Thứ bảy đầu tháng, tuần 13 thường niên.
"Làm sao các phù rể có thể buồn rầu khi tân lang còn đang ở với họ".
Lời Chúa: Mt 9, 14-17
Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Giêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?"
Chúa Giêsu nói với họ rằng: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay. Không ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vải mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn".
Suy Niệm 1: Thái độ dứt khoát
Phanxicô được mệnh danh là người nghèo của Thiên Chúa, đã làm một cuộc đoạn tuyệt với tất cả những gì thuộc về thế gian để nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự.
Trên bước đường theo Ngài, Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình". Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước. Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.
Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.
Làm môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu. Mang danh hiệu của Ngài, làm môn đệ của Ngài có nghĩa là phải sống trọn cho Ngài. Nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Mới và cũ
Chẳng ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu da sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai.” (Mt. 9, 16-17)
Đức Giêsu, con người tự do
Chúa Giêsu yêu mến các truyền thống, nhưng Người không phải là con người bảo thủ. Người thông thạo Lề Luật, vàbiết cách tuân thủ, nhưng không làm nô lệ cho Luật. Người tôn trọng những cái cũ, nhưng không để cho những cái đó làm trở ngại cho đời sống được canh tân và được thể hiện vuông tròn.
Chúa Giêsu yêu thích cái mới, tạo nên cái mới, sống chết vì sự canh tân. Phúc âm của Người, chính là nguồn sinh lực mới mẻ và tươi mát. Không có chi lải nhải. Chúa Giêsu không chống lại việc giữ chay theo Luật truyền. Người thường ăn chay. Nhưng không ngại bãi bỏ việc giữ chay không có lý do thích hợp vì nó cản trở niềm vui chan hòa của con người. Chúa Giêsu nhìn nhận rằng người ta không thể suốt đời cứ huênh hoang tự đắc về những tập tục cũ kỹ và những cách suy nghĩ lỗi thời. Người đã rao giảng sự canh tân thường xuyên con người, việc làm và cách làm. Người luôn có những bước khởi đầu mới mẻ, với nhiệt tình hăng say luôn mới. Người là con người tự do, có khả năng xông pha mạo hiểm.
Chúng ta có là những con người tự do không?
Chúng ta có là những con người tự do như Chúa Giêsu không? Mặc dầu vẫn phải tôn trọng quá khứ, chúng ta có được khả năng sống luôn hướng về tương lai không? Dù ở tuổi nào, ta vẫn có được óc sáng kiến, tinh thần sáng tạo chứ? Có những ngày nào, ta thấy thích thú đoạn tuyệt với nhưng lề thói cũ, sẵn sàng hướng về những phiêu lưu mới mẻ, sẵn sàng đương đầu với những thách đố mới không?
Nếu cuộc sống của ta chẳng bao giờ có được điều chi mới mẻ, nếu lòng tin của ta không hề thúc đẩy ta làm được việc gì mới lạ, nếu ta chỉ sống với những gì đã cũ kỹ, dã qua, đã được làm rồi, nếu cuộc đời thường ngày của ta, mỗi ngày chỉ là rập theo vết xe lăn cũ, thế thì chúng ta đã tự giam hãm mình vào những bầu rượu cũ và chúng ta đang sống xa, rất xa tinh thần Phúc âm rồi đấy.
Suy Niệm 3: HÃY ĐỔI MỚI ( Mt 9, 14-17)
Xem lại CN 8 TN B, Thứ Hai tuần 2 TN, thứ Sáu sau lễ Tro, và thứ Sáu tuần 22 TN.
Đã nhiều lần Đức Giêsu bị những người Pharisêu cho rằng Ngài không giữ Lề Luật của Môsê. Họ kết án Đức Giêsu là người vô kỷ luật. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã phủ nhận chuyện đó và Ngài đã khẳng định: “Tôi đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn”. Thật vậy, Lề Luật Cựu Ước chỉ là một sự chuẩn bị cho Con Người và sứ vụ của Đức Giêsu đến mà thôi.
Nhưng nay, thời đã điểm và Đức Giêsu đã đến, Ngài hiện diện như những gì các tiên tri đã tiên báo và Lề Luật của Môsê hướng tới. Vì thế, giờ đây, chính Ngài là nội dung của Luật, nên hãy sống với một tinh thần mới chứ không phải mong đợi nữa, vì Chàng Rể là Đức Giêsu đã đến.
Tinh thần mới ở đây chính là lòng bao dung, tha thứ, hiền hòa, nhân hậu, từ bỏ con đường tội lỗi. Đổi mới bầu da cũ là bỏ đi nếp sống không còn phù hợp với Tin Mừng và thay vào đó là những cách sống mà Đức Giêsu đã vạch ra, đó là: “Mến Chúa và yêu người”. Thiên Chúa không thể đổ tràn ân sủng mới của Ngài vào trong một thân thể cũ với đầy những tội lỗi, những thù hằn, ghen ghét ...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức mình là người tội lỗi, để đáng được đón nhận
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Giữ được cả hai
Suy niệm:
Mỗi năm người Do thái dành một ngày chính thức để cả nước ăn chay.
Đó là ngày lễ Xá tội (Lv 23, 29).
Tuy nhiên cũng có những ngày ăn chay khác có tính tập thể
để kỷ niệm những biến cố đau buồn của dân tộc.
Ngôn sứ Giôen đã mời người ta ăn chay, khóc lóc và than van (Ge 2, 12).
Vào thời Đức Giêsu, các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và nhóm Pharisêu
còn ăn chay do lòng đạo đức riêng, có người hai lần một tuần (Lc 18, 12).
Nhìn chung bầu khí ăn chay không phải là bầu khí vui tươi phấn khởi.
Bởi đó có người cố mang bộ mặt rầu rĩ để khoe là mình đang ăn chay.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu bị các môn đệ của Gioan tra hỏi
về chuyện tại sao các môn đệ của Ngài lại không ăn chay như họ (c. 14).
Đối với họ ăn chay là một việc đạo đức quan trọng, không thể thiếu
trong đời sống của một nhóm như nhóm các môn đệ Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã trả lời họ bằng một câu hỏi khác.
Gián tiếp Ngài nhận mình là chàng rể, các môn đệ là khách dự tiệc cưới.
Chính vì thế chuyện ăn chay than khóc hoàn toàn không hợp chút nào.
Bầu khí vui tươi là nét đặc trưng của thời kỳ Đấng Mêsia đến.
Đúng là cần phải sám hối, vì Nước Trời đã đến rồi (Mt 4, 17),
nhưng Nước Trời được ví như một tiệc cưới lớn (Mt 22, 1-14; 25, 1-13),
nên phải đón lấy Nước này trong niềm vui của ngày hội.
Chỉ khi nào chàng rể Giêsu bị đem đi trong cuộc Khổ nạn,
khi ấy các môn đệ của Ngài mới ăn chay.
Các Kitô hữu sơ khai vẫn giữ việc ăn chay (Cv 13, 2; 14, 23; 2 Cr 6, 5)
đặc biệt vào những ngày thứ tư và thứ sáu (sách Điđakhê 8, 1),
thay vì thứ hai và thứ năm như người Do thái.
Nhưng họ ăn chay không phải để chờ một Đấng chưa đến,
mà để chuẩn bị lòng mình đón đợi một Đấng sắp lại đến trong vinh quang.
Đức Giêsu đem đến những giáo huấn và tinh thần mới mẻ.
Liệu có thể ghép những cái mới đó vào cái khung của lối sống cũ không?
Bằng hai ví dụ, Ngài cho thấy điều đó khó thực hiện và gây nguy hại.
Miếng vải mới được vá vào chiếc áo cũ, sẽ co lại và làm áo rách thêm.
Rượu mới được đổ vào bầu da cũ, thì bầu sẽ bị nứt mà rượu lại chảy ra.
Đối với Đức Giêsu, muốn giữ được cả bầu lẫn rượu mới, thì cần có bầu mới.
Bầu mới chính là cách sống mới Luật Tôra của Thiên Chúa
như đã được Ngài giải thích lại trong Bài Giảng trên núi.
Kitô hữu được định nghĩa là những người luôn sống trong niềm vui,
bất chấp những bách hại và giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.
Chàng rể đã bị đem đi, nhưng Chàng rể vẫn đang ở lại (Mt 28, 20).
Bầu khí của tiệc cưới và rượu mới
vẫn là bầu khí của mọi cộng đoàn Kitô hữu hôm nay.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM
Người ta chất vấn Đức Giêsu về việc ăn chay, vì ăn chay là một trong những việc đạo đức căn bản (cùng với cầu nguyện và bố thí, được nêu trong bài Tin Mừng của Lễ Tro, Mt 6, 1-6.16-18), không chỉ trong Do Thái giáo, nhưng trong mọi tôn giáo, trong đó có Kitô giáo của chúng ta. Dường như, đối với chúng ta, những Kitô hữu, trong thực tế ăn chay là một “chuyện nhỏ”, bởi vì chúng ta bị buộc ăn chay một năm có hai lần, thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh (Giáo Luật, điều 1252); dĩ nhiên, người ta có thể ăn chay vào những ngày khác, chẳng hạn theo truyền thống của Giáo Hội, vào thứ sáu hằng tuần và trong suốt Mùa Chay, nhưng Giáo Luật không bắt buộc.
Nhưng, trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, việc ăn chay là một chuyện lớn, lớn đối với các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Pharisêu: họ ăn chay; và họ không chỉ giữ chay, nhưng còn quan tâm đến người khác có giữ chay không; họ quan tâm đến việc giữ chay của các môn đệ Đức Giêsu, và qua đó việc giữ chay của chính Đức Giêsu. Các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, và theo Tin Mừng Mác-cô, có thêm các môn đệ của người Pharisiêu nữa, đến hỏi Đức Giêsu:
Tại sao chúng tôi và những người Pharisiêu ăn chay,
còn môn đệ của ông lại không ăn chay? (c. 14)
Và đối với Đức Giêsu, ăn chay cũng không hề là một chuyện nhỏ, bởi vì, với một câu hỏi thật ngắn, Ngài trả lời thật dài, với ba dụ ngôn liên tiếp: dụ ngôn tiệc cưới, trực tiếp liên quan đến câu hỏi, và hai dụ ngôn nữa, được biết đến nhiều hơn, mở rộng vấn đề ăn chay: dụ ngôn “vải và áo” và dụ ngôn “rượu và bình rượu”. Hai dụ ngôn này mời gọi chúng ta hiểu ra rằng, với Đức Ki-tô, từ nay không chỉ tương quan của chúng ta với lương thực, được diễn tả qua việc ăn chay, nhưng tương quan của chúng ta với mọi sự, phải xuất phát từ Đức Ki-tô, đặt nền trên Đức Ki-tô và hướng về Đức Ki-tô.
1. Mục đích của chay tịnh
Trong thực tế, việc ăn chay có thể có nhiều định hướng: hướng về bản thân, hay hướng về người khác, hoặc cả hai. Chẳng hạn, ăn chay là một cách khổ chế, một đàng vì sự “no đầy” thể xác dễ bị chi phối bởi những năng động lệch lạc; đàng khác, có những thứ lương thực có năng lực kích thích những tư tưởng, cảm xúc và hành vi xấu, nếu sử dụng không điều độ.
Trong Do Thái giáo, người ta ăn chay để ăn năn và xin ơn tha thứ, hay để xin một ơn đặc biệt nào đó (x. 2Sm 13, 16.22; Ge 2, 12-17). Người ta ăn chay còn để chuẩn bị thi hành một sứ mạng (x. Tl 20, 26; Cv 14, 23). Ngoài ra, trong sách ngôn sứ Isaia (x. Is 58, 1-9a), Đức Chúa mời gọi dân của Ngài phải sống hài hòa giữa việc ăn chay và cách sống của họ với tha nhân và nhất là với những người nghèo đói, những người đau khổ.
Ngày nay, người ta ăn chay còn để tiết kiệm tiền, dành cho việc bác ái. Ngoài ra, người ta ăn chay còn để chữa bệnh, gìn giữ sức khỏe hay bảo vệ môi trường!
* * *
Như thế, việc ăn chay hoặc có định hướng qui về mình hay qui về người khác, hoặc là một việc đạo đức chỉ có dáng vẻ bề ngoài, như quan niệm của những người đến chất vấn Đức Giê-su: “Tại sao chúng tôi và những người Pharisiêu ăn chay, còn môn đệ của ông lại không ăn chay?”; và như chính Đức Giê-su đã cảnh báo: “Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay” (Mt 6, 16).
Trong khi đó, ăn chay tiên vàn có mục đích hướng về chính Thiên Chúa, hoặc để chuẩn bị mình để gặp gỡ Thiên Chúa (x. Xh 34, 28; Đn 9, 3), hoặc để diễn tả tương quan thuộc về Thiên Chúa (x. Lv 16, 29-31). Chính vì thế, Đức Giê-su không hủy bỏ việc ăn chay, nhưng Ngài “hoàn tất” ý nghĩa việc ăn chay, bằng cách hướng việc ăn chay đến chính ngôi vị của Ngài, bởi vì Ngài là hiện thân của chính Thiên Chúa. Như thế, Đức Giê-su đã mang lại cho việc ăn chay một ý nghĩa hoàn toàn mới.
2. Ăn chay là để tưởng nhớ Một Người
Ăn chay, đối với Đức Giêsu, không phải là một việc bổn phận đạo đức, có tính ép buộc và thường hay qui về mình (hãm mình, đền tội, xin ơn…), nhưng là một hành vi hướng về “Một Người”, tưởng niệm “Một Người”, Người đó là “Chàng Rể bị đem đi”, là Đức Kitô chịu thương khó. Chúng ta ăn chay là để tưởng nhớ Đức Kitô chịu đóng đinh vì lòng mến và hướng tới lòng mến Đức Ki-tô. Có thể nói, vì “Thương Một Người”[1] mà chúng ta ăn chay.
Nếu Đức Chúa, trong sách ngôn sứ Isaia, mời gọi dân hướng việc ăn chay đến tình thương đối với những người nghèo khó và đau khổ, thì Đức Giê-su, trong bài Tin Mừng, hướng việc ăn chay đến tình thương đối với chính Ngài. Không phải Ngài bỏ quên họ, nhưng chính khi chúng ta yêu mến Ngài, chúng ta sẽ yêu mến những người nghèo khó và đau khổ, bởi vì Ngài đồng hóa mình với họ (x. Mt 25, 40). Như thế, vì lòng mến Đức Ki-tô, chúng ta được mời gọi không chỉ ăn chay theo luật định, nhưng còn có thể ăn chay bất cứ lúc nào, nhất là trong Mùa Chay, hay trong tuần tĩnh tâm. Tuy nhiên, Ngài đã Phục Sinh và hiện diện giữa chúng ta mọi ngày. Vì thế, chúng ta cũng ăn uống bình thường và đôi khi ăn tiệc nữa!
Và với hai dụ ngôn, dụ ngôn “vải và áo” và dụ ngôn “rượu và bình rượu”, Đức Giê-su mời gọi chúng ta hướng việc ăn uống, và ngang qua việc ăn uống là “mọi sự khác”, trong đó có chính sự sống của chúng ta, cuộc đời của chúng ta, tới ngôi vị của Ngài, tới tình yêu Ngài dành cho chúng ta và chúng ta dành cho Ngài. Bởi vì, lương thực còn là biểu tượng của sự sống. Vì thế, chúng ta có thể hiểu, đời sống dâng hiến của chúng ta là một việc “Ăn Chay” lớn nhất, ngang qua nỗ lực sống ba lời khấn, khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, vốn liên quan đến sự sống và là chính sự sống của chúng ta; và chúng ta ăn chay kiểu “lạ đời” này, vì lòng mến Đức Kitô và để sống và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài và cho Nước của Thiên Chúa.
3. “Người ban bánh cho tất cả chúng sinh”
Như thế, việc ăn chay của chúng ta chỉ trở nên đích thật trong mức độ, đó là cách chúng ta diễn tả tương quan tình yêu của chúng ta đối với chính Chúa. Nhưng nếu Chúa hiện diện ngay trong “bánh” chúng ta dùng hằng ngày, thì việc ăn chay của chúng ta sẽ ra sao?
Thật là lệch lạc, khi coi lương thực như “dịp tội” phải kiêng bớt, thậm chí xa tránh. Bởi lẽ, lương thực là ơn huệ Thiên Chúa ban (x. St 1-2; Đnl 8, 3): Chúa hiện diện nơi ơn huệ của Người, và khi hưởng dùng ơn huệ (nghĩa là nhìn, nghe, cảm, nếm và đụng), cụ thể là ơn huệ lương thực hằng ngày, chúng ta được mời gọi nhận ra và đi vào tương quan biết ơn với Đấng ban ơn huệ:
Người ban lương thực (tiếng Do-thái: bánh) cho tất cả chúng sinh.
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. (Tv 136, 25)
Và bánh ăn hằng ngày, vốn là ơn huệ của Thiên Chúa loan báo cho chúng ta Bánh Trường Sinh, Bánh ban sự sống đời đời là chính Đức Ki-tô, và Người là Ơn Huệ của mọi ơn huệ (x. Ga 4, 10 và Ga 6). Chính vì thế, Giáo Hội cho chúng ta đọc kinh Lạy Cha, trong đó có lời cầu: “xin cho chúng con lương thực hàng ngày”, trước khi đón nhận Mình Máu Thánh Đức Ki-tô.
Vậy, ăn chay đích thật không chỉ là không ăn hay ăn ít đi một số lần hay một số ngày vì lòng mến Chúa; nhưng còn là mọi ngày, chúng ta được mời đón nhận lương thực như ơn huệ Thiên Chúa ban và chúng ta để cho ơn huệ lương thực hằng ngày hướng chúng ta đến Ơn Huệ Lương Thực hằng sống là chính Đức Ki-tô.
* * *
Chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa, Cha của chúng ta mỗi ngày, và nhất là trước bữa ăn: “Lạy Cha, xin ban cho chúng con lương thực hằng ngày”; và quả thực, ơn huệ lương thực đã có đó ngay trên bàn trước mắt chúng ta rồi. Vì thế, lời nguyện này về ngôn từ là lời cầu xin, nhưng về tâm tình, là lời tạ ơn và ca tụng. Và bởi vì lương thực hằng ngày là ơn ban, nên sự sống của chúng ta, ở mức độ căn bản nhất là đến từ Chúa và là của Chúa.
Và điều Chúa chờ đợi nơi chúng ta, là một lời nguyện phát xuất từ con tim biết ơn và dâng hiến: “Chúa đã ban cho con tất cả, con xin dâng lại Chúa tất cả”, trong tâm tình ca tụng, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa”, theo khuôn mẫu của Đức Ki-tô Thánh Thể.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
………………………………………………………………………..
[1] “Thương Một Người”, tựa đề bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
[1] Bản dịch của Nhóm CGKPV: “Người ban lương thực cho tất cả chúng sinh”. Tiếng ‘Do Thái: “Người ban BÁNH…”
SUY NIỆM LỜI CHÚA MỖI NGÀY SONG NGỮ
Friday (July 6): “I desire mercy – not sacrifice” Scripture: Matthew 9:9-13 9 As Jesus passed on from there, he saw a man called Matthew sitting at the tax office; and he said to him, “Follow me.” And he rose and followed him. 10 And as he sat at the table in the house, behold, many tax collectors and sinners came and sat down with Jesus and his disciples. 11 And when the Pharisees saw this, they said to his disciples, “Why does your teacher eat with tax collectors and sinners?” 12 But when he heard it, he said, “Those who will have no need of a physician, but those who are sick. 13 Go and learn what this means, `I desire mercy, and not sacrifice.’ For I came not to call the righteous, but sinners.”
|
Thứ Sáu 6-7 Ta muốn lòng nhân chứ không cần hy lễ
Mt 9,9-13 9 Bỏ nơi ấy, Đức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi! ” Ông đứng dậy đi theo Người.10Khi Đức Giê-su đang dùng bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ.11Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy? “12 Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.13 Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” |
Meditation: What is God’s call on your life? Jesus chose Matthew to be his follower and friend, not because Matthew was religious or learned, popular or saintly. Matthew appeared to be none of those. He chose to live a life of wealth and ease. His profession was probably the most corrupted and despised by everyone because tax collectors made themselves wealthy by over-charging and threatening people if they did not hand over their money to them. God searches our heart What did Jesus see in Matthew that others did not see? When the prophet Samuel came to the house of Jesse to anoint the future heir to the throne of Israel, he bypassed all the first seven sons and chose the last! “God looks at the heart and not at the appearance of a man” he declared (1 Samuel 16:7). David’s heart was like a compass looking for true north – it pointed to God. Matthew’s heart must have yearned for God, even though he dare not show his face in a synagogue – the Jewish house of prayer and the study of Torah – God’s law. When Jesus saw Matthew sitting at his tax office – no doubt counting his day’s profit – Jesus spoke only two words – “follow me”. Those two words changed Matthew from a self-serving profiteer to a God-serving apostle who would bring the treasures of God’s kingdom to the poor and needy.
John Chrysostom, the great 5th-century church father, describes Matthew’s calling: “Why did Jesus not call Matthew at the same time as he called Peter and John and the rest? He came to each one at a particular time when he knew that they would respond to him. He came at a different time to call Matthew when he was assured that Matthew would surrender to his call. Similarly, he called Paul at a different time when he was vulnerable, after the resurrection, something like a hunter going after his quarry. For he who is acquainted with our inmost hearts and knows the secrets of our minds knows when each one of us is ready to respond fully. Therefore he did not call them all together at the beginning when Matthew was still in a hardened condition. Rather, only after countless miracles, after his fame spread abroad, did he call Matthew. He knew Matthew had been softened for full responsiveness.” Jesus- the divine physician When the Pharisees challenged Jesus’ unorthodox behaviour in eating with public sinners, Jesus’ defence was quite simple. A doctor doesn’t need to visit healthy people – instead he goes to those who are sick. Jesus likewise sought out those in the greatest need. A true physician seeks healing of the whole person – body, mind, and spirit. Jesus came as the divine physician and good shepherd to care for his people and to restore them to the wholeness of life. The orthodox were so preoccupied with their own practice of religion that they neglected to help the very people who needed spiritual care. Their religion was selfish because they didn’t want to have anything to do with people not like themselves. Jesus stated his mission in unequivocal terms: I came not to call the righteous, but to call sinners. Ironically the orthodox were as needy as those they despised. All have sinned and fall short of the glory of God (Romans 3:23).
On more than one occasion Jesus quoted the saying from the prophet Hosea: For I desire mercy and not sacrifice (Hosea 6:6). Do you thank the Lord Jesus for the great mercy he has shown to you? And do you show mercy to your neighbour as well? “Lord Jesus, our Savior, let us now come to you: Our hearts are cold; Lord, warm them with your selfless love. Our hearts are sinful; cleanse them with your precious blood. Our hearts are weak; strengthen them with your joyous Spirit. Our hearts are empty; fill them with your divine presence. Lord Jesus, our hearts are yours; possess them always and only for yourself.” (Prayer of Augustine, 354-430) |
Suy niệm: Ơn gọi của Thiên Chúa dành cho cuộc đời bạn là gì? Ðức Giêsu đã chọn Matthêu làm môn đệ và bạn hữu của mình không phải vì ông đạo đức hay trí thức, nổi tiếng hay thánh thiện. Matthêu không phải là một trong những hạng người đó. Ông ta chọn một cuộc sống giàu có và dễ dãi. Nghề nghiệp của ông có thể nói là một nghề bị người ta coi là đồi bại và đáng khinh nhất, bởi vì những người thu thuế làm giàu bằng cách thu tiền quá mức và đe dọa người ta nếu như người ta không chịu nộp tiền cho họ. Thiên Chúa tìm kiếm tấm lòng Ðức Giêsu nhìn thấy nơi Matthêu điều gì mà người khác không thấy? Khi ngôn sứ Samuel đến nhà Giêsê để xức dầu cho người kế vị tương lai vương quyền Israel, ông đã bỏ qua tất cả 7 người con trai đầu và chọn người con út! “Thiên Chúa nhìn tâm hồn chứ không nhìn diện mạo bề ngoài của con người”. Tâm hồn Đavít tựa như kim la bàn luôn hướng về phía Bắc – nó luôn hướng về Chúa. Tâm hồn của Matthêu chắc hẳn rất khao khát Thiên Chúa, mặc dù ông không dám xuất hiện trong đền thờ – nhà cầu nguyện của người Do thái và học kinh Torah – lề luật của Chúa. Khi Ðức Giêsu nhìn thấy Matthêu ngồi ở trạm thu thuế – chắc chắn ông ta đang đếm tiền thuế thu được của ngày hôm đó – Ðức Giêsu nói vỏn vẹn ba chữ: “Hãy theo Ta”. Ba chữ kia đã thay đổi Matthêu từ một người trục lợi cho mình thành một tông đồ phụng sự Thiên Chúa, một người sẽ đem kho tàng nước Chúa cho những người nghèo khổ túng thiếu. Giáo phụ John Chrysostom ở thế kỷ thứ 5 nói về ơn gọi của Matthêu như sau: “Tại sao Ðức Giêsu không kêu gọi Matthêu cùng lúc với Phêrô và Gioan, hay với các tông đồ khác? Chúa đến với từng vị ở một khoảng thời gian đặc biệt, khi Người biết rằng họ sẽ đáp trả. Chúa đến gọi Matthêu ở thời gian khác, khi Người chắc chắn rằng ông sẽ nghe theo tiếng gọi của Người. Tương tự, Chúa đã gọi Phaolô ở thời gian khác, lúc Người bị xúc phạm sau khi phục sinh, giống như thể người thợ săn theo đuổi con mồi của mình. Vì Người là Đấng thấu suốt tâm can của chúng ta, và biết rõ những sự bí ẩn trong tâm trí, biết rõ khi mỗi người chúng ta sẵn sàng đáp trả lại cách trọn vẹn. Vì thế, Người không gọi tất cả ngay từ lúc ban đầu, khi Matthêu vẫn đang ở trong tình trạng cứng lòng. Hơn nữa, chỉ sau khi xảy ra vô số các phép lạ, sau khi danh tiếng của Người vang dội khắp nơi, thì Người mới gọi Matthêu. Người biết Matthêu đã mềm lòng cho sự đáp trả tiếng gọi của Người.” Đức Giêsu – vị Thần Y Khi những người Pharisêu chống lại thái độ không chính thống của Ðức Giêsu trong việc ăn uống với các tội nhân cách công khai, sự biện hộ của Ðức Giêsu hết sức đơn giản. Bác sĩ không cần khám bệnh cho người khoẻ mạnh, thay vào đó ông sẽ đến với những người đau yếu bệnh tật. Ðức Giêsu cũng đi tìm những ai đang ở trong tình trạng thiếu thốn nhất. Người thầy thuốc thật sự luôn tìm cách chữa toàn thể con người: thân xác, tâm trí, và linh hồn. Ðức Giêsu đến như một vị thần y và một mục tử nhân lành để săn sóc dân Người và phục hồi toàn bộ sự sống cho họ. Những người chính thống quá bận tâm lo lắng với việc hành đạo riêng của mình đến nỗi họ quên đi việc giúp đỡ những người đang cần sự chăm sóc thiêng liêng. Niềm tin của họ quá ích kỷ bởi vì họ không muốn làm bất cứ điều gì cho những người không giống họ. Ðức Giêsu khẳng định về sứ mệnh của mình một cách dứt khoát: Ta đến không phải để kêu gọi những người công chính, nhưng là những người tội lỗi. Một cách trớ trêu thay, những người chính thống cũng thiếu thốn như những người mà họ coi thường. Tất cả mọi người đều đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa (Rm 3,23). Ðức Giêsu đã vài lần trích dẫn lời nói của ngôn sứ Hôsê rằng: Ta muốn lòng nhân chứ không cần hy lễ (Hs 6,6). Bạn có biết ơn Chúa Giêsu vì lòng thương xót vô biên mà Người đã dành cho bạn không? Và bạn có bày tỏ lòng thương xót với tha nhân không? Lạy Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc con, giờ đây xin cho con đến với Chúa. Lạy Chúa, linh hồn hồn lạnh lẻo, xin sưởi ấm nó với tình yêu vị tha của Chúa. Linh hồn con tội lỗi, xin thanh tẩy nó bằng máu châu báu của Chúa. Linh hồn con yếu đuối, xin tăng sức cho nó bằng Thần Khí vui mừng của Chúa. Linh hồn con trống rỗng, xin lấp đầy nó bằng sự hiện diện thần linh của Chúa. Lạy Chúa Giêsu, linh hồn con là của Chúa, xin Chúa chiếm hữu nó luôn, và xin cho nó luôn thuộc về Chúa thôi. (Lời nguyện của thánh Augustinô, 354-430). |
Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn