LỄ GIÁNG SINH 2024
CÁC BÀI SUY NIỆM: LỄ ĐÊM - LỄ RẠNG ĐÔNG - LỄ BAN NGÀY
Lễ Đêm: Is 9, 2-4. 6-7; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14
Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2, 15-20
Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18
GIÁNG SINH: LỄ ĐÊM
Lc 2,1-14
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
1Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. 2Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. 3Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. 4Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, 5vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
6Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. 7Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
8Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. 9Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao tỏa chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ.
10Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: 11Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. 12Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.
13Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: 14 “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
SUY NIỆM: ĐỂ ĐƯỢC GẶP CHÚA
Sau bao tháng ngày trông đợi, đêm nay, toàn thể Giáo Hội đồng thanh ngân vang tiếng chuông an bình, tiếng chuông báo hiệu Đấng Cứu Thế đã hạ sinh. Đây quả thật là 1 tin mừng trọng đại cho toàn thể nhân loại.
Thật vậy, theo những gì mà ngôn sứ Isaia loan báo trong bài đọc thứ nhất, thì Ngôi Hai làm người chính là món quà mà Thiên Chúa gởi tặng chúng ta (x.Is 9,5). Bởi Chúa Giêsu chính là ánh sáng huy hoàng bừng lên giữa đêm tối. Ánh sáng ấy làm cho ta được chứa chan niềm hoan hỷ, làm tăng thêm nỗi vui mừng (x.Is 9, 1-2). Chính Người sẽ mở rộng quyền bính và tái lập một nền hòa bình viên mãn (x.Is 9,6).
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói rằng, việc trao ban món quà vô giá là Chúa Giêsu cho nhân loại, chứng tỏ “ân sủng của Thiên Chúa đã biểu lộ cho con người” (Tt 2,11). Sở dĩ Thiên Chúa làm như thế là để đáp trả lòng trông cậy, mà bấy lâu nay chúng ta đặt nơi Ngài (x.Tt 2,13).
Do đó, thiết nghĩ tâm tình đầu tiên mà chúng ta phải có trong đêm hồng phúc này, đó là tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa, vì Ngài luôn đoái thương nhìn đến nhân loại tội lỗi chúng ta. Ngài đã làm mọi sự cho loài người chúng ta, vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy mang lấy tâm tình mừng rỡ hân hoan, vì Thiên Chúa đã đến viếng thăm dân người, vì Ánh Sáng Cứu Độ đã bừng lên chiếu rọi những kẻ ngay lành.
Mừng sinh nhật Chúa hôm nay, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta hãy sống lại khung cảnh Bêlem năm ấy, để biết được Chúa chúng ta đang ở đâu, và làm thế nào để ta gặp được Ngài?
Tin mừng cho biết, sau khi được sứ thần loan tin về Đấng Cứu Thế vừa sinh ra, các mục đồng đã hối hả lên đường tìm kiếm và đã gặp được Chúa Giêsu.
Nhưng ngạc nhiên thay, họ không gặp Hài Nhi Giêsu nơi thành đô Rôma nguy nga tráng lệ, cũng không phải Ngài ở thành phố Giêrusalem phồn hoa hưng thịnh; họ không gặp Ngài trong thánh điện hoàng cung của dòng tộc Đavít, cũng không phải trong lầu son gác tía của phú hộ giàu sang; nhưng các mục đồng đã tìm thấy Hài Nhi Giêsu ở làng quê Bêlem xa xôi hẻo lánh, và được đặt nằm trong máng cỏ hôi tanh nghèo hèn.
Tin mừng cho biết, các mục đồng rất đỗi ngạc nhiên về điều ấy. Họ không ngạc nhiên sao được, khi trước giờ cha ông họ vẫn nghĩ rằng, Đấng Cứu Tinh chắc chắn phải đến trong vinh quang uy quyền nơi thành đô lộng lẫy, chứ Bêlem-Nadaret thì nào có cái gì hay!
Thưa anh chị em, Chúa chúng ta có quyền chọn cho mình những điều tốt đẹp nhất ở trần gian này. Nhưng không, “Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân và sống như người trần thế”. Thiên Chúa làm người là để mang lấy thân phận con người và để cứu độ con người. Ngài đã trở nên nghèo khó, để nhờ cái nghèo của Ngài mà chúng ta được trở nên người giàu có trong Nước Trời. Thế thì tại sao chúng ta cứ lại muốn tìm Ngài trong vinh hoa thế trần?
Do đó, những ai nghĩ rằng Thiên Chúa giáng sinh làm người là để mang lại cho mình sự giàu sang sung túc, và những ai tìm Chúa nơi vinh quang trần thế; thì sẽ không bao giờ được gặp Ngài.
Điều ngạc nhiên thứ hai đó là, tuy việc Con Thiên Chúa hạ sinh làm người là một biến cố vĩ đại trong lịch sử nhân loại, thế nhưng, Chúa lại muốn mạc khải sự cao cả ấy cho những người bé mọn. Chúa không chọn giới lãnh đạo Do Thái giáo, cũng không chọn vua chúa quan quyền; nhưng Ngài chọn các mục đồng thôn dã và đã tỏ mình ra với họ.
Có thể nói, sau Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria, các mục đồng chính là những người đầu tiên được biết, được thấy và được chiêm ngắm Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúa đã chọn những con người rất thường trước mắt người đời, để làm những nhân chứng sống đầu tiên loan báo TiN mừng Cứu Độ cho Ngài.
Về sau, chính Chúa Giêsu cũng đã lặp lại chân lý này: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt, 11,25). Điều này muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng, những ai khiêm tốn nhìn nhận mình nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa và người khác, thì Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên cao trọng trong Ngài.
Như thế, hôm nay chúng ta mừng sinh nhật Chúa, nhưng Chúa lại là người tặng quà cho chúng ta. Món quà đó chính bản thân Ngài, là ơn cứu độ. Và Ngài còn cho chúng ta biết Ngài ở đâu để chúng ta tìm đến, và bằng cách nào để chúng ta gặp được Ngài.
Tóm lại, mừng lễ Giáng Sinh hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy mang lấy 2 tâm tình: tạ ơn và mừng vui. Đồng thời, chúng ta hãy luôn nhớ rằng, Hoàng Tử Bình An là Chúa chúng ta giáng sinh trong máng cỏ hang lừa, chứ không phải một nơi nào khác. Mỗi người hãy bước đi trên con đường bé nhỏ, đơn sơ và khiêm tốn để tìm gặp Ngài. Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM: CHÚA TÌM GÌ NƠI TA?
Thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đã tặng ban Con Một của Ngài cho thế gian”. Người Con của Lời hứa. Người Con mà cả dọc dài lịch sử dân thánh luôn khắc khoải mong chờ. Ngài chính là Thái Tử Bình An. Ngài đến để ban bình an xuống cho nhân trần như lời các thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người lòng ngay”.
Vâng thưa anh chị em, món quà mà nhân loại luôn khao khát mong chờ không phải là cơm áo gạo tiền mà là niềm vui của bình an hoan lạc. Có tiền mà sống trong loạn lạc, có lẽ cũng chẳng có bụng dạ nào để no say hưởng thụ. Có tiền mà không có lương tâm an bình có lẽ cũng chẳng có niềm vui và hạnh phúc từ trong sâu thẳm tâm hồn.
Cách đây hơn 20 năm vào mùa Giáng sinh năm 1989, trong cuộc họp thượng đỉnh tại đảo Malta, Tổng thống Bush cha đã tặng chủ tịch Gorbachov của liên bang Xô Viết một viên gạch. Viên gạch này mà một thời nó đã góp phần làm nên một bức tường “ô nhục Bá Linh”. Một bức tường ngăn cách tình người. Tình người trong một đất nước, một dân tộc. Một sự ngăn cách tưởng chừng như vô bờ, thế mà hôm nay bức tường này đã được đập bỏ. Tổng thống Bush tặng viên gạch này như dấu chỉ một khao khát hoà bình. Một khao khát sống liên đới thuận hoà để con người cùng nhau xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng.
Thiên Chúa cũng đã tặng ban cho chúng ta không phải là một viên gạch vô tri, vô giác mà là chính Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người. Ngài đã mang lấy thân phận con người để đưa con người trở về với Thiên Chúa. Con người là hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải sống đúng với phẩm giá làm người của mình. Ngài đến để ban bình an, nhưng Ngài cũng đòi con người hợp tác để bình an của Chúa được trải rộng khắp muôn nơi. Dấu chỉ của sự hợp tác tích cực mà Chúa muốn con người là: hãy tặng lại cho Ngài chính hình ảnh trong sáng, ngay thẳng, đầy yêu thương mà Ngài đã tạo dựng con người ngay từ ban đầu.
Trong kỳ họp Apec tổ chức tại Việt Nam, các thành viên đều nhận được một món quà là chính hình ảnh của mình được các nghệ nhân Việt Nam điêu khắc trên đá. Có lẽ đó là món quà qúy giá mà các nguyên thủ các quốc gia đã nhận được từ các nghệ nhân Việt Nam. Họ đã đến Việt Nam và họ đã nhận lại được hình ảnh của họ từ những con người rất hiếu khách của dân tộc Việt Nam. Một dân tộc luôn ưa chuộng hoà bình, luôn lấy “dĩ hoà vi qúy” làm nền tảng cho mọi giao tiếp hằng ngày. Một dân tộc luôn đề cao tình làng nghĩa xóm đến mức độ “tối lửa tắt đèn có nhau”, để rổi sống liên đới chia sẻ với nhau trong tình thần “chị ngã em nâng” và “lá lành đúm lá rách”. Nhất là luôn sống tha thứ cho nhau để có được một cuộc sống vui tươi an bình, vì “một điều nhịn chín điều lành”. Đó cũng là những hình ảnh rất đẹp mà các nguyên thủ các quốc gia đến họp hội nghị Apec đã thấy nơi nền văn hoá Việt Nam. Thế nhưng, thử hỏi lại lòng mình, chúng ta đã thực sự sống điều đó để giữ mãi bản sắc tươi đẹp của văn hoá dân tộc Việt Nam? Với bốn ngàn năm văn hiến, chúng ta đã thực sự sống những nét cao đẹp của văn hoá Việt Nam mà cha ông đã để lại cho chúng ta hay chưa? Hay chúng ta đang quên dần, và cố đuổi theo những trào lưu hưởng thụ, thoái hoá đạo đức, băng hoại luân lý và xa rời tình người?
Với tư cách là người kytô hữu, là những con người luôn ý thức mình mang hình ảnh Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta còn giữ sự tinh tuyền của Ngài nơi tâm hồn chúng ta hay không? Hay hình ảnh của Ngài đã bị hoen ố bởi thói hư tật xấu của chúng ta? Có lẽ trong giờ phút này, Thiên Chúa cũng đang cần chúng ta tặng lại cho Ngài hình ảnh tinh tuyền ban đầu của tạo dựng. Một hình ảnh trong sáng không bỉ hoen ố bởi đam mê nhục dục, bởi tham vọng thống trị anh em và tham lam vô độ. Một hình ảnh chân thật không quanh co, giả dối đến nham hiểm hại người hại đời. Một hình ảnh đầy tình yêu không bị những toan tính trục lợi, những bất công lừa đảo, và lỗi công bình bác ái với anh em. Tất cả những cách sống sai lệch với hình ảnh ban đầu của tạo dựng, đã làm mờ nhạt đi hình ảnh của Thiên Chúa nơi cuộc sống thường nhật của chúng ta. Và là bức tường ngăn trở cho nước Chúa trị đến, cho an bình của Chúa trải rộng khắp muôn nơi.
Mỗi người chúng ta được mời gọi sống thánh giữa đời, được cụ thể qua việc tuân giữ hai giới răn quan trọng nhất đó là Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự nghĩa là phải để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc sống. Đừng vì những đam mê danh lợi thú mà quên đi giá trị đích thực của phẩm giá con người là hình ảnh của Chúa. Con người được gọi là “nhân linh ư vạn vật”, nghĩa là con người hơn muôn loài vật. Không loài nào sánh bằng con người. Không loài nào xứng đáng để con người tôn thờ. Do vậy, chỉ có Thiên Chúa mới đáng cho chúng ta tôn thờ. Tiền bạc, địa vị, sắc dục chỉ là thọ tạo thấp bé và rất tầm thường so với con người. Vì thế đừng vì nó mà bỏ quên Chúa. Đừng vì nó mà xúc phạm đến anh em. Đồng thời, mến Chúa phải yêu mến anh em. Yêu mến không chỉ trên đầu môi chóp lữơi, nhưng bằng những hành động cụ thể: đó là kính trọng anh em, là sống công bình bác ái với anh em, và đỉnh cao của tình yêu là sự dấn thân phục vụ anh em trong khiêm tốn và chân thành.
Lạy Chúa, Chúa đã sinh ra trong thân phận con người. Chúa đã tự đồng hoá mình với những người khổ đau. Xin cho chúng con luôn nhận ra Chúa trong anh em để chúng con luôn đối xử với nhau trong công bình, bác ái, trong kính trọng và yêu thương. Xin giúp chúng con luôn biết gìn giữ hình ảnh tinh tuyền của Chúa nơi chúng con. Xin gìn giữ linh hồn chúng con khỏi những đam mê bất chính làm hoen mờ hình ảnh Chúa nơi chúng con. Amen.
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
SUY NIỆM: ĐÊM THÁNH – ĐÊM CHAN HÒA ÁNH SÁNG
Có rất nhiều người thuộc các tôn giáo bạn thường hay thắc mắc: “Tại sao lễ Giáng Sinh lại được cử hành vào ban đêm?” Khi mừng lễ như vậy liệu có tính lịch sử không?”.
Thực ra thời khắc Con Thiên Chúa hạ sinh không đề cao ý nghĩa và giá trị lịch sử cho bằng ý nghĩa thần học, thiêng liêng của ngày lễ.
Vì thế, khi cử hành lễ Giáng Sinh vào đêm ngày 24, rạng sáng ngày 25, Giáo Hội muốn làm nổi bật lên vai trò và sứ mạng của Đấng Thiên Sai, vì Ngài là: “Ánh Sáng đến để chiếu soi nhân loại”.
- Ánh sáng tách lìa bóng tối
Khi nói đến ánh sáng trong lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy nó xuất hiện ngay từ thủa nguyên sơ bình minh của nhân loại. Sách Sáng Thế đã cho thấy rõ vai trò của ánh sáng khi ánh sáng xuất hiện trong công cuộc tạo dựng.
Lúc ban đầu, mọi sự còn trong tình trạng hỗn mang, nhưng khi ánh sáng hiện hữu, tức thì một lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối xuất hiện. Nhờ vào ánh sáng, mọi vật được quang hợp và nhờ đó mà có sự sống.
Sau khi sáng tạo trời đất và con người, Thiên Chúa đã dùng ánh sáng để phân biệt ngày và đêm cũng như để cho con người được sống trong ánh sáng.
Như vậy, tác giả sách Sáng Thế cho thấy: ánh sáng được biểu trưng cho sự sống. Còn bóng tối là hình ảnh của sự chết.
Tuy nhiên, vì bóng tối là hình ảnh của sự chết, nên nó đối lập với ánh sáng là biểu tượng của sự sống! Vì vậy, nó đã không ngừng len lỏi vào trong tâm khảm của con người, khiến con người hướng chiều về nó và muốn thoát ra khỏi ánh sáng để mong ước đạt được một cái gì đó tốt đẹp hơn hiện tại!
Chính vì sự yếu đuối và ngộ nhận này mà Nguyên Tổ của chúng ta là Ađam và Evà đã đi theo bóng tối và có một sự khát khao cuồng tín rằng: khi đã thoát ra khỏi ánh sáng thì sẽ được ngang hàng với Đấng Tạo Hóa là nguồn Ánh Sáng.
Nhưng sự hoang tưởng này đã không đem lại cho ông bà như ý muốn, mà cả hai đã nhận một cái kết đầy đắng cay, đó là: bị Thiên Chúa trừng phạt và đẩy lùi về với bóng tối khi Người đập tan ý định kiêu ngạo, phá ta niềm hy vọng hão huyền, và đã đuổi ông bà ra khỏi Vườn Địa Đàng là nơi đầy ánh sáng và bình an. Cũng kể từ đó, ông bà không được hưởng hạnh phúc thủa ban đầu, không còn tình nghĩa với Đấng dựng nên mình và cũng kể từ đó, Thiên Chúa đã đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh (x. St 3,24).
Cứ thế, trong suốt giai đoạn Cựu Ước, dân chúng đã lầm lũi bước đi trong bóng tối của sự chết.
Đây chính là thảm họa buồn mà nhân loại phải lãnh nhận do Nguyên Tổ loài người gây ra.
Trước thực trạng ấy, dân mong chờ ánh sáng biết chừng nào! Họ mong chờ một nguồn ánh sáng đến để giải cứu họ thoát khỏi bóng tối tử thần, thoát khỏi sự đau khổ, chết chóc và thân phận nô lệ đắng cay.
- Đức Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi thế gian
Niền hy vọng của họ đã thấu tới trời cao và đã được Thiên Chúa xót thương khi sai Con của Người xuống thế là Đức Giêsu Kitô. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực thi sứ vụ Thiên Sai trong vai trò giải thoát và chiếu giãi Ánh Sáng vào trong bóng đêm tội lỗi.
Đây là niềm vui mừng khôn xiết, vì: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”; “Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người, cái gông nằm trên vai, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian” (x. Is 9, 1-3).
Như vậy, khi mừng sinh nhật của Đức Giêsu vào lúc nửa đêm, lúc mà ngày cũ đã chấm dứt và nhường chỗ cho một ngày mới bắt đầu, Giáo Hội muốn làm toát lên ý nghĩa cũng như giới thiệu cho mọi người biết rằng: Đức Giêsu chính là Ngày Mới của Thiên Chúa. Ngày Mới này tràn ngập ánh sáng như thủa ban đầu.
Cuộc hạ sinh của Đức Giêsu cũng được ví như một cuộc tạo dựng mới. Một cuộc tạo dựng hoàn toàn tinh tuyền không vướng nhơ tội lỗi bởi một người Mẹ là Đức Maria đồng trinh, bởi một vị cha nuôi là thánh Giuse – Đấng Công Chính, và trên hết, Đức Giêsu xuất phát từ “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Kinh Tin Kính).
Chính vì lẽ đó mà Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).
- Đón nhận và bước đi trong Ánh Sáng
Đi theo ánh sáng hay sống trong bóng tối? Đây là câu hỏi muôn thủa được đặt ra cho chúng ta. Đây cũng là thách đố đầy cam go và kịch tính mà ai ai cũng phải đối diện trong đời sống thường ngày.
Chính vì thấu hiểu sự giằng co này mà thánh Gioan đã phải thốt lên: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Đây là câu chuyện buồn của hơn 2000 năm qua. Đây cũng là sự giằng co nội tâm của mỗi người chúng ta. Một cuộc nội chiến không ngừng diễn ra ngay trong nội tại của mỗi người.
Chính vì vậy, đã biết bao lần, chúng ta không ngừng chiến đấu để mình thuộc về Ánh Sáng và đẩy lui bóng tối ra khỏi cuộc đời mình. Tuy nhiên, bóng tối bao giờ cũng hấp dẫn và ánh sáng bao giờ cũng là kẻ thù của bóng tối, vì thế, lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối rất mong manh, khiến cho biết bao người đã ngã quỵ trước ma lực của bóng tối.
Đứng trước thách thức đó, thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta: “… phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2, 12- 13). Thi hành điều đó, ấy là chúng ta đang đi trong ánh sáng của đường lối cứu chuộc mà Đức Giêsu đã đem lại cho nhân loại. Đồng thời cũng trở thành con người xứng đáng với tước vị làm Con Thiên Chúa (x. Ga 1,12).
Tuy nhiên, tin và bước theo Ánh Sáng không thôi thì chưa đủ, mà phải trở thành ánh sáng soi đường cho người khác để họ cũng được hưởng niềm vui do ánh sáng đem lại như lời Đức Giêsu đã nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”; và: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 14.16).
Vậy ánh sáng của chúng ta là gì? Thưa! Ánh sáng của chúng ta chính là một đời sống đạo chân thành; một mối tương quan thật thà thẳng thắn; lương thiện trong công việc; khiêm nhường trong cuộc sống; bác ái, yêu thương, liên đới với người nghèo…. Những đức tính này giúp ta và anh chị em của mình vượt ra khỏi bóng tối là sự ích kỷ, kiêu ngạo, bảo thủ, ghét ghen, dửng dưng, vô cảm, gian dối, thất tín….
Mong sao mỗi khi mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy khao khát cho mình được thuộc về Ánh Sáng để được cứu độ. Đồng thời cũng không ngừng khát khao loan truyền Ánh Sáng sự sống ấy cho mọi người chung quanh bằng chính cuộc sống gương mẫu của mình. Amen.
Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
SUY NIỆM: HÔM NAY, ÐẤNG CỨU THẾ ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA
Từ 21 thế kỷ qua, lời rao giảng vui mừng trên vang lên từ con tim Giáo Hội. Trong đêm thánh này, Thiên Thần Chúa lặp lại với mỗi người chúng ta những lời như sau: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Ðavít” (Lc 2,10-11).
Trong bầu khí linh thiêng của đêm Noel năm nay, khi chiêm ngắm Con Chúa ra đời, chúng ta xin Chúa điều gì? Chắc chắn mỗi người mỗi tâm tình, mỗi ý nguyện, phần lớn những người hiện diện nơi đây đều có những lời cầu xin của riêng mình. Tôi đề nghị một lời cầu xin tha thiết nhất, một nỗi khát vọng mãnh liệt và triền miên của toàn thể nhân loại chúng ta hôm nay đó là xin ơn “Đức tin và Bình an”.
Đề nghị thứ nhất: xin ơn Đức tin
Đấng cứu độ chúng ta đã ra đời, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật. Những điều chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa.
Giáng Sinh là dịp thuận lợi để chúng ta suy niệm về mầu nhiệm Chúa Kitô, và khẳng định lại những điều chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tinh Kính của Công Đồng Nicê năm 325 và Công Đồng Constantinôple năm 381. Những điều ấy dẫn chúng ta vào mầu nhiệm của Chúa Kitô.
“Một Hài Nhi, được sinh ra bởi Thiên Chúa Cha từ trước muôn đời”, đây là cách diễn đạt nghịch lý của Giáo phụ Romanos de Mélode. Có lúc, Thiên Chúa gần gũi đến lạ thường, và cũng thật siêu việt, vượt quá sự hiểu biết của chúng ta, Một Hài Nhi là Con Thiên Chúa Cha từ trước muôn đời. Để hiểu được cách diễn đạt “sinh bởi Đức Chúa Cha “, chúng ta cần phải đọc lại chương mở đầu của Tin Mừng theo Thánh Gioan : “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa ” (Ga 1,1).
Chúng ta không nghĩ đến sự sinh bởi Thiên Chúa, vì chúng ta có những ý niệm về không gian và thời gian… Nhưng ở nơi Thiên Chúa, thì không có khởi đầu và kết thúc. Chúa Cha sinh ra Chúa Con tự đời đời. Vì thế Chúa Cha là Cha tự đời đời, và Chúa Con là Con tự đời đời.
Đặc điểm của Chúa Cha là trao ban hoàn toàn cho Con mình. Và đặc điểm của Chúa Con là lãnh nhận hoàn toàn từ nơi Cha và vâng phục trong tình yêu đối với Chúa Cha. Chúa Kitô là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa ; điều này thường thấy trong Tin Mừng, khi mà Chúa Kitô dùng từ ” TA LÀ ” (Ga 9, 58).
Quả thật, trong trình thuật cuộc thương khó Chúa Giêsu theo Thánh Gioan, lúc ở trong vườn Giệtsimani, Đức Giêsu hỏi những người đến tìm bắt Ngài rằng : “Các ngươi tìm ai ? ” Họ trả lời : “Giêsu Nagiarét”. Đức Giêsu nói : Này ta, ” Khi Đức Giêsu nói với họ này ta, họ liền lùi lại và ngã ra đất hết ” (Ga 18,6). Họ ngã, không phải là vì họ trượt chân, nhưng là vì họ ở trong tư thế tôn thờ, vì lời Đức Giêsu nói với họ: chính Ta hay là Ta có nghĩa là thần thánh.
Thập giá đối với người Do Thái là sự sỉ nhục, đối với người dân ngoại là sự điên dồ, nhưng đây là sự mạc khải của Thiên Chúa: ” Khi nào tôi được treo lên khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người lên cùng tôi, lúc đó các người sẽ biết ta là ai”. Nhưng Giáng sinh có ý nghĩa, vì Giáng sinh là Thánh Giá có một cái bóng được gọi là Phục Sinh.
“Ánh Sáng bởi Ánh Sáng”
“Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sáng của nhân loại ; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng” (Ga 1, 4-5).
Như vậy, với tác giả Tin Mừng, ánh sáng đồng nghĩa với sự sống thần linh ; Nhập thể của Người là ánh sáng, là một trận chiến chống lại bóng tối. Ánh sáng đã đến trong thế gian, nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang.
Vậy, đâu là bóng tối? Chắc chắn là thế gian rồi, nhưng trước hết vẫn là trong lòng người ta. Chúng ta có vùng tối mà chúng ta không muốn thấy, ánh sáng không phải là bạo lực, do đó ánh sáng tràn ngập, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Ánh sáng này sau đó sẽ xuất hiện trên khuôn mặt của nhân loại: thần linh hóa mọi tạo vật, chiếu dọi vào tâm hồn, phản ánh vinh quang rực rỡ của Chúa Cha.
Thế giới của chúng ta đang cần những chứng nhân cho ánh sáng. Ở những thế kỷ đầu của Giáo hội, những người chịu phép Rửa tội được gọi là ” ánh sáng” chiếu tỏa ánh sáng Thần Linh.
Việc tái truyền giảng Tin Mừng, là làm thế nào để người môn đệ biến đổi. Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng đã nói với các linh mục rằng : “Người ta muốn thấy Chúa Giêsu qua anh em”. Nơi mỗi người đã chịu phép Rửa tội, bởi vì họ là nhà của “ánh sáng từ ánh sáng” phải được chiếu soi rạng ngời.
Nguồn gốc của ánh sáng là Tình Yêu. Vì vậy, đừng quên rằng nếu như tội lỗi, nghĩa là bóng tối tách ra, Tình Yêu biến thành ánh sáng thần linh. Trong máng cỏ, Hài Nhi Giêsu chiếu tỏa ánh huy hoàng của Người trên khuôn mặt rạng ngời có Thánh Giuse.
“Thiên Chúa thật và là Người thật”
Công đồng Chacédoan năm 451 đã tuyên xưng: “Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và người thật”.
Tuyên xưng Chúa Kitô là Thiên Chúa thật, không phải vì một người là Thiên Chúa, những là bởi Thiên Chúa đến vì các tội nhân, Ngài đến để cứu từng người trong chúng ta !
Làm thế nào để Thiên Chúa toàn năng, Thánh, chí Thánh, ngàn trùng chí Thánh, ba lần thánh này, có thể đồng bàn với phường tội lỗi? Làm thế nào để Thiên Chúa đến thi thố tình yêu cho chúng ta?
Hài Nhi nằm trong máng cỏ đến thanh tẩy tội lỗi chúng ta và đem dâng lên trước tòa Chúa. Không, Thiên Chúa không phải là một người cha ngáo ọp, hay một thẩm phán, cũng không phải một kẻ giáo điều. Hài Nhi, Thiên Chúa thật nhỏ bé đến mạc khải cho chúng ta Một Thiên Chúa thật.
Đó là lý do tại sao Chúa Con được sai đến trong thế gian. Không chỉ mạc khải về Chúa Cha, nhưng để nối kết chúng ta với Thiên Chúa. Làm cho chúng ta nhận ra khuôn mặt thật của Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng thương xót.
Khi tuyên xưng Hài Nhi năm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật, là loại bỏ các lạc thuyết, Ảo thân thuyết, dưỡng tử thuyết. Chúng ta tin rằng Chúa Kitô vừa là Thiên Chúa thật và là người thật. Người là Đấng cứu chuộc chúng ta.
Nếu Đức Kitô chỉ là Thiên Chúa, thì Người không thể cứu độ tất cả chúng ta! Người là Thiên Chúa và là người, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Tuy nhiên, “Tất cả những gì được Người đảm nhận đều được cứu.” (St. Athanasius)
Con Thiên Chúa đã đảm nhận một thân xác, và vì thế từ nay, Người trở nên người nhờ Chúa Thánh Thần, đó là lý do tại sao thân xác của chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta đã được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Bởi tội nguyên tổ, chúng ta đã đánh mất sự sống, nhờ Hài Nhi nằm trong máng cỏ, chúng ta tìm lại được. Vì thế, chúng ta càng theo Chúa Kitô, chúng ta sẽ càng trở nên giống Người hơn. Chúng ta được trao ban cho Chúa Kitô, chúng ta được thần linh hóa.
Khi chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta, để chúng ta tin vào Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Đề nghị thứ hai là : xin ơn bình an.
Chúng ta cầu xin Chúa “ơn bình an” như chính lời Kinh Thánh gợi ý: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương! ” (Lc 2,14). Đây là điều rất cần thiết và thực tế. Theo Kinh Thánh, sự bình an đi đôi với hạnh phúc mà Chúa ban cho loài người. Ai trong chúng ta mà không khao khát hạnh phúc cho mình và tha nhân? Ai trong chúng ta mà không ước muốn được bình an? Thiếu sự bình an, thì không thể có hạnh phúc. Hạnh phúc trước hết và trên hết là niềm vui “được yêu”, được Thiên Chúa yêu thương, được loài người yêu thương.
Sự bình an là một ân sủng, là “quà tặng Giáng Sinh” của Thiên Chúa cho chúng ta. Để có được quà tặng ấy, chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này (x. Tt 2,12).
Nguyện xin ân sủng và bình an của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và tình yêu của Chúa Cha ở cùng tất cả chúng ta. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
SUY NIỆM: BÀI HỌC KHIÊM HẠ NƠI MÁNG CỎ BELEM
“Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”
Hang đá Belem năm ấy không như hang đá giáng sinh ngày nay. Người ta làm hang đá mỗi khi Giáng sinh về. Ai cũng cố gắng dùng mọi hình thức để diễn tả cái nghèo khó và vắng lặng của hang đá Belem năm xưa, cố gắng trang hoàng làm nổi bật điều mình muốn diễn tả. Và rồi, sự tấp nập của đêm Giáng sinh và ánh sáng trang trí nơi hang đá đã khiến ta không còn cảm được cái nghèo, cái vắng của Belem nơi Chúa hạ sinh.
Đứng trước máng cỏ với Hài nhi Giê-su ta đối diện với sự khiêm hạ, một sự hạ mình xuống đến tận cùng. Một Thiên Chúa hạ mình đến với con người trong hang súc vật, một Hoàng tử hạ mình xuống nơi hoang vắng nghèo hèn, một vị vua chấp nhận lùi xa trước sự xua đuổi của thần dân mình, Đấng uy quyền xuất hiện trong thân phận hài nhi bé nhỏ không khả năng tự vệ, Đấng là ánh sáng xuất hiện giữa đêm đen.
Thiên Chúa đã đến với con người không với tư cách cha chú hay kẻ cả. Nhưng Ngài đến trong âm thầm, nhỏ nhẹ, kiên trì gõ cửa tâm hồn con người, chờ đợi để được con người mở cửa lòng đón tiếp.
Bởi đâu mà Thiên Chúa phải nhọc công làm vậy? Thưa bởi lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
Trong bài đọc thứ nhất trích từ sách Isaia, một bài thơ chan chứa niềm hy vọng của tiên tri Isaia: sự sáng bừng lên trong u tối, lòng người reo vui như ngày được mùa, như ngày thắng trận, mọi gông cùm, áp bức bị đập tan, vị Vua Hòa Bình đến ngự trị giữa muôn dân.
Isaia đã tiên báo về một cảnh trời mai chói lọi ấy trong hoàn cảnh dân bị tan tác, mất nhà cửa, bị đi lưu đày. Một cảnh huống mà Isaia diễn tả: Dân tộc đang bước đi trong u tối. Vì sao nên nỗi lầm than như vậy. Dọc chiều dài Kinh thánh cho ta thấy chính con người đã vất bỏ giao ước với Thiên Chúa, từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa trong xã hội mình, trong cuộc đời mình. Chính khi rời bỏ Thiên Chúa, lòng người ly tán.
Họ bất trung với Thiên Chúa và quay ra đàng điếm với các thần ngoại; họ cầu cứu những phương thế của loài người để giải quyết chiến tranh; dân cậy dựa vào sức lực của con người để vượt lên số phận; họ tin tưởng và tuyệt đối bám víu vào của cải mau qua ở thế giới này. Con người rời xa Thiên Chúa.
Làm gì đây khi con người đã đóng sầm cánh cửa trước lời mời gọi trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa thua con người rồi sao. Thiên Chúa chấp nhận ly dị với con người sao. Lời thề ước trung thành không lẽ hết giá trị rồi ư.
Không. Tình thương của Thiên Chúa đã không chịu khuất phục trước tội lỗi của loài người. Thiên Chúa đã duy trì mối dây liên kết với con người bằng mọi giá. Chúng ta kiêu căng, Ngài sẵn sàng hạ mình xuống; chúng ta từ chối đón tiếp, Ngài kiên trì chờ đợi; chúng ta lên tiếng sỉ vả, Ngài nhẫn nhục lắng nghe; chúng ta phản bội, Ngài âm thầm dõi theo để chờ đợi giây phút hoán cải.
Thiên Chúa đã hạ mình trong thân phận Hài nhi nơi máng cỏ trong hang đá giữa trời khuya giá rét. Ấy là vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta. Tình yêu xả kỷ đã chiến thắng tội lỗi.
Giờ đây, khi đứng trước hang đá với hàng ngàn bóng điện nhấp nháy như bầu trời sao, bạn và tôi, chúng ta nghĩ gì.
Đứng trước lòng trung thủy trong khiêm hạ của Hài Nhi Giê-su khiến ta chạnh lòng nghĩ tới lòng trung thủy của lòng mình. Tôi và bạn, chúng ta phải làm gì đây trong một xã hội mà dường như sự trung tín, lòng trung thủy với lời kết ước đã trở thành thứ xa xỉ phẩm; khi mà lời kết ước hôn nhân trở thành thứ vô vị và chỉ còn là thủ tục giấy tờ; khi mà mối tương quan được đo bằng tiền.
Lạy Chúa Giê-su Hài Đồng, xin dạy con biết khiêm nhu sống tín thác vào Chúa và tin tưởng ở tha nhân. Giữa những đổ vỡ trong cuộc sống bởi lòng kiêu căng, xin Người hàn gắn và vực con chỗi dậy. Nguyện xin Người kéo lòng con về bên máng cỏ, để con cảm nếm cái thực của một tình yêu tinh tuyền trong khiêm hạ.
Lm. Giuse Lê Danh Tường
SUY NIỆM: MẦU NHIỆM GIÁNG SINH
Chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh không chỉ để tưởng niệm một biến cố đã qua hơn 2000 năm nay, hoặc để kỷ niệm ngày sinh của một con người siêu vượt, nhưng là một thực tại phát sinh ơn cứu độ cho tất cả nhân loại chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh:
Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Những ai tin nhận và yêu mến Ngài thì tràn đầy hy vọng đạt tới chính Thiên Chúa, là niềm vui sự sống muôn đời.
Ai cũng có một khát vọng sâu xa là muốn được tồn tại và hạnh phúc mãi mãi. Người ta đua nhau đi tìm kiếm điều đó nơi các thần tượng, các triết thuyết, các chế độ, các tổ chức xã hội… Nhưng chẳng có thần minh nào, triết thuyết nào, cũng chẳng có tổ chức xã hội hay hệ thống kinh tế nào, hay bất cứ ai có thể ban cho chúng ta điều đó, vì tất cả chỉ là tạm bợ, là hư vô, là những kẻ phải chết.
Chỉ có Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô mới làm cho chúng ta được toại nguyện khát vọng vĩnh cửu đó thôi. Vì thế, những ai chỉ lo đi tìm thỏa mãn vật chất, danh vọng, tiền tài trong cuộc đời này mà quên mất lẽ sống chân thật của mình là chính Thiên Chúa, thì đều là những kẻ chạy theo ảo vọng.
Gốc gác của mỗi người chúng ta là thần linh. Dù tin hay không tin, dù nhận biết hay không nhận biết, thì đó vẫn là sự thật, bởi vì chúng ta được sinh ra từ chính sự sống và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Và chỉ có Thiên Chúa mới đưa chúng ta trở về cội nguồn là chính Ngài. Chỉ có Ngài mới ban cho chúng ta khả năng hoàn thành một cuộc đời tốt đẹp nhất, và cho chúng ta đạt tới cuộc sống sung mãn nhất. Chính vì vậy mà Thiên Chúa đã làm người, đã sống trọn kiếp người, và trở nên mô mẫu của việc làm người cho mỗi người chúng ta.
Khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Giáng Sinh, ta mới thấy Thiên Chúa yêu thương nhân loại chúng ta sâu thẳm dường nào, và từ đó ta cũng nhận ra thân phận cao cả của mình là con cái Thiên Chúa. Vì yêu thương vô biên, nên Chúa đã chọn bước xuống làm người bé mọn, chọn cha mẹ quê mùa, chọn gia đình vô danh, chọn nơi chốn sinh ra tồi tàn, chọn cuộc sống nghèo hèn, chọn hoàn cảnh bấp bênh, chọn một dân tộc cứng đầu cứng cổ, chọn những môn đệ yếu kém, chọn con đường thập giá, chọn chén đắng ô nhục, và cuối cùng, chọn cái chết bi thảm (x.Pl 2, 6-8).
Có ai được tự do hoàn toàn và quyền năng vô cùng, mà lại lựa chọn cuộc sống như thế không? Chẳng ai làm thế ngoài một mình Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chọn làm người như thế, để không ai còn có thể than trách về số phận hay tình cảnh của mình, mà phải nhận ra thân phận Chúa trong chính thân phận mình. Dù cuộc đời mình có gian nan khốn khó nào đi nữa thì cũng là cuộc đời của chính Thiên Chúa đã làm người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người cho ta tuyệt đối xác tín rằng: Chúa đã một lần giáng sinh trong cuộc đời ta, Ngài đã bước xuống lòng ta. Từ đó Ngài ở trong ta và âm thầm sống cho ta. Ngài thật sự đảm nhận trọn vẹn cuộc đời ta qua mọi tình trạng và hoàn cảnh. Ngài đã đón nhận và cùng đau cái nỗi đau của ta qua những vấp váp, yếu đuối, trì trệ và thất bại; Ngài đang đón đợi và hoàn thiện hoá từng nổ lực kiên trì vươn lên của bản thân ta trong mọi lúc. Quả thật, chính Chúa đang sống trong ta, và cho ta kinh nghiệm sống trong Chúa.
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở, mời gọi và thúc đẩy ta biết chọn Chúa một cách quyết liệt hơn để hoàn thành sự sống cao cả của mình. Hãy để cho Chúa Giêsu bước vào cuộc đời mình, được cư ngụ trong tâm hồn mình. Hãy để Ngài được sinh ra và lớn lên trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta được trở nên khuôn mặt và tấm lòng của Ngài ở giữa mọi người. Để từ đó ta có thể trao ban Chúa Giêsu cho người khác bằng chính sự hiện diện của mình: một sự hiện diện khiêm hạ và đầy nhân ái yêu thương; một sự hiện diện đem lại bình an, vui mừng và tràn đầy hy vọng cho mọi người chung quanh.
Lm Thái Nguyên
SUY NIỆM: BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” là sứ điệp của Chúa giáng sinh làm người. Sứ điệp này là lời cầu chúc từ trời, là niềm mong mỏi quí giá và cần thiết nhất của con người.
Niềm vui và bình an của Chúa giáng sinh được ban phát trong đêm thanh vắng, giữa cánh đồng thanh vắng, trong bầu trời thanh vắng. Điều đó ngụ ý rằng niềm vui và bình an bởi trời sẽ chỉ lãnh nhận được bởi những người có tâm hồn thanh tịnh.
Trong đêm khuya thanh vắng, niềm an vui từ trời gởi xuống sẽ được đón nhận bởi những tâm hồn hướng thiện. Hướng thiện là hướng về Chúa, Đấng là nguồn cội của Chân- Thiện -Mỹ, và là Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.
Muốn hướng về Chúa, thì phải sạch tội, nghĩa là không còn vướng mắc tội lỗi và những đam mê tật xấu.
Tâm không thiện, lòng không ngay, con người không bao giờ được an vui đích thật. Dù có an vui đi chăng nữa, thì cũng chỉ là niềm an vui giả tạo, niềm an vui của kẻ cơ hội và tội lỗi coi lễ Giáng Sinh là dịp để tụ tập ăn chơi đàng điếm, phóng túng… Có biết bao nhà hàng, quán xá, vũ trường, khách sạn… đón Giáng sinh rất hoành tráng, đèn hoa rực rỡ… nhưng chẳng phải mừng Chúa giáng sinh cứu đời mà là thương mại hoá, kinh doanh kiếm lời. Chính vì những ham hố lợi nhuận ấy, mà người ta sẵn sàng tạo mọi điều kiện, mở các dịch vụ, tận dụng các kỹ nghệ, để phục vụ tất cả những đam mê của con người, kể cả những đam mê xấu xa đê hèn nhất. Tệ hại và đau lòng hơn cả là mọi hình thức tội lỗi ấy lại xảy ra vào đêm Chúa giáng sinh, đêm mà ai cũng coi là linh thiêng: “Đêm thánh vô cùng”.
Vâng, đêm Giáng Sinh chắc chắn sẽ có rất nhiều người đổ ra đường… Trong dòng người ấy, chắc chắn không thiếu những đôi trai gái, những bạn trẻ, những người trung niên, những người lắm tiền nhiều của và cả những người có địa vị trong xã hội… đã móc hầu bao, để ném tiền vào những nơi tội lỗi, lao mình vào vòng tay của bóng tối, mà lẽ ra cần phải xa lánh. Và có khi đồng tiền họ sử dụng trong đêm Giáng sinh lại là những đồng tiền bất chính, làm ăn phi pháp, bóc lột xương máu và nước mắt của bao người lam lũ khổ đau…để biến bao nhiêu thân xác con người, nhất là các cô gái trẻ, các em bé… thành những món hàng, thứ đồ chơi mua vui. Đó là chưa kể đến những chàng trai cô gái muốn trở thành anh hùng xa lộ… lao vào những vòng đua nguy hiểm đe doạ chính sự sống của mình và của người dân vô tội khác.
Ngược với niềm vui bất chính và tội lỗi trên. Niềm an vui của đêm Giáng sinh mà Chúa mang đến là niềm vui có Thiên Chúa ở cùng. Đó là niềm vui miên man, chứa chan và thánh thiện dành cho tất cả những tâm hồn biết đón nhận Đấng ‘Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta’. Đó không chỉ là niềm vui đúng đắn mà còn là niềm vui cao sang, trang trọng, tràn đầy sức sống. Niềm vui mà chính thiên thần Chúa đã gọi tên là ‘Tin mừng trọng đại’, là ‘vinh danh Thiên Chúa’.
Niềm an vui có ‘Thiên Chúa ở cùng’ không chỉ là niềm vui phổ quát được trao ban cho tất cả những người thành tâm thiện chí mà còn là niềm vui có tính cách hết sức cá vị dành cho những con người cụ thể như Giuse, Maria, các mục đồng và các nhà đạo sĩ… Họ là những con người, những cá nhân, đã sẵn sàng mở rộng lòng đón nhận Đấng Emmanuel, đến cư ngụ trong tâm lòng và gia đình mình. Dù phải đối diện với bao khó khăn trắc trở, nhưng một khi nhận được tiếng Chúa mời gọi lên đường, họ đã sẵn sàng ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Trên đường đến hang đá Bêlem theo lời loan báo của các thiên thần, các mục đồng chỉ để ý đến ‘Hài Nhi Giêsu bọc trong tã đặt nằm trên máng cỏ’, chứ không để ý đến một mục tiêu nào khác. Khi đến nơi, các mục đồng cũng chỉ để ý đến Hài Nhi Giêsu như là trung tâm và đích điểm chuyến đi của mình. Gặp thấy Chúa Hài Nhi, các mục đồng tin rằng Ngài chính là ‘Tin Mừng cho toàn dân’ và là Đấng Cứu Độ mà họ đang mong đợi.
Thiện tâm của các mục đồng là như vậy. Ta hãy coi đó là mẫu gương thiện tậm. Nếu ta biết điều chỉnh tâm lòng, để luôn hướng về Chúa Giêsu và đặt ngài làm trung tâm mọi sự thiện của đời ta, thì ta sẽ đạt được niềm vui đích thực trong cuộc sống.
Ước mong rằng tất cả mọi người khi mừng lễ Giáng Sinh với lòng thành tâm thiện chí đều xứng đáng lãnh nhận niềm vui và sự bình an của Chúa Giêsu Hài Đồng. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu
----------------
LỄ GIÁNG SINH - LỄ RẠNG ĐÔNG
Lc 2, 15-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
15 Khi các thiên sứ rời những người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.”
16 Họ liền hối hả ra đi và gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
17 Thấy thế, họ kể lại điều họ đã được nghe nói về Hài Nhi này.
18 Tất cả những ai nghe đều ngạc nhiên về những gì các người chăn chiên nói cho biết.
19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy theo như họ đã được loan báo.
SUY NIỆM:
Thánh lễ Nửa Đêm cho ta chiêm ngưỡng khung cảnh Thiên Chúa đến với con người trong lịch sử nhân loại và ý nghĩa cứu độ của biến cố ấy. Còn bài Tin mừng của Thánh lễ Rạng Đông mang tính cách suy niệm, trình bày những người đầu tiên được chứng kiến Thiên Chúa làm người và phản ứng của họ trước tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ Maria, thánh Giuse và các người chăn chiên đại diện cho lớp người nghèo khó của nhân loại đã có những tâm tình nào khi đứng trước Tình Yêu nhập thể của Thiên Chúa ? Những việc làm của họ không những phản ảnh những tâm tình cá nhân, mà còn trở nên những mẫu gương giúp ta biết phải làm sao đáp lại tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
1) Hành trình đức tin tới Bêlem
Từ cánh đồng chăn chiên tới Bêlem khoảng cách không bao xa, chỉ vài ba cây số. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là hành trình ấy dễ dàng. Làm sao dám bỏ cả đàn chiên lại một mình ? Hơn nữa giữa đêm đông lạnh lẽo và tối tăm, đi lại thật ngại ngùng. Những người chăn chiên ở Do Thái ngày xưa không được liệt vào số những người tốt. Họ thường bị khinh dể vì nghề nghiệp, bị nghi oan là hay cái thói trộm cắp. Do đó, đối với họ “sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho biết” không phải là việc đơn giản. Điều sứ thần báo cho họ là một điều khó tin được. Đấng Cứu Độ là Đấng Kitô, là Đức Chúa mà lại là một trẻ sơ sinh bọc tã và nằm trong máng cỏ! Nhưng đó là dấu hiệu sứ thần đã nói cho họ biết. Dấu hiệu là cái giúp ta nhận ra một thực tại khác, thí dụ vương miện là dấu hiệu của hoàng đế. Nhưng ở đây, một trẻ sơ sinh nghèo nàn nằm trong máng cỏ bò lừa thì làm sao có thể là dấu hiệu của Đấng Cứu Độ, Đấng Kitô, Đức Chúa được!
Đức tin luôn đòi hỏi một thái độ liều lĩnh trong sự khiêm tốn chấp nhận thế giá của người khác. Điều các thiên sứ loan báo không thể tin được. Nhưng họ có đủ sự khiêm tốn để nhìn nhận quyền năng và tình thương của Chúa, nên họ xác tín điều sứ thần loan báo là điều chính “Chúa đã tỏ cho họ biết.” Như thế, từ lúc các thiên sứ nói với họ cho tới lúc rời họ, họ đã có một “bước nhảy vọt của đức tin,” liều lĩnh đi tới quyết định: “Nào ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.”
Tiếp theo quyết định là thái độ vội vã của họ. “Họ liền hối hả ra đi.” Chắc ta còn nhớ thái độ ấy của Mẹ Maria sau khi sứ thần truyền tin cho Mẹ đã được thánh sử Luca ghi lại: “Bà Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi” (Lc 1,39). Động lực của vội vã hối hả đều do lòng tin, hay nói khác đi, lòng tin đã khiến cho Mẹ Maria và các người chăn chiên nhận thấy không thể trì hoãn, nhưng cần phải mau chóng đáp trả.
Cuối cùng họ đã đến Bêlem và gặp được những gì sứ thần đã báo tin. Thánh Luca không ghi lại chút nào về cuộc gặp gỡ ấy. Có lẽ ngài muốn tôn trọng những riêng tư của mỗi nhân vật đang chăm chú hướng nhìn vào “Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.”
2) “Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”
Tột đỉnh hành trình đức tin của những người chăn chiên là ở đây. Ta thắc mắc không biết Bà Maria và ông Giuse đang chăm sóc cho Hài Nhi hay đang đắm mình trong suy tư và chiêm ngưỡng Hài Nhi ? Chắc là các ngài đang chiêm ngưỡng Hài Nhi, vì Hài Nhi đã được đặt nằm trong máng cỏ rồi. Tuy nhiên điều ấy không quan trọng. Ta nên hiểu dụng ý của thánh Luca khi ngài lập lại hai lần “hài nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12 và 16). Hình ảnh trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ chiên bò không phải là một hình ảnh lý tưởng. Nhưng thánh sử muốn ghi lại một biểu tượng vô cùng ý nghĩa. Máng cỏ là chỗ chứa đựng nguồn sống và lẽ sống của chiên bò thế nào, thì cũng là nơi đặt nằm Chúa Giêsu Hài Đồng, nguồn sống mới của nhân loại như vậy. Hiểu được ý nghĩa biểu tượng ấy, ta sẽ không còn ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu qua bài diễn từ của Người về bánh trường sinh trong hội đường Caphácnaum: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57).
Trong những giờ phút chiêm niệm này, cùng với Mẹ Maria và thánh Giuse, các người chăn chiên đang nhớ lại từng lời của sứ thần: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin mừng Trọng Đại, cũng là Tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” Bao nhiêu câu hỏi có thể đặt ra, nhưng giờ phút này không phải là lúc trả lời bằng trí óc, mà bằng những đầu gối quỳ phục bên Hài Nhi, để họ hoàn toàn sống sự hiện diện của Đấng Cứu Thế và sự hiện diện của chính họ.
3) “Họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này”
Từ chiêm niệm đi tới hành động, đó là con đường của đức tin. Đức tin được biểu lộ qua hành động. Các người chăn chiên hành động bằng cách kể lại câu truyện Hài Nhi Giêsu cho những người họ gặp tại miền đất Do Thái. Cũng như ngày nay ta nói trong Đại Hội Truyền giáo tại châu Á: chúng ta kể lại câu truyện Chúa Giêsu cho người dân châu Á. Đó là cách rao giảng Tin mừng, ngày xưa hay hôm nay thì cũng theo cùng một phương thức kể truyện. Dĩ nhiên không chỉ kể bằng lời, nhưng quan trọng hơn bằng cuộc sống hằng ngày.
Các người chăn chiên tiếp tục hành trình đức tin của họ. Họ “ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa.” Những nẻo đường họ đi qua, dù chỉ là nẻo đường quen thuộc trở về với bổn phận coi sóc đàn chiên, cũng sẽ là những nẻo đường để họ sống và biểu lộ lòng tin vào ơn cứu độ Thiên Chúa đã ban cho họ.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nhìn ngắm hang đá được trang hoàng tại nhà thờ hay tại nhà, tôi có chú tâm vào “Hài Nhi nằm trong máng cỏ” hay chỉ thấy hoa đèn rực rỡ ? Tôi có được dăm ba phút để suy niệm về những danh hiệu của Hài Nhi và ý nghĩa biểu tượng của máng cỏ không ?
Tôi sẽ kể câu truyện Chúa Giêsu cho những người tôi gặp, trong gia đình, nơi sở làm... như thế nào ?
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
SUY NIỆM: CHÚA GIÊ-SU LÀ ÁNH SÁNG CHIẾU SOI MUÔN DÂN
Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giuse dâng vào Đền Thánh, đưa chúng ta đi từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế. Ngôi Lời, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh ra và sống trong xã hội loài người, bị luật lệ loài người chi phối, theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” ( Lc 2, 23 ) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi : “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8). Ông Symêon người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là ” Ánh Sáng muôn dân ” (Lc 2, 32).
Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người “(x. Phụng vụ Byzantine).
Tại sao Con Thiên Chúa lại phải dâng cho Thiên Chúa và Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền phải chịu thanh tẩy?
Theo thánh Dimitri de Rostov: “Mẹ Thiên Chúa tiến vào Đền Thánh vâng theo Luật Chúa, tay bồng ẵm chính Đấng là Lề Luật. Mẹ là Đấng vô tội, tinh tuyền không tì vết đến xin điều mà Mẹ không cần là thanh tẩy. Mẹ không nhận lãnh sự khoái lạc sung sướng của phu quân, đã sinh con mà không đau đớn, Mẹ được gìn giữ tinh tuyền không tì vết trước khi sinh và sau khi sinh Đấng là nguồn suối trong sạch, há Mẹ lại không tinh sạch sao? Đức Kitô đã sinh ra từ lòng Mẹ! Quả không bị hư hoại bởi cây, cây không bị nhơ bẩn bởi quả : Đức Trinh Nữ Rất Thánh vẫn trinh khiết vẹn tuyền sau khi sinh hạ Đức Kitô, Con lòng Mẹ. Mặt Trời công chính không làm tổn thương sự đồng trinh của Mẹ. Lẽ thường, máu không làm ô uế Cửa thiên đàng theo luật tự nhiên, Thiên Chúa ngập tràn ánh sáng thần linh đã vượt qua Cửa này, gìn giữ sự đồng trinh của Mẹ”.
Thánh Phaolô nói: “Vậy bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, giống y như vậy, các điều ấy Ngài cũng đã thông chia, để giải thoát những kẻ vì sợ chết mà suốt cả bình sinh sa vòng nô lệ” (Dt 2,14-15). Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: ” Vì thiết tưởng không phải Thiên Thần được Ngài bao bọc, nhưng Ngài bao bọc dòng giống Abraham…Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,16-17).
Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu không buộc phải tuân theo nghi thức này, nhưng vì khiêm nhường và cũng để cho nhân loại noi theo mà tuân giữ luật Chúa, nhất là để cứu con người Chúa Giêsu đã làm điều đó, nên lễ này được gọi là Lễ Thanh Tẩy.
Hy Tế Cứu Chuộc
Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, mà chúng ta cử hành ngày 02 tháng 02 có một vị trí đặc biệt: vì lễ này loan báo Hy Tế Cứu Chuộc mang lại ơn cứu độ sau này. Đức Maria và thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, dù là Con Thiên Chúa, Đấng giầu sang phú quí để dâng vào Đền Thánh với của lễ đơn sơ là “cặp bồ câu non”! Đây là lần đầu tiên loan báo về Hy Tế Thánh. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người mạc khải cho chúng ta, việc dâng hiến này ám chỉ tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa Cha, qua trung gian cần thiết của Đức Trinh Nữ Maria đồng công cứu chuộc. Đây là Hy Tế đền tội hoàn hảo duy nhất cứu chuộc nhân loại. Lễ này là “bản lề” chuyển tiếp giữa hai mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền tin) và Cứu Chuộc (Phục Sinh). Chúa Giêsu đến trần gian (Nhập thể), để (Cứu chuộc) chúng ta.
Sao lại làm phép nến và rước nến hay gọi là Lễ Nến?
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Symêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái. Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Lời của cụ già Symêon nói : “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Quả thật, hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Symêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Symêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta…Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
SUY NIỆM: ĐÓN CHÚA GIÁNG SINH VỚI TÂM TÌNH NÀO?
Có lẽ sự nhộn nhịp của thánh lễ đêm hôm qua đã làm cho nhiều người cảm thấy rộn ràng, vui tươi và hạnh phúc. Nhưng bên cạnh đó cũng không thiếu những người cảm thấy mệt mỏi sau một đêm dài với biết bao nhiêu calo phải bỏ ra nơi những cuộc vui chơi, ăn nhậu và nhiều khi trụy lạc nơi những quán bar, nhà nghỉ…
Còn thánh lễ Giáng Sinh vào rạng sáng hôm nay, vẫn quen gọi là thánh lễ Rạng Đông thì lại là một thánh lễ rất êm đềm, không ồn ào, không náo nhiệt, không ca nhạc, kịch nghệ, chẳng có chương trình vui chơi giải trí gì…!
Đối tượng dự lễ cũng chỉ còn lại đa số là những cụ già, hay những người lớn tuổi hoặc một số bạn trẻ đạo đức mà thôi… còn lại, mọi người đang chìm trong giấc ngủ sâu!
Tuy nhiên, trong bầu không khí tưởng chừng như tĩnh lặng này, Giáo Hội lại cho chúng ta nghe bài Tin Mừng do thánh Luca trình thuật nói về việc các mục đồng hối hả đi tìm, thờ lạy và loan truyền về Hài Nhi Giêsu cho người khác. Điều này gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ?
Các mục đồng đi tìm Chúa như thế nào?
“Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2, 15).
Đây là lời của các mục đồng nói với nhau sau khi đã được các thiên sứ báo tin cho biết Đấng Cứu Thế đã giáng sinh trong thành Belem.
Thánh sử Luca cho biết thêm: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).
Như vậy, thánh lễ Rạng Đông của ngày Giáng Sinh giờ này có thể được gọi là lễ Chúa tỏ mình ra cho các mục đồng.
Tại sao Chúa lại không tỏ ra cho những người quyền cao chức trọng, giàu có hay những nhà lãnh đạo tôn giáo, mà lại tỏ ra cho các mục đồng là những người nghèo, đơn sơ chất phát, thấp cổ bé họng…
Thưa đơn giản, bởi vì nơi các mục đồng có điểm tương giao với Hài Nhi Giêsu.
Thật vậy, khi Con Thiên Chúa hạ sinh nơi cánh đồng Belem chốn bò lừa thanh vắng, quạnh hưu và nghèo khó như vậy, phải chăng Đức Giêsu đã phá cách để làm toát lên bản chất của Thiên Chúa là tình yêu khi không cần đến sự giàu sang của con người, nhưng Ngài muốn một sự gần gũi. Không cần đến cái bề ngoài, mà là sự thiêng thánh, chân thành và đơn sơ.
Đây chính là câu trả lời cho chúng ta biết tại sao các mục đồng và Hài Nhi Giêsu lại “Đồng thanh tương ứng”, và họ lại là người đầu tiên được diễm phúc chứng kiến Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh.
Sự đồng cảm này đã làm cho tâm hồn các mục đồng có một ngọn lửa yêu mến đến tha thiết, nên họ đã tỏ ra rất nhạy bén và tinh tế với những gì đã được các thiên sứ loan báo cho họ. Vì thế, giữa đêm tối âm u lạnh lẽo, họ đã đốt đuốc và hối hả ra đi để mong cho được sớm gặp thấy Hài Nhi mới sinh. Khi gặp thấy “Em Bé sơ sinh bọc tả nằm trong máng cỏ”, họ đã tin và nhận ra đó chính là: “Đấng Cứu Độ, là Đấng Kitô, là Đức Chúa” như thiên sứ đã báo.
Cũng trong tâm tình ấy, họ đã nghiệm được ra tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại mà chính họ là những người đầu tiên được tận hưởng ân lộc lớn lao đó, vì thế, sau khi đã ra về, họ luôn kể về những gì đã thấy cho anh em mình.
Con người hôm nay mừng lễ Giáng Sinh như thế nào?
Trên đây là tâm tình mừng Chúa Giáng Sinh của các mục đồng Belem, còn nhân loại và con người hôm nay mỗi khi lễ Giáng Sinh về, chúng ta đi tìm gì và đến với Chúa bằng tấm lòng nào?
Thực trạng thật cho thấy một sự trái ngược đến rõ nét giữa tâm tình và thái độ của các mục đồng thời xưa và con người ngày nay. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi những ngày trước lễ Giáng Sinh, nhiều người ưu tiên lo lắng cho những chuyện như: Giáng Sinh sắp đến rồi, chúng ta đã có tiền để mua đèn hoa trang trí chưa? Giáng Sinh năm nay chúng ta ăn gì, nhậu gì? Liệu có kiếm được món nào “độc” để đãi khách không?
Rồi đến chính đêm Giáng Sinh, nhiều người chủ yếu đi xem ca nhạc kịch, hay đèn hoa rực rỡ nơi các nhà thờ, khu phố…
Lựa chọn ưu tiên và hành động như thế, người ta đã biến lễ Giáng Sinh trở thành thời điểm mua sắm, ăn chơi hay như một lễ hội thuần túy!
Tuy nhiên, điều mà con người tưởng chừng như đem lại cho mình hạnh phúc, thì trên thực tế, hạnh phúc, niềm vui và bình an đích thực lại quá xa vời đối với họ, bởi lẽ những thứ họ tìm chính là những điều hoang tưởng hoặc chỉ là điều phụ thuộc bên ngoài.
Thật vậy, vui mừng sao được khi trong tâm không có sự chân thành. Hạnh phúc sao được khi sâu thẳm tâm hồn vẫn còn đó sự giận hơn chia rẽ. Bình an sao được khi trong tâm không có sự thánh thiện và đơn sơ!
Thiết nghĩ, khi mừng lễ Giáng Sinh với những thứ hình thức bề ngoài như vậy, chắc chắn họ sẽ không thể nào cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại. Và lẽ đương nhiên, họ không thể nào tin Chúa với một đức tin sống động như các mục đồng khi xưa, và lẽ tất yếu, không thể loan báo về Ngài cho người khác trong khi tâm hồn trống rỗng và hoang vu như vậy được.
Lời mời gọi của Giáo Hội
Mỗi lần lễ Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái mình hãy noi gương các mục đồng khi xưa để tìm gặp, yêu mến, tôn thờ và loan báo về Chúa cho người khác.
Nếu xưa kia, các mục đồng đã khao khát, hối hả lên đường, tới nơi họ gặp Hài Nhi Giêsu và đã sấp mình thờ lạy, đồng thời khi ra về, họ kể lại cho những người khác được biết về những gì đã thấy trong niềm tin sâu sắc.
Thì sứ điệp ngày lễ hôm nay cũng gửi đến cho mỗi người chúng ta là: hãy để mầu nhiệm tình yêu Giáng Sinh của Chúa đụng chạm đến tận sâu thẳm tâm hồn. Hãy biết yêu mến, khát khao và tin thờ Chúa, vì chỉ có Ngài là đường, là sự thật, là sự sống, nguồn cội của niềm vui, bình an và hạnh phúc. Đồng thời, hãy cảm nghiệm và ra đi loan báo về tình thương của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh cho anh chị em chưa biết Chúa.
Thứ đến, cần phải có một tâm hồn đơn sơ, chân thành, khó nghèo. Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận trở nên nghèo hèn để cho chúng ta được nên giàu có. Ngài cũng chấp nhận cúi xuống để tôn vinh con người bằng sự nhập thể của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa đã coi trọng đến tuyệt đối nhân phẩm và nhân vị của từng người, nhất là người nghèo. Thế nên, dù trong hoàn cảnh, môi trường nào, đời sống và cung cách của những Kitô hữu không thể trở thành người xa lạ, vô cảm, dửng dưng với một trái tim hóa đá đối với những anh chị em kém may mắn hơn mình.
Chỉ khi nào chúng ta có được tâm tình liên đới, yêu thương và huynh đệ với nhau, chúng ta mới thực sự hạnh phúc và bình an để cảm nghiệm và hát lên bài ca mà các sứ thần đã cất lên trong đêm Con Thiên Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Vẫn một tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, nghèo khó và xác tín mạnh mẽ như các mục đồng khi xưa, giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ, để chỉ lát nữa thôi, mỗi người cũng sẽ được đón nhận chính Chúa Hài Nhi Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vào trong tâm hồn của mình, để Ngài trở thành nguồn suối bình an, vui tươi và hạnh phúc cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin Chúa ban cho chúng con biết sống đơn sơ, trong trắng như các mục đồng khi xưa, để tâm hồn chúng con được diễm phúc đón Chúa đến viếng thăm và ở lại với chúng con. Amen.
Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
SUY NIỆM: TÔI BIẾT GÌ VỀ CHÚA GIÁNG SINH?
Đêm qua tôi đã long trọng cử hành lễ Giáng Sinh, thế nhưng tôi biết gì về ngày lễ đó?
– Biết nhiều lắm chứ! Tác giả Luca đã tường thuật khá rành rẽ; rồi hang đá các kiểu, hoạt cảnh hoành tráng bao lần tôi đã từng tổ chức hoặc dự khán… Chắc chắn là tôi biết gần như thuộc lòng sự kiện Chúa Giáng Sinh. Thế nhưng nếu phải kể cho một ai đó chưa biết gì về cái đêm ấy thì tôi sẽ nói gì đây? Cứ đặt mình vào trường hợp các mục đồng: ‘Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên’. Thế nhưng họ đâu chỉ kể về các điều họ đã được mục kích tại Bê-lem, vì tự nó chẳng có gì hấp dẫn cả: ‘họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ…’ Tuy nhiên ‘Ai nấy đều ngạc nhiên’ vì… ‘họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này’. Dầu rất đơn sơ chất phát, họ cũng đã biết vượt qua các sự kiện bên ngoài để nhận ra điều Chúa thật sự muốn cho họ biết. “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ ra cho ta biết”. Và điều tỏ ra đó quả thật là vô cùng trọng đại, vì nó liên quan tới hết thảy mọi người, tới toàn thể nhân loại: “Tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra!” Và ‘các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa’ vì đã được diễm phúc nhận biết: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Thế thì khi nói về Chúa Giáng Sinh tôi không thể không đề cập tới một Đấng Cứu Độ, một Thiên Chúa đầy lòng thương xót và từ nhân, một Thiên Chúa tha thứ và cứu vớt. Việc ‘một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm trong máng cỏ’, cho dầu bên ngoài có vẻ tầm thường, nhưng lại là một dấu chỉ không thể sai lầm để nhận ra ‘cái thứ’ Thiên Chúa đó. Dấu đó quả thực là tài tình và hữu hiệu: thương xót từ nhân phải đi đôi với đơn sơ thấp hèn, tha thứ cứu vớt phải thật gần gũi và bình dị. Tự thâm tâm mình, đôi lúc tôi cũng có cảm giác khó chịu về cái thấp kém và nghèo nàn của hang Bê-lem. Chẳng vậy mà, ngay tại chính máng cỏ thấp hèn xưa nơi Hài Nhi đã từng nằm, khách hành hương vẫn muốn nhìn thấy một ngôi sao bạc lấp lánh trên nền cẩm thạch quí giá… để làm cho nó thêm tôn nghiêm trang trọng là gì! Nghèo hèn chỉ là gượng ép, hoặc cùng lắm là lãng mạng đối với một Đấng Thiên Chúa cao sang, nhưng lại thật tự nhiên và xứng hợp đối với Thiên Chúa đầy từ nhân và hay thương xót. Các mục đồng đơn sơ chất phác dễ dàng nhận ra điều này, trong khi các bậc quyền quí lại không. ‘Họ ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ’.
Tới trước hang Bê-lem ngay cả các tín hữu cũng được phân làm hai nhóm: nhóm một gồm những người chỉ muốn nhìn thấy một Thiên Chúa vinh quang, tạm ẩn dấu trong hình hài bé thơ, nhưng đòi phải được thờ lạy kính tôn cách trọng vọng, còn nhóm thứ hai sẽ gồm những ai nhìn vào ‘trẻ sơ sinh… nằm trong máng cỏ’ để nhận ra lòng từ nhân vô hạn của Thiên Chúa cứu độ, và do đó sẽ mừng vui hớn hở ca tụng Người trong chính sự thấp hèn nhỏ bé của Hài Nhi. Maria, Giu-se và các mục đồng thuộc nhóm thứ hai này, như Luca đã muốn mô tả họ như thế. Như vậy điểu mà Thánh Sử Gioan đã từng khẳng định: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà không nhận biết Người” không chỉ mang ý nghĩa luân lý của hai hạng người tốt xấu, nhưng còn chứa đựng một nội dung Tin Mừng hơn nhiều: nhận biết hay không nhận biết lòng thương xót từ nhân của Thiên Chúa, được thể hiện nơi ‘Ngôi Lời mặc lấy xác phàm’. Nếu Người đến trong vinh quang huy hoàng của công lý và quyền uy có lẽ người ta sẽ dễ đón tiếp hơn trong suy tôn và kính sợ, đàng này người lại chọn đến trong nghèo hèn của nhân từ và tha thứ, và thế là người ta dễ coi thường, quên lãng. Sau này chính đức Giê-su đã phải thốt lên: “Con xin ngợi khen Cha, vì đã dấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10:21). Phải đúng như thế, những người thông thái khôn ngoan ưa nhìn xem những gì là hợp lý, và nhận ra ngay Thiên Chúa trong sự vinh quang cao cả; còn kẻ bé mọn, nhất là tội lỗi thấp hèn, mới dễ cảm nhận lòng từ ái của Thiên Chúa cứu độ. Họ là những người gần gũi và thoải mái với ‘trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ’ hơn.
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó!” (Mt 5:3). Vậy thì tôi thuộc nhóm nào?
Lạy Hài Nhi Giê-su nằm trong máng cỏ, mỗi khi con chiêm ngắm ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm’, xin cho con có khả năng được ‘nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người,’ thứ vinh quang mà chỉ những con người bé mọn mới được mạc khải cho biết. Xin cho con biết, như Mẹ Maria tại Bê-lem, ‘suy đi nghĩ lại trong lòng’ về tình yêu thương xót và lòng nhân ái vô biên của Thiên Chúa qua hình ảnh ‘trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm trong máng cỏ’, để trong mừng vui và bình an, con cũng có thể chân thành cất lên bài ca ‘Ngợi khen – Magnificat’. A-men
Lm Gioan Ty SDB
-----------------
LỄ GIÁNG SINH - LỄ BAN NGÀY
Ga 1,1-18
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
(1) Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. (2) Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. (3)Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành. (4) Ðiều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. (5) Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. (6) Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. (7) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. (8) Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. (9) Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. (10) Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. (11) Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. (12) Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (13) Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. (14) Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. (15) Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố: "Ðây là Ðấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi." (16) Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. (17) Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Ðức Giêsu Kitô mà có. (18) Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
SUY NIỆM: LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
LỄ GIÁNG SINH – Lễ Ban Ngày
SUY NIỆM: CHÚA GIÊSU - ÁNH SÁNG THẾ GIAN
Cứ mỗi độ giáng sinh về, thì khắp phố phường, khu xóm của các xứ đạo lại tràn ngập trong ánh sáng. Các mô hình hang đá, cây thông, sao lạ và đèn điện muôn màu muôn sắc, tạo nên 1 vùng ánh sáng lung linh huyền ảo. Nhiều nơi có những cây thông siêu to khổng lồ, vươn mình giữa thinh không cao vút, cùng với ngôi sao vươn vút lên tận trời cao. Hai bên với những ánh đèn đủ màu đủ sắc làm rực sáng cả 1 ngôi giáo đường, mà ai đi qua cũng phải trầm trồ khen ngợi.
Nhưng thưa anh chị em, tuy hoành tráng vĩ đại như thế, tuy lung linh rực rỡ như thế, nhưng đó chỉ là những ánh sáng hào nhoáng bên ngoài, có đó rồi mất đó. Ánh sáng ấy chỉ làm thỏa mãn thị hiếu của con người, chứ chẳng mang lại giá trị thiêng liêng gì.
Dù ngôi sao có cao đến hàng chục mét, dùng cây thông có chọc vút trời, dù đèn điện có đầu tư đến hàng chục hàng trăm triệu đi chăng nữa, thì chúng cũng không phải là ánh sáng chủ đạo của ngày lễ Giáng sinh, bởi ánh sáng chủ đạo của ngày lễ Giáng sinh là Chúa Giêsu Hài Đồng, vì Ngài mới chính là Ánh Sáng cứu độ muôn dân.
Đây là điều mà trong Thánh Gioan đã khẳng định với chúng ta. Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta (x.Ga 1,14). Ngài chính là Ánh Sáng cho nhân loại, Ánh Sáng chiếu soi cho mọi người (x.Ga 1, 11). Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Do Thái cũng khẳng định với chúng ta như thế. Chúa Giêsu chính là Ánh Sáng phản ánh vẻ huy hoàng của Thiên Chúa. Ánh Sáng ấy đã khai sinh nên vũ vụ và xua tan bống tối tội lỗi, đang bao phủ trên nhân loại chúng ta.
Hôm nay Mẹ Giáo Hội nhắc cho chúng ta nhớ lại chân lý nền tảng này, và cảnh giác chúng ta rằng, đừng để cho những ánh sáng vẻ đẹp hào nhoáng bên ngoài của ngày lễ Giáng sinh lôi cuốn và đánh lừa chúng ta, làm chúng ta quên rằng, Chúa Giêsu mới chính là Ánh Sáng của cuộc đời mình.
Chúa Giêsu là Ánh Sáng cứu độ muôn dân. Điều này cần lắm cho người tín hữu chúng ta hôm nay thưa anh chị em. Bởi nhân loại hôm nay đang rơi vào 2 vực thẳm bóng tối này:
Thứ nhất là bóng tối của cuộc đời. Bóng tối này được tạo nên bởi đau khổ bệnh tật mà chúng ta đang đối diện. Chắc ít là một lần anh chị em đã từng cảm nhận về điều ấy, dường như đau khổ bệnh tật gắn liền với phận người của chúng ta. Hết biến cố này rồi đến biến cố nọ, có lúc xảy ra nơi chính bản thân, có lúc xảy ra với những người thân yêu trong gia đình mình. Rồi còn có những nỗi đau không sao nói được: để trong lòng thì lòng nặng, nói với người thì sợ người cười. Nhiều lúc khiến ta sụp đổ tuyệt vọng, không biết bám víu vào đâu, không sao tìm được cho mình một tia sáng của hy vọng.
Thứ hai là bóng tối của tội lỗi. Bóng tối này được dệt nên bởi những đam mê dục vọng, bởi lối sống xa hoa hưởng thụ, chạy theo hào nhoáng của vật chất. Là những bậc làm cha mẹ, chắc anh chị em đã lo lắng rất nhiều cho con cái mình, trước những cạm bẫy và cám dỗ này. Nhưng oái ăm thay, dẫu biết là cạm bẫy, biết là bóng tối của sự chết, nhưng nhiều người trẻ hôm nay cứ thích lao đầu vào: xì ke ma túy, cá độ bài bạc, sống chung sống thử, nạo phá thai; để rồi say sưa mù tối trong lạc thú, không sao tìm được cho mình con đường để quay trở về. Đó chưa kể là bỏ lễ lạy, bỏ xưng tội lâu năm, bỏ nhà thờ và bỏ luôn cả đạo.
Thưa anh chị em, khi đối diện với bóng tối cuộc đời là đau khổ bệnh tật, hay là những khó khăn bế tắc trong cuộc sống, anh chị em đừng quên chúng ta có Chúa Giêsu là Ánh Sáng là Vầng Đông tự chốn cao vời đã đến viếng thăm ta. Ngài sẽ soi sáng những ai ngồi trong đêm tối, và dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.
Cũng vậy, khi đối diện với bóng tối của tội lỗi là những cám dỗ và cạm bẫy, anh chị em càng phải bám thật chặt vào Chúa Giêsu là Ánh Sáng soi đường. Chỉ có như thế, anh chị em mới phân biệt được cái gì tốt, cái gì hoàn hảo, cái gì đẹp ý Chúa, mà chọn lựa.
Tóm lại, mừng sinh nhật Chúa hôm nay, Giáo Hội nhắc cho chúng ta nhớ rằng, Hài Nhi Giêsu bé nhỏ đang nằm trong máng cỏ chính là Ánh Sáng cứu độ đời ta. Những ai bước đi trên đường Ngài chỉ vẽ thì sẽ đạt đến ơn cứu độ đời đời.
Và để kết thúc, chúng ta cùng lắng nghe lại những lời này từ chính miệng Chúa Giêsu: “Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống." (Ga 8,12). Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM: TẠI SAO THIÊN CHÚA XUỐNG THẾ LÀM NGƯỜI?
Thánh Phanxicô Assissi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự hỏi: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng”.Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thốt lên lời thán phục: “Thiên Chúa quá cao cả đến nỗi Người có thể trở nên bé nhỏ, quá toàn năng đến nỗi có thể trở nên yếu kém và để gặp gỡ ta như một đứa trẻ không có bảo vệ để ta có thể yêu mến Người”.
Tất cả ý nghĩa của lễ Giáng Sinh đều xoay quanh một đứa trẻ. Hài Nhi ấy là Thiên Chúa đã thật sự làm người, đã thật sự sinh ra trong hình hài một đứa trẻ, với cha mẹ là Giuse và Maria.Và đó là Tin Mừng mà thiên sứ đã trao cho những người chăn chiên: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,10-11). Tin Mừng sứ thần loan báo cho các mục đồng tại làng Bêlem năm xưa thực sự là Tin Mừng cho nhân loại mọi nơi và mọi thời.
Thiên Chúa siêu việt đã trở thành một con người.Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy đã hiện thân nơi một đứa trẻ bé bỏng mong manh, bọc tã, nằm trong máng cỏ.
Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người?
Kinh Tin Kính Công đồng Nixêa (năm 325) đã trả lời: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo đã đưa ra 4 lý do: là để cứu độ chúng ta, là để giúp chúng ta nhận ra tình thương của Chúa, là để trở thành mẫu mực thánh thiện cho chúng ta và là để chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (GLCG số 457-460).
– Thiên Chúa sinh xuống làm người là để cứu độ loài người
Các thiên thần báo tin cho các mục đồng tại Bêlem: “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, cũng là tin mừng cho cả toàn dân : hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi trong thành vua Đavít” (Lc 2,10-11). Thánh Gioan tông đồ viết : “Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng Cứu Độ thế gian” (1Ga 4,14).
Từ nay,Thiên Chúa không còn đến với con người qua trung gian mà là Con Một được tặng ban cho nhân loại. Tình yêu Thiên Chúa không chỉ là lời hứa mà bằng chính nghĩa cử cao đẹp Ngôi Lời nhập thể. Từ nay, lời hứa cứu độ đã được thực hiện nơi Một Hài Nhi đã sinh ra. Lời hứa ngọt ngào từ thưở địa đàng khi Nguyên Tổ sa ngã đánh rơi khỏi tầm tay trái táo hạnh phúc (St 3,15). Rồi trải qua hàng ngàn năm bằng sự loan báo của các Ngôn sứ, Thiên Chúa vẫn mãi lời hứa tình yêu cứu độ.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
– Thiên Chúa sinh xuống làm người để giúp con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa.
Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai thấy được và do đó con người cũng khó nhận ra tình yêu của Người. Vì thế thánh Gioan viết tiếp: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9).
Nếu tội tổ tông gây tác hại là làm mất tình trạng ơn phúc và để cho tội lỗi lẻn vào thế giới, từ đó đau khổ và sự chết mặc sức hoành hành. Hài Nhi Giêsu sinh đến trong xác phàm lại là khởi đầu một mùa giải thoát. Hết rồi đêm tối vì Hài Nhi là ánh sáng. Hết rồi lỗi tội vì Hài Nhi là thánh ân. Hết rồi chết chóc vì Hài Nhi là nguồn sống. Hết rồi sầu muộn vì Hài Nhi là thiên đàng. Như vậy, khi xuống thế, Thiên Chúa đã đem thiên đàng vào cõi trần gian, để mối tình trời đất bị cắt đứt bao đời lại được kết nối một cách mầu nhiệm cho vinh danh trời cao và cho an bình dưới thế.
Tình yêu Thiên Chúa được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha (Ga 14,10). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.
Trong ba năm rao giảng công khai, Ngài đã luôn gần gũi với những người nghèo hèn trong xã hội, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền của họ và ưu tiên rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho những người bé nhỏ, những người bị bỏ rơi. Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó, sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó. Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hãi. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Nadarét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các môn đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Giakêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Samari để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Mađalêna, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phaolô kẻ bắt bớ Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại…Ngài chính là Thiên Chúa yêu thương.
– Thiên Chúa sinh xuống làm người để trở thành mẫu mực thánh thiện cho con người
“Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri” (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa “Ai thấy Thầy là thấy Cha“. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha nhân hậu giàu lòng xót thương.
Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chúa Giêsu đã dạy con người phải sống thánh thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Chúa Giêsu, một con người thánh thiện không có một dấu vết tội lỗi nào. Chính Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống đã làm người, giống chúng ta mọi phần, chỉ trừ tội lỗi. (Dt 4,15). Ngài dạy cho nhân loại con đường thánh thiện, và nêu gương thánh thiện. Vì thế, Ngài đã có thể nói: “Hãy học cùng tôi” (Mt 11,29). Khuôn mẫu thánh thiện mà Ngài để lại cho chúng ta được biểu lộ một cách rõ ràng qua tình yêu của Ngài đối với chúng ta, vì tình yêu là cốt lõi của lề luật. Vì thế Ngài dạy rằng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Nơi Thiên Chúa, tình yêu và sự thánh thiện là một, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu và đồng thời cũng là Đấng Thánh.
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11,3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu.
– Thiên Chúa sinh xuống làm người để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Thánh Irénée đã nói về Đức Kitô rằng: “Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở thành như Người”. Đó không phải là một sự thần hóa thật sự và trọn vẹn trong Con Thiên Chúa nhập thể sao? Về sau, Clément (Alexandrie) và Grégoire (Naziance) đã làm biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Nhà thần học Karl Rahner viết: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”, để con người trở thành con Thiên Chúa, với món quà tuyệt vời: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” ( 2Pr 1,4).
Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện. Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại. Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Ngôi Lời làm người mang lấy bản tính nhân loại và làm cho bản tính ấy được thông phần bản tính Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa, Ngài đã tự nguyện sinh ra làm con loài người để loài người trở thành con Thiên Chúa nhờ kết hợp với Ngài. Từ khi xuống thế làm người, Con Thiên Chúa đã tự đồng hóa mình với mỗi người trong nhân loại. Từ đây, phẩm giá của con người được nhìn nhận không chỉ vì họ là con người vượt trên mọi loài, nhưng còn vì họ là con Thiên Chúa.
Tin Mừng Giáng Sinh nâng cao phẩm giá con người ngay từ khi được cưu mang trong dạ mẹ và vừa mới sinh ra. Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta sẽ học được nhiều bài học về Sự Thật, Tự Do, Công Lý, Hoà Bình và Tình Thương. Hài Nhi Giêsu đã mở ra triều đại của Công Lý Tình Thương trên “nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,5-6). Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau. Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại.
Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang… Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi Nhà Thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn mầu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời.
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương’’
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM: LỄ GIÁNG SINH
Tin mừng thứ tư được mở đầu bằng một bài thánh ca mang âm hưởng như một bản nhạc giao hưởng. Chắc hẳn, để viết nên bản giao hưởng thánh ấy, Thánh sử Gioan, vốn được mệnh danh là người môn đệ Chúa yêu, ngoài tài năng của một văn sỹ, còn là một con người có trái tim chan chứa yêu thương. Có thể nói, với lối trình bày gãy gọn và xúc tích, tác giả -cách nào đó, đã tuyên xưng phả hệ thần linh của Chúa Kytô. Lễ Giáng Sinh là dịp thuận tiện để chúng ta tuyên xưng Ngôi Lời chính là Thiên Chúa từ muôn muôn thuở, nay trở thành xác phàm đến cư ngụ giữa lòng nhân loại.
Nguồn gốc huyền nhiệm của Ngôi Lời.
Thánh sử Gioan đã nối kết việc Ngôi Lời (Logos) đến giữa nhân loại khai mở cuộc tạo thành mới như những trang đầu của sách Sáng thế. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy, trong sách Sáng thế, Giavê Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ trong 6 ngày, ngày thứ 7, Người nghỉ ngơi. Ngôi Lời của Thiên Chúa cũng bắt đầu những sinh hoạt công khai của mình trong 6 ngày và kết thúc bằng phép lạ tại tiệc cưới Cana (x. Ga 1, 19-2,1-12). Điều đó cho thấy, Ngôi Lời từ muôn thưở đã hiện hữu và nhờ có Người, vạn vật mới được hình thành. Thánh Gioan đã dùng động từ “Ẽn” (đã có) để nói rằng từ thuở đời đời, Ngôi Lời đã hiện hữu, một sự hiện hữu vô tận, không chịu sự hạn định của thời gian.
Ngôi Lời không chỉ có từ trước muôn thuở, Người còn được giới thiệu như một người Con luôn hướng về Cha mình. Sự “hướng về” đó cho thấy Ngôi Lời luôn sống mật thiết và vĩnh cửu với Chúa Cha giống như hai người thân luôn hướng về nhau và luôn hiện diện bên nhau. Điều này được thể hiện rất rõ trong suốt cuộc đời trần thế của Chúa Kytô. Tất cả những biến cố xảy ra trong cuộc đời của Người, luôn có dấu ấn của Chúa Cha. Người luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, luôn trò chuyện, chia sẻ và tâm sự với Cha của Người.
Ngôi Lời đến trong thế gian
Có thể nói Ngôi Lời đến với thế gian bằng nhiều lần và bằng nhiều cách chứ không phải đợi đến khi Người sinh ra nơi hang đá Bêlem. Nhìn vào lịch sử cứu độ, chúng ta sẽ thấy Ngôi Lời đến trong thế gian ngay khi bắt đầu công cuộc tạo dựng. Nếu không có sự hiện diện của Người, chắc chắn vạn vật sẽ không được hình thành. Gioan đã xác nhận rất rõ điều này. Lần đó, không một ai biết sự hiện diện của Người. “Thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người” (1,10); Người cũng đến với “nhà của Người”. Nhà đó chính là dân tộc Dothái mà Người đã chọn làm dân riêng. Lần đó, Người đến trong Lề luật, trong lời của các Ngôn sứ,… để đồng hành với dân tộc này. Nhưng tiếc thay, dân tộc mà Người ưu tuyển chẳng chịu đón nhận Người (1,11); và cuối cùng, Người đến khi mặc lấy xác phàm và ở giữa lòng nhân loại. Người đến trong thân phận của một Hài nhi được hạ sinh trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn và nghiệt ngã: sinh ra trong máng cỏ hang lừa nơi đồng không hiu quạnh và lạnh lẽo. Lần này, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”.
Ngôi Lời Thiên Chúa đến giữa lòng nhân loại, ở với nhân loại và “cắm lều” giữa lòng nhân loại. Ngày xưa, Giavê Thiên Chúa ở giữa dân Người trên đường từ Aicập về miền đất hứa. Ngày đó, Người hiện diện trong Lều tạm- đó là dấu chỉ cho thấy Giavê Thiên Chúa luôn ở cùng nhân loại. Ngày nay, Thiên Chúa ở giữa dân Người một cách gần gũi và thân mật. Thiên Chúa hiện diện dưới hình hài của một Hài nhi trong ngày Giáng sinh. Người hiện diện, mặc lấy xác phàm hữu hình để ở giữa loài người, đồng hành với con người hầu đưa con người về với Thiên Chúa.
Quà tặng vô giá mà Thiên Chúa muốn ban tặng nhân loại chính là việc cho Ngôi lời nhập thể, mang lấy thân phận mỏng dòn, yếu đuối của nhân loại. Người đến để chia sẻ với con người, để đồng hành với con người trong mọi hoàn cảnh. Người đến để yêu thương, để gánh lấy tội lỗi của nhân loại và cuối cùng chấp nhận hy sinh thân mình vì nhân loại.
Mừng lễ Giáng sinh, chúng ta không chỉ kỷ niệm một biến cố quan trọng đã xảy ra trong lịch sử nhân loại cách đây hơn 2000 năm, biến cố “Ngôi Lời trở thành xác phàm” và cư ngụ giữa lòng nhân loại; mà còn là dịp để mỗi người chúng ta nhận ra chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa trong dòng lịch sử, trong chính cuộc đời của mỗi người. Lạy Đấng Emmanuel, xin hãy đến và ở cùng chúng con luôn mãi!
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
SUY NIỆM: LỜI CỦA THIÊN CHÚA Ở VỚI CON NGƯỜI
Thiên Chúa đã đến và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa đã nói với chúng ta một lời trọn vẹn, một lời gói trọn cả tình yêu bao la. Lời của Thiên Chúa đã trở thành người và ở giữa chúng ta.
Trong bài đọc một, tác giả thư gửi tín hữu Do thái đã nhắc lại cho chúng ta: Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con. Vâng, Thiên Chúa đã nói với con người quá nhiều lần qua các sứ giả của Ngài. Giờ đây, Ngài muốn nói với con người một lời cuối cùng, chỉ một lời thôi, một lời mang trọn vẹn những gì Ngài muốn nói với con người, một lời tràn đầy yêu thương, một lời gói trọn cả trái tim và quyền năng của Đấng Tạo Hóa dành cho loài thụ tạo là mỗi chúng ta.
Trong bài Tin Mừng, thánh sử Gioan đã quảng diễn: Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa… Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta. Vâng, Lời đã trở thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Lời ấy của Thiên Chúa không chỉ là một lời nói đầu môi chót lưỡi, nhưng là một lời được diễn tả bằng mọi cung bậc của cuộc sống; Lời ấy sống động ở giữa nhân loại; Lời ấy là Giê-su; Mọi hành vi cử chỉ, cảm xúc, lời nói của Giê-su đều diễn tả Lời ấy của Thiên Chúa; Lời ấy nói rằng: Hỡi con người, Ta yêu ngươi. Cả cuộc đời nơi trần thế của Chúa Giê-su, từ Giáng sinh cho đến tử nạn trên thập giá, chỉ là một Lời mà Thiên Chúa muốn nói với con người. Một Lời dứt khoát và trọn vẹn.
Lời ấy được bắt đầu vang lên không phải trong một khung cảnh uy nghi tráng lệ, không phải trong một nghi thức hoành tráng, cao sang; Nhưng Lời ấy bắt đầu từ một khung cảnh âm u mù tối, trong nơi ẩm mốc của hang đá lạnh lẽo, giữa đồng không mông quạnh. Lời ấy không được vang lên bởi môi miệng của một người cao to vạm vỡ, cao sang đầy quyền lực; Nhưng Lời ấy được cất lên bởi tiếng khóc oe oe non nớt của một trẻ thơ vừa hạ sinh. Một tặng phẩm không được đặt trên mâm vàng đĩa ngọc, không được bọc trong lụa là gấm vóc; Tặng phẩm ấy lại được đặt trong máng cỏ hèn hạ của con chiên con bò. Vâng, Lời Thiên Chúa đã được vang lên từ trong khóc khuất của cuộc đời. Nhưng Lời ấy mang trong mình một ngọn lửa rực cháy tình yêu của Thiên Chúa, một Lời nồng nàn tràn đầy sức sống; Lời ấy là hạt nhân lan tỏa sức sống và lửa mến đến mọi phần tử xung quanh. Hơi ấm của Hài Nhi Giê-su đã lan tỏa tới trái tim của Mẹ Maria, tới Thánh cả Giuse, tới các mục đồng, tới Ba vua, tới các dân tộc; và hơn hai nghìn năm sau, hơi ấm ấy của Hài Nhi Giê-su đã chạm tới trái tim của tôi, trái tim của bạn, tới trái tim của mỗi người chúng ta.
Lời của Thiên Chúa luôn tràn đầy sức sống. Thánh Gioan viết: Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành. Lời Thiên Chúa có sức sáng tạo, làm cho từ hư vô trở nên hiện hữu. Lời Thiên Chúa có sức làm cho mọi thứ trở nên tươi đẹp. Lời ấy nay đã trở nên xác phàm và ở giữa chúng ta.
Cũng như các mục đồng được thiên thần báo tin cho biết để đến gặp Hài Nhi Giê-su, đến gặp Ngôi Lời của Thiên Chúa; chúng ta cũng được mời gọi đến gặp gỡ Giê-su nơi máng cỏ. Sự gặp gỡ Lời của Thiên Chúa giúp cho tâm hồn chúng ta được biến đổi, cho tâm hồn ta được ấm lại, được triển nở và khai sinh những hoa thơm quả ngọt. Lời ấy ngự trị trong tâm hồn tôi, làm xua tan những nghi ngờ, hiềm thù, ghen ghét trong tôi. Lời ấy dẫn lối mở đường cho tôi bước đi trong bình an. Lời ấy giúp tôi biết nói những lời hay ý đẹp, những lời nói xây dựng hòa bình, xây dựng tình thương, biết nói những lời ấm áp tình người và mang sức sống của tình Chúa.
Ước chi dịp lễ Giáng sinh luôn là cơ hội để mỗi người chúng ta gặp gỡ Chúa Giê-su, bởi Ngài chính là Lời của Thiên Chúa.
Nguyện xin hơi ấm Hài Nhi Giê-su nơi máng cỏ luôn sưởi ấm trái tim con mọi ngày trong cuộc sống.
Lm. Giuse Lê Danh Tường
SUY NIỆM: NƠI TÌNH YÊU BẮT ĐẦU
“Ta quen nhau đã bao lâu rồi” mà tại sao “Giọt buồn hoài vương trên môi mặn đắng?” Thưa bởi vì tình yêu đó mãi là giấc mơ. Vì vậy tác giả van xin “Này mùa đông ơi xin hãy làm tuyết rơi” Để làm chi? “Để chắn lối em anh về”, để cho em vì lạnh quá nên cần đến anh. Trong giấc mơ của nhạc sĩ Tiến Minh, mùa đông, nơi tuyết rơi là “nơi tình yêu bắt đầu”,vì nơi đó người ta cần đến nhau, người ta gặp gỡ nhau, người ta trao cho nhau hơi ấm để xóa tan giá lạnh của mùa đông.
Giáng Sinh năm nay, miền Nam Việt Nam thực sự cảm nhận được một mùa đông, vì lâu lắm rồi mới có cái lạnh đến xé da cắt thịt trong mùa Giáng Sinh. Trong mùa đông này chúng ta sống lại câu chuyện tình cách đây hơn 2000 năm tại cánh đồng Bêlem. Có thể nói Bêlem là “nơi tình yêu bắt đầu”, vì ở đó “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14a).
Thế nhưng “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga1, 11). Tình yêu đã được trao ban, nhưng con người đã từ khước. Vì con người từ khước Tình Yêu nên Con Thiên Chúa mới giáng sinh trong hang bò lừa giữa trời đêm đông giá rét, nơi cánh đồng hoang vắng. Vì con người từ khước Tình Yêu nên thánh Giuse phải dẫn Đức Maria bồng Hài Nhi Giêsu trốn sang Ai Cập để trốn sự truy sát của vua Hêrôđê. Sau cùng, vì từ khước Tình Yêu mà con người đã đóng đinh Đức Giêsu trên thập giá. Vì vậy có thể nói đối với một số người “nơi tình yêu bắt đầu” cũng là chỗ tình yêu kết thúc. Kết thúc vì sự ích kỷ, ghen tuông, cố chấp của con người.
Thời tiết ở Việt Nam năm nay lạnh hơn mọi năm, nhưng xã hội Việt Nam ngày càng nóng hơn bởi những vụ án khủng khiếp. Nào là bà giết cháu vì mê tín dị đoan ở Thanh Hóa, vợ chồng xung đột dẫn đến bạo lực và hậu quả là vợ giết chết chồng ở Bình Dương ; nào là nhiều vụ trẻ em bị bạo hành ở khắp nơi ; nhiều vụ học sinh đánh nhau một cách dã man; chưa kể đến hàng loạt vụ án tham ô, chiếm đoạt tài sản mà phạm nhân là những lãnh đạo cấp cao… Cái nóng của xã hội đó càng làm cho tâm hồn thêm lạnh, vì thay vì tình yêu bắt đầu để sưởi ấm con tim, thì nó đã kết thúc bởi sự vô cảm của con người.
Trong y học không có bệnh vô cảm. Đó là căn bệnh của cách hành xử, căn bệnh của lối sống. Lời dạy của cha ông ta “Thương người như thể thương thân”từ lâu đã trở thành đạo lý của người Việt Nam. Tính nhân văn, lòng nhân ái phải là ngọn lửa sưởi ấm, là ánh sáng trong cuộc đời mỗi con người, mỗi gia đình cũng như toàn xã hội. Thế nhưng ngày nay, bên cạnh nhiều nét đẹp vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống của chúng ta với những con người luôn biết cống hiến, đồng cảm, chia sẻ, cưu mang, giúp đỡ người khác, thì cũng có không ít kẻ sống ích kỷ, vô trách nhiệm, vô cảm, vô đạo đức. Vô cảm chính là sự trơ lì cảm xúc, dửng dưng, thờ ơ, “máu lạnh” với những hiện tượng đời sống xung quanh, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân. Ra đường gặp cái đẹp không mảy may rung động; gặp cái tốt không ủng hộ; thấy cái xấu, cái ác không dám lên án, không dám chống lại…
Điểm nóng đó cũng đã ảnh hưởng đến đời sống gia đình, làm cho biết bao những gia đình phải tan vỡ hoặc gặp rất nhiều khó khăn. Thật trớ trêu khi những điểm nóng của xã hội lại làm cho gia đình lạnh tanh, rét buốt. Tiếp tục quan tâm đến đời sống gia đình, Giáo hội Việt Nam đã chọn chủ đề cho năm 2018 là “Đồng hành cùng các gia đình trẻ”; để giúp họ hiểu rằng: “hôn nhân là một hành trình dài, trong đó mỗi người phải gạt đi những ảo tưởng để đón nhận bạn đời của mình như họ là, cùng nhau nên hoàn thiện hơn mỗi ngày; hành trình này đòi hỏi sự kiên nhẫn, hiểu biết, hy sinh và quảng đại”. Nói tóm lại khi người ta biết yêu thương, biết quan tâm, biết mưu cầu hạnh phúc cho người khác thì chính tâm hồn của họ sẽ hạnh phúc, và gia đình, xã hội cũng sẽ hạnh phúc.
Mặc dù có vài nơi, vài người tình yêu đã kết thúc, nhưng rất nhiều người, rất nhiều nơi lấy mầu nhiệm Giáng Sinh làm “nơi tình yêu bắt đầu”. Ngày xưa các mục đồng là đại diện cho những người nghèo đã ấm lòng hơn khi đến kính viếng Hài Nhi Giêsu và chắc chắn chính họ đã loan truyền việc “một hài nhi giáng sinh”cho những người dân trong vùng. Các đạo sĩ phương đông cũng đã đến bái lạy Hài nhi Giêsu nhờ ngôi sao lạ, và khi trở về đất nước mình, chắc chắn họ cũng đã loan báo tin vui đó. Vì vậy mầu nhiệm Giáng sinh là nơi tình yêu bắt đầu.
Mùa Giáng sinh năm nay, mỗi người, mỗi gia đình chúng ta cũng hãy trở thành“nơi tình yêu bắt đầu” khi chúng ta cảm nhận được cái lạnh của thời tiết, cái lạnh của tâm hồn để chúng ta khắc phục bằng ngọn lửa tình yêu. Nhờ cái lạnh của thời tiết mà chúng ta thấy được có nhiều người già và trẻ em, nhiều gia đình khó khăn đang cần hơi ấm. Hãy bắt đầu bằng việc yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ cho những người nghèo đang sống chung quanh chúng ta. Nhờ cái lạnh của tâm hồn mà chúng ta thấy được đời sống gia đình đang rất cần sự thông cảm, tha thứ để nâng đỡ cho nhau. Hãy bắt đầu bằng việc có thiện chí để giải quyết những xung đột trong gia đình. Hãy cho nhau những cơ hội để sửa sai, để làm lại từ đầu,… Khi mọi người biết cho nhau tình yêu thương thì đó là “nơi tình yêu bắt đầu”, vì người ta sống để yêu và yêu để sống.
Xin tình yêu Giáng Sinh trong năm nay trở thành nơi bắt đầu để tình yêu chúng con được lan tỏa khắp nơi, và đó là liều thuốc để chữa trị căn bệnh vô cảm trong gia đình, trong xã hội hôm nay.
Lm. Giuse Nguyễn
SUY NIỆM: LỄ GIÁNG SINH
Hang đá Bê-Lem và Chúa Giáng sinh là hai sự kiện luôn gắn liền với nhau. Vì thế, hễ ở đâu có người Công Giáo thì ở đó sẽ có hang đá trong dịp lễ Giáng sinh. Người Công Giáo làm hang đá để làm gì? Thưa, để diễn tả lại quang cảnh lúc Chúa Giáng sinh. Trong hang đá thường có nhiều bức tượng nhưng không thể thiếu ba bức tượng sau đây:
Thứ nhất, bức tượng Chúa Hài Đồng Giêsu: Ngài được bọc trong một chiếc khăn trắng và đặt nằm trên những cỏng cỏ khô, nói lên sự thiếu thốn nghèo hèn của ngày Ngài sinh ra. Chiếc khăn trắng báo trước về chiếc khăn liệm xác Ngài sau này.
Thứ hai, bức tượng Đức Maria: Ngài đang chắp tay và đứng bên phải trong hang đá. Tư thế chắp tay nói lên niềm tin của Mẹ vào Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Thế. Đồng thời, tư thế chắp tay cũng nói lên sự khiêm nhường thẳm sâu của Mẹ. Nhìn kỹ hơn nữa chúng ta sẽ thấy, khuôn mặt của Mẹ không dấu được sự băn khoăn lo lắng và đượm chút buồn sầu: buồn vì sự từ chối của con người để Hài Nhi phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn như vậy; băn khoăn lo lắng vì không biết rồi đây con trẻ lớn lên sẽ ra sao? Nhưng chắc chắn Mẹ vẫn tràn đầy niềm hy vọng phó thác vào Thiên Chúa tình yêu.
Thứ ba, bức tượng Thánh Giuse: Ngài thường được đặt phía bên trái trong hang đá, mặc chiếc áo choàng rộng, là cha nuôi của Hài Nhi, với sứ mạng bảo vệ Hài Nhi và Mẹ Người. Tin mừng cũng cho biết, đang khi Thánh Giuse đưa Đức Maria về quê quán để kê khai hộ khẩu thì Đức Maria đến ngày mãn nguyện khai hoa. Thánh Giuse đã tìm hết cách cho Đức Maria có được một nơi xứng đáng để sinh con, nhưng đều bị con người từ chối. Cuối cùng, Đức Maria đành phải sinh con trong hang đá nghèo hèn như vậy. Sau đó, Thánh Giuse tiếp tục sứ mạng của mình bằng cách chăm sóc bảo vệ Hài Nhi và Đức Maria: Đưa Hài Nhi và Mẹ Maria trốn sang Aicập khỏi sự lùng bắt của vủa Hêrôđê ; Cùng với Đức Mẹ đi tìm trẻ Giêsu khi Người lạc mất trong đền thờ ; Làm thợ mộc để nuôi sống Đức Maria và Chúa Giêsu…
Nhìn vào hang đá, chúng ta không thể không nghĩ đến cảnh nghèo nàn thiếu thốn của Thánh gia, nhưng chúng ta cũng không thể không nghĩ đến sự ấp áp đầy tình Chúa và tình người của Thánh gia. Cụ thể, sự hiện diện của Đức Maria và Thánh Giuse bên cạnh Hài Nhi Giêsu nói lên sự quan tâm chăm sóc của hai Đấng đối với trẻ Giêsu, điều đó muốn dạy cho mỗi người, mỗi gia đình chúng ta hôm nay bài học về sự quan tâm chăm sóc của người cha người mẹ đối với con cái.
Thật vậy, trong thời đại chúng ta đang sống, nhiều gia đình đang thiếu vắng tình thương, thiếu vắng sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ đối với con cái thể hiện một cách cụ thể qua các tình trạng đáng báo động sau đây:
Tình trạng phá thai : Nhiều người cha người mẹ đã khước từ con cái ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Theo Vụ Sức khỏe Bà mẹ & Trẻ em – Bộ Y tế cho biết, mỗi năm nước ta có khoảng 250.000 – 300.000 ca phá thai được báo cáo chính thức. Đáng chú ý, tỉ lệ phá thai trên 12 tuần tuổi chiếm tới gần 80%. Trong khi đó, theo số liệu của Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam, 20-30% các ca phá thai là phụ nữ chưa kết hôn và 60-70% là sinh viên, học sinh, chủ yếu ở độ tuổi 15 – 19. (Nguồn: giadinh.net.vn)
Tình trạng trẻ em bị bỏ rơi: Vài năm gần đây, thông tin phát hiện trẻ sơ sinh, trẻ tật nguyền bị bỏ rơi ngày càng nhiều. Đáng quan tâm, không ít trong số đó, khi được phát hiện, có em đã tử vong, còn nhiều em, do bị vứt bỏ ở những nơi hoang vắng, được phát hiện muộn nên đã bị các loại côn trùng, động vật cắn, dẫn đến thương tật suốt đời. (Nguồn: baomoi.com).
Tình trạng trẻ em bị bạo hành trong gia đình và nhà trường: Các hình thức bạo lực đối với trẻ em là: chửi mắng thô tục, làm nhục, dùng đòn roi để trấn áp để lại hậu quả hết sức nặng nề về thể chất và tinh thần của trẻ. Các vụ việc bạo hành mà một số bậc cha mẹ, thầy cô, người thân gây ra cho trẻ em đã được phát hiện và đưa lên báo chí, khiến dư luận xã hội rất căm phẫn, đồng thời xã hội cũng lo ngại về sự xuống cấp của chuẩn mực đạo đức, sự thiếu vắng môi trường văn hoá chuẩn mực của giáo dục. (nguồn: congtacxahoi.net).
Tình trạng trẻ em bị bóc lột sức lao động: Những số liệu gần đây cho thấy, ở nước ta, trẻ em dưới 17 tuổi tham gia vào các hoạt động kinh tế chiếm khoảng trên dưới 30%, khoảng 60% trẻ lao động ở các cơ sở ngoài quốc doanh sống trong điều kiện khó khăn (ăn, ngủ, sức khỏe, vệ sinh không đảm bảo…), tiền công rẻ mạt, cường độ lao động cao; 71,2% trẻ làm việc từ 9 đến 10 giờ/ngày; 72% trẻ làm việc cả ngày Chúa Nhật. Nhóm trẻ độ tuổi 15-17 có tỷ lệ tham gia lao động tương đối cao (63,3% so với độ tuổi). Điều đáng chú ý là có khoảng 15% trẻ em làm thuê, phải làm các nghề với điều kiện nặng nhọc và độc hại như sản xuất gốm, sành sứ, vật liệu xây dựng dân dụng. Không ít trẻ em hiện nay đang nằm trong tình trạng bị lạm dụng sức lao động, thậm chí bị xâm phạm cơ thể và danh dự…(Nguồn: baomoi.com).
Tình trạng trẻ em bị lạm dụng tình dục: Theo số liệu từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, trong 5 năm từ 2011 đến 2015, cả nước có 5.300 vụ xâm hại tình dục trẻ em. Tính trung bình, cứ 8 giờ trôi qua lại có một trẻ em Việt Nam bị xâm hại. Đa số thủ phạm là người quen của nạn nhân. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng con số này chỉ là những vụ việc được báo cáo, còn rất nhiều vụ nạn nhân bị chính kẻ xâm hại dọa dẫm hoặc vì lý do nào đó đã không được thống kê. (Nguồn: news.zing.vn).
Là người kitô hữu, chúng ta hãy nói không với các tình trạng trên. Thay vào đó, chúng ta luôn phải biết tôn trọng sự sống, quan tâm và chăm sóc trẻ em, nhất là những người cha người mẹ hãy quan tâm chăm sóc con cái của mình, không được bỏ rơi chúng.
Bài báo với tựa đề: “Giáng sinh đầu đời không cha mẹ nhưng đầy ắp tình thương của em bé bị bỏ rơi” được đăng trên trang điện tử vietbao.vn đáng chúng ta suy nghĩ. Bài báo viết như sau: Giáng sinh là khoảng thời gian cả gia đình quây quần bên nhau, cùng nhau hưởng trọn cảm giác ấm áp tình yêu thương. Thế nhưng đâu đó vẫn có những đứa trẻ không nhận được hơi ấm gia đình khi bị bố mẹ bỏ lại giữa những ngày tiết trời lạnh xuống. Đó là trường hợp của bé gái chào tại Bệnh viện Từ Dũ (Sài Gòn) ngày 4/12, nặng 2,8 kg, hoàn toàn khỏe mạnh. Bé gái chào đời vào ngày 4/12. Theo chia sẻ từ các bác sĩ, bé gái được sinh tại bệnh viện và xuất viện sau đó. Tuy nhiên, 2 ngày sau bố mẹ em đã mang bé đến bệnh viện nhờ chăm sóc rồi bỏ đi với lý do không thể tiếp tục nuôi em. Mặc dù mọi người cố gắng liên lạc với người thân nhưng không được. Thông tin duy nhất mà các bác sĩ biết được đó là mẹ bé còn khá trẻ, 23 tuổi quê ở Kiên Giang. Bố mẹ bé gái đều còn khá trẻ và đã bỏ lại em khi không đủ khả năng nuôi dưỡng. Thế là hơn 2 tuần qua dưới sự chăm sóc của các bác sĩ nơi đây, đặc biệt là bác sĩ Nguyễn Thị Từ Anh, Trưởng khoa Sơ sinh, bé gái phần nào cảm nhận được tình yêu thương trong những ngày đầu đến với thế giới mới lạ. Không được bên bố mẹ nhưng em vẫn nhận được đầy đủ tình yêu thương từ các bác sĩ. “Chúng tôi muốn bù đắp phần nào cho con. Khi lớn lên, nhìn lại những bức ảnh này, con gái sẽ vững tin khi biết rằng con không cô đơn trong cuộc đời này”, bác sĩ Từ Anh chia sẻ. Chiếc mũ len Giáng sinh màu đỏ trên đầu bé gái chính là món quà nhỏ xinh mà mọi người nơi đây tự tay cắt may và mua thêm một vài vật liệu trang trí như cây thông Noel để tạo nên bức ảnh đầu đời thật ý nghĩa cho con. (Nguồn: vietbao.vn)
Lạy Chúa Hài Nhi, mặc dầu Chúa phải sinh ra trong hang bò lừa thiếu thốn đủ điều, nhưng thay vào đó Chúa lại được sưởi ấm bằng tình yêu thương của Mẹ Maria và Thánh Giuse. Xin cho các thai nhi và trẻ em hôm nay cũng được bảo vệ bởi những người có trách nhiệm, đặc biệt là người cha người mẹ, để các em được sinh ra, lớn lên xứng đáng là một con người, là con cái Chúa. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
SUY NIỆM: «NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA»
Bài Tin Mừng của Thánh Lễ ban ngày mừng Chúa Giáng Sinh là trang đầu tiên của sách Tin Mừng theo thánh Gioan; bài Tin Mừng này chiếu rọi một ánh sáng rực rỡ, một ánh sáng chỉ có thể đến từ mặc khải của Thiên Chúa, vào một sự kiện rất âm thần, đơn sơ và nghèo khó, đó là sự hiện diện của «Một trẻ sơ sinh bọc tã, năm trong máng cỏ» ở giữa chúng ta, như sứ thần nói với các mục đồng trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh (x. Lc 2, 1-14).
Một ánh sáng rực rỡ đến từ mặc khải của Thiên Chúa, ngày nay được diễn tả qua vô số ánh sáng đủ màu mà chúng ta trang hoàng cho hang đá với lòng mến, sẽ giúp chúng ta chiêm ngắm biến cố sinh ra của Đức Giê-su ở chiều sâu và nhất là mời gọi chúng ta thực hiện cùng một kinh nghiệm thiêng liêng trong hành trình đi theo Đức Ki-tô của chúng ta, như thánh Gioan diễn tả trong phần mở đầu sách Tin Mừng của mình.
Vì thế, chúng ta hãy tiếp tục chiêm ngắm «Hài Nhi sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ », nhưng lần này, chúng ta sẽ chăm chú lắng nghe, với đôi tai và con tim của Đức Maria, lời của thánh Gioan, «Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến», nói về mầu nhiệm Giáng Sinh.
1. Kinh nghiệm đón nhận sự sống như là ánh sáng, từ Ngôi Lời sự sống và ánh sáng (c. 1-9)
Lời Chúa trong bài Tin Mừng mời gọi chúng ta nhớ lại ơn huệ sự sống nhờ Ngôi Lời: «Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành». Thực vậy, theo St 1, Thiên Chúa đã sáng tạo bằng Lời (chúng ta có thể đếm được mười lần công thức: «Thiên Chúa Nói»). Chúng ta thường nghĩ rằng trước khi Thiên Chúa sáng tạo, chỉ có hư vô mà thôi. Tuy nhiên, trình thuật St 1, được long trọng công bố đầu tiên trong đêm canh thức Vượt Qua, mặc khải cho chúng ta rằng, trước hành động sáng tạo của Thiên Chúa, đã có cái gì rồi: “Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm » (St 1, 1-2). Như vậy là đã có nhiều thứ (đất, vực thẳm, nước…), nhưng tất cả còn ở trong tình trạng hỗn mang và tăm tối. Hỗn mang và tăm tối, là nơi chốn của sự chết, của chết chóc.
Tất cả chúng ta đều đang sống, chúng ta có nhận ra, sự sống này được Ngôi Lời ban cho chúng ta mỗi ngày không ? Cuộc sống của mỗi chúng ta, đời sống cộng đoàn của chúng ta, thế giới chúng đang sống, nếu không đón nhận Lời Chúa, để cho Lời Chúa tiếp tục sáng tạo soi sáng, dẫn dắt, nuôi sống thì cũng sẽ rơi vào tình trạng hỗn mang và tăm tối như thế, nghĩa là rơi vào tình trạng chết chóc.
Và thật là kì diệu, khi Lời Chúa trong Tin Mừng theo thánh Gioan, mặc khải cho chúng ta rằng: «Nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.» Thực vậy, theo St 1, công trình sáng tạo đầu tiên, chính là ánh sáng : Thiên Chúa Nói: « Hãy có Ánh Sáng » (St 1, 3); và từ Ánh Sáng phát sinh mọi sự, và nhất là Sự Sống. Vậy, chúng ta có sống sự sống của chúng ta như là ánh sáng không, hay như là bóng tối ? Như ở nơi Ngôi Lời, ánh sáng và sự sống là một.
Ước gì sự sống của chúng ta bừng sáng và làm cho bừng sáng, nghĩa là đầy sức sống của Thiên Chúa và làm cho lan tỏa sức sống của Thiên Chúa, ngang qua cách chúng ta hiện diện mỗi ngày. Chúa vẫn ban cho chúng ta Lời của Người, Sự sống của Người, để cho lời chúng ta, sự sống của chúng ta trở thành ánh sáng ; hay đúng hơn, lời và sự sống của Người bừng sáng trong lời và sự sống của chúng ta.
2. Kinh nghiệm tái sinh làm con Thiên Chúa, như Ngôi Lời là Con Một Thiên Chúa (c. 10-15)
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì được ơn «đón nhận» Ngôi Lời nhập thể, như thánh Giuse, Đức Mẹ và như các mục đồng. Bởi lẽ, đón nhận sự sống từ Ngôi Lời và sống sự sống như là ánh sáng, chính là ơn huệ và hành trình tái sinh trở nên con Thiên Chúa, như Ngôi Lời là Con Một Thiên Chúa.
Hành trình tái sinh bởi Thiên Chúa để trở thành con Thiên Chúa và trở thành anh chị em của nhau thật không dễ dàng, cũng giống như mọi cuộc cưu mang và sinh ra đều lâu dài và khó khăn. Vì thế: Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. (c. 14)
Đó chính là để trở nên khuôn mẫu và đường đi cho chúng ta. Ngài đồng hành với chúng ta mỗi ngày, với sự cảm thông và lòng bao dung, bằng Lời của Ngài, bằng Mình và Máu thánh của Ngài. Trong đời sống dâng hiến, các tu sĩ nam nữ được mời gọi dâng hiến tương quan huyết thống, để đón nhận, sống và làm chứng cho ơn tái sinh bởi Thiên Chúa, theo gương Thánh Gia :
Họ được sinh ra không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.(c. 13)
Xin cho chúng ta đón nhận Ngôi Lời nhập thể mỗi ngày và suốt đời. Và đó chính là ý nghĩa sâu sa của Đêm Canh Thức Giáng Sinh : chúng ta thực sự đón nhận Người và sống sự đón nhận này cả đời và mỗi ngày.
3. Kinh nghiệm lãnh nhận «hết ơn này tới ơn khác» (c. 16-18)
Với kinh nghiệm tái sinh làm con Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi đọc lại đời mình, để nhận ra «hết ơn này tới ơn khác», nhất là vào thời điểm kết thúc năm dương lịch này, để tạ ơn và ca tụng Chúa, cách hồn nhiên như các mục đồng. Bởi vì, chỉ với tâm tình của người con thảo, giống như Đức Giê-su đối với Thiên Chúa cha, chúng ta mới có thể nhận ra «hết ơn này tới ơn khác», mà Thiên Chúa tình yêu đã ban cho chúng ta.
«Hết ơn này tới ơn khác», nhưng ơn lớn nhất và bền vững nhất, chính là ân sủng và sự thật mà Đức Ki-tô thông truyền cho chúng ta, bởi vì Ngài là «Con Một tràn đầy ân sủng và sự thật». Ân sủng và sự thật mà Ngôi Lời thông truyền cho chúng ta, chính là khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, khuôn mặt mà Lề luật của Mô-sê và mọi thứ Lề Luật không bày tỏ hết được và nhiều khi còn che đậy, và nhất là bị ma quỉ, vốn là bóng tối và dối trá, làm cho sai lệch nơi tâm trí chúng ta, ngay từ nguồn gốc của sự sống (x. St 3, 1-7).
Khởi từ những kinh nghiệm này, giống như thánh Gioan Tẩy Giả và cả thánh Gioan, «Người môn đệ Đức Giê-su thương mến» nữa, chúng ta được mời gọi làm chứng và loan báo về Ngôi Lời :
Ø Là Sự Sống và là Ánh Sáng.
Ø Là Con Một Thiên Chúa.
Ø Và là Đấng ban cho chúng ta ân sủng và sự thật.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc.