi phong bại tục, phá đổ nền luân lý lành mạnh của các dân tộc… Lòng con người đã ra đồi bại, họ dùng mọi mánh lới quỉ quyệt, man trá, lừa đảo, tranh dành, giết người cướp của… Đó là cái ác quả bi đát của sự thiếu niềm tin nơi Thiên Chúa và các giáo huấn của Ngài.

Vì vậy, niềm tin rất cần thiết cho cuộc sống con người trên trần gian. Chính niềm tin nâng cao phẩm giá con người, giúp chúng ta hiểu biết giá trị đích thực của cuộc sống, nó mở rộng trí khôn, tăng triển lòng muốn, củng cố ý chí; nó đưa chúng ta lên cao, vượt lên trên vạn vật, xứng danh một thụ sinh siêu đẳng, được Tạo Hóa ban quyền thống trị vạn vật do Người tạo dựng. Nhờ niềm tin, chúng ta có thể hướng tâm hồn lên cao, khát khao những sự cao siêu trên trời, những chân lý vĩnh cửu của cuộc sống và đạt được hạnh phúc trường tồn của đời sống mai hậu, mà Thiên Chúa đã hứa ban cho các con cái trung thành của Người.

Đức Giám Mục Gay đã rất hữu lý khi quả quyết rằng: “Nhờ Đức Tin, sự thông sáng của Chúa nên sự thông sáng của chúng ta, sự khôn ngoan của Chúa nên sự khôn ngoan của chúng ta, tinh thần của Chúa nên tinh thần của chúng ta, sự sống của Chúa nên sự sống của chúng ta”.

  1. MÃNH LỰC VÔ SONG CỦA ĐỨC TIN

Thánh Công Đồng Tridentinô đã dạy: “Đức Tin là phương thế khẩn thiết, vì mọi người cần có Đức Tin thường xuyên, đến nỗi thiếu nó, con người không thể được cứu độ” (Dz # 1793). Do đó, Thánh Phaolô Tông Đồ đã quả quyết: “Không có Đức Tin, chúng ta không thể đẹp lòng Thiên Chúa” (Heb 11:6). Còn Thánh Gioan lại nhấn mạnh với chúng ta rằng: “Đức Tin của anh chị em là một chiến công thắng được cả trần gian” (I Jn 5:4). Quả thật, nếu chúng ta đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban cho chúng ta một sức mạnh vô song, chiến thắng được cả trần gian, chiến thắng mọi mưu thâm chước độc của Satan hỏa ngục; và hơn nữa, chúng ta còn có thể thắng được cả Thiên Chúa, vì Chúa không bao giờ từ chối ban những ơn cần thiết cho con cái hết lòng tin tưởng nơi Người, lại ban chính mình Người là nguồn mọi ơn phúc cho chúng ta nữa.

Biết bao phép lạ Chúa đã thực hiện do niềm tin tưởng con người đặt nơi Chúa. Biết bao ơn phúc Chúa ban xuống cho nhân loại do lời cầu bầu của Đức Mẹ và các Thánh, cũng như của những tâm hồn đẹp lòng Chúa. Mở sách Tin Mừng, đọc hạnh tích các Thánh, tìm hiểu các sự lạ xảy ra tại các trung tâm hành hương trên thế giới, chúng ta sẽ thấy biết bao sự lạ lùng, cả trong lãnh vực tự nhiên cũng như siêu nhiên, Chúa đã thực hiện do lòng tin tưởng con người đặt nơi Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chính Chúa đã quả quyết: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con có thể truyền cho cây dâu bứng rễ lên, đem trồng dưới đáy biển, nó cũng sẽ vâng nghe” (Lc 17:6). Nơi khác, Chúa còn quả quyết: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con còn có thể chuyển rời cả núi đồi nữa”. Tóm lại, nếu chúng ta hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa, tín thác và hy vọng mọi sự nơi Chúa, sống đẹp lòng Người; chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng trọn vẹn lời Chúa hứa: “Chẳng có việc gì mà các con không làm được” (xem Mt 17:19).

Thánh Benedictô dự định xây cất một Tu Viện trong khu đất của Hội Dòng, nhưng lại bị một quả đồi cản trở; hồi đó đâu có xe ủi như ngày nay. Ngài sực nhớ lại lời Chúa phán: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con có thể chuyển rời được núi đồi”. Rồi ngài đi cầu nguyện với hết lòng tin tưởng vào Chúa, ngài truyền: “Quả đồi này hãy rời đi chỗ khác, để chúng ta có chỗ xây cất Tu Viện”. Ngài rất tin tưởng lời truyền đó sẽ được thực hiện, rồi ngài an tâm đi nghỉ đêm. Sáng hôm sau khi thức dậy, ngài thấy quả đồi đã chuyển đi chỗ nào không rõ.

III. ĐỨC TIN TRONG CUỘC SỐNG CHÚNG TA

Thánh Giacobê dạy: “Nếu ai trong anh chị em xưng mình có Đức Tin, mà không hành động theo Đức Tin thì nào có ích gì? Đức Tin như thế có cứu họ được không?” (Jac 2:14). Thánh nhân còn quả quyết: “Cũng như xác không hồn là xác chết, thì Đức Tin không việc làm cũng là Đức Tin đã chết tận gốc rễ” (Jac 2:17).

Vậy làm thế nào để Đức Tin được sống động, được duy trì và tăng triển trong bản thân và trong cuộc sống của chúng ta? Chúng ta cần sống theo các nguyên tắc Đức Tin, để Đức Tin trở nên hồn sống, chỉ huy, hướng dẫn và điều khiển mọi tư tưởng, ngôn ngữ và hành động của chúng ta trong trót cuộc sống, xứng với danh nghĩa chúng ta là con cái Chúa; hơn nữa, còn là những linh hồn đã được Chúa tuyển chọn sống Đời Thánh Hiến, được Chúa ủy thác sứ mạng làm tông đồ, trở nên chứng nhân và nên ánh sáng chiếu soi các linh hồn, để chinh phục họ trở về với Chúa, bằng chính đời sống thánh thiện gương mẫu của chúng ta.

Đức Tin sống động đó phải được hiện thực qua các tư tưởng, lời nói và việc làm hằng ngày của chúng ta:

* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra thánh ý Chúa nơi luật pháp, nơi tinh thần Dòng, nơi giáo huấn của Giáo Hội, nơi mệnh lệnh của các vị Đại Diện Chúa, nơi tiếng lương tâm chân chính, để chúng ta biết mau mắn thi hành sao cho Chúa được hài lòng.

* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng khôn ngoan của Chúa, nơi các biến cố may rủi xảy đến cho bản thân, cho gia đình, cho Hội Dòng, cho dân tộc, để chúng ta biết vui lòng chấp nhận và thuần phục thánh ý Chúa, đồng thời nhận ra tình thương của Người.

* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa nơi tha nhân, nhất là nơi những người nghèo khó tàn tật, để yêu mến và phục vụ họ như phục vụ chính Chúa đang ẩn thân nơi họ.

* Đức Tin sống động đó sẽ giúp chúng ta không tin kiêng dối trá, không mê tín dị đoan, không tin bói toán, đồng bóng, hên xui như dân ngoại… Ví dụ: Tin thần tài, tin thầy bói nói mò, tin hên xui tốt xấu, tin ngày lành tháng tốt, tin phương hướng mồ mả, hoặc nhiều điều nhảm nhí khác tương tự.

Kết Luận

Cũng như các Tông Đồ xưa, chúng ta hãy cầu xin Chúa: “Lạy Chúa xin ban thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con được hân hoan hạnh phúc sống theo thánh ý Chúa; can đảm đón nhận những khó khăn nghịch cảnh, Chúa quan phòng khôn ngoan gởi đến, như những món quà Chúa yêu thương ban tặng, hầu chứng tỏ được lòng chúng con yêu mến Chúa”.

Lạy Mẹ là Mẹ của niềm tin, xin Mẹ củng cố niềm tin cho chúng con, để chúng con được noi theo gương Mẹ, sống vững mạnh trong niềm tin, ngay cả những lúc theo lý trí tự nhiên của con người không còn lý do để tin, hầu chúng con được Chúa chúc phúc: “Phúc cho những ai đã không thấy mà vốn vững niềm tin“.

 

23. Ai là người thay đổi? – Charles E. Miller

(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

Chúng ta sống trong một thế giới đầy bạo lực và oán ghét. Đó là một thế giới được điều khiển bởi những kẻ sát nhân và điên cuồng. Đó là một thế giới mà những đứa trẻ đã bị phá thai, những trẻ nhỏ đã bị lạm dụng tình dục và bị giết chết bởi cha mẹ chúng. Đó là một thế giới mà chính trị, kinh tế đã hư đốn. Có phải sự xấu ở nơi thế giới bây giờ đã hình thành từ nhiều thế hệ, hoặc đó là phương tiện truyền thông đã làm cho chúng ta ý thức hơn về những gì đang xảy ra?

Habacuc, một tiên tri Do Thái đã sống sáu thế kỷ trước Chúa Kitô. Đó là một thời gian thật sự tồi tệ như thời đại của chúng ta bây giờ. Ở Giuđa, sự nhầy nhụa của chính trị đã lan rộng, nền luân lý hư hỏng, xã hội bất công, sự khinh bỉ những người nghèo, và việc thờ lạy ngẫu tượng đã lờ đi Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacop. Thiên Chúa đã cứu Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai cập, đưa dân vào đất hứa, đám dân mà Người đã làm Giao Ước quan trọng đối với họ.

Habacuc là một vị tiên tri bị chán ghét, hầu hết mọi người không ai để ý tới, hoặc là ước mong thống hối và canh tân. Habacuc đã nói một cách rõ ràng không úp mở. Ông ta đã trở lại với Thiên Chúa trong cầu nguyện nhưng không phải trong cách lịch sự của lời kinh cầu, có vẻ thích hợp với oai nghi của Thiên Chúa. Habacuc đã phàn nàn một cách cay đắng với Thiên Chúa. Sự kiên nhẫn của ông đã đến chỗ tận cùng, ông ta đã cầu nguyện: “Ôi Lạy Chúa còn bao lâu nữa? Con đã kêu khóc để cầu xin sự giúp đỡ nhưng Ngài đã không lắng nghe. Con đã kêu lên Chúa. Ôi sự dữ! Nhưng Ngài đã không can thiệp”.

Những người khác có thể đã cầu nguyện với Thiên Chúa theo cách này trước Habacuc trong Thánh Kinh như hầu như không ai chú ý tới những điều đó. Habacuc có vẻ như là một tiếng vang mới đã can đảm nói thẳng lên với Thiên Chúa. Sự nhấn mạnh của ông với Thiên Chúa đã được chú ý tới, nhưng sự đáp trả của Thiên Chúa thì đáng chú ý hơn. Ngài đã không ra lời sấm sét để khiển trách những tạo vật nhỏ bé của Ngài. Thiên Chúa không hỏi: “Tại sao con dám nói với Ta cách như thế”. Đúng hơn Thiên Chúa đã yêu cầu Habacuc kiên nhẫn, tiếp đó Ngài thêm: “Người công chính, bởi vì đức tin của ngươi sẽ được sống”.

Habacuc là một con người của đức tin. Ông tin rằng Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo phải có trách nhiệm với những tạo vật của Người. Ông ta kêu lên Thiên Chúa, Đấng đã làm một Giao Ước với dân Người hãy nhớ lại sự trung thành của Người, tình yêu của Người đối với họ. Habacuc đã phàn nàn đó là sự thật, nhưng ông đã phàn nàn như một người công chính với một Thiên Chúa thật, Đấng có thể tẩy rửa sự xấu xa nơi thế gian này. Ông đã tin rằng Thiên Chúa là Người duy nhất có thể thay đổi. Habacuc là một người có đức tin lớn lao.

Đức tin là một đặc ân. Các tông đồ sợ rằng đức tin của họ đã không mạnh đủ, có lẽ họ nghĩ rằng một điều gì đó giống như Habacuc khi họ hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa xin tăng thêm đức tin cho chúng con”. Lời nài xin này làm lớn đức tin của họ cách chắc chắn và cần thiết cho chính chúng ta khi chúng ta cầu nguyện nơi Thánh Lễ, đặc biệt là lời cầu nguyện sau khi hiệp lễ, chúng ta xin Chúa sửa lại những điều sai trái trong xã hội của chúng ta.

Sự cầu nguyện của chúng ta sẽ được tràn đầy với sự can đảm, điều đó sẽ đến từ đức tin. Thánh Phaolô đã bảo đảm với Timôthêô;”Thánh Thần của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta không phải là một sự hèn nhát nhưng đúng hơn đã làm cho chúng ta mạnh sức, yêu thương và khôn ngoan”. Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép rửa. Thánh Thần đó sẽ thúc đẩy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa với sự trông đợi nhưng cũng với sự khẩn nài không chỉ trong Thánh Lễ và bất cứ nơi nào mà chúng ta cầu nguyện. Khi nào chúng ta cầu nguyện, một người cầu nguyện là một người khôn ngoan, yêu mến và mạnh mẽ để nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Đấng công chính bởi vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể thay đổi.

 

24. Phép lạ của lòng tin

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Tại một cộng hoà thuộc Liên Xô cũ, trong một cuộc mít tinh nọ, một giáo sư muốn chứng minh cho cử tọa thấy rằng Chúa Giêsu chỉ là một tên phù thủy lừa bịp. Ông lấy một ly nước, đổ vào đó một ít bột, nước liền đổi ra màu đỏ. Ông tuyên bố với cử tọa như sau:

“Thưa quý vị, tôi vừa mới làm một phép lạ. Ngày xưa Ông Giêsu cũng chỉ làm như tôi vừa làm mà thôi. Ông Giêsu đã biến nước thành rượu theo cách thế tôi vừa làm đó. Nhưng quý vị hãy xem tôi còn làm được điều ngoạn mục hơn nữa”. Nói xong, ông lấy một thứ bột khác cho vào nước. Nước từ từ đổi màu, rồi trở lại nguyên trạng.

Trong đám cử tọa, một người đứng lên phát biểu: “Thưa ông, ông quả thực là người tài ba nhưng liệu ông có dám uống thử thứ rượu mà ông vừa chế biến hay không?” Quả thực, ông giáo sư biết mình đang làm trò bịp. Nước mà ông đã cho đổi màu ấy chỉ là một hóa chất độc hại. Thấy ông giáo sư chần chừ, người vừa lên tiếng phát biểu mới quay xuống đám đông và bình tĩnh giải thích như sau:

“Thưa quý vị, đây là sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và ông giáosư nầy: với rượu nho của Ngài, Chúa Giêsu đã rót cho chúng tôi hai ngàn năm hoan lạc rồi. Còn với thứ rượu mà vị giáo sư nầy chế biến, nhân loại hẳn sẽ bị đầu độc”.

Anh chị em thân mến,

Hai ngàn năm qua, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm phép lạ trong cuộc sống của mọi con người, đặc biệt là trong cuộc sống của những ai tin vào Chúa. Mỗi cuộc đời Kitô hữu là một phép lạ phi thường của Chúa Giêsu. Trong phép lạ lớn lao ấy còn hàm ẩn biết bao phép lạ khác nữa. Chúa Giêsu hôm nay đã nói: “Nếu anh em có lòng tin nhỏ xíu bằng hạt cải thôi, anh em có thể truyền lệnh cho cây dâu nầy bật gốc lên, xuống mọc dưới biển kia cũng được”. Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn nói rằng đức tin có khả năng làm phép lạ như một sức mạnh phù phép, bùa chú, hiểu theo nghĩa đen là “chuyển núi dời non”, “bứng rừng trồng xuống biển”. Nhưng Ngài muốn nói: đức tin là một động lực thúc đẩy chúng ta dám nghĩ, dám làm những việc to lớn, phi thường mà nếu không có lòng tin, chúng ta không dám hành động. Bởi vì, người có lòng tin thì hành động bằng quyền năng của Thiên Chúa, chứ không phải bằng khả năng giới hạn của mình. Do đó, người có lòng tin có thể làm được những việc mà chỉ có quyền năng vô biên của Thiên Chúa mới làm được. Thực ra, không phải là người ấy hành động nữa mà là chính Thiên Chúa hành động trong người ấy và qua người ấy.

Nhờ đức tin thúc đẩy, chúng ta dám khởi công bắt ta vào việc xây dựng cuộc sống cho mình, cho anh chị em mình, rồi Chúa sẽ tiếp tay giúp sức chúng ta bằng quyền năng vô biên của Ngài, để hướng dẫn và biến đổi công việc nhỏ bé của chúng ta trở thành công trình to lớn, vĩ đại, phi thường. Nếu chúng ta không bắt tay vào việc là dấu chứng tỏ chúng ta chưa tin, hoặc không tin. Có tin, chúng ta mới dám làm, chưa làm hay không làm là vì chưa tin hay không tin. Đức tin đòi phải có hành động. Thánh Giacôbê tông đồ đã nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin đã chết rồi” (Gc 2,17). Ngài lấy ví dụ: “Nào có ích gì, nếu người nào rêu rao mình có đức tin trong khi chẳng chịu làm gì cả? Nếu có anh chị em nào thiếu ăn thiếu mặc mà một người nào trong anh chị em lại nói với họ: ‘chúc anh chị em đi bình an, ăn no mặc ấm’, mà không cho họ những gì cần thiết để ăn mặc, thì nào có ích gì? Đức tin đó có cứu được người ấy không? Cũng vậy, đức tin không có việc làm là đức tin đã chết mất rồi” (Gc 2,14-17). Bởi vì đức tin sống bằng đức ái. Đức tin phải được biểu lộ trong sự thông cảm, tha thứ, chia sẻ cho nhau cái ăn cái mặc, và nhất là biểu hiện trong sự phục vụ, làm tôi tớ lẫn nhau một cách vô điều kiện.

Thưa anh chị em,

Sống đức tin là sống phục vụ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng một câu chuyện bình dân trong chế độ xã hội phong kiến ở thời đại Ngài mà dạy chúng ta bài học phục vụ. Chế độ phong kiến là chế độ có chủ có tớ, có địa chủ và nông nô. Tớ phải hầu hạ chủ như là chuyện đương nhiên. Chủ không bao giờ mang ơn tớ, cũng là chuyện coi như đương nhiên. Nhưng Chúa Giêsu công bố một đạo lý Tin Mừng khác hẳn quan điểm phong kiến đó. Chính Ngài đã “đến không phải để được hầu hạ, nhưng để làm tôi tớ mọi người” (Mt 20,28), và Ngài đòi hỏi: “Ai lớn nhất trong anh em phải làm tôi tớ mọi người” (Mc 9,35). Tin Chúa, theo Chúa là đem cả cuộc đời mình hiến thân phục vụ anh em như một chuyện đương nhiên, không đòi hỏi được đền ơn, đáp nghĩa, được biểu dương hay khen thưởng. Tin Chúa, theo Chúa không để chi lo cho phận riêng mình cách ích kỷ, không chạy theo lợi lộc, không tìm thăng quan tiến chức, nhưng để phục vụ mọi người như lẽ sống đời mình. Thái độ phục vụ không kể công, không vụ lợi là một yếu tố quan trọng đối với đời sống cộng đồng Giáo Hội cũng như xã hội. Sự đòi hỏi người khác biết ơn và đền ơn, đó là hành động của ước muốn thống trị và là bước đầu đưa tới thống trị trên người khác. Muốn cho tương quan trong cộng đồng xã hội mãi mãi trong sáng là tương quan huynh đệ, Chúa Giêsu đã dạy cách phục vụ không vụ lợi, không kể công. Có làm được điều gì tốt lành thì đó là việc phải làm chứ chẳng có gì để mà vênh vang tự đắc, nghĩa là mình có quyền đòi Chúa hay mọi người biết ơn. Do đó, mỗi khi hoàn thành nhiệm vụ, mỗi người phải khiêm tốn tự nhận mình chỉ là “người tôi tớ tầm thường, vì đã làm việc bổn phận đấy thôi.”

Anh chị em thân mến,

Nếu nhờ đức tin, mọi người đều lấy mình làm tôi tớ lẫn nhau thì chắc chắn đức tin ấy sẽ làm được những việc phi thường. Đó là phép lạ của đức tin có hành động. Và cũng chính hành động nầy sẽ kiểm tra chất lượng đức tin của chúng ta xem nó bằng bao nhiêu sánh với hạt cải bé nhỏ. Vì nếu chúng ta có được lòng tin nhỏ bé bằng hạt cải thôi, chúng ta có thể “chuyển núi dời non”, “bứng rừng trồng xuống biển” cũng được. Đức tin có một sức bật kỳ diệu như vậy. Nhà vật lý Archimède đã nói: “Nếu có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì với một đòn bẫy, người ta có thể nâng bổng cả vũ trụ lên”. Và văn hào Kierkegaard đã nói: “Điểm tựa ấy chính là đức tin”. Đức tin có cả một sức bật như vậy, nó có khả năng biến đổi cả xã hội, cả thế giới đầy những bất công, bạo lực, chia rẽ, chiến tranh nầy thành một vương quốc của tình yêu, thành một “Trời Mới Đất Mới” trong ngày Cánh Chung.

 

25. Đức tin – McCarthy

(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)

Maurice là một người nghiện rượu. Khi một linh mục đến thăm anh thì anh sống trong tầng hầm với con chó trong khi vợ anh sống trên căn gác. Về pháp lý, họ đã ly dị và chờ bán xong căn nhà để rồi chia tay.

Anh ta đã có một cuộc sống gian khổ. Hầu hết những rối loạn của anh bắt nguồn từ việc uống rượu mạnh. Anh nói hiện giờ anh uống chừng mực – nhưng nhiều người nghiện rượu vẫn nói thế. Có lần trong một cơn tuyệt vọng, anh đặt đầu súng vào miệng mình, nhưng khi nhìn thấy trên ngón tay mình chiếc nhẫn Mân Côi mà em gái anh cho anh, anh không thể bóp cò.

“Con vẫn còn tin Thiên Chúa” anh nói. Rồi nước mắt chảy trên khuôn mặt, anh nói tiếp “Nhưng con ao ước có được đức tin mà con đã có khi còn trẻ”.

“Điều gì làm cho đức tin ấy đẹp đến thế?”linh mục hỏi.

“Khi con còn trẻ, con đã tin tưởng mọi việc – rất nhiều việc. Con đã chắc chắn về mọi sự. Nhưng thứ đức tin ấy không kéo dài. Giờ đây, con không tin chắc điều con phải tin. Con tra hỏi mọi việc. “ Anh ngừng lại sau đó buồn bã nói tiếp: “Có thể vợ con và con sẽ sống chung trở lại. Nhưng con đã làm mất tình cảm mà con đã có với cô ấy”.

“Anh đã đau khổ nhiều phải không Maurice?” linh mục nói.

“Cha khỏi phải nói điều đó”, anh đáp.

“Anh có cảm thấy Thiên Chúa ở với anh trong suốt những năm anh say sưa?” linh mục hỏi.

“Con cảm thấy điều đó, có lẽ trừ lúc con định tự tử. Con đã cảm thấy bị bỏ rơi đến tận cùng”.

Ở đây, người ta có thể cảm nhận phần nào nỗi cô đơn và đau buồn xé ruột nằm sâu trong mỗi con người mà đức tin đã mất. Tuy nhiên, đức tin của Maurice không hoàn toàn mất. Một vài sự vật bên ngoài đã bị cắt xén. Nhưng vẫn còn cái lời bên trong, đó là niềm xác tín rằng Thiên Chúa hiện hữu và chăm sóc anh ta.

Vì thế, anh bám chặt lấy đức tin thời niên thiếu. Bấy giờ, mọi vật đơn giản, rõ ràng và chắc chắn. Anh không nhận thấy rằng những thay đổi lớn lao đã xảy ra trong anh. Một vực thẳm đã ngăn cách anh với tuổi thơ của anh ngày trước.

Chúng ta không thể không cảm thấy có thiện cảm với anh. Nhiều người bám chặt lấy đức tin có khi còn thơ ấu. Và cũng đúng thôi – nó là cái gì đẹp. Nhà thơ Emily Dickinson nói:

Chúng ta bắt đầu hiểu rằng chúng ta đã tin có một lần và trọn vẹn.

Niềm tin không hợp lắm khi thường hay biến đổi.

Chúng ta thẹn đỏ mặt, nếu chúng ta thực hiện được thiên đàng, một biến cố khôn tả.

Chúng ta hẳn đã tránh xa, thậm chí xấu hổ và nhận được phép lạ.

Chúng ta cứ mãi nắm lại ý nghĩa tôn giáo của thế giới thơ ấu đã qua của chúng ta. Nhưng tất cả chúng ta phải để lại tuổi thơ đàng sau mình và cùng với nó một thế giới của những điều chắc chắn. Đức tin tuổi thơ đi qua hoặc ít nhất đã đổi thay. Tuy nhiên, không phải Thiên Chúa đổi thay mà chính chúng ta thay đổi. Tuy nhiên, cảm thấy như Maurice cảm thấy không có nghĩa là chúng ta đã mất đức tin. Tất cả điều ấy có nghĩa là chúng ta đang chiến đấu với đức tin.

Đức tin thơ mộng của tuổi thơ không thể bám giữ mãi được. Đức Giêsu nói chúng ta phải vào Nước Trời như một trẻ nhỏ, nhưng Người không nói chúng ta phải có đức tin của đứa trẻ. Đức tin của chúng ta phải là một đức tin trưởng thành, một đức tin đã vượt qua những sự phức tạp và mơ hồ của đời sống.

Mọi người chúng ta có thể lấy lại lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lạy Chúa, xin tăng thêm đức tin cho chúng con”, bởi vì giữ gìn đức tin chưa đủ; chúng ta phải trưởng thành trong đức tin. Đức tin trưởng thành khi nó thực hành. Đức tin cũng trưởng thành nhờ được nuôi dưỡng đều đặn. Chúng ta nuôi dưỡng đức tin như thế nào? Bằng việc cầu nguyện và tiếp xúc với cộng đoàn đức tin.

 

26. Phục vụ Thiên Chúa vì yêu thương

(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’ – McCarthy)

Trong số những người có đạo, có một xu hướng nghĩ rằng Thiên Chúa phải ban cho họ một điều gì đó. Họ tưởng tượng Thiên Chúa như một ông chủ điển hình. Nếu chúng ta thực hiện xong công việc thì theo lẽ công bằng, ông chủ trả tiền lương cho chúng ta. Thiên Chúa ban cho chúng ta phần thưởng thiên đàng vì chúng ta đã trung tín phục vụ Người khi ở trần gian. Đây là thái độ rất dễ hiểu. Nhưng nó đưa ra một thái độ làm thuê, vụ lợi vào điều mà chủ yếu phải được xem là một việc làm yêu thương giữa Thiên Chúa và chúng ta. Mặt khác, nó hoàn toàn không giống với Tin Mừng.

Sự thật nổi bật là: chúng ta không bao giờ có thể đặt Thiên Chúa trong tư thế mắc nợ chúng ta. Đức Giêsu nói rằng dù khi chúng ta đã làm hết mọi việc mà chúng ta hy vọng làm được (và ai trong ta dám liều lĩnh xác nhận điều đó?) Chúng ta cũng không thể đưa ra bất cứ đòi hỏi nào với Thiên Chúa. Trong thời đại của Đức Giêsu, đạo Do thái đã bị ý tưởng công nghiệp chi phối. Đức Giêsu đã đối đầu với thái độ đó.

Chân lý nền tảng về Kitô giáo là chúng ta có một tôn giáo của ân sủng chứ không phải một tôn giáo của công nghiệp. Sự cứu chuộc không thể kiếm được. Chúng ta không bao giờ có thể cho rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta. Nhưng chúng ta cũng không nên có quan niệm đó. Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta là con cái của Người. Con cái không thực hiện ý muốn của cha mình để được thưởng công. Chúng làm điều đó bởi vì chúng muốn cố gắng đáp lại tình yêu thương của người cha dành cho chúng.

Quả là một niềm vui lớn khi chúng ta khám phá rằng không phải chúng ta không cần chứng tỏ mình với Thiên Chúa. Không phải chúng ta kiếm được tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta từ lâu trước khi chúng ta có thể làm một điều gì đó xứng đáng với tình yêu đó. Và Người yêu thương chúng ta cả khi chúng ta là những tội nhân. Nhiệm vụ của chúng ta là đáp lại tình yêu Thiên Chúa.

Chúng ta không giữ các giới răn để Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta; chúng ta giữ các giới răn bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tin Mừng có thể được tóm tắt như sau: Một Thiên Chúa quảng đại muốn các môn đệ phục vụ Người vì yêu thương không phải vì bổn phận. Vì thế, đức tin không đủ; chúng ta cũng cần có tình yêu. Trong khi đức tin làm cho mọi việc có thể, tình yêu làm cho mọi việc dễ dàng.

Các công việc quảng đại nhất và anh hùng nhất trong đời sống là những công việc hoàn thành, không phải trong đường lối của bổn phận hoặc với niềm hy vọng có được tiền bạc hoặc những phần thưởng nào khác, nhưng chỉ thuần túy vì tình yêu. Chúng ta hãy xem xét tấm gương sau đây.

Buổi chiều muộn của một ngày mùa đông giá rét. Mọi người đều vội vã trở về nhà. Thình lình một tiếng kêu vang lên: “Có một người dưới lòng sông”. Người ta chạy đến bờ hè và nhìn xuống dòng nước đầy bùn, dơ bẩn. Đúng là có một người đàn ông đang dập dềnh trong nước đen. Tiếng kêu cứu tuyệt vọng đến những người đứng nhìn trong tiếng ồn ào của xe cộ.

Rồi với một tiếng két của thắng xe, một chiếc xe hơi quẹo ra khỏi luồng xe và cặp vào chỗ đậu xe sát lề đường. Một thanh niên nhảy ra khỏi xe, cởi áo và giày rồi leo lên chỗ bờ hè, quan sát thật nhanh và lao xuống nước bùn. Sau một vài nỗ lực không thành công, anh ta đã túm được người bị nạn và đưa người này đến chỗ an toàn.

Trên lề đường, một đám đông tụ tập xung quanh người bị nạn và chờ cho xe cứu thương đến. Ngay lúc đó, xe cứu thương đến và đưa người ấy đến bệnh viện. Ít lâu sau người ấy khỏe hẳn sau cơn thử thách. Một phóng viên đi qua, thấy câu chuyện có thể được khai thác, bắt đầu tìm kiếm thông tin. Nhưng thay vì tìm kiếm sự tôn vinh và tán thưởng của dân chúng, người cứu nạn đã biến mất.

Điều Thiên Chúa muốn chúng ta làm là chúng ta phải đến với Người như con cái đến với Cha mình, Người muốn chúng ta xử sự một cách vinh dự, không phải vì hy vọng được thưởng, mà vì yêu thương Người và nhiệt thành phục vụ Người.

Sự cứu chuộc là một ơn huệ chứ không phải là một phần thưởng. Một phần thưởng là một vật to lớn, nhưng nó không thể so sánh với niềm vui của một người cảm thấy khi nhận được một ân huệ.

 

27. Đức tin và khiêm nhường – Veritas.

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

Linh mục văn sĩ Marlin Dòng Tên mời gọi những ai đọc đoạn Tin Mừng trên hãy thực hiện hai việc làm tưởng tượng sau đây để có thể hiểu thêm phần nào về đoạn Phúc âm mà chúng ta vừa nghe. Việc tưởng tượng thứ nhất là lùi về quá khứ 200 năm. Tác giả đề nghị chúng ta cầm lấy một nhật báo vừa xuất bản trong ngày, rồi lùi vào trong quá khứ 200 năm, giải thích những gì được in trong trang đầu tiên của tờ báo mà thôi cho những con người chúng ta gặp. Thử hỏi những con người đó sống cách chúng ta 200 năm về trước có tin được chúng ta hay không? Có biết bao điều mà những con người đó không thể nào thực hiện được, những điều mà đối với chúng ta hôm nay xem ra như quá tầm thường. Chẳng hạn chiếc Radio, chiếc máy truyền hình v.v…, chúng ta có giải thích cách mấy đi nữa về chiếc truyền hình như là một kỹ thuật để giúp ta nhìn thấy và nghe được những gì xảy ra cách ta hàng ngàn dặm. Họ cũng sẽ trả lời chúng ta rằng, thông thường theo sự hiểu biết của chúng tôi thì chuyện đó không thể nào có được. Đó là nếu lùi vào quá khứ chỉ cách chúng ta 200 năm mà thôi, và càng lùi xa hơn nữa thì còn nhiều chuyện khó tin hơn nữa.

Rồi tác giả Marlin mời chúng ta đi nhanh về tương lai phía trước chúng ta 200 năm. Hãy tưởng tượng như có một người xa lạ nào đó sống trước chúng ta 200 năm trở lại nói với chúng ta hôm nay đây rằng, họ đang sống trong thế giới thật là hòa bình, không hận thù, không chiến tranh, không khổ cực, liệu chúng ta có tin người đó hay không? Hay chúng ta cũng chỉ trả lời giống như câu trả lời chúng ta nghe trong trường hợp thứ nhất là nghe thường tình mà nói thì làm sao có chuyện đó được. Vì thường tình chúng ta đang giận ghét nhau, đang đánh giặc với nhau, đang mưu mô ám hại nhau… Thường tình chúng ta cảm nhận là như thế thì làm sao có thể tin vào điều khác được.

Quả thật, giữa con người với nhau trong cùng một thế giới vật chất hữu hình mà đã là khó tin nhau rồi thì thử hỏi làm sao ta có thể tin vào một người đến từ thế giới khác để nói cho chúng ta biết những sự thật khác với sự thật chúng ta thường biết. Điều này hướng dẫn chúng ta hiểu thêm tâm trạng của các tông đồ khi các ông tha thiết khẩn xin Chúa: “Lạy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con” mà chúng ta vừa đọc nơi câu đầu của bài Phúc âm hôm nay.

Trước đó, Chúa Giêsu vừa nói cho các ông về những sự thật của một cuộc sống cao thượng hơn, một cuộc sống có triển vọng được triển nở vào trong cõi đời đời. Đừng sống ích kỷ như người giàu có đối với Ladarô, đừng làm gương mù gương xấu, đừng làm tội, nhưng hãy tha thứ cho nhau. Đó là những chuyện, những điều dạy khác thường, ngoại thường không thể tưởng tượng được của một số người sống xa cách Chúa, không tin có Chúa. Thường tình làm sao có được những chuyện đó.

“Lạy Chúa xin thêm đức tin cho chúng con”. Có thể các tông đồ đã nhìn thấy những điểm này và các ngài cảm thấy khó tin vào những lời Chúa dạy, nên các ngài đã xin Chúa thêm đức tin cho. Để tin Chúa và tin những gì Chúa dạy bảo, Chúa không đòi hỏi chúng ta một đức tin trọn vẹn ngay từ đầu, nhưng một đức tin có thể nói một thiện chí nhỏ ngay từ đầu, dù nhỏ như hạt cải. Xét về chiều kích vật chất thì hạt cải là nhỏ, nhưng về tinh thần và sức sống trong hạt cải thì điều đó chắc chắn là không nhỏ. Sự sống đó đến từ Thiên Chúa, đến từ Đấng Tạo hóa. Chúa chỉ cần chúng ta mở ra cho Ngài, và như vậy bước đầu tiên là cần một chút thiện chí cố gắng nơi mỗi người chúng ta để tin vào Ngài, để rồi từ đó Ngài sẽ khai triển đức tin chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, vững mạnh hơn.

Lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lậy Thày, xin thêm đức tin cho chúng con”. Chúng con đang sống giữa cảnh đời với nhiều thách thức, làm cho chúng con có thể bị lung lay; lung lay trong đức tin hay lạc mất đức tin.

Bài Phúc âm hôm nay nơi phần hai gợi lại cho chúng ta một bí quyết thêm nữa, đó là để phát triển đức tin cần phải có sự khiêm tốn. Khiêm tốn trước nhan Chúa, kể mình như không có công trạng gì để khoe với Chúa hay để đòi buộc Ngài phải làm điều này điều nọ cho chúng ta. Nhưng như là người đầy tớ trung tín khiêm nhượng, chu toàn những bổn phận Chúa trao phó cho chúng ta và nhìn nhận rằng, tất cả trong đời sống chúng ta đều là ân sủng của Chúa. Chúng ta khiêm tốn đón nhận, dù với những khuyết điểm. Chúng ta có đón nhận mọi hồng ân Chúa ban cho chúng ta, để rồi từ đó nhờ ơn Chúa chúng ta phát triển đức tin thêm lên mãi.

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được vững mạnh hơn trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

 

28. Đức tin và khiêm nhường

Có một vị ẩn tu nổi tiếng bên Ai Cập trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, ngài là một con người luôn lấy sự khiêm nhượng làm nền tảng cho tòa nhà tu đức. Một hôm, ngài và một số đệ tử cùng đi dạo trong sa mạc, thình lình có một con rắn lớn xuất hiện như muốn cản đường họ. Với phản ứng tự nhiên, tất cả mọi người kể cả vị thánh đều bỏ chạy.

Vài năm sau, vị ẩn tu đang hấp hối trên giường bệnh, các đệ tử hỏi ngài như sau:

– Thưa cha, hẳn cha còn nhớ ngày nọ khi chúng ta gặp một con rắn rất lớn, tất cả mọi người đều sợ hãi và bỏ chạy. Chúng con không hiểu tại sao cha cũng bỏ chạy. Phải chăng cha cũng run sợ như chúng con.

Con người thánh thiện ấy trả lời như sau:

– Không! Cha không hề sợ hãi trước con vật ấy. Thế tại sao cha cũng bỏ chạy như chúng con.

Vị ẩn tu đang hấp hối giải thích như sau:

– Lúc ấy cha nghĩ rằng, thà bỏ chạy còn hơn là dung dưỡng cho tính kiêu ngạo sẽ chồi lên trong cha sau này.

Kitô giáo đề cao sự khiêm nhượng như một trong những nhân đức nền tảng mà người tín hữu Kitô phải luôn trang bị cho mình. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ đề cao cảnh giác trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật sĩ. Họ quan niệm Thiên Chúa như một chủ chăn hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy theo công đức của mỗi người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí… là những việc lành mà Thiên Chúa ân thưởng bội hậu cho họ.

Sự giàu có và địa vị cao trọng của họ trong xã hội được họ xem như là một thứ ân thưởng rất công bình và hợp lý mà Thiên Chúa dành cho họ. Đánh giá như thế về công nghiệp của mình nên những người biệt phái và giàu có sẽ nhìn những người nghèo khổ bần cùng trong xã hội như những người tội lỗi bị bàn tay công thẳng của Thiên Chúa đang đè nặng trên họ.

Đối lại với những tính toán khôn lường và khôn ngoan ấy của những người biệt phái và giàu có, Chúa Giêsu đề ra lòng tin tưởng vô điều kiện mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Qua hình ảnh của người đầy tớ sau khi đã vất vả nhọc nhằn suốt ngày ở đồng áng, để rồi khi về nhà còn phải hầu hạ phục vụ ông chủ, Chúa Giêsu có ý nói rằng, tương quan giữa con người và Thiên Chúa là một tương quan chủ tớ.

Thiên Chúa mà Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho chúng ta là một người Cha yêu thương, nhân từ. Một Thiên Chúa là Cha yêu thương chỉ muốn con người luôn đặt tin tưởng phó thác nơi Ngài mà thôi. Sau khi đã làm hết phận sự của mình, người đầy tớ chỉ có thể thốt lên: “Tôi chỉ là một đầy tớ vô dụng”.

Hình ảnh của người đầy tớ tự cho mình là người vô dụng mà Chúa Giêsu sử dụng trong mạch văn này có ý nói rằng, con người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp nào của mình để buộc Thiên Chúa ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một cách nhưng không, và để đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên lòng tri ân và phó thác mà thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì mình làm được, con người chỉ có thể và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và phó thác.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh lại quan niệm về Thiên Chúa mà chúng ta đang có, cũng như cách diễn tả niềm tin của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không tính toán so đo với Chúa trên cách sống đạo của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không giơ tay cầu nguyện, xin lễ, ăn chay, hãm mình, còn làm bao nhiêu những việc lành phúc đức khác để cốt Thiên Chúa trả công và chúc lành cho những công việc làm ăn và cuộc sống của chúng ta. Phải chăng có những lúc chúng ta tự phụ rằng, những thành công và may mắn chúng ta đang có là một ân thưởng mà Thiên Chúa đã ban tặng vì công nghiệp và hy sinh của chúng ta.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào mối tương quan yêu thương với Thiên Chúa. Tình yêu đích thực không bao giờ so đo tính toán hơn thiệt. Tình yêu đích thực luôn mời gọi niềm tin tưởng và phó thác. Qua đó, con người mới thể hiện được chính lòng khiêm nhượng đích thực của Kitô giáo. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy luôn tâm niệm: “Nếu phải vênh vang thì tôi chỉ vênh vang về những yếu hèn của tôi mà thôi, nhưng nhờ đó mà quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện”.

 

29. Khiêm nhường và tin tưởng

Trong phạm vi đời sống tự nhiên cũng như siêu nhiên, tôi nhận thấy có nhiều người quá tự tin, luôn ỷ lại vào sức riêng của mình. Họ cho rằng những nhân đức hay những thành công họ gặt hái được, hoàn toàn do sức lực và tài năng riêng của họ, để rồi họ vênh vang tự đắc, coi trời bằng nửa con mắt.

Dĩ nhiên, tôi không phủ nhận rằng: tin tưởng vào sức lực và tài năng riêng của mình là điều tốt trong một phạm vi nào đó. Vì tục ngữ tây phương vốn thường bảo:

– Vouloir c’est pouvoir. Muốn là được.

Một khi mình đã dứt khoát lập trường và tiến hành không nghi ngại, thì kể như đã giải quyết được một nửa vấn đề. Vì thế, người xưa đã bảo:

– Thành như quả quyết, bại như do dự.

Hơn thế nữa, kinh nghiệm cũng cho thấy:

– Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu.

Bụng đói mà cứ nằm chờ cho sung rụng vào miệng, thì đến bao giờ một nhận được một trái.

Tuy nhiên, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy: tài năng và sức lực riêng của mình là điều cần, nhưng không phải là điều quyết định. Yếu tố căn bản cho mọi thành công, đó là tình thương và sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể.

Chẳng hạn trong đời sống tự nhiên, chúng ta ra sức cày sâu cuốc bẩm, vất vả đổ mồ hôi xuống trên ruộng đồng, nhưng nếu Chúa không cho mưa thuận gió hòa, thì mùa màng lúa thóc của chúng ta cũng khó mà trúng được. Vì thế, thánh Phaolô đã quả quyết:

– Phaolô trồng, Apollô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là đấng làm cho đâm bông kết trái.

Chẳng hạn trong đời sống trí thức, chúng ta chăm chỉ căm cụi học hành để được thi đỗ, để được trau dồi thêm những kiến thức cần thiết, làm giàu cho bản thân và làm đẹp cho cuộc đời, nhưng nếu Chúa không ban cho khỏe mạnh, nay yếu mai đau, thì công việc học hành của chúng ta cũng sẽ bị cản trở.

Chẳng hạn trong đời sống siêu nhiên, chúng ta muốn khử trừ một nết xấu, nhưng nếu không có ơn Chúa trợ giúp, thì điều chúng ta dốc quyết chưa chắc đã được ba bảy hai mươi mốt ngày, để rồi cuối cùng bị rơi vào quên lãng, mèo vẫn hoàn mèo, chó đen vẫn giữ mực và chúng ta vẫn chứng nào tật ấy.

Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa đã phán:

– Không có Thầy, các con không thể làm gì được.

Hay như lời tục ngữ Việt Nam cũng đã xác quyết:

– Mưu sụ tại nhân, thành sự tại thiên.

– Không thầy đố mày làm nên.

Trong mọi hoàn cảnh, hãy khiêm nhường và tin tưởng vào Chúa. Đồng thời, cùng với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta dù tài năng thấp kém cũng có thể làm được những việc kỳ diệu.

Năm 1683, đoàn quân Thổ Nhĩ Kỳ tiến đến kinh thành Vienne, đe dọa toàn thể thế giới công giáo. Tình hình đen tối. Phương tiện lại thiếu thốn. Mặc dầu vậy, Đức thánh cha Innôcentê XI, một mặt kêu gọi mọi người cầu nguyện, nhất là lần hạt mân côi. Một mặt hoài giải những bất đồng giữa các vua chúa, kêu gọi họ sát cánh bên nhau để chiến đấu, cũng như tin tưởng Chúa sẽ phù trợ.

Khắp nơi đều vang lên những tiếng khẩn cầu tha thiết. Và sự gì phải đến, đã đến. Đoàn quân công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lépante, giải thoát toàn thể Âu Châu khỏi sự tàn phá của Thổ Nhĩ Kỳ.

Chúng ta đừng bao giờ quên rằng:

– Không có Chúa, chúng ta không thể làm gì được. Nhưng với Chúa, chúng ta có thể làm được mọi sự.

Hãy tin tưởng và phó thác vào Chúa, như lời khuyên của thánh Phanxicô Salêsiô:

– Chúng ta có thể hái những bông hoa bên vệ đường, miễn là bàn tay phải nắm chặt lấy Chúa.

Cũng vậy, trong khi thu lượm những thành quả trần thế, hãy giơ một bàn tay cho Chúa, đừng bao giờ rời xa Ngài, vì nếu Ngài không gìn giữ chở che, chắc chắn chúng ta sẽ té ngã.

Hãy làm việc như chỉ có mình chúng ta. Đồng thời hãy tin tưởng như kết quả chỉ do một mình Thiên Chúa ban mà thôi.

 

30. Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn hay nhỏ?

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

Có lẽ để chọc quê các tông đồ mà Chúa Giêsu đã có một so sánh kỳ lạ: râu ông cắm cầm bà! Khi các tông đồ xin thêm đức tin, Chúa Giêsu đã so sánh: “nếu anh em có đức tin bằng hạt cải…” Ngài có so sánh kỳ lạ, bởi vì làm sao so sánh đức tin với hạt cải được, làm sao so sánh phẩm chất với khối lượng được. giống như làm sao ta có thể nói nếu ngươi đẹp bằng 200g thì ngươi sẽ thành tiên. Nếu ngươi có lòng tốt dài 5cm thì ngươi sẽ thành thánh. Nếu ngươi có lòng đạo đức hình tròn thì ngươi sẽ được vào Nước Chúa. Vậy khi Đức Giêsu nói: nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, Ngài có lộn phạm trù không? Có phải Ngài chọc quê các tông đồ không vì chính các ông cũng có lẽ hiểu như vậy: xin thêm đức tin ; có một ít rồi, xin thêm nữa, nên Ngài hùa theo coi đức tin là vật có thể cân đo đong đếm giống như một hạt cải, hai hạt cải…

Có lẽ Đức Giêsu không lộn phạm trù, không chọc quê các môn đệ đâu. Vậy Chúa Giêsu muốn nói gì khi tuyên bố: “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải.”

  1. Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn lắm

Không biết có phải Đức Giêsu tiên báo trước hay không, chứ sau này chính nhà bác học Einstein đã tìm ra công thức liên hệ giữa phẩm chất và khối lượng, giữa ánh sáng và vật chất. Công thức E = mc2 nổi tiếng của Einstein được dùng để tính toán năng lượng phát ra khi nguyên tử (vật chất) biến thành ánh sáng (phẩm chất). E = mc2 (trong đó E là năng lượng phát ra, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). Vận tốc ánh sáng mà bình phương lên sẽ là 90 ngàn triệu triệu. Vì thế tuy khối lượng rất nhỏ – ta ví những hạt cải – nhưng giải phóng một năng lượng rất lớn (nhờ nhân với vận tốc ánh sáng bình phương). Ta thấy các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân, chỉ cần một khối lượng nhỏ bé, mà phát ra một sức nổ kinh khiếp, một sức nóng trên một triệu độ. Các nhà máy điện nguyên tử chỉ cần một thỏi nhỏ Plutanium mà phát ra biết bao năng lượng, biết bao điện lực thay cho bao nhiêu triệu triệu tấn dầu, bao nhiên tỉ tỉ mét khối hơi đốt. (Việt Nam cũng đang muốn ngấp nghé làm nhà máy điện nguyên tử tại Bình Thuận). Ngược lại cũng thế, để phẩm chất có thể kết thành khối lượng, cho dù rất nhỏ cũng đòi hỏi một năng lượng lớn lao. Cha ông chúng ta thường kể khi sấm sét (tia sáng) đánh xuống một nơi nào đó, tia chớp đó phải mạnh lớn lắm mới để lại trên đất một lưỡi tầm sét. Ánh sáng phải lớn lắm phải nhiều lắm mới có thể kết tinh thành một vật, một khối (tức có thể cân đo đong đếm).

Đức tin ví như ánh sáng, như phẩm chất. Để có thể kết tinh lại, cho dù là kết tinh lại chỉ bằng một hạt cải thôi, cũng phải có “nhiều” đức tin lắm mới thành được. Chẳng thế mà ít ai có được đức tin bằng hạt cải để có thể bảo cây dầu to lớn nhổ rễ mọc dưới nước, hay kiểu nói của Matthêu: chuyển núi dời non, khiến cả ngọn núi lớn to nhào lăn xuống biển.

Tuy nhiên đức tin bằng hạt cải cũng có nghĩa là đức tin nhỏ bé.

  1. Đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ lắm.

Cắt nghĩa này xem ra nghịch với giải thích chúng ta vừa phân tích: đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn lắm. Ở đây đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ bé. Ta thử tìm hiểu.

Nếu Đức Giêsu là người Việt Nam, thì Ngài sẽ nói: Nếu đức tin của anh em bằng con kiến. Khi người Việt Nam ta so sánh cái gì với vật nhỏ nhất thì ta thường đem con kiến ra. Nhỏ như con kiến. Mỗi dân tộc có lối sánh vì riêng. Việt Nam nói: câm như hến. Tây nói: câm như cá chép. Ta nói điếc như trâu, thì Tây nói: điếc như hũ (sourd comme un pot). Vậy ta nói nhỏ như kiến, thì người Do thái ví nhỏ như hạt cải.

Đức tin bằng hạt cải, tức là đức tin nhỏ bé. Nếu anh em có một chút xíu đức tin thôi, cho dù là một chút xíu, nhưng nó là có, chứ không phải là không, Nó là ranh giới giữa có và không.

Tin Mừng Marcô 9,17tt ghi: Một người cha có đứa con bị quỉ ám từ bé. Quỉ làm cho đứa bé xùi bọt mép, đổ nhào xuống đất, nhiều lần quỉ dẫn bé xuống nước để bé suýt chết chìm, dẫn vào lửa suýt chết cháy. Người cha chữa chạy nhiều nơi mà không khỏi. Cuối cùng mới dẫn tới Chúa Giêsu với lời xin: Nếu Thầy có thề, xin thương tình cứu giúp chúng tôi. Chúa Giêsu nói: Nếu có thể thôi à, mọi sự đều có thể cho kẻ nào tin. Và người cha thưa lại: Thưa Thầy, tôi tin, nhưng xin Thầy giúp tôi vì lòng tin của tôi còn yếu lắm. Và Chúa Giêsu đã chữa lành. Ngài không cần chờ đến lúc đức tin của người cha lớn mạnh lên rồi mới chữa. Miễn là tin, dù một chút xíu thôi, bằng hạt cải, bằng râu của con kiến cũng đủ.

Khi Chúa Giêsu nói: đức tin bằng hạt cải, ta giải thích là đức tin lớn lắm. Rồi ta lại giải thích đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ bé. Làm sao dung hoà? Dung hoà là: đức tin nhỏ bé như hat cải nhưng phải lớn lên không ngừng. Lúc khởi sự thì bé nhỏ như hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các thứ hạt (đức tin nhỏ bé), nhưng khi mọc lên thì trở thành cây to lớn đến nỗi chim trời có thể đến nương náu (đức tin lớn lao). Ta có thể xem lối giải thích này như một dung hoà cho hai cực mà chúng ta vừa tìm hiểu trên. Nhà giảng thuyết nổi tiếng của Mỹ H.Spurgeon đã nói: “Anh em hãy có đức tin. Đức tin nhỏ bé sẽ đưa anh em về Thiên đàng. Đức tin to lớn sẽ đưa thiên đàng đến với anh em.” Rõ ràng cả hai cùng đưa tới một mục tiêu, một cùng đích.

Tại Lộ Đức, người ta thấy bức tượng cẩm thạch tạc một người mù được phép lạ của Đức Mẹ chữa cho sáng mắt. Nhưng bức tượng này không phải do người mù được sáng mắt trở lại dâng tặng tạ ơn, mà do một bà quí phái cho tạc và dựng tại Lộ Đức, với dòng chữ đáng lưu ý: “Tìm lại được đức tin còn vĩ đại hơn là được sáng mắt.” Bà này đã mất đức tin. Tình cờ đi qua Lộ Đức thấy cảnh tượng nhiều người tin tưởng chạy đến với Đức Mẹ, nên bà tìm lại được niềm tin. Chúng ta những kẻ đến nhà thờ đây, có lẽ không phải là kẻ mất đức tin. Chắc là còn, dẫu một chút như hạt cải. Lời xin của chúng ta sẽ là bắt chước các tông đồ: xin thêm đức tin, đặc biệt trong hai tháng cuối của Năm Đức Tin này, để ta có thể tin trọn vẹn, tin mạnh mẽ những điều ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính đây.

 

31. Đức tin

Có lẽ chúng ta bỡ ngỡ và thắc mắc: Tại sao Chúa Giêsu lại so sánh đức tin với hạt cải? Hạt cải đây không phải là cải bẹ, cải bắp hay cải hoa, mà là một thứ cải đặc biệt ở xứ Palestin, nhỏ hơn hạt quả trứng cá, mà cây thì tương đương với cây trứng cá cao khoảng 4 – 5 thước. Hạt cải nhỏ bé như vậy mà chẳng lẽ người tín hữu Chúa lại không có được một lòng tin nhỏ bé như thế sao? Nếu có, thì tại sao họ không thực hiện được những việc vĩ đại kỳ lạ như Chúa đã hứa? Vậy, hoặc là họ không có một chút đức tin nào, dù chỉ bằng hạt cải. Hoặc là lời Chúa phải có ý nghĩa khác?

Đúng vậy, khi lấy hạt cải làm thí dụ, Chúa không có ý dạy rằng đức tin có thể đo lường được, vì không những đức tin thuộc lãnh vực tinh thần, thiêng liêng mà còn là một yếu tố siêu nhiên, siêu phàm mà chúng ta chỉ lãnh hội được qua dấu hiệu hay việc làm bên ngoài thôi. Thực vậy, người ta không thể nhìn thấy đức tin, vì nó không phải là vật chất. Nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc thế giới tính thần. Người ta không thể thấy được nó, nhưng có thể biết nó có, nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Thí dụ: tôi có đức tin không, chẳng ai biết nhưng khi thấy tôi đi lễ, thấy tôi đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được tôi là người có đức tin. Vì tin có Chúa, tôi mới đi lễ để thờ phượng Ngài, tôi mới nghiêm trang để tôn kính Ngài. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ, mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.

Tuy nhiên, đức tin không phải là một năng lực diệu kỳ ban cho chúng ta để chúng ta làm những chuyện động trời, giật gân như những nhà ảo thuật, pháp sư hay phù thủy cao tay ấn hầu trình diễn cho mọi người giải trí. Vì thế, khi Chúa Giêsu nói đức tin bằng hạt cải có năng lực chuyển núi rời non, truyền khiến cho cây khô héo, hoặc tự bứng đi xuống sống dưới biển, Ngài chỉ có ý đề cập tới sức mạnh siêu phàm của đức tin mà thôi. Cũng như người ta không thể đo lường đức tin như đo lường hạt cải, thì đức tin cũng không phải dùng để làm trò ảo thuật. Việc chuyển núi rời non không phải chỉ tùy thuộc vào đức tin mà còn tùy ở nhiều yếu tố khác nữa.

Chúng ta có đức tin không? Chúng ta cần phân biệt niềm tin và đức tin. Niềm tin thì ai ai cũng có. Còn đức tin thì chỉ những ai đã lãnh bí tích rửa tội mới có mà thôi. Vậy tất cả chúng ta đều có đức tin. Nhưng hiện giờ đức tin của chúng ta thế nào? Có lẽ vẫn còn rất yếu kém phải không? Có bao giờ chúng ta noi gương các tông đồ xin Chúa gia tăng đức tin cho chúng ta không? Các tông đồ xin Chúa gia tăng đức tin, có nghĩa là các ngài đã có đức tin, nhưng còn yếu kém, chúng ta cũng vậy, chúng ta đã có đức tin, nhưng còn yếu kém, chúng ta phải xin Chúa gia tăng đức tin để chúng ta sống và hành động theo đức tin.

Người ta kể rằng: tại một giáo xứ kia, người ta tụ họp nhau rất đông trong nhà thờ để cầu xin Chúa cho trời đổ mưa, vì trời hạn hán quá lâu rồi, trong khi mọi người đến nhà thờ cầu nguyện thì có một em thiếu niên cũng đến và đem theo một cái dù. Mọi người thấy em cầm cây dù tới nhà thờ thì xì xào với nhau: “Thật là dở hơi, trời đang hạn hán ai mà lại mang dù đến thế kia”. Cậu bé trả lời: “Ông bà cầu xin Chúa cho mưa, ông bà tin như thế phải không? Chắc chắn là Chúa sẽ cho mưa, nên tôi phải đem dù theo để lát nữa còn về được”. Quả thật, Chúa liền cho một trận mưa thật lớn sau giờ cầu xin của mọi người. Nhưng có lẽ không phải vì đức tin của những người khác mà là do đức tin vững chắc của em thiếu niên đem theo cây dù kia.

Tôi xin nói thêm một chút nữa: cũng giống như mọi tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được triển nở, cần phải được sinh lợi. Năng khiếu không được rèn luyện sẽ mai một với thời gian, một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta diễn tả đức tin bằng những việc đạo đức, và chúng ta còn phải nuôi dưỡng đức tin bằng nhiều cố gắng khác nữa, nhất là sống quảng đại, vị tha và yêu thương.

Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta không ngừng ra khỏi cái nhìn gò bó, hẹp hòi của chúng ta, và không ngừng nhận ra Ngài vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận Ngài trong những biến cố bất ngờ và nghịch thường nhất. Xin Ngài ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận Ngài trong mọi người anh em, nhất là nơi những người thấp hèn, những người bất hạnh, và ngay cả nơi những người thù ghét chúng ta.

Người Kitô hữu tin vào tình yêu Chúa Kitô, tin vào bản thân Ngài. Đức tin ấy không chỉ là hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một đức tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin, có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.

Người Kitô hữu luôn được mời gọi lớn lên trong đời sống đức tin của mình. Đức tin là một mầm sống phải không ngừng được triển nở và lớn lên mãi. Người Kitô hữu cần được lớn lên mỗi ngày. Nhưng giữa những thực tế của cuộc đời, biết bao bóng tối có thể bủa vây chúng ta, có thể làm chúng ta sợ hãi. Những lúc ấy đức tin non yếu của chúng ta dễ dàng bị lung lay. Chính vì thế chúng ta luôn phải cầu xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.

 

32. Niềm tin

Thử thách đau khổ là điều chúng ta không thích lắm. Vậy mà chúng ta vẫn gặp trong cuộc đời. Thế nhưng nếu biết tín thác vào Thiên Chúa, vươn lên bằng một sức mạnh của niềm tin. Sứ điệp lời Chúa hôm nay sẽ giúp chúng ta củng cố và khám phá lại xem niềm tin của mình lãnh nhận từ đâu? Và chúng ta đón nhận sức mạnh niềm tin đó bằng cách nào và thể hiện niềm tin đó ra sao trong môi trường sống của mình. Tôi đã chấp nhận điều mình không thấy dựa vào lời chứng của người khác đáng tín nhiệm hơn. Thiên Chúa luôn đi bước trước đến với con người trong việc thể hiện niềm tin, nếu Ngài không giúp, không ban sức mạnh, chúng ta không thể dấn thân và hướng về Ngài được. Bởi vậy, đức tin trước hết là một hồng ân, một món quà chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa một cách nhưng không, nhưng rất có giá trị. Vì thế, người Kitô hữu không được tự mãn với giá trị đó nhưng phải khao khát tìm kiếm như các tông đồ hôm nay trong bài Tin Mừng này, tìm Ngài xin Ngài hướng đi.

Trong những năm tháng đi theo Thầy, sống bên Thầy, học cùng Thầy, các tông đồ vẫn chưa đặt trọn cả con tim, tấm lòng của mình vào Thầy, bởi thế đứng trước những khó khăn, điều khiển cộng đoàn, các ông cảm thấy chưa đủ can đảm để chu toàn bổn phận cao cả ấy, nên đã chạy đến cầu cứu Thầy gia tăng sức mạnh để gánh vác cộng đoàn. Tại sao các ông lại khao khát đến thế? Bởi vì các ông đang cần, đang thiếu nên mới xin Thầy ban cho, ban thêm đức tin cho mình. Trong khi các ông đang khao khát một lòng tin vững mạnh thì Thầy lại ban cho một hạt đức tin bé nhỏ như hạt cải. Trước lời cầu xin đó Chúa mời gọi các ông ý thức lại tầm quan trọng và giá trị của niềm tin mình. Bằng cách hãy rời bỏ chỗ đứng của mình chuyển sang chỗ đứng đức tin, rời xa tầm nhìn của mình chuyển đến tầm nhìn đức tin. Ngày nay khi khoa học ngày càng phát triển, người ta tin vào nỗ lực tri thức mình hơn là tin Chúa. Theo bạn nghĩ gì về vấn đề này? Như thế để có được sức mạnh của niềm tin người tông đồ phải làm gì? Thiết nghĩ rằng cần mở lòng đón nhận qua sự gặp gỡ và cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống mình.

Cảm nhận sự hiện diện Thiên Chúa sẽ giúp người ta đón nhận được niềm tin đối diện với thử thách trong việc lựa chọn: dấn thân hay lùi bước, củng cố niềm tin hay đành đánh mất niềm tin. Cần sống tích cực hơn để tránh rơi vào tình trạng ngã lòng, kêu trách Thiên Chúa như dân Cựu ước năm xưa mà ngôn sứ Habacúc trong bài đọc I vừa nêu lên cho chúng ta. Cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa còn là tin Chúa, để Chúa lôi kéo, dẫn đi, biến đổi và gia tăng sức mạnh giúp người tông đồ can đảm chịu đựng đau khổ, không hổ thẹn làm chứng cho Tin Mừng như bài đọc II trong thư thứ 2 thánh Phaolô tông đồ gửi cho Timothê vừa nhắn gửi chúng ta tư tưởng này. Vì thế đón nhận niềm tin là dịp để chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và tín thác vào Ngài.

Gặp gỡ Thiên Chúa là tín thác vào Ngài để lãnh nhận một sức mạnh mới thôi thúc người tông đồ dám mạo hiểm trong cách nghĩ, dám hành động trong cách làm ngay cả những công việc vượt sức con người. Gặp gỡ Chúa trong niềm tin giúp người ta dễ dàng qui hướng về Chúa, vượt ra khỏi sự hiểu biết hạn hẹp nơi mình. Lúc đó, người ta mới có đủ sức mạnh để chuyển núi dời non… mới phát sinh hiệu quả kỳ diệu trong cuộc sống và thể hiện hoa trái của niềm tin.

Sống đức tin đòi người ta phải hành động như lời thánh Giacôbê: “Đức tin không hành động là đức tin chết”. Hành động ở đây là hành động vô vị lợi, phục vụ nhưng không. Cách phục vụ này ngoài đời rất khó gặp, bởi vì không ai làm công không cho người khác bao giờ. Để đức tin sinh ơn ích, người Kitô phải sống như người đầy tớ tầm thường trước mặt Chúa, phải hành động như người làm công vô dụng, vô dụng không phải là vô tích sự nhưng có nghĩa là chu toàn bổn phận những công việc hàng ngày một cách khiêm nhường không cần ai biết đến, không tìm quyền lợi cho mình. Đó là cách trao ban niềm tin, phục vụ niềm tin cho người khác.

Đã đón nhận thì phải có trao ban, trao ban với tinh thần trách nhiệm: Không đòi Chúa trả công, bắt người ta đền ơn mình. Vì đức tin chúng ta lãnh nhận nhưng không từ Thiên Chúa thì giờ đây chúng ta phải trả lại nhưng không trong việc trao ban tình thương, chia sẻ tình bác ái cho tha nhân.

Là người Kitô hữu: không phải lúc nào niềm tin của chúng ta cũng vững mạnh cả đâu: có những lúc tôi cảm thấy có Chúa, tin Chúa, yêu Chúa bởi vì tôi gặp điều tốt lành, nhận nhiều hồng ân…

Có những lúc tôi cảm thấy không có Chúa, chán Chúa, đâm ra nghi ngờ không tin Chúa nữa bởi vì tôi gặp nhiều bất hạnh đau khổ, thử thách: cháy nhà, gặp tai nạn, thiên tai, lũ lụt, mất mùa, mất nhà, mất của mất người thân, hoặc thất nghiệp, thất bại, thất tình… Những lúc đó chúng ta đừng quá bi quan nhưng cần phải bình tĩnh suy nghĩ lại cho dù ta có đay nghiến ông trời, nguyền rủa Thiên Chúa, than thân trách phận, chúng ta cũng không tránh khỏi những đau khổ thử thách. Cho bằng chúng ta:

. Hãy lắng nghe tiếng Chúa, ý Chúa muốn tôi trong hoàn cảnh nào?

. Cầu nguyện, đón nhận, phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa.

Niềm tin luôn là một ân huệ Chúa ban: nên để có được sức mạnh niềm tin mình, người tông đồ cần phải biết mở lòng đón nhận, khao khát tìm kiếm ơn Chúa và thể hiện trong cuộc sống để niềm tin chúng ta mỗi ngày càng sinh nhiều hoa trái. Hoa trái này cần phải cụ thể bằng một quyết tâm cho mình: “Sống điều mình tin bằng việc yêu thương, giúp đỡ, nâng đỡ anh em đang gặp thử thách bên chúng ta”.

 

33. Đức tin

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca ghi lại 2 điều Chúa Giêsu căn dặn những kẻ muốn làm môn đệ Ngài.

Điều thứ nhất về đức tin: Câu chuyện khởi đầu với lời xin của các tông đồ “Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con”. Ta hãy chú ý họ là các tông đồ chứ không phải chỉ là môn đệ thường. Họ đã từng sống với Chúa Giêsu một thời gian dài, nghe biết bao điều Ngài giảng dạy, thấy biết bao điều Ngài làm. Họ là thành phần ưu tú được chọn riêng ra trong số 72 môn đệ. Thế mà họ vẫn cảm thấy mình thiếu đức tin.

Các tông đồ mà còn cảm thấy thiếu đức tin, thì huống chi chúng ta! Nhiều khi chúng ta quỳ chầu trước Thánh Thể mà hình như không tin có Chúa đang ngự trong nhà tạm. Nhiều khi chúng ta rước lễ mà hình như không tin có Chúa đang thực sự ở trong lòng ta. Và nhiều khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hình như không tin lời Chúa dạy “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”. Mặc dù chúng ta đã học giáo lý nhiều, đã đọc Thánh Kinh nhiều, nhưng tại sao chúng ta không vững đức tin? Như thế đủ biết đức tin không phải là kết quả của học hỏi, của kiến thức. Đức tin chính là một ơn ban. Tại sao rất nhiều bậc thông thái không có đức tin. Còn chúng ta không thông thái gì, thế mà có đức tin. Rõ ràng vì Chúa thương chúng ta nên ban đức tin cho chúng ta. Và chính vì đức tin là một ơn ban, cho nên chúng ta phải xin như các tông đồ ngày xưa: “Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.

Đức tin không phải là kết quả của học hỏi và của kiến thức. Ngược lại nhiều khi càng học biết nhiều thì càng khó mà tin. Tại sao thế? Thưa tại vì trong đức tin luôn có một phần mờ tối, khi ta tin thì luôn có một phần mạo hiểm. Nếu tất cả đều sáng tỏ hết rồi ta mới tin thì đấy không phải là đức tin. Nếu tất cả đều chắc chắn rồi ta mới dấn thân thì đấy cũng không phải là một hành vi đức tin. Đức tin luôn có phần mờ tối, tin luôn đòi ta mạo hiểm dấn thân. Nhưng nói thế không phải là chúng ta tin cách mù quáng, trái lại chính vì chúng ta yêu. Xin lấy một thí dụ trong đời thường: ở một vùng kinh tế mới nọ, có một thanh niên và một thiếu nữ quen nhau. Mỗi người họ đến từ một miền khác nhau. Quen nhau một thời gian rồi họ yêu nhau. Và một hôm người thanh niên ngỏ lời xin cưới cô gái. Cô gái ưng thuận ngay. Người thanh niên mới hỏi: Em không biết gốc gác của anh, không biết gia đình anh, em không sợ bị anh gạt hay sao mà dám giao phó cuộc đời cho anh? Cô gái đáp: không. Anh chàng hỏi thêm: Tại sao? Và cô gái trả lời rất gọn: vì em yêu anh.

Người con gái ấy vì yêu nên đã tin người thanh niên nọ. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta yêu Chúa thì chúng ta mới tin Chúa được, yêu càng nhiều thì tin càng mạnh. Cho nên ngoài việc xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng yêu mến cho chúng ta.

Điều thứ hai Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là: người môn đệ Chúa phải biết phục vụ, và phục vụ cách vô vụ lợi. Giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày, sau khi đã chăn chiên rồi về nhà còn phải dọn cơm cho chủ, đứng đó hầu hạ chủ, rồi dọn dẹp. Xong xuôi hết thì nói “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”. Nhiều chuyên viên Thánh Kinh nói rằng dịch chữ vô dụng không được đúng lắm. Ý nghĩa của nó là “Tôi chỉ là một người đầy tớ mà thôi, không hơn không kém”. Người đầy tớ thì đương nhiên phải phục vụ, phục vụ là bổn phận của người đầy tớ. Cho nên dù có phục vụ nhiều thì cũng không có gì là công lao để đòi chủ biết ơn.

Khi Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ để làm bài học cho các môn đệ, Ngài muốn nhắc chúng ta rằng làm môn đệ, làm tông đồ chính là làm đầy tớ. Bởi thế Đức Giáo Hoàng xưng mình là “Đầy tớ của các đầy tớ”.

Có một điểm rất sâu sắc về từ ngữ: trong Thánh Kinh, chữ “phục vụ” vừa chỉ việc làm của một người đầy tớ đối với chủ, vừa chỉ việc làm của người tín hữu phụng thờ Chúa. Tế lễ là phục vụ Chúa. Như thế, khi chúng ta phục vụ người ta thì cũng có nghĩa là chúng ta đang phụng thờ Chúa. Và nếu như suốt ngày chúng ta lo phục vụ anh em thì điều đó có nghĩa trọn ngày hôm đó của chúng ta là một thánh lễ nối dài.

 

34. Đức tin giúp con người hạnh phúc

Trong một lần đi chia sẻ với các em sinh viên tại bờ hồ cạnh ký túc xá Tân Phú Thủ Đức, một em sinh viên khi chia sẻ trả lời câu hỏi “Là Kitô hữu, bạn được gì?” nói: “người bạn trong phòng của em thấy em thường cầu nguyện ban tối trước khi ngủ cũng như đi lễ Chúa Nhật, có lần đã nói với em: bạn có đạo, bạn hạnh phúc hơn mình, vì bạn có Chúa. Khi bạn buồn bạn có Chúa để nói, còn mình không có Chúa và bạn thân không ở gần, nên khi có điều buồn chẳng biết chia sẻ cùng ai”. Đức tin không vô bổ như có một số người hay “rêu rao”. Đức tin giúp con người vượt qua những khủng hoảng trong cuộc sống, giúp người ta sống an bình và chấp nhận cuộc đời.

Nhờ tin, được sống

Đức tin cứu độ không chỉ là tin có Thiên Chúa. Vì tin có Thiên Chúa, ngay cả ma quỷ cũng tin có Thiên Chúa (Gc.2, 19). Tin có Thiên Chúa, chưa đủ để giúp con người vượt qua những khó khăn và được bình an trong cuộc sống. Đức tin cứu độ, là tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài đang làm những điều tốt nhất cho mình.

Đức tin cũng là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người. Không có ơn Thánh Thần, con người không thể tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chính đức tin tuyệt đối vào Thiên Chúa này, mà con người xin Thiên Chúa “gia tăng lòng tin của chúng con”. Đức tin, cũng bao hàm thái độ phó thác tất cả nơi Thiên Chúa. Thái độ phó thác chỉ có, khi tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa yêu thương mình. Chính thái độ tin này, làm con người bình an ngay trong nghịch cảnh, ngay khi những điều trái ý đang xảy ra với mình, ngay cả khi dưới con mắt nhân loại đó là tuyệt vọng.

Trong cuộc sống, ai lại không gặp những khó khăn. Có những lúc, ngay cả những người thân yêu cũng như thể chẳng hiểu mình, như thể mình cô độc trên đời. Tin vào Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình, Ngài sẽ giúp mình vượt qua sự cô độc đó. Có nhiều trường hợp gặp quá nhiều khủng hoảng, một người muốn tự tử để “được giải thoát” khỏi tất cả. Tuy vậy, vì tin rằng Thiên Chúa yêu thương và Ngài tạo dựng mình, Ngài yêu thương mình, và nếu có ai làm hại mình thì Thiên Chúa vẫn có thể lèo lái để ngay cả điều hại cũng thành tốt cho mình, nên người đó đã vượt qua khủng hoảng kinh khiếp đó. Cũng có thể mình và gia đình mình gặp gian nan thử thách như thể không thể vượt qua, tin vào Thiên Chúa yêu thương và phó thác tất cả cho Ngài, sẽ giúp mình và gia đình vượt qua những gian nan thử thách.

Kinh Thánh Cựu Ước có rất nhiều trình thuật cho thấy lòng tin của con người đối với Thiên Chúa. Chẳng hạn ông Nô-ê đóng tàu trong một hoàn cảnh không có gì đe dọa, và cam chịu những tiếng cười chê khinh bỉ (St.6, 5tt). Khi lụt hồng thủy đến, ông và gia đình đã sống nhờ chiếc tàu. Chính nhờ tin và vâng lời Thiên Chúa, mà ông và gia đình đã được cứu.

Đức Maria- người tin tuyệt đối vào Thiên Chúa

Hôm nay là lễ Mân Côi (07.10.01), cũng là dịp chúng ta nhìn lên Đức Mẹ, để thấy Mẹ tin vào Thiên Chúa như thế nào. Nhiều người Công Giáo chịu ảnh hưởng bởi quan niệm Đức Maria được Thiên Chúa yêu thương và được chuẩn bị cho là Mẹ Thiên Chúa, nên nhìn Đức Maria như thể rất xa vời với mình, bởi vậy khó nhận ra Đức Mẹ có những điểm giống mình và mình được mời gọi nhìn lên Mẹ để noi gương bắt chước.

Hãy nhìn Mẹ trước biến cố truyền tin, như bất kỳ một cô gái nhà quê nào khác ở Nazarét. Maria đã yêu Yuse và muốn lập gia đình với Yuse như chuyện thế gian thường tình. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp, và Maria đã chấp nhận đề nghị của Thiên Chúa bất chấp:

Nguy cơ mất người mình yêu mến là Yuse, vì làm sao Yuse có thể hiểu “tự nhiên” mà Maria có thai;

Nguy hiểm đến tính mạng, vì chỉ cần Yuse nói sự thật, cái thai đó không phải của Yuse, thì tính mạng Maria vô cùng nguy hiểm. Luật Do Thái truyền ném đá những người ngoại tình;

Danh tiếng gia đình bị ô nhơ, vì con gái “không chồng mà có con”.

Với tất cả những điều này, Maria vẫn thưa tiếng xin vâng, nghĩa là, Maria chọn Thiên Chúa trên tất cả, trên cả tình yêu riêng của mình, trên cả danh giá gia đình, trên cả mạng sống của mình. Maria chỉ có thể thưa tiếng xin vâng, khi Maria tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa sẽ lo tất cả cho mình.

Mẹ Maria tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, và sẵn sàng để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn trên cuộc đời mình. Chính điều này, làm Mẹ trở thành người tuyệt vời. Thái độ này không chỉ xảy ra một lần trong cả đời của Mẹ, nhưng đã liên tục xảy ra suốt đời của Mẹ, chẳng hạn như lúc sinh hạ Con trong chuồng chiên cừu, khi Đức Giêsu cố tình ở lại đền thờ, khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. Cuộc đời của Mẹ, có lẽ còn nhiều gian nan và thập giá hơn cuộc đời mỗi người chúng ta. Chúng ta được mời gọi, để có thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa như Mẹ.

Nếu có đức tin bằng hạt cải

Đức Giêsu nói: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, anh em có thể nói với cây dâu này, nhổ rễ và chuyển xuống biển mà mọc, thì nó sẽ vâng lời”. Không ai đã làm như vậy, hoặc vì không ai có đức tin bằng hạt cải, hoặc vì những điều “lạ thường” đó vẫn đang xảy ra mà con người không nhận ra thôi. Chính Đức Giêsu cũng không chuyển núi dời non, nhưng Ngài đã làm những điều rất “không bình thường” trong cuộc sống: Ngài đã chấp nhận cái chết, cái chết ô nhục trên thập giá, vì yêu.

Xin Chúa cho chúng ta có đức tin “bằng hạt cải”, hầu có thể khiêm tốn và kiên nhẫn phục vụ anh em trong cuộc sống thường ngày. Xin cho chúng ta có đức tin tuyệt đối vào Thiên Chúa tình yêu, hầu chúng ta sống hạnh phúc không chỉ ở đời sau, nhưng ngay ở đời này và ở đây, giây phút này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Để có thể phục vụ cách khiêm tốn, có cần đức tin không? Tại sao?
  2. Không đức tin, con người có thể sống hạnh phúc không? Tại sao?
  3. Với kinh nghiệm bản thân, đức tin (tin vào Thiên Chúa) giúp gì cho bạn?

 

35. Ba con đang bị đè dưới đó

Có một câu chuyện hay về một bác nông dân đi tản bộ trên đường. Ông gặp một cậu bé đang nhìn chán nản vào một bó cỏ khô rơi từ chiếc xe ngựa của cậu. Bác nông dân thương xót cậu bé và nó với cậu, “Cậu trẻ, tôi đang trên đường đi ăn trưa, đi với tôi. Sau khi đã ăn uống nghỉ ngơi rồi, tôi sẻ trở lại đây với cậu rồi chúng ta hợp sức đưa bó cỏ này lên xe của cậu.” Cậu bé trả lời, “Con không nghĩ là ba con muốn con làm như thế.” Thế nhưng ý chí của bác nông dân sau cùng cũng thuyết phục và cậu bé đã đi ăn trưa với bác nông dân. Hai tiếng đồng hồ sau, sau khi đã nghỉ ngơi và khoẻ mạnh lại, họ đã trở lại chỗ chiếc xe ngựa. Trong khi họ ra sức đưa bó cỏ lên xe, bác nông dân thầm nghĩ rằng tại sao một cậu bé lại chịu một trách nhiệm di chuyển một bó cỏ nặng này. Ông liền hỏi cậu bé, “Ba con đâu?” Cậu bé trả lời, “Ba con đang bị đè dưới bó cỏ!” Tôi xin mạo muội nói rằng có rất nhiều lúc chúng ta cảm thấy cả một gánh nặng đang đổ ập trên chúng ta và chúng ta cần Chúa Giêsu đến để giải thoát chúng ta.

Sau khi đã suy niệm kỹ càng về những nghi vấn này, nhà tâm lý học Carl Jung đã viết, “Tôi chỉ còn mong ước mọi Kitô hữu ngày nay có thể nhìn thấy rằng những gì mà họ nắm giữ thật sự không phải là Kitô Giáo tý nào cả mà là một tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp của một Thiên Chúa kinh khiếp.” Nói đơn giản, nó có nghĩa là nhiều người đang muốn sống một đời sống Kitô giáo và ra sức ủng hộ Giáo Hội của Chúa Kitô, thì lại đi lầm đường lạc lối. Họ đang đi trên đường của một “tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp về một Thiên Chúa kinh khiếp” Đó chính là điều mà Chúa Giêsu đã đến để giải thoát họ.

Nhìn lại kinh nghiệm Cựu Ước giúp chúng ta hiểu được luận đề này. Dân Israel thấu hiểu được chính họ có một mối liên hệ Giao Ước với Thiên Chúa. Họ đã nhận biết Giao Ước chính là một bản hợp đồng giữa hai phe không bằng nhau: Thiên Chúa và Dân Ngài Chọn. Theo những điều kế ước của bản Giao Ước, Thiên Chúa sẽ là người bảo hộ và che chở Dân Ngài và đưa dân Israel đến hoàn hảo trọn vẹn. Còn về phần họ, dân Ngài phải luôn trung tín với Ngài và vâng giữ những lề luật của Ngài. Như thế, “một tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp” – tôn giáo mà trong đó con người kiếm được ân huệ của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa chính là phần thưởng cho tín hữu còn vâng phục với Lề Luật. Đây chính là phương thức mà Thánh Phaolô đã nhìn thấy, trước khi ông trở lại với Đức Kitô.

Thánh Phaolô đã theo chủ nghĩa hợp pháp chân chính và nhiệm nhặt. Ông đã gọi chính mình là “Biệt phái của những người Biệt phái.” Biến cố Đamát đã hoàn toàn biến đổi cách sống của ông. Đức Kitô Phục Sinh chính là sứ điệp, câu chuyện, bài ca, giáo huấn, và giảng dạy của ông. Thánh Phaolô muốn cho toàn thể thế giới nhìn thấy Đức Giêsu y như ông đã thấy Ngài. Cái cảm nghiệm làm nguyên nhân cho sự biến đổi cuộc sống của ông cũng làm cho ông đổi tên từ Saolô thành Phaolô như ta đều biết: “Tôi trở nên người mới. Tôi không còn là người như trước nữa. Quan điểm của tôi về Đức Giêsu đã biến đổi tôi triệt để.” Thánh Phaolô nói rằng giờ đây ông đã thấu hiểu rằng chúng ta không cần phải tìm kiếm để đạt được những ân huệ của Thiên Chúa qua việc đi Nhà Thờ hay cho tha nhân ăn hoặc chỉ biết tuân phục những lề luật. Thiên Chúa ưu đãi chúng ta, yêu thương chúng ta, trước cả khi chúng ta làm những việc này. Tất cả chúng ta chỉ cần làm một việc để lãnh nhận tình yêu của Thiên Chúa chính là nhận lãnh nó, nhận biết nó, chấp nhận nó như là ơn huệ tuyệt đối. Đây chính là cảm nghiệm giải thoát cho những người thực tập một tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp. Các bạn có thể cảm nghiệm được cái gánh nặng của lề luật đang trượt khỏi vai của các bạn và các bạn cảm nghiệm được một cuộc giải phóng mới trong đời sống của các bạn.

Thánh Phaolô đã hy hiến trót cuộc sống của ông kêu gọi dân chúng chấp nhận món quà Tình Yêu vĩ đại trong Đức Tin mà Thiên Chúa hằng luôn luôn ban phát. Chúng ta không thể cố gắng để xứng đạt được. Chúng ta không thể cố gắng giành được nó! Chúng ta không thể mang cái gánh nặng ấy được. Thánh Phaolô đã chỉ rõ cho chúng ta biết rằng mọi Kitô hữu được kêu mời làm một quyết định Đức Tin để tin cậy vào lòng Nhân Hậu của Thiên Chúa, lòng Khoan Dung của Thiên Chúa, lòng Thương Xót của Thiên Chúa, và vào Tình Thương của Thiên Chúa. Quyết định này có thể xảy ra trong những trường hợp gây sâu sắc như đã xảy ra cho Thánh Phaolô, hay trong những trường hợp thật là bình thường, giống như đã và đang xảy ra cho chúng ta. Và chúng ta thật là lầm lạc khi nghĩ rằng hành động duy nhất của Đức Tin thì kém chân thật bởi vì chúng ta không được nghe thấy ca đoàn thiên thần ca hát hay vì chúng ta không bị kinh sợ và hãi hùng như cảm nghiệm của Thánh Tông Đồ Phaolô. Cái cốt yếu chính là sẽ có lúc chúng ta phải thưa, “Vâng! Chính nó! Tôi thấy! Tôi hiểu. Tôi sẽ xin thưa ‘Vâng!’ với Thiên Chúa trong phương thức mới. Tôi sẽ thôi không sống trong phương thức của chủ nghĩa hợp pháp cũ nữa. Tôi sẽ thôi khiếp sợ rằng Thiên Chúa sẽ đánh phạt tôi nếu tôi không làm cái này hay cái nọ. Tôi sẽ thôi không còn nghĩ rằng tôi phải đi Nhà Thờ nữa. Trong chính thâm tâm sâu thẳm của tôi, tôi biết rằng từ muôn đời tôi đã được sủng ái bởi Thiên Chúa và yêu mến bởi Ngài. Tôi sẽ nhận biết rằng có một chân lý đã giải thoát tôi. Tôi sẽ biết rằng Chúa Giêsu đang nâng cái gánh nặng của tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp khỏi vai tôi khi tôi chấp nhận thực tại này.”

Nhiều người đã hiểu sai lời Thánh Tin Mừng hôm nay. Tôi nói đến những người nghe Tin Mừng hôm nay rồi nói, “Tôi không còn phải tuân giữ những giới răn nữa. Tôi không còn lo lắng về “Chớ ngoại tình”, “Chớ ăn cắp”, và về Tám Mối Phúc Thật nữa. Tôi được giải thoát khỏi những ràng buộc đấy rồi bởi vì tôi đã làm một việc Đức Tin, tin vào Thiên Chúa thương xót và yêu thương mà thôi.” Có đúng không?… Sai! Các bạn đã nhận sai vấn đề! Đức Tin không việc làm là đức tin chết. Các bạn cần phải biết rằng sự tuân phục kỷ luật, và những việc lành thật là quan trọng cốt yếu, thế nhưng chúng chỉ là những phương thức mà chúng ta nói với Thiên Chúa, “Con xin cảm tạ Chúa vì yêu thương chúng con!” Chúng chỉ là những phương thức bày tỏ rằng đức tin của chúng ta thì đích thực. Chúng ta trở nên những Kitô hữu trung thành không chỉ gắng chiếm lấy tình yêu Chúa nhưng qua việc chấp nhận tình yêu Ngài, rồi sau đó, phản chiếu theo cách thức chúng ta sống và theo cách thức chúng ta yêu! Không thể nào thành thực chấp nhận Tình Yêu Chúa mà không phản chiếu nó trong lòng yêu tha nhân.

 

36. Suy niệm của Đaminh Cao Tấn Tĩnh

“NẾU CÁC CON CÓ ĐỨC TIN BẰNG HẠT CẢI”

Nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên Năm C tuần trước, đối với các người Pharisiêu không tin lời Người khẳng định với các môn đệ rằng “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn người phú hộ và Lazarô để cảnh giác họ là vấn đề công chính không phải chỉ ở tại việc giữ cặn kẽ luật Chúa mà còn hệ tại việc giữ nghĩa với tha nhân nữa, vì lề luật được trọn vẹn nơi đức bác ái. Cũng trong bài chia sẻ tuần trước, chúng ta đã đề cập đến lý do sâu xa tại sao người phú hộ bị hư đi đời đời, không phải chỉ vì ông ta không chịu làm việc bác ái khi có thể mà còn chính vì bởi ông thiếu đức tin, một đức tin cứu rỗi chẳng những cần cho người phú hộ mà còn cần cho cả Lazarô bần cùng khốn khổ nữa. Chính vì hiểu được tầm mức tối hệ trọng của một đức tin cứu độ như thế, các tông đồ, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã tha thiết nài xin Thày của mình: “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” hay “Xin Thày hãy làm cho đức tin của chúng con tăng tiến”. Ở đây, chúng ta thấy các tông đồ không xin Chúa Giêsu ban cho các vị đức tin, mà là “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con”, một đức tin các vị đã có. Tức là, các vị thâm tín được rằng, dù các vị đã thực sự tin vào Người: “Thày là Đức Kitô của Thiên Chúa”, như bài Phúc Âm Thánh Luca ở Chúa Nhật XII cách đây 15 tuần thuật lại, song đức tin ấy vẫn còn yếu kém, chưa hoàn toàn, cần phải vững mạnh hơn nữa. Tại sao? Nếu không phải tại vì các vị đã cảm nghiệm thấm thía dụ ngôn Chúa Giêsu nói với các vị ở bài Phúc Âm hai tuần trước, về trách nhiệm của các vị đối với những gì được Người ủy thác cho, dụ ngôn về người quản gia phải thanh toán với chủ vì người quản gia này đã làm thiệt hại chủ của mình. Thế nhưng, vấn đề ở đây là Chúa Giêsu có đáp ứng lời các môn đệ khẩn thiết kêu nài “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” hay chăng? Nếu không thì tại sao và nếu có thì như thế nào??

Đọc kỹ bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu hình như không đáp ứng lời yêu cầu chính đáng của các môn đệ gì cả. Bởi vì, trong khi các vị “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con”, thay vì Người để tay lên đầu các vị để nhờ đó các vị được đầy Thần Linh, cũng nhờ đó các vị được thêm đức tin tỏ tường ngay lập tức, thì Người lại vòng vo nói với các vị rằng: “Nếu các con có đức tin bằng cỡ hạt cải thì các con có thể nói với cây sung này rằng ‘Hãy bật rễ lên xuống biển mà mọc’ thì nó sẽ tuân lệnh các con”. Chưa hết, sau khi khẳng định như thế rồi, Người còn dạy các vị một dụ ngôn khác nữa, về vai trò của một người đầy tớ, người đầy tớ mà cho dù đã hết mình phục vụ chủ, chứ không phải như người quản gia bê bối của dụ ngôn trong bài Phúc Âm hai tuần trước, cuối cùng phải thành thực thú nhận: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”. Qua thái độ và câu trả lời của Chúa Giêsu trong việc Người tỏ ra đáp ứng lời các môn đệ khẩn nài “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” như thế, chúng ta thấy như thế nào? Hình như Người muốn đẩy trách nhiệm phát triển đức tin, tăng tiến đức tin cho chính các vị, thành phần đã lãnh nhận đức tin từ Người, hay nói cách khác, thành phần đã được Người ban cho đức tin, bằng việc Người đã tỏ mình ra cho các vị. Đó là lý do, theo bài Phúc Âm cách đây 15 tuần, sau một thời gian tỏ mình ra cho các môn đệ, thành phần được Người tuyển chọn theo Người để sau này làm chứng nhân cho Người, Người đã muốn các vị tự trắc nghiệm xem các vị đã tin vào Người tới đâu, đã hiểu Người thế nào, bằng câu hỏi “Phần các con, các con nghĩ Thày là ai?”.

Đúng thế, đối tượng của “đức tin tuân phục” (Rm 1:5) chính là mạc khải thần linh, và nếu mạc khải thần linh được Thiên Chúa thực hiện như “một người gieo giống tốt trong ruộng của mình” (Mt 13:24), thì đức tin tuân phục cần phải được con người tỏ bày ra như một mảnh đất tốt, để hạt giống mạc khải thần linh có thể trọn vẹn trổ sinh tối đa tầm vóc cứu độ của mình. Như thế, việc đức tin tăng triển hay lớn lên thực sự là trách nhiệm của mảnh đất nhận được hạt giống mạc khải thần linh, đến nỗi, chính Chúa Giêsu đã đồng hóa hạt giống mạc khải thần linh với mảnh đất nhận lãnh hạt giống này, khi Người dẫn giải về số phận của các hạt giống rơi vào bốn môi trường khác nhau trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 13, câu 18, 20, 22 và 23 như sau: “Hạt rơi trên vệ đường là người… hạt rơi trên đá sỏi là người… hạt rơi vào bụi gai là người… hạt rơi xuống đất tốt là người”. Chúng ta hãy để ý là, trước khi rơi xuống các loại đất, nghĩa là khi còn trong lòng bàn tay của người gieo giống, hay trong dự án cứu độ của Thiên Chúa, thì hạt giống đây là biểu hiệu cho mạc khải thần linh Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người biết về Ngài để họ tin mà được sống, thế nhưng, một khi đã tỏ cho loài người rồi, nghĩa là một khi hạt giống mạc khải thần linh đã được gieo xuống đất rồi, thì hạt giống mạc khải thần linh liền bị đồng hóa với loài người, với các loại đất, chẳng khác gì như đã xẩy ra nơi mầu nhiệm và biến cố “Lời đã hóa thành nhục thể” được Phúc Âm Thánh Gioan chân nhận ở đoạn 1 câu 14. Do đó, như vừa nhận định, Chúa Giêsu mới đồng hóa “Hạt rơi trên vệ đường là người… hạt rơi trên đá sỏi là người… hạt rơi vào bụi gai là người… hạt rơi xuống đất tốt là người”.

Tuy nhiên, dù bị đồng hóa với môi trường, hay bị lệ thuộc vào môi trường để có thể tồn tại và phát triển như thế, không có nghĩa là hạt giống mạc khải thần linh tự mình không thể nẩy mầm, phát triển và trổ sinh hoa trái. Trái lại, sự kiện đất tự mình không thể trổ sinh hoa trái nếu thiếu hạt giống chính là dấu chứng tỏ hạt giống tự mình có thể tự nẩy mầm, phát triển và trổ sinh hoa trái, miễn là gặp môi trường tốt đất. Vậy trách nhiệm của mảnh đất chất chứa hạt giống chỉ là trách nhiệm của một người quản gia mà thôi, trách nhiệm chẳng những gìn giữ những gì mình có, phải bảo toàn những gì được ủy thác cho mình, mà còn phải phát triển những gì mình có, còn phải sinh lợi những gì được ủy thác cho mình nữa. Chính vì không trực tiếp dính dáng gì đến khả năng tự mình nẩy mầm, phát triển và trổ sinh hoa trái của hạt giống mạc khải thần linh nơi mình, với thân phận chỉ là một mảnh đất quản gia như thế, mà mảnh đất nhân tính con người chỉ đóng vai trò như một người đầy tớ trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”. Đến đây, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa của phản ứng Chúa Giêsu tỏ ra, khi các môn đệ khẩn nài Người “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con”, bằng việc Người khẳng định với các vị rằng: “Nếu các con có đức tin bằng cỡ hạt cải thì các con có thể nói với cây sung này rằng ‘Hãy bật rễ lên xuống biển mà mọc’ thì nó sẽ tuân lệnh các con”. Đúng thế, qua lời khẳng định này, Chúa Giêsu ngầm chỉ cho các môn đệ biết bí quyết làm cho đức tin các vị đã có được tăng phát, theo lòng ước mong của các vị.

Phải, “hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các hạt giống”, như lời Chúa Giêsu cắt nghĩa trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 13 câu 32. “Nếu các con có đức tin bằng cỡ hạt cải”, nghĩa là có đức tin ở cỡ nhỏ nhất, thì câu này nghĩa là gì, nếu không phải nghĩa là “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”. Vậy bí quyết Chúa Giêsu dạy các môn đệ để có thể tạo môi trường thuận lợi cho hạt giống đức tin nơi các vị có thể tăng phát đây chính là việc các vị “hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ”, như Người khuyên các vị ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 18 câu 3, một lời khuyên Người muốn đề ra để giải quyết vấn đề tranh chấp giữa các vị về ngôi thứ được các vị đặt ra với Người: “Ai là kẻ lớn nhất trong Vương Quốc của Thiên Chúa?”. Nếu “Vương Quốc của Thiên Chúa” đã được Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, thiết lập trên thế gian bằng chính cuộc Vượt Qua của mình, và Vương Quốc này còn cần phải được “trị đến” (Mt 6:10) “cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8), tức cho đến khi được hoàn toàn tỏ hiện trong ngày cánh chung, hay cho đến khi Người đến trong vinh quang, thì quả thực thành phần được Người sai đi sau khi Người phục sinh từ trong cõi chết (x Mt 28:19; Mk 16:15) phải có trách nhiệm là những vị quản gia “trung thành và khôn ngoan” (Mt 24:45), một quản gia với tinh thần của một người tôi tớ xin vâng như Mẹ Maria (x Lk 1:38), thành phần bao giờ cũng thâm tín và tuyên nhận: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Theo lời Chúa Giêsu khuyên các môn đệ là thành phần theo Người trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVII Mùa Thường Niên Năm C hôm nay “Sau khi các con làm xong tất cả những gì các con được lệnh làm thì các con hãy nói rằng ‘Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi’”, chúng ta có thể áp dụng vào trường hợp đừng tự phụ khi chúng ta làm được một việc gì lành, nhất là khi đóng góp hữu hiệu vào việc chung, đến nỗi đừng có tự đắc là nếu không cò mình thì không ai có thể làm được việc đó. Bởi vì, nếu thực sự là việc của Chúa thì Ngài có thể hoàn thành bằng bất cứ cách nào và qua bất cứ ai. Thế nhưng, trên thực tế, nếu quả thực chúng ta cố gắng chu toàn phần vụ của mình, thì tại sao Chúa Giêsu lại dạy chúng ta phải phủ nhận công trạng của mình, cho rằng mình là đồ vô dụng? Nếu vậy phần rỗi đời đời của chúng ta hoàn toàn là do ơn Chúa, chứ chúng ta chẳng có công gì hay sao?

 

37. Máy thời gian- Lm. Vũ Minh Nghiễm

“Nếu đức tin bằng hạt cải”

Hôm nay, kính mời bà con cô bác cùng làm một chuyến du hành.

Chúng ta hãy ngồi vào máy điện toán thời gian, và đi giựt lùi trở lại vào lịch sử. Đi đến năm 1776, trong tay không quên mang theo một tờ nhựt báo hôm nay.

Đến nơi rồi, chúng ta hãy dâng tặng cho tổ tiên của chúng ta tờ báo mang theo. Chúng ta thấy các ngài mới vừa đọc là đã chau mày lại, vì có nhiều danh từ trên tờ bác các Ngài không hiểu nổi. Ví dụ: xe hơi, máy bay, phi hành gia, radio, TV, vân vân…

– Nầy các cháu, xe hơi nghĩa là gì? các ngài hỏi.

– Kính thưa tiên tổ, xe hơi là thứ xe chạy bằng dầu, bằng xăng, hay một thứ nhiên liệu nào khác, không cần người đẩy hoặc ngựa kéo.

– Xe mà không cần ngựa hoặc người kéo hay đẩy, làm sao có thể chạy được? Chứ máy bay nghĩa là gì?. Tiên tổ hỏi tiếp.

– Thưa tiên tổ, máy bay là một thứ máy xe hay tàu, ngồi lên là nó nổ ầm ầm, rồi cất mình bay bổng lên thượng tầng không khí, mang hành khách đi thật mau, thật xe, nước nầy sang nước khác, châu họ sang châu kia.

– Xe hay tàu, bay sao được? Bay là phải có cánh. Chim nhờ có cánh mới bay, chứ xe, hay tàu, làm thế nào mà bay? Các cháu khùng rồi. Chứ TV nghĩa là gì?

– Thưa, TV là một cái máy truyền hình. Người ta ngồi ở nhà mà có thể xem được và nghe được những việc đang xảy đến cách xa ngàn vạn dậm, như bên Tàu chẳng hạn.

– Thôi! Thôi! Tổ tiên các cháu hiểu cả rồi. Các cháu khùng khùng hạng nặng! Xe không người đẩy, không ngựa kéo mà có thể chạy được. Tàu mà có thể bay được, máy mà có thể chiếu hình sống động xa từ bên Trung Quốc, chiếu vào tận trong nhà được! Quả thực, các cháu đau bệnh thần kinh nặng lắm. Nghe nói ở VN có những nhà thương Dưỡng Trí tại tỉnh Biên Hoà, hay chỡ Rẫy gì đó. Các cháu nên đến ghi tên vào gấp trước khi quá trễ.

Thấy ông bà tổ tiên chẳng ai hiểu được chúng ta, đi tới đâu chúng ta cũng bị các ngài mắng cho là điên là khùng, chúng ta buồn rầu, lại ngồi vào máy thời gian, trở về với vị trí hiện thời của chúng ta.

Bấy giờ chúng ta thấy rõ rằng những điều mà người một thế hệ coi là tầm thường thì người của thế hệ khác lại cho là lạ lùng không thể có được. Điều mà người của thế kỷ kia không bao giờ dám mơ tưởng đến thì người của thế hệ này lại coi như dĩ nhiên.

Và đây là bài học của chuyến du hành đi về quá khứ.

Sống trên đời, nếu chúng ta có được thái độ tin tưởng rằng một việc nào đó có thể thực hiện được, chúng ta sẽ có cơ may thành công. Trái lại, nếu chúng ta giữ cái thái độ chủ bại, hoài nghi rằng việc đó không thể thực hiện được, thì hầu như chắc chắn là chúng ta sẽ thất bại.

Bây giờ mời bà con cô bác lại tiếp tục cuộc thử nghiệm của chúng ta.

Nầy đây có một đứa chắt chút của chúng ta từ năm 3000 cũng ngồi máy thời gian trở về thăm chúng ta là những người đang sống trên quả đất nầy hôm nay. Khi ngồi máy thời gian trở về, người chắt chút nầy cũng mang theo trong tay một tờ nhựt báo biếu cho chúng ta. Khi đọc, chúng ta tuyệt nhiên không thấy có một chỗ nào nói đến nạn cao bồi du đãng, ma túy nghiệm ngập, cướp của giết người. Không có chỗ nào nói đến nghèo khổ, giặc giã chiến tranh giữa phe nầy với phái khác, giữa nước nọ với nước kia. Không có những chuyện đau thương, hỗn loạn như chúng ta đang mục kích trong thế kỷ 21 nầy. Tờ nhựt báo chỉ nói toàn những chuyện an bình thịnh vượng, tương trợ, tương ái, tương thân.

Đọc qua tờ báo, chúng ta có cảm tưởng như thế nào?

Hẳn chúng ta sẽ nói với người cháu chắt chút từ năm 3000 trở về thăm chúng ta là tổ tiên rằng:

– Này cháu, những gì nói trong tờ báo của cháu đây toàn là chuyện hoang đường, đầy luận điệu tuyên truyền cho những người của thế kỷ 21. Một thế giới an bình thịnh vượng, và người người được lạc nghiệp an cư, trong yêu thương thân thiện… thế giới đó chỉ có trong giấc mơ mà thôi, cháu ạ. Một người có chút lương tri thấy rõ như ban ngày rằng, ở đâu có con người, thì ở đó có giàu nghèo, có tranh chấp; ở đâu có nước nầy nước nọ thì ở đó có bạo động, giặc giã chiến tranh…

Thấy chúng ta là tổ tiên, không hiểu nổi những chuyện viết trên tờ nhựt báo, người chắt chút của chúng ta buồn rầu từ giã ra về với thế giới năm 3000. Còn chúng ta ở lại với thế giới năm 2000, trí lòng đầy suy tư…

Sau hai cuộc thử nghiệm trên, chúg ta nhận thấy rằng những việc mà tổ tiên chúng ta của năm 1776 cho là hão huyền, như xe hơi, máy bay, radio, TV, thì chúng ta, con cháu của năm 2000 nầy thấy đó là sự thật.

Vậy những điều người chắt chút của năm 3000 nói về một thế giới an bình, thịnh vượng, mọi người đều tương trợ, tương ái tương thân, hôm nay chúng ta cho là chuyện hoang đường, biết đâu ngày mai sẽ thành sự thật?

Bài học quan trọng của hai cuộc thử nghiệm trên là đây:

Trước hết, nếu chúng ta sống với tâm trạng này rằng hòa bình trên quả đất hôm nay không thể có được, chúng ta sẽ thất bại trong công việc kiến tạo hòa bình trên quả đất.

Thứ hai, nếu chúng ta sống với tâm trạng nầy rằng thiên hạ chung quanh chúng ta toàn là người vô tâm vô tình, vị kỷ, khó thương. Chúng ta sẽ thất bại trong công việc xây dựng một xã hội tận tình, vị tha, dễ thương dễ mến.

Sau cùng, nếu chúng ta sống với thái độ nầy rằng các nước thiên hạ, ngàn đời, cha truyền con nối, tiếp tục bạo động, hận thù ghen ghét nhau, chúng ta sẽ thất bại trong cố gắng hòa giải. Và Liên Hiệp Quốc vẫn bị mang tiếng xưa nay là con chó chết mà thôi.

Vậy, chúng ta phải kết luận rằng:

– Hoà bình trên quả đất nầy có thể có được.

– Tình tương thân tương ái giữa những người chung quanh chúng ta có thể thành sự được.

– Sự thuận an giữa các quốc gia có thể kiến tạo được.

Lý do khiến những viễn tượng trên đây có thể thành sự thật là vì Chúa Yêsu đã đến với chúng ta, đang ở giữa chúng ta, đang dạy bảo chúng ta phải ăn ở như thế nào cho hợp đạo làm người.

Lý do khiến giấc mơ hòa yêu thương giữa loài người nói chung, giữa những người chung quanh chúng ta nói riêng, có thể thành tựu được là vì chính Chúa đã hứa với chúng ta như vậy. Bằng không, Ngài đã chẳng hề dạy chúng ta cầu xin trong kinh “Lạy Cha” rằng: Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời vậy. Ngài đã chết để làm cho “Nước Cha trị đến” được thành sự thật. Ngài đã sống lại để khiến cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Đây cũng là chính điều Chúa Yêsu dạy chúng ta trong bài Phúc âm hôm nay.

“Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dầu có bảo cây dâu này: hãy bật gốc lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời.”

Tin Mừng của Phúc Âm hôm nay là đây: “Nhờ đức tin, quyền lực của Thiên Chúa ở trong tay chúng ta.” Do đó, không còn việc gì gọi là không thể thực hiện được nữa. Dầu là một thế giới trong đó không còn chiến tranh nữa, không còn đói khổ nữa, không còn hận thù nữa.

Chúng ta hãy nhớ lại cuộc du hành không gian. Những điều mà người thế kỷ trước coi như không thể có, thì người thế kỷ sau cho là tầm thường. Và ngay trong cùng một thế kỷ, điều mà người nầy cho là không có thể làm, thì ngươi khác lại làm được. Thánh Grê-go-ri-ô đã chuyển một hòn núi đi nơi khác, lấy chỗ mà làm nhà thờ. Thánh Raymond Pennafort lần kia đã lấy áo làm thuyền đi qua mặt biển…

Chỉ vì các Ngài đã có lòng tin kiên vững vào lời Chúa phán trong ngày hôm nay: “Nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải thôi…”

Vậy trong tất cả mọi sự, làm được hay không làm được, và làm được thì làm đến mức nào, tất cả đều do nơi lòng tin của chúng ta mạnh hay yếu mà thôi.

Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa thêm đức tin cho con. Nếu không lớn bằng hạt cải, thì bằng nửa hạt cải cũng tạm được cho con hôm nay.

 

38. Suy niệm của Lm. Bùi thượng Lưu

Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải

Ngôn sứ Khabacúc rao giảng cùng thời với ngôn sứ Giêrêmia. Ông than thở và chất vấn Thiên Chúa vì Chúa để cho dân hung ác đe dọa Dân Chúa:

“Lạy Chúa, tôi kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Tôi phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu tôi sao? Cớ sao Chúa tỏ cho tôi thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt tôi? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng.”

Thiên Chúa đã trả lời Ông: “Người công chính sẽ được sống nhờ lòng trung tín.” Tiếng kêu của ngôn sứ Khabacúc cũng là những nỗi lòng ai oán của con người trước cuộc sống đầy bất công và phi lý. Thi hào Nguyễn Du đã diễn tả nỗi niềm bi thương ấy qua hai vần thơ sau:

“Trải qua những cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”

Ai trong chúng ta mà không phẫn uất trước cái chết tức tưởi oan trái của bao nhiêu nạn nhân trong các tai nạn máy bay, trong các thiên tai, hạn hán, động đất khủng khiếp vẫn hằng xẩy ra đó đây trên thế giới? Hàng trăm ngàn trẻ em vô tội bị sát hại trong những cuộc chiến đẫm máu. Hàng ngàn vạn những thuyền nhân Việt Nam vượt biển tìm tự do đã bị chôn vùi xuống lòng đại dương… Bút mực nào ghi hết cảnh khốn cùng của cuộc sống, những ngang trái đoạn trường mà mỗi người chúng ta cảm nghiệm được.

Phản ứng tự nhiên của mỗi người chúng ta trước những gian truân thử thách là những lời than vắn thở dài hoặc kêu trách Thiên Chúa. Đức tin chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội bị lung lay. Những nghi vấn về sự hiện hữu và lòng nhân lành của Thiên Chúa bắt đầu xuất hiện trong tâm trí chúng ta. Dần dần, người tín hữu bỏ đọc kinh cầu nguyện, lơ là việc chịu phép bí tích, mất niềm tin vào Chúa!

Tìm đâu ra lối thoát cho cơn khủng hoảng đức tin ấy, nếu không phải là chính Lời Chúa và ân thánh của Người. Timôthê, người môn đệ thân tín của thánh Phaolô, sắp bị ngã quỵ vì thử thách và thất vọng, đã bừng tỉnh lại nhờ những lời khuyên của Phaolô:

“Cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của Cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần trí dũng mãnh, bác ái và tiết độ. Con hãy lấy những lời lành lẽ phải con đã nghe Cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Đức Giêsu Kitô. Con hãy cậy nhờ Thánh Thần là Đấng ngự trong chúng ta mà gìn giữ kho tàng tốt đẹp.”

Lời khuyên cũng như gương sáng của những người công chính sẽ nâng đỡ những tâm hồn đang bị thử thách: Chị ngã em nâng. Bởi đó, lúc bị thử thách gian truân, chúng ta đừng khép kín, đừng thất vọng. Lời cầu nguyện cũng như đức tin của cộng đoàn, của Hội Thánh là những chiếc phao trong cơn bão tố, khi chiếc tàu hòng chìm xuống. Các tông đồ đã thưa với Chúa: “Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con.” Trong bất cứ thử thách và đau khổ nào, chúng ta đừng bao giờ bỏ cầu nguyện. Vì đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận bí tích rửa tội. Nếu đức tin bị thử thách, thì chính ân Chúa sẽ là sức mạnh củng cố chúng ta. Cũng như nguồn nước tuôn chảy xuống thung lũng để làm cho đất thêm phì nhiêu và cây cối xanh tươi, ân thánh Chúa sẽ tràn đổ xuống tâm hồn khiêm nhường: “phần các con, khi các đã làm xong mọi điều đã truyền dậy các con, thì các con hãy nói rằng: chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm những điều chúng tôi phải làm.”

 

39. Nếu các con có lòng tin- Br. Minh Trân

Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay gồm hai phần: Đức tin (17:5-6) và Đầy tớ vô ích (17:7-10). Cả hai phần đều nói đến Đức tin Chúa muốn các môn đệ Ngài phải có.

Phần thứ nhất, qua dụ ngôn hạt cải, Chúa nói rõ với các môn đệ là Chúa không cần lượng cho bằng phẩm. Chúa không muốn các môn đệ có thêm Đức tin hay nhiều đức tin, nhưng điều Chúa muốn là Đức tin của các môn đệ phải vững mạnh, và tinh ròng. Có nghĩa là tin không chút hồ nghi, tin hoàn toàn, tin tuyệt đối.

Khi nghe nói đến đức tin bé bằng hạt cải mà lại có sức chuyển núi dời non, chúng ta thấy cũng tựa như kiểu nói lạc đà chui qua lỗ kim vậy. Xét ra đây là cách ví von người ta muốn nói đến những chuyện không hề có thể xảy ra. Tuy nhiên, với ơn Chúa, chúng ta tin không gì là không có thể cả.

Nói đến đây chúng ta liên tưởng đến một vài trường hợp liên quan đến đức tin Chúa đề cập đến trong Phúc âm. Trường hợp thứ nhất, Chúa đi trên mặt biển đến với các môn đệ vào lúc ban đêm biển động. Phêrô, với lòng đơn thành, xin Chúa cho được đi trên mặt biển đến với Chúa. Chúa cho, và ông tỉnh bơ đi đến với Chúa. Nhưng vừa khi chợt hoài nghi, thiếu tin tưởng, thì ông liền hụt chân, chìm xuống nước, và kêu cứu (Mt 14:22-33)

Trường hợp thứ hai, Chúa nói về sự cứng lòng tin của Thánh Tôma. Ông không tin Chúa đã sống lại vì chính ông không được mắt thấy tai nghe, tay thọc vào cạnh sườn Chúa, và ngón tay xỏ vào lỗ đinh nơi chân tay Chúa (Jn 20:24-29). Thánh Tôma muốn thấy, muốn biết rõ đã, rồi mới tin. Nhưng, như chúng ta đã biết, nếu đã thấy rồi thì đâu còn là tin nữa vì sự thật đã hiển nhiên rồi. Trong thư gửi tín hữu Do thái có nói rõ “Đức Tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Hb 11:1)

Tóm lại, qua phần này, chúng ta ghi nhận được hai điểm: thứ nhất, Chúa quả quyết chắc chắn rằng Đức tin có một mãnh lực vô song, tuy chỉ bé bằng hạt cải mà thôi, nhưng cũng đủ làm xảy ra nhiều việc lạ lùng. Thứ hai, Chúa mặc nhiên nói rằng Đức tin của các môn đệ chưa bằng hạt cải. Nghiệm về điều nầy chắc mỗi người chúng ta cũng chẳng lấy làm lạ cho lắm vì trong lịch sử loài người đâu mấy khi thấy hiện tượng “cây cối tự bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển” xảy ra đâu mà.

Tuy nhiên cũng có những trường hợp Thánh Kinh ghi lại là chính Chúa cũng phải ngạc nhiên và cảm phục đức tin mãnh liệt của một số người. Thí dụ, như trường hợp người đàn bà thành Canaan xin Chúa chữa con bà khỏi bị quỷ ám (Mt 15: 21-28), hoặc viên sĩ quan xin Chúa chữa người đầy tớ của ông (Mt 8:5-13). Chính đức tin sống động, mãnh liệt này đã làm cho Chúa phải thốt: “Này bà, đức tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được vậy.” (Mt 15:28), và “Ta chưa hề thấy ai trong Israel có được đức tin mạnh như thế.” (Mt 8:10). Và kết quả là phép lạ đã xảy ra – con của bà goá thành Canaan cũng như người đầy tớ của viên sĩ quan đều được lành.

Sang phần thứ hai, qua dụ ngôn người đầy tớ vô ích, Chúa muốn dạy các môn đệ luôn nghĩ đến sự bất lực của mình và hoàn toàn cậy trông nơi ơn Chúa. Chúa muốn các môn đệ luôn thâm tín rằng cho dầu đức tin của mình có tinh ròng thế nào đi nữa, có bảo cây nhổ lên rồi đi trồng dưới biển và cây liền vâng theo, thì cũng chớ tự hào là do tài sức riêng mình; nhưng chính là nhờ ơn Chúa. Hay nói một cách cụ thể hơn là việc chúng ta chu toàn bổn phận làm Kitô hữu không hẳn bảo đảm phần rỗi cho chúng ta, nhưng chúng ta phải luôn chân nhận rằng vận mệnh đời đời của chúng ta là do chính ơn Chúa ban, do tình Chúa yêu thương.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Đức tin can trường, một đức mến nồng nàn, và một đức cậy vững vàng, hầu chúng con luôn chân nhận phận mình là những đầy tớ vô ích, và luôn tin tưởng, cậy trông tuyệt đối vào lòng thương yêu bao la hải hà của Chúa luôn dành cho từng người chúng con. Amen.

 

40. Cần một niềm tin- Lm. Bùi Mạnh Tín

Mọi tôn giáo đều được đặt nền trên một niềm tin, dù niềm tin ấy rõ ràng hay mơ hồ, có hệ thống hay chắp nối góp nhặt. Không có niềm tin, sẽ không có tôn giáo. Chính vì thế, những người chấp nhận và bước theo một tôn giáo được gọi là tín đồ hay tín hữu. Vì tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành những tín đồ Kitô giáo. Niềm tin Kitô này mỗi ngày thêm mạnh mẽ cứng cát hay yếu kém mong manh, phần lớn tùy thuộc vào sự cộng tác của mỗi tín hữu đối với ơn Chúa. Chính qua sức mạnh của lòng tin, chúng ta có thể thực hiện được những công việc lạ lùng, vượt trên khả năng và lý luận của con người như Chúa Giêsu đã nói: “Nếu chúng con có đức tin bằng hạt cải, chúng con có thể nói với cây dâu: hãy bứng rễ lên và đi trồng dưới biển, nó liền nghe lời chúng con”. Ở đây, chúng ta nhắc lại một số phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện liên quan đến đức tin:

– Khi người đàn bà bị băng huyết đến xin Chúa chữa lành, Chúa nói: “Này bà, cứ an tâm, đức tin của bà đã cứu chữa bà” (Mt 9:22).

– Khi gặp những người nhà của ông trưởng hội đường có đứa con gái vừa chết, Chúa nói: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5:39), và Người đã làm cho em bé gái sống lại.

– Khi những người mang đứa con trai bị bệnh kinh phong tới Chúa Giêsu và nói: “Thầy có thể làm được gì thì xin thương cứu giúp chúng tôi”, Ngài đáp: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Đối với một người tin, điều gì cũng có thể…” (Mc 9:23), và Chúa Giêsu cầm tay đứa bé, chữa lành.

– Không thể mang bệnh nhân vào trong nhà qua cửa được vì quá đông người, người ta phải dỡ mái nhà rồi thả bệnh nhân xuống trước mắt Chúa Giêsu. Nhìn vào thái độ và hành động của họ, Luca nói: “Thấy họ có lòng tin như thế, Chúa Giêsu bảo “Này Anh, Anh đã được tha tội rồi” (Lc 5:20)

– Trước khi cho Lazarô sống lại, Chúa đã ‘khảo sát’ đức tin của Matta. Khi đã thấy rõ niềm tin của cô, Chúa mới thực hiện một phép lạ lớn lao: cho Lazarô sống lại (Gio 11:26-27).

Tất cả phép lạ đều được thực hiện do quyền năng và lòng nhân hậu của Chúa, đúng vậy. Nhưng đối với Chúa, “hình như “ các phép lạ không tùy thuộc vào Ngài cho bằng tùy thuộc vào lòng tin nơi con người, nên trước khi thực hiện một phép lạ, Chúa Giêsu thường nói: “Đức tin của con đã cứu con”. Nói thế, Chúa muốn nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của con người trong lãnh vực đức tin. Đàng khác, khi nói đến đức tin, chúng ta cũng không chỉ hiểu đó như một sự chấp nhận các tín điều lý thuyết, trong tư tưởng, hoặc việc đọc thuộc lòng một công thức nào đó như kinh Tin Kính, kinh Tin Cậy Mến mà thôi, nhưng hơn thế, đức tin còn phải được thực hành qua cuộc sống hằng ngày. Chính qua việc thực hành và những thử thách hy sinh, mà đức tin trở nên mạnh mẽ, sống động. Không vậy, đức tin sẽ chẳng tồn tại. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Tuy nhiên, trong cuộc sống hằng ngày, việc thực hành này không dễ dàng, vì đức tin luôn hướng tới những điều cao siêu, thánh thiện, trong khi con người lại yếu đuối, hạn hẹp và dễ dàng lầm lạc. Do đó, ước gì chúng ta luôn biết bắt chước các tông đồ cầu nguyện với Chúa: “Lạy Thầy, xin ban thêm lòng tin cho chúng con.”

 

41. Gian nan cho một niềm tin- Lm. Bùi Quang Tuấn

“Lạy Chúa, xin tăng thêm lòng tin cho chúng tôi” (Lc 17:5).

Khi trở thành người Công giáo cũng có nghĩa là dám mất đi tất cả. Đây là tựa đề bài phóng sự của ký giả Tim Drake trên tờ National Catholic Register, số ra tháng 2 năm 2001, nói về những khó khăn mà một số các vị mục sư phải đương đầu khi trở lại với niềm tin Công giáo. Chẳng hạn, mục sư tiến sĩ Kenneth Howell, thuộc phái Tin lành Trưởng lão (Presbytarian church), đã tâm sự: “Sau khi nghiên cứu và học hỏi về Bí tích Thánh Thể, tôi nhận ra rằng các giáo phụ thời Giáo hội sơ khai đã cùng đồng nhất trong niềm tin vào Mình và Máu Đức Kitô.” Việc nhận biết này kèm với những khám phá về nền tảng của thiên chức linh mục và tinh thần hiệp nhất Kitô hữu đã khiến Kenneth tiếp cận thân thiết hơn với đạo. Tuy nhiên vì có những khác biệt trong thực hành nên phải đến bốn năm sau Kenneth mới thật sự trở lại.

Nói đến trở lại là nói đến những tác động khủng khiếp trên đời sống, nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình, bạn bè, thân hữu. Có những người từng là mục sư lâu năm như Kenneth, bây giờ trở thành người Công giáo, ông ta sẽ làm gì để sống? Có ai trọng dụng tài năng của ông? Làm thế nào để trợ cấp cho gia đình? Việc chịu chức của họ trong các giáo hội trước đây có còn ý nghĩa gì nữa chăng?

Biết bao vấn đề được nêu lên. Nhưng vấn đề lớn nhất là sự thiếu cảm thông trong gia đình và nơi bạn bè. Maricus Grodi, 59 tuổi, một cựu mục sư phái Tin lành Trưởng lão tâm sự: có lắm điều mà vợ con hay giáo hữu của mình không thể chấp nhận, có khi vì thành kiến với Đạo, nhưng cũng có khi vì họ thiếu cơ hội nghiên cứu học hỏi. Họ không thấy được những gì mình được thấy.

Ngoài những thách đố trong niềm tin và liên hệ gia đình, còn có thách đố về nghề nghiệp sinh sống. Như Kenneth từng dạy tại một chủng viện Trưởng Lão suốt 7 năm. Bắt đầu mỗi niên học, các giáo sư thường được yêu cầu ký vào bản tuyên xưng niềm tin căn bản của Giáo hội Trưởng lão. Nhưng đến một ngày, Kenneth đã không thể làm điều đó và quyết định nghỉ việc. Nghỉ việc là phải đương đầu với bao khó khăn tài chánh gia đình.

Khi đọc qua những thách đố mà bao vị mục sư đã gặp phải khi trở lại với niềm tin Công giáo, tôi tự hỏi: động lực nào đã khiến họ dám đánh đổi tất cả cho niềm tin Công giáo như vậy? Họ nhận được gì, khi mà dưới cái nhìn khách quan thì dường như họ đang mất đi rất nhiều: mất nghề nghiệp, giáo dân, bạn bè, và có khi còn mất cả tình cảm cha mẹ, vợ con?

Phải chăng vì những con người đó đang có cùng một tâm tư như Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại: “Tôi coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài” (Phil 3:8-9).

Lợi được Đức Kitô, và là một Đức Kitô đang hiện hữu trọn vẹn trong Bí tích Thánh Thể, được thuộc về Đức Kitô, và là thuộc về một Đức Kitô hiệp nhất, không bị xé mảnh, không bị phân tán hay méo mó, đó là con đường giải thoát chân chính mà Thánh Phaolô đã khám phá và không ngừng viết đi viết lại vì lợi ích của các Kitô hữu.

Thánh Phaolô là người đã khám phá dung mạo tuyệt vời của Đức Kitô để sau đó làm một cuộc trở lại, tiên phong cho bao cuộc trở lại khác. Việc trở lại của Phaolô, trước hết là một sự hoán đổi cái nhìn về Đạo. Sự kiện mắt ông bị loà không thấy được gì trên đường đi Đamas, để rồi sau đó được chữa lành và tiếp nhận một khả năng nhìn mới, đã khẳng định: cái nhìn của Phaolô về Đạo đã được đổi thay, và từ đây một đời sống mới bắt đầu.

Ngày hôm nay, được chứng kiến bao cuộc trở lại, tôi tự hỏi: Có nhiều người thấy được những giá trị vô biên của niềm tin Công giáo, của Bí tích Thánh Thể, của sứ mạng hiệp nhất Kitô hữu, và đã dám đánh đổi những gì đáng yêu nhất trên thế gian hầu có được những điều họ vừa tìm gặp. Phần tôi, người mang danh có Đạo, liệu tôi có thật sự trân quí niềm tin của mình và nhiệt tâm chia sẻ sức sống múc được từ niềm tin đó cho kẻ khác không? Tôi có dám đánh đổi chút gì trong đời để giữ gìn và làm tăng trưởng niềm tin, nhất là niềm tin vào Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể… hay tôi đã đánh mất tất cả từ lâu rồi?

Lạy Chúa, xin củng cố đức tin còn đang yếu kém của chúng con.” Xin cho chúng con gặp được Chúa như Thánh Phaolô đã gặp trên đường Đamas. Xin cho chúng con luôn biết trở lại mỗi ngày trong tâm tình yêu mến Thánh Thể và Giáo hội. Để nhờ đó đời chúng con luôn tràn đầy sức sống của trời cao và không ngừng trao ban tình Chúa cho mọi người. Xin Chúa Thánh Thần kiện toàn đời sống và lời nguyện xin của chúng con. Amen.”

 

42. Đức tin trong bóng tối

Một buổi chiều nọ, nhà khảo cổ học Gene Savoy và các bạn đồng nghiệp bị lạc lối trong một khu rừng ở nước Peru. Họ cảm thấy lo sợ vì nếu họ không tìm được doanh trại của họ thì sẽ phải chết trong khu rừng này. Họ chạy toán loạn đi tìm con đường mòn đã dẫn họ đi vào rừng. Thình lình họ nhận thấy rằng sự hỗn loạn đi tìm con đường mòn chỉ làm tăng thêm sự mệt mỏi vô ích. Họ lấy lại bình tĩnh và đứng yên lặng suy nghĩ. Một tia sáng đã bừng lên trong trí óc. Savoy ghi lại điều đó: “Tôi đưa mắt nhìn vào một thế giới đẹp đẽ của những cánh hoa xinh xắn, mùi hương thơm từ những cánh hoa nở rộ, và những con chim hót líu lo. Đúng thế, Thiên Chúa ở đây. Tâm hồn tôi trầm tĩnh. Tôi bình tĩnh bước vài bước về bên trái và tôi tìm thấy con đường mòn.”

Câu chuyện trên ăn khớp với các bài đọc hôm nay. Trước hết, nó minh chứng những lời trong sách Khabacúc, “Người công chính sẽ sống được nhờ trung tín.” Thứ đến, nó minh chứng cho những lời Chúa Giêsu đã phán trong bài Phúc Âm, “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiếu cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’ nó liền vâng lời các con.”

Đây là điểm thường làm cho chúng ta phải lo lắng, liệu đức tin của chúng ta có bằng được hạt cải? Cho dù đức tin của chúng ta rất mạnh mẽ đến đâu, thì cũng có lúc nó mịt mù yếu ớt. Điều mà hôm nay trong sáng, mai lại có thể tối tăm mù mịt. Giống như mặt trời có lúc ẩn sau đám mây, rồi lại hiện ra trong sáng.

Đức tin chúng ta tăm tối thường thì bởi ba lý do sau: Bản tính con người, chính chúng ta, hoặc Thiên Chúa.

Trước hết, nó có thể là do bởi bản tính con người nghĩ là có lúc “hứng cao” lúc “cụt hứng”. Nói cách khác, đức tin của chúng ta bị ảnh hưởng bởi tâm trạng hoặc mất hứng trong con người.

Một tác giả đã viết về cảm nghiệm này như sau: “Một ngày kia, cuộc sống thật đẹp đẽ, chúng ta cảm kích mọi sự và mọi người. Cái ngày như thế thật là khó khăn để nghĩ đến những gian truân đau khổ trong cuộc đời. Một ngày khác, cuộc sống thật đen tối, đó là lúc chúng ta có thể đếm được rất nhiều kẻ thù, tìm ra được khuyết điểm của mọi người. Cái ngày như thế thật là khó khăn để nghĩ đến những lúc vui vẻ trong cuộc đời” (Anthony Padovano, Belief in Human life).

Thứ hai, nguyên nhân đức tin chúng ta trong đêm tối là bởi do chính chúng ta. Chúng ta có thể coi trọng thân xác bên ngoài hơn là linh hồn bên trong. Nghĩa là, chúng ta để cho đời sống đức tin yếu dần đi do bởi vì chúng ta phạm tội và không dùng những của ăn thiêng liêng. Cũng giống như thân xác không ăn uống gì, lại còn thêm bệnh tật nữa thì chết dần chết mòn.

Thứ ba, đức tin trong đêm tối có thể là do chính Chúa an bài như thế. Nghĩa là, Thiên Chúa để cho xảy ra như vậy để chúng ta đào sâu và tăng cường hơn trong đời sống đức tin. Thiên Chúa dùng đêm tối này để giúp chúng ta trưởng thành hơn trong đời sống đức tin, như Ngài đã từng thử thách Abraham khi Ngài nói phải sát tế người con duy nhất.

Trong những hoàn cảnh này, chúng ta hãy biết chấp nhận và dùng nó như là điều mà Chúa đã an bài cho chúng ta. Đó là sứ điệp mà chúng ta nhận được qua bài đọc hôm nay.

 

43. Con luôn tin yêu Chúa trọn đời – Lm. Jude Siciliano

Tiên tri Khabacúc sống ở thời đế quốc Babylon chiếm đóng Palestine những thế kỷ thứ VII hoặc VI trước công nguyên. Xã hội lúc ấy đầy dẫy nhiễu nhương lộn xộn. Tuyển dân không chịu nổi một cổ ba bốn tròng: áp bức từ phía quan chức đế quốc, độc ác từ lãnh chúa địa phương, kìm kẹp của lãnh đạo tôn giáo. Cho nên vị tiên tri phải kêu lên: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, chúng con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe. Chúng con la to: “Bạo tàn” mà Ngài không cứu vớt?”. Nghe như vị ngôn sứ than vãn trong bối cảnh hôm nay trên thế giới: Zimbabue, Darfur, Iraq, Afghanistan, Myanma, Guatemala, North Korea, … nhân dân trong nhiều quốc gia kêu lên cùng với vị tiên tri: “Sao Ngài bắt chúng con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau? Trước mắt chúng con toàn là cảnh phá phách, bạo tàn. Chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ”. Tôi nghe như tiếng cầu nguyện trong các tâm hồn đạo đức, trong các thánh đường giáo xứ, trong các tu viện nghiêm ngặt của thời đại hôm nay.

Nói như vậy không ngoa vì thử nhìn sâu vào đường phố, các con hẻm, những nơi xã hội đen hoạt động, hộp đêm, chích choác, đĩ điếm, lừa đảo, bóc lột và ngay cả các cộng đồng “anh em”, khắc nhận ra tình hình và sự thật. Nhưng ngôn từ của vị tiên tri khá liều lĩnh: Chúng là ai mà dám đối xử với Thiên Chúa như vậy? Chúng ta chẳng qua chỉ là sâu bọ, những thứ nhơ nhớp trước mặt Ngài? Nhưng các tiên tri, các thánh, những tâm hồn thánh thiện nhiều khi dùng ngôn từ táo bạo. Họ tin cậy, tín thác vào lòng nhân lành của Đức Chúa Trời đến độ coi Ngài như bạn hữu thân thiết. Họ khiêm nhường và lương thiện, không sợ Thiên Chúa phật ý và trừng phạt, vì dầu sao Ngài nhân ái và hay xót thương như một người Cha trong gia đình. Còn hơn người cha thế gian bội phần. Họ có thể nêu lên Ngài những phàn nàn mạnh mẽ nhất.

Thật vậy, theo tâm lý thông thường, bạn hữu bày tỏ với nhau những ý nghĩ sâu thẳm về hỉ nộ ái ố mà không cần dè dặt. Như vậy mới là thân tình thật sự, bạn hữu chí thiết. Còn như so đo tính toán thì vẫn đứng ở tiền đường ngôi nhà tình yêu. Nếu bạn yêu mến Chúa thật sự, bạn có thể bày tỏ cảm nghĩ của lòng mình như vị tiên tri. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta gặp hoàn cảnh bế tắc, chẳng biết cầu cứu nơi đâu. Thì Thiên Chúa là Đấng cứu giúp duy nhất. Đấng vẫn sẵn sàng nghe chúng ta không những cầu nguyện mà cả phàn nàn nữa. Nào ai khác có quyền năng thay đổi tình thế? Giống như Khabacúc, chúng ta nhìn vào những cay đắng của thế giới với đôi mắt van xin: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, chúng con cầu cứu mà Ngài chẳng đoái thương?”.

Đọc lịch sử Do Thái, chúng ta hiểu biết những đe doạ mà tiên tri Khabacúc phải đối diện, nhiều nhất là từ nội bộ tôn giáo, xã hội, chứ không riêng gì ngoại bang áp bức. Cái chết của vua chủ trương cải cách Giosia khiến quốc gia rơi vào hỗn loạn. Vua con Giêojakim hư hỏng, làm tan hoang chương trình của vua cha, dẫn đất nước vào cảnh nô lệ, xã hội suy đồi. Khabacúc la lớn chống lại lãnh đạo thối nát và cảnh cáo họ rằng Thiên Chúa sẽ dùng bàn tay sắt của Babylon trừng phạt dân riêng. Thật buồn thảm khi nhìn xem quần chúng bị áp bức bởi chính lực lượng chính trị, quân sự, tôn giáo của tuyển dân. Xấu hổ và đau xót biết mấy. Lương tâm ngay chính chịu làm sao nổi? Ai có khả năng cứu vớt tình hình nếu không phải là Thiên Chúa các đạo binh? Ai có thể làm giảm bớt những đau khổ hiện tại? Dân chúng lại không có quyền lực, lãnh đạo thì thối nát. Tiên tri chỉ còn cậy nhờ vào Đức Chúa Trời: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa?”. Tiếng kêu thảm thiết nhưng có lý. Đây cũng là hoàn cảnh của chúng ta. Nếu không có những tâm hồn đạo đức như Khabacúc thì vô phương chữa chạy.

Sau khi đã vạch rõ nỗi cực lòng của tuyển dân, tiên tri Khabacúc bước sang phần thứ hai của bài đọc, cũng là bổn phận chính yếu của một ngôn sứ (kêu gọi hy vọng và tin tưởng vào Đức Chúa Trời, hoán cải xã hội và nếp sống cá nhân). Xem ra Đức Chúa đã bỏ mặc dân riêng trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Nhưng ngôn sứ được Thiên Chúa trả lời: “Hãy viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy: đó là thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh đến chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng”. Nghĩa là đang có giải pháp và tuyển dân có quyền hy vọng.

Nhưng còn chúng ta hôm nay thế nào? Ý định cứu vớt của Đức Chúa Trời có được trân trọng? Nếu căn cứ vào thái độ của nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân, thì câu trả lời là “không”, vì cách ăn nết ở chẳng kéo được lòng thương xót của Đức Chúa Trời. Ngày ngày yến tiệc linh đình, dã ngoại, du lịch, tiện nghi tùm lum như Phúc Âm tuần trước mô tả, thì làm sao tranh thủ được lòng thương xót? Theo vị ngôn sứ, trái tim của Đức Chúa nằm ở những nơi đau khổ, thiếu thốn, cô thân cô thế, không kẻ giúp đỡ.

Khi hiểu rõ như vậy, phản ứng của tín hữu phải làm gì cộng tác với Ngài để giảm nhẹ tình trạng ấy? Suy gẫm suông chẳng giúp ích được chi như câu ca dao: dù xây chín cấp phù đồ, chẳng bằng làm phúc giúp cho một người. Hoặc đơn giản hơn: “tội nghiệp suông không bằng tiền buông chút ít”. Chúng ta có ngàn vạn phương cách để dấn thân giúp đỡ họ: ăn ở công bình, khử trừ tệ đoan, cứu giúp nạn nhân, yên ủi người sầu khổ, tranh đấu chống bất công. Hoặc tối thiểu đừng gây thiệt hại cho ai. Viễn tượng của vị tiên tri luôn thúc đẩy tín hữu làm chi đó cho xã hội, thăng tiến con người: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình”. Một nhà đạo đức đã viết: “Đức tin không có công lý là đức tin giả hiệu”. Vậy xét mình xem chúng ta sống công lý thế nào, để đức tin của mình chân thật? Và nhờ đó thế giới được cải thiện. Thu vén cho mình mọi tiện nghi bằng cái giá thiệt thòi của thiên hạ. Chắc chắn không phải là đức tin chân chính, dù bào chữa thế nào đi nữa. Nên bài đọc Khabacúc day tín hữu đừng ngưng nghỉ sống công chính hoặc thối chí làm việc, tranh đấu cho một xã hội tốt hơn, trong sạch thánh thiện hơn, ngõ hầu Thiên Chúa tưới gội Hồng Ân hạnh phúc và thoát ách nô lệ Satan, tội lỗi. Bao lâu còn bất trung với ơn gọi của Thiên Chúa, bấy lâu còn lầm than như dân Do Thái xưa. Phần thứ nhất của bài đọc Khabacúc như một lời cầu nguyện van xin, thì phần thứ hai khuyến khích sống ngay lành, thi hành ơn gọi tranh đấu cho công bình bác ái.

Phúc âm khai triển cùng ý tưởng ấy. Các tông đồ xin Chúa tăng thêm đức tin: “Lạy Thày, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Điều này khiến chúng ta suy nghĩ. Tại sao lại yêu cầu như vậy? Đức tin của họ chưa đủ để hoạt động sao? Xin nhớ là Chúa vừa giáo huấn các môn đệ về hậu quả nghiêm trọng khi gây gương mù, gương xấu (thà buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển). Rồi phải tha thứ cho nhau 490 lần một ngày. Vậy thì các ông không đủ khả năng sống lời Chúa dạy, để tiếp tục theo Ngài. Do đó các ông xin thêm đức tin. Tự nhiên là như vậy.

Nhưng Đức Giêsu giải quyết cách khác: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Chúa không nói đến số lượng mà chất lượng. Nếu các tông đồ có chất lượng đức tin tốt, thì dù số lượng chỉ bằng hạt cải cũng có thể làm được nhiều điềm thiêng dấu lạ. Hoá ra xưa nay chúng ta đã lầm to khi chỉ đòi hỏi khối lượng. Đức Hồng Y Fulton J. Sheen nhận xét: nên thánh không cần thời gian mà chỉ cần tình yêu. Đức tin cũng vậy, chỉ cần chất lượng tốt là đủ. Cây dâu trong Tin Mừng là một đại thụ rễ sâu và nhiều, chằng chịt khắp mặt đất, ăn quanh các tảng đá lớn, khó lòng mà nhổ lên được, vậy mà chỉ cần đức tin bằng hạt cải. Liệu chúng ta có đức tin đó chưa? Để truyền giáo, thu hút linh hồn thiên hạ, gặt hái những mẻ lưới to? Câu nói trên quả là chân lý: Faith without justice is not true faith. Tư tưởng của Khabacúc thật là hữu ích. Đức Giêsu dạy các tông đồ không nên cậy dựa vào số lượng. Họ có đủ rồi, chỉ nên suy nghĩ về số lượng đó và hành động.

Ngày nay chúng ta quên sự thật này. Làm chi cũng đòi công lênh, tính toán thành tích, báo cáo kết quả. Thật tai hại. Nó đi ngược lại tinh thần của Đức Kitô. Làm bất cứ điều chi, người ta cũng đòi trả công, chẳng có việc chi không đòi trả tiền, kể cả các bí tích. Tôi còn nhớ như in một linh mục sau khi rửa tội cho con trẻ trong lễ fiesta của xóm chài nghèo khó, cứ đi đi lại lại trước một mái hiên của một gia đình. Tôi ngạc nhiên, hỏi nhỏ anh bạn người địa phương tại sao như vậy? Anh ta ghé sát vào tai tôi và nói: “Đòi tiền rửa tội”. Chao ôi, đó là sự thật sao? Xét cho cùng, chúng ta đều như thế. Hình thức này hay hình thức khác. Chúng ta quên bẵng rằng hành động anh hùng, quảng đại nhất là việc của tình yêu và đức tin tinh ròng, không tính toán lương bổng, hơn thiệt. Thí dụ cha mẹ nuôi nấng con cái, liệt sĩ vì quê hương, tử đạo vì đức tin. Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ (Mt 5, 3). Nếu chúng ta làm việc vì công lênh, chúng ta đánh mất nước Thiên Đàng. Cho nên hành động với đức tin tinh ròng là cần thiết để trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô. Dụ ngôn người tôi tớ vô dụng minh hoạ điều đó: “Đối với anh em cũng vậy: khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Suy nghĩ về dụ ngôn này, cha Thomas Merton viết: “Even if I had done some good works to trust in I would not want to trust in them” (Ngay cả khi tôi thực hiện được vài công việc tốt có thê tin cậy được, thì tôi cũng không muốn tin tưởng vào chúng) (Seven storey Moutain). Còn tác giả Catherine Doherty viết: Let us never try to sweeten Christ’s teaching (không nên bao giờ bỏ đường vào Lời Chúa). Ngày nay vì ảnh hưởng vật chất, chúng ta có tinh thần ngược lại, nhất là giới trẻ. Lý tưởng cao thượng chẳng còn giá trị nào.

Đức Giêsu mời gọi các tông đồ hãy đặt cậy trông vào niềm tin mà họ đang có, rồi hành động trên niềm tin đó. Đừng phàn nàn vì không đủ đức tin, rồi sinh ra ươn lười, trì hoãn, viện cớ để bất động, thiếu sáng kiến và không tin tưởng vào ước mong của Thiên Chúa muốn hành động qua nỗ lực của chúng ta.

Người cần chúng ta dám sửa chữa những bất công xã hội. Não trạng cầu an chẳng ích lợi chi. Nhưng sức riêng của chúng ta chẳng có khả năng nhổ rễ được điều xấu. Với ơn Chúa trợ giúp thì đức tin bằng hạt cải có thể lấp biển dời non. Điều này không phải đại ngôn mà là sự thật. Làm môn đệ Chúa, dù được trang bị đức tin bằng hạt cải, thì vẫn phải làm việc, bất chấp khó khăn, theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh, gạt bỏ mọi tư duy lợi lộc hay phần thưởng. Đặc biệt đối với các linh hồn lao động trong vườn nho của Thiên Chúa, linh mục, tu sĩ, những linh hồn tận hiến. Chúng ta phải cố gắng lao động không công, chỉ vì tình yêu thúc bách. Đừng quá nặng về tiền bạc, tiếng tăm hay thành công. Nếu nghĩ mình quan trọng, không ai thay thế được, là chúng ta đã đi lệch đường: Bene curris sed etra viam (chạy tốt nhưng lạc đường). Lời Chúa luôn phải là kim chỉ nam cho chúng ta hành động: “Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói chúng tôi là những đầy tớ vô dụng”.

Đấy mới là thái độ đúng đắn của các môn đệ Chúa Kitô, ngược lại với Pharisêu, thượng tế, luật sĩ. Chủ thuyết của họ nghĩ rằng khi cặn kẽ tuân giữ lề luật Môisê thì Thiên Chúa mắc nợ họ. Lầm biết bao, vì không bao giờ Thiên Chúa mắc nợ ai cả, cho dù chúng ta chịu chết vì Ngài. Tuy nhiên, Người là cha nhân từ, chứ không phải ông chủ đối với các nô lệ. Ngài sẽ thưởng cho ai nấy tuỳ công việc họ làm. Đức Giêsu tuyên bố như vậy, và thánh Phaolô nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Như những người con trong gia đình, chúng ta hành động hoàn toàn vì tình yêu, không tính đến công lênh. Chúng ta làm việc chỉ để đáp lại tình yêu hải hả của Thiên Chúa. Ước mong mọi tín hữu đều ý thức được như vậy. Amen.

 

44. Chú giải của Noel Quesson

Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng

Thánh Luca vẫn luôn tả lại “cuộc hành trình cao cả và sau cùng” lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Ơ đây, Luca dùng một công thức trịnh trọng để dẫn nhập vào câu chuyện sắp kể.

Sau khi đã nói với những người Pharisêu (Lc 16,1-31) kế đó với các môn đệ (Lc 17,14), Đức Giêsu nói với các “Tông đồ”. Trong các Tin Mừng khác, danh hiệu này chỉ dành cho nhóm Mười Hai và chỉ nói một lần. Còn Luca dùng sáu lần trong Tin Mừng của ngài và hai mươi tám lần trong sách Công vụ Tông đồ. Dưới ngòi bút của ngài, chỉ Nhóm Mười Hai mới có quyền có danh hiệu ấy: Họ là chứng nhân chính thức của Tin Mừng của Đấng Phục sinh cho đến tận cùng trái đất. “Apostoloi” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “những người được sai đi”.

Trong đời sống hằng ngày, tông đồ là một vai trò nặng nề trách nhiệm: Không ai có thể tự ban cho mình chức vụ đó. Trong Giáo Hội tiên khởi, người ta không thể không ý thức về đặc quyền không thể chuyển giao và không thể tuyền lại được đặt trên Nhóm Mười Hai: Tính chất chính thống của “sứ vụ” và của việc “sai đi” do đích thân Đức Giêsu ban cho. Chính Người đã chọn họ và đã sai họ đi. Họ là các “chứng nhân” của Người. Họ dã nghe lời Người giảng dạy. Họ có thể nói lại: Những lời ấy đến trực tiếp từ Người. Họ có những cử chỉ của Người. Họ có thể lặp lại những cử chỉ ấy. Vẫn luôn là những cử chỉ của Người. Nhất là họ thấy Người sống động sau khi đã sống lại: Họ không thể không cao rao điều đó cho đến tận cùng trời cuối đất.

Theo một ý nghĩa loại suy, Giáo Hội ngày nay yêu cầu mọi Kitô hữu trở thành các “tông đồ”. Nhưng những yêu sách của tính chất chính thống còn mãi trong sự súc tích của chúng: Tôi cũng thế, tôi được đích thân Đức Giêsu sai đi… để trở thành chứng nhân của Người, của tư tưởng, lời nói, cử chỉ, sự cứu chuộc và tình yêu của Người.

Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”

Danh xưng “Chúa” chỉ xuất hiện một lần trong Matthêu và Maccô để chỉ Đức Giêsu khi còn sống. Luca dùng danh xưng ấy mười chín lần trong Tin Mừng ngài. Nhưng từ này không được sử dụng bởi tình cờ: Ngài luôn luôn muốn chỉ đến vinh quang của Đấng Phục sinh.

Hơn nữa, lời cầu xin của các tông đồ cũng không tầm thường. Đây là lần duy nhất mà người ta thấy bạn hữu của Đức Giêsu nói với Người một lời “cầu xin”, “như thể” Người là Thiên Chúa. Bằng một sự tham dự trước, họ cầu xin Đức Kitô trong vinh quang Tin Mừng, với Đấng mà sau này họ đã khám phá sự đồng nhất mầu nhiệm với Đức Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, sự kết thúc đến gần.

“Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con”.

Trở thành tông đồ, không đơn giản là một quyết định của con người.

Trở thành chứng nhân của sự sống lại trước tiên không do bởi một sự hiển nhiên duy lý áp đặt như khi người ta đơn giản thừa nhận một sự kiện lịch sử bắt buộc.

Chỉ có đức tin mới mở ra cho những thực tại thánh thiêng ấy và do đó siêu nhiên, bên trên mọi thứ duy lý của khoa học. Và đức tin là một “ơn của nhiên Chúa” “Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”

Vậy thì ai, nếu không phải là chính Thiên Chúa đã có thể biến đổi các tông đồ sau sự bỏ trốn và chối bỏ thảm hại của họ?

Vậy thì ai nếu không phải là Thiên Chúa, đã làm họ trở thành những “chứng nhân can đảm” đến độ chịu tử đạo? Không, đức tin không phải là một điều hiển nhiên, một điều chinh phục được, một sự căng thẳng của trí tuệ và ý chí con người. Đức tin là sự đón nhận khiêm tốn một ân huệ, một ân sủng. Điều đó không có nghĩa con người không làm gì cả: “đón nhận” là một hành động tích cực cao độ của con người. Bạn không phải là ánh sáng. Nhưng nếu bạn khép cửa lại thì mặt trời muốn vào nhà bạn để chiếu sáng sẽ không bao giờ có thể vào được. Đức tin là một mặt trời. Một “ơn” luôn luôn được ban tặng cho tất cả mọi người. Nhưng phải mở cõi lòng mình ra. “Ơn của Thiên Chúa”, sáng kiến không mất tiền và siêu nhiên nên đức tin phải được “cầu xin”: Lời cầu nguyện là cánh cửa sổ của đức tin; phải được mở ra để đón nhận ơn Thiên Chúa. “Lạy Chúa, xin cho con đức tin. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con…”

Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em

Một hình ảnh khó quên theo đúng kiểu mẫu Palestine, và rất đạt trong văn phong dùng nghịch lý của Đức Giêsu. Hạt cải là loài “nhỏ nhất trong các loại hạt” (Mc 4,31). Còn cây dâu là cây rất khó bật rễ, theo các câu nói của những giáo trưởng Do Thái. Dĩ nhiên, Đức Giêsu ở đây không khuyên người ta cầu xin những phép lạ giật gân: Người không bao giờ dời cây dâu xuống biển; và nhiều lần, Người đã từ chối các “dấu chỉ” kỳ diệu mà người ta yêu cầu Người. Nhưng bằng hình ảnh này, Người mạnh mẽ nói với chúng ta rằng đức tin mở chúng ta cho điều bất khả, cho Thiên Chúa.

Một đức tin nhỏ nhất còn mạnh hơn mọi cộng việc của con Người bởi vì sự tham gia vào chính sức mạnh của Thiên Chúa là một việc lớn lao. Thật vậy, sau khi Chúa sống lại, hiệu quả đức tin của các Tông đồ không cân xứng với khả năng nghèo nàn của con người họ. Vốn là những người không có ảnh hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính, tổ chức, báo chí, truyền hình, tóm lại không gì cả… thế mà họ đã thay đổi dòng lịch sử. Ngày nay, bởi sự kiện lịch sử này và bởi lời của Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi từ bỏ các phương tiện của quyền lực, không trông cậy vào các phương pháp về phương tiện tông đồ tinh xảo nhất và được chương trình hóa tốt nhất… để chỉ dựa vào đức tin và mở lòng ra với đức tin bằng lời cầu nguyện.

“Các bạn hãy nhìn xem: Một trinh nữ sinh con, một người được sinh ra từ Thiên Chúa; thiên đàng ở giữa chúng ta; chỉ còn một dân tộc… Chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc trong biển, những người ăn mày trở thành những ông vua, những kẻ có quyền thế bị lật đổ, người ta chia sẻ các kho tàng… Các bạn hãy nhìn: nước biến thành rượu và rươụ trở thành máu, bánh hóa ra nhiều và dân chúng không còn đói nữa… chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc trong biển, các sa mạc đầy hoa, người ta gặt lúa vào mùa đông và kho lẫm đầy tràn…”. Chỉ cần một chút đức tin, nhỏ như một hạt cải để thấy những người chán nản lấy lại niềm hy vọng, những người tội lỗi đứng dậy, những con đường không lối thoát được mở ra, chiến tranh chấm dứt, tình yêu được tái sinh… vâng, cây mọc trong biển, núi dời chỗ. Những ngọn núi của sự sợ hãi, ích kỷ và đê tiện. Thế giới đang khủng hoảng! Giáo Hội đang khủng hoảng? Chỉ cần một chút Đức tin… Gia đình đang khủng hoảng! Học đường đang khủng hoảng. Kinh tế đang khủng hoảng? Sự chết chiến thắng, thập giá trống rỗng và trần trụi, nhưng mộ Người trống rỗng, mở ra và Người đứng đó, bên kia biển! Và “cây cối nhảy múa vui mừng” (Thánh Vịnh 95).

Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi’, chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau

Trước tiên chúng ta cứ để cho mình công phẫn vì sự nghiêm khắc đó. Dĩ nhiên hoàn cảnh của nô lệ ở Palestine vào thời Đức Giêsu ít khắc nghiệt hơn ở trong thế giới La Hy vào thời của Thánh Luca nơi mà một hoàn cảnh lệ thuộc của những nô lệ thật bi đát đến nỗi chúng ta khó mà tưởng tượng tình hình đó lại phổ biến như thế. Người nô lệ là “vật sở hữu” của ông chủ mà ông chủ không phải trả lương, cũng không biết ơn.

Cần phải nói thêm rằng chúng ta không có quyền dựa vào những lời nào đó của Đức Giêsu để biện minh cho những thái độ chống đối lại xã hội ngày hôm nay. Những đoạn Tin Mừng biện hộ cho tình yêu thương, sự chia sẻ, sự tôn trọng người khác có quá đủ.

Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?

Lạy Chúa, phải đấy. Phải biết ơn. Chúa cũng biết vậy mà: Nhưng Chúa có ý đinh nói với chúng con một chân lý rất quan trọng và để nói với chúng con điều ấy, Chúa dùng những hình ảnh nghịch lý hầu như khó bênh vực được theo những chuẩn mực của con người như chúng con.

Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm

Lạy Chúa, Chúa muốn nói về điểm này. Vấn đề không phải là một bài học về các quan hệ xã hội! mà là một bài học về các quan hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa: Đức Giêsu là con người hướng về Thiên Chúa hoàn toàn và triệt để Người phá bỏ những thói tự phụ nực cười của chúng ta. Người đặt mọi vật trở về vị trí chân thật của chúng ta. Lừa phỉnh mình làm gì cho vô ích. Thiên Chúa là tất cả. Tôi không là gì cả trước mặt Người.

Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay chúng ta phải lắng nghe sự thật hiển nhiên đó. Thiên Chúa là “ông chủ”! Hình ảnh này khắc khổ nhưng chân chính và chúng ta không nên đặt nó đối lập với nhiều hình ảnh khác qua đó Đức Giêsu nói về Thiên Chúa như một “người cha”, một “người chồng”, kể cả một “người phục vụ”: “Chủ nhà sẽ làm gì? Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ “ (Lc 12,37). Chúng ta phải chấp nhận những mâu thuẫn bên ngoài đó.

Vâng, lạy Chúa, con chấp nhận đặt mình trước mặt Chúa như một người đầy tớ hoàn toàn nhỏ bé, chăm lo thực hiện với lòng trung tín tất cả những gì mà Chúa đã truyền cho con. Như Đức Maria, như biết bao vị thánh sẵn sàng để “phục vụ”. Thánh nữ Jeanne d’Arc đã nói: “Phải phục vụ Thiên Chúa trước tiên”. Đức Maria đã nói: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa”.

Hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi

Trước khi yêu cầu chúng ta, Đức Giêsu đã sống điều đó: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng mặc lấy thân nô lệ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl. 2,6).

Những người Pharisêu sau cùng đã tưởng rằng họ đáng hưởng thiên đàng bới những công phúc của họ: Có qua có lại mà. Vả lại Thiên Chúa là Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng không tính công để trả lại cho chúng ta, Đấng mà không một ai có thể sai khiến. Tự phụ rằng mình có một quyền năng đủ là ma thuật hay không là ở trước mặt một “thần tượng” chứ không phải trước mặt Thiên Chúa.

Thái độ chân thật duy nhất trước Thiên Chúa là tuyệt đối không đòi tính công, là hoàn toàn vô tư. Trở thành người đầy tớ theo cách của Đức Giêsu không phải là nhục nhã: Phục vụ, chính là thống trị!

 

45. Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục vụ

(Suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Đoạn văn Lc 17,7-9 [10] thường được trích như là một “dụ ngôn”. Kiểu gọi này được biện minh vì dựa trên một lời hư cấu về một cuộc gặp gỡ tưởng tượng giữa một ông chủ và những người đầy tớ làm việc ngoài đồng; lời này có tầm quan trọng đối với thế giới tôn giáo. Trong khi câu chuyện của Đức Giêsu thì hư cấu, nó lại phản ánh tương quan ông chủ-đầy tớ trong thế giới lúc ấy. Cử tọa rất hiểu những chờ đợi của ông chủ đối với đầy tớ của ông.

Tác giả Lc đã đặt dụ ngôn này ở cuối một vài lời nói không liên kết với nhau tại nguồn (cc. 1-6). Tuy nhiên, bài dụ ngôn của chúng ta bắt đầu với câu hỏi của Đức Giêsu ở c. 7, hẳn là ít ra phải liên hệ với c. 6, bởi vì câu hỏi của Đức Giêsu đi theo c. 6 mà không có chỗ nghỉ hoặc một lời dẫn nhập.

Những gì chúng ta đọc được ở cc. 5-6 liên hệ đến đức tin. Các môn đệ xin đức tin, nhưng qua câu hỏi, ta hiểu là họ đã có đức tin. Nhưng lời của Đức Giêsu dường như lại gợi ý rằng họ có ít đức tin hơn họ tưởng; thậm chí họ không có đức tin lớn bằng hạt cải, là thứ hạt giống nhỏ nhất. Lý do khiến các ông xin thêm đức tin là vì nội dung lời rao giảng trước đó của Đức Giêsu (tha thứ cho người xin tha, bất kể số lần) rất khó tuân theo. Có thêm đức tin, họ sẽ có thể vâng theo. Đức Giêsu không phủ nhận giá trị của việc gia tăng đức tin, nhưng Người quả có nghi ngờ là các ông không có đủ đức tin để vâng lời Thiên Chúa, là Chủ của họ và đối tác ký giao ước với họ.

Lời than thở này của Đức Giêsu về đức tin của các môn đệ gợi ý là có một dây liên kết với bài dụ ngôn. Nhận ra rằng các môn đệ hiểu lầm là các ông đã có đức tin, mà thật ra các ông không có một đức tin để luôn luôn vâng lời, Đức Giêsu tận dụng khái niệm “vâng lời” mà đưa ra một dụ ngôn liên hệ trực tiếp đến tư cách môn đệ: họ là những đầy tớ. Theo một nghĩa nào đó, đối với các đầy tớ, vâng theo các lệnh của ông chủ thì không khó khăn gì. Nhưng phải nhìn xa đến việc vâng lời chủ trong cả những hoàn cảnh khó khăn. Thực tại ông chủ-đầy tớ là một ví dụ tốt cho việc sống đời sống tôn giáo: đầy tớ phải hành động như đầy tớ. Các môn đệ đáng nhận lời Đức Giêsu chỉ trích về tình trạng thiếu đức tin, nhưng qua bài dụ ngôn, họ được yêu cầu nhìn đến bản thân để thấy rõ sự thật của họ: họ là những đầy tớ phải vâng lời Đức Chúa. Những giáo huấn của Đức Giêsu di trước cc. 5-6 rất khó nghe, nên đòi hỏi tin tưởng vào sự khôn ngoan của Đức Giêsu và qua Người, vâng lời Thiên Chúa. Có ai nghĩ rằng mình có đức tin mà lại không vâng theo các giáo huấn của Đức Giêsu? Đúng ra, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu như là những đầy tớ, cho dù các khó khăn của các điều răn của Người có thế nào. Hiểu như thế, dụ ngôn có một đường nối với những gì đi trước: giáo huấn thì cứng rắn (không được làm bất cứ điều gì làm suy yếu đức tin của người thân cận do không tha thứ), nhưng đây là ý muốn của Chúa, và chúng ta, những đầy tớ của Người, chúng ta biết vai trò của mình và vâng phục.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Đức tin (17,5-6);

2) Dụ ngôn Người tôi tớ (17,7-10).

3.- Vài điểm chú giải

– xin thêm lòng tin (5): Câu này có thể hiểu là: xin thêm đức tin vào niềm tín thác mà chúng con đã có, hoặc thêm tin tưởng vào những ân huệ khác mà chúng con đã lãnh nhận. Dựa theo văn cảnh, có thể ưu tiên hiểu theo nghĩa đầu.

– Hạt cải (6): Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs, tiếng Pháp là graine de moutarde, tiếng Anh là mustard seed. Cây sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là một loại cây thông dụng bên Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng. Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt, nhưng nhỏ nhất trong các loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc và được tục ngữ Do Thái dùng mà chỉ những gì nhỏ nhất.

– cây dâu (6): Từ Hy Lạp sykaminos (1 V 10,27; 1 Sb 27,28 … Bản LXX) để dịch từ Híp-ri shiqmâh; thế mà shiqmâh là “cây sung” (HL sykomorea, “sycamore”). Vậy hẳn sykaminos ở đây cũng là sykomorea ở Lc 19,4: tác giả Lc dùng không phân biệt hai từ này. Dù sao, tác giả muốn nêu ra hình ảnh một cây khá to.

– đầy tớ (7): Tiếng Hy Lạp là doulos: người nô lệ hoàn toàn lệ thuộc người chủ và đón nhận mọi sự từ người chủ như những ân huệ (x. Tv 123,2). Vào thế kỷ i, xã hội được phân chia thành các giai cấp, chủ nhân và đầy tớ. Đa số các công nhân là đầy tớ của một ông chủ thì sống trong một ngôi làng và ra đi làm việc cho ông chủ, rồi lại trở về làng với một số tiền nhỏ là công lao động. Đôi khi những người này chờ nơi quảng trướng để mong có ông chủ nào thuê họ, vào bất cứ lúc nào. Một loại đầy tớ khác, đó là người sống trong nhà của chủ, nên không có tiền công

– lại bảo nó…? (7): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.

– Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn…? (9): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.

– vô dụng (10): Từ Hy Lạp là achreios có nghĩa chữ là “vô ích, vô dụng” (useless), nhưng ở đây, nghĩa thích hợp hơn, đó là “không sinh lợi lộc” (unprofitable), bởi vì chỉ làm đúng bổn phận. TOB dịch là quelconque (= bon à rien), NAB dịch là unprofitable, New International Version dịch là unworthy. Dịch là “vô dụng” dường như không đúng, vì ba lý do: 1) Người đầy tớ trong dụ ngôn đã tỏ ra có ích vì làm việc trong cánh đồng suốt ngày; 2) Trong việc chúng ta vâng lời Thiên Chúa, Người không bao giờ gọi chúng ta là “vô dụng” cả; Kinh Thánh không có chỗ nào ghi nhận như thế cả; 3) Từ ngữ Hy Lạp achreios này rất hiếm, nên trong văn chương Hy Lạp, không có ví dụ để giúp xác định ý nghĩa đúng của nó. Dựa vào ngữ cảnh, co thế hiểu “vô dụng” đây là người đầy tớ không có quyền gì mà yêu cầu được đối xử khác với những gì tư cách anh cho anh được hưởng.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức tin (5-6)

Chúng ta không biết động lực nào đã thúc đẩy các tông đồ xin Đức Giêsu thêm lòng tin cho các ông. Rất có thể đó là những khó khăn trong cuộc sống của những người đi theo Đức Giêsu, như ta hé thấy ở Lc 17,1-4. Đức Giêsu đã trả lời các tông đồ không phải bằng cách cho một định nghĩa về đức tin mà bằng cách ca ngợi sức mạnh của lòng tin, với những hình ảnh có vẻ phi lý; Người nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng của đức tin. Nếu người ta có một lòng tin tưởng chân chính và thực hữu nơi Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra điều không sao làm được theo các tiêu chuẩn loài người. Để diễn tả điều này, Đức Giêsu dùng các hình ảnh là “chuyển núi dời non” (x. Mt 17,20) hoặc “nhổ bật rễ cây dâu mà trồng xuống biển”. Người muốn nói rằng lòng tin, dù nhỏ bé, luôn luôn là hiệp thông với Thiên Chúa, tức là thông dự vào quyền lực của Ngài, mà đối với quyền lực Thiên Chúa thì không có gì là giới hạn cả. Cho dù Thiên Chúa có đặt người môn đệ trước những nhiệm vụ và đòi hỏi nhìn bề ngoài thì thấy không thể làm được, Ngài vẫn có thể giúp họ có khả năng thực hiện được. Cho dù Ngài hứa một điều loài người thấy là không thể làm được, Ngài vẫn có thể làm được: trong dạng triệt để nhất, điều này xảy ra với việc kẻ chết sống lại. Chính vì thế Đức Giêsu đã nói với những kẻ được Người giúp đỡ: “Lòng tin của con đã cứu con” (Lc 7,50; 8,48; 17,19; 18,42).

* Dụ ngôn Người tôi tớ (7-10)

Với công thức Người chọn để đưa vào bài dụ ngôn, Đức Giêsu lôi kéo cử tọa dấn thân ngay; họ được mời gọi hãy phán đoán. Đây là kỹ thuật thường được Đức Giêsu vận dụng. Họ đều đã trải qua kinh nghiệm Đức Giêsu mô tả, nên có thể trả lời câu hỏi. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng câu chuyện, trong khi là một lời mời gọi trực tiếp gửi đến các thính giả, cũng nhắm đưa tới câu trả lời chính Đức Giêsu cung cấp ở c. 10.

Dụ ngôn được kể trong các câu 7-10 có thể coi như một xác định lập trường đối lập lại với giáo lý của người Pharisêu về việc ban thưởng cho các việc lành (x. Lc 18,18: “tôi phải làm gì?”; Lc 18,11-12: người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện). Nền tảng của tương quan của chúng ta với Thiên Chúa hệ tại sự kiện Ngài là Chúa của chúng ta, nên chúng ta phải quan tâm đến và thi hành ý muốn của Ngài. Chúng ta không phải là những chủ nhân tự do và độc lập, vì Thiên Chúa luôn luôn có điều gì đó để nói với chúng ta. Tuy nhiên, trước khi yêu cầu chúng ta điều gì, Ngài đã ban cho chúng ta rất nhiều ân huệ rồi: sự sống, các khả năng… Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa về cuộc sống, nên từ nơi Ngài, phát xuất các bổn phận của chúng ta. Ngài xác định cho chúng ta đâu là con đường phải theo và đâu là mục tiêu. Chúng ta chịu trách nhiệm trước nhan Ngài và chúng ta sẽ phải trả lời với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng phải biết rằng Ngài không yêu cầu chúng ta điều vì võ đoán và phi lý. Chúng ta phải tôn trọng Ngài và nhìn nhận Ngài là

Đấng tạo hóa và Chúa tể của chúng ta. Đối với người anh em, chúng ta phải kính trọng và gán cho họ phẩm giá của chính chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ phải hành động như những người quản lý trung thành, có trách nhiệm. Khi làm mọi việc, chúng ta phải ý thức rằng mình chỉ làm các việc bổn phận mà thôi. Tuyệt đối không bao giờ được tưởng rằng mình đã ban một ân huệ cho Thiên Chúa khi tuân giữ các giới răn của Ngài và chu toàn các bổn phận của chúng ta.

Dụ ngôn này cũng được các nhà chú giải hiểu là được ngỏ riêng với các thủ lãnh trong Hội Thánh: Các ngài đừng dừng lại nghỉ ngơi vì cho rằng mình đã làm đủ rồi. Đức Giêsu gợi lại hoàn cảnh xã hội thời đó, có chủ nhân và nô lệ với tương quan được xác định rõ ràng. Nô lệ luôn luôn phải đưa mắt nhìn về phía chủ mà đón nhận mọi mệnh lệnh. Khi thi hành các mệnh lệnh, nô lệ chỉ làm “việc bổn phận” mà thôi. Tất cả thì giờ, tài nguyên, sức lực của con người phải được tận dụng mà phục vụ Thiên Chúa. Rồi khi đã chu toàn công việc, con người không được khoe khoang hoặc đòi hỏi những quyền lợi hoặc phần thưởng đặc biệt. Tác giả muốn khẳng định rằng nơi người tín hữu, mọi sự đều là ơn Chúa, lòng tin cũng là một ơn Chúa. Tất cả những gì con người nhận được đều không hề tỷ lệ với những gì họ đã làm. Mọi sự đều là hồng ân phát xuất từ lòng nhân lành và từ bi của Thiên Chúa, chứ không do một khoản hợp đồng giao kèo nào cả.

+ Kết luận

Đức tin là niềm tín nhiệm không lay chuyển rằng Thiên Chúa có quyền năng vượt mọi múuc độ loài người; Ngài đầy tình yêu, Ngài không quên chúng ta, Ngài hướng dẫn chúng ta đến chỗ thành toàn. Với cái nhìn đức tin, chúng ta hiểu mình chỉ là những tôi tớ, lại là tôi tớ “vô dụng” vì chỉ biết làm những việc phải làm. Hiểu như thế chẳng hề làm chúng ta nản chí, bởi vì chúng ta biết rằng mọi sự là của Thiên Chúa, là do Ngài. Người tin vào Đức Giêsu và Thiên Chúa được thúc bách xác định bản than tùy theo tương quan của mình với Thiên Chúa: người ấy là đầy tớ của Thiên Chúa và phải vâng phục Ngài, cho dù giáo huấn của Ngài có khó khăn đến đâu. Người ấy không là gì khác ngoài thân phận đầy tớ, và chỉ được vinh quang vì là đầy tớ. Người ấy không vô dụng, nhưng luôn luôn là đầy tớ, và không là gì khác, trong tương quan với các điều răn của Thiên Chúa. Thật ra, được làm việc cho Ngài đã là một vinh dự rồi, thì sao lại còn chờ đợi có phần thưởng? Và như thế, cuộc sống mai sau cũng là một hồng ân.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Đứng trước các trách nhiệm cũng như các khó khăn của cuộc đời, chúng ta noi gương các tông đồ, không tránh né, không tìm cách giảm thiểu, nhưng xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin. Chúng ta xin Người giúp kết hợp sâu xa hơn với Thiên Chúa. Chỉ duy Thiên Chúa mới có thế giúp đỡ chúng ta làm những việc mà người đời nghĩ rằng sức con người không sao làm nổi.
  2. Nhờ đức tin, người tín hữu mở lòng ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức Giêsu và như thế họ được chính quyền năng của Người đến hỗ trợ. Cho dù đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó chỉ như một hạt cải, nếu nó thực sự là đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ làm cho họ tiến tới. Điều cần thiết là họ không khép lòng lại với Ngài, ít ra họ giơ bàn tay về phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ phải té ngã. Ngài sẽ nắm chắc bàn tay của họ và dẫn đưa họ tới đích.
  3. Không chỉ khuyên chúng ta tin, Chúa Giêsu còn cầu nguyện cho niềm tin của chúng ta, như Người đã từng nói với Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32). Bằng cách đó, Đức Giêsu đưa lời thỉnh cầu của các môn đệ là được thêm lòng tin đến chỗ thành toàn viên mãn. Chính Người ngỏ lời với Chúa Cha để gửi gắm các môn đệ. Chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho mình, cho nhau, đồng thời chúng ta cậy dựa vào lời chuyển cầu của Chúa Giêsu.
  4. Khi đọc Dụ ngôn Người tôi tớ, chúng ta không nên đi lạc sang đề tài “chủ nô” của triết học Tây phương, cũng đừng chạnh lòng về mặt luân lý mà cho rằng Thiên Chúa chỉ coi chúng ta như những nô lệ! Trong Tin Mừng Luca, không thiếu những đoạn văn nói về những tương quan và thái độ của Thiên Chúa đối với con người với nội dung hoàn toàn khác (x. Lc 11,5; 15,3-7; 15,11-32; v.v.). Ở đây, tác giả chỉ nhắc lại một hoàn cảnh quen thuộc với các thính giả để rút ra những bài học thần học. Đó là: người tín hữu, người môn đệ hoặc người tông đồ phải có thái độ khiêm tốn, mà không nô lệ, ở trước nhan Ngài, nhất là đối với những đề nghị của Ngài.
  5. Bởi vì Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng người môn đệ chỉ là một “tôi tớ” và là tôi tớ “vô dụng”, chúng ta hiểu rằng: chu toàn các nhiệm vụ được giao phó không nhất thiết bảo đảm cho phần rỗi của mình; khi đã làm tất cả những việc được giao rồi, người môn đệ vẫn ý thức rằng cuộc sống đang chờ mình ở bên kia thế giới cũng là một ân huệ. Như thế, quả thật, không có chỗ nào dành cho sự vênh vang, tự hào tự mãn cả.
  6. Đôi khi chúng ta có lối suy nghĩ y như thể nếu chúng ta cầu nguyện, nếu chúng ta ra sức bước theo nẻo chính đường ngay, thì Thiên Chúa phải biết ơn chúng ta. Quả thật, Thiên Chúa vui mừng về những cố gắng của chúng ta, nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta đã làm cho Ngài vui thích. Thiên Chúa không hề lệ thuộc vào bất cứ điều gì chúng ta làm cả. Ngài không cần lời cầu nguyện của chúng ta, Ngài cũng không cần nỗ lực của chúng ta để sống với người khác. Chính chúng ta mới cần sống cho tương hợp với ý nghĩa của đời sống chúng ta, để trở thành những con người trung thực. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng Thiên Chúa không bao giờ thua chúng ta về sự tốt lành và quảng đại. Là Đức Chúa, Ngài sẽ cho các tôi tớ trung thành ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ (Lc 12,37).

 

46. Chú giải của Fiches Dominicales

NHỮNG ĐẦY TỚ BÌNH THƯỜNG

CỦA ÔNG CHỦ TOÀN NĂNG

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

  1. Với đức tin, có thể làm được những việc không ai nghĩ tới.

Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu vừa mới giảng cho các môn đệ về đởi sống huynh đệ: Người nói đến cớ vấp ngã cho những anh em yếu đuối (l7, 1-4), đến sự tha thứ lỗi lầm. Là những người gánh trách nhiệm của cộng đoàn, “các tông đồ” trăn trở về cách thế để thực hiện đời sống huynh đệ này, nên các ông cầu xin: “Xin thêm lòng tin cho chúng con”.

Như thường lệ, Đức Giêsu không trực tiếp trả lời, mà sử dụng một hình ảnh dường như không thể có – hình ảnh cây dâu vâng theo lời truyền của kẻ có lòng tin tự bật rễ, xuống dưới biển mà mọc. Người xác quyết rằng đức tin, “dù nhỏ bé bằng hạt cải”, cũng đủ để thực hiện việc coi như không có thể. H. Cousin giải thích: Hình ảnh ngộ nghĩnh về ‘cây dâu vâng lời’, là đi mọc dưới biển, có nói đức tin có thể làm được những việc không ai làm được. Tác giả còn nêu rõ: đã hẳn cần phải hiểu đức tin là việc con người đáp lại sáng kiến của Thiên Chúa, chứ không phải là cách phù phép nào đó bắt ép Chúa phải thực hiện những điều kỳ diệu (“L’Evangile de Luc”, Centurion, trg 226).

  1. Là những đầy tớ cần thiết, nhưng vô dụng.

Dụ ngôn sau đó nói tiếp bài học về đức tin và đặt ưu tiên cho sáng kiến của Thiên Chúa. Trong một bài viết, đăng ở tạp chí Kinh Thánh số tháng 4, 1992, Pierre Houzet nêu lên rằng: dịch thuộc từ chỉ phàm chất người đầy tớ là “vô dụng” hay “tầm thường” như trong sách Bài đọc, dịch như thế là sai và hạ thấp giá trị của nó. Nên thay thế bằng từ “bình thường”: những đầy tớ bình thường”.

Phải cảm ơn Pierre Houzet đã lưu ý chúng ta trong bài viết rất sáng sủa của ông. Ông còn trình bày lại cách Đức Giêsu lập luận để đáp lời cầu xin của các tông đồ như sau. “Nếu với đức tin yếu kém đáng phàn nàn, mà anh em còn có thể làm được diều coi như không có thể, (thì càng có lý tin rằng: cũng với đức tin yếu kém ấy) anh em cũng có thể chu toàn ơn gọi làm đầy tớ của mình bằng cách cảm thấp hài lòng trong khi thi hành chức vụ, mà không cần ông chủ phải bày tỏ lòng ưu ái đạc biệt”. Rồi tác giả kết luận: “Chúng ta là những đầy tớ bình thường, sung sướng được thi hành chức vụ và hạnh phúc được chu toàn chức vụ ấy, dưới ánh mắt của Chúa, mà vinh quang của Người không đòi hỏi điều gì nơi ta ở trên trời, nhưng chỉ muốn con người ở dưới thế lấy việc phục vụ nhau mà ca tụng vinh quang ấy” (Sđd. trg 364 và 372).

BÀI ĐỌC THÊM:

  1. Đức tin, cái nhìn mới sức mạnh mới

(“Dieu a visité son peuple” DDB, trg 128).

“Xin thêm lòng tin cho chúng con”. Thánh sử Luca thuật lại khá dài những giáo huấn của Đức Giêsu liên quan đến mọi phương diện của đời sống mới, mà Người muốn đưa ta vào.

Người mở cho ta thấy thực tại của một thế giới khác, mặt trái của các sự vật, mà mắt người phàm không thể thấy được. Đức tin mở cánh cửa của thế giới mới ấy, thế giới của Thiên Chúa. Đức tin trở nên nguồn sức mạnh khiến cho kẻ có lòng tin thực hiện được điều không có thể đối với sức người phàm. “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, dù anh em có bảo cây sung này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Đức tin làm nẩy sinh hoa quả của Nước Trời. Đức tin là cái nhìn mới và sức mạnh mới. Chúng ta thường đóng khung trong giới hạn sự khôn ngoan và trong khả năng quá ư phàm trần của ta. Giống như các tông đồ, ta cần phải không ngừng van xin: “Xin thêm lòng tin cho chúng con”.

  1. “Một cọng cỏ dại”

(B. Bessière trong “Dieu si proche”, DDB, trg 155-156).

Tôi biết một người nhờ một cọng cỏ mà sống. Tai họa đã dồn dập đổ trên người ấy, mọi sự chỉ là đen tối, nhiều phen người ấy muốn kết liễu đời mình cho xong.

Đang lê bước chân vô định trên lề đường, cô chợt trông thấy, một cọng cỏ vươn lên trong kẽ nứt lề bê tông. Sự sống, nhỏ nhoi, xanh tươi, mạnh mẽ hơn cả tấm “thảm” bằng xi măng nặng phịch đang ra dấu cho cô. Cô lấy lại can đảm để đương đầu với những năm tháng lê thê đầy khó khăn. Hỏi rằng trong số nhan nhản những người qua đường, có bao nhiêu người đã trông thấy cọng cỏ ấy. Chắc hẳn chỉ có cô là người duy nhất nhận ra sứ điệp. Lời tâm sự khiêm tốn này luôn khích lệ tôi. Tôi luôn chăm chú nhìn trên lề đường và trên những bức tường, công trình can đảm của cây cỏ. Và trong cuộc sống con người, tôi cũng thích quan tâm đến biết bao sáng kiến nhỏ nhoi bất ngờ. Hạt cải… Đức Giêsu thật là khéo khôi hài. Các tông đồ khổ sở muốn được “thêm” đức tin, muốn đo đếm được nó, muốn cảm thấy nó dư dật theo lòng sốt sắng của các ông. Vậy mà Đức Giêsu lại hướng chú ý của họ vào một hạt giống bé xíu rồi lại đặt nó đối chọi với một cây lớn! “nếu anh em chỉ có đức tin lớn bằng hạt cải thì dù anh em bảo cây to kia. Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó sẽ vâng lời anh em”. Cọng cỏ và nền bê tông, Đavít và Goliát, cùng bà Sara cao niên hiếm muộn mà sinh đẻ trong nụ cười…

Đức Giêsu thường nói về cái hạt giống bé nhỏ, được gieo vào các loại đất khác nhau, xem như bị chết héo nhưng vẫn sinh hoa kết trái. Như vậy, Thiên Chúa gieo vung vãi, giống như một đứa trẻ đùa nghịch, và người mời gọi ta hãy đón nhận để rồi lại đi gieo nhưng không. Đức tin, là một giọt nhựa trong cây, một hạt giống vô hình, một ngọn lửa âm ỉ trong ánh mắt. Nhưng đủ để thay đổi cả cuộc đời, để chuyển núi dời non. Tin thiết tưởng là chấp nhận một sự bất cân xứng không thể tưởng tượng nổi giữa sự ù lì của con người và năng lực siêu phàm của Thiên Chúa vốn mời gọi ta biến đổi tất cả, mời gọi ta hãy sáng tạo dù không ai nhận ra. Hãy làm như Chúa. Có lẽ các bạn sẽ cười nhạo tính ngây thơ của tôi, vì tôi chỉ trông thấy những thuận lợi. Nhưng xin các bạn hãy để ý coi… Có biết bao người, nam cũng như nữ, đang làm như Thiên Chúa. Họ ở khắp mặt đất. Thế mà nhiều người có hay biết đâu.

Nếu bạn nói cho họ biết điều ấy, họ sẽ hết sức ngạc nhiên và chính họ sẽ đơn giản đáp rằng: “Chúng tôi chỉ làm việc bổn phận của chúng tôi. Việc phục vụ là hoàn toàn nhưng không”.

 

47. Suy niệm của William Barclay

Với dụ ngôn người giàu và La-da-rô nghèo, Chúa quở trách những ai dùng của cải cách ích kỷ, sau đó Lu-ca ghi lại bốn điều Chúa cảnh giác môn đệ.

Điều thứ nhất: Chúa cảnh cáo về hiểm họa gây phạm tội cho kẻ khác, thế giới này đầy những tội lỗi, nhưng khốn cho ai gây cơ hội vấp phạm. Điều thứ hai Ngài khuyên các môn đệ phải sống bác, sống trong một thế giới đầy những dịp lôi cuốn vào tội ác, chắc chắn sẽ có người vi phạm, nhưng nêu thật lòng ăn năn, hãy tha thứ, dầu trong ngày tha đến bảy lần.”

Mười hai môn đệ có lẽ vì cảm thấy trách nhiệm nặng nề nên xin Chúa ban thêm đức tin cho. Câu trả lời của Chúa ngụ ý một lời cảnh cáo long trọng, Ngài cho biết điều họ xin thêm đó là cần thiết, cần thiết hơn họ tưởng nhiều lắm. Tuy nhiên trong câu trả lời dấu ẩn một lời hứa nhân từ. Ngôn ngữ Đông phương vốn linh động, có tính cách thật mạnh mẽ. Các câu nói của Chúa có nghĩa rằng dầu những việc coi như không có thể càng trở thành có thể nếu chúng ta có đức tin. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến con số lớn lao về những khám phá lạ lùng trong lãnh vực khoa học, về những thành công trong ngành giải phẫu, về những kỷ lục mà thế giới ngày nay đã đạt được, thì năm mươi năm trước đây các việc đó kể như không thể có được. Nếu ta đề cập đến một việc sẽ không xảy ra, song nếu chúng ta nói “việc này phải xảy ra” thì việc đó có khả năng xảy ra. Cần nhớ rằng chúng ta không làm việc một mình, nhưng còn có Chúa và tất cả quyền năng Ngài ở với chúng ta. Mà với Chúa mọi sự đều có thể.

Mẹ Basilea, người sáng lập dòng Đức Mẹ Truyền Giáo tại Đức sau thế chiến thứ II. Mục tiêu của dòng nhằm sống đời thờ phượng, tin cậy Ngài lo liệu cho mọi nhu cầu của họ. Với phần lớn tin cậy Ngài lo liệu cho mọi nhu cầu của họ. Với phần lớn các nữ tu trẻ, họ đã mua được bất động sản đầu tiên tại Darmstadt. Họ tin cậy Chúa về khoản thu nhập để xây dựng dần dần; trước hết là một nhà nguyện, rồi sau đó đến các nhà khác để tiếp đón những ai muốn tới để tĩnh tâm. Các chị đã mua được tất cả các mảnh đất ở chung quanh, chỉ trừ một mảnh nhỏ kế bên nhà của họ, các chị tin rằng bằng sự cầu nguyện kiên trì rồi ra các chị cũng mua được mảnh đất đó để làm nơi hội thảo về Chúa Giêsu.

Mảnh đất đó thuộc về một bà cao tuổi, bà từ chối bán hay đổi cho bất cứ miếng đất nào khác, vì lý do độc nhất đây là của ông bà cha mẹ để lại, bà không thể để lại cho ai. Một lần kia, xơ Eulalia đến thăm với hy vọng thuyết phục được bà cụ. Bà cụ vắng nhà, nhưng có người cháu. Anh ta dẫn nữ tu vào căn phòng của bà dì chỉ cần nhìn qua, xơ cũng thấy rằng bà cụ sẽ không từ bỏ bất cứ vật sở hữu nào bao lâu còn sống. Phòng chất đầy đồ đạc, đủ để trang trí cho cả tòa nhà lớn, hâu hết đều đã ọp ẹp, cũ kỹ. Sau đó người cháu chỉ cho khách xem cái thang mà bà dì dùng để leo lên giường, cái giường của bà là một chồng nệm được thừa hưởng của tiền nhân, cái này chồng lên cái kia. Rõ ràng bà già này không hề bỏ đi một thứ nào trong số các đồ bà thừa kế. Khi mẹ Eulalia thuật lại cho các chị đều đã thấy, các chị em đều đi đến quyết định muốn giải phóng cho một người quá bị ràng buộc vào những thứ thuộc về thế giới vật chất này, chỉ còn cách duy nhất là cầu nguyện rất sốt sắng, cảm thông sâu sắc và không ngưng nghỉ. Lý do của trận chiến này không phải là một mảnh đất để xây dựng một nơi thờ phượng, nhưng là một linh hồn bị trói buộc.

Các chị quyết định ăn chay vì nhớ tới Chúa: “Thứ quỷ này không ăn chay và cầu nguyện thì không trừ được nó,” (Mt 17, 21). Thêm vào hai điều trên các chị còn từ bỏ một điều có liên quan mật thiết đến tình trạng nô lệ của bà cụ. Các chị em dòng vốn đã sống đơn giản rồi, các chị không có nhiều tiền, và không có bất cứ tài sản riêng nào. Nhưng các chị em đều tìm cầu Chúa, xin Chúa cho mình thấy bất cứ điều gì đã gắn bó mình hơn mình gắn bo1 với Chúa. Sự gắn bó của người này có thể là cây thánh giá bằng gỗ, người kia là một bưu thiếp có hình ảnh đẹp… giá trị tiền bạc không quan trọng, điều quan trọng là thái độ lệ thuộc của ta với việc hay người ấy. Sau “một tuần lễ đầu phục”, chị em cử một chị tới thăm bà cụ hàng xóm.

Chị đặc phái viên không thể tin ở tai mình khi nghe bà cụ bảo: “Tôi không tiếc mảnh đất này lắm, nhưng tôi tiếc mấy cây mận, tôi thật không muốn mất mấy cây mận đó!” Bà cụ bằng lòng bán đất, nhưng chỉ tiếc mấy cây mận. Thật Chúa đã làm một phép lạ!

Hai bên bèn thảo tờ cam kết mua bán, quy định rằng mọi vật ở trên các cây mận đều thuộc về quyền bà cụ. Và sau đó, hằng năm, các chị đều gởi số mận đó cho bà cụ cho tới khi bà qua đời.

Lời cảnh cáo thứ bốn được ghi lại ở đây là quở trách tính tự mãn kiêu căng, thích ca tụng khen thưởng thường thấy nơi những kẻ theo Chúa Kitô. Chúa Giêsu dạy rằng những công tác của loài người dầu có hoàn hảo đến đâu cũng không thể khoe khoang trước mặt Thiên Chúa. Chữ vô dụng ở đây không thể được hiểu là vô giá trị mà được hiểu một người không dễ đi quá bổn phận của mình. Chúa cho biết không bao giờ có thể nói mình đã làm quá nhiều cho Thiên Chúa, để về sau đòi hỏi Ngài ban lại cho điều này điều kia. Khi chúng ta đã làm hết sức mình, đó là bổn phận của chúng ta phải làm, và một người làm tròn bổn phận mình, đó chỉ là làm xong việc mình không thể làm mà thôi. Chúng ta có thể làm thỏa mãn được những đòi hỏi của luật pháp, nhưng hễ ai thực sự yêu điều biết rằng mình không bao giờ có thể là gì đủ hầu thảo mãn những đòi hỏi của tình yêu. Đức Maria đã hiện thực lời Chúa Giêsu dạy: “Này đây tôi là nữ tỳ của Chúa”. (Lc 1, 38) trước đề nghị của Thiên Chúa.

Pete là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khai công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai ông bà đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa cuộc sống hằng ngày. Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã. Hai người đưa vấn đề đến hỏi đạo sư Darshni. Đạo sư đã phân tách và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt nguồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhân độc lập, một thực thể riêng rẽ, và điều đó là hư ảo; đằng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động. Khi ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” (Gương phúc) của Thomas. A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt đã viết câu này: “Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã sáng lập ra nó hay sao?”

Và khi ông muốn bàn thêm, vị đạo sĩ đã nhắc lại một câu chuyện của một học giả người Âu với một đạo sĩ Đông phương. Học giả này mới hoàn tất một quyển bách khoa từ điển lớn, các bạn của ông xúm lại khen tặng rằng đó là một công trình lớn lao phi thường. Trong chuyến viếng thăm Ấn độ, học giả hỏi đạo sư xrm liệu ông ta có xứng đáng được hưởng những danh dự đó không, thì được đạo sư hỏi: “Ông dùng phương tiện nào để viết: bút, máy chữ hay điện toán. Ông cho biết ông luôn sử dụng bút.

Đạo sư nói ngay: “Khi viết xong cuốn sách, ông có thường cám ơn cây bút mà ông đã dùng không?”

Đó là câu trả lời cho mỗi người chúng ta khi thấy mình làm được một việc lành nào.

Có nhiều đặc sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người (1Cr 12, 4-6).

Dầu trong thí dụ này Chúa Giêsu quở trách sự kiêu hãnh, cắt bỏ tất cả các công đức của việc làm thì trong nhiều dụ ngôn khác Chúa lại dạy cách quả quyết về những phần thưởng Ngài sẽ ban cho các đầy tớ trung thành, không phải Ngài bắt buộc phải làm, nhưng là chứng tỏ ân điển từ ái của Ngài.

 

48. Đầy tớ vô dụng – Lm. G. Phạm Văn Phượng

Bài Tin Mừng có hai phần và cũng là hai vấn đề Chúa Giêsu nói trong hai trường hợp khác nhau: phần đầu Chúa nói trực tiếp cho các môn đệ về khả năng của lòng tin: với lòng tin, con người có thể làm được những việc có vẻ như không thể thực hiện nổi. Phần sau Chúa nói chung cho mọi người về thái độ phục vụ vô kỷ, vô công đối với Chúa.

Trước hết, chúng ta thấy các tông đồ xin Chúa: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Đây là một ước nguyện hợp lý, cần thiết cho đời sống đạo đức cá nhân cũng như cho hoạt động tông đồ. Các tông đồ nói riêng và mọi Ki-tô hữu mọi thời nói chung đều cần có lòng tin. Các tông đồ xin như vậy, nhưng Chúa Giêsu lại trả lời một câu có vẻ lạc đề: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Chúng ta phải hiểu thế nào về câu trả lời bất ngờ này? Có hai hướng giải thích:

Cách thứ nhất, có thể các tông đồ đã đánh giá lòng tin theo số lượng. Các ông nghĩ rằng: cần phải có nhiều lòng tin, theo kiểu đó là đơn vị đếm được, nên Chúa Giêsu đã điều chỉnh cách nhìn theo lượng bằng câu trả lời nhấn mạnh vào phẩm: nếu là lòng tin đích thực thì không còn là chuyện nhiều hay ít nữa, vì với một lòng tin đích thực thì giả như lòng tin ấy chỉ bằng hạt cải thôi cũng đủ cho người ta khả năng trên các sự vật, và có thể làm được những việc có vẻ như không thể nào thực hiện được.

Cách thứ hai, hoặc là Chúa Giêsu xác nhận điều các tông đồ xin là đúng. Các ông có lý khi ao ước đạt tới một lòng tin đích thực, trọn vẹn và trưởng thành. Xác nhận, nhưng Chúa không khẳng định trực tiếp mà khẳng định gián tiếp, qua việc nói lên hiệu nghiệm của lòng tin, nghĩa là chúng ta có thể hiểu ngầm Chúa đã trả lời thế này: anh em xin vậy là hợp lý lắm, với một lòng tin đích thực thì giả như nó chỉ bằng hạt cải thôi, anh em sẽ có được một khả năng phi thường.

Dù hiểu theo cách giải thích nào thì ý chính vẫn là diễn tả hiệu lực của lòng tin. Lối so sánh giữa một bên là số lượng rất nhỏ: hạt cải, hạt nhỏ nhất, và một bên là một việc làm rất khó, phi thường: dời chỗ một cây dâu, loại cổ thụ, từ trên đất cho mọc xuống lòng biển. Lối so sánh này cốt ý để làm nổi bật ý tưởng then chốt chúng ta vừa nói, tức là để diễn tả hiệu lực của lòng tin.

Phần thứ hai, chúng ta thấy Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ trong xã hội phong kiến thời đó để nói về thái độ của người phục vụ. Thói thường chẳng có chủ nhà nào coi đầy tớ hơn mình, đến nỗi khi người đầy tớ đi chăn chiên hay đi làm đồng về lại giục người ấy: “Mau vào ăn cơm đi”, rồi phục vụ người đầy tớ ấy. Trái lại, người đầy tớ đi làm về vẫn là đầy tớ, vẫn phải lo hầu bàn cho chủ ăn xong rồi mới đến lượt mình. Đó là bổn phận của người đầy tớ trong xã hội phong kiến, người chủ không cần phải biết ơn người đầy tớ ấy. Chúa Giêsu nêu sự việc quen thuộc của đời sống hằng ngày ra đây không phải để phê phán, nhưng để làm thí dụ soi sáng cho thái độ của người phục vụ trong cộng đoàn Giáo hội, đó là phải có một thái độ phục vụ vô kỷ, vô công, vô danh: nếu một ông chủ trần thế, chỉ vì trong tương quan chủ – tớ của xã hội mà đã có quyền không cần phải mang ơn đầy tớ của mình, thì Thiên Chúa, người chủ tuyệt đối, lại không có quyền đó một cách tuyệt đối hay sao? Cho nên, người phục vụ trong Giáo hội, dù làm gì cũng chỉ là người làm việc phải làm, vì đã được ơn Chúa để làm việc ấy, và khi đã làm hoàn hảo mọi việc Chúa giao cho, vẫn phải khiêm tốn nhìn nhận mình chưa làm được gì cả, nghĩa là phải thực sự sống trong thái độ vô kỷ, vô công, vô danh đối với Chúa.

Hai phần trên ở hai vị trí độc lập nhau, nhưng vẫn có thể diễn tả được đầy đủ ý nghĩa và chủ đích giáo huấn của Chúa, nghĩa là mẩu đối thoại về sức mạnh của lòng tin được kèm theo ngay sau đó giáo huấn về thái độ phục vụ khiêm tốn, vô kỷ, vô công, vô danh, đã mang tính cách giáo huấn rất thực tiễn và quý giá. Cả hai phần đó có tương quan với nhau mà chúng ta có thể diễn tả như sau: anh em hãy vững tin vào Thiên Chúa để được sức mạnh phi thường. Nhưng khi đạt được những thành công, hoặc khi dấn thân phục vụ, hãy nhớ luôn luôn khiêm tốn, nhận mình yếu kém, chứ đừng vênh vang, tự đắc hoặc kể công.

Chúng ta hãy có tinh thần ấy trước Thiên Chúa. Mỗi người là một đầy tớ Chúa gửi nơi từng gia đình, từng quê hương, cánh đồng, xưởng thợ, nhà máy. Áp-ra-ham còn tự xưng mình là tro bụi, Đức Ma-ri-a là tôi tớ Thiên Chúa, Phaolô tự thú mình là nô lệ bất xứng của Chúa, Chúa Giêsu được mô tả là tôi tớ đau khổ đến để phục vụ, các Đức Giáo Hoàng thường tự xưng là “tôi tớ của các tôi tớ”… Còn chúng ta là ai mà dám vênh vang trước Thiên Chúa? Tài ba chúng ta là gì trước Thiên Chúa toàn năng?

Trong thực tế, từ bỏ được cái tôi của mình thật là khó. Chúng ta dễ kể công, dễ tự hào về những việc mình đã làm, dễ đề cao ca tụng chính mình. Hoặc nói theo kiểu bình dân: “mèo khen mèo dài đuôi”, “mẹ hát con khen hay”. Vì thế, bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta: không phải vì chúng ta có công trạng gì nên được Chúa thương yêu. Chúng ta không thể dựa vào mình, chúng ta phải cậy dựa vào Chúa, vì không có Chúa giúp đỡ, ban ơn, chúng ta không thể làm được gì. Phải cậy dựa vào Chúa và luôn cầu xin Chúa ban thêm lòng tin, luôn sẵn sàng quên mình đi, để Chúa hoàn toàn hành động nơi mình theo ý Chúa. Sau hết, chúng ta hãy khiêm tốn tạ ơn Chúa, vì Chúa đã đặt chúng ta trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, dù là hoàn cảnh nào cũng là hoàn cảnh riêng của chúng ta, chúng ta đừng phàn nàn, than van, vì đó là hoàn cảnh Chúa muốn chúng ta phục vụ Ngài, qua vai trò nhỏ bé và trong hoàn cảnh mưu sinh của chúng ta.

Để cứu rỗi và để giải phóng con người, Thiên Chúa đã không hành động từ trời cao, nhưng Ngài đã nhập thể và nhập thế để chia sẻ với con người và sống với con người hoàn toàn và chấp nhận chỗ đứng sau hết. Là môn đệ của Chúa, chúng ta không thể sống hơn Thầy. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu và chia sẻ về mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Chúa, để mỗi người chúng ta không sống đóng kín trong vỏ sò ích kỷ của mình, nhưng biết sống cho người khác và vì người khác.

 

49. Xin thêm lòng tin cho chúng con

(Suy niệm của Phaolô Phạm Chung Kiên)

Bài Phúc Âm nhấn mạnh về hiệu quả của đức tin; đức tin phó thác chân thành, đức tin cậy dựa hoàn toàn vào Thiên Chúa, đức tin đó dù nhỏ bé đến mấy cũng sẽ làm được những chuyện lớn lao và còn thay đổi cả tâm hồn con người. Đồng thời, bài Phúc Am cũng nhấn mạnh ở thái độ tự khiêm cần có của mỗi người trước mặt Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, giữa thế giới vật chất đang được đề cao, giữa thời buổi mà nhiều học thuyết trái ngược với Ki-tô giáo xuất hiện, giữa một thế giới còn nhiều chiến tranh, giữa những bất công, đau khổ đè trên vai những người vô tội … đức tin của chúng con dễ bị lung lay. Trong cuộc sống, có những lúc chúng con gặp những biến cố đau thương, những khó khăn, thất bại… Những điều không may liên tiếp xảy đến khiến chúng con đau khổ, tâm hồn chúng con tan nát. Vào những lúc như vậy, chúng con rất dễ rơi vào tâm trạng khủng hoảng, thất vọng, buông xuôi và đánh mất đức tin. Vì vậy, chúng con cần có đức tin vững mạnh để vượt qua thử thách.

Tâm trạng khủng hoảng, lo sợ, thất vọng luôn rình chờ chúng con, khi chúng con không hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Chính các môn đệ của Chúa Giêsu khi xưa đã trải qua kinh nghiệm này. Khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển các ông sợ hãi. Còn ông phêrô thì hoài nghi: “Thưa Ngài nếu có phải Ngài thì xin truyền cho con đi trên mặt biển mà đến với Ngài.” Và khi thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài xin cứu con với”.

Lạy Chúa Giêsu, biết bao lần chúng con gặp những khó khăn, đau khổ trong cuộc sống. Chúng con chạy đến với Chúa nhưng chưa hết lòng tin tưởng để trao những mảnh vỡ cuộc đời, những thất bại, va vấp của chúng con cho Chúa, để Người sửa chữa lại.

Nhờ có lòng tin mà thánh Phêrô đã vượt qua những thử thách và chính thánh nhân đã nói: “Chúa cứu chữa những ai có lòng tin thoát khỏi cơn thử thách” (x.2 Pr 2,9). Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho năm ngàn đàn ông ăn no nê, không kể đàn bà trẻ con. Đối với những ai tin tưởng vào Chúa, chấp nhận những vất vả, khổ cực, nghịch cảnh thì Thiên Chúa luôn nuôi dưỡng, an bài vì Người hằng thương yêu săn sóc những ai đói nghèo, đau khổ. Những khó khăn, thất bại, chán nản sẽ trể nên nhẹ nhàng khi chúng con biết tin tưởng vào Chúa. Vì chính Chúa đã nói: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,28). Và chính tiên tri Isaia cũng đã cảm nghiệm được điều đó: “Ai tin cậy Chúa sẽ được tăng thêm sức. Họ sẽ bay cao với đôi cánh phượng hoàng. Họ sẽ chạy không kiệt sức, sẽ đi không biết mỏi. (Is 40,31)

Chính niềm tin dù nhỏ bé như hạt cải cũng có sức biến đổi. Niềm tin nhỏ bé đó ví như những cái đinh nối kết sự giao hảo giữa con người với Thiên Chúa trong hiện tại và thành quả tương lai. Người có niềm tin luôn nhìn về phía trước trong hy vọng và chu toàn hết bổn phận hiện tại trong từng giây phút của cuộc sống. Không phải để thu lượm những thành quả hay lợi lộc vật chất chóng qua nhưng để thi hành ý Chúa.

Thái độ tự khiêm tạo nên lòng tin tưởng. Vì chỉ khi chúng con nhận ra mình yếu đuối thì chúng con cần đến lòng thương xót của Chúa, chúng con mới đặt tin tưởng vào Chúa. Vì người là cha đầy lòng thương xót, người có trái tim nhân từ. Người sẽ ban ơn cho những ai hết lòng cầu xin: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho những của tốt lành cho những kẻ xin người.” (Mt 7, 11b)

Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con. Xin cho con luôn biết chạy đến với Chúa cả những lúc thành công cũng như những lúc thất bại, chán nản, khủng hoảng trong cuộc sống bằng một niềm tin vững mạnh và tâm tình phó thác tuyệt đối vào Chúa.

Xin Chúa giúp chúng con nhận ra sự quan trọng của những điều bình dị và những điều lớn lao trong những việc thường ngày và trong những mối tương quan của chúng con với người khác. Vì thật ra, không có gì là nhỏ bé và tầm thường trước thánh nhan Chúa nếu tất cả được thực hiện bằng một tình yêu lớn lao và một niềm tin mạnh mẽ. Amen

 

50. Chỉ là người tôi tớ – Lm G. Nguyễn Cao Luật

Xin thêm lòng tin cho chúng con

Các tông đổ xin với Đức Giêsu: “Xin cho chúng con thêm lòng tin!” Sao lại xin thêm lòng tin? Tin là thuộc lãnh vực phẩm chất, đâu thuộc lãnh vực số lượng mà lại xin thêm lòng tin. Có lẽ do tại cách nhìn về sự việc.

Và cũng như mọi lần, Đức Giêsu trả lời theo một đường lối khác, một cái nhìn ngược lại.

Một hạt cải trở thành một cây to lớn … một cây dâu mọc giữa biển … một ngọn núi di chuyển. Siêu thực: một từ ngữ có thể diễn tả đặc tính của bức tranh về một thế giới mới, một thế giới do Đức Giêsu công bố và trở thành hiện thực nhờ lòng tin. Người ta có cảm tưởng như đang chiêm ngắm một bức tranh của những nhà danh hoạ về siêu thực.

Đức tin quả là có tính “siêu thực”. Tin là một cái nhìn khác về điều có thể. Tin là vượt lên trên những biểu hiện bên ngoài, vượt qua trật tự tự nhiên, để thấy được một hiệu quả khác. Nhờ tin, con người đạt tới một đời sống hoàn toàn mới mẻ, không chỉ là kết quả của những nguyên nhân vật chất, nhưng là một cuộc sống được tặng ban, một sự trào vọt, một cuộc sáng tạo phát xuất từ Thiên Chúa.

Quà tặng! Phải nhấn mạnh đến điều này. Tin là một hồng ân vô thường và nhờ tin mà nhận được những hồng ân khác. Thế nhưng, có lẽ người ta quá chú trọng đến quà tặng mà không chú ý đến chính việc làm. Người ta chờ có thể truyền lệnh cho núi non, người ta muốn thấy cây dâu mọc giữa biển khơi. Nhưng ít khi người ta làm việc với lòng tin, ít khi người ta biết đón nhận những điều giáo huấn. Người ta muốn có những kết quả lạ lùng trước khi thi hành những lệnh truyền của Chúa.

Chỉ là người tôi tớ

Chất liệu của dụ ngôn này dựa trên mối liên hệ giữa người nông dân và người đầy tớ của ông. Chắc chắn rằng người đầy tớ không có quyền gì đối với ông chủ. Sau những giờ làm việc cực nhọc ở ngoài đổng, người đầy tớ không được phép nhớ đến việc ăn uống, nghỉ ngơi. Người chủ cũng không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm, hay hầu hạ để cám ơn. Người đấy tớ phải lập tức làm những công việc khác để phục vụ cho chủ. Đến khi nào người chủ không còn sai khiến gì cả, thì người đầy tớ mới được nghỉ ngơi. Người đầy tớ không hề nghĩ đến việc tham dự vào thế giới của người chủ mà anh có bỗn phận phải phục vụ. Đối với anh, một món tiền gọi là lương, được ăn uống, chừng đó là tất cả.

Tại sao Đức Giêsu lại nói dụ ngôn này?

Từ trước tới nay, người biệt phái vẫn nghĩ rằng tất vả việc lành, việc thiện, việc đạo đức của họ đều là những công nghiệp trước mặt Thiên Chúa mà người đời phải suy tôn và Thiên Chúa phải tính công. Đoạn văn Tin Mừng kể về chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện (xem Lc 18,11-12) cho thấy rõ ý tưởng này. Họ tưởng rằng những việc họ làm đã biến họ thành con người thánh thiện, đạo đức, và không cần đến Thiên Chúa, không cần sự can thiệp của Người. Chính sự tính toán này, thay vì làm cho họ trở thành những người thánh thiện, lại phá đỗ tất cả mọi việc họ đã làm. Họ ra về mà chẳng được tha tội, chẳng được Thiên Chúa xót thương. Trong khi đó, người thu thuế nhận biết mình là người tội lôỵi, nên trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa, và anh đã trở thành người công chính.

Thiên Chúa không hề mắc nợ ai. Con người chẳng có gì để tự hào trước Thiên Chúa, chẳng có gì để khoe khoang. Thực ra, tất cả mọi hành vi của con người đều là hồng ân của Thiên Chúa. “Không có Thầy, chúng con sẽ không làm gì được.” Vậy thì, con người có gì để mà kể công, để mà tự hào. Họ đừng ảo tưởng, đừng coi đó như công trạng, nhưng phải nhận ra rằng đó chỉ là bỗn phận, là trách nhiệm của mình. Mọi hành động phượng tự, mọi hành vi bác ái, thật ra vẫn chưa đủ để cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa và của người khác. Con người có tạ ơn Thiên Chúa suốt cả đời mình cũng vẫn chưa đủ, vậy thì có gì mà tự hào, mà kể công. Cho dù có đem cả sức lực của mình để phục vụ người khác, con người cũng chỉ thực hiện những điều trong ơn gọi Ki-tô hữu của mình, cũng chỉ là để đáp lại hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình. Có gì đâu để khoe khoang, để kể công.

Bởi đó, nếu có ai tưởng rằng mình hữu dụng, nếu có ai nghĩ rằng mình đã thi hành trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa, nếu có ai nghĩ rằng mình đã làm tròn bỗn phận của mình, thì rõ ràng người đó không hiểu gì về Ki-tô giáo, về sự thánh thiện và công chính của người môn đệ Đức Ki-tô.

Hồng ân của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người đều không chấp nhận sự tính toán. Bởi vì khi tính toán, con người không phân biệt được vẻ lớn lao của Thiên Chúa và sự thấp hèn của người phàm, không phân biệt được quà tặng với bỗn phận; họ là những con người hữu hạn, nhưng lại muốn cân đo cái vô biên.

Lẽ tất nhiên, Thiên Chúa không phải là người chủ độc tài, hà khắc, luôn áp bức những người tôi tớ của mình. Trái lại, Người là Cha yêu thương. Qua dụ ngôn, Đức Giêsu chỉ muốn cho con người, nhất là những người Biệt phái, hiểu rằng: Họ đã được Thiên Chúa trao ban những quà tặng lớn lao, lớn lao hơn những việc họ làm. Con người có làm gì chăng nữa cũng chưa xứng hợp với hồng ân đã lãnh nhận. Và để đón nhận thêm những hồng ân khác, họ phải khiêm tốn, phải nhận ra sự yếu hèn của mình.

Theo gương Người Tôi Tớ

Hơn một lần, Đức Giêsu đã trình bày yêu cầu đặc biệt của Nước Thiên Chúa: thực hiện trọn vẹn lề luật. Chính Người cũng cẩn thận thi hành những điều được coi là bỗn phận của người được sai đến trần gian. Và trên thập giá, Người đã hoàn tất lề luật, hoàn tất bỗn phận: “Mọi sự đã hoàn tất.”

Chính Đấng Thiên Sai cũng là người khắt khe với chính mình: là người chăn chiên, Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên; là người trổng nho, Người dành mọi nôỵ lực cho vườn nho.

Như thế, Đức Giêsu có quyền để nói với chúng ta là những người tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta phải thể hiện trọn vẹn ơn gọi của mình, phải thi hành đầy đủ, đúng đắn những lời của Thiên Chúa đã đặt nơi chúng ta. Chúng ta phải đem hết cả năng lực đã được Thiên Chúa trao ban, để hoạ theo hình ảnh của Đấng đã gọi và chọn chúng ta. Có người cho rằng lời mời gọi vượt qua và đạt tới sự thánh thiện này không phải là đặc trưng của Ki-tô giáo. Thế nhưng, nên nhớ cho rằng, Tin Mừng có tính cách tuyệt đối và một hình ảnh độc đáo là Đức Giêsu Ki-tô, mà không đâu có được.

Như thế, trong cách diễn tả của Đức Giêsu, chúng ta là những người thợ, những người bị giới hạn vì thời gian, vì không đủ khéo léo, và cũng có thể vì chất liệu kém. Kiêu căng, tức là không nhận ra giới hạn của mình, và điều ấy làm chúng ta thành dị dạng, bị méo mó. Chúng ta cần nhớ thân phận của mình như Đức Giêsu nhắc nhở: những đầy tớ vô dụng, tầm thường. “Các con không thể làm cho mình cao hơn một tấc được”, và Người cũng thêm: “Cha trên trời biết rõ các con cần gì”, “Người sẽ trả lại cho các con gấp trăm.”

Khi đưa ra dụ ngôn để dạy bảo con người, Đức Giêsu đã thực hiện nơi chính mình. “Tôi đến không phải để được hầu hạ, nhưng để phục vụ mọi người.” Chính điều đó đã đưa Người tới vinh quang, tới sự phục sinh. Đó là kết thúc của con người đã “làm việc bỗn phận”.

Vậy, tin không phải là gì khác hơn là tín trung với bỗn phận của mình. Nhờ tín trung và khiêm tốn, mọi sự đều trở thành có thể.

* * *

Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng nhân ái, xin ban cho con luôn khát khao điều làm vui lòng Cha.

Xin ban cho con một tâm hồn thức tỉnh để không một tư tưởng hão huyền nào kéo con xa Cha.

Xin ban cho con tâm hồn tự do mà không một đam mê mãnh liệt nào có thể lấn át được. … (theo thánh Tô-ma A-qui-nô).

 

51. Phục vụ – Như Hạ

Đức tin là tất cả sức mạnh chúng ta. Chính nhờ đức tin, con người đã có thể đi vào thế giới Thiên Chúa và trở thành bạn hữu của Người. Chính niềm tin xác định giá trị và ý nghĩa cuộc đời. Lý do vì càng tin, con người càng thấy rõ mình trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.

HAI LUỒNG TƯ TƯỞNG.

Trong cộng đồng nhỏ bé của Đức Giêsu, có hai luồng tư tưởng luôn đi ngược chiều giữa Thày trò. Trò lúc nào cũng nghĩ mình phải là một cái gì giá trị. Ngay cả trong lãnh vực đức tin, họ cũng tưởng mình đã đạt tới chiều kích nào rồi. Bởi vậy, họ mới thưa với Chúa: “Thưa Thày, xin thêm lòng tin cho chúng con.” (Lc 17:5) Thực tế, biết bao lần Đức Giêsu đã trách các môn đệ: “Ôi những kẻ kém tin!” (Lc 12:28; Mt 6:30) Hôm nay, Chúa mới cho biết lòng tin của các ông bé tới cỡ nào: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải .” (Lc 17:6)

Lòng tin vào Thiên Chúa chưa bằng hạt cải. Nhưng lòng tin vào cái tôi lớn bà?g cây dâu, thân vươn cao tới 60 feet, rễ cắm sâu xuống lòng đất. Để có thể bứng cây dâu lớn đó, chỉ cần lòng tin bằng hạt cải. Câu trả lời của Chúa Giêsu như một cú sét đánh mang tai. Chưa hoàn hồn, họ lại hoa mắt vì xem thấy cảnh tượng không hợp nhãn chút nào. Chúa giả thiết họ là chủ “có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên.” (Lc 17:7) Nhưng cuối cùng mở mắt ra họ thấy mình rơi tuột xuống vai người đầy tớ đó. Họ vẫn chưa ý thức về chỗ đứng của mình trong tương quan với Thiên Chúa và anh em. Cái tôi vẫn còn quá lớn. Nếu có đức tin bằng hạt cải, chắc chắn họ sẽ hiểu biết Thiên Chúa là ai và mình là ai. Mình chỉ là “những đầy tớ vô dụng.” (Lc 17:10), trong khi Thiên Chúa là ông chủ toàn năng. Đây không phải chỉ là một lời khuyên sống khiêm nhường, nhưng còn là một mạc khải về bản chất và khả năng con người trong tình liên đới với Thiên Chúa và anh em đồng loại. Trước Đấng Tạo Hóa, con người chỉ là hư vô. Nhưng chỉ cần một chút niềm tin vào Chúa tể càn khôn, con người có thể “xoay bạch ốc thành lâu đài”.

Thực ra tương quan chủ tớ vẫn chưa diễn tả nổi khoảng cách vô cùng giữa Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa và tạo vật là con người. Một tâm tình như thế không phải là lời phủ nhận tất cả những công sức của người đầy tớ, nhưng cần thiết để đón nhận những hồng ân cao trọng hơn. Có sống trong tương quan sâu xa này với Thiên Chúa, mới thấy tất cả chỉ là hồng ân. Dĩ nhiên, “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa . Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu.” (Ga 15:15)

Dù vậy, Tin Mừng hôm nay chỉ muốn mạc khải một sự thật: muốn làm môn đệ Chúa Kitô, tín hữu chỉ cần một chút niềm tin bằng hạt cải, không phải để làm phép lạ, nhưng để truyền cho trái núi kiêu ngạo hay cây dâu ích kỷ rời khỏi lòng mình. Nếu không, làm sao môn đệ Chúa Kitô có thể thấy lý do phải tha thứ cho anh em một ngày bảy lần (Lc 17:4)? Làm sao có thể nhận ra hồng ân Thiên Chúa là một quà tặng vô giá và nhưng không? Làm sao có thể thấy được việc phục vụ Thiên Chúa và anh em là một hồng phúc?

Chính vì có lòng tin, không phải bằng hạt cải, nhưng bằng trái núi, nên Đức Trinh Nữ Maria đã có thể khiến Con Thiên Chúa rời bỏ ngai vàng Thiên quốc xuống ngự trong cung lòng nhỏ bé. Chính đức tin đã khiến Mẹ vui sướng kêu lên: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa,” (Lc 1:38) sau khi đón nhận lời sứ thần truyền tin. Niềm vui tràn ngập tâm hồn Mẹ khi thấy mình được sống trong tương quan huyền nhiệm đó. Mẹ chẳng cảm thấy một chút gì sợ hãi hay gò bó khi phục vụ Thiên Chúa. Như Mẹ, “thiết tưởng chúng ta cũng tình nguyện phục vụ Chúa trong niềm vui, tình yêu và cảm tạ.” (Ezeogu, Homily for 27th Sunday in Ordinary Time, 3/10/2001) Không có niềm tin, không thể sống khiêm cung và thành tín như Mẹ.

Chính khi sống trong thân phận “nữ tì của Chúa”, Mẹ đón nhận tất cả hồng ân vĩ đại từ tay Thiên Chúa. Mẹ thấy mình hoàn toàn mắc nợ Thiên Chúa. Không có lý do gì khiến Mẹ nghĩ rằng mình có quyền đòi hỏi Thiên Chúa. Trái lại, suốt đời Mẹ sống trong niềm cảm tạ tri ân. Từ lòng tin sâu thẳm, Mẹ đã thốt lên: “Vâng, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1:38) Từ đó cuộc đời Mẹ là một chuỗi ngày giờ “đồng lao cộng khổ để loan báo Tin Mừng” (2 Tm 1:12) với Chúa và “làm chứng cho Chúa.” (2 Tm 1:8) Lòng khiêm cung của Mẹ đã thu hút tất cả sức mạnh Thần khí, “một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ.” (2 Tm 1:7), khiến Mẹ có thể đứng vững dưới chân thập giá. Nếu không có lòng tin sâu thẳm, nhất định Mẹ không thể sống khiêm cung như thế. “Thiếu lòng khiêm cung là một cám dỗ nguy hiểm hơn các cám dỗ khác. Nó khiến chúng ta không cảm nghiệm được tình yêu sâu xa của Thiên Chúa đối với chúng ta,” (NIB 1995:324) và không thấy được tương quan với anh em đồng loại. Do đó sinh ra những bất ổn trong đời sống cá nhân và cộng đồng cũng như đe dọa sự sống còn nhân loại. Từ lòng khiêm cung, “người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình.” (Kb 2:4)

NHÌN LẠI TƯƠNG QUAN HÔM NAY.

Nhân loại hôm nay đang lo sợ trước sự sống còn của mình. Chiến tranh đang xuất hiện cuối chân trời. Làm sao có thể tồn tại sau những xung đột lớn lao đó? Hơn lúc nào, công lý là một bảo đảm cho sự sống còn đó. Nhân loại đã kinh hoàng trước cuộc khủng bố Nữu Ước và Hoa thịnh đốn ngày 11/9/2001. Lương tâm nhân loại đều nhất trí lên án những hành động phi nhân đó. Thế nhưng, cuộc khủng bố đó chỉ là hậu quả tất yếu của những chính sách bất công. Gieo gió thì phải gặt bão! Bởi thế, theo La Civilta Cattolica, một tạp chí có tầm cỡ của các cha Dòng Tên, “cuộc vận động chống khủng bố phải phát hiện ra những nguồn gốc khủng bố, và phải giải quyết vấn đề tận gốc.” (CWNews 5/10/2001) Nói khác, đây là lúc Tây Phương cần phải đặt lại vấn đề về tất cả những chính sách của mình. Tạp chí đó lý luận: “Muốn thành công, trận chiến chống khủng bố đòi Tây Phương phải có một cuộc cách mạng văn hóa. Chủ yếu là phải làm cạn nguồn nước đang nuôi sống những kẻ khủng bố, tức là sự nghèo đói và tuyệt vọng.” (CWNews 5/10/2001) Mọi người đều có quyền sống và hưởng mọi hoa màu trái đất. Đó là đòi hỏi tuyệt đối của công lý! Chỉ có công lý mới có thể chấm dứt cảnh nghèo đói. Chỉ có niềm tin mới đem lại niềm hi vọng cho con người.

Để thức tỉnh mọi người trước công lý, “Giáo Hội Công giáo phải trung thành với đặc sủng ngôn sứ và kêu gọi mọi người phải xây dựng con đường hòa bình cho gia đình nhân loại.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 1/10/2001) Không thể chấp nhận cảnh “người giàu, mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, còn người nghèo phải chết đói trong khi cơn “thèm được những thứ trên bàn ăn rớt xuống” (Lc 16:19-21) vẫn chưa được thỏa mãn. Đặc sủng ngôn sứ sẽ giúp Giáo hội can đảm nói cho người giàu biết ý thức về tình liên đới và chia sẻ ân lộc với người nghèo. Ý thức đó chỉ có thể sống dậy nếu người ta biết mình chỉ là “đầy tớ vô dụng,” không thể tạo nên những của cải trần gian. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng đó. Con người chỉ là đầy tớ “làm theo lệnh truyền” (Lc 17:9) của Thiên Chúa mà thôi. Lệnh truyền đó đòi họ phải chia cơm sẻ áo cho người nghèo đói (x. Mt 25:31:46) Nhưng làm sao thi hành lệnh truyền đó, nếu họ không ý thức của cải chỉ là hồng ân. Có giúp đỡ người nghèo cũng chỉ là chia sẻ một chút hồng ân với anh em kém may mắn hơn mình mà thôi. Không chia sẻ không thể có công lý. Không có công lý không thể có hòa bình. “Chắc chắn hòa bình không thể tách biệt với công lý, nhưng công lý luôn luôn đi đôi với lòng xót thương và tình yêu.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 1/10/2001) Không thấy được bổn phận thi hành công lý, ít nhất người giàu cũng phải thấy mình có liên đới với người nghèo. Nếu không, hòa bình chỉ là một giấc mơ mà thôi!

 

52. Nếu chúng con có đức tin…

(Suy niệm của Lm Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

Sống trên đời ai mà chả muốn có địa vị, có danh vọng, có chỗ đứng trong xã hội. Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng thế: họ sống bên cạnh Chúa Giêsu, gần gũi Ngài, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với Ngài, nhưng thực tế, họ ganh tị nhau, tranh dành nhau xem ai làm lớn làm bé trong Vương Quốc Thiên Chúa. Dù rằng họ bị Chúa mắng nhiếc, nhưng họ vẫn muốn chung thủy với Chúa, nên hôm nay họ đến gặp Chúa và xin Chúa:” Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con “. Nói như thế có nghĩa họ muốn xin Chúa củng cố lòng tin cho họ để họ trung thành với Chúa, để họ được Chúa ban cho những ơn cần thiết cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng bằng lời nói, bằng hành động, bằng những phép lạ kèm theo…Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu làm họ rất ngạc nhiên, bỡ ngỡ…Ngài trả lời: ”Nếu chúng con có đức tin bằng hạt cải thì dầu các con khiến cây dâu này ra trồng dưới biển, nó sẽ vâng nghe các con “. Thánh Matthêu viết: ”Nếu chúng con có lòng tin bằng hạt cải thì chúng con khiến hòn núi dời đi nó cũng nghe theo “ ( Mt 21,21 ).

Khi Chúa trả lời với các môn đệ như vậy, Chúa không có ý né tránh vấn đề, nhưng Chúa muốn cho các Ông chú ý và quan tâm đến đức tin vì đức tin là điều tối quan trọng cho mọi người.Vâng, đức tin không thể cân đếm đong lường được nhưng đức tin quan trọng ở hiệu năng của nó. Một hạt cải tuy nhỏ bé nhưng khi được gieo xuống đất tốt, hạt sẽ nẩy mầm và mọc lên tươi tốt đến nỗi chim trời có thể đến đậu. Hạt cải bé nhỏ thật đấy, nhưng nếu chúng ta có đức tin bé nhỏ bằng hạt cải, chúng ta có thể khiến núi, khiến đồi dời đi nơi khác. Đó là hiệu năng tuyệt vời của đức tin. Đạo Công Giáo là đạo mạc khải nhưng cũng là đạo đức tin, đạo tình thương. Quả thực nếu không có đức tin chúng ta sẽ không nhận ra đâu là đường lối, đâu là giáo lý, đâu là những phép lạ Chúa đã làm. Chúa Giêsu đã từng khen ngợi những người có đức tin trong Tin Mừng như Viên Bách Quản, như một bà bị loạn huyết, như người bị bất toại… Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta nhận ra các thánh là những người có đức tin bằng hạt cải, tuy hạt cải đức tin nhỏ bé nhưng các thánh đã làm được những việc thật kỳ diệu khiến mọi người đều ca ngợi. Chẳng hạn các thánh tu rừng, các thánh hiển tu, các thánh tử đạo là những anh hùng đã say mê vác trhập giá và làm chứng cho Chúa Giêsu. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu chỉ là một nữ tu nhỏ bé, một hạt cát nhỏ nhưng chị thánh đã làm được điều kỳ diệu mà bao người đã không làm được.Thánh nữ đã nói: ”Ơn gọi của tôi là tình yêu“. Thánh Maximilianô Maria Kolbê đã chết thay cho một tử tù. Ngài đã làm một việc kỳ diệu mà chỉ có đức tin sâu xa mới có thể làm được.Những kẻ bé mọn lại là những kẻ đã làm được việc lớn, những kẻ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa. Tội của người Biệt phái, Pharisêu, Ký lục, Kinh sư là tội muốn tiếm đoạt quyền Thiên Chúa. Họ không biết nhận ra sự giới hạn của mình. Thực tế, con người chỉ là đầy tớ vô dụng.

Bertrand Révillion viết: ”Đức tin là một công việc… Chúng ta phải làm lớn lên và mang đến cho thế giới niềm hy vọng mà Thiên Chúa đã đặt trong chúng ta vào ngày chúng ta chịu Phép Rửa. Thánh Phaolô đã viết điều này cho ông Timôthê: ”Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng mà anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh“ (2 Tm 1, 6 ). Bước theo sau Chúa Giêsu, đó là từ từ bước ra khỏi bóng đêm kém đức tin của chúng ta, đi về bình minh của sự Phục Sinh, mỗi ngày đi vào hơn nữa trong ý thức mình là con cái được “Đấng Tối Cao yêu mến“.

Hôm nay, Giáo Hội cũng mừng kính Mẹ Mân Côi…Mừng kính Mẹ Mân Côi mỗi người chúng ta hãy nghe lời Mẹ khuyên nhủ và thực hành điều Mẹ truyền dạy: ”Hãy ăn năn sám hối, cải tà qui chánh và hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi“. Tràng chuỗi Mân Côi là mối dây liên kết chúng ta với Mẹ, là chuỗi bền đỗ của mỗi người chúng ta. Mẹ đã nhiều lần hiện ra trên thế giới và khuyên nhủ mọi người: “Ăn năn đền tội và siêng lần hạt“.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Mân Côi, xin Mẹ đưa chúng con tới Chúa để chúng con muôn đời chiêm ngưỡng Chúa và cùng Mẹ ca ngợi lòng thương xót Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin gieo vào tâm hồn chúng con hạt giống đức tin để chúng con sinh hoa kết quả tươi tốt. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1.Hạt cải có ý nghĩa gì?

2.Tại sao Chúa nói: ”Ngài đến phục vụ, chứ không phải để được phục vụ“

3.Tội của người Pharisêu là tội gì?

4.Đức tin cần gì cho chúng ta?

 XIN BAN THÊM LÒNG TIN  (Lc 17, 5-10)
Sách GLCG ở số 1814 có ghi rằng: “ Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa và tất cả những gì Ngài đã nói và đã mạc khải cho chúng ta, và những gì Hội thánh dạy chúng ta tin, bởi vì Thiên Chúa chính là chân lý”. Bài Tin mừng hôm nay bắt đầu với lời cầu khẩn của các môn đệ: “ Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”(Lc 17,5).
Ý thức sự giới hạn của mình trước sự vô cùng của Thiên Chúa, con người sẽ không bao giờ nếu tự sức mình đi tìm chân lý, tình yêu và hạnh phúc, theo nghĩa tròn đầy và sung mãn nhất. Cậy dựa vào sức mình qua sự phát triển không ngừng của khoa học, y học, tuyền thông, với sự văn minh  tiến bộ của con người, mà đi chứng minh Thiên Chúa hiện hữu hay không thì thật là “Công giã tràng”, hay “ mò kim đáy biển”. Xin ban thêm lòng tin, phải chăng nói lên sự bất lực của con người khi không có Thiên Chúa, trái lại nó cũng nói lên sự khiêm tốn thẳm sâu của những tâm hồn khát khao tìm kiếm chân, thiện, mỹ, để với ơn của Chúa, con người có thể gặp được nguồn cội của hạnh phúc, trong sự sống của Đấng tác thành nên vạn vật. Đức tin là chủ đề nổi bật của Chúa nhật này. Chúng ta đã nghe nói về đức tin trong bài đọc thứ I, trích sách Tiên tri Khabacúc, Thánh Phaolo lấy lại gửi cho tín tín hữu Rôma và nói: “Người công chính sẽ nhờ đức tin mà được sống”(Rm 1,17). Các môn đệ xin Chúa Giê-su tăng thêm lòng tin cho mình, một đức tin đủ lớn, đủ mạnh, và đủ bền bỉ để đi theo Thầy chí thánh: “ “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải…” (Lc 17,6). Cây cải ở xứ sở Palestina cao to cỡ nào mà Chúa Giê-su lại sánh ví như vậy. Nhưng đây là lối so sánh khiêm tốn và hạ mình mà Đức Ki-tô dạy cho các môn đệ. Chỉ trong sự trống rỗng của tinh thần khiêm cung, thì ơn ban của Chúa mới có thể đổ tràn xuống trên mỗi người. Đức tin là một quà tặng nhưng không đến từ Thiên Chúa, không phải do công trạng của con người. Tất là là hồng ân vô cùng vô tận. Tin là hướng lên cùng Thiên Chúa, là chấp nhận phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, như tổ phụ Ap-ra-ham, người được mệnh danh là: “Cha của mọi kẻ tin”. Tương quan giữa con người và Thiên Chúa là một tương quan giao ước, trách nhiệm và bổn phận. Như các mối tương quan trong một gia đình: Ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu…Chúng tôi chỉ là những đầy tớ thực thi theo đúng chức năng của mình, không phàn nàn, hay kể công trạng, vì những tôi tớ thi làm những công việc mà ông chủ đã giao. Là môn đệ của Chúa, người Ki-tô hữu có nhiệm vụ bảo vệ, gìn giữ và thực thi đức tin với hành động của mình, vì: “ đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 26).
Lạy Chúa Giê-su xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để mỗi ngày chúng con luôn tín thác, cậy trông và yêu mến Chúa, qua những công việc mà chúng con đang làm, để giữa những vấp ngã, thất vọng, chúng con không ngã lòng trông cậy vào Chúa. Chúng con chỉ là những tôi tớ vô dụng, xin Chúa nâng đỡ và giúp chúng con can đảm tuyên xưng đức tin mỗi ngày. Amen.
Lm Gia-cô-bê Tạ Chúc

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây