CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973) 2
BẮT ĐẦU BƯỚC VÀO ĐỨC TIN (*) – Chú giải của Noel Quesson. 8
ĐỨC GIÊSU VIẾNG THĂM NA-GIA-RÉT (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 16
THÁNH THẦN CHÚA NGỰ TRÊN TÔI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 29
LỜI TIÊN TRI ĐÃ ỨNG NGHIỆM- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 54
ỨNG NGHIỆM LỜI CHÚA- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 70
ĐỨC GIÊSU, TIN MỪNG CHO MỌI NGƯỜI– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ 74
TIẾP NỐI SỨ MẠNG CỦA CHÚA GIÊSU– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 78
NĂM HỒNG ÂN CỦA CHÚA (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 82
TIỆC CƯỚI CANA, PHÉP LẠ CỦA TÌNH YÊU- Trích Logos C.. 90
CỘNG ĐỒNG– Lm.Giuse Trần Việt Hùng. 98
LỜI QUYỀN NĂNG LÀ THẦN TRÍ VÀ LÀ SỰ SỐNG- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa 105
LOAN BÁO TIN MỪNG- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 111
TIN MỪNG HÔM NAY – Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 121
TRỞ VỀ- Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn. 126
BÀI ĐỌC I: Nkm 8, 2-4a. 5-6. 8-10
“Họ đọc trong sách Luật và người ta hiểu được điều đã đọc”.
Bài trích sách Nơ-khe-mia.
Ngày ấy, thầy tư tế Esdras mang luật ra trước cộng đồng, gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có thể hiểu luật: hôm đó là ngày đầu tháng bảy. Từ sáng đến giữa trưa, thầy đứng ở công trường, trước cửa Nước, đọc sách trước mặt đàn ông, đàn bà và những người hiểu luật. Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật. Thầy thư ký Esdras đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên. Esdras chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Cao Cả. Toàn dân đưa tay lên đáp lại: Amen, amen. Họ cúi mình và phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ cúi sát đất. Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc. Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: “Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta; anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc”. Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật. Họ nói với dân chúng rằng: “Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gửi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh, dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn luỹ của anh chị em!”
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 18, 8. 9. 10. 15
Ðáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống (Ga 6, 64b).
1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
2) Giới răn Chúa chánh trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.
4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Tảng Ðá, là Ðấng Cứu Chuộc con.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 12, 12-30
“Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của Người”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Nếu chân nói rằng: “Vì tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc thân xác”, có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Và nếu lỗ tai nói rằng: “Vì tôi không phải là con mắt, nên tôi không thuộc về thân xác”, có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Nếu toàn thân xác là một, thì đâu là thính giác? Nếu toàn thân xác là tai, thì đâu là khứu giác? Vậy, Thiên Chúa đã đặt các chi thể, và mỗi chi thể ở trong thân xác như ý Người muốn. Nếu tất cả đều là một chi thể, thì còn đâu là thân xác? Thật vậy, có nhiều chi thể, nhưng có một thân xác. Con mắt không thể nói với bàn tay: “Ta không cần mi”. Ðầu cũng không thể nói với chân: “Ta không cần các ngươi”. Nhưng hơn thế nữa, các chi thể thân xác xem như yếu hơn, lại cần thiết hơn. Và những chi thể ta coi là ít vinh dự nhất, lại là những chi thể chúng ta đặt cho nhiều vinh dự hơn; và những chi thể thiếu trang nhã lại được ta trang sức hơn, còn những chi thể trang nhã lại không cần như thế: nhưng Thiên Chúa đã sắp đặt thân xác, cho cái thiếu vinh dự được vinh dự hơn, để không có sự bất đồng trong thân xác, mà là để các chi thể đồng lo công ích cho nhau. Nếu một chi thể phải đau, tất cả các chi thể khác đều phải đau lây; hoặc một chi thể được vinh dự, thì tất cả các chi thể cùng chia vui. Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể của Người, mỗi người có phận sự mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các tông đồ, rồi đến các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư?
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 4, 18-19
All. All. – Chúa đã sai con đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. – All.
PHÚC ÂM: Lc 1, 1-4; 4, 14-21
“Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.
Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”.
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BẮT ĐẦU BƯỚC VÀO ĐỨC TIN (*) – Chú giải của Noel Quesson
Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta
Luca khi viết Tin Mừng đã có những người đi trước ngoài. Lúc đó Máccô đã viết Tin Mừng của mình và Luca đã có biết bởi vì ngài đã sử dụng và đôi khi theo khá sát Tin Mừng của Máccô.
Nhưng rõ ràng là có nhiều cách để soạn thảo về cùng một đề tài. Vả lại, không phê phán những người đã viết trước mình, Luca đề ra cho mình cách viết khác, theo phương thức và với những điểm nhấn mạnh của riêng ngài.
Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta
Do đó, như chúng ta, Luca thú nhận mình là một người đã không “thấy” Đức Giêsu: Ngài là một Kitô hữu thuộc “thế hệ thứ hai”. Nhưng vì sống rất gần với các biến cố của Đức Giêsu nên ngài đã điều tra… và nhận trách nhiệm truyền đạt lại (đó là Truyền thống) những gì chính ngài đã nhận được. Phần tôi, có phải tôi cũng là một mắt xích truyền đạt Đức Giêsu từ thời này qua thời khác không?
Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc
Luca thừa nhận ý định dạy giáo lý của mình một cách rõ ràng: Người muốn làm cho đức tin của người đọc được vững chắc. Tin Mừng không phải là một điều hư cấu, một huyền thoại. Tin Mừng rất nghiêm túc. Theo gương của Thánh Phaolô, thầy mình, và nhắm đến dân ngoại cải giáo (không phải là người Do Thái), Luca sẽ đề cao một số khía cạnh và giảm nhẹ một số khía cạnh đặc thù của người Do Thái. Tác phẩm của ngài được linh hứng. Nhưng sự Linh hứng của Thiên Chúa không loại trừ vai trò bình thường của các khả năng con người, của các tài năng, của việc tìm tòi của tác giả. Tin Mừng của Thánh Luca là một Tin Mừng độc đáo. Chúng ta hãy tiếp nhận nó như thế.
Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận
Suối nguồn nội tâm của Đức Giêsu chính là Chúa Thánh Thần. Luca sẽ không ngừng lặp lại điều đó: Được thụ thai bởi Chúa Thánh ‘Thần (Lc 1,35)… mặc lấy Thần Khí của phép rửa tội (Lc 3,22)… được Thần khí dẫn đưa (Lc 4,l-4,14 – 4,18)… Nói theo cách của con người, người ta có thể tưởng tượng Đức Giêsu trong sự kết hiệp không ngừng với Đấng vô hình bằng một thứ cầu nguyện liên tục: Người không làm điều gì bởi chính Người. Người sẽ nói như thế (Ga 8,28). Trong Người, về một Hơi Thở là hơi thở của chính Chúa Cha. Trong Người, có một “người nhắc” nói với Người mọi việc Người làm trong sự tự do tuyệt đối. Tôi cũng thế, tôi hãy để cho Thần Khí dần đưa tôi.
Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh
Hơn các thánh sử khác, Luca thường cho biết rằng Đức Giêsu “giảng dạy trong các hội đường” (Lc 4,15; 16,31; 6,6; 13,10) hoặc trong Đền thờ (Lc 19,47; 20,l; 2l,37). Giảng dạy trong hội trường trước hết có nghĩa là chú giải Cựu Ước. Đôi khi chúng ta tự hỏi nội dung các bài giảng của Đức Giêsu là gì. Người mở rộng, đi vào chi tiết, chú giải Kinh Thánh. Tin Mừng của Đức Giêsu, trong sự mới mẻ của Người, dựa vào các lời hứa: của Kinh Thánh một cách sâu xa. Việc Công Đồng đưa Cựu ước vào bài đọc thứ nhất mỗi chủ nhật là một sự đổi mới tìm về một truyền thống cổ xưa! Nhờ có Công Đồng, chúng ta thực hiện lại điều Đức Giêsu đã làm.
Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi
Là Đấng Mêsia của những người nghèo khó, Đức Giêsu không lập dị. Người đến rao giảng không phải ở Giêrusalem, thành phố của các vua và các Thượng Tế; nhưng trong một tỉnh xa xôi và bị coi thường “vùng Galilê của dân ngoại” (Mt 4,15), vùng đất của những người phận nhỏ và nghèo khó. Là Đấng Mêsia và là tư tế, Đức Giêsu không lên Đền Thánh để cử hành các nghi thức thờ phượng, các hy tế, nhưng Người vào trong một Hội đường ở làng quê, nơi khiêm tốn để cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa, mà tất cả lời Chúa đều tập trung trên sách thánh. Như thế, Người biểu lộ chức tư tế của Người trước hết thuộc bình diện ngôn sứ. Ngày nay cũng thế, trước tiên chúng ta hiệp thông với Đức Giêsu trong phần đầu tiên này của thánh lễ mà người ta gọi là “phụng vụ Lời Chúa”. Đó không phải là một phần nhập đề phụ thuộc và tùy thích. Thánh lễ đã bắt đầu. Đức Giêsu đã “thánh hiến” một lần duy nhất trong cuộc đời Người vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Nhưng Người đã dùng lời” nhiều lần: “Đó là chức tư tế của Người. Thánh Phaolô đã hiểu rõ điều ấy khi ngài được Đức Giêsu Kitô ban ân sủng làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (Rm 15,16). Cuốn sách mà Đức Giêsu, ngày hôm đó mang theo, mở ra và đọc luôn trường tồn. Tôi có cuốn sách ấy trong nhà tôi không? Tôi có dành thời gian để đọc không? Kinh Thánh có là một phẩm đặc biệt trong việc đọc sách của tôi không? Gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Vì thế Đức Giêsu đã xác định sứ mạng của Người là một sứ mạng của ngôn sứ. Trong ngôn ngữ của Israel, những lời ấy có nghĩa: Tôi là ngôn sứ, tôi được Thiên Chúa gọi đến để nói nhân danh Người, để nói sứ điệp của Người. Và Đức Giêsu đặt mình dưới sự bảo trợ của ngôn sứ lớn nhất Isaia. Qua thủ bản Qumram, người ta biết được rằng ngôn sứ Isaia là một ngôn sứ được sử dụng nhiều nhất vào thời. Đức Giêsu: Thủ bản cổ thất thế giới rõ ràng là các cuộn da, đã được tìm thấy trong một: hang động cách nay vài năm và được bảo quản trong Viện Bảo Tàng Kinh Thánh, ở Gìêrusalem, và trên đó là toàn bộ bản viết tay sách Isaia. Như một sự tình cờ, một tài liệu duy nhất thuộc loại này trong toàn bộ văn chương thế giới đến được với chúng ta vào giữa thời kỳ hiện đại. Phải chăng chỉ do sự tình cờ? Chúng ta xúc động nhận rằng Đức Giêsu đọc sách Isaia đó.
Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi
Chúng ta hãy nhận xét thêm một lần nữa từ “xức dầu” được gọi là “chrisma” trong tiếng Hy Lạp, và Đấng được xức dầu được gọi là “christos” do đó mới có danh hiệu Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là Đấng được Thần Khí: Thiên Chúa xức dầu, thâm nhập và thấm nhuần như dầu thấm vào cơ thể. Nơi người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện một cách cụ thể (Côlôsê 2,9).
Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Những từ “loan báo Tin Mừng” dịch từ một động từ Hy Lạp: euaggehsasthai có nghĩa là “truyền bá phúc âm”. Isaia đã viết ra từ ấy, mang đến niềm hy – vọng bao la gởi cho những. người bị lưu đầy ở Babylon để loan báo Tin Mừng họ được giải phóng (Is 52,7-61,1). Tin Mừng chính là sự’ “giải phóng”… và sự “phục hưng” Giêrusalem. Nhưng một thất vọng to lớn sẽ tiếp nối những loan báo mang tính ngôn sứ của Isaia. Những người “nghèo hèn” tiếp tục bị đàn áp, và bất hạnh. Dần dần, từ “nghèo hèn” trong Kinh Thánh bắt đầu gợi ra không chỉ một điều kiện khó khăn về kinh tế hoặc xã hội, những còn là thái độ nội tâm của người nào còn tìm được chỗ dựa nơi con người khi đối diện với những kẻ quyền thế của thế gian nên phải quay về Thiên Chúa. Luca đặc biệt thích nhấn mạnh đến chủ đề này: Thiên Chúa đã đặc biệt thi ái “những kẻ nghèo hèn “…
Còn bạn là anh chị em tôi, bạn cảm thấy mình bị loại khỏi hạnh phúc theo kiểu của thế gian, bạn là người mà Lời Đức Giêsu nhắm đến trước tiên. Có một hạnh phúc khả dĩ dành cho bạn: Bạn hãy tìm hạnh phúc đó bên cạnh Thiên Chúa.
Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa
Tùy theo tính khí, người ta sẽ còn tiếp tục giải thích bản văn này theo hai hướng trái ngược nhau, nếu như người ta không chịu chấp nhận cả hai: Vấn đề là sự giải phóng vật chất, chính trị và nhân bản… kẻ bị giậm cầm, người mù và người bị áp bức?… hay vấn đề là một sự giải phóng tâm linh hơn?
Chắc chắn rằng Đức Giêsu đã không mở cửa tất cả các nhà tù, không chữa lành mọi người mù và bệnh tật, đã không từ bỏ mọi áp bức khỏi hành tinh chúng ta. Hỡi ôi như thế chẳng hóa ra là một lời hứa vô ích, lừa phỉnh sao? Tuy nhiên trước hết người nghèo hèn động ở hàng đầu tiên để chờ đợi sự giải phóng về vật chất cho họ. Có lẽ chính chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu sẽ có tội nếu chúng ta không “thực hiện” lời tiên tri ấy. Chúng ta phải làm gì để giải phóng anh em chúng ta? Để làm giảm nhẹ những người bệnh tật? Nhưng cũng chắc chắn rằng sự áp bức tệ hại nhất là sự nô lệ nội tâm mà tội lỗi tạo ra trong chúng ta. Từ được dịch ra ở đây bằng từ “giải phóng” hay trả lại tự do chính là từ “aphésis” cũng có nghĩa là “tha thứ” (Lc 1,77-3,3 – 24,47; Cv 2,38,5,31 v.v…) Vâng, lạy Chúa, xin giải phóng chúng con xin tha thứ chúng con! ôi! trong tầm hồn con, có sự nô lệ khủng khiếp đó, khi con trở nên tù nhân của xác thịt con, của thù hận, tiền bạc, tiện nghi, khoái cảm! Sự giải phóng mà Đức Giêsu đã hứa cũng dành cho chính con.
Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
Ngày nay ở thế kỷ 21, điều đó có liên quan gì với tôi? Thánh Luca sử dụng mười hai lần tiếng “hôm nay” mầu nhiệm và trang nghiêm ấy, trong Tin Mừng của Ngài; từ “Hôm nay” đã sinh ra cho anh em một “Cứu Chúa” cho đến “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” lúc Người bị treo trên thập giá. (Lc 2,11; 3,22; 4,21; 5,26; 12,28; 13,32; 13,33; 19,5; 19,9; 22,34; 22,61; 23,43).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN – NĂM C
Chúa Nhật III Thường Niên năm C này được gọi là “Chúa Nhật Lời Chúa”. Bài Đọc I tường thuật cho chúng ta đây là lần đầu tiên Lời Chúa được long trọng công bố cho toàn dân; còn Tin Mừng thì tường thuật cho chúng ta trong một buổi phụng vụ Lời Chúa vào ngày sa-bát tại hội đường Na-da-rét, Đức Giê-su hiện tại hóa Lời Chúa vào con người và sứ mạng của Ngài.
Nkm 8: 2-4a, 5-6, 8-10
Bài Đọc I, trích từ sách Nơ-khe-mi-a, kể lại lần đầu tiên Sách Luật (Ngũ Thư) được long trọng công bố trước công chúng, khuôn mẫu phụng vụ Lời Chúa vào ngày sa-bát trong các hội đường sau này.
1Cr 12: 12-30
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô chứa đựng Thần Học về Giáo Hội, Nhiệm Thể của Đức Ki-tô: “Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung”.
Lc 1: 1-4; 4: 14-21
Tin Mừng Lu-ca tường thuật Đức Giê-su tham dự một buổi phụng vụ Lời Chúa trong hội đường Na-da-rét. Sau khi đọc bản văn I-sai-a, Đức Giê-su công bố rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị đã nghe”.
BÀI ĐỌC I (Nkm 8: 2-4a, 5-6, 8-10)
Sách Nơ-khe-mi-a có cùng một tác giả với sách Ét-ra và với hai sách Sử Biên, được soạn thảo vào giữa năm 360 và 300 trước Công Nguyên. Tự nguồn gốc, sách Nơ-khe-mi-a và sách Ét-ra được hình thành nên một quyển sách; quả thật, bản Kinh Thánh Híp-ri cũng như bản Kinh Thánh Hy lạp (bản Bảy Mươi) chỉ nhận biết một quyển sách duy nhất. Việc phân chia thành hai cuốn sách được ghi nhận vào những thế kỷ đầu tiên Ki-tô giáo.
Ở chương 8 này, sách Nơ-khe-mi-a dành một chỗ đặc biệt cho tư tế Ét-ra. Bản văn tường thuật một biến cố có tầm quan trọng lịch sử lớn lao: đây là lần đầu tiên Sách Luật, cũng được gọi Ngũ Thư, được long trọng công bố trước toàn dân.
Bối cảnh lịch sử:
Thật khó xác định niên biểu chính xác của biến cố này. Dựa trên chính tác phẩm, biến cố có lẽ đã xảy ra vào năm thứ bảy triều đại vua Ác-tắc-sát-ta, vua Ba Tư, tức vào năm 458 trước Công Nguyên. Nhưng trong toàn bộ sách, niên biểu của những biến cố thì khá phức tạp; dù thế nào, bối cảnh lịch sử thì khá rõ. Thành Giê-ru-sa-lem vẫn còn in hằn nhiều vết tích cuộc xâm lăng của đế quốc Ba-by-lon vào thế kỷ trước đó; đất nước đã mất nền độc lập gần một trăm năm mươi năm rồi. Thật ra, cuộc cai trị của đế quốc Ba Tư thì tự do và thậm chí khoan dung, khác xa với sự thống trị của đế quốc Ba-by-lon. Những người lưu đày đã được hồi hương trở về, Đền Thờ đã được tái thiết, mặc dầu nhỏ hơn và đạm bạc hơn đền thờ Sa-lô-mon trước đó. Nhưng những bức tường thành với nhiều vết loang lỗ phơi bày một cảnh tượng tang thương, dân cư Giê-ru-sa-lem trở nên thưa thớt và nhiều đoàn người ngoại quốc đến định cư; những cuộc hôn nhân hỗn hợp càng lúc càng nhiều, những thanh niên thiếu nữ Ít-ra-en được nhiều người mẹ ngoại giáo nuôi nấng dạy dỗ. Đức tin của dân Thiên Chúa gặp nguy hiểm. Giê-ru-sa-lem đã mất đi căn tính của mình.
Hai nhà canh tân:
Hai nhân vật Do thái, ông Ét-ra, tư tế và kinh sư, và ông Nơ-khe-mi-a, giáo dân, đều là quan chức của triều đình Ba Tư, dưới triều đại vua Ác-tắc-sát-sa đệ nhất; cả hai ông đều ngậm ngùi trước hoàn cảnh tang thương này, vì thế xin được phái đến miền Pa-lét-tin để chăm lo dân chúng của họ.
Tư tế Ét-ra có ý định phục hồi niềm tin cho Thành Thánh hoang tàn đổ nát và hoàn lại căn tính của Thành, bằng cách đặt dân thành vào việc lắng nghe Lời Chúa. Ông tổ chức một nghi lễ long trọng ở bên ngoài trung tâm Thành Thánh, nghĩa là ở nơi không thánh thiêng để mọi người đều có thể tề tựu. Ông khởi sự nghi lễ vào ngày mồng một tháng bảy, suốt bảy ngày liên tiếp từ sáng đến trưa.
Trước cuộc lưu đày, ngày mồng một tháng bảy đã là ngày lễ Tân Niên như Sách Dân Số đã nêu lên: “Ngày mồng một tháng bảy, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng Đức Chúa; anh em không được làm một việc nặng nhọc nào: đối với anh em, đó sẽ là ngày Hò Reo” (Ds 29: 1). Vì thế, ông Ét-ra có chủ ý chọn ngày này để quy tụ toàn dân.
Phụng vụ Lời Chúa:
Tư tế Ét-ra đứng trên bục gỗ cao và đọc Sách Thánh, còn các thầy Lê-vi thì giảng giải. Tất cả mang đậm nét của một lễ nghi phụng vụ: dân chúng đứng trong thái độ lắng nghe và cầu nguyện; vị tư tế chúc tụng Thiên Chúa, cộng đồng đáp lại, hai tay giơ lên cao hay phủ phục để bày tỏ tâm tình thờ phượng: ở đây có đủ mọi yếu tố sẽ hình thành nên nền tảng phụng vụ hội đường sau này. Nghi lễ được tường thuật ở đây đánh dấu ngày khai sinh Do Thái Giáo.
Ông Ét-ra đã khởi xướng phụng vụ Lời Chúa này với lòng mộ đạo sâu xa, cũng như niềm tôn kính lớn lao mà ông dành cho các bản văn Kinh Thánh. Ông Ét-ra là “tư tế kinh sư, chuyên về các lời diễn tả mệnh lệnh và các thánh chỉ của Đức Chúa liên quan đến Ít-ra-en” (E r 7: 11), vì thế, chúng ta có thể nghĩ rằng ông đã đóng một vai trò quan trọng vào công trình biên soạn chung cuộc của bộ Ngũ Thư. Ngoài ra, các vua Ba Tư chủ trương rằng mỗi một miền đế quốc rộng lớn của họ đều có luật riêng của mình. Vì thế, ở Ít-ra-en, luật chỉ có thể là Luật Mô-sê.
Nếu phụng vụ Lời Chúa được mô tả trong bản văn này là nguồn gốc của phụng vụ hội đường, thì đó cũng là nguồn gốc của phần thứ nhất trong việc cử hành Thánh Thể của chúng ta, được gọi “Bàn Tiệc Lời Chúa”, bởi vì việc cử hành Thánh Thể được gợi hứng từ phụng vụ hội đường. Chắc chắn vào thời lưu đày, những người Do thái, sống xa quê hương, xa Đền Thờ, đã cùng nhau tụ họp lại để cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa, một loại phụng vụ hội đường trước khi có văn bản. Chúng ta ghi nhận rằng tư tế Ét-ra nhấn mạnh tính thánh thiêng của “ngày của Chúa”, nhu cầu biến ngày của Chúa thành ngày của niềm vui và ngày của đức ái, vả lại phù hợp với truyền thống theo đó vào những ngày lễ, người ta không được quên những người nghèo khổ túng thiếu.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12, 12-30)
Đoạn văn này, được trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, tiếp theo đoạn văn của Chúa Nhật trước.
Sự hiệp nhất trong Giáo Hội:
Thánh Phao-lô đã chứng minh cho các tín hữu chia rẽ rằng cộng đoàn của họ hình thành nên một sự hiệp nhất sâu xa vì cộng đoàn sống dưới tác động của một Chúa Thánh Thần duy nhất. Thánh nhân tiếp tục chứng minh sự hiệp nhất này bằng hình ảnh về sự duy nhất của một thân thể với các bộ phận của nó. Quả thật, chính trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô này vị sứ đồ phác họa những dữ kiện căn bản về thần học Giáo Hội, Nhiệm Thể của Đức Ki tô, mà sau này thánh nhân sẽ khai triển, nhất là trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô.
Giáo Hội, Nhiệm Thể của Đức Ki-tô:
Trong một đoạn văn trước, thánh nhân đã gợi lên rằng các tín hữu được tháp nhập vào Đức Ki-tô nhờ bí tích Thánh Thể: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta bẻ Bánh Thánh , đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (10: 16-17).
Trong đoạn văn được trích dẫn hôm nay, thánh nhân quy chiếu về bí tích Rửa Tội: “Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể”. Và thánh nhân nhắc nhớ mối liên hệ giữa Phép Rửa và Chúa Thánh Thần: “Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất”. Mối liên hệ giữa Phép Rửa và Chúa Thánh Thần thuộc truyền thống Kinh Thánh, ví dụ ở Ga 7: 38-39: “Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Đức Giê-su đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng: ‘Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống’. Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận”.
Tính đa dạng của các sứ vụ trong Giáo Hội:
Sau khi đã khai triển chi li về mối liên kết mật thiết của mỗi bộ phận trong cùng một thân thể, thánh Phao-lô áp dụng vào tính đa dạng của các sứ vụ trong Giáo Hội. Ba sứ vụ được nêu tên đầu tiên cao trọng hơn các sứ vụ khác: các tông đồ, các ngôn sứ, thầy dạy. Danh xưng “tông đồ” phải được hiểu theo nghĩa rộng: không chỉ nhóm Mười Hai hay thánh Phao-lô, những người đã lãnh nhận sứ vụ của mình từ chính Đức Ki-tô, nhưng còn những ai mà họ đã ủy quyền. Danh xưng “các ngôn sứ” bao gồm những nhà rao giảng, những nhà truyền giáo, những người mà chúng ta có thể nói rằng họ đã lãnh nhận sứ vụ từ Chúa Thánh Thần. Thánh Phao-lô khai triển vai trò của họ cho đến chương tiếp theo sau. “Người nói tiên tri thì phải nói với người ta để xây dựng, để khích lệ và an ủi” (14: 3). Danh xưng “thầy dạy” là những người Ki-tô hữu có học thức đảm nhận trách nhiệm đào tạo các tín hữu.
Những sứ vụ hay những đặc sủng phải được thi hành mà không tìm cách xé lẽ hay gây nên sự đố kỵ. Nếu mỗi người chu toàn ơn đặc sủng mà mình lãnh nhận thì sự hiệp nhất của cộng đồng sẽ ngự trị; vì các bộ phận không đơn giản là cái thêm vào Thân Thể của Đức Ki tô: “Như thế, không có sự chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phần nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung”. Sau này thánh Phao-lô sẽ nói rằng Đức Ki-tô là đầu, thủ lãnh của Giáo Hội: Ngài là nguyên lý hợp nhất của toàn thân thể mầu nhiệm của Ngài.
Thần học của thánh Phao-lô về mối quan hệ mầu nhiệm hiệp nhất người Ki-tô hữu với Đức Ki tô có nền tảng của nó ở nơi giá trị của bí tích Rửa Tội và bí tích Thánh Thể, nhưng chắc chắn trực giác đầu tiên đến từ biến cố trên đường Đa-mát, từ một tiếng nói gây choáng váng: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” (Cv 9: 4).
TIN MỪNG (Lc 1: 1-4; 4: 14-21)
Tin Mừng hôm nay được kết hợp bởi hai phân đoạn rất riêng biệt, cách xa nhau trong Tin Mừng Lu-ca. Trước hết là Lời Tựa của sách Tin Mừng Lu-ca (1: 1-4), tiếp đó là khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê (4: 14-21), trong khi bỏ qua những chương về thời thơ ấu của Đức Giê-su và thánh Gioan Tẩy Giả, vân vân, mà chúng ta đã đọc những đoạn trích vào Mùa Vọng và Lễ Giáng Sinh.
Lời Tựa:
Lời Tựa này chuẩn bị một cách tuyệt vời lời công bố của Đức Giê-su ở hội đường Na-da-rét: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa mới nghe”. Nói một cách chính xác, lời công bố này là khởi đầu Tin Mừng.
Như các văn nhân thời Hy lạp, thánh Lu-ca dẫn nhập tác phẩm của mình với một lời tựa, trong đó thánh ký giải thích lý do tác giả viết tác phẩm của mình: thông tri một cách chính xác cho ông Thê-ô-phi-lô, chắc chắn một nhân vật quan trọng, chính cũng cho nhân vật này tác giả sẽ đề tặng sách Công Vụ Tông Đồ; tuy nhiên, chúng ta không biết một chút gì về nhân vật này.
Thánh Lu-ca thổ lộ nổi bận lòng của một sử gia: “Tôi cũng vậy, sau khi cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự”. Quả thật, thánh ký không là một Tông Đồ, cũng không là một môn đệ trực tiếp của Đức Giê-su, cũng không là một người đã thấy tận mắt Đức Giê-su, đã nghe tận tai những lời Ngài nói; nói cho cùng, thánh ký đã không sống những biến cố mà ông tường thuật; ông làm việc trên những chứng liệu. Ông chỉ ra rằng ông đã có những vị tiền nhiệm, trong số đó phải kể đến thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu (Tin Mừng Lu-ca thường theo rất sát Tin Mừng Mác-cô). Ngoài ra, dựa trên những truyền thống “được truyền đạt bởi những chứng nhân mắt thấy tai nghe”, thánh ký đã tự mình tra cứu; chắc chắn ông đã tiếp xúc với thánh Gioan, vì có những điểm tương đồng giữa Tin Mừng thứ ba và Tin Mừng thứ tư.
Đức Giê-su viếng thăm Na-da-rét:
Từ Lời Tựa này chúng ta đi thẳng vào khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê và cuộc viếng thăm Na-da-rét của Ngài.
Tình tiết của cuộc viếng thăm Na-da-rét cũng được thánh Mác-cô (Mc 6: 1-6) và thánh Mát-thêu (Mt 13: 53-58) tường thuật. Thánh Lu-ca tường thuật dài hơn; vì thế, câu chuyện này được phân chia thành hai phần và được công bố vào hai Chúa Nhật liên tiếp. Việc phân chia thành hai phần này càng được biện minh hơn nữa vì xem ra có hai đoạn văn về việc Đức Giê-su viếng thăm Na-da-rét. Vào cuộc viếng thăm thứ nhất, Đức Giê-su được mọi người hân hoan chào đón và ngưỡng mộ; những người đồng hương của Ngài hảnh diện về danh tiếng của một người trong họ và thán phục về cách giải thích Kinh Thánh của Ngài. Trái lại cuộc viếng thăm thứ hai là một cuộc thất bại và gây nên làn sóng giận dữ của dân làng Na-da-rét (chính cuộc viếng thăm lần thứ hai này mà hai Tin Mừng nhất lãm khác tường thuật).
Nhưng thánh Lu-ca đã ráp nối những lời chứng liên quan đến hai cuộc viếng thăm thành một câu chuyện duy nhất, như vậy tăng cường hơn nữa bài tường thuật của mình: thánh ký làm cho câu chuyện của mình thành biểu tượng cho hai thái độ của dân Ít-ra-en: trước hết, hoan hĩ tiếp đón Đức Giê-su, đoạn loại bỏ và tìm cách giết Ngài. Ngoài ra, Đức Giê-su loan báo rằng sứ điệp của Ngài cũng được dành cho lương dân (phần thứ hai của câu chuyện này được trích dẫn vào Chúa Nhật tới). Như vậy câu chuyện về sự khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê mang tính ngôn sứ: những biến cố tương lai được ghi khắc ở nơi những tình tiết khởi đầu này.
Phụng vụ hội đường vào ngày sa-bát:
“Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người tôn vinh”. Chính ở nơi lời này mà Thánh Lu-ca tóm tắt giai đoạn vinh quang của sứ vụ Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê, vì danh tiếng của Ngài đồn ra khắp vùng. Vào một ngày sa-bát, Ngài đến hội đường Na-da-rét, nơi Ngài đã từng theo thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a đến tham dự phụng vụ ngày sa-bát.
Đối với người Do thái, ngày sa-bát là ngày thánh để kính Đức Chúa, ngày nghỉ ngơi và kinh nguyện, như Chúa đã truyền (Xh 20: 8-11; Đnl 5: 12-15). Vào ngày đó dân chúng cùng nhau tụ họp lại để lắng nghe Lời Chúa. Vào lúc bắt đầu phụng vụ sa-bát này, họ xướng kinh “Shêma”, và kinh “mười tám lời chúc phúc”; kinh “Shêma” được xem như kinh tin kính của người Do thái, kinh này lập lại Đnl 6: 4-5 với lời mở đầu: “Nghe đây (Shêma) hỡi Ít-ra-en”, và được phụ thêm với Đnl 11: 13-21. Sau đó, người ta lắng nghe Lời Chúa được trích từ Sách Luật (Ngũ Thư) hay từ các sách Ngôn Sứ. Mọi tín hữu đều có quyền đọc Kinh Thánh, hoặc tự nguyện hay được viên trưởng hội đường chỉ định. Vị này thường mời một người trong số những người hiện diện, thông thạo Kinh Thánh lên công bố và giảng giải Lời Chúa cho cộng đoàn. Vào dịp này, chắc chắn Đức Giê-su được mời. Đức Giê-su thường lợi dụng dịp này để rao giảng đạo lý của Ngài (x. Lc 4: 16tt.), và sau này các Tông Đồ của Ngài cũng sẽ noi gương Ngài như vậy (x. Cv 13: 5, 14, 42, 44; 14: 1; vân vân). Phụng vụ ngày sa-bát kết thúc với công thức chúc lành tư tế, được vị chủ trì hay một tư tế nếu có mặt ở đó, xướng, và dân chúng đáp “A-men” (x. Ds 6: 22tt.).
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”:
Đức Giê-su gặp thấy đoạn văn Is 61: 1-2, trong đó ngôn sứ I-sai-a biện minh sứ mạng của mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất trích dẫn đoạn văn I-sai-a này. Đây cốt là một trong những đoạn văn của ngôn sứ I-sai-a đệ tam được gởi đến cho những người hồi hương trở về từ cảnh lưu đày ở Ba-by-lon; họ bị bầm dập, nghèo khổ, thất vọng trước những khó khăn; họ thuộc vào số những người nghèo của Đức Chúa.
Sau khi đã đọc xong, Đức Giê-su không giải thích bản văn nhưng công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Đức Giê-su không ngần ngại hiện tại hóa sấm ngôn của Is 61: 1-2 vào con người và sứ mạng của mình: chính Ngài là Đấng mà bản văn I-sai-a loan báo. “Theo thánh Lu-ca, các câu trên là tuyên ngôn cứu thế đầu tiên của Đức Ki-tô, nó sẽ được nối tiếp bằng những việc làm và lời nói mà Tin Mừng cho chúng ta biết. Bằng những việc làm và lời nói này, Đức Ki tô làm cho Chúa Cha hiện diện giữa loài người” (Gioan Phao-lô II, Thiên Chúa giàu lòng xót thương, Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, 2008, tr. 13-14).
Năm Hồng Ân của Chúa:
“Một năm hồng ân của Chúa” ám chỉ đến Năm Toàn Xá được cử hành cứ năm mươi năm một lần (x. Lv 25: 8-17). Năm Toàn Xá là hình thức mở rộng của Năm Sa-bát được cử hành cứ bảy năm một lần (Đnl 15: 1-11). Năm này tiêu biểu lý tưởng công bình xã hội mà người ta nhắm đến một cách thiết thực và cụ thể. Đây là Tin Vui, Tin Mừng, Tin Giải Thoát cho những người nghèo, những kẻ cô thân cố thế bị chèn ép áp bức, dưới bất kỳ hình thức nào, đến nỗi phải mất nhà cửa đất đai, trở nên nghèo khổ và đem thân làm tôi đòi cho những kẻ giàu có và có quyền có thế. Đó cũng là năm mời gọi hết mọi người hãy ăn năn sám hối, vì hoặc đã góp phần vào sự bất công hay đã nhắm mắt làm ngơ trước những đau khổ của anh em đồng loại của mình. “Cũng thế, Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Ki-tô trong họ” (Vatican II, Lumen gentium, 8).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN – NĂM C
Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài với lời tuyên bố “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho những người nghèo”. Chúng ta đều là những người nghèo: kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho chính chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng lòng mình ra đón nhận Tin Mừng của Chúa.
Gợi ý sám hối
Chúng con thường khư khư bám lấy ý riêng, không mở lòng ra đón nhận ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu đã mang Tin Mừng đến cho chúng con, nhưng chúng con không nhiệt tình đón nhận.
Do cuộc sống ích kỷ và khô cằn, chúng con không làm cho Tin Mừng của Chúa trở nên hấp dẫn đối với những người chưa biết Chúa.
III. Lời Chúa
Bài đọc I (Nkm 8,1-10)
Dân Do Thái vừa từ chốn lưu đày trở về. Tư tế Ét-ra tập họp mọi người tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Có lẽ đây chính là bộ Ngũ Thư mà Ét-ra đã sưu tập lại từ những nguồn tài liệu rải rác có sẵn trước đó (các nguồn tài liệu J, E, D, P), vì thế mà thời gian đọc kéo dài rất lâu, từ sáng tới trưa.
Khi nghe đọc, toàn dân đều khóc. Có lẽ một phần do cảm động vì thấy được tình thương của Thiên Chúa đối với họ qua dòng lịch sử; phần khác là do hối tiếc bởi họ đã không đáp ứng tốt với tình thương Thiên Chúa.
Ét-ra an ủi dân: “Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em”.
Đáp ca (Tv 18)
Nối tiếp ý tưởng của bài đọc I, Tv 18 ca tụng Luật Chúa: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn”
Tin Mừng (Lc 1,1-4 và 4,14-21)
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nadarét miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức (ngày Sabbat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
Bài đọc II (1 Cr 12,12-30) (Chủ đề phụ)
Tiếp tục huấn đức cho tín hữu giáo đoàn Côrintô đang chia rẻ nhau, Thánh Phaolô dùng hình ảnh nhiệm thể Đức Kitô.
Giáo Hội là một thân thể mầu nhiệm, trong đó Chúa Giêsu là đầu và các tín hữu là chi thể.
Các chi thể tuy khác nhau, nhưng mỗi chi thể có chức năng riêng của mình.
Do đó các chi thể phải bổ túc cho nhau, đoàn kết với nhau, và nhất là luôn kết hợp với đầu.
Gợi ý giảng
* 1. Có phải là Tin Mừng không?
Quyển sách ghi lại cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu ngày xưa được gọi là “Ê Vang”, trước đây không lâu lắm được gọi là Phúc Âm, còn ngày nay thì thường được gọi là Tin Mừng.
Xét theo thần học Thánh Kinh thì hai chữ “Tin Mừng” là đúng nghĩa nhất. Nhưng nếu xét về ảnh hưởng của nó trên cuộc sống thì sao?
Trên thực tế, có nhiều người không thích đọc Tin Mừng. Nhiều người ngán không muốn nghe Tin Mừng. Tại sao? Vì họ thấy trong đó toàn là những bổn phận và những đòi buộc. Không nghe, không biết thì không phải làm theo.
Sở dĩ có cảm giác ngán và sợ như thế là vì người ta chỉ mới thấy được những chi tiết phụ, chứ chưa hiểu thấu tới cốt lõi.
Cốt lõi là một lời loan báo rất phấn khởi: Xin hãy nghe đây. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên đã sai Con của Ngài đến dạy cho loài người con đường hạnh phúc. Biết được con đường dẫn tới hạnh phúc chẳng phải là một Tin Mừng sao?
Dĩ nhiên những lời Chúa Giêsu dạy là những điều ta phải làm theo, mà làm theo thì phải cố gắng, phải cực khổ, phải hy sinh v.v. Nhưng làm theo như vậy thì sẽ được hạnh phúc.
Một bà kia rất thường đọc Sách Tin Mừng và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích: Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới năm lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó.
Chúng ta đừng coi những lời trong sách Tin Mừng là những đòi hỏi của một người xa lạ đâu đâu. Hãy xem đó là những lời khuyên dạy chí tình của Đấng đã không quản ngại từ trời xuống thế, chịu cực chịu khổ đến gần chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Ngài đã làm tất cả chỉ vì thương chúng ta và Ngài không muốn gì khác hơn là muốn cho chúng ta được hạnh phúc.
* 2. Tin Mừng cho người nghèo
Không phải Chúa Giêsu được sai đi để loan Tin Mừng cho tất cả mọi người sao? Vậy tại sao Ngài lại nói “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo”?
Chúng ta hãy phân tích kỹ toàn văn đoạn sách Isaia mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho sứ mạng của Ngài:
Sau khi công bố “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo”, Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo:
Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha
Cho người mù biết họ được sáng mắt
Trả tự do cho người bị áp bức
Công bố một năm hồng ân của Chúa
Như vậy, “người nghèo” là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức… và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ.
Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn? Ai mà không “bị giam cầm” trong một thứ tù ngục nào đó? Ai mà không “mù” một cách nào đó? Ai mà không “bị áp bức” bởi một thế lực gian tà nào đó?
Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo.
* 3. “Chúa đã sai tôi đi…”
Qua bài Tin Mừng này, Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi.
Bất cứ ai khi được sai đi làm một nhiệm vụ thì sẽ cố gắng để làm cho thật tốt:
– Khi còn nhỏ, chúng ta thường được cha mẹ sai đi tới những nhà hàng xóm để mượn một món đồ, hay để biếu xén vài món quà. Bình thường thì ta nói năng hồ đồ, cộc lốc. Nhưng khi được sai đi làm những nhiệm vụ đó, chúng ta lựa lời nói, lựa cung cách xử sự, có khi suốt doc đường cứ lẩm nhẩm những câu lễ phép mà cha mẹ đã dạy để chút nữa nói năng cho đàng hoàng.
– Thỉnh thoảng cha sở sai một người giáo dân trong họ đi đến một gia đình nguội lạnh rối rắm để làm việc tông đồ. Người tông đồ ấy đến gia đình bê trễ nọ phải biết cách tỏ ra lịch thiệp, giúp đỡ, phải dám nói về đạo, và đồng thời cũng phải tỏ ra mình có đôi chút đạo đức để khỏi bị người bê trễ kia hạch sách “Ông cũng bê bối như ai thôi đừng khuyên tôi”.
Dĩ nhiên khi đóng vai trò một kẻ được sai đi làm tông đồ thì người ta phải cố gắng tỏ ra mình là người tốt, trong khi thực tế thì đời sống của họ chưa chắc là tốt được như thế. Điều đó xem ra là một sự giả hình, vì cái mình tỏ ra bên ngoài không đúng với cái đời sống thực sự của mình. Tuy nhiên có lẽ không nên nặng lời dùng chữ “giả hình” trong trường hợp này. Bởi vì người tông đồ ấy có tỏ ta như vậy cũng chỉ vì muốn cho sứ mạng tông đồ của mình được hoàn thành tốt đẹp thôi. Và hơn nữa, nhờ cố gắng tỏ ra tốt hơn như thế trước mắt người khác mà dần dà chính đời sống của người tông đồ thực sự trở thành tốt hơn thật.
Tất cả chúng ta đều là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta đều được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đi, rồi đến phiên Chúa Giêsu lại sai chúng ta đi. Chúa Giêsu đã phán “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi”. Bởi vậy lời Thánh kinh mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho bản thân Người ” Chúa đã sai tôi đi”, cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta “Chúa cũng sai tôi đi”.
Sai đi để làm gì? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi người Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vaticanô 2 còn nói mạnh hơn: “Làm Tông đồ là bản tính của người Kitô hữu”. Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.
Nhưng sai đi làm tông đồ với ai? Bài Tin Mừng hôm nay kể rõ những hạng người mà Chúa sai ta đến với họ:
a/ Trước tiên là những người nghèo: Số người này thật là nhiều, hàng ngày ta gặp thiếu gì người như vậy. Thế nhưng, khi ta gặp một người nghèo tôi có cư xử lễ độ với họ không hay là khinh bỉ họ? Ta có tìm cách giúp đỡ họ, hay nếu không có khả năng giúp đỡ thì ta có vận động người khác giúp đỡ không? hay ta tìm cách tránh xa họ, đuổi khéo họ để mình khỏi bị quấy rầy? Ta có cố gắng an ủi họ để họ đừng vì cảnh nghèo mà phải xa đạo, xa Chúa không? Trước những câu hỏi đó, nếu ta chỉ biết trả lời “không” thì sứ mạng tông đồ của ta như một kẻ được Chúa sai đi đã bị thất bại.
b/ Chúa còn sai ta đi tới những người đau khổ. Những người này cũng không thiếu trong khu xóm của ta, có khi ở cạnh nhà ta nữa. Nhưng phải chăng mặc dù Chúa đã sai ta đi, ta vẫn cứ ở nhà chưa đến thăm viếng họ? Và khi đến với họ, ta có đem lại cho họ được thêm một chút bình an, một chút tin tưởng nào không? Chúng ta đừng quên câu Tin Mừng hôm nay “Chúa đã sai tôi đi rao giảng Tin mừng, nghĩa là phải làm cho người ta được thật sự vui mừng, tin tưởng, hy vọng.
c/ Chúa còn sai ta đi đến với những người tội lỗi. Những người này cũng không thiếu trong họ đạo. Nhưng có lẽ đối với họ, chúng ta lại cũng quên lời Chúa “Chúa đã sai tôi đi đến với họ”. Vì quên mà thường chúng ta cứ lảng tránh họ, cứ kết án họ. Chúng ta không thực hiện Lời Chúa dạy ta đến với họ để an ủi họ, khích lệ và dẫn họ trở về tình thương của Thiên Chúa.
d/ Cuối cùng trong xã hội ngày nay, Chúa còn sai ta đi đến với những kẻ không tin. Những người này cũng có mặt rất nhiều: trong sở làm của ta, ngoài đường phố chung với ta, trong buổi họp với chúng ta. Đừng quên Chúa sai ta đi tới họ để cũng rao giảng Tin mừng cho họ. Nếu ta ngại, hay thấy bất tiện không dám nói thẳng với họ về Chúa về đạo thì ít ra đời sống của chúng ta, cách làm việc của chúng ta, lương tâm của chúng ta có thể thay cho lời nói của chúng ta không?
Ngôn sứ Isaia đã hát lên rằng “Đẹp thay bước chân của những kẻ được sai đi rao giảng Tin mừng”. Những kẻ được sai đi rao giảng Tin mừng ấy là chính chúng ta, mỗi người hết thảy trong chúng ta. Xưa nay có lẽ chúng ta quên điều đó. Nhưng hôm nay Lời Chúa nhắc chúng ta nhớ lại. vậy dưới sự hướng dẫn và ban ơn của Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy mạnh dạn bước đi. Đi đến với những người nghèo khó, những người đau khổ, những kẻ tội lỗi và những kẻ không tin. Đến với họ để rao giảng Tin mừng cho họ bằng cách này hay cách khác tùy hoàn cảnh. Và hãy an ủi mình rằng những bước chân được sai đi như vậy thật là đẹp!
4*. “Ngày của Chúa”
Ngày một vị Thủ Tướng nhậm chức, ông đọc một bài diễn văn để công bố cho dân biết chương trình hoạt động của ông trong nhiệm kỳ. Khởi đầu sứ vụ của mình, Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Tại hội đường Nadarét, Chúa Giêsu đã dùng một đoạn trích từ sách ngôn sứ Isaia để phác họa sứ mạng của Ngài. Chúa Giêsu loan báo rằng cái “Ngày của Chúa” mà dân chúng bấy lâu nay hằng mong đợi thì nay đã đến. Đó là một ngày hồng ân cho mọi người, cách riêng là những người nghèo.
Mẫu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu lời công bố ấy của Chúa Giêsu tuyệt diệu đến chừng nào.
Ngày xưa có một ông điền chủ có đất đai rất nhiều. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn. Một thời gian sau, các tá điền lâm cảnh túng thiếu nợ nần. Họ rất lo lắng vì không đóng tô đúng hạn cho chủ được. Dù họ biết ông chủ rất tốt bụng không đến nỗi làm khó dễ họ, nhưng họ vẫn áy náy không biết chủ sẽ hoãn nợ cho họ bao lâu.
Thế rồi một hôm viên quản lý đi đến từng nhà các tá điền. Ông này hỏi mỗi người thiếu nợ bao nhiêu, trong nhà có bao nhiêu người, hằng ngày ăn uống thế nào, gia đình có ai già yếu bệnh tật gì không v.v. Cách chung nhà ai cũng túng thiếu và đang gặp rất nhiều khó khăn.
Một ít ngày sau, các tá điền được mời đến gặp chủ. Ai nấy đều hồi hộp, tin chắc là ông chủ sẽ lấy lại đất, bởi họ không còn khả năng đóng tô nữa. Khi mọi người đã đủ mặt, viên quản lý bước ra, bắt đầu nói: “Ông chủ biết là các người ai cũng rất nghèo nên không còn khả năng đóng tô nữa. Vì thế ông bảo tôi báo cho các người hay”. Nói tới đây viên quản lý bỗng ngừng lại. Con tim của các tá điền cũng như ngừng đập. Viên quản lý nói tiếp: “Tôi có một Tin Mừng muốn loan báo cho các người”. Mọi người xôn xao: “Tin Mừng ư! Tin Mừng gì vậy?” Lúc đó viên quản lý hô lớn: “Ông chủ tha hết nợ cho các người. Từ nay các người cứ an tâm làm ăn nuôi sống gia đình”.
Thế là mọi người reo hò sung sướng. Họ ôm nhau nhảy múa hát ca. Sau đó ai nấy trở về nhà mình. Sau bao năm trời, hôm nay họ mới chợt nhận thấy ánh nắng mặt trời rất là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất líu lo, hoa cỏ hai bên đường và trên khắp cánh đồng vô cùng rực rỡ.
Lời loan báo của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét cũng là một Tin Mừng như thế. Chúa Giêsu là viên quản lý của Thiên Chúa. Ngài được sai đến để báo tin Thiên Chúa đã xóa nợ cho loài người.
Những người pharisêu nghĩ rằng “Ngày của Chúa” là một ngày phán xét. Còn Chúa Giêsu thì loan báo “Ngày của Chúa” là người xóa nợ, ngày hồng ân.
“Ngày của Chúa” không phải là một ngày nhất định ghi trong lịch, mà là mọi ngày. Thực vậy, ngày nào cũng là “Ngày của Chúa” hết. Tin Mừng về “Ngày của Chúa” là: ơn giải thoát chúng ta không tùy thuộc vào công nghiệp của chúng ta, mà hoàn toàn do lòng tốt của Thiên Chúa. Điều duy nhất chúng ta phải làm là mở rộng cửa lòng cho Chúa Giêsu ngự vào mang ơn đến cho chúng ta. (FM)
Sau nửa thế kỷ bị lưu đày bên Babylon, dân Do Thái được hồi hương. Tư tế Ét-ra tập họp họ lại để tái hiến dâng họ cho Thiên Chúa. Ét-ra bắt đầu bằng việc đọc cho họ nghe sách luật của Môsê. Từ đó trở đi, đời sống và tín ngưỡng của dân Do Thái gắn chặt với quyển Sách Luật ấy. Có thể nói, đó là một dân “sống với sách”.
Kitô hữu chúng ta cũng là những người “sống với sách”. Chỉ khác một điều là quyển sách chúng ta sống với là quyển Tin Mừng.
Có một chuyện kể về một dân kia chưa từng nghe nói tới quyển Tin Mừng. Một hôm có một người lạ đến báo cho họ rằng “Tôi đến đây mang cho các người một tin mừng”. Rủi thay người ấy mang bệnh và chết trước khi nói rõ cho họ biết tin mừng ấy là gì. Họ mới lục lúi của người ấy và gặp một quyển sách có tựa đề là “Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô”. Họ đoán rằng đó chính là cái tin mừng mà người kia muốn báo cho họ biết. Thế là họ bắt đầu đọc quyển sách ấy. Sách viết về một nhân vật giàu lòng nhân ái, làm nhiều việc lạ lùng để giúp cho những người khốn khổ và dạy nhiều điều rất cao thượng.
Đọc xong quyển sách, một người trong họ nói: “Tiếc thay người mang quyển sách này đã chết. Chắc là một môn đệ của ông Kitô ấy”. Một người nói: “Nhưng chắc là ở nơi ông ấy sống cũng có nhiều một đệ khác của ông Kitô”. Một người khác nữa góp ý: “Chúng ta thử gởi người đến đấy xem các môn đệ ông Kitô sống những lời ngài dạy thế nào”. Mọi người tán thành.
Họ cử Francis đi. Đây là một chàng trai rất chín chắn. Chàng đã tìm đến nơi, tiếp xúc với rất nhiều người, sau đó trở về. Khi chàng vừa về tới nơi thì những người đồng hương của chàng đặt những câu hỏi tới tấp:
“Những tín đồ của quyển sách ấy có thương yêu nhau không?”
“Họ có hòa thuận với nhau không?”
“Họ có đơn sơ không?”
Họ có hạnh phúc không?”
Tất cả các câu hỏi đều có thể tóm trong một câu duy nhất này: “Những môn đệ của ông Kitô ấy có sống theo quyển sách của Ông ta không?”.
Và sau đây là báo cáo của Francis:
Trên căn bản, tôi đã gặp được 5 hạng môn đệ của ông Kitô ấy:
-Hạng thứ nhất chỉ mang danh Kitô thôi. Dù họ có rửa tội nhưng họ chẳng sống theo một lời dạy nào của Ngài cả.
-Hạng thứ hai là những người làm môn đệ Đức Kitô theo thói quen. Mặc dù người ta thấy họ giữ những điều Đức Kitô dạy, nhưng những điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến cách sống của họ cả. Tôi đã quan sát cách sống của họ một thời gian lâu và thấy ra rằng thực ra họ sống theo những nguyên tắc không liên can gì tới lời dạy của Đức Kitô, một số còn ngược lại nữa.
-Hạng thứ ba gồm một số người rõ ràng là sùng mộ đức tin Kitô. Họ cố sức làm những việc tốt, nhưng xem ra họ thiếu sức sống, họ không thực sự có được những đức tính của Thầy họ.
-Hạng thứ tư có thể được gọi là những Kitô hữu thực hành. Dường như họ đã nắm được trọng tâm của Tin Mừng. Họ biết quan tâm đến người khác và không xấu hổ vì người khác biết họ là Kitô hữu. Ở một vài nơi tôi thấy họ bị bách hại. Ở một vài nơi khác tôi thấy họ phải gặp tình cảnh có lẽ còn tồi tệ hơn nữa, đó là bị đồng bào của chính họ đối xử lạnh nhạt.
-Hạng thứ năm không nhiều. Đó là những người mà tôi không ngại gọi là những Kitô hữu chính danh. Họ sống Tin Mừng cách sâu sắc. Khi gặp họ, tôi tưởng là gặp chính Đức Kitô.
Câu chuyện kết thúc ở đó, nên không biết dân chúng xứ đó có đón nhận Tin Mừng hay không.
Ngày nay rao giảng Tin Mừng cho thế giới là nhiệm vụ của chúng ta. Đó là một đặc ân to lớn nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Tuy nhiên, cũng như Đức Kitô, chúng ta được Chúa Thánh Thần giúp đỡ. Cách tốt nhất để rao giảng Tin Mừng là sống tốt đời Kitô hữu. Quyển sách duy nhất mà nhiều người chưa bao giờ đọc để hiểu Tin Mừng, đó chính là quyển sách của đời sống chúng ta. (FM)
6*. Xóa nợ cho nhau
Trước lúc lìa đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh tổng đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở ra xem, trừ quan tổng đốc.
Cái ống tre ấy truyền đến người cháu bảy đời của Trạng, mới rước lên dinh quan tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống thấy một cuộn giấy, ông rút ra xem thấy có hai câu chữ nho:
Ngã cứu nhi thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngã thất thế chi bần!
Nghĩa là:
Ta cứu ngươi khỏi xà nhà đổ,
Ngươi cứu cháu bảy đời của ta còn nghèo.
Đang lúc bận việc, quan tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược ấy, ông liền nổi giận. Sẵn cầm chiếc quạt trên tay, ông đứng phắt dậy, chạy lại định đánh người cháu bảy đời của Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà ngay trên đỉnh đầu đổ xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ông mới vừa bước ra, nên không sao cả.
Quan tổng đốc lúc đó mới giật mình hiểu rõ Trạng đã cứu mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Quan ân cần xin lỗi người cháu ông, mời về tư thất đãi cơm rượu rồi cho một số tiền khá lớn, để cứu giúp cho gia đình cháu của Trạng đang lâm hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu.
*
Nói đến các bậc tiên tri ở nước ta, trước hết phải kể đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sinh thời ông đã nổi tiếng về các giai thoại tiên tri, đến nỗi các sĩ tử nô nức xin theo học và thiên hạ đua nhau tìm đến hỏi về những việc tương lai.
Tuy nhiên, các lời sấm của ông được ứng nghiệm là do trí thông minh của ông đã mách bảo. Còn hôm nay, nơi Chúa Giêsu đã ứng nghiệm sấm ngôn của Isaia do Thánh Thần linh ứng. Chính Chúa Giêsu cũng là một tiên tri được đầy tràn Thánh Thần. Một tiên tri cao cả mang ơn gọi và sứ mạng cứu độ.
Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một việc xức dầu.
Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo hèn, những kẻ nghèo tiền, nghèo bạn, nghèo văn hoá.
Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm trong lao tù, trong ích kỷ, trong tham lam.
Người cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ u mê thoát vòng tối tăm.
Người trả tự do cho người bị áp bức, phá xiềng xích cho những tội nhân.
Người khai mở một Năm Toàn Xá, Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ.
Chúng ta cũng đã được xức dầu để trở thành tiên tri, đi loan báo Tin Mứng cứu độ.
Nếu Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Chúa Giêsu, chúng ta cũng hãy ngoan nguỳ để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.
Nếu sấm ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu; ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong cuộc đời chúng ta, bằng sự cộng tác tích cực của bản thân mỗi người.
Con người ngày nay khắc khoải trong lo âu sầu muộn, người tín hữu Kitô phải là chứng nhân của niềm vui.
Con người ngày nay ngụp lặn trong bóng tối của lầm lạc, người tín hữu Kitô phải chiếu toả ánh sáng của đức tin.
Con người ngày nay bị kìm toả trong vòng nô lệ của tiền bạc, danh vọng; ngườt tín hữu Kitô phải loan báo sự tự do của con cái Chúa.
Nếu những người đã chịu phép Rửa trong Thánh Thần, mà còn làm ngơ trước những con người nghèo hèn, áp bức kẻ cô thân cô thế, bịt mắt những anh em dốt nát, và giam hãm tha nhân trong ngục tù dưới nhiều hình thức; thì quả thật, Lời Chúa chẳng bao giờ được ứng nghiệm trong cuộc đời họ.
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con cũng biết xoá nợ cho nhau, không chỉ xoá nợ tiền bạc mà còn xoá đi những bất bình, nghi kỵ thành kiến, hiểu lầm nhau…, để mọi người chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.
Xin cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ của Chúa. Amen. (TP)
7*. Giáo Hội là nhiệm thể Đức Kitô
Ngày nay trong y khoa có quá nhiều chuyên khoa khiến cho cơ thể như bị tách rời thành nhiều phần. Một số bác sĩ chuyên về tim, một số khác chuyên về não, một số khác chuyên về mắt, một số khác chuyên về tai, vân vân. Chuyên môn là tốt nhưng cũng có mặt trái của nó. Các bác sĩ ấy có thể hiểu biết rất ít về con người mà họ đang điều trị về mắt, hay tim, hay chân tay…
Cơ thể con người là một toàn thể thống nhất mặc dù nó gồm bởi nhiều bộ phận. Những bộ phận này rất khác nhau và có những chức năng khác nhau. Chắc hẳn là một số bộ phận quan trọng hơn những bộ phận kia. Tuy nhiên chúng đều cần cho cơ thể và đều cần cho nhau.
Giáo Hội cũng thế. Chúng ta tuy nhiều nhưng tạo thành một thân thể duy nhất trong Đức Kitô (Bài đọc II). Bởi Phép Rửa, chúng ta đã trở thành chi thể của thân thể Đức Kitô, tức là Giáo Hội. Có lẽ có “người” nào đó muốn sống một mình, không lệ thuộc cộng đoàn. Nhưng không thể nào có “người kitô hữu” đơn độc được. Kitô hữu nào tự ý cắt mình rời khỏi cộng đoàn thì làm cho cộng đoàn bị đau như một cơ thể bị cắt lìa một chi thể.
Cộng đoàn đòi hỏi chúng ta. Vì lý do đó nên nhiều người bị cám dỗ sống một mình, tìm ơn cứu độ một mình không cần đến người khác. Nhưng không thể như thế được. Chúng ta cần nhau, cũng như các chi thể cần nhau vậy. Và Giáo Hội cần tất cả chúng ta. Chúng ta cần ý thức tùy thuộc nhau và tùy thuộc Đức Kitô. Chúng ta vẫn liên đới với nhau dù khi chúng ta chỉ muốn nghĩ đến bản thân mình.
Sự tùy thuộc vào cộng đoàn có nhiều lợi ích rõ ràng. Hãy lấy cây sậy làm thí dụ. Nếu chỉ có một mình thì nó rất yếu và dễ gãy đổ. Nhưng nhiều cây bó chung lại với nhau thì không thể nào bẻ gãy được. Đối với con người cũng thế. Sức mạnh là do hợp quần. Người ta sẽ can đảm hơn khi quen biết nhau, khuyến khích nhau và sát cánh cùng nhau chiến đấu. Nhiều công trình to lớn đã được thực hiện nhờ người ta biết làm việc chung với nhau.
Tinh thần cộng đoàn được chính Chúa Giêsu nhấn mạnh khi Ngài kể dụ ngôn cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho, chúng con là cành”. Một hình ảnh thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu sắc về sự hợp nhất và tùy thuộc lẫn nhau.
Rõ ràng là các cành nho cần đến cây nho. Nhưng cây nho cũng cần đến cành nho vậy, bởi vì chính cành nho sinh trái. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn có giữa Ngài và các môn đệ của Ngài. Ngài là cây nho, chúng ta là cành nho. Hay nói như Thánh Phaolô: “Chúa Giêsu là đầu của thân thể, chúng ta là chi thể của thân thể ấy”. Nếu không ý thức về sự tùy thuộc lẫn nhau, chăm sóc cho nhau và chịu trách nhiệm về nhau thì ta không còn là Kitô hữu nữa.
Hoa trái mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chúng ta trước hết chính là sự hiệp nhất giữa chúng ta với nhau. Dấu chỉ cho mọi người biết chúng ta thuộc về Ngài là chúng ta yêu thương nhau và chăm sóc nhau. (FM)
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa là núi đá cho ta trú ẩn, là thành trì bảo vệ ta. Với lòng tin tưởng Chúa là Đấng phù trợ, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
Chủ tế: Lạy Chúa, khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng con trở nên anh em một nhà và có cùng một Cha chung trên trời. Xin Chúa cho chúng con luôn sống hiệp nhất và yêu thương nhau. Chúng con cầu xin
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Tất cả chúng ta đều được Rửa tội trong cùng một Chúa Thánh Thần. Giờ đây chúng ta hãy kết hợp với Thánh Thần mà dâng lên Chúa Cha lời kinh nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.
Giải tán
Chúa Giêsu đã được đầy tràn Thánh Thần và được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo khó. Anh chị em cũng đã đón nhận tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần và Chúa cũng sai anh em đi. Vậy anh chị em hãy hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người anh chị em gặp gỡ.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
Trong cuộc lưu đầy ở Babylon, dân Do thái bị quân thù hành hạ áp bức, nhiều người đã tuyệt vọng vì tương lai rất mịt mờ, nhưng tiên tri Isaia đã báo cho họ biết là họ sẽ được giải phóng. Khi trở về quê hương, họ đã qui tụ lại làm việc thờ phượng Chúa, ghi lại các hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ suốt dòng lịch sử và nhớ lại Giao ước bị bỏ quên (Bài đọc 1).
Từ nhiều thế kỷ trước, tiên tri Isaia đã báo cho họ biết sẽ có Đấng Messia đến giải thoát họ và họ nóng lòng chờ đợi. Nhân dịp về thăm quê hương Nazareth, ngày sabat, Đức Giêsu vào giảng ở hội đường, đọc nhằêm đoạn sách tiên tri Isaia mô tả về Đấng Messia và Ngài xác nhận chính Ngài là Đấng Messia ấy, khi Ngài nói:”Hôm nay ứng nghiệm lời Sách thánh mà quí vị vừa nghe”(Lc 4,21). Nhân dịp này Ngài đọc bản tuyên ngôn mô tả sứ mạng và chương trình hành động của Ngài, chính yếu là Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ…Và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Ngày nay, Hội thánh và mọi Kitô hữu, theo căn tính, phải tiếp tục sứ mạng mà Đức Giêsu đã làm:”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con ra đi”(Ga 17,18). Sứ mạng của Kitô hữu được sai đi là làm tông đồ cho Chúa, loan báo Tin mừng Đức Kitô cho mọi người bằng đời sống chứng tá, yêu thương và hiệp nhất.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Nhm 8,2-6.8-10.
Lần đầu tiên khi từ chốn lưu đầy trở về, dân Do thái đã tụ họp lại để làm việc thờ phượng, được tiên tri Nêhêmia trình bầy như một lễ hội, nhắc lại Giao ước. Tư tế Esdras tập họp mọi người lại tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Esdras đọc và giải thích cho họ hiểu, và khi đã thông suốt thì họ đồng thanh thưa :”Amen”.
Khi nghe đọc Sách Thánh, họ cảm động đến muốn khóc. Họ khóc một phần vì nhớ đến những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ qua dòng lịch sử, phần khác vì họ hối tiếc vì sự bất trung của họ đối với tình thương bao lao của Thiên Chúa.
Vì thế, tư tế Esdras yên ủi họ :”Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã vì niềm vui của Chúa là thành trì bảo vệ anh em”(Nhm 8,10).
+ Bài đọc 2 : 1Cr 12,12-30.
Thánh Phaolô gửi thư cho tín hữu Côrintô để tiếp tục việc giáo huấn cho họ bằng một ví dụ cụ thể, dễ hiểu:”một thân thể có nhiều chi thể”. Cũng giống như một thân thể có nhiều chi thể, Giáo hội dù bao gồm nhiều thành viên với những ơn gọi khác nhau tạo thành một sự thống nhất trong Đức Kitô.
Qua đoạn thư này, chúng ta có thể rút ra được 3 ý chính :
– Giáo hội là thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, trong đó Đức Giêsu là đầu, và các Kitô hữu là chi thể.
– Các chi thể khác nhau nên cũng có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng không chống đối nhau mà còn bổ túc cho nhau.
– Mọi chi thể phải đoàn kết với nhau và phải dùng những đặc ân Chúa ban cho mình để phục vụ ích lợi chung của Hội thánh.
+ Bài Tin mừng : Lc 1,11-4 ; 4,14-21.
Trong lời mở đầu sách Tin mừng của mình (Lc 1,1-4), thánh Luca nói lên mục đích của sách Tin mừng Luca là điểm qua lịch sử đời Chúa Giêsu, để giáo hữu thêm lòng tin. Truyện về Chúa được truyền qua lời kể của các môn đệ của Chúa, là những người đã tận mắt chứng kiến việc Chúa làm và tận tai nghe lời Chúa nói.
Trong đoạn sau (Lc 4,14-21) thánh Luca cho biết Đức Giêsu sau một thời gian hoạt động, đã trở về Nazareth và giảng dạy trong hội đường. Ngài đọc một đoạn sách về lời sấm của tiên tri Isaia (61,1-2) và Ngài kết luận :”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh mà quí vị vừa nghe”(Lc 4,21). Theo đó, Ngài xác nhận mình chính là Messia mà tiên tri Isaia đã loan báo từ lâu. Với tư cách là Messia vừa được xức dầu tấn phong, Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ… và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Sứ vụ của Ngài là mở ra một kỷ nguyên hồng ân, tức là kỷ nguyên của Tin mừng.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Loan báo Tin mừng cho mọi ngươi
SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIÊSU.
Đức Giêsu là ai ?
Xét về nguồn gốc, ai cũng biết Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth xứ Galilê, con bác thợ mộc Giuse và bà nội trợ Maria. Còn người đồng hương thì quá biết Ngài vì đã sinh sống với họ gần 30 năm, và xét theo bề ngoài, Đức Giêsu không có gì đặc biệt, chưa hề làm một phép lạ nào, chỉ là một thanh niên lam lũ, kiếm sống bằng nghề thợ mộc.
Rời khỏi Nazareth một thời gian, tự nhiên danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi qua việc rao giảng Tin mừng và làm nhiều phép lạ chữa mọi bệnh tật, trừ quỉ và làm cho kẻ chết sống lại. Tuy thế, đối với dân làng thì họ vẫn còn nhửng nhưng, hoặc bán tín bán nghi. Nói chung, đối với dân làng Nazareth, Ngài vẫn chỉ là một thanh niên xuất thân từ Nazareth không hơn không kém. Nay trở về quê hương, dân làng cũng chỉ coi Ngài bình thường như các thanh niên khác, chưa tỏ ra thái độ kính trọng hay kiêng nể gì.
Quang cảnh làng Nazareth.
Nazareth có lẽ không phải là một thôn làng, nó được gọi là “Polis” nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân. Nazareth tọa lạc trong vùng đất của sườn đồi của Galliê, có ba con đường lớn vòng quanh, tiện lợi cho việc thông thương và kinh doanh.
Có lẽ người ta sai lầm nếu nghĩ rằng Đức Giêsu lớn lên tại một làng quê hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ. Chính nơi đây Đức Giêsu đã giảng một bài quan trọng trình bầy nội dung chương trình hành động của Ngài, hay cũng có thể được gọi là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.
Đức Giêsu giảng ở hội đường.
Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ, danh tiếng Đức Giêsu đã lan rộng khắp nơi, Ngài trở về thăm quê hương Nazareth. Vào một ngày sabat, Ngài vào hội đường cùng với bà con cô bác để ca tụng Chúa và nghe đọc Sách Thánh, tất cả mọi người nóng lòng muốn nghe một người mà họ quen biết nhiều, thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu, hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh thánh của tiên tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa.
Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đầy từ Babylon. Hay nói đúng hơn đoạn sách nói về Đấng Cứu thế :”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”(Lc 4,18-19). Đọc xong, gấp sách lại, ngồi xuống như các diễn giả thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, xem Ngài cắt nghĩa đoạn sách này như thế nào. Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Ngài tuyên bố chính Ngài là Messia (Cứu thế) đã được hứa, khi trịnh trọng nói:”Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các vị vừa nghe”(Lc 4,18-19).
Chúng ta nhận thấy trong các buổi nhậm chức của tân Tổng thống, bao giờ cũng đọc một bài diễn văn quan trọng đầu tiên, trong đó ông vạch ra đường hướng, chính sách và chương trình hành động trong nhiệm kỳ mới. Bài Tin mừng hôm nay miêu tả bài diễn văn đầu tiên của một vị tân Lãnh đạo tôn giáo. Đó là bài nói chuyện đầu tiên của Đức Giêsu Kitô tại Nazareth, quê quán của Ngài. Ngài đưa ra một phác thảo về đường hướng và sứ mạng của Ngài, Đấng Thiên Sai, qua lời tiên tri Isaia :”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…”(Lc 4,14-21)
So sánh lời công bố của Đức Giêsu Kitô và các diễn văn của các tân tổng thống trong ngày nhậm chức, chúng ta thấy có sự khác biệt rõ ràng. Quí vị tổng thống nói rất nhiều, hứa đủ thứ, nhưng sau cùng chẳng thực hiện được bao nhiêu trong thời gian tại chức. Trái lại, Đức Giêsu đã nói rất ít nhưng đã thực hiện tất cả những điều Ngài đã tuyên bố.
Chương trình hành động của Ngài.
Nếu ngày xưa tác giả sách tiên tri Isaia loan báo một thời kỳ cứu độ chỉ để cho dân Chúa được bình an mà sống những ngày tháng sau lưu đầy, thì đây, với lời tuyên bố:”Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà tai các vị vừa nghe”(Lc 4,21), Đức Kitô đã chính thức công bố thời kỳ cứu độ ấy đã đến. Ngài không chỉ ban bình an trong cuộc đời mà còn là bình an vĩnh cửu.
Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo : chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết:”Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta”(Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất:”Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Rm 7,24-25). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế , trong đó mọi người đối xử với nhau bằêng chân lý, công lý và tình thương.
Truyện : Xóa nợ.
Ngày xưa có một lãnh chúa, và các tá điền của ông thì nợ ông tiền thuê đất. Chẳng bao lâu họ thấy mình nợ nần chồng chất. Họ thấy mình không tài nào thoát ra tình cảnh khó khăn ấy, tuy ông lãnh chúa là người nhân ái và nhẫn nại. Nhưng các tá điền tự hỏi, ông cho họ thêm bao nhiêu thời gian để trả hết nợ. Điều đáng sợ là cả khi ông cho họ đến ngày họ chết, họ cũng không thể trả hết nợ.
Kế đó một quản lý mới của lãnh chúa xuất hiện và bắt đầu làm một cuộc kinh lý. Trong suốt cuộc kinh lý ấy, quản lý đã hỏi mỗi tá điền mắc nợ bao nhiêu. Nhưng thật đáng kinh ngạc, quản lý không dừng ở đó. Ông đi thăm từng nhà, ông hỏi người ta ăn uống ra sao. Ông hỏi thăm người già, người bệnh, người khó ở. Chính ông thấu hiểu những vấn đề và những lo lắng của họ.
Rồi một ngày kia, ông tập họp họ lại, nói rằng ông có một sứ điệp quan trọng mà lãnh chúa tức chủ đất gởi cho họ. Các tá điền họp lại trong sợ hãi và run rẩy, tưởng rằng cái ngày thanh toán khủng khiếp sau cùng đã đến. Các tá điền đã biết hoặc nghĩ rằng mình đã biết những lời mà ông quản lý sắp nói. Hẳn ông sẽ nói rằng:”Trong suốt cuộc kinh lý, tôi đã khám phá rằng không một người nào trong các anh lo lắng việc trả nợ. Các anh chỉ nên tự trách mình. Các anh chỉ là một đám lười biếng, chẳng làm được việc gì. Chủ đất đã chán ngấy các anh. Ông ấy đã cho các anh vô số cơ hội, nhưng các anh vẫn không làm ra của cải. Các anh khiến ông ấy không còn chọn lựa nào khác là lấy lại đất đai khỏi tay các anh và đưa nó cho những người khác và họ sẽ trả được nợ của họ”.
Đó là những gì họ chờ đợi ông quản lý nói, dù rằng trong lòng họ, họ mong mỏi một điều gì khác. Rồi người quản lý bắt đầu nói:”Chủ đất biết rằng tất cả các anh đều mắc nợ số tiền lớn. Ông ấy nhờ tôi nói với các anh những điều sau đây”. Quản lý ngừng nói. Họ chờ đợi cơn bão ập tới và gắng hết sức mình để chống lại nó. “Thế thì”, quản lý nói tiếp “Tôi có một tin mừng cho các anh”. Một lần nữa ông ngừng lại. Tin mừng ! Họ không thể tin điều họ nghe.”Chủ đất nhờ tôi nói với các anh rằng các anh có thể quên hết nợ nần. Ong ấy xóa hết nợ nần cho các anh. Từ hôm nay, các anh có thể bắt đầu lại từ đầu”.
Họ reo hò mừng rỡ. Các tá điền ôm hôn nhau. Một số người bắt đầu nhảy múa, đã lâu rồi họ không nhảy múa. Khi họ trở về nhà mình với tâm hồn thanh thản, lần đầu tiên trong nhiều năm, họ nhận thấy mặt trời chiếu sáng, chim hát ca và những bông hoa rực rỡ nở rộ trong các cánh đồng.
Tin mừng Đức Giêsu loan báo trong hội đường Nazareth cũng như thế. Ngài là người quản lý mới mà Thiên Chúa sai đến với dân mắc nợ Người. Theo người Pharisêu, ngày của Chúa phải là ngày phán xét. Và ở đây, Đức Giêsu tuyên bố rằng đó là ngày của ân huệ Thiên Chúa, không chỉ dành cho những người đáng khen mà dành cho tất cả mọi người.(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 365-366).
SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA.
Sứ mạng của Giáo hội.
Sứ mạng của Đức Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, Khi Đức Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gửi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ tuần phải tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách tiên tri Isaia thâu tóm sứ mạng của Đức Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Sứ mạng của mỗi Kitô hữu.
a) Mỗi người được sai đi.
Qua bài Tin mừng này, thánh Luca trình bầy Đức Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi. Tất cả chúng ta là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta cũng được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đi, rồi đến phiên Đức Giêsu lại sai chúng ta đi. Đức Giêsu đã phán:”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi”(Ga 17,18). Bởi vậy lời Thánh Kinh mà Đức Giêsu đã áp dụng cho bản thân Ngài “Chúa đã sai tôi đi”, cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta “Chúa cũng sai tôi đi”.
Sai đi để làm gì ? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vatican II còn nói mạnh hơn:”Làm tông đồ là bản tính chủa người Kitô hữu”. Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.
b) Phải mộ mến Lời Chúa.
Muốn đi loan báo Tin mừng thì phải biết Tin mừng, muốn biết Tin mừng mà không mộ mến Lời Chúa thì làm thế nào mà biết rao giảng Lời Chúa, nhất là biết sống theo lời Chúa dạy. Dĩ nhiên, nếu chỉ tin rằng những gì được nói trong Thánh kinh, nhất là Tin mừng, đều là sự thật mà thôi thì chưa đủ, vì đó là thái độ luôn phải có đối với bất cứ cuốn sách phàm tục nào mà chúng ta cho là đúng đắn. Trái lại, khi đọc Tin mừng là phải đọc với tất cả niềm tin cao độ và lòng mến thiết tha nghĩa là tin tưởng tất cả những gì trong đó đang được thực hiện. Thánh Giêrônimô nói:”Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Khi đọc Kinh thánh, chúng ta hẵy lắng nghe những điều Chúa nói với chúng ta qua ân sủng, với tất cả con tim nồng cháy của mình.
Truyện : Chẳng nghe được gì hết.
Trong vở kịch “The Royal Hunt of the sun” (Hoàng gia đi săn mặt trời) có kểû lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây ban nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và bảo ông ta :”Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này”. Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ôâng cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất.
Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ:”Vậy chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa như thế nào” ? Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng ba cách thức : bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn…(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 166-167).
Chúng ta phải làm sao để Lời Chúa được diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
III. CÁCH THI HÀNH SỨ MẠNG.
Sống đời chứng tá.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói :”Người thời nay thích những chứng tá hơn là thầy dạy”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói:”Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Nếu thầy dạy mà thực hành điều mình dạy thì lời ấy càng có tính thuyết phục; nếu ngược lại, những lời giảng dạy ấy hoàn toàn trở nên vô ích, có khi còn phản tác dụng : không làm cho người ta đến với Chúa mà còn làm cho người ta lìa xa Chúa nữa. Muốn cho lời rao giảng của mình có tác dụng, người truyền giáo nên thực hành lời Đức Giám mục chủ phong trong thánh lễ truyền chức Linh mục khuyên tân Linh mục :
“Hãy tin vào điều con đọc,
Hãy giảng điều con tin,
Và hãy thực hành điều con giảng dạy”.
Về vấn đề làm chứng này, chúng ta hãy trở lại thời Giáo hội sơ khai, các tín hũu đầu tiên đãõ sống với nhau như thế nào theo một tác giả thế kỷ thứ ba :
“Người Kitô hữu không khác với những kẻ khác về cư trú, về ngôn ngữ hay lối sống. Bởi vì họ không cư ngụ một thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người nọ…
Họ ở trong xác thịt nhưng chẳng theo xác thịt. Họ cư ngụ trên mặt đất nhưng có thành trì ở trên thiên đàng. Họ tuân theo mọi lề luật đã được đặt ra, nhưng lối sống của họ còn hơn cả lề luật. Họ yêu mến mọi người mà mọi người bách hại họ. Họ bị giết nhưng nhờ vậy mà được tái sinh. Họ thật nghèo nhưng lại làm cho bao người trở nên giầu có. Thiếu thốn mọi sự nhưng họ được tràn đầy mọi sự. Người ta khinh khi họ, nhưng trong sự khinh dể đó họ tìm được vinh quang. Danh giá họ bị nhục mạ nhưng nhờ đó họ được minh chứng là công chính. Bị chửi bới, họ chúc lành cho người ta, người khác hành hạ họ nhưng họ một niềm kính trọng. Khi làm lành họ bị trừng phạt như những kẻ bất lương, và chính lúc bị trừng phạt như vậy họ lại vui mừng, dường như được sống. Người Do thái khai chiến với họ như với những kẻ ngoại, đang khi đó dân ngoại bắt bớ họ, nhưng chẳng ai có thể nói tại sao lại thù ghét người Kitô hữu như vậy” (Trích Các bài đọc 2, mùa Phục sinh, tr 84-85).
Sống đời yêu thương.
Đức Giêsu đã phán:”Người ta cứ dấu này mà biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”(Ga 13,35). Cốt lõi của đạo Công giáo là Bác ái bởi vì chỉ có một lề luật là mến Chúa yêu người. Nếu người ta chỉ yêu Chúa mà không thương yêu tha nhân là một điều khó hiểu vì như thánh Gioan nói, những người chung quanh sờ sờ ra trước mắt mà người ta không yêu thương được, thì làm sao người ta có thể yêu thương Thiên Chúa là Đấng vô hình ? Vậy nếu muốn giới thiệu cho người khác Đấng mà thánh Gioan gọi “Thiên Chúa là tình yêu” thì phải có một hình ảnh nào, để qua đó người ta biết Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Hình ảnh đó chính là tha nhân và nếu yêu tha nhân là hình ảnh của Chúa thì người ta sẽ dễ nhận ra Chúa hơn.
Truyện : Bà có họ hàng với Chúa.
Dan Clack kể lại một câu chuyện rất ngắn nhưng cũng rất ấn tượng : Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một em bé khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần trước một siêu thị sang trọng. Đứa bé đi chân đất, khoác trên người bộ quần áo cũ kỹ, tơi tả, trông như miếng giẻ rách. Có một thiếu phụ đi ngang qua trông thấy cậu bé và đọc được nỗi thèm muốn trong đôi mắt mầu xanh đó. Bà cầm tay đứa trẻû, dẫn vào tiệm và mua cho em đôi giầy mới và bộ quần áo ấm.
Sau đó, họ bước ra phố, và thiếu phụ nói với cậu bé :
– Chúc cháu vui vẻ và một đêm ngủ ngon.
Đứa bé trố mắt nhìn thiếu phụ, rụt rè hỏi :
– Thưa bà, bà có phải là Chúa không ?
Bà cúi xuống mỉm cười với cậu bé, vỗ nhẹ vào vai cậu trả lời :
– Con ơi, không phải đâu, bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi !
Cậu bé như khám phá được điều gì mới lạ :
– Cháu đã biết ngay là bà có họ hàng với Chúa mà.(Thiên Phúc, Lời gọi yêu thương, tr 3-4).
Sống đời bác ái yêu thương là dấu chỉ con cái Chúa và là dấu chỉ anh em với nhau. Đức Giêsu đã xác nhận:”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”(Lc 6,21). Quả thật, thiếu phụ trong câu chuyện trên đã nghe và thi hành lời gọi yêu thương của Chúa:”Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”(Lc 6,38). Được làm anh em, họ hàng của Chúa không là một vinh dự vô cùng lớn lao cho con người sao ?
Đời sống hiệp nhất.
Trong thân thể con người có rất nhiều chi thể. Thân thể tạo nên một thể thống nhất dù bao gồm nhiềâu chi thể. Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau : dĩ nhiên có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau.
Giáo hội cũng như thế. Chúng ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô. Nhận thấy trong giáo đoàn Corintô có sự chia rẽ, thánh Phaolô đã viết thư khuyên nhủ các tín hữu tránh sự chia rẽ mà phải hợp nhất trong Chúa Kitô:”Tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể… Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận”(Bài đọc 2).
Gia đình là Hội thánh tại gia. Hội thánh tại gia cũng phải có những đặc tính như Hội thánh toàn cầu : duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Một trong các đặc tính là sự hiệp nhất. Thánh Phaolô cũng trưng Sách Thánh ra để nói lên sự hiệp nhất vợ chồng là cần thiết:”Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”(Ep 5,32). Nếu trong gia đình Kitô hữu, mọi người hiệp nhất với nhau, nhất là vợ chồng không ly dị, thì đây là chứng tá hùng hồn để giới thiệu cho người ta một Chúa Ba Ngôi duy nhất, nguyên lý của mọi tạo vật, và mọi loài thọ sinh phải tùng phục thờ lạy Ngài.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin Mừng nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilê. Trở về Nagiaréth, Người đọc Sách Thánh trong hội đường đúng đoạn nói về Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Tin mừng hôm nay diễn tả: “Rồi Chúa Giêsu đến Nagiaréth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”. Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh hoạt với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh hoạt bình thường của Người. Nếp sinh hoạt này đã thành thói quen từ khi Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối đáp với các bậc tiến sĩ trong Đền Thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc… Người cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ”. Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người chăm chú nhìn Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha. Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói đến hai điều. Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đoạn Sách Thánh. Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai: Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành. Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế đoạn sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một phản hồi hai chiều. Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời đạt được mục đích cao quý nhất.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
Tin Mừng Luca cho thấy Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, Ngài trở về Galilê, và tiếng tăm Ngài được đồn ra khắp vùng. Ngài bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái, cụ thể ở hội đường làng Nadarét.
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi
Đức Giêsu luôn sống dưới tác động của Thánh Thần. Ngài làm tất cả dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần, cụ thể Ngài đi chịu phép rửa tại sông Yordan, Ngài vào hoang địa ăn chay cầu nguyện, và hôm này Ngài ra đi rao giảng. Dưới tác động của Thánh Thần, Đức Giêsu là người mang tin mừng cho người có tinh thần nghèo, loan báo tự do cho kẻ bị tù đầy, cho người mù được sáng, cho người áp bức được giải thoát, và năm hồng ân của Thiên Chúa cho mọi người.
Thánh Thần ở trong Hội Thánh như hồn ở trong thân xác. Trong Hội Thánh có nhiều chức vụ, nhưng tất cả đều do Thánh Thần ban tặng và tác động: người làm đầu người làm mắt người làm chân tay. Tất cả đều thuộc về Hội Thánh, và không thể thiếu một chức vụ nào, cũng như một thân xác không thể thiếu một bộ phận nào. Không một bộ phận nào trong thân thể bị thiếu mà lại không ảnh hưởng đến bộ phận khác và toàn thân thể, cũng tương tự vậy những chức vụ trong Hội Thánh.
Ước gì mỗi người đều ý thức Thánh Thần luôn gần gũi, luôn ở với, và luôn hướng dẫn mình cùng Hội Thánh trong mọi hành động.
Đức Giêsu- Tin Mừng
Thiên Chúa chúc lành cho con người, làm tất cả cho con người qua Đức Giêsu.
Có ai hiểu được những người bị tù đầy mong được ngày ra khỏi tù như thế nào? “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”: một ngày trong tù, lâu như thể ngàn năm ở ngoài. Ở đây người ta nói tới thời gian tâm lý, và qua đó diễn tả mong ước ngày được tự do đến độ nào! Đức Giêsu là người công bố ơn đại xá, được miễn án và ra khỏi tù. Nếu ai hiểu được người mù cực khổ như thế nào, và người mù mong được sáng đến độ nào, sẽ dễ dàng hiểu câu “Đức Giêsu là người làm cho người mù được sáng” có nghĩa gì với người mù. Những người bị áp bức hà hiếp, cực khổ như thế nào, mong được minh oan và được giải thoát đến độ nào! Đức Giêsu là người giải phóng họ.
Người ta có thể bị tù đày nô lệ trong không gian như bị giam cầm trong một nơi chốn nào đó, nhưng người ta cũng có thể bị giam hãm trong một cái nhìn nào đó, có thể bị nô lệ với một thành kiến mà người ta không biết. Đức Giêsu tới, cho người ta nhận ra giá trị chân thực, giúp con người biết tiêu chuẩn chân thực để phán đoán. “Chân lý” giải phóng con người khỏi nô lệ, làm người bị u mê nhận ra sự thật và nhờ đó được tự do.
Tin Mừng cho người nghèo
Tin Mừng Đức Giêsu, không phải mọi người đều nhận ra. Những người Do Thái không nhận ra, nên muốn giết Đức Giêsu. Để nhận ra Đức Giêsu là Tin Mừng, cần phải có con mắt của người nghèo, người thấy mình “còn thiếu”, người thấy mình cần được soi sáng, người sẵn sàng và luôn ngóng chờ Thiên Chúa nói với mình.
Những người tự mãn, tự cho mình đã đủ không còn thiếu gì nữa, rất khó đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu. Những người này có thể là những người cho rằng mình đã đạo đức đủ, không nhận ra mình yếu đuối tội lỗi cần Thiên Chúa thương xót và trợ giúp. Họ cũng có thể là những người cho mình có học, không sẵn sàng đón nhận mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu với cuộc sống “bình thường”. Cũng có thể họ là những người giầu, và Đức Giêsu không thêm gì cho họ: Ngài không làm cho họ giầu hơn hoặc danh tiếng hơn hoặc có địa vị cao hơn.
“Phúc cho người có tinh thần nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của họ” (Mt.5, 3). Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, người giầu cũng như người nghèo. Người giầu có nhiều thứ và nhiều bận tâm, nên không còn chỗ và không sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa không yêu thương họ. “Nghèo” như thái độ, là mối phúc thật sự.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Đức Giêsu có là Tin Mừng cho bạn không? Xin bạn cho một vài thí dụ cụ thể trong đời bạn.
Thánh Thần là ai? Bạn hiểu gì về Thánh Thần?
Bạn có thấy ai ganh tị vì không được làm “đầu” hoặc “mắt” trong thân thể (Hội Thánh) không? Tại sao họ như vậy?
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
Sau khi nghe giảng về Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Đấng đầy lòng thương xót, một tín hữu không đồng tình với vị giảng thuyết. Đầu óc ông quay cuồng bởi những câu hỏi như:
Làm sao người ta có thể tin Thiên Chúa là Đấng nhân lành khi Chúa nhắm mắt làm ngơ trước biết bao nhiêu người đau khổ, tuyệt vọng mà không ban cho họ chút ủi an hay một niềm hy vọng?
Làm sao người ta tin được Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót khi có biết bao người phải chịu cảnh giam cầm trong ngục tù, trong sự trói buộc của các đam mê mà không được giải thoát?
Thật khó tin có Thiên Chúa là Đấng tốt lành khi Người để cho những người mù, nhất là mù tối trong tâm hồn, không được nhìn thấy ánh sáng chân lý.
Và bao nhiêu người bị áp bức, bị gông cùm, tại sao không được Chúa giải thoát?
Đêm hôm ấy, trằn trọc không ngủ được vì những câu hỏi như thế lởn vởn trong đầu, ông ta chợt nhận ra câu đáp của Thiên Chúa từ trong vắng lặng của màn đêm:
– Ta đã ra tay rồi đó, sao con còn trách Ta?
– Chúa ra tay lúc nào đâu? Chúa đã làm gì để cứu vớt những người tuyệt vọng, những người bị giam cầm, những người mù tối, những người bị áp bức?
– Ta đã dựng nên con và đặt con hiện diện giữa lòng đời để con thay Ta mà hành động. Thế sao còn trách Ta?
Có một điều quan trọng nhưng thường bị lãng quên, đó là chúng ta là những cánh tay, là những bàn tay của Thiên Chúa và Thiên Chúa hành động, thực hiện mọi việc qua chúng ta. Thiên Chúa có làm gia tăng số người trên mặt đất thì Người cũng thực hiện việc đó qua trung gian một người cha và một người mẹ trong gia đình. Thiên Chúa muốn nuôi dạy cho thế hệ trẻ nên tốt thì Người cũng thực hiện điều đó qua cha mẹ thầy cô.
Xưa kia Thiên Chúa Cha đã sai Chúa Giê-su đem Tin Mừng cho người nghèo, giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đem ánh sáng cho người mù tối, trả tự do cho người bị áp bức… thế nào, thì hôm nay, Chúa Giê-su cũng sai chúng ta nối gót Người thực hiện những công việc đó. Chúa Giê-su vẫn đêm ngày nhắc nhở chúng ta: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Gioan 20, 21)
Thế là chúng ta phải lựa chọn: Hoặc là chấp nhận ở lại trong nhiệm thể Chúa Giê-su, trở thành cánh tay nối dài của Chúa Giê-su để tiếp tục sứ mạng của Người, hoặc là chúng ta tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giê-su để khỏi bị Người sử dụng như một phần thân thể của Người mà phục vụ tha nhân.
Cuối mỗi năm, tờ Times, một tạp chí thời danh của Hoa Kỳ, có bình chọn một nhân vật có ảnh hưởng rộng lớn nhất thế giới trong năm. Thông thường, các nhân vật làm nên lịch sử, các bậc vĩ nhân, các vị tổng thống có nhiều quyền lực và ảnh hưởng lớn nhất được bầu chọn vào danh sách nầy. Tuy nhiên, đặc biệt là cuối năm 2006, người được bầu chọn làm nhân vật nổi trội của năm là… “BẠN”. Vâng, là bạn, là tôi, là mỗi người chúng ta.
Thật vậy, đây không phải chuyện đùa. Mỗi người trong chúng ta làm nên lịch sử. Thế giới nầy có được đổi mới, có được tiến bộ hay không cũng là nhờ sự cộng tác của từng người, của mỗi một người trong cộng đồng nhân loại.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một hạt cát bé nhỏ vô ích, vì những bãi cát mênh mông cần phải được tạo nên bằng những hạt cát bé nhỏ như thế đó.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một giọt nước li ti không nghĩa lý gì, vì cả đại dương bao la cũng phải được tạo nên bằng những giọt nước li ti như vậy đó.
Xin đừng quên mỗi người chúng ta là chi thể của Chúa, là khí cụ cứu rỗi của Người và hãy để Chúa sử dụng chúng ta như khí cụ xây dựng hoà bình, yêu thương của Chúa.
Lời ngôn sứ Isaia tiên báo về Chúa Giê-su hôm xưa cũng là lời nhắn gửi đến mỗi người chúng ta: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức.” (Lc 4, 18-19)
Là chi thể của Chúa Giê-su, chúng ta hãy hiệp thông với Người để thực hiện từng câu từng chữ của lời sấm nầy như Người đã làm, để mai đây, chúng ta có thể nói với mọi người như Chúa Giê-su: “Hôm nay, đã ứng nghiệm nơi tôi đoạn sách mà quý vị vừa nghe”.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”(Lc 1,21).
Khi đã khá có tiếng tăm ở vùng Galilê, Ðức Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng.
Làm sao Người quên được mảnh đất làng quê nơi đã đã ấp ủ mình, nơi có bà con họ hàng, láng giềng, bè bạn.
Hơn nữa Người cũng không cắt đứt hẳn với tôn giáo của cha ông. Người vẫn tôn trọng những luật lệ, tập tục và truyền thống của cha ông.
Người vẫn là một người Do Thái ngoan đạo, quen lui tới hội đường cùng với dân làng vào ngày sa-bát, để thờ phượng Thiên Chúa mà Người âu yếm gọi là Cha.
Chúng ta hãy chiêm ngắm Ðức Giêsu đứng đọc Sách Thánh rồi ngồi xuống giải thích Lời Chúa cho mọi người.
Tin Mừng hôm nay diễn tả: “Rồi Chúa Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”.
Người vẫn quen nghĩa là Người thường xuyên đọc sách Thánh.
Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh họat với mọi người trong hội đường.
Yêu mến và gắn bó với Sách Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh.
Còn hơn thế nữa, sau khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người.
Đó là nếp sinh họat bình thường của Người. Nếp sinh họat này đã thành thói quen từ khi Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối đáp với các bậc tiến sĩ trong đền thờ Giêrusalem.
Chúng ta hãy nhìn xem Chúa Giêsu kính cẩn đọc Sách Thánh như thế nào. Chúa Giêsu không đọc Sách Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn.
Ta hãy chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc… Người cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ”.
Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người đều chăm chú nhìn Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha. Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Khi nhận sách, mở sách, cũng như khi cuộn sách để trả lại, cử chỉ của Người thật trang trọng, đĩnh đạc, Có một bầu khí cầu nguyện sâu lắng ở hội đường.
Mọi người đều chăm chú nghe lời Người giảng.
Ðoạn sách Người đọc hôm ấy là của ngôn sứ Isaia.
Isaia đã nói lên ơn gọi và sứ mạng của mình. Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày.
Ông được sai đi để loan báo thời cùng khốn đã chấm dứt và công bố khai mở một thời kỳ đầy ân sủng và tự do.
Ðức Giêsu đã bị đánh động bởi đoạn sách này.
Người thấy nó phản ánh chính ơn gọi và sứ mạng của mình.
Ðây là một hướng đi mà Người phải theo đuổi, một chương trình hành động mà Người muốn hoàn thành.
Khi nói với mọi người: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói hai điều.
Điều thứ nhất : Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đọan Sách Thánh. Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình.
Và điều thứ hai : Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành. Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế đọan sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu được sai đi với sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Thánh Thần chi phối toàn bộ lời nói, việc làm của Người.
Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo, nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói.
Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam.
Người cho người mù được sáng mắt và thấy trong niềm tin.
Người trả lại tự do cho cả người bị áp bức lẫn người gây áp bức bóc lột.
Người mời gọi cả hai sống thanh thoát như Người, sống như con của Cha và anh em của nhau.
Người khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ.
Còn chúng ta, khi nghe Chúa Giêsu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” hỏi chúng ta phải có thể nói một câu tương tự như Ðức Giêsu hay không?
Có nhiều đoạn Lời Chúa chẳng được ứng nghiệm bao giờ vì thiếu sự cộng tác của bản thân tôi.
Ngày nọ, Dwight Moody thuyết giảng trước một đám đông. Ông để hết tâm hồn vào bài giảng và chỉ nghĩ tới nội đung cũng như hiệu quả Lời Chúa nơi các tâm hồn hơn là quan tâm đến văn chương bóng bẩy. Khi giảng xong, một văn nhân đến gặp Moody và nói:
– Tôi phải thành thực nói rằng trong bài giảng tối nay, ngài đã phạm ít là 11 lỗi văn phạm.
Moody đáp:
– Rất biết ơn ông: Điều ông nói tôi không nghi ngờ gì. Khi còn bé, tôi học kém lắm. Tôi vẫn muốn có giờ học thêm. Nhưng tôi đã dùng tất cả vốn liếng văn phạm của mình để phục vụ Đức Kitô. Vì vậy Lời Chúa có tác động gì đối với ông không?
Con người hôm nay khao khát niềm vui, ánh sáng, tự do, nhưng ít người chịu tin vào Ðức Kitô
chỉ vì cuộc đời đầy sầu muộn, bóng tối và nô lệ, thậm chí có khi còn trở thành người áp bức anh em, bịt mắt và giam hãm anh em nhân trong ngục tù.
Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm trong đời Ðức Giêsu.
Ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong đời tôi, để ngày hôm nay của Chúa được kéo dài đến tận thế.
Một công nhân hầm mỏ được một anh bạn hỏi:
– Anh làm gì trong Hội Thánh Kinh Hải Ngoại?
– Tôi làm việc dịch thuật.
– Anh mà đòi dịch thuật? .
– Đúng, tôi lo dịch Lời Chúa trong Thánh Kinh vào đời sống hằng ngày của tôi.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người
giữa lòng thế giới,
trong lòng mọi người.
Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối,
nhưng vẫn có những đóm sáng rực rỡ:
khi con người ngồi lại gần nhau
để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hòa bình;
khi cả thế giới lo chung một mối lo:
bảo vệ trái đất, ngăn chận sida,
tận diệt ma tuý;
khi có những người nghèo
quan tâm đến những người nghèo hơn;
khi trẻ thơ và người già được chăm sóc;
khi hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ;
khi không còn nạn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da;
khi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật
làm cho con người sống hạnh phúc;
khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau,
liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau,
sống trên cùng một hành tinh,
dưới mái nhà bầu trời.
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin cho chúng con thấy Người
nơi nụ cười người ta trao cho nhau trên đường phố,
nơi những hy sinh vô vị lợi,
và cả nơi những thao thức của ai đó,
muốn xây dựng một thế giới huynh đệ hơn.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TIN MỪNG
Hôm nay, Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại một việc làm rất quan trọng của Chúa Giêsu trong Bước khởi đầu sứ vụ loan Báo Tin Mừng. Ngài trở về Nazareth và trong Hội Đường, Ngài đã công Bố “đường hướng hoạt động” dựa vào lời tiên tri Isaia :
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó … ”
Có nhiều điều đặc Biệt đáng nói trong việc làm quan trọng này của Chúa.
Thứ nhất, Chúa không chọn một địa điểm quan trọng như Giêrusalem, Capharnaum để công Bố con đường hành động của mình như các nhà lãnh đạo thường làm, nhưng lại chọn Nazareth là một ngôi làng nhỏ Bé để thực hiện công việc quan trọng như thế. Vì Ngài muốn những người trước tiên được nghe chương trình hành động của Ngài là những người nghèo khó, hèn mọn.
Thứ hai, sau khi trích đọc lời sấm của Isaia, mọi người chăm chú chờ đợi một Bài diễn thuyết dài dòng và hùng hồn của Chúa, nhưng Chúa lại nói thật vắn tắt : “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Có lẽ đây là một Bài diễn văn ngắn nhất của một nhà lãnh đạo kỳ lạ nhất. Lời công Bố của Chúa tuy ngắn nhưng lại đầy đủ, Bao gồm cả một kế hoạch to lớn của Ngài. Các nhà lãnh đạo khác như các ông Biệt Phái, các thầy Pharisiêu, nói nhiều nhưng làm ít, còn Chúa nói ít nhưng làm nhiều.
Thứ Ba, điều đặc Biệt nhất là tại sao Tin Mừng của Chúa không được rao giảng cho những người giàu có, những người có chức có quyền ? Không lẽ Tin Mừng chỉ dành cho những kẻ Bất hạnh trong xã hội thôi sao ? Thế nào là “người nghèo khó”?
Vào năm 1992, trên màn ảnh nhỏ Đài Truyền Hình Thành Phố Hồ Chí Minh chiếu Bộ phim truyền hình nhiều tập làm mê say và xúc động nhiều người. Tựa đề Bộ phim là “Người Giàu Cũng Khóc” của Mêhicô. Nhân vật chính của Bộ phim là Mariana, một cô gái nhà nghèo nhưng có tấm lòng nhân hậu và cao thượng, đã vượt qua những thử thách của số phận để đạt được tình yêu và hạnh phúc trong cuộc đời. Bên cạnh nhân vật Mariana là nhân vật Esther, một cô gái nhà giàu nhưng ích kỷ và độc ác. Vì thiếu lòng quảng đại, tình thương, nên đã không tìm gặp được sự hạnh phúc cho đời mình.
Điều gây ấn tượng nhất của Bộ phim là : sau khi đóng phim, nữ diễn viên đóng vai Mariana đã được dân chúng Mêhicô ca ngợi hết lời. Và người ta quên hẳn tên thật của cô mà chỉ gọi cô Bằng cái tên trong phim là Mariana. Mỗi ngày cô nhận được hàng trăm lá thư từ khắp nơi trên thế giới tỏ Bày sự ngưỡng mộ và lòng yêu mến. Trong khi đó, nữ diễn viên đóng vai Esther vừa là một ca sỹ, vừa là một diễn viên, khi đóng xong Bộ phim với vai diễn phản diện nham hiểm và đáng ghét, người ta vẫn còn căm ghét cô đến nỗi đã tẩy chay không đến nghe cô hát trong những lần cô Biểu diễn nữa.
Như thế, Mariana là người nghèo nhưng là người hạnh phúc và trở thành “người giàu có” : giàu tình thương, giàu lòng Bác ái, và dĩ nhiên, “giàu có” trên phương diện hạnh phúc.
Còn Esther, đại diện cho những người giàu có về tiền Bạc, của cải, vật chất, nhưng lại là “người nghèo khó” về tình yêu thương, nghèo khó về tấm lòng hy sinh Bác ái, nên họ cũng chính là những “người giàu cũng khóc”, họ luôn là những kẻ Bất hạnh trong cuộc đời.
Như vậy, Tin Mừng được rao giảng không những cho những người nghèo khó về vật chất, nhưng còn cho cả những người giàu có đang khóc cho số phận Bi thương của mình. Tin Mừng còn được rao giảng cho những người nghèo khó về tinh thần, những người nghèo khó về văn hóa, những người nghèo khó vì thiếu tình thương, những người nghèo khó khi phải sống trong Bóng đêm lầm lạc của tội lỗi, thiếu ánh sáng thần linh soi chiếu. Tin Mừng còn được rao giảng cho những người nghèo khó về niềm tin và hy vọng, luôn sống trong thất vọng và chán chường, những người nghèo khó về tình Bạn, tình Bằng hữu, tình người, đang sống cô đơn giữa chợ đời.
Tin Mừng cũng được rao giảng không phải chỉ cho những người đang Bị giam cầm sau những song sắt nhà tù, nhưng còn cho những kẻ đang Bị giam cầm trong ích kỷ, trong vòng đam mê tội lỗi, trong xiềng xích của dục vọng và lòng tham lam.
Tin Mừng cũng được rao giảng cho những kẻ đang Bị áp Bức một cách Bất công trong xã hội, nhưng cả những kẻ đang Bị “áp Bức” Bởi những tham vọng xấu xa của chính mình.
Tin Mừng cũng đem lại ánh sáng cho cả những kẻ mù lòa tinh thần, những kẻ luôn sống trong Bóng đêm của những mưu toan vị kỷ và sự gian dối. Tin Mừng đang chiếu tỏa ánh sáng “văn minh tình thương” cho một thế giới đang “lãnh cảm” trước những nỗi đau xót của con người.
Chúa Giêsu đã đến khai mở “Năm Thánh của tình thương” với tư cách là Đấng Messia được Thánh Thần xức dầu và sai đi loan Báo Tin Mừng.
Với Chúa Giêsu, Tin Mừng không phải chỉ là chữ viết, là lời đọc, là Bài thuyết giảng, là lời nói văn hoa, là Bài diễn văn hùng hồn, nhưng Tin Mừng chính là một hành động, là Tấm Bánh Tình Thương được Bẻ ra và cho đi (Jn 6, 5-13).
Với Chúa Giêsu, Tin Mừng không chỉ là việc phục sinh Lazarô hay con trai Bà góa thành Naim, nhưng Tin Mừng còn là sự phục sinh tâm hồn cho một Mađalêna tội lỗi, một Giakêu gian tham, một Tên Cướp Tốt Lành,…
Đặc Biệt, Tin Mừng là chính sự Phục Sinh của Chúa, gieo vãi niềm hy vọng tươi sáng cho tất cả mọi người đang Bị đè nặng dưới Bản án tử hình.
Nếu nói như thế thì có rất nhiều người nghèo khó cần được đón nhận Tin Mừng. Chính mỗi người chúng ta cũng đang là người nghèo khó, cần mở lòng ra để đón nhận Tin Mừng. Không phải chỉ là lắng nghe Lời Chúa, không phải chỉ là đọc Lời Chúa, không phải chỉ là hát Lời Chúa, nhưng đón nhận Tin Mừng là đón nhận chính Chúa, vì Chúa Giêsu chính là Tin Mừng cho chúng ta. Đón nhận Chúa là để Chúa hòa tan trong đời mình, là để mình trở nên một Giêsu khác cho mọi người.
Như thế, sống Tin Mừng, còn có nghĩa là sống như Chúa, hành động như Chúa, yêu thương như Chúa, phục vụ như Chúa, tha thứ như Chúa. Sống như Chúa đòi hỏi chúng ta phải từ Bỏ chính mình trở thành con người mới, mặc lấy Chúa Giêsu, và cũng trở thành Tin Mừng cho anh em.
Chúng ta cũng lãnh nhận Thánh Thần để được sai đi loan Báo Tin Mừng. Nhưng loan Báo Tin Mừng Bằng cách nào ?
Vào năm 1987, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến viếng thăm tiểu Bang California, Hoa Kỳ. Những người chứng kiến Buổi đón tiếp Đức Giáo Hoàng hôm ấy khó quên được hình ảnh rất cảm động khi Đức Giáo Hoàng Bước xuống từ lễ đài cao để ôm hôn một người thanh niên tên là Tony Melendez đang hát với cây đàn guitar của mình. Điều gì đã làm cho người ta xúc động trong giây phút ấy ?
Tony Melendez khi chào đời không có hai cánh tay, nhưng anh đã Biết vận dụng những ngón chân của mình để học và đánh đàn guitar. Anh còn dùng chân để làm nhiều việc khác nữa. Nhiều người đã hỏi anh : “Bí quyết nào đã giúp anh không những chấp nhận chính mình để vươn lên, nhất là có thể chơi đàn guitar một cách tuyệt diệu như thế ?”. Anh đã trả lời : “Tôi đã cầu nguyện : Lạy Chúa, xin nhận lấy con và dùng con theo Thánh Ý Chúa”.
Hãy trở nên dụng cụ trong Bàn tay của Chúa, để qua chúng ta, Tin Mừng được rao giảng cho mọi người. Cách tốt nhất, mỗi người hãy là một cuốn sách Tin Mừng luôn mở ngỏ. Trong đó không phải được viết Bằng chữ, nhưng được khắc họa Bằng việc làm của đời sống chứng nhân.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã nguyện ước đời mình trở thành cây Bút chì trong Bàn tay Thiên Chúa.
Chúng ta hãy Biết Biến đời mình thành cây Bút chì ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần để Ngài viết Tin Mừng vào lòng nhân thế.
Phalê tinh khiết và trong suốt. Nhưng phalê không ích gì trong Bóng tối. Nó cần có ánh sáng chiếu rọi để trở nên rực rỡ.
Lạy Chúa, xin làm cho đời con tinh khiết và trong suốt như phalê, để ánh sáng Tin Mừng lấp lánh xuyên qua con chiếu soi cho mọi người.
Phalê trông giống thủy tinh. Nhưng khi đập vỡ, nó ngân lên âm thanh tuyệt vời.
Lạy Chúa, xin cho con Biết chịu tan vỡ chính mình Bằng hy sinh và đau khổ, để luôn vang lên âm thanh tuyệt diệu của Tin Mừng thức tỉnh mọi người.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
Sách của Nơkhemia diễn tả cuộc lưu đày của dân Dothái từ Babylon trở về xây lại tường thành Giêrusalem. Khi vua nước Babylon chiếm hữu thành Giêrusalem và đánh đổ nước Giuđa, đã bắt dân Dothái cư ngụ ở Palestine đi làm tôi đòi nô lệ tại Babylon. Sau khi các vua nước Medes và Persians đánh thắng dân thành Babylon vào năm 538 BC, vua Cyrus đã cho phép dân Dothái trở về quê hương. Đúng ra, có 3 nhóm trở về vào 3 thời kỳ khác nhau. Nhóm thứ nhất dưới sự hướng dẫn của Zerubbabel vào năm 536 BC. Nhóm thứ hai được dẫn dắt bởi Ezra vào năm 458 BC và nhóm sau cùng được Nehemia dẫn về quê hương vào năm 445 BC. Sách của Nehemiah được viết vào trong khoảng thời gian (465-423 BC).
Sách Nơkhemia diễn tả việc ông thư ký Ezra đã quy tụ dân chúng đến lắng nghe sách lề luật của Chúa: “Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật.” (Nkm 8,3) Chúng ta biết Sách Luật đã được ghi chép trên các tấm da thuộc hoặc viết trên cuộn giấy Papyrus. Khắc ghi những lề luật và huấn lệnh được truyền tụng qua nhiều đời. Các luật lệ bắt nguồn từ Mười Điều Răn mà Chúa đã truyền cho ông Môisen trên núi Sinai. Dân chúng chăm chú lắng nghe sách Luật từ sớm tới trưa và họ đã vui mừng hân hoan: Bấy giờ ông Ezra chúc tụng Thiên Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen! Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Thiên Chúa.” (Nkm 8,6). Dân Dothái là dân được tuyển chọn. Họ được Thiên Chúa dẫn dắt qua sự hướng dẫn của các tiên tri và các vị tư tế cùng các bô lão. Họ sống liên kết thành cộng đồng tin thờ Thiên Chúa duy nhất.
Từ xa xưa, dưới thời vua Salômon, dân Dothái đã xây dựng đền thánh để tôn thờ Thiên Chúa. Họ đã có tổ chức xã hội về mọi mặt. Hàng tư tế đã có những nghi thức thánh hiến và dâng lễ toàn thiêu đền tội. Đền thờ là nơi mọi người dân tụ lại làm nên một cộng đồng dân Chúa. Đền thờ là trung tâm của cuộc sống đạo và là trái tim của mọi sinh hoạt. Dân chúng xum họp tại đền thờ để lắng nghe Lời Chúa, giải thích Kinh Thánh và dâng tiến lễ vật đền tạ. Niềm tin vào Thiên Chúa độc nhất được hun đúc và phát triển qua đời sống cộng đồng. Trải qua lịch sử ngàn năm, đạo Dothái vẫn luôn trung thành với các nghi lễ, giờ cầu nguyện, giữ ngày sabát, tuân giữ các giới răn và huấn lệnh. Ngoài trung tâm đền thờ chính, nhiều nhóm tại địa phương đã xây dựng nhiều Hội đường để cùng tụ họp nghe giảng và học hỏi Kinh Thánh.
Khi ra giảng đạo, Chúa đã đi cùng khắp mọi miền. Có khi Chúa giảng ngoài bãi biển, nơi chân đồi, ngoài cánh đồng, trong tư gia, ngoài đường phố và hôm nay Chúa đã vào Hội đường: “Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh.” (Lc 4,15) Nhiều người đi theo Chúa và chăm chú lắng nghe. Chúa giảng với uy quyền và lời Chúa có sức biến đổi tận tâm can. Khi vào Hội đường, Chúa Giêsu đã đứng lên đọc sách Tiên tri Isaia với đoạn này: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4,18-19) Đây là đoạn sách quan trọng nhất nói về Đấng Thiên Sai đã được chính Chúa Giêsu xác nhận: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4, 21). Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã hoàn thành mọi lời tiên tri đã loan báo về Ngài.
Chúa Giêsu đã lập Giáo Hội, khởi đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ, môn đệ và các thân hữu. Giáo Hội phát triển như hạt giống được gieo vào lòng đất, nẩy mầm, lớn lên và sinh nhiều bông hạt. Giáo Hội bao gồm những người cùng lãnh nhận một phép rửa, một đức tin, đức cậy, đức mến và một niềm hy vọng vào ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh của Chúa Cha đã trao và hoàn tất qua việc hiến thân mình chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Các tông đồ là những vị đầu tiên ra đi làm nhân chứng cho Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian. Các nhân chứng sống động được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần đã không ngừng rao giảng và thiết lập các giáo đoàn phụng vụ khắp nơi. Số tín hữu ngày thêm đông đảo và đa dạng. Giáo Hội mở cửa đón nhận mọi thành thành qua Bí tích Rửa Tội và lòng tin ao ước.
Giáo Hội khởi đi từ niềm tin yêu trong lòng người. Niềm tin qui tụ mọi dân, mọi nước, mọi chủng tộc, ngôn ngữ và văn hoá truyền thống. Thánh Phaolô Tông đồ đã dùng những hình ảnh rất cụ thể để diễn tả sự liên kết giữa các thành phần trong Giáo Hội: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy.” (1 Cr 12,12) Giáo Hội là một xã hội của loài người. Cần có các tổ chức phẩm trật, vai trò nghĩa vụ, mục vụ, phục vụ và cộng đồng tin yêu. Giáo Hội cần có sự hỗ tương trong tất cả các sinh hoạt đời sống. Giáo Hội mỗi ngày thêm đông số các thành viên nên phải kết hợp và gắn bó đoàn kết trong một nguồn sức sống. Kết hợp giống như các nhành nho được liên kết với cây nho là Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tả hình ảnh bộ phận của thân thể: “Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một.” (1 Cr 12,20)
Chúng ta quan sát một cộng đoàn phụng vụ trong khi cử hành thánh lễ. Mỗi thành viên có trách nhiệm riêng theo chức vụ của mình. Trong tập thể bao gồm: cộng đoàn dân Chúa, các thừa tác viên thánh thể, đọc sách, các em giúp lễ, các vị tiếp tân, ban trật tự, xin tiền, dâng của lễ, ca đoàn và linh mục chủ tế. Mỗi người có một nhiệm vụ cần được chu toàn ăn khớp với nhau. Chúng ta biết rằng những bộ phận xem ra yếu đuối và có vẻ thụ động nhưng đây lại là bộ phận cần thiết nhất, đó là mọi tín hữu tham dự phụng vụ: “Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất.” (1 Cr 12,22) Không có cộng đoàn dân Chúa, chúng ta sẽ không có các cuộc cử hành phụng vụ cách long trọng. Mỗi thành viên đều rất quan trọng tùy theo vai trò của mình, trong đó có các cụ ông cụ bà, các trẻ em và mọi thành phần dân Chúa.
Bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Trong niềm tin yêu, chúng ta hỗ trợ và nâng đỡ nhau sống hoàn thiện. Chưa hẳn các linh mục chủ tế là những người đạo đức tốt lành hơn các thành viên khác. Chủ tế nên chu toàn các nghi thức và cử hành thánh lễ cách nghiêm trang và sốt sáng. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, không ai hơn ai. Điều quan trọng là trái tim yêu thương và sự gắn bó với thân thể mầu nhiệm của Chúa: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận.” (1 Cr 12,27) Các bộ phận trong cơ thể tuần hoàn phát sinh sự sống khoẻ mạnh và cường tráng. Các thành viên trong cộng đồng dân Chúa phải gắn kết yêu thương, đùm bọc và nâng đỡ nhau để chu toàn sứ vụ trong sự hài hoà và thuần thiện.
Chúa Giêsu không đến để kêu gọi nhưng người công chính và thánh thiện, nhưng là những kẻ tội lỗi. Những thành phần yếu bệnh cả hồn lẫn xác cần được sự nâng đỡ chở che và chữa lành. Họ là những bộ phận cần được quan tâm nhất vì: “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1 Cr 12,26) Chúng ta không thể lên thiên đàng một mình, cần có những anh chị em xung quanh cùng đồng hành dìu dắt và đỡ nâng. Mỗi người đều có bổn phận làm cho thân thể mầu nhiệm được triển nở và phát sinh kết quả đời này và đời sau.
Lạy Chúa, đừng để chúng con bị lạc xa đường lối Chúa. Xin cho chúng con biết lắng nghe các huấn lệnh, điều răn, chỉ thị và giáo huấn của Chúa và Giáo Hội, để chúng con tuân cứ luật pháp của Chúa đêm ngày. Ước mong tên của mỗi chúng con sẽ được ghi vào sổ hằng sống đời đời, vì: “Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa.” (Kh 20,15).
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
Mở cuốn Thánh Kinh, chúng ta thấy ngay sức mạnh của Lời, đó là tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. “Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng…” (x.St 1). Thánh Gioan khởi đầu Tin Mừng bằng những dòng tuyên tín về tính siêu việt, sự tiền hữu cũng như quyền năng của Ngôi Lời: “ Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).
Thành thật cám ơn anh em Tin Lành đã góp phần một cách nào đó để rồi trong Công Đồng Vatican II Giáo hội Công giáo mạnh mẽ khẳng định rằng Giáo hội luôn tôn kính Lời Chúa ngang hàng với Thánh Thể Chúa Kitô (x.MK số 21). Với các bài Thánh Kinh trích đọc trong Chúa Nhật III TN C này, cách riêng bài đọc thứ nhất, Thánh vịnh đáp ca và bài Tin mừng, khiến chúng ta dễ nhận ra chủ đề là Lời Chúa và hiệu năng của Lời.
Khi khẳng định mình luôn tôn kính Lời Chúa như Thánh Thể Chúa Kitô, thì Giáo hội tuyên tín rằng Lời Chúa không chỉ là những gì được Chúa phán dạy mà còn chính là một Hữu thể, một Ngôi vị siêu việt, có từ đời đời và đầy quyền năng. Và Lời quyền năng ấy cũng là Lời Tình Yêu. Chính vì thế hiệu quả của Lời được tuyên ban luôn là những sự tốt đẹp cả về sự hiện hữu lẫn cách thế hiện hữu (x. St 1). “Lạy Chúa, Lời Chúa là thần trí và là sự sống” (Đáp ca). Qua bài trích Tin Mừng thánh Luca của Chúa Nhật III TN C, chúng ta cùng xem xét một vài hiệu quả của Lời được tuyên ban vốn đã được Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 1,21).
Lấy lại lời Ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu minh định rằng Thánh Thần ngự trên Người, xức dầu tấn phong cho Người để Người loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Và những hiệu quả của Lời Người loan báo đó là: “công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19).
Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa: Đây là năm toàn xá đã được Thiên Chúa thiết lập trong Cựu Ước. Cuối một chu kỳ bảy năm là năm Sabat, thì phải để cho đất đai được nghỉ ngơi, không canh tác. Các nô lệ cũng được trả tự do …(x.Xh 21,2; Lv 25,1-7). Cuối chu kỳ bảy lần bảy năm và bắt đầu ngày mồng mười tháng bảy năm thứ bốn mười chín thì khởi đầu một năm toàn xá (x.Lv 25,8-54). Trong năm này đặc biệt cần phải thực thi ân tình cách khoáng đạt với người nô lệ, người nghèo, khách ngụ cư…như tha nợ, trả tự do, trả lại đồ cầm cố… Những quy định của năm toàn xá không nguyên chỉ để tái lập sự công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, vì “ai giàu ba họ, ai lại khó ba đời!”, mà còn nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người nghèo hèn, bé mọn, cô thân, yếu thế. Tự sức mình, những người này như bất lực để giải thoát mình khỏi cảnh bần hàn, túng khổ. Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thoát họ.
Khi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn nói đến tình yêu vô điều kiện của Cha trên trời, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một để cho thế gian được sống và sống dồi dào (x.Ga 3,16). Sự kiện Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta là một hồng ân vô giá, vượt quá mọi công trạng của loài người. Đấng Siêu Việt mà xưa dân Chúa rất đổi kính sợ và cả kinh sợ, vì bất cứ ai thấy long nhan thảy đều phải chết, thì nay hiện diện giữa loài người và người ta có thể diện kiến, tiếp xúc, đụng chạm cách trực tiếp để được lãnh nhận ân phúc (x.1Ga 1,1).
Cho người mù được sáng mắt: Quả thật Chúa Giêsu đã dùng lời quyền năng của Người cho một vài người mù trong dân Israel thời bấy giờ được nhìn thấy ánh sáng. Tuy nhiên chắc chắn vẫn còn đó nhiều người về thể lý lúc bấy giờ chưa được lãnh nhận ân phúc. Như thế việc công bố lời ở đây không nhắm đến sự mù hay sáng của đôi mắt thể lý. Chúa đến để công bố lời giúp nhân loại nhìn thấy chân lý. Chân lý ấy chính là Người, Giêsu Kitô, cuộc sống, các hoạt động và những lời giảng dạy của Người. “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chúng cho sự thật” (Ga 18,37).
Chân lý nền tảng mà Chúa Giêsu đã từng long trọng khẳng định lại lời Kinh Thánh đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng dựng nên mọi sự và là Cha chung của mọi người. Chúng ta phải tôn thờ, yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Yêu mến Chúa thì phải thực thi lời người phán dạy. Vì thế chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính bản thân mình, dù họ thương ta hay ghét ta, dù họ làm ơn cho chúng ta hay bách hại chúng ta (x.Mc 12,28-34; Mt 5,43-48). Chính khi bước đi trong ánh sáng chân lý thì chúng ta sẽ được tự do. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cảnh tình nô lệ.
Giải thoát, trả tự do cho người bị áp bức, kẻ bị giam cầm: Chúng ta chớ quên rằng khi Chúa Giêsu công bố những lời này và khẳng định chúng đang ứng nghiệm thì người anh em họ của Chúa là Gioan Tẩy giả đang ở trong ngục tù. Khi sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng Người có phải là Đấng phải đến chăng, thì có lẽ Gioan Tẩy giả đang băn khoăn và ít nhiều cũng đang ở trong đêm tối của đức tin (x.Lc 7,18-23).
“Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do”(Ga 8,34-36). Những lời khẳng định trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ sứ mạng của Người. Người đến thế gian là để giải phóng chúng ta khỏi cảnh nô lệ thần dữ, khỏi cảnh ngục tù của tội lỗi. Các bức tường gỗ đá của chốn lao tù vẫn không thể cướp đi sự tự do của tâm hồn. Chính tội lỗi mới làm cho chúng ta thành người nô lệ, mặc dù chân vẫn thong dong ngoài đời.
Sau lời tuyên phán “Ta truyền cho anh: Hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà” đôi chân của người bất toại được giải phóng.
Nhưng rồi phải đến ngày đôi chân ấy lại bất động vì bệnh tật hay vì tuổi tác. Chính lời truyền phán: “ Tội lỗi anh được tha” mới là lời giải thoát người bất toại khỏi cảnh nô lệ, giam cầm. (x.Mc 2,1-12)
Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã ban Ngôi Lời. Ngôi Lời là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng chân lý dẫn đưa con người thoát cảnh nô lệ tội lỗi đến cảnh đời tự do của phận người con được sống và sống mãi trong tình Cha trên trời. Hãy lắng nghe lời của Esdra: Đừng sầu thảm khóc lóc, nhưng hãy hân hoan vui mừng đón nhận Lời giải thoát, Lời yêu thương. Vậy hãy xét xem, bạn, tôi, chúng ta đã tham dự phần Phụng Vụ lời Chúa trong các Thánh Lễ, đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật ra sao? Cũng hy vọng rằng các thừa tác viên của Lời trên giảng đài chớ quên rằng những chia sẻ của mình là một phần của Phụng Vụ Lời Chúa. Mong sao những lời ấy cũng có “quyền năng” vì là thần trí và là sự sống.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
Sau một thời gian ngược xuôi giảng dạy ở nhiều nơi, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét yêu dấu thăm viếng. Vào ngày Sabát, Ngài đến hội đường, người ta mời Ngài đọc sách thánh và giảng dạy. Thời đó, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự là Đền thờ và Hội đường. Chỉ có một Đền thờ tại Giêrusalem. Hội đường rất nhiều, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do thái dâng hy lễ cho Thiên Chúa, như chiên, cừu, bồ câu… Còn Hội đường là nơi dành cho việc giảng huấn, nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ.
Ngày Sabát, người ta thường đọc sách Luật, các sách Ngôn sứ rồi tiếp theo là một bài giảng giải. Người Do thái trưởng thành nào cũng có quyền được lên tiếng ở đó, nhưng thường những người coi sóc hội đường hay giao cho ai thông thạo Kinh Thánh làm việc này. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa Giêsu cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Ngài sẽ làm.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó.Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,19-19). Chúa Giêsu xác nhận lời tiên báo được thực hiện nơi chính bản thân Ngài: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Nội dung của sứ điệp ngôn sứ được ứng nghiệm nói lên công việc Chúa Giêsu sẽ thi hành. Công việc gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại.
Loan báo Tin Mừng
Tin Mừng được loan báo là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Chúa Giêsu nói rõ đối tượng ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng là đến với những người nghèo khó: “Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó”. Mọi người đều là những người nghèo : kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho tất cả mọi người.Giáo Hội luôn phục vụ những người nghèo.Sống nghèo, tận tụy phục vụ người nghèo, đó là những nét nổi bật của Giáo Hội. Sứ vụ ấy làm nên tinh thần khó nghèo của Tám Mối Phúc.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Khi tôi được bầu, tôi đã có bên cạnh người bạn của tôi là Đức Hồng y Hummes. Bởi vì chúng tôi ngồi cạnh nhau. Chính ngài đã nói với tôi một câu khiến tôi hạnh phúc: ‘Đừng quên người nghèo’. Thật là đẹp”. (x.Bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Đài truyền hình Braxin Globo sau kết thúc ngày Giới Trẻ tại Rio de Janeiro). Thực sự, “Đừng quên người nghèo” là một lời khuyên đơn sơ. Nhưng là một lời khuyên rất đạo đức, rất Phúc Âm, rất thời sự. Lời khuyên đó trong giây phút lịch sử trọng đại bầu Giáo hoàng đã và đang đánh thức lương tâm rất nhiều người. “Đừng quên người nghèo” cũng được coi là lời khuyên, chính Chúa gởi tới mọi người có trách nhiệm lo cho nhân loại hiện nay.Đức Giêsu, không những đã không quên người nghèo mà còn rất thương họ. Người thương người nghèo, trước hết bằng cách mặc lấy thân phận người nghèo. Thánh Phaolô viết:“Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem trong hang đá với những hoàn cảnh cực nghèo. Người sống 30 năm ở Nadarét, như một người thợ mộc, thuộc gia đình nghèo. Quê Người thuộc vùng dân nghèo. Người đi giảng trên đất những người nghèo.Những nơi mà Chúa Giêsu sinh sống và hoạt động đều không thuộc về trung tâm của Đời và Đạo. Những người mà Chúa Giêsu năng lui tới hầu hết thuộc loại bên lề xã hội và tôn giáo, như những người tàn tật, bệnh hoạn, nghèo túng, tội lỗi.
Thuộc về trung tâm tôn giáo hồi đó là các thượng tế, các luật sĩ, và các thầy Lêvi. Họ có nhiều chức, nhiều quyền, nhiều lợi. Còn Chúa Giêsu thì thuộc loại bên lề. Đặc biệt là lúc sinh ra và lúc chết.Sỡ dĩ Chúa Giêsu chọn ở bên lề như vậy, là để những người ở bên lề vốn bị khinh chê và bị loại trừ, thấy được là họ được Chúa yêu thương, được Chúa chia sẻ, được Chúa lo giải cứu.Chúa Giêsu giải cứu họ bằng sự lo chữa bệnh tật cho họ, trừ quỷ cho họ, cho họ có của ăn khi cần, bênh quyền lợi của họ, loan báo Tin Mừng cho họ, nhất là bằng việc Người hy sinh mạng sống mình. Người chết, nhưng đã sống lại, để rồi mọi kẻ tin theo Người, cho dù bị Đời và Đạo lúc đó loại trừ, cũng sẽ được sống lại hiển vinh như chính Người. Theo cung cách đó, Tin Mừng cho người nghèo và người tội lỗi chính là điều Chúa mạc khải và đã thực hiện như được kể trong Phúc Âm.Những gì xưa Chúa Giêsu đã làm cho người nghèo, vẫn được các môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi tiếp tục thực hiện.
Thế nào là đừng quên người nghèo?. Theo các bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô, khi còn là Hồng y, và khi đã làm Giáo hoàng, xin tóm lược ý của Ngài về đừng quên người nghèo.
Đừng quên người nghèo là cố gắng cứu giúp người nghèo một cách cụ thể tế nhị và quảng đại, tùy khả năng. Đừng quên người nghèo là hãy có một thái độ gần gũi với họ. Họ là những trẻ em nghèo, những người già yếu, bệnh tật, những người lỡ lầm, những người bị xã hội loại trừ. Đừng quên người nghèo là hãy có một đời sống giản dị, không xa cách người nghèo. Không cấm có những tiện nghi cần thiết, nhưng đừng sang trọng xa hoa. Đừng quên người nghèo là hãy đơn sơ trong việc giảng dạy, để người nghèo dễ hiểu. Đừng quên người nghèo là hãy lắng nghe những người yếu đuối nhất. Đừng quên người nghèo là hãy tìm hiểu hoàn cảnh nhiều người bỏ đạo, lấy tình thương mà giúp họ trở về. Đừng quên người nghèo là hãy biết ân cần đón nhận bất cứ dấu chỉ thiện chí nào của những người tội lỗi, nghèo túng, để nhờ đó mà có những bắt đầu dọn đường cho tình yêu thương xót Chúa, giúp họ làm lại cuộc đời. Đừng quên người nghèo là hãy khiêm tốn học nơi nhiều người nghèo những đức tính tốt. Đừng quên người nghèo là phải có tấm lòng yêu thương nồng nàn chân thật và kiên trì đối với người nghèo theo gương Chúa Giêsu.Thiết tưởng có một trái tim đầy lửa tình yêu thương xót chính là mấu chốt của “đừng quên người nghèo”. Để yêu thương, Đức Phanxicô nhắc đến thánh giá và sự từ bỏ mình. Ngài nhận đó là điều khó chịu, nhưng không phải là vô bổ trong tình yêu thương xót đối với người nghèo khổ.“Đừng quên người nghèo” đang được khơi động sâu rộng trong Hội Thánh do Đức Phanxicô. Đây là một lựa chọn vừa thần học và cũng vừa tiên tri. Có thể tính cách tiên tri vượt nổi hơn.Đạo nơi nào không quên người nghèo sẽ tồn tại và phát triển. Đạo nơi nào quên người nghèo sẽ tự biến chất và tự hủy. Đó là một lời tiên tri không nên coi thường. (x. Đừng quên người nghèo, ĐGM Bùi Tuần).
Đại Hội Đồng các Giám Mục Mỹ Châu La Tinh đã tuyên bố tại Puebca năm 1979 rằng: “Việc phục vụ con người tốt đẹp nhất là loan báo Tin Mừng. Công việc đó giúp con người phát triển như con cái Thiên Chúa, giải thoát con người khỏi những bất công và thúc đẩy công trình phát triển toàn diện con người”.
Đi công bố
Sau khi công bố “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo”, Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo :
– Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha.
– Cho người mù biết họ được sáng mắt.
– Trả tự do cho người bị áp bức.
– Công bố một năm hồng ân của Chúa.
Như vậy, “người nghèo” là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức…và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ. Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn ? Ai mà không “bị giam cầm” trong một thứ tù ngục nào đó ? Ai mà không “mù” một cách nào đó ? Ai mà không “bị áp bức” bởi một thế lực gian tà nào đó ? Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo. (x. Sợi chỉ đỏ, CN 3 thường niên C).
Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã “bị giam cầm” nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công… làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).
Giáo Hội tiếp nối sứ vụ.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Sức thuyết phục của Chúa Giêsu chỉ có thể giải thích được là tất cả lời giảng, dụ ngôn và suy luận của Người không bao giờ tách khỏi đời sống của Người. Theo nghĩa đó, tất cả cuộc đời của Người là một bài giảng liên tục…” (Catechesi tradendae số 9). Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Ngài. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Chúa Giêsu. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm:“Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ”(Lumen Gentium, 8).
Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình.Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32). Trong Tông huấn “Niềm Vui Tin mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các Kitô hữu cùng với ngài đem Tin Mừng cứu độ đến cho thế giới: “Sứ mạng của Hội Thánh là đi ra để cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Đức Kitô” (số 49). Giáo hội thực thi sứ vụ ấy không phải bằng uy quyền sức mạnh của trần gian, nhưng bằng ân sủng của Tin Mừng.
Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm,năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Chúa luôn luôn ở bên trong sứ vụ tình yêu của chúng ta.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
Thưa anh chị em,
Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng, với biết bao chiến tích vẻ vang, đặc biệt nơi các vùng dân ngoại miền thập tỉnh…. Danh tiếng Đức Giêsu vang dội khắp nơi, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền và kèm theo các phép lạ. Tất cả những điều ấy minh chứng Đức Giêsu đem đến cho nhân loại một mùa xuân mới, mùa xuân hồng ân cứu độ.
Hôm nay, có dịp trở về thăm quê nhà, Đức Giêsu vào hội đường theo thói quen của ngày Sabat. Người ta trao cho Ngài cuốn sách Thánh, mở ra gặp ngay đoạn sách tiên tri Isaia. Chúa Giêsu xác định lời của vị ngôn sứ nói về sứ mạng của Ngài thật chính xác “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà tai quí vị vừa nghe”.
Chúng ta để ý đến cặp từ “hôm nay”. Chúa Giêsu không nói hôm qua, hay ngày mai, mà là “hôm nay”. Đặc tính thần học của Tin mừng Luca có nói tới 12 lần “hôm nay”. Lời đầu tiên các thiên thần báo tin cho các mục đồng trong đêm giáng sinh: “Hôm nay, Đấng cứu độ đã sinh ra cho chúng ta” (Lc 2,11). Cho đến lời cuối cùng Đức Giêsu nói với người trộm lành: “ Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với Ta” (Lc 23, 43).
Cho nên Lời Chúa mà chúng ta đọc, chúng ta suy gẫm không phải là Tin Mừng của ngày hôm qua, cũng không phải là Tin Mừng của ngày tận thế, mà là Tin Mừng của ngày hôm nay.
Thế thì Tin Mừng hôm nay, đó là Tin Mừng nào? Thưa, đó là Tin Mừng dành cho những người nghèo khó. Tin mừng làm cho bệnh nhân được ơn chữa lành. Tin mừng thuyên chữa những tâm hồn sám hối, và loan truyền ơn giải thoát cho kẻ bị giam cầm….hay nói cách khác, đây là Tin mừng của một Thiên Chúa đến ở cùng ở với nhân loại chúng ta.
Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Vì thương xót nhân loại lỗi lầm, mà Đức Giêsu từ bỏ trời cao xuống đất thấp để hòa nhập vào thế giới con người. Như lời thánh Gioan nói: “Ngôi lời đã làm người và ở giữa chúng ta”(Ga.1,14).
Thật vậy, chính vì lòng thương xót thúc đẩy, nên Ngài ra đi không biết mệt mỏi khắp nẻo đường đất nước Do thái, để thi ân giáng phúc và mặc khải cho con người biết có một Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương.
Anh chị em thân mến,
Lời ngôn sứ Isaia nói về sứ mạng của Đức Giêsu “Thánh Thần Chúa ngự trên Tôi, Ngài sai Tôi đi rao giảng Tin mừng”. Mỗi người Kitô hữu khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, cũng được mời gọi tham dự vào chức ngôn sứ của Đức Kitô, nghĩa là được Chúa sai đi sống chứng nhân Tin mừng.
Chúa muốn chúng ta sống chứng nhân Tin mừng với những người nghèo: Người nghèo được Chúa ưu tiên hàng đầu trong sứ vụ rao giảng Tin mừng. Ở Việt Nam người nghèo ngày mỗi gia tăng. Thế nhưng, khi gặp một người nghèo chúng ta có chạnh lòng thương và tìm cách giúp đỡ họ không? Trong kinh “Thương người có 14 mối” dường như ai trong chúng ta cũng thuộc, nhưng thử hỏi chúng ta đã thực hiện được mấy mối rồi?
Chúa sai chúng ta đi đến những người đau khổ bệnh tật. Những người này ở trong các bệnh viện, trong những mái ấm tình thương, hay những người ăn xin đói khổ khắp các nẻo đường phố chợ. Họ đang cần một chút tình thương, một chút chia sẻ làm cho ấm áp tình người.
Ngày nay, người ta sẵn sàng bỏ ra nhiều tiền của, bao nhiêu thời giờ đi hành hương, hay đi du lịch nước này nước nọ tham quan được, nhưng không mấy người dành chút thời giờ để bước sang nhà bên cạnh, viếng thăm an ủi một người đang đau khổ, hay đọc một lời kinh cho bệnh nhân trong giờ sau hết.
Chúa mời gọi chúng ta đi đến với những người bỏ xưng tội rước lễ lâu năm. Những người này không thiếu trong gia đình hay trong xứ đạo của chúng ta. Chúng ta đừng quên Lời Chúa dạy: “Sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi!”. Chính khi chúng ta động viên khích lệ, cảm thông những yếu đuối của người khác, đến lúc chúng ta yếu đuối lầm lỡ, Chúa cũng dễ dàng bao dung tha thứ bỏ qua cho chúng ta.
Cuối cùng, Chúa sai chúng ta đi đến với những người chưa biết Chúa. Đất nước Việt nam chúng ta hiện nay hơn 90 triệu dân, nhưng chỉ có hơn kém 7 triệu người biết Chúa, còn lại rất nhiều người chưa biết Chúa là ai, chưa biết Tin mừng là gì, đó là bổn phận của chúng ta. Thế thì, chúng ta có thao thức gì trong vấn đề này. Chúng ta có đóng góp gì trong lãnh vực làm cho người khác nhận biết Chúa không?
Những người lương dân này có khi làm cùng công ty, cùng buôn bán, hay ở cùng làng xóm với chúng ta. Nếu chúng ta ngại ngùng không mạnh dạn nói về Chúa cho họ hay về đạo của mình, thì ít ra trong đời sống, qua cung cách ứng xử với lương tâm ngay thẳng, sống chan hòa tình thương, chia cơm xẻ áo cho những người kém may mắn, sống bao dung tha thứ….. những hành vi đó là bằng chứng hùng hồn cho đạo thánh Chúa, hơn là những lời nói suông, được như thế, đó là Tin mừng của ngày hôm nay. Amen.
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- NĂM C
“Đức Giêsu trở về Galilê trong quyền năng của Thánh Thần” (Lc 4:14a).
Đang khi quân Pháp đánh nhau dữ dội với quân Nga, Napôlêon được mật báo sắp có một cuộc đảo chánh tại Pháp nhằm truất phế ông ta. Tức khắc, vị tướng lừng danh khắp cõi Châu Âu vội cải trang, lén lút đem theo vài cận vệ rời khỏi cuộc chiến đang hồi ác liệt để trở về Pháp, nhằm trừng phạt bọn phản loạn và để bảo tồn ngai triều hoàng đế của mình.
Đến một con sông, đoàn người phải thuê một bác chèo đò đưa qua bờ bên kia. Đang lúc sang sông, Napôlêon buộc miệng hỏi lão chèo đò: “Ông có thấy người lính Pháp nào trốn qua khúc sông này không?” Người lái đò, một công dân Pháp, không biết trước mắt mình là hoàng đế Napôlêon đang cải trang, nên vô tình mỉa mai đáp lại: “Tôi chỉ thấy ông và những kẻ theo ông là những người lính Pháp hèn nhát trốn về ngang đây đầu tiên.”
Người kể truyện không nói rõ Napôlêon, vị tướng hùng của dân tộc Pháp, kẻ chưa từng nếm mùi chiến bại đã phản ứng thế nào với lão chèo đò dám có những lời khinh thị kia, người viết chỉ kết bằng một câu chua chát: “Đây là một cuộc trở về ê chề nhất trong đời Hoàng đế.”
Trước đây, mỗi khi Napôlêon với đoàn quân viễn chinh trở về là những lúc kinh thành Balê tưng bừng náo nhiệt và ngập tràn ánh sáng. Người ta tung hô, múa nhảy, ăn mừng, bởi vì hoàng đế của họ đang mang lại chiến thắng, danh dự, an bình, vinh quang cho đất nước và dân tộc. Thế nhưng, hôm nay Napôlêon đã trở về không phải cho dân hay cho nước, song là cho chính mình-cho chính ngai vàng và quyền bính của mình, mà nghe đâu đang có kẻ đe doạ lật đổ. Hậu quả, vị tướng tài đã phải nhục nhã vô cùng khi nghe câu nói châm biếm của lão chèo đò.
Biến cố trở về của Napôlêon nhắc người ta nhớ đến hình ảnh nổi loạn của dân Do thái ngày xưa trong sa mạc: giữa một cuộc chiến đang hồi ác liệt với đói khát, thiếu thốn, nắng nôi trên con đường tiến về miền đất Chúa hứa, dân Do thái đã trở lòng. Họ muốn quay lui. Họ mơ tưởng đến những nồi súp, miếng thịt, củ hành, tép tỏi bên vùng đất Ai cập, nơi họ từng phải làm nô lệ, tôi đòi. Mơ chưa đủ, họ còn nổi loạn bắt Môisen phải cho phép quay về vùng đất đó. Không tha thiết gì với vùng đất “chảy sữa và mật ong” nữa.
Thế đấy, cả Napôlêon lẫn dân Do thái xưa, tuy khác nhau ở chỗ một bên đang trên đường trở về, một bên mong mỏi và nổi loạn đòi trở về, nhưng cả hai đều có cùng một mục tiêu trần tục và phù vân như nhau. Họ điên cuồng tức giận, bỏ mặc quân lính giữa cuộc chiến đang hồi nóng bỏng để trở về với nồi khoai, nồi thịt nay đầy mai hết, với những thứ mà Thánh Phaolô cho là “việc vàn của xác thịt.”
Hôm nay, Phúc Âm Luca cũng nhắc đến việc Đức Giêsu trở về (Lc 4:14). Cuộc trở về này xảy ra ngay sau một cuộc chiến ác liệt: cuộc chiến chống lại cám dỗ của quỉ ma trong sa mạc, suốt 40 ngày đêm liên tiếp.
Nhưng ngay từ khởi đầu, bài Phúc âm đã không nhắc đến việc Chúa Giêsu trở về với những gì liên quan đến xác thịt, nhưng lại nhấn mạnh: “Ngài trở về trong quyền năng của Thần khí.” Chúa Giêsu đã trở về trong quyền năng của Thánh Thần vì Ngài đã chiến thắng, vượt qua cuộc cám dỗ gay go về cơm bánh, vinh quang, và uy quyền thế gian. Ngài đã trở về không cho chính mình, song là cho mọi người, những ai cần đến ơn cứu độ.
Con người gồm có xác hồn, một tổng thể của vật chất và linh thiêng, của xác thịt và thần khí. Nhưng theo lời Thánh Phaolô trong thư Galata thì xác thịt và Thần khí luôn chống lại nhau. Nếu phần xác thịt-những đam mê, ham muốn, dục vọng, vật chất-thắng thế thì phần thiêng liêng tất sẽ bị suy yếu. Song nếu phần thiêng liêng hay Thần khí trong ta thắng thế thì sẽ chế ngự được những đòi hỏi của xác thịt.
Đức Giêsu trở về trong Thần khí. Ngài không để cho phần xác thịt là những đam mê vượt thắng. Ngài không quì gối bái lạy Satan để có được một chút vinh quang, danh dự, uy quyền. Ngài không để cho cái bao tử hay đồng tiền vật chất khuất phục mình, khi cương quyết không làm đá hoá bánh, không làm điều trái nghịch với tự nhiên để thoả mãn những tham muốn hay dục vọng riêng tư.
Trái lại, đối với Đức Giêsu, mọi vinh quang, danh dự, hay sự sống đều phải qui hướng về Thiên Chúa, chứ không phải Satan hay cá nhân mình. Đây chính là tinh thần của Đức Kitô. Đây cũng chính là Thần khí mà Ngài đã có khi trở về đất Galilê để khởi đầu sứ mạng rao giảng.
Có trở về trong Thánh Thần, tức có hướng lòng lên Thiên Chúa để vươn mình thắng vượt những tham lam, tiền bạc, bất công, và chế ngự những khát vọng uy quyền, xác thịt, danh lợi, thì mới có thể đem Tin Mừng cho người nghèo khó, mới giải phóng cho kẻ tù đày, và mới mở mắt cho người đui mù được. Còn nếu tôi cứ tự cột trói và giam hãm trong đau khổ và lo lắng thái quá về đồng tiền, của ăn, thế giá thì làm sao ta đem được Tin Mừng hay niềm vui cho người khác; có chăng chỉ là tranh chấp, gian dối, và u buồn thôi!
Người ta hay nói “đời là một cuộc trở về.” Đúng lắm! Và dưới cái nhìn của con mắt đức tin, mọi người đang trở về quê trời. Đây là một cuộc trở về vinh quang cuối cùng này, tôi vẫn cần luôn những cuộc trở về nho nhỏ, hằng ngày. Rất bình thường, nhưng không kém quan trọng.
Thử hỏi có hôm nào trong cuộc sống mà tôi lại không có một chuyến trở về nào đó: trở về từ sở làm, trở về sau khi đi nhà thờ, trở về sau lúc đi chợ, đi chơi, đi học, đi nhậu, trở về sau những cuộc hẹn hò, tiệc tùng v.v.. Nhưng thử hỏi với lần trở về như vậy, tôi mang theo được điều gì? Tôi mang về bực bội, khó chịu, cay chua, nóng nảy, giận hờn, ghen tuông hay đưa về Thần khí của Đức Kitô, thứ Thần khí hoa trái là mến yêu, vui mừng, bình an, quảng đại, hiền từ, tiết độ.
Chợt giật mình tự vấn: “Không biết mỗi ngày khi về nhà, tôi có đem về niềm vui, sự sống, an bình và thoải mái cho tâm hồn tha nhân, hay vợ chồng con cái của mình chăng?”
Cách nay không lâu, trên tờ báo Catholic Register người ta học thấy có câu chuyện “Trở Về” rất đáng suy tư. Số là anh Jim O’Donnell, một công dân Hoa kỳ 36 tuổi đang làm việc tại Luân Đôn, Anh quốc, cho một nhóm các ngân hàng của Hồng Kông và Shangai. Jim O’Donnell đã gây sửng sốt cho giới doanh thương Hồng Kông, Luân Đôn và cả New York khi tuyên bố rằng anh sẽ về nước, nghỉ việc, mặc dầu khi ấy các ngân hàng vừa tăng lương cho anh với số tiền là 1.650.000 đôla một năm.
Nhiều người thắc mắc tại sao anh Jim không tiếp tục công việc để hưởng số lương bổng mà không ít kẻ nằm mơ cũng chưa thấy được số lẻ của nó. Bạn có biết lý do anh trở về nước không?
Rất lạ! Anh về nước là để cho kịp niên học tại một chủng viện vào mùa Thu 98. Anh muốn đi học để trở thành linh mục. Đúng là anh trở về với tâm hồn của Đức Kitô, với Thần khí của Thiên Chúa, với tinh thần hy sinh những gì thuộc về xác thịt, quyền lợi, sở thích riêng tư, để thực hiện một ước vọng mới là mang Tin mừng, niềm vui và sự sống chân lý cho muôn người.
Xin Chúa cũng ban cho bạn trong những lần trở về với gia đình, cộng đoàn, có được chính Thần khí của Đức Kitô tác động và dẫn lối.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn