CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN NĂM B
Gr 31,7-9; Ep 5,1-6; Mc 10,46-52
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
46Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. 47Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. 48Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. 49Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. 50Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. 51Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. 52Chúa Giêsu đáp: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.
SUY NIỆM: CHÚA GIÊSU, ĐẤNG KHAI SÁNG
Lời Chúa: “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” (Mc 10,51).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 30 thường niên hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu là Đấng khai sáng. Chúa đã mở mắt cho người mù. Chúa cũng là Đấng mở mắt tâm hồn cho hết thảy mọi người tin theo Chúa:
Người đui được khỏi hân hoan,
Ghi ơn trọng đại quyết loan Tin Mừng.
Quyền năng Chúa thật lạ lùng,
Người ban cho kẻ khốn cùng ơn thiêng.
Ghi lòng tạc dạ chớ quên,
Biết luôn tin cậy ngày đêm một lòng.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta biết luôn tin cậy vào quyền năng Chúa, và xin Người mở mắt tâm hồn chúng ta để chúng ta bước đi trong áng sáng và bình an của Người. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Con Vua Đavid, xin thương xót chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, xin cho con được thấy. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Đôi mắt là món quà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người. Câu nói “đôi mắt là ngọc, đôi tay là vàng” đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của đôi mắt đối với cuộc sống của mỗi người. Người ta thường nói “đôi mắt” là cửa sổ của tâm hồn. Nếu chúng ta nhìn đời bằng đôi mắt màu hồng thì tràn đầy hạnh phúc, bằng ngược lại thì trước mắt ta là cả một bầu trời đen tối. Theo một thống kê tháng 10 năm 2023, thế giới có khoảng 45 triệu người có đôi mắt mù loà; Việt nam hiện có khoảng 2 triệu người mù loà do bệnh. Mù đôi mắt nói lên tình trạng khổ cực, mù đôi mắt là một bất hạnh. Bên cạnh cái đáng thương của sự mù loà thể xác còn có cái đáng thương của sự mù loà tâm hồn. Cái đáng thương của mù loà tâm hồn là họ mù nhưng không chấp nhận mình mù. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh mà trang Tin Mừng hôm nay đề cập tới.
Thưa anh chị em, trong quan niệm của người Do thái thời bấy giờ, bệnh tật và mù loà là hậu quả của tội. Quan niệm này đã xua đuổi người mù ra ngoài lề xã hội. Chính vì thế, khát vọng thâm sâu của anh mù Bartimê được bộc lộ ngay trong lời cầu xin của anh: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Anh không xin tiền, không xin bánh, nhưng xin sáng mắt để được thấy. Anh xác tín rằng, mù mắt đưa con người vào tình trạng đau khổ tột cùng không chỉ dừng lại trên thân xác nhưng còn xoáy sâu vào trong tâm hồn. Chúa Giêsu, Đấng khai sáng cho anh. Người nói: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người để từ nay anh trở thành một con người được tôn trọng giữa cộng đoàn, và hơn thế nữa anh còn nhìn ra con đường phải đi, công việc phải làm và có thể trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Còn một thứ mù loà khác đáng thương hơn mà Chúa Giêsu đã có lần mắng các môn đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Đây là tai họa của trí năng, của tâm hồn: thứ mù loà này làm cho con người nhìn thấy cái rơm, cái rác của người khác, còn cái xà trong mắt mình lại không thấy. Những người bị mù loà thể xác còn có hy vọng chữa trị được, họ thường được người khác yêu thương, giúp đỡ. Còn những người mù tâm hồn, họ mù nhưng không chấp nhận mình mù, không những khó chữa mà hậu quả của nó là huỷ diệt chính mình và bị người khác tránh xa ghét bỏ.
Có một câu chuyện kể rằng, một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về. Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Câu chuyện trên cho thấy thân phận bi đát của người mù. Mù thể xác đã thế, mù tâm hồn còn đáng thương hơn. Ngày nay trước những khám phá kỳ diệu của khoa học kỹ thuật, con người hiện đại lại đang bị mù tối trong tâm hồn vì kiêu căng, tự mãn, không chấp nhận sự hiện hữu của Chúa. Nhưng hãy nhớ rằng: khoa học càng khám phá ra những điều kỳ diệu lại càng chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa trong vũ trụ, vạn vật. Vì thế, chúng ta hãy bắt chước anh mù Bartimê đặt niềm tin vào Chúa và vào lòng thương xót của Người. Xin Người khai sáng và mở mắt tâm hồn chúng ta, để chúng ta bước đi trong ánh sáng tình yêu và bình an của Người.
“Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt. Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi. Con mù lòa, bên vệ đường hành khất. Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài”. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
SUY NIỆM: MẮT ĐỨC TIN
- “Đôi mắt xanh của chị Nữ Tu”
Trong cuốn sách “Những người lữ hành trên đường hy vọng”, Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận kể câu chuyện “Đôi mắt xanh của chị Nữ Tu” thật cảm động.
Trên khắp các nước, thế chiến đã bùng nổ. Quân phát xít chiếm cứ khắp nơi. Một viên tướng Phát xít đến một nhà dòng kia, yêu cầu kêu Mẹ Bề trên cho ông ta gặp… Khi vừa dốc cạn ly nước từ tay Mẹ Bề trên, viên tướng Phát xít lập tức vào đề:
– Xin bà cho tôi gặp chị Maria. Bà Bề trên bấm chuông gọi chị ấy ra. Ông tướng vui vẻ hẳn lên và nói cách sổ sàng: “Tôi yêu cầu bà trao ngay cho tôi chị này, tôi say mê chị”.
Hai mẹ con nhìn nhau lúng túng. Chị Maria vội đỡ lời: “Tôi là một nữ tu tầm thường, nào có gì để ông say mê. Xin ông tìm ở ngoài thế gian, lắm người nhan sắc lộng lẫy…”.
– Không! Không! Tôi yêu chị vì chị có đôi mắt xanh tuyệt đẹp. Tôi say mê quá!
– Không! Xin lỗi ông, không bao giờ tôi chấp nhận điều ấy.
– Nếu chị không chấp nhận, nội ngày mai, tôi sẽ ra lệnh tiêu diệt cả Nhà Dòng này!
Một bầu khí thinh lặng ghê rợn ập xuống phòng khách. Ông tướng đứng lên và bảo: “Tôi cho một đêm suy nghĩ, sáng mai tôi sẽ trở lại. Phải trả lời dứt khoát, nếu không tôi sẽ…”.
Ngày hôm ấy, cả Nhà Dòng thiết tha cầu nguyệt sốt sắng hơn. Thâu đêm chị không thể nào chợp mắt: “Chẳng lẽ vì mình mà cả nhà phải bị tiêu diệt? Không, không thể được! hay tôi phải bỏ Nhà Dòng, bỏ Tình yêu Chúa Kitô, bỏ đức trinh khiết? Không, không bao giờ như thế!”.
Sáng hôm sau, khi chị em còn nguyện kinh, ông tướng Phát xít đã có mặt ở phòng khách, đôi mắt hau háu, nôn nóng, sốt ruột.
Từ đầu hành lang, Chị Maria đang tiến lại, nhưng… bên cạnh lại có một người khác dẫn đi, tay chị cầm một cái dĩa. Viên tướng há hốc mồm, trố mắt kinh ngạc. Chị đã bước vào phòng khách, nhưng ông vẫn không ngớt ngẩn ngơ. Chị Maria khuôn mặt đầy máu me, đang sờ soạt đặt cái dĩa trên mặt bàn và nhỏ nhẹ trình bày: “Thưa ông, vì ông say mê cặp mắt của tôi… nên tôi xin sẵn sàng biếu ông cặp mắt ấy… trên dĩa này. Còn thân xác tôi, đời tôi, tôi đã hiến dâng cho Thiên Chúa”.
Viên tướng Phát xít vừa bàng hoàng kinh ngạc vừa cảm phục. Ông xấu hổ đứng dậy bỏ ra về và không đá động gì đến Nhà Dòng nữa. (trang 175-177).
Nữ tu Maria hy sinh đôi mắt xanh tuyệt đẹp để “dọi ánh sáng vào nơi tối tăm” của cõi lòng viên tướng, nhờ vậy ông ta được sáng đôi mắt và nhìn thấy sự cao quý của một tâm hồn thanh khiết.
- Đôi mắt mù
Đọc câu chuyện, liên tưởng đến chuyện vua Đavít được tiên tri Natan “mở mắt”. Dù đã có nhiều thê thiếp, nhưng vua lại chiếm đoạt bà Bátsabê là vợ của Uria và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết chồng bà để chính thức cưới lấy Bátsabê làm vợ. Thế là vua đã phạm hai tội ác tày đình: ngoại tình và giết người. Vậy mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ta. Sau đó, Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh nhà vua. Tiên tri nói với vua: Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà. Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình làm tiệc, trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách. Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: “Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại nó đã gây ra.”. Bấy giờ tiên tri Natan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua và Chúa sẽ trừng phạt vua vì tội ác đã gây ra. Vua Đavít bừng sáng mắt ra, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. (II Samuel 11,1-12,12).
Câu chuyện cũng gợi nhớ về đôi mắt mù của Nguyên Tổ trong sách Sáng Thế: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu ! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” (St 3, 4-7).
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
– Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.
– Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.
– Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam – Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế. (x.Nước mắt và hạnh phúc, trg 69-71, Lm Nguyễn Tầm Thường).
- Mắt đức tin
Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ. Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.
“Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin.
Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không ?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin.
Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Giakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1-10). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36-50). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32-43)…
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. Ðôi mắt đức tin giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu.Nhiều Thánh vịnh giúp chúng ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu, như Thánh vịnh 104, các Thánh vịnh Job 38-39.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Bartimê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Chúa Giêsu là Ðấng Messia “Con Vua Ðavít“. Anh kêu xin : “Rabbuni, xin cho tôi được thấy“, và Chúa Giê-su trả lời : “Hãy đi ! Niềm tin của con đã cứu chữa con“. Bartimê được thấy và anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Người ; khi thấy được, anh cùng hành hương lên Giêrusalem (x. Đức Giêsu thành Nazareth phần II, trg 13). Bartimê thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.
“Muốn trong trắng, con phải hy sinh; cành huệ trắng tinh, cành mai thơm tho, cành đào xinh đẹp, vì nó đâm rễ sâu vào lòng đất, vì nó cầm cự với mưa bão, vì nó chịu đựng những bàn tay cắt tỉa” (ĐHV 431). Lạy Chúa Giêsu, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt; để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt; để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên; để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.
Và lạy Chúa, “Chúa chỉ ban sự trong trắng cho linh hồn khiêm nhường. Con cầu xin hàng ngày với tâm hồn đơn sơ chân thành, thực sự nhìn nhận sự yếu đuối của con” (ĐHV 427); xin cho con được thấy bản thân con với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM: HÃY BIẾT KÊU CẦU LÊN CHÚA
Trên đường lên Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu sẽ chịu tử nạn, Người và các môn đệ đi ngang qua thành Giêrikhô, cách Giêrusalem khoảng 35 cây số. Khi ra khỏi thành, người ta thấy có một người mù tên là Batimê đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Nghe tiếng ồn ào của đám đông, anh ta hỏi xem có chuyện gì đang xảy ra. Và khi được biết là Chúa Giêsu sắp đi qua chỗ anh, anh liền kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Anh kêu to đến nỗi nhiều người quát mắng bảo anh im đi.
Tiếng kêu của người ăn xin mù lòa biểu lộ một sự khốn quẫn cùng cực, đồng thời cũng nói lên một sự tin tưởng lạ thường. Trong truyền thống Kinh Thánh, danh xưng “Con vua Ðavít” là tên đặt cho Ðấng Cứu Tinh mà Dân Chúa đang mong đợi. Như thế, tiếng kêu của anh mù Batimê là một lời tuyên xưng đức tin mạnh mẽ. Và thật ngược đời khi giữa hàng trăm, hàng ngàn người sáng mắt, thì chỉ có người mù này lại “thấy”, vì anh nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Tinh.
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Câu hỏi của Chúa Giêsu xem ra có vẻ thừa vì ai cũng biết anh mù này muốn gì. Không phải Chúa Giêsu không biết anh mù muốn gì, nhưng ở đây chúng ta thấy, Người luôn tôn trọng những ai đến với Người. Hơn nữa, khi hỏi anh như vậy, dường như Chúa Giêsu muốn anh mù nhận thức được điều anh sắp xin Người quan trọng đối với anh như thế nào. Chính vì vậy, khi anh đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”, thì Chúa Giêsu liền nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Từ tiếng kêu xin của anh đến việc đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu, Người gọi đó là “lòng tin”. Anh không chỉ được chữa lành đôi mắt thân xác, nhưng anh còn được cứu nhờ lòng tin, lòng xác tín của anh vào Chúa Giêsu – Con Vua Đavít.
Ðức tin của anh mù thành Giêrikhô là gương sáng cho chúng ta. Batimê quả là mẫu người môn đệ đích thật. Vì sau khi nhìn thấy được, anh ta đi theo Chúa Giêsu trên con đường Người đi, con đường đi Giêrusalem, con đường dẫn đến Thập giá.
Anh mù Batimê cũng là gương mẫu của người lãnh phép Thánh Tẩy qua việc gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Ðức tin giúp mở mắt tâm hồn chúng ta được thấy và nhận biết Thiên Chúa. Trong nghi thức Thánh tẩy cho người lớn, khi tiếp nhận người sắp chịu phép rửa, chủ tế hỏi họ xin gì cùng Hội Thánh Chúa, và người sắp chịu phép rửa trả lời “con xin đức tin”. Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được lãnh nhận đức tin để nhận biết Thiên Chúa, nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa xuống thế làm người và cứu chuộc chúng ta.
Như người mù ăn xin bên vệ đường thành Giêrikhô không ngừng kêu lên, mặc dù nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi. Là Kitô hữu, chúng ta có dám làm chứng cho đức tin của mình mặc dù những người chung quanh thờ ơ, hoài nghi, thậm chí phản đối, chế giễu, coi thường hoặc bách hại mình không?
Như người mù ăn xin bên vệ đường thành Giêrikhô không ngừng kêu xin lòng thương xót của Chúa Giêsu, dù bị mọi người ngăn cấm. Chúng ta cũng đừng sợ làm phiền Chúa, dù bằng tiếng kêu xin hay bằng lời trách móc. Chúa nhìn thấy và Người thấu biết tất cả những đau khổ của chúng ta, nhưng như Người đã hỏi anh mù “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”, Người cũng muốn nghe chúng ta giãi bày những ước nguyện của mình. Hãy khiêm tốn kêu lên với Chúa nỗi khốn cùng của mình. Vì khi còn kêu lên Chúa là chúng ta còn đặt niềm tin tưởng và hy vọng nơi Người. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng Chúa Giêsu Kitô, Con vua Ðavít, đã đến trần gian để chữa lành những bệnh nhân và cứu rỗi những người tội lỗi, và Người không bao giờ làm ngơ trước những tiếng kêu cứu của con người.
Chúng ta hãy chạy đến, hãy kêu cầu Chúa với niềm tin cậy. Và cũng đừng quên “bước theo Chúa Giêsu trên con đường Người đi”.
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
SUY NIỆM: MUỐN TÔI LÀM GÌ?
Thưa anh chị em,
Trên hành trình lên Giêrusalem lần cuối, Đức Giêsu có dịp đi ngang qua thành Giêrikhô, một thành phố lớn, đông đảo kẻ qua người lại. Khi vừa ra khỏi cổng thành, thì có một người mù tên là Ba-ti-mê ngồi ăn xin bên vệ đường lớn tiếng kêu xin: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.
Theo truyền thống thánh kinh Cựu Ước, tước hiệu “Con vua Đavít” là tước hiệu chỉ tên Đấng Thiên sai. Sang thời Tân Ước cũng vậy, dân Do thái dùng tước hiệu này để ca tụng, khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem “Hoan hô, Con vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mt 21,9).
Vậy khi anh mù kêu xin Chúa bằng tước hiệu “Con vua Đavít”, nghĩa là anh nhận ra đúng sứ mạng của Đức Giêsu, Đấng Mêsia, Đấng mà tổ tiên người Do thái hằng đợi trông. Anh mù này đã tin Đức Giêsu là Đấng cứu thế. Đấng quyền năng làm được mọi sự sẽ chữa lành cho anh.
Thật lạ lùng thay! Người khiếm thị này chưa bao giờ nghe biết Đức Giêsu, thế mà hôm nay khi nghe Đức Giêsu đi ngang qua, thì anh lập tức kêu xin: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.
Trong khi đó các môn đệ và dân chúng đã từng nghe lời Chúa giảng, từng thấy phép lạ Chúa làm, ấy thế mà dường như vẫn còn mù mờ chưa nhận đúng ra sứ mạng của Đức Giêsu.
Anh Ba-ti-mê tuy mù con mắt thể lý, nhưng ánh mắt lòng tin đã giúp anh thấy được sứ mạng của Đấng Thiên sai, khi Ngài đến: Sẽ loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, mở mắt cho người mù được sáng, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Vì thế, Anh mù không xin Chúa tha tội cho anh, cũng chẳng xin cơm áo gạo tiền như thường ngày, mà chỉ xin một điều duy nhất đó là: “Xin Chúa dủ lòng thương”. Anh tin nên anh xin, nên Chúa đã chữa lành cho anh, đúng như lời Chúa nói: “Đức tin của anh đã cứu chữa anh”.
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa năm xưa nói với anh mù: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Hỏi một bệnh nhân muốn gì trong lúc này quả là một câu hỏi xem ra thừa thãi, nhưng kỳ thực đây là một mặc khải, làm nổi bậc lên tấm lòng thương xót của Thiên Chúa. Có nghĩa là bản tính của Thiên Chúa là tình thương. Tình thương tha thứ, tình thương muốn cứu giúp và chữa lành.
Ngày hôm nay, Chúa cũng muốn ngỏ lời với mỗi người chúng ta: “Con muốn Cha làm gì cho con?”. Nếu chúng ta cảm nhận được lời này, chắc chắn sẽ vô cùng hạnh phúc, vì Chúa rất gần gũi và rất mực yêu thương chúng ta.
Trong đời sống chung, đời sống gia đình và xã hội. Chúng ta cũng nên nói lời này với nhau, giữa vợ chồng và con cái. Hay giữa những mối tương quan “Anh muốn tôi làm gì cho anh? Chị muốn tôi làm gì cho chị?.
Thế nhưng, Chúa nói: “Những gì các con muốn người khác làm cho mình, thì mình hãy làm cho người khác trước đi” (Mt 7,12).
Bởi lẽ, ai cũng muốn người khác giúp đỡ mình. Ai cũng muốn người khác tôn trọng và yêu mến, cảm thông và chia sẻ, tha thứ và cầu nguyện cho mình. Thì mình hãy làm những điều đó cho người khác trước đi.
Nếu chúng ta mặc lấy tâm tình như đã có trong Đức Giêsu Kitô, thì chúng ta sẽ làm những điều tốt đẹp đó cho nhau, như Chúa đã làm cho chúng ta.
Thánh Phanxicô đã dạy: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Để con dọi ánh sáng vào noi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Lời kinh này không chỉ là lời cầu nguyện, nhưng còn diễn tả đời sống chứng nhân của người tín hữu Kitô. Có nghĩa là, không những chúng ta đem yêu thương vào nơi oán thù, nhưng còn phải dọi ánh sáng vào nơi tối tăm nữa.
Xin Chúa thương mở đôi mắt đức tin, để chúng ta thấy được Đức Giêsu, là Đấng cứu độ duy nhất. Vì chúng ta như người hành khất mù lòa bên vệ đường.
Xin Chúa thương chữa lành con mắt mù lòa ích kỷ, để chúng ta nhìn thấy dung nhan Ngài nơi mỗi tha nhân, đặc biệt những người nghèo khổ ăn xin nơi đầu đường xó chợ.
Xin đừng để chúng ta vô cảm trước sự bất hạnh của anh em đồng loại, nhưng biết chạnh lòng thương muốn cứu giúp, bằng đôi tay nâng đỡ, với trái tim rộng mở, và nói những lời xây dựng yêu thương, để mang lại ánh sáng tình thương của Chúa, đến cho những người còn ở trong bóng tối sự chết. Amen.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
SUY NIỆM: GẶP ĐƯỢC CHÚA SẼ CÓ NIỀM VUI
Dõi theo hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu, với những làm phép lạ Chúa làm, lời Chúa dạy, người môn đệ được dạy về phẩm chất tông đồ. Cùng với các môn đệ Chúa Giêsu tiếp tục hành trình lên về Giêrusalem. Nếu dọc đường có chàng thanh niên đến quỳ gối xin Chúa chỉ cho biết việc phải làm để được sống đời đời (x. Mc 10, 17), thì giữa các môn đệ cũng có sự năn nỉ nài van cho được ngồi ‘bên tả’ hay ‘bên hữu’ Chúa (x. Mc 10, 35-45).
Hôm nay vẫn trong hành trình trước khi vào thành thánh, có chàng thanh niên mù loà con ông Timê tên là Bartimê kêu xin gặp Chúa để được sáng mắt (x. Mc 10, 46-52). Thật lý thú và kỳ diệu biết bao cho những ai khát mong tìm gặp Chúa, họ sẽ rạng rỡ mừng vui, vì có được điều họ tha thiết nài xin.
Chúa là niềm vui của Israel
Khi dân Israel bị bắt đi lưu đày ở Babylon trở về, người trung thành với Chúa chỉ còn là số ít, họ quá yếu đuối, nghèo nàn và dễ bị tổn thương, đến nỗi không có phương tiện trở về, từ phương Bắc không thể tự giải thoát. Họ là những kẻ trở về để xây dựng đất nước : “trong chúng có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ”. Bàn tay xây dựng lại Israel là những kẻ đui mù, chứ không phải các thanh niên cường tráng! Làm thế nào họ có được khả năng xây dựng lại quốc gia? Thanh niên, người khoẻ mạnh đã bị đế quốc tiêu diệt trong các lao động khổ sai. Họ phải cáng đáng công việc xây dựng lại quê hương.
Trong lúc cùng đường bế tắc như thế Giêrêmia tuyên sấm : Đây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! ” (Gr 31, 7). Không thể vui mừng sao được khi mình đang đui mù, què quăt, mang thai nay có được Thiên Chúa toàn năng trợ giúp dẫn dắt trở về : “Đây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây” (Gr 31, 8). Theo Dianne Bergant: “Phụ nữ mang thai và các bà mẹ tuy yếu ớt, dễ bị tổn thương nhưng cũng là biểu tượng của phong phú và hy vọng. Họ nắm giữ tương lai trong bản thân mình. Khi họ rời bỏ chốn lưu đày về đất hứa, họ mang theo khả năng sinh sản và khởi sự một tương lai mới”.
Đúng là người công chính, đạo đức thực thi công bình, bác ái, sống thánh thiện siêu nhiên, mặc cho thế giới này sa đoạ đến đâu, mặc cho gièm pha độc ác của kẻ giả hình, những vẫn khao khát tìm gặp và cậy dựa vào Chúa, người ấy sẽ có được niềm vui lớn lao. Anh mù thành Giêricô, tên là Bartimê trong Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng.
Chúa Giêsu là niềm vui của anh Bartimê
Chúng ta chiêm ngắm một anh chàng mù, nghèo khổ, gặp được hạnh phúc thật nhờ Chúa Giêsu. Anh thiếu hai điều : cái nhìn thể lý và khả năng tìm kiếm công ăn việc làm để kiếm sống, nên buộc anh phải đi ăn xin. Anh cần sự giúp đỡ và anh ngồi bên vệ đường lối vào thành Giêricô, nơi có nhiều người qua lại.
May mắn cho anh, một hôm chính Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một số người khác đã đi ngang qua đó. Chắc chắn anh mù đã từng nghe nói về Chúa Giêsu, là Đấng đã làm nhiều phép lạ, Đấng ấy đang đến gần anh ta, chớp thời cơ, anh kêu lên : “Hỡi Con vua Davít, xin thương xót tôi!” (Mc 10, 47). Đối với những người đang đi theo Chúa thì tiếng kêu của anh mù thật khó chịu, họ ích kỷ, không chịu thấu hiểu hoàn cảnh của anh. Nhưng lời kêu xin lớn tiếng của anh chứng tỏ anh khao khát gặp Chúa lắm. Lời ấy vang tới tai Chúa và động đến tâm hồn Chúa Giêsu. Người muốn đáp ứng lời van xin của anh mù ăn mày này, nên truyền gọi anh đến đến và chữa lành anh ta.
Lập tức anh mù được đối diện với Con vua Đavít. Giây phút quyết định là sự khát khao gặp gỡ cá nhân, trực tiếp, giữa Chúa với người đang đau khổ. Hai người đối diện nhau : Thiên Chúa với ý muốn chữa lành và con người với ước ao được chữa lành. Hai sự tự do và hai ý chí đều huớng về một điểm. Cuộc đối thoại bắt đầu kẻ hỏi người thưa, “Chúa Giêsu nói với anh: ” Anh muốn Ta làm gì cho anh? “Người mù đáp : “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy” Chúa ra lệnh: “Con hãy đi! Ðức Tin con đã cứu chữa con!” (Mc 10,51) Lập tức Chúa Giêsu cho anh thấy, anh hết sức vui mừng và đi theo Chúa.
Chúa là nguồn vui của chúng ta
Niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui của con người. Theo Phúc âm kể tiếp như sau : Bước vào ánh sáng, anh mù Bartimê bắt đầu theo Chúa khắp nơi! Ðiều này có nghĩa là anh mù trở thành môn đệ Chúa và theo Người lên Giêrusalem, để cùng với Chúa tham dự vào mầu nhiệm cao cả của ơn cứu rỗi.
Cái nhìn thể lý thật quan trọng, cái nhìn từ bên trong của Thiên Chúa. Thánh Clêmentê Alexandria nói, “Chúng ta hãy chấm dứt việc lơ là sự thật, hãy ra khỏi bóng tối và sự vô minh, như một áng mây, hãy ra khỏi đám mây che lấp chúng ta để chiêm ngưỡng Thiên Chúa thật”.
Chúng ta thường hay than phiền và nói rằng, tôi không biết cầu nguyện. Hãy noi gương anh chàng Bartimê mù trong Tin Mừng : Anh không ngần ngại kêu lên cùng Chúa Giêsu tất cả những gì anh ta cần. Phải chăng chúng ta thiếu đức tin? Nếu thiếu, hãy thưa cùng Chúa : “Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con”. Phải chăng chúng ta có người thân bằng hay trong gia đình có người bỏ bê việc sống đạo ? Vậy, hãy cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho họ được nhìn thấy”. Liệu đức tin có quan trọng như vậy không? Nếu chúng ta so sánh cái nhìn thế lý, chúng ta sẽ nói gì đây?
Ðức Tin là cuộc hành trình của sự soi sáng: đức tin khởi sự từ thái độ khiêm tốn nhìn nhận mình cần đến ơn cứu rỗi và đạt đến cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, Ðấng là nguồn vui và là ơn cứu độ. Tình trạng của anh mù thật là buồn, nhưng nhiều người còn chưa tin vào Chúa còn buồn hơn. Chúng ta hãy nói với họ : Thầy gọi anh và hỏi anh cần gì, Chúa Giêsu sẽ đáp trả bạn cách hào phóng.
Lạy Mẹ Maria, xin dẫn chúng con đến gặp Chúa, để chúng con được no thỏa niềm vui ân tình của Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
SUY NIỆM: NHÌN VÀ THẤY ĐƯỢC
Cuộc đời biết bao nhiêu lần nhìn mà không thấy, hoặc thấy mà không chịu nhìn. Đầy những trớ trêu, nhưng đấy là cái trớ trêu của lòng người đấy ích kỷ, gian tham, kiêu căng. Những nỗi đau từ dân oan, những nỗi thống khổ của người dân nghèo, những món nợ bi ai, thống khổ, có nhìn mà không thấy hoặc có thấy mà không chịu nhìn. “Làng tôi quanh co, quanh co, quanh co” (lời bài hát Bà tôi). Xin Chúa mở cho đôi mắt để họ thấy nỗi thống khổ của dân oan, những người nghèo cô thế, cô thân, những phận người bi ai, thấp hèn, những mùa màng đang bị đố bỏ…
Người mù có tên Ba ti mê
Sau đoạn Tin Mừng Chúa kêu gọi các nhà lãnh đạo hãy: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 44), Tin Mừng liền đưa câu chuyện người mù thành Giê ri cô. Không phải ngẫu nhiên mà câu chuyện người mù được đưa ra vào lúc này, nhưng muốn nhấn mạnh đến những người lãnh đạo cần có con mắt để nhìn, để thấy, để hiểu, để làm vơi đi những đau khổ của những người dân nghèo.
Những người dân nghèo ở đây, họ có tên, có tuổi, có địa chỉ rõ rệt trên đường phố. Nghĩa là họ có danh tính, họ không có nhà hoặc bị cướp mất nhà, hoặc vì nghèo đói phải tha hương… Họ có tên tuổi, nhưng họ thiếu những ngày tươi sáng. Họ sống trong tăm tối của thân phận.
Chính vì họ có danh tính nên những người nghèo không phải là những người bỏ đi. Những người lãnh đạo không tên tuổi, là những tập thể lãnh đạo, những người có quyền hành, là những người đang cầm cân nảy mực, là một khối đông không thể gọi hết danh xưng, là những người đang chịu trách nhiệm trước những người nghèo tên tuổi kia, cần được mở đôi mắt để nhìn và để thấy, để hành động.
Nhà lãnh đạo cần được mở tai để mở tấm lòng.
Cần một lời cầu xin của kẻ có mắt nhìn mà không thấy, thấy mà không chịu nhìn. Như người mù thành Giê ri cô, đã được nghe chân lý, sự thiện, được nghe những điều lẽ phải. Những con người đang mù, câm, điếc trước nỗi khổ của người khác, họ cần được nghe những nỗi thống khổ của người dân, cần nghe những tiếng nói từ lương tâm ngay thẳng. Đôi khi, những tiếng ồn ào của những yến tiệc, của những nhạc khí, những lời xu nịnh, những bản giao hưởng từ nhà hát lớn, những tiếng thét gào lòng tham, át đi tiếng lương tâm mách bảo, để lòng chai, dạ cứng, bị câm điếc trước lẽ phải và hành động theo những bản năng thấp hèn.
Tiếng kêu người nghèo thấu đến tai Chúa.
Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhân Ngày Quốc Tế Vì Người Nghèo, 18 -11 – 2018 nhắc lại điều đó. Trong bài giảng lễ sáng Thứ Năm (19/05) tại Nguyện Đường Santa Marta, Đức Giáo Hoàng nói : “Khi của cải được tạo nên bởi việc khai thác con người, bởi những người giàu có này khai khác người khác, họ lợi dụng sức lao động của con người, và những người nghèo này trở thành nô lệ. Chúng ta suy nghĩ ở đây và bây giờ, điều tương tự đang diễn ra, trên khắp thế giới”. Không thể mù, câm, điếc mãi được vì tiếng kêu người nghèo thấu đến tai Thiên Chúa mà những người đang truc lợi trên họ phải chịu trách nhiệm.
Là ai và cần làm gì ?
Ba ti mê là những ai? “Trong thời đại hôm nay cũng đang có biết bao nhiêu là những con đường dẫn tới những hình thức thiếu an toàn! Đó là việc thiếu thốn những phương tiện căn bản của kiếp sống, việc bị loại trừ khi người ta không còn đủ khả năng hay đủ sức để làm việc nữa, và những hình thức nô lệ xã hội khác nhau, bất chấp những tiến bộ mà nhân loại đã đạt được… Trong thời đại hôm nay cũng vẫn đang có biết bao nhiêu là những người nghèo ngồi bên vệ đường như Bác-ti-mê, và tìm kiếm một sự cảm thông cho hoàn cảnh của mình! Biết bao nhiêu là con người đang tự hỏi, tại sao mình lại rơi vào đáy vực thẳm này, và làm thế nào để có thế thoát ra được khỏi đó! Họ mong chờ một ai đó sẽ đến gần họ và nói với họ: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!” (Mc 10,49). (Sứ điệp ngày quốc tế vì người nghèo, ngày 18 -11 – 2018).
“Trước những người nghèo, vấn đề không nằm ở chỗ coi sự can thiệp là điều ưu tiên, đúng hơn, chúng ta có thể nhìn nhận một cách khiêm tốn rằng, Chúa Thánh Thần chính là Đấng khơi lên những hành động mà chúng nên trở thành những dấu chỉ cho câu trả lời và cho sự gần gũi của Thiên Chúa. Ngay sau khi chúng ta tìm ra được một cách thức để gần gũi với những người nghèo, thì chúng ta sẽ biết rằng, quyền ưu tiên thuộc về Đấng đã mở cặp mắt và con tim của chúng ta ra cho sự hoán cải. Người nghèo không cần tới sự háo danh, nhưng cần tới Đức Ái biết ẩn mình và quên đi những điều tốt đẹp mình đã làm. Những nhân vật chính thực sự chính là Thiên Chúa và những người nghèo. Ai đặt mình vào trong sự phục vụ, người ấy sẽ trở thành khí cụ trong đôi tay của Thiên Chúa để làm cho sự hiện diện và ơn cứu độ của Ngài được nhận biết.” (Sứ điệp ngày quốc tế vì người nghèo, ngày 18 -11 – 2018).
Xin mở đôi mắt: “Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm! Chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân“ (Is 58, 6-7). Hành động theo cách đó sẽ tạo điều kiện để tội lỗi được thứ tha (1Pr 4, 8), và tạo điều kiện để công lý được hoạt động, cũng như để Thiên Chúa trả lời và nói: “Này, Ta đây!“ (Is 58,9), khi chúng ta kêu cầu lên Ngài.” (Sứ điệp ngày quốc tế vì người nghèo, ngày 18 -11 – 2018).
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan