Thứ Năm tuần 6 thường niên.
"Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều".
Lời Chúa: Mc 8, 27-33
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Ðấng Kitô".
Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó.
Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".
Suy Niệm 1: Ngài là Ðức Kitô
Ðoạn Tin Mừng hôm nay thường được mệnh danh là cuộc tuyên tín tại địa hạt Cêrarê thuộc quyền Philip.
Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ và rao giảng nhiều điều mới mẻ so với các Rabbi Do thái. Dân chúng đã bắt đầu bàn tán về con người và sứ mệnh của Ngài: người thì bảo là Gioan Tẩy giả đã sống lại, kẻ thì cho là Êlia hay một Tiên tri nào đó. Riêng Chúa Giêsu vẫn tiếp tục giữ thinh lặng về con người và sứ mệnh của Ngài: cứ sau mỗi phép lạ, Ngài thường bảo kẻ được thi ân giữ kín tông tích của Ngài.
Nhưng đã đến lúc Chúa Giêsu muốn phá vỡ sự thinh lặng ấy, Ngài đặt câu hỏi một cách rõ ràng với các môn đệ. Câu trả lời của các ông vừa là phản ánh dư luận của đám đông, vừa là trắc nghiệm về chính lòng tin của họ. Lời đáp của Phêrô quả là một lời tuyên xưng: "Ngài là Ðức Kitô", nghĩa là Ðấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân tộc. Dĩ nhiên, trong cái nhìn của Phêrô và phù hợp với giấc mơ của ông, thì Ðức Kitô mà các ông mong đợi là Ðấng sẽ dùng quyền năng của mình để đánh đuổi ngoại xâm và biến đất nước thành một vương quốc cường thịnh. Chính vì thế, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn Ngài phải trải qua, Phêrô đã can gián Ngài. Tuyên xưng một Ðức Kitô Cứu Thế, nhưng không chấp nhận con đường Thập giá của Ngài, Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan. Ba cám dỗ của Satan đối với Chúa Giêsu đều qui về một mối là hãy khước từ con đường Thập giá; vì thế, khi Phêrô vừa can gián Ngài từ bỏ ý định cứu rỗi bằng con đường Thập giá, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô là Satan.
Phêrô và các môn đệ chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa Giêsu, khi Ngài từ trong cõi chết sống lại. Ðấng Kitô là một danh hiệu gắn liền với Thập giá. Mang danh hiệu Kitô, tuyên xưng Chúa Kitô, cũng có nghĩa là chấp nhận đi theo con đường của Ngài, Phêrô và các môn đệ đã sống đến tận cùng lời tuyên xưng của mình; tất cả đều lặp lại cái chết khổ hình của Chúa Kitô.
Chúa Giêsu đã nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập gía mỗi ngày mà theo Ta". Cuộc sống hàng ngày, nhất là trong những hoàn cảnh hiện tại, hơn bao giờ hết là một lời mời gọi tham dự vào cuộc khổ nạn của Ngài. Chúa Giêsu không bảo chúng ta đi tìm Thập giá, nếu không, đạo Kitô chỉ là một thứ tôn giáo bệnh hoạn, trong đó con người tự đày ảy mình; nhưng Ngài bảo chúng ta vác lấy thập giá mình. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá, Thiên Chúa không bao giờ đặt một thập giá nặng hơn đôi vai chúng ta.
Có rất nhiều cách để chúng ta khước từ thập giá: chúng ta từ khước thập giá bằng cách không tiếp nhận cuộc sống như một ân ban; chúng ta khước từ thập giá khi chúng ta chỉ nhìn một cách bi quan về các biến cố và con người; khi chúng ta bán đứng lương tâm vì một chút lợi lộc vật chất; khi chúng ta đóng kín niềm tin trong các buổi phụng vụ, trong bốn bức tường nhà thờ, mà quên rằng sống đạo là sống niềm tin Kitô trong từng giây phút của cuộc sống.
Chúng ta hãy lặp lại lời thánh Phaolô: "Tôi chỉ biết có một Chúa Kitô và là Chúa Kitô chịu đóng đinh Thập giá". Ước gì niềm tin của chúng ta luôn được soi sáng bằng mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô, và được thể hiện bằng một thái độ chấp nhận thập giá trong từng giây phút cuộc đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Một cuộc thăm dò dư luận “bỏ túi”
Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” Người lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc. 8, 28-29)
Chuyến đi truyền giáo của Chúa Giêsu gần tới giai đoạn chót. Trong hai năm, Người đã rao giảng Tin Mừng, chữa lành mọi bệnh họan tật nguyền. Giờ đây, Người muốn kiểm điểm một chút ảnh hưởng hoạt động của Người tới đâu, đồng thời tìm biết quần chúng có dư luận thế nào về Người. Đây là thời điểm quan trọng để Người có thái độ và lập trường mới, bởi lẽ từ trước đến nay, Người vẫn giữ kín và bắt người ta giữ kín không cho ai biết Người là ai. Một mình với các môn đệ, Người liền hỏi các ông: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là Ông Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Tuy ý kiến khác nhau, nhưng dư luận nói chung đều đồng ý coi Người là một người có sứ mạng của Thiên Chúa. Điều này không thể bị coi thường: quần chúng xếp Người vào hàng những bậc vĩ nhân của lịch sử, là một sứ giả của Thiên Chúa loan báo Đấng Mê-si-a sẽ đến.
Chúa Giêsu muốn đẩy cuộc thăm dò của Người đi xa hơn nữa. Nói lại điều người khác nghĩ thì dễ. Như thế có lẽ là một lối tránh né, một cách che dấu tư tưởng riêng của mình, một cách không muốn dấn thân. Người liền hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời thay cho tất cả: “Thầy là Đấng Kitô”. Vậy là cuộc sống chung của các ông với Chúa Giêsu đã sinh hoa kết trái.
Bộ Thầy “muốn dỡn mặt!”
Các môn đệ đã diễn tả các ông nhận định về Chúa Giêsu như thế nào. Còn Chúa Giêsu lại muốn dẫn các ông đi xa hơn vào mầu nhiệm bản thân Người. Người sắp nói cho các ông hay Người ý thức về chính mình như thế nào: phải chịu đau khổ nhiều, bị loại trừ, bị giết chết, rồi được sống lại. Người không phải là Đấng Thiên sai mang tính cách chính trị, có nhiệm vụ giải phóng và giành lại nền độc lập cho dân tộc, nhưng là một người tôi tớ đau khổ. Phêrô thấy quá quắt, không chịu nổi rồi. Ông cho Chúa Giêsu là con người suy nhược và quá bi quan. Ông liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách móc: “Bộ Thầy muốn dỡn mặt!”. Lời nói này của Phêrô chứng tỏ nhiều về tình thầy trò thân mật, tính bình dị và cởi mở của Chúa Giêsu. Phêrô tin mình có quyền trách móc Thầy mình. Tới nước này, Chúa Giêsu không thể nhân nhượng được nữa, Người liền nặng lời khiển trách ông: “Satan, lui lại đằng sau Thầy!” Với tư cách là môn đệ, Phêrô đi theo Chúa Giêsu, phải ở vị trí đứng đàng sau Người, nhưng ở đây, ông đã muốn rời chỗ đó, trèo lên đàng trước làm vai trò người chỉ huy. Có nghĩa là ông đã không đi theo Người mà đã đi vào con đường khác với ý của Thiên Chúa. Vì thế, Chúa coi ông như Satan là kẻ gây cản trở cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Cả chúng ta nữa, Chúa Kitô đều đặt cho chúng ta một câu hỏi quan trọng: Phần con, con bảo Thầy là ai? Thầy có quan trọng đối với con không? Quan trọng không phải chỉ trong suy nghĩ cúa con, mà cũng cả trong đời sống của con nữa? Lời của Ta có được con tuyệt đối tham khảo để biết và thực hành không? Cách chúng ta trả lời những câu hỏi này, sẽ chỉ cho ta biết những ý nghĩ của ta có phải là ý và đường lối của Chúa không.
Suy Niệm 3: CẦN XÁC LẬP MỐI TƯƠNG QUAN CÁ VỊ (Mc 8,27-33)
Trong nghi thức Thánh Tẩy cho người lớn, Giáo Hội mời gọi đương sự tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài cách xác quyết. Chính trong niềm tin mạnh mẽ như thế, mà người anh chị em của chúng ta được gia nhập Giáo Hội của Đức Giêsu để được sự sống đời đời.
Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy một cuộc tuyên tín cá vị được diễn ra tại địa hạt Cêsarê thuộc quyền Philiphê.
Khởi đi từ việc dân chúng có nhiều nhận định về Đức Giêsu sau khi đã chứng kiến những lời giảng dạy khôn ngoan và quyền năng cũng như những phép lạ cả thể Ngài đã làm.
Thấy vậy, Đức Giêsu muốn làm một bài trắc nghiệm các môn đệ về nhận định của dân chúng về Ngài, Ngài hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?”. Các ông nhanh nhảu trả lời rằng: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Đức Giêsu đã bất ngờ hỏi trực diện các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Quá ngỡ ngàng vì không ai nghĩ Đức Giêsu lại hỏi cụ thể như thế! Tuy nhiên, đây là điều cần thiết trong cuộc đời môn đệ, bởi nếu không có niềm xác tín mạnh mẽ, cá vị vào Đấng mà họ tin theo thì e rằng họ sẽ chạy theo hiệu ứng đám đông và đặt ra cho mình những lợi lộc thực dụng thấp hèn.
Phêrô đã thay lời anh em tuyên xưng cách xác quyết: “Thầy là Đấng Kitô”. Đây là lời tuyên tín xác định căn tính Thiên Sai của Ngài. Tuy nhiên, Phêrô và các môn đệ khác cũng chỉ hiểu theo nghĩa giải phóng chính trị mà không để ý hay không hiểu sứ vụ cứu chuộc của Thầy mình, nên ngay lập tức, Đức Giêsu cấm các ông không được loan báo điều này cho ai.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác tín niềm tin của mình vào Chúa như thánh Phêrô và can đảm đi theo Đức Giêsu khi sẵn sàng trở nên môn đệ trung tín của Ngài.
Dù có gặp phải khó khăn, thử thách và những trào lưu dễ dãi, giảm thiêng và thượng tục, chúng ta vẫn vững tin và trung thành với sứ vụ
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khi đã tin theo Chúa thì cũng sẵn sàng và trung thành đi đến cùng con đường mà Chúa đã mời gọi chúng con đi theo. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Tư tưởng của loài người
Suy niệm :
Không rõ tại sao Thầy Giêsu lại chọn lúc đi đường với các môn đệ
lên vùng cao phía bắc xứ Paléttin, gần chân núi Khécmôn,
để thăm dò xem dân chúng nghĩ Thầy là ai.
Quan trọng hơn, Thầy muốn biết các môn đệ nghĩ gì về Thầy :
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”
Thầy Giêsu đã sống bên các môn đệ từ mấy năm qua.
Họ đã được gọi, được chọn, được theo,
đã được thấy, được nghe, được chạm đến.
Bao nhiêu là kinh nghiệm gần gũi!
Nhưng Thầy Giêsu chẳng nói rõ cho họ biết mình là ai.
bây giờ Thầy lại đặt câu hỏi cho họ.
Ông Phêrô đại diện cho anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.”
Đấng Kitô là Đấng Mêsia, Đấng được Thiên Chúa xức dầu thánh hiến.
Vì thế người ta thường coi Ngài là Đấng giải phóng hùng mạnh.
Nhiều người Do Thái mong Đấng Kitô đến
để đánh đuổi quân Rôma và đem lại thái bình cho đất nước.
Câu trả lời của Phêrô cơ bản là đúng.
Thầy đúng là Mêsia, nhưng lại không phải là Mêsia như Phêrô nghĩ.
Bởi lẽ Thầy là một Mêsia phải chịu nhục nhã và thất bại,
chịu mang thân phận đau khổ của Người Tôi Trung (Is 52-53).
Để vào ánh sáng, Thầy phải vượt qua bóng tối của hố thẳm.
Dù sao câu trả lời của Phêrô đã mở ra một giai đoạn mới.
Từ nay Thầy sẽ chia sẻ nhiều hơn cho các ông về định mệnh tương lai.
Thầy sẽ nói rõ chứ không nói bóng gió bằng dụ ngôn nữa (c. 32).
Thầy Giêsu biết rõ đau khổ và cái chết đang đe dọa mình
đến từ phía các nhà lãnh đạo Do thái giáo.
Nhưng Thầy cũng tin rằng Cha ở với Thầy và sẽ không bao giờ bỏ Thầy.
Lần đầu tiên Thầy chia sẻ cho môn đệ chuyện riêng tư,
niềm đau và hy vọng, cái chết sắp đến và niềm tin vào sự sống lại,
dù chắc Thầy đã không nói nguyên văn như ta thấy ở câu 31.
Phêrô không thể chấp nhận được định mệnh mà Thầy mới gợi lên (c. 32).
Ông không hiểu được chuyện Đấng Kitô mà phải chịu khổ đau, nhục nhã.
Ông không biết rằng chữ phải ấy đến từ Thiên Chúa,
và thất bại cũng như cái chết có chỗ trong chương trình của Ngài.
Phêrô thương Thầy, và tình thương lại trở thành một cám dỗ lớn.
Ông muốn Thầy đổi ý, ông muốn đi trước dẫn đường cho Thầy.
Thầy Giêsu đòi ông trở lại đằng sau, đi sau Thầy như môn đệ (c.33).
Chúng ta cũng sợ như Phêrô, sợ cùng với Thầy Giêsu đi con đường hẹp.
Chúng ta cũng dễ nghĩ theo kiểu người phàm,
chứ không nghĩ theo kiểu Thiên Chúa (c. 33).
Xin được uốn lối nghĩ khôn ngoan của mình
theo sự điên dại của Thiên Chúa (1 Cr 1, 25).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM:
Bài Tin Mừng của Thánh Lễ Chúa Nhật XXIV, năm B, hôm nay gồm ba phần thật rõ rệt, và có thể được hiểu theo cấu trúc song song đối xứng như sau:
A. « Thầy là ai ? »
B. Giảng dạy về con đường Thương Khó và Phục Sinh
A’. « Ai muốn đi theo tôi… »
Câu hỏi của Đức Giê-su: « Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ? » mời gọi mỗi người môn đệ, nghĩa là mỗi người Ki-tô hữu chúng ta, trả lời một cách đích thân (A). Lời nói tuyên xưng Người là ai phải đi đôi với bước chân đi theo Người (C), như thánh Gia-cô-bê mời gọi, trong bài đọc II, đức tin phải đi đôi với hành động (x. Gc 2, 14-18). Và không phải đi theo Người trên con đường mình muốn, nhưng trên con đường Vượt Qua của Người (B).
Xin Chúa làm cho chúng ta, những đã làm cho thánh Phao-lô, hiểu biết và cảm nếm sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa, được thể hiện nơi mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô, để con tim của chúng ta được chinh phục.
1. « Thầy là ai? » (c. 27-30)
a. « Người ta nói Thầy là ai ? »
Với câu hỏi thứ nhất này của Đức Giê-su, các môn đệ đồng thanh trả lời : « Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại». Câu trả lời tuy chưa đúng với điều Người thực sự là trong tương quan với Thiên Chúa và với loài người, nhưng lại diễn tả một cách thật khách quan cách sống của Người, và nhất là phù hợp với con đường qua đó Người bày tỏ căn tính đích thật của mình.
Thật vậy, Người đã hiện diện như thế nào, để cho người ta không đồng hóa Người với một kinh sư, luật sĩ hay quí tộc… nhưng nói về Người như một ngôn sứ ? Như thế, Đức Giêsu đã chọn lựa ứng xử giống như những ngôn sứ đi trước Ngài, đến độ người ta nói Người là Gio-an Tẩy Giả, là Ê-li-a, hay là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại ! Qua đó, chúng ta có thể nhận ra với tâm tình cảm mến, rằng Người đã hòa nhập vào một truyền thống, hay đúng hơn, Ngài xuất phát từ một truyền thống, từ lịch sử, văn hóa, tôn giáo của dân tộc Ngài. Ngài không từ trên trời nhảy xuống cách ngoạn mục, để mọi người thán phục, như ma quỉ gợi ý. Nếu làm thế Ngài, chắc hẳn Ngài cũng sẽ được nhìn nhận là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Thiên Chúa theo kiểu của ma quỉ. Ngài đến để hoàn tất, chứ không phải hủy bỏ.
Ngài ứng xử giống với nhiều người đi trước Ngài, như Gioan, như Elia, như Giêrêmia… ; và tất cả đều là ngôn sứ. Như chính Ngài đã nói về mình : « Không một ngôn sứ nào được đón nhận nơi quê của mình ». Số phận của các ngôn sứ loan báo số phận của Đức Giêsu, mà gần Ngài nhất là số phận của Gioan. Theo mặc khải Cựu Ước, Người Tôi Tớ đau khổ là hình ảnh biểu tượng của tất các các ngôn sứ thuộc mọi thời đại. Đức Giêsu đến để hoàn tất cách trọn vẹn và duy nhất thân phận của Người Tôi Tớ đau khổ và cả niềm hi vọng được Thiên Chúa tôn vinh nữa, nơi chính cuộc đời hướng tới mầu nhiệm Vượt Qua của mình. Và chỉ một mình Đức Giê-su mới có thể hoàn tất như thế. Chính vì thế, ngay khi ông Phê-rô trả lời đúng về căn tính của Người, Đức Giê-su nói về mầu nhiệm Vượt Qua và mời gọi Phê-rô và tất cả mọi người đi con đường của mầu nhiệm Vượt Qua.
b. « Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ? »
Tuy nhiên, trong tương quan thiết thân với Người, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ, và đến lượt chúng ta hôm nay, vượt qua điều « người ta » nói về Ngài đến đi đến điều chính « tôi » nói về Ngài. « Người ta » có thể hiểu là những người nói không đúng hay không đủ về Chúa, nhưng cả những người nói đúng nữa. Nghĩa là chúng ta được mời gọi vượt những công thức có sẵn, hay đúng hơn, đi vào kinh nghiệm thiêng liêng và đích thân, từ đó các công thức được phát biểu. Tương tự như khi chúng ta hát bài tán tụng Magnificat, chúng ta được mời gọi có cùng một kinh nghiệm của Đức Maria, người “Nữ Tì hèn mọn”, về Thiên Chúa và về ân huệ lớn lao và nhưng không của Người.
Vì thế, khi Đức Giêsu đặt câu hỏi thứ hai, cũng cho tất cả các môn đệ, nhưng chỉ có một mình Phê-rô trả lời : “Thầy là Đức Ki-tô của Thiên Chúa”. Trong khi, với câu hỏi thứ nhất, các môn đệ đã đồng thanh trả lời. Như thế, với câu hỏi này, ai cũng cảm thấy mình phải trả lời một cách đích thân ; mỗi người được mời gọi đến một lúc nào đó, không nói theo người khác (cho dù là rất đúng, rất hay), không nói theo công thức có sẵn (cho dù đó là giáo lý, tín lý, là truyền thống), nhưng đích thân công bố Đức Giê-su là ai đối với mình; và khi công bố bằng lời Đức Giê-su là ai đối với mình, mỗi người chúng ta được mời gọi cư ngụ trong câu trả lời của mình, dấn thân trong điều mình nói, đến độ mình và điều mình nói là một ; bởi vì câu hỏi của Đức Giê-su không liên quan đến kiến thức chúng ta có về Ngài, nhưng liên quan đến tương quan thuộc về : « Thầy là ai đối với con, đối với con tim con, đối với cuộc đời, đối với ơn gọi của con ? », « Khi trả lời Thầy là ai, con có đi theo Thầy không, có sẵn sàng thuộc về Thầy suốt đời không ?
Mỗi người chúng ta được mời gọi tự hỏi : Sau bằng đó năm đi theo Chúa trong một ơn gọi, ơn gọi gia đình hay ơn gọi dâng hiến, tôi đã nghe Chúa đặt ra câu hỏi này cho mình chưa ? Và tôi đã trả lời thực sự và dứt khoát cho Chúa chưa? Hay tôi mới chỉ nghe và trả lời giống như mọi người mà thôi, chứ chưa đích thân nghe được tiếng Chúa và đích thân trả lời cho Chúa như một người lớn ? Và nếu như tôi nghe được tiếng Chúa hỏi hôm nay, ở đây và lúc này, tôi trả lời làm sao cho Chúa ? Hay tôi chưa sẵn sàng, và muốn khất lại sau này? Dĩ nhiên, mỗi người chúng ta có thể trả lời như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Nhưng đâu là cách thức Người bày tỏ căn tính thần linh của Người ? Và tôi có đón nhận Người vào trong cuộc đời và nhất là trong những lựa chọn lớn nhỏ của chúng ta không?
2. Đức Giê-su dạy các môn đệ về con đường Thương Khó và Phục Sinh (c. 31-33)
– Mặc khải sữ dữ đang hoành hành nơi con người và cách Thiên Chúa chiến thắng sự dữ.
– Mặc khải sự thương cảm của Thiên Chúa đối với thân phận con người.
– Mặc khải thân phận con người không phải là hình phạt và cũng không phải là con đường dẫn đến sự chết, nhưng là đến sự sống, ngang qua sự chết.
Như thế, lời tuyên xưng Đức Giêsu Nazareth là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống phải đi đôi với lựa chọn đi theo Ngài, đi con đường của Ngài. Sau này, Phêrô và các môn đệ đã hiểu ra con đường Thương Khó và đã đi đến cùng con đường Thương Khó của mình. Chúng ta cũng vậy, chúng ta được mời gọi hiểu ra con đường Thương Khó của Đức Giêsu và đảm nhận con đường Thương Khó của mình, con đường Thương Khó của thế hệ mình. Con đường Thương Khó của chúng ta là : nhờ Đức Ki-tô, với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, chúng ta đảm nhận đến cùng thân phận làm người của mình, ơn gọi của mình, với tâm tình tín thác vô kiện của người con thảo, được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa Cha.
Thánh Phêrô đã không hiểu bài học của Đức Giêsu, vì thế không thể chấp nhận điều Đức Giê-su giảng dạy về con đường Ngài phải đi: ông kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Thầy của mình. Như ông Phêrô, chúng ta cũng từng đi theo Chúa, nhưng với dự án hay ước muốn riêng của mình, và lại còn muốn Chúa chấp nhận điều mình muốn. Nhưng đó không phải là đường lối của Thiên Chúa, nhưng của loài người, do Satan xúi dục. Xin cho chúng ta gắn bó thân thiết với Lời Chúa, với Ngôi vị của Chúa, để nhạy bén và cương quyết loại bỏ những tư tưởng và hướng đi không thuộc về Thiên Chúa.
3. “Ai muốn đi theo tôi” (c. 34-38).
Chúng ta thường hiểu, lời này chỉ dành cho những người đi tu. Nhưng Tin Mừng nói cho chúng ta rằng lời mời gọi này của Đức Giêsu dành cho các môn đệ và cả đám đông nữa. Hơn nữa, ơn gọi Kitô hữu là ơn gọi đi theo Đức Giêsu; vì thế lời này của Đức Giêsu ngỏ với mọi người Kitô hữu chúng ta, sống đời tu, sống đời sống gia đình hay sống đời độc thân. Hơn nữa, và đây là lí do quyết định mang lại cho lời và cho ngôi vị của Đức Giêsu giá trị qui chiếu tuyệt đối: tuy đây là lời mời gọi ngỏ với tự do của mỗi người: “Ai muốn đi theo tôi…”, nghĩa là ai không muốn thì thôi, nhưng lời mời này lại liên quan tất yếu đến sự sống, liên quan đến chuyện sống còn, nghĩa là cứu sự sống hay mất sự sống, liên quan đến con đường dẫn đến sự sống, và như thế liên quan đến lòng khao khát sự sống có nơi mỗi người chúng ta:
Ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất;nhưng ai chịu mất sự sống của mình vì tôi và vì Tin Mừng, sẽ cứu được.
Sự sống của chúng ta, dù có cố giữ lấy hay cho đi, thì rốt cục cũng sẽ chấm dứt. Đức Giêsu mời gọi chúng ta lựa chọn con đường cho đi: “hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình, hãy chịu mất sự sống của mình vì Ngài và vì Tin Mừng của Ngài”. Cho đi sự sống để nhận lại sự sống, điều này vừa nghịch lí vừa khó sống; ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về những khó khăn này. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.
– Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác. Và đó cũng là con đường của tấm bánh.
– Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng theo nghĩa đen nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.
– Đó là sự hy sinh cuộc đời của các tu sĩ nam nữ, các linh mục để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.
Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giê-su Kitô, Con Thiên Chúa cũng không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”; và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào.
Như thế, lời của Đức Giêsu không còn chỉ là một lời thách đố tận cùng, nhưng còn là lời của Tin Mừng tận cùng; vì Ngài hứa với chúng ta rằng con đường của hạt lúa mì, qui luật muôn đời của sự sống, chính là con đường đạt tới sự sống, con đường nhận lại sự sống từ chính Nguồn Sự Sống là Thiên Chúa hằng sống. Đó hiển nhiên là lời hứa cho mai sau, nhưng sức mạnh và niềm vui của Sự Sống mới mai sau, đã được chúng ta cảm nghiệm một cách vừa cụ thể vừa sâu xa ngay hôm nay, ngay trong hành vi cho đi vì lòng mến Đức Kitô, vì niềm say mê Tin Mừng của Ngài.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày song ngữ
Thursday (February 21): “Who do you say that Jesus is?”
Scripture: Mark 8:27-33 27 And Jesus went on with his disciples, to the villages of Caesarea Philippi; and on the way he asked his disciples, “Who do men say that I am?” 28 And they told him, “John the Baptist; and others say, Elijah; and others one of the prophets.” 29 And he asked them, “But who do you say that I am?” Peter answered him, “You are the Christ.” 30 And he charged them to tell no one about him. 31 And he began to teach them that the Son of man must suffer many things, and be rejected by the elders and the chief priests and the scribes, and be killed, and after three days rise again. 32 And he said this plainly. And Peter took him, and began to rebuke him. 33 But turning and seeing his disciples, he rebuked Peter, and said, “Get behind me, Satan! For you are not on the side of God, but of men.”
|
Thứ Năm 21-2 Còn anh em bảo Đức Giêsu là ai?
Mc 8,27-33 Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: “Người ta bảo Thầy là ai?” Các ông đáp lại rằng: “Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri”. Bấy giờ Người hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Ðấng Kitô”. Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: “Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. |
Meditation:
Who is Jesus for you – and what difference does he make in your life? Many in Israel recognized Jesus as a mighty man of God, even comparing him with the greatest of the prophets. Peter, always quick to respond whenever Jesus spoke, professed that Jesus was truly the “Christ of God” – “the Son of the living God” (Matthew 16:16). No mortal being could have revealed this to Peter, but only God. Through the “eyes of faith” Peter discovered who Jesus truly was. Peter recognized that Jesus was much more than a great teacher, prophet, and miracle worker. Peter was the first apostle to publicly declare that Jesus was the Anointed One, consecrated by the Father and sent into the world to redeem a fallen human race enslaved to sin and cut off from eternal life with God (Luke 9:20, Acts 2:14-36). The word for “Christ” in Greek is a translation of the Hebrew word for “Messiah” – both words literally mean the Anointed One. Jesus begins to explain the mission he was sent to accomplish Why did Jesus command his disciples to be silent about his identity as the anointed Son of God? They were, after all, appointed to proclaim the good news to everyone. Jesus knew that they did not yet fully understand his mission and how he would accomplish it. Cyril of Alexandria (376-444 AD), an early church father, explains the reason for this silence: There were things yet unfulfilled which must also be included in their preaching about him. They must also proclaim the cross, the passion, and the death in the flesh. They must preach the resurrection of the dead, that great and truly glorious sign by which testimony is borne him that the Emmanuel is truly God and by nature the Son of God the Father. He utterly abolished death and wiped out destruction. He robbed hell, and overthrew the tyranny of the enemy. He took away the sin of the world, opened the gates above to the dwellers upon earth, and united earth to heaven. These things proved him to be, as I said, in truth God. He commanded them, therefore, to guard the mystery by a seasonable silence until the whole plan of the dispensation should arrive at a suitable conclusion. (Commentary on Luke, Homily 49) Jesus told his disciples that it was necessary for the Messiah to suffer and die in order that God’s work of redemption might be accomplished. How startled the disciples were when they heard this word. How different are God’s thoughts and ways from our thoughts and ways (Isaiah 55:8). It was through humiliation, suffering, and death on the cross that Jesus broke the powers of sin and death and won for us eternal life and freedom from the slavery of sin and from the oppression of our enemy, Satan, the father of lies and the deceiver of humankind. We, too, have a share in the mission and victory of Jesus Christ If we want to share in the victory of the Lord Jesus, then we must also take up our cross and follow where he leads us. What is the “cross” that you and I must take up each day? When my will crosses (does not align) with God’s will, then his will must be done. To know Jesus Christ is to know the power of his victory on the cross where he defeated sin and conquered death through his resurrection. The Holy Spirit gives each of us the gifts and strength we need to live as sons and daughters of God. The Holy Spirit gives us faith to know the Lord Jesus personally as our Redeemer, and the power to live the Gospel faithfully, and the courage to witness to others the joy, truth, and freedom of the Gospel. Who do you say that Jesus is? “Lord Jesus, I believe and I profess that you are the Christ, the Son of the living God. Take my life, my will, and all that I have, that I may be wholly yours now and forever.” |
Suy niệm:
Đức Giêsu là ai đối với bạn – và sự khác biệt nào Người đã làm trong cuộc đời bạn? Đức Giêsu được nhiều người trong dân Israel nhìn nhận như là người của Thiên Chúa, thậm chí họ còn so sánh Người với những ngôn sứ danh tiếng nhất. Phêrô, người lúc nào cũng nhanh nhẹn trả lời, đã tuyên xưng rằng Đức Giêsu thật sự là “Đức Kitô của Thiên Chúa” – là “Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Không người phàm nào có thể mặc khải điều này cho Phêrô ngoại trừ Thiên Chúa. Qua “cặp mắt đức tin”, Phêrô đã thực sự hiểu được Đức Giêsu là ai. Phêrô đã nhận ra rằng Đức Giêsu còn cao cả hơn một bậc thầy, một ngôn sứ, và một người làm phép lạ. Phêrô là tông đồ đầu tiên công khai tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Đấng được xức dầu, được Chúa Cha thánh hiến và sai đến thế gian để cứu độ nhân loại sa ngã, bị nô lệ cho tội lỗi và bị cắt đứt khỏi sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa (Lc 9,20; Cv 2,14-36). Hạn từ “Kitô” tiếng Hylạp, còn tiếng Dothái là Mêsia, cả hai đều có nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đức Giêsu bắt đầu giải thích sứ mạng Người được sai tới để hoàn thành Tại sao Đức Giêsu ra lệnh cho các môn đệ giữ thinh lặng về căn tính của Người với tư cách là Con Thiên Chúa, Đấng được xức dầu? Nhưng sau đó, họ được lệnh phải tuyên bố tin mừng cho mọi người. Đức Giêsu biết rằng họ chưa hoàn toàn hiểu hết sứ mạng của Người và cách thức Người sẽ thực hiện nó. Cyril thành Alexandria (376-444 AD), một giáo phụ thời giáo hội sơ khai giải thích lý do cho sự thinh lặng này: Có những điều chưa hoàn thành mà họ phải rao giảng về Người. Họ cũng phải rao giảng về thập giá, cuộc khổ nạn, và cái chết của Người. Họ phải rao giảng sự sống lại từ cõi chết, là dấu chỉ lớn lao, đích thật, và vinh quang là lời chứng thật về Người rằng Đấng Emmanuel đích thật là Thiên Chúa và nhờ bản tính Con Thiên Chúa Cha. Người hoàn toàn tiêu diệt sự chết và hủy bỏ sự hủy diệt. Người đã cất đi Hỏa ngục, và lật đỗ sự chuyên chế của kẻ thù. Người xóa bỏ tội lỗi trần gian, mở cửa nước trời cho những người sống trên trần thế, và kết nối đất với trời. Những điều này đã minh chứng Người là ai, như tôi nói, đích thật là Thiên Chúa. Do đó, Người ra lệnh cho họ hãy giữ kín bí mật bằng sự thinh lặng thích hợp cho tới khi toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa đi đến giờ phút kết thúc thích hợp (chú giải Tin mừng Luca, bài giảng 49). Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ và chết để đền tội chúng ta Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng thật cần thiết cho Đấng Messia chịu đau khổ và chịu chết để công trình cứu chuộc của Thiên Chúa có thể được hoàn thành. Các môn đệ đã hốt hoảng biết bao khi nghe những lời này. Tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa thật khác xa với tư tưởng và đường lối của chúng ta biết bao (Is 55,8). Chính qua sự khiêm hạ, đau khổ, và cái chết trên thập giá mà Đức Giêsu đã đập tan những quyền lực của tội lỗi và sự chết và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu và thoát khỏi sự nô lệ cho tội lỗi và ách thống trị của kẻ thù, Satan, cha của những kẻ lừa dối và là kẻ lừa gạt con người. Chúng ta cũng có phần trong sứ mạng và chiến thắng của Đức Giêsu Kitô Nếu chúng ta muốn chia sẻ chiến thắng của Chúa Giêsu, thì chúng ta cũng phải mang lấy thập giá của mình và đi theo đường Người dẫn dắt. “Thập giá” mà bạn và tôi phải vác hằng ngày là gì? Là khi ý tôi chéo (không đồng hàng) với ý Thiên Chúa, thì ý Chúa phải được thực hiện. Biết Đức Giêsu Kitô là biết quyền năng chiến thắng của Người trên thập giá, nơi Người đã đánh bại tội lỗi và chiến thắng sự chết qua sự sống lại của Người. Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người chúng ta các ơn sủng và sức mạnh cần thiết để sống làm con cái Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta đức tin để biết Chúa Giêsu cách cá vị là Đấng cứu độ chúng ta, và năng lực để sống tin mừng cách trung tín, và sự can đảm làm chứng với người khác về niềm vui, chân lý, và tự do của tin mừng. Bạn nói Đức Giêsu là ai? Lạy Chúa Giêsu, con tin và tuyên xưng rằng Chúa là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Xin Chúa đón nhận cuộc sống con, ý chí con, và tất cả những gì thuộc về con, để con có thể trọn vẹn thuộc về Chúa bây giờ và mãi mãi. |
Tác giả: Don Schwager
(http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/)
Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn