Các bài suy niệm Chúa Nhật VI Năm C

Thứ tư - 13/02/2019 21:26

CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN C

 

Lời Chúa: Gr 17, 5-8;  1Cr 15, 12.16-20;  Lc 6, 17.20-26

——–
DẪN NHẬP
 Lời Chúa: “phúc cho các người là những kẻ nghèo khó … nhưng khốn cho các người là kẻ giàu có …” (Lc 6, 20.24)
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 6 thường niên hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu chúc lành cho những người nghèo khó, đói khát, bị lăng nhục, bị hành hạ và Người nguyền rủa những người giàu có, no say, vui cười, được người đời ca tụng để mời gọi chúng ta mạnh dạn lựa chọn Thiên Chúa là suối nguồn hạnh phúc:
Sống đời nghèo khó, bình an,
Giàu sang phú quý, lo toan suốt đời.
Lắng nghe Lời Chúa kêu mời,
Dám liều mạng sống muôn đời vinh quang.
Thế nên ta hãy sẵn sàng,
Hiến thân phục vụ, thiên đàng thưởng công.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta nhận ra ý định yêu thương của Chúa để chúng ta sống siêu thoát đối với những cạm bẫy của trần gian, chỉ khao khát tìm kiếm Chúa là bến bờ hạnh phúc đích thực. Tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa chúc phúc cho những người nghèo khó và phần hưởng là Nước trời làm gia nghiệp. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa mời gọi chúng con hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa chúc phúc cho những ai biết đặt niềm tin cậy vào Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Sống ở đời, niềm khát vọng của con người là được sống trong an bình, được ấm no và hạnh phúc. Thế nhưng, trong xã hội hằng ngày vẫn diễn ra những bất công. Bất công giữa những người quyền thế và những người thấp cổ bé họng,  giữa những người giàu có và những người nghèo khổ: cơm không đủ ăn, mặc không đủ ấm. Điều đó cho thấy trong thời Cựu ước, ngôn sứ Giêrêmia sống trong một hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương, người ta cậy dựa vào quyền thế, của cải trần gian mà bỏ quên Thiên Chúa, nên ông đã đưa lời nguyền rủa: Khốn thay cho kẻ tin tưởng vào người đời, họ giống như cỏ trong hoang địa sẽ chết khô, chết cháy, không phát sinh và tồn tại được; Giêrêmia cũng đưa lời chúc lành: Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, họ như cây trồng bên bờ suối, đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không lo gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi giữa nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết trái.
Thưa anh chị em, bằng những hình ảnh nông nghiệp quen thuộc của người dân, ngôn sứ Giêrêmia đã nêu bật sự đối chọi khác biệt giữa hai thái độ sống: tin vào trần thế và tin vào Thiên Chúa. Trang Tin Mừng hôm nay thánh Luca cũng lần lượt nêu lên sự đối chọi giữa bốn điều chúc lành và bốn điều nguyền rủa:
-  Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó; Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có.
- Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát; Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ.
- Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc; Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười.
- Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương; Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi.
Thánh Luca ghi lại những lời chúc phúc và những lời nguyền rủa của Chúa Giêsu với chủ ý vạch ra con đường mà những người muốn theo Chúa phải lựa chọn. Con đường đó là con đường siêu thoát đối với những quyến rũ, những cạm bẫy của trần gian để chỉ khao khát, tìm kiếm và cậy trông vào Chúa đến cùng. Của cải giàu sang và những hưởng thụ đời này đã làm cho những người giàu có bám víu vào cuộc sống êm ả, thoải mái dựa trên vật chất. Các người giàu có thỏa mãn với cuộc sống hiện tại, họ không nhìn xa hơn được. Đời sống hiện tại làm cho họ không còn mơ ước đến cuộc sống tương lai. Đó là nỗi khốn khổ của người giàu có. Trái lại, phúc cho người nghèo khó vì không gì ngăn cản họ lựa chọn cuộc sống vĩnh cửu.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Tự bản chất, giàu không phải là xấu. Nghèo cũng không phải là nhân đức. Giàu có mà biết chia sẻ, biết trao ban là hạnh phúc thật. Hạnh phúc thật không phải do sự giàu có mà là sự trao ban như thánh Phaolô viết: “cho thì có phúc hơn nhận lãnh”. Nghèo khó nhưng biết phó thác, tin tưởng, cậy trông, không ham lợi lộc thế gian, biết cam với số phận, biết bám chặt vào Chúa là hạnh phúc thật. Người ta sinh ra ở đời là để được sống hạnh phúc. Cả cuộc sống trần gian của con người là tìm kiếm hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực là chính Chúa mà con người phải tìm kiếm. “Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa”.
Ước gì chúng ta cùng mạnh dạn, can đảm chọn Thiên Chúa để không những được đón nhận những lời chúc phúc nơi bàn tay nhân từ đầy thương yêu của Chúa, mà còn được thực sự hưởng lời chúc phúc trong cuộc sống vĩnh hằng. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
 

Mục lục

2. Nghèo vì Nước trời (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Hạnh phúc thật  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Sẽ được đáp đền  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

5. Chúa hứa ban hạnh phúc (Lm. Trần Bình Trọng)

6. Giáo hội bị bách hại (Lm. Anphong Trần Đức Phương)

7. Sống tinh thần nghèo để được hạnh phúc  (Jos.Vinc Ngọc Biển, SSP)

8. Các mối phúc, lời hứa thành hiện thực  (Martin Lê Hoàng Vũ)

9. Phúc cho người nghèo khó (Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

10. Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó  (Lm. Đan Vinh)

11. Đối lập  (Trầm Thiên Thu)

12. Chúa muốn chúng ta là những người có phúc (Lm. Antôn Nguyễn văn Độ)

13. Mối phúc thật  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

14. Suy niệm Chúa Nhật 6 Thường niên_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

15. Hạnh phúc đầy nghịch lý (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

16. Phúc và họa (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

17. Hạnh phúc thật.  (Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

18. Hạnh phúc  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

19. Phúc cho những ai đặt trọn niềm tin vào Chúa (Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng, SDB)

 

 

NGHÈO VÌ NƯỚC TRỜI

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Bầu khí ngày Tết vẫn chưa tan, nhất là tại miền Bắc giàu truyền thống lễ hội. Ta vẫn còn nghe những lời chúc thịnh vượng, khang ninh cho năm mới. Đầu năm mới, các nước trên thế giới đều phấn đấu để kinh tế phát triển, tăng thu nhập cho toàn dân. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay lại nói: “Hỡi anh em là những kẻ nghèo khó, anh em thật có phúc, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Phải chăng Chúa Giêsu phản lại tiến bộ, muốn nhân loại tụt hậu?

Để thấu hiểu Lời Chúa, ta cần ghi nhận mấy điểm sau đây:

Trước hết ở đây Chúa Giêsu không nói về kinh tế, nhưng nói về hạnh phúc, nhưng vật chất tự nó chưa phải là hạnh phúc. Câu chuyện về công nương Diana là một minh hoạ rõ nét.

Mùa hè năm 1997, cả thế giới xôn xao về cái chết của công nương Diana. Công nương Diana là một phụ nữ xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công nương trở thành người có danh vọng và đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc nhất trên thế giới. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú quý như thế phải là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng không đúng như thế. Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu tình yêu thương chân thực. Thái tử Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình cũ. Đau khổ mà chẳng thể nói ra, vì cả gia đình bên chồng muốn giữ uy tín cho hoàng gia. Chán nản với đời sống gia đình, công nương đã tìm vui bên người bạn trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở Paris, cả hai bị thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng chính hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn. Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp, tiền của, danh vọng.

Thứ đến, Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai chương trình của Chúa. Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời.

Sau cùng, Chúa không khuyến khích cảnh nghèo, càng không khuyến khích những người vì lười biếng mà trở nên nghèo. Chúa chỉ khuyến khích những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.

Những người vì Nước Trời mà tự nguyện trở nên nghèo là những người hiểu biết giá trị thực sự của tiền bạc. Biết rõ tiền bạc chỉ là phương tiện nên họ dùng tiền bạc mà không dính bén, có tiền mà không nô lệ cho đồng tiền, nhất là biết dùng tiền vào những việc hữu ích cho đồng loại. Vì tha nhân, vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.

Những người tự nguyện sống nghèo như thế không làm cho xã hội tụt hậu, trái lại giúp phát triển xã hội, đưa nhân loại tiến lên. Không chỉ tiến lên về văn minh vật chất mà còn tiến về nền văn minh tình thương.

Những người tự nguyện sống nghèo như thế giúp nâng cao nhân phẩm con người, đem niềm vui cho người sầu khổ, gieo niềm hy vọng cho những người bị bỏ quên, đem tình thương đến cho những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Những người tự nguyện sống nghèo như thế không phải là những người lười biếng, hèn nhát, uỷ mị, bạc nhược. Trái lại đó là thái độ của những tâm hồn dũng mạnh, luôn phấn đấu với chính mình để nâng tâm hồn mình và nâng cả thế giới lên.

Tự nguyện sống nghèo như thế là một mối phúc cho thế giới, cho nhân loại. Thế giới sẽ tốt đẹp biết bao nếu có nhiều người tự nguyện như thế.

Sau đám tang của công nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn xao về một đám tang khác: đám tang của mẹ Tesexa Cancutta. Khác hẳn với công nương Diana, mẹ Tesexa là một nữ tu già nua, sống một đời sống nghèo. Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước. Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi Đức Giáo hoàng sang thăm Ấn Độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng mẹ một xe hơi sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng về, mẹ đã bán xe lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám tang của mẹ. Và Ấn Độ, một nước không ưa gì đạo Công giáo, đã cử hành quốc tang cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành Lời Chúa: “Phúc cho anh em là người nghèo khó, vì Nước Trời thuộc về anh em”.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn có kinh nghiệm vui buồn gì về tiền bạc? Vì tranh chấp tiền bạc mà mất tình nghĩa? Nhờ biết nhường nhịn về tiền bạc mà thêm bạn hữu?
  2. Lời Chúa hôm nay có chúc phúc và chúc dữ. Bạn thuộc diện nào? Được chúc phúc hay bị chúc dữ?
  3. So sánh cuộc đời của công nương Diana và cuộc đời của mẹ Tesexa, bạn rút ra được quyết định nào cho đời bạn?
  4. Tiền bạc và hạnh phúc. Bạn thấy chúng có liên hệ gì với nhau?

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC THẬT

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Sống trên đời giầu và nghèo là hai thái cực, hai giai cấp luôn đối chọi nhau.Tin Mừng của thánh luca hôm nay cho chunh1 ta hiểu thế nào là lời chúc, thế nào là lời nguyền rủa của Chúa. Hạnh phúc mà con người muốn đạt được ở trần gian này, chắc chắn không phải là cái gì mau qua, chóng tàn mà phải là sự bền lâu, vĩnh viễn..Tin Mừng mô tả các mối phúc để mời gọi người tín hữu chọn lựa.

Tin Mừng của thánh Luca hôm nay đưa ra bốn lời chúc phúc của Chúa Giêsu cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị khử trừ, bị sỉ vả và bốn lời nguyền rủa, chúc dữ cho những người giầu có ,no phỉ,vui cười, được nhiều người ở đời ca tụng, tán dương. Đây là những điều nghịch lý, phản đề, đối chọi,mời gọi người môn đệ Chúa phải biết phân định, chọn lựa vv…

Điều Chúa muốn hướng chúng ta và mọi người về những người xấu số, khổ cực, đói nghèo, những kẻ thấp cổ bé họng , đồng thời Ngài đem lại cho họ niềm hy vọng.Thực tế, Chúa không lên án những người giầu có vì họ có lắm tiền, nhiều của, Chúa không bần cùng hóa xã hội, nhưng Chúa chỉ lên án những người giầu có khi họ có tiền của mà không biết chia sẻ, dùng tiền của vung vít, bừa bãi mà không nghĩ đến những người nghèo, những người cơ cực trong xã hội. Chúa chỉ lên án người giầu khi họ dùng tiền, tài sản như vật cản đường không cho người khác đến với Chúa, và vào Nước Trời.

Tiền bạc, của cải, tài sản tự nó không phải những gì xấu xa, tội lỗi. Cách sử dụng tiên của sao cho phù hợp mới là điều quan trọng. Tiền của, vật chất có thể được dùng vò việc tốt và việc xấu. Điều quan trọng là biết chia sẻ và trao ban. Anh thanh niên giầu có trong Tin mừng là một điển hình cụ thể. Anh có thể thao Chúa, nhưng với điều kiện duy nhất là đừng bám víu, đừng ham của cải nữa mà về bán hết tài sản, phân chia cho những người nghèo khó và đi theo Đức Giêsu. Tự bản chất, giầu không phải là xấu.Nghèo cũng không phải là nhân đức.

Khốn cho người giầu có khi họ chỉ bo bo giữ của cho riêng mình, không biết xót thương, chia sẻ, trao ban. Họ thu tích của cải, tiền bạc vào kho, rồi đóng kín kho không biết mở ra để giúp người nghèo, giúp những công việc chung vv…Hạnh phúc đích thật là con người biết yêu thương, chia sẻ, quảng đại cho đi mà không đòi lại.

Vâng, người ta sinh ra ở đời là để được sống hạnh phúc. Cả cuộc sống trần gian của con người là tìm kiếm hạnh phúc. Con người có thể ở giữa cái họa và cái phúc. Nhưng họa là khi con người chỉ bo bo, nông cạn tìm điều phúc ngắn hạn, những thú vui mau qua ở trần gin. Hạnh phúc đích thực là chính Chúa mà con người phải tìm kiếm. Lúc con người đặt Chúa ưu tiên trong cuộc sống, lắng nghe tiếng Người và phục vụ, thực thi Lời Chúa trong cuộc sống.Chắc chắn, khi lắng nghe, cầu nguyện, xin ơn soi sáng thì các mối phúc của Chúa dạy là lời an ủi, khích lệ, động viên mạnh mẽ và đó cũng chính là lời thức tỉnh cho những ai bước trên hành trình theo Chúa, và giúp những ai biết xây dựng đời sống của mình trên những thực tại vĩnh viễn, trường cửu của Nước Thiên Chúa hơn là chỉ dựa vào những việc mau qua ở trần gian, ở thế giới này.Nói cách khác, con người phải biết cộng tác với Chúa để các mối phúc được hiện thực ngay nơi trần thế này, nhờ biết chia sẻ, trao ban tiền của cho tha nhân, đem lại hy vọng, niềm vui cho những kẻ khó nghèo, sầu khổ vv…

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết đem yêu thương và phụng sự Chúa nơi mọi người, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem thứ tha vào chốn lỗi lầm. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Bốn mối phúc nói gì cho chúng ta ?
2.Bốn mối họa nói gì cho chúng ta ?
3.Hạnh phúc đích thực là gì ?
4.Ai ban cho chúng ta hạnh phúc đích thực ?
5.Chúng ta phải làm gì để các mối phúc của Chúa được thành tựu ở đời này ?

Về mục lục

.

SẼ ĐƯỢC ĐÁP ĐỀN

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Nghèo khó, đói khát là những thứ tai hoạ mà người đời tìm cách khắc phục, tiêu diệt cho đến cùng. Nhân loại hôm nay đang cùng nhau nổ lực xoá đói giảm nghèo. Vậy mà sao Chúa Giêsu lại nói: Phúc cho anh em là những người nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ bây giờ phải đói? Không lẽ Chúa Giêsu lại chủ trương một đời sống nghèo nàn, đói khát và lạc hậu sao?

Tất nhiên là không. Chúa Giêsu muốn cho mọi người được hạnh phúc và no đủ. Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy xin Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày và chính Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và dư dật cho những người đi theo Chúa vào nơi hoang vắng hôm xưa được ăn no.

Thế thì tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ đói khát”?

Ðể hiểu rõ lời Chúa Giêsu dạy, chúng ta hãy đọc cho kỹ câu văn: Bấy giờ “Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… là những kẻ bây giờ phải đói… bây giờ đang khóc…”

Thánh Luca ghi rõ: “Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói…” Vậy thì đây là những lời Ðức Giêsu trực tiếp nói với các môn đệ và đối tượng đầu tiên của các mối phúc nầy chính là những môn đệ của Chúa Giêsu.

Trước đây, các môn đệ như Phê-rô, An-rê, Gioan, Giacôbê là những những khá giả có ghe, có thuyền, có lưới… ngày ngày đánh bắt được tôm cá để nuôi sống gia đình và bản thân. Nay vì theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, các vị từ bỏ ghe thuyền, nhà cửa, nghề nghiệp, bỏ lại cả vợ con, ra đi với hai bàn tay trắng, lên đường phục vụ cho Tin Mừng. Vì thế các ngài là những người trở nên nghèo thiếu vì Tin Mừng và vì Chúa Giêsu. Thế nên các ngài sẽ được Chúa Giêsu trọng thưởng. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đâu có thua lòng quảng đại của con người.

Trước đây, với nghề chài lưới trên một vùng biển vốn nhiều tôm cá, các môn đệ Chúa Giêsu không biết đói khát là gì. Thế mà từ ngày lang bạt theo Chúa Giêsu rày đây mai đó để loan báo Tin Mừng, các ngài phải chịu cảnh bữa đói bữa no. Có lần các môn đệ khi đi qua đồng lúa, phải bứt lúa mà ăn cho đỡ đói (Mt 12,1). Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng quảng đại ắt sẽ bù đắp cho họ dư đầy. “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng”.

Rồi cũng theo dòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu nói: Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”.

Như vậy, nói tóm lại, các môn đệ sẽ được dư đầy hồng phúc vì các ngài đã chịu nghèo đói, thua thiệt vì Chúa Giêsu và vì Tin Mừng của Ngài. Hôm nay cũng thế, nếu chúng ta chấp nhận hy sinh vì Chúa, chịu thiệt thòi mất mát vì Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng dư đầy, bởi vì lòng quảng đại của Thiên Chúa thì triệu lần lớn lao hơn lòng quảng đại của chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Chúa một, Chúa sẽ ban thưởng gấp trăm gấp ngàn.

Ðại thi hào Tagore người Ấn độ có một bài thơ minh hoạ cho chân lý nầy:

“Tôi đang đi hành khất hết cửa nhà nầy đến cửa nhà kia dọc suốt đường làng lúc xe người vàng óng xuất hiện đàng kia như một giấc mơ rực rỡ; lòng nhủ lòng tôi hỏi đức vua oai phong nầy là ai!

Hy vọng trong tôi giang cánh bay cao; tôi thầm nghĩ ngày xấu số từ đây thôi chấm dứt; tôi đứng đợi chờ của bố thí chẳng hỏi xin mà có và bạc vàng trên bụi đường rơi vãi tứ tung.

Xe ngừng nơi tôi đứng. Người đưa mắt nhìn tôi rồi bước xuống, mỉm cười. Tôi thầm nhủ duyên may đời mình thế là đã đến. Nhưng chẳng chần chừ, người lại chìa bàn tay phải ra mà nói: Có gì cho ta không?

A ha, gớm chưa lời thử lòng vương giả khi mở bàn tay ăn xin một người hành khất tầm thường! Bối rối, tôi đứng lặng im lưỡng lự một hồi, rồi từ từ móc trong bị lấy ra hạt lúa nhỏ bé nhất đưa cho người.

Nhưng, ngạc nhiên xiết bao, lúc ngày tàn, giốc túi ăn xin ra nền đất, tôi lại thấy giữa đống của bố thí nghèo nàn hạt lúa vàng vô cùng nhỏ bé. Tôi khóc nức nở, nghĩ bụng ước gì đã có tấm lòng dám cho người tất cả những gì là của riêng tôi!”

Người ăn xin trên đây đã vò đầu bức tóc và khóc nức nở vì tiếc xót. Giá như ông ta dốc hết cả túi thóc cho đức vua, thì giờ đây, ông đã được một túi đầy những hạt bằng vàng!

Các môn đệ của Chúa Giêsu là những người đã dốc hết cuộc đời cho Chúa Giêsu và cho việc rao giảng Tin Mừng, đến nỗi các ngài trở nên nghèo thiếu, trống không vì Chúa Giêsu, thế nên các ngài sẽ được Thiên Chúa đổ đầy hồng ân. Nước Thiên Chúa thuộc về các ngài. Hạnh phúc thiên đàng đang ở trong tầm tay.

Nếu hôm nay, chúng ta không bủn xỉn như gã ăn xin trên đây, nhưng biết rộng lượng cống hiến cho Chúa khả năng, thời giờ, sức lực, trí tuệ… của chúng ta cho Thiên Chúa và cho việc loan báo Tin Mừng như các môn đệ của Chúa Giêsu năm xưa, chúng ta cũng sẽ là những người được Thiên Chúa ban cho dư đầy phúc lộc mai sau và đối tượng của những lời chúc phúc của Chúa Giêsu trong Tin Mừng là hôm nay cũng chính là chúng ta.

Về mục lục

.

CHÚA HỨA BAN HẠNH PHÚC

Lm. Trần Bình Trọng

Thế kỷ ta đang sống là một thế kỷ tiến bộ lạ lùng trong mọi cố gắng của loài người. Loài người đã khống chế được không gian và thời gian: du lịch mau lẹ hơn tiếng động. Loài người còn được hưởng những dịch vụ nhanh chóng bằng cách chỉ cần bấm nút là có món hàng mình muốn, và có thể nói với người ở xa cả hàng ngàn dậm. Muốn mua bao thuốc lá, bỏ tiền vào máy, bấm nút, có liền; muốn mua lon nước ngọt cũng vậy. Người ta có thể thu gọn cả thế giới vào trong cái màn ảnh vô tuyến truyền hình trong phòng. Loài người đã lên cung trăng, đã đi vào thế giới nguyên tử, đã khám phá ra những bí mật của bệnh truyền sinh. Loài người tiến quá lẹ đến nỗi một món hàng sản xuất vừa ra khỏi khuôn đã trở thành lỗi thời. Chẳng hạn như đồ vi tính, vừa mua máy này, đã nghe có máy tốt hơn sắp ra.

Tất cả những tiến bộ đó có được là nhờ sự hiểu biết về khoa học của loài người. Du lịch, truyền thông, y tế, canh nông, giải trí, hầu như tất cả mọi lãnh vực trong cuộc sống con người đều được phát triển nhờ khoa học kỹ thuật. Khi gặp nguy hiểm, người ta xây hầm trú ẩn, hay có quân đội bảo vệ an ninh. Người ta lái xe có thắt giây an toàn. Người ta giữ giấy tờ quan trọng trong hộp an toàn trong nhà băng. Người ta mua bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm sinh mạng, đóng tiền an sinh xã hội cho tuổi già…

Tuy nhiên mặc dầu với những tiến bộ về khoa học, cũng như những tiện ích người ta được hưởng dùng, người ta vẫn không có hạnh phúc thực sự ở đời này. Vậy làm sao để giải quyết vấn đề thiếu hạnh phúc? Tiên tri I-sai-a trong bài trích sách Cựu ước hôm nay cho ta một giải pháp: Phúc cho người đặt tin tưởng vào Chúa vì có Chúa làm nơi nương thân (Gr 17: 7). Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô vọng thêm: Nếu chúng ta đặt hi vọng vào Đức Ki-tô chỉ ở đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hại nhất trần gian (1Cr: 15:19). Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu chúc phúc cho những người mà trước mặt người đời là những người đáng thương hại: người nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị thù ghét. Chúa bảo ta những người được Chúa chúc phúc không phải là những người được người đời ưu đãi. Những đau khổ và bất hạnh của những người bất hạnh trước mặt thế gian, không phải là dấu hiệu Chúa bỏ rơi họ.

Tại sao những người này được chúc phúc và làm sao để được Chúa chúc phúc? Thường những người nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị thù ghét không có gì để bám víu, không có tài năng để làm nên sự nghiệp, không có thế lực để tự bênh đỡ mình, không có bạn bè để nương tựa. Trong trường hợp này họ có thể nảy sinh ra hai phản ứng khác nhau. Phản ứng thứ nhất là họ có thể trở nên thất vọng, sinh ra hận Chúa và hận đời nên dễ làm càn. Cái phản ứng thứ hai là họ tìm đến cậy trông, nương tựa vào Chúa khi không còn gì để bám víu và nương tựa. Họ ý thức về sự hiện diện của Chúa trong đời sống. Và ý thức về sự hiện diện của Chúa là dấu hiệu sơ khởi được Chúa chúc phúc. Khi ý thức được sự hiện diện của Chúa trong đời sống, họ nảy sinh ra cái lòng kính sợ Chúa, không dám làm mất lòng Chúa. Họ cũng nảy sinh ra cái lòng cậy trông vào quyền năng Chúa, tin rằng Chúa sẽ bênh đỡ họ, ở bên họ và trợ giúp họ. Họ tin rằng Chúa sẽ bù đắp cho họ những thiếu sót của họ về của cải, bạn bè, và tài năng mà họ không có, nếu không được ở đời này, thì đời sau họ sẽ được bù đắp. Khi mà cái cùng đích, cái chủ thể, cái lẽ sống của họ là Chúa, thì mặc dù họ không có của cải, bạn hữu, quyền thế, sự nghiệp, họ vẫn không bị sụp ngã, thất vọng, nhưng vẫn còn gì để bám víu. Và cái nơi họ nương tựa bám víu là chính Chúa. Và đó là hạnh phúc của họ.

Về mục lục

.

GIÁO HỘI BỊ BÁCH HẠI

Lm. Anphong Trần Đức Phương

Ai trong chúng ta cũng muốn sống sung sướng, hạnh phúc, và thông thường sự giầu có, tiền bạc đầy đủ bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. “Tiền bạc là chìa khóa mở cửa vào cuộc sống hạnh phúc.” “Có tiền mua tiên cũng được!” Số người mua xổ số càng ngày càng đông, vì muốn giàu có mau chóng và được sống hạnh phúc.

Tuy nhiên, trong thực tế, sự giầu có tiền bạc không hẳn bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. Theo các thống kê của xã hội học về vấn đề tự tử thì tỷ lệ người giầu tự tử nhiều hơn người nghèo; tỷ lệ người tự tử ở các nước tiên tiến , giàu có như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu dẫn đầu các nước khác (xin vào website Suicide để tham khảo). Theo cuộc điều tra mới đây về những người trúng xổ số và trở nên triệu phú trong giây lát, hầu như không người nào nhờ đó mà sống hạnh phúc hơn. Vào khoảng đầu năm 2009, thần tài đã đến viếng thăm một ông, và ông đã trúng số 30 triệu; nhưng chỉ vài tháng sau, ông bị mất tích. Bà mẹ ông thì cho rằng ông sống ẩn dật ở đâu đó, còn cảnh sát thì suy đoán ông đã bị giết, đã phải đổi mạng sống của ông vì tấm vé số trúng. Trong thực tế có nhiều người trúng số lớn, đã mất hẳn cuộc sống tự do lúc bình thường, vì cứ lo bị ‘bắt cóc’, nên đi đâu, ở đâu cũng lo sợ; ngoài ra, còn bị rầy rà vì bao nhiêu bạn bè, bà con thăm hỏi và xin giúp đỡ, nên phải rút vào cuộc sống “ẩn dật” cho yên thân. Chắc chúng ta còn nhớ câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về “Ông Phú Hộ” đêm đêm mất ngủ vì cứ phải lo tính tiền bạc và sự làm ăn sao cho khỏi thua lỗ và được giầu có thêm mãi. Trái lại, người thợ đóng giầy ngủ nhờ dưới chân cầu thang của nhà ông thì đêm nào, khi đi làm về cũng húyt sáo vui vẻ, rồi đi ngủ ngon một giấc đến sáng để lại bắt đầu một ngày mới. Ông phú hộ liền đem tặng cho ông ta một túi tiền. Thế là từ ngày đó, ông ta không còn ngủ yên như trước, vì đêm nằm cũng lo sợ bị mất trộm túi tiền, và khi đi làm cũng vẫn phải lo giữ túi tiền. Ông ta cảm thấy cuộc sống không còn bình an, thanh thản như trước. Và ông ta đã quyết định trả lại ông phú hộ túi tiền để được trở lại cuộc sống nghèo khó nhưng bình yên hạnh phúc hơn.

Trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật này, thường được gọi “Tám Mối Phúc Thật”, Chúa Giêsu có vẻ như đã đi ngược đời, nói đến hạnh phúc không phải cho người giầu có, quyền thế, ăn no mặc ấm… nhưng là cho những người nghèo khó, đói khát, đau khổ, bệnh tật, bị bách hại, phỉ báng, đánh đập tàn nhẫn (như những Giáo sĩ, Giáo dân đang bị bách hại tại Việt Nam, Mã Lai , Trung Quốc, Bắc Hàn, ở Trung Đông và Phi Châu… chẳng hạn). Quả thật là ngược đời hết sức! Nhưng trong Bài Đọc I hôm nay, Thiên Chúa đã soi sáng cho chúng ta biết, qua tiên tri Giêrêmia: con đường hạnh phúc thật là “biết đặt mọi niềm tin tưởng nơi Chúa, lấy Chúa làm tất cả, lấy Chúa làm nơi tựa nương tuyệt đối. Những người đó được sống hạnh phúc thật. Họ giống như cây được trồng bên bờ suối, đâm rể sâu vào đất ẩm ướt; không sợ gì, khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi; không sợ gì, khi nắng hạn, vẫn sinh hoa kết trái!”

Chúa Giêsu Kitô, Thày Chí Thánh của chúng ta, đã không mở đường hạnh phúc cho chúng ta bằng sự giàu sang, quyền qúy; nhưng bằng cuộc sống nghèo khó của chính Ngài, và trong thời gian đi rao giảng Phúc Âm Tình thương, lo cho những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi, lại thường xuyên bị chống đối, ghét bỏ, thù hận. Cuối cùng lại chấp nhận bị bắt, bị hành hạ, sỉ nhục và chết trên Thập Giá, táng xuống mồ, rồi mới sống lại và về Trời để mở đường hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta. Nếu chúng ta không tuyệt đối tin tưởng như vậy; nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Chúa Giêsu Kitô trong cuộc đời này mà thôi; nếu chúng ta chỉ đặt hạnh phúc vào sự giàu sang, quyền quý và tự do mọi sự ở đời này, thì chúng ta sẽ là những kẻ vô phúc nhất thiên hạ! (Như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay).

Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác,

Không theo đường lối những tội nhân,

Không ngồi chung với những kẻ khinh bỉ người khác;

Nhưng vui thỏa trong lề luật Chúa,

Và suy ngẫm luật Chúa đêm ngày.

Họ như cây trồng bên bờ suối nước,

Trổ sinh hoa trai đúng mùa,

Lá cây không bao giờ tàn úa,

Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.

Kẻ gian ác không được như vậy,

Họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi!

Phúc thay người đặt niềm tin cậy nơi Chúa;

Vì Chúa canh giữ đường người công chính,

Con đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.

(Bài Đáp Ca theo Thánh Vịnh 1)

Theo đường lối của Chúa, Giáo Hội cũng chỉ lo rao giảng Tin Mừng hạnh phúc thật cho mọi người, giúp đỡ người bệnh hoạn, người đang ở các trại phong cùi (như ở Việt Nam hiện nay), mở mang văn hóa cho các dân tộc, loan truyền ơn cứu độ, con đường đưa đến hạnh phúc thật đời đời. Nhưng như Chúa Giêsu Kitô, trong mọi nơi, mọi thời, Giáo Hội cũng luôn bị bách hại, phỉ báng, lăng nhục. Tuy nhiên, từ những Hoàng Đế Rôma tàn bạo như Neron đến các bạo chúa thời nay như Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông v.v… tất cả đều đã trở về với cát bụi, nhưng Giáo Hội Chúa vẫn trường tồn và phát triển.

Theo mệnh lệnh của Chúa, chúng ta hãy: “Yêu thương mọi người, làm ơn cho những ai ghét bỏ chúng ta, chúc lành cho những người nguyền rủa chúng ta, và cầu nguyện cho những người vu khống cho chúng ta những điều gian ác.” (Lc. 6,27…). Đó là con đường yêu thương, con đường đưa đến hạnh phúc thật trong cuôc sống đời đời.

Về mục lục

.

SỐNG TINH THẦN NGHÈO ĐỂ ĐƯỢC HẠNH PHÚC

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Đức Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha.

Chính Đức Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.

Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Đức Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời, luôn coi họ như những người bạn, sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che.

Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Đức Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”.

Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cho cái nghèo? Hơn nữa, Ngài lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?

Thưa! Hẳn là không! Qua mối phúc này, Đức Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Đức Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài, để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài.

Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội.

Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Chúa để mặc lấy tâm tình nghèo khó như Ngài, ngõ hầu chúng con được tự do để dấn thân phục vụ người nghèo cách vô vị lợi như Chúa khi xưa. Amen.

Về mục lục

.

CÁC MỐI PHÚC, LỜI HỨA THÀNH HIỆN THỰC

Martin Lê Hoàng Vũ

Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Luca thuật lại việc Chúa Giêsu công bố các mối phúc. Cả hai thánh sử Luca và Matthêu đều ghi lại bài giảng này, nhưng mỗi người lại có một lối viết riêng, rất độc đáo và có tính bổ sung cho nhau nhằm cung cấp cho các độc giả Kitô hữu những bài học cụ thể trong đời sống đức tin.

  1. Các mối phúc theo Tin Mừng:

Các mối phúc của Tin Mừng thánh Luca ghi lại hướng trực tiếp đến những người nghèo, những hoàn cảnh đáng thương vì thiếu cơm ăn áo mặc, những người thấp cổ bé miệng bị xã hội bạc đãi, những nạn nhân của bất công. Họ lại được Thiên Chúa yêu thương, hứa ban hạnh phúc Nước Trời. Có thể nói Tin Mừng Luca là Tin Mừng của người nghèo, cái nhìn của Luca là suốt cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu, Ngài luôn ưu tiên dành chỗ cho người nghèo. Bên cạnh đó, các mối phúc theo Tin Mừng Mátthêu lại mang nặng tính luân lý hơn. Khi nói đến người nghèo, Matthêu cho thấy con người được vào Nước Trời không phải là những người ở trong tình trạng thiếu thốn phương tiện vật chất, nhưng lại do tình trạng sở hữu. Thánh sử Mátthêu nhấn mạnh đến những cơn đói khát tinh thần của con người, đói khát công lý, bác ái và hòa bình viên mãn.

Tóm lại cả hai thánh sử đều muốn khẳng định rằng: Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo trong các mối phúc không phải là thiên đàng trong thế giới tương lai đang đến. Những thực tại Nước Trời được xem như là những giá trị bền vững như công bình, bác ái, liên đới. Đó là Nước Trời mà suốt cả cuộc đời người Kitô hữu luôn kiếm tìm và xây dựng.

  1. Phúc cho người nghèo khó:

Đối với Chúa Giêsu, nghèo hay giàu không phải là cái tội. Của cải, danh vọng và chức quyền tự nó không có gì trái ngược với Tin Mừng. Nhưng Chúa Giêsu trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng luôn cảnh cáo những thái độ làm cho con người trở thành nô lệ. Một cuộc sống nghèo túng có thể là cạm bẫy, những sinh hoạt hằng ngày có thể biến con người thành ngu dại, chỉ biết nhìn thấy miếng cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa cùng đích của đời người. Một cuộc sống thiếu thốn vật chất dễ nảy sinh những tật xấu như chúng ta thường nói với nhau “Bần cùng sinh đạo tặc”.

Ngoài ra, sự giàu có cũng có thể là sợi dây trói buộc lòng quảng đại của con người, phát sinh tính ích kỷ và biến cuộc sống trở thành khép kín. Khi công bố các mối phúc Chúa Giêsu không khuyến khích một thái độ sống vô lo, thiếu trách nhiệm hay phó mặc cuộc đời cho số phận may rủi. Vì đó cũng không phải là thái độ đích thực mà Tin Mừng muốn dạy chúng ta.

Trong bài đọc 1 hôm nay, qua miệng Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Thiên Chúa muốn nói rằng: Ai cũng cần phải lớn lên trong trách nhiệm và tự do. Nhưng không vì thế mà chúng ta chối bỏ sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa. Hơn bất cứ ai, Ngài chính là điểm tựa vững chãi của đời người. Bởi đó chúng ta đừng đi tìm kiếm điều gì khác ngoài Ngài, đừng cậy dựa vào sức riêng của mình mà rời xa Thiên Chúa. Chính khi biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa, con người sẽ tìm được hạnh phúc đích thực. Đó là bí quyết hạnh phúc Chúa muốn truyền lại cho mỗi người Kitô hữu hôm nay. Tất cả chúng ta điều là những người nghèo của Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa là Đấng giàu sang phú quí vô cùng, chúng ta đâu có gì để mà tự hào khoe khoang, nếu chúng ta có gì cũng đều là của Chúa ban cho mà thôi. Chính vì thế chúng ta hãy tin tưởng ở Chúa, hãy tìm đến với Ngài để được Ngài ban cho hạnh phúc. Thực tế cho thấy, ngày nay trong khi con người đi tìm kiếm lợi lộc trần thế họ dễ có nguy cơ tách cuộc đời mình ra khỏi Chúa và chỉ phụ thuộc vào vật chất. Suốt cả cuộc đời con người luôn tìm kiếm giàu sang, danh tiếng, chức quyền nhưng họ đâu có biết đi tìm chính Thiên Chúa là nguồn mạch của tất cả mọi sự.

  1. Nước Trời, nước tình yêu:

Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu đã sống nghèo, Ngài đứng về phía những người nghèo, tuy nhiên Ngài không lấy việc san bằng xã hội làm mục tiêu tranh đấu. Ngài chỉ luôn nhắc nhở con người rằng: Giá trị đích thực của mỗi người không phải là những gì nó có mà là do cái nó là, có nghĩa là chỉ có tình yêu mới làm nên giá trị đích thực của con người mà thôi.

Theo các mối phúc của Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu không hứa hẹn một thiên đàng ngay tại trần thế này, Ngài cũng không loan báo một Nước Trời xa lạ với trần thế. Thực ra Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo thiết yếu là nước tình yêu, nước của liên đới và chia sẻ.

Chính khi biết sống yêu thương, công bình, bác ái trong đời sống chúng ta mới hiểu được Nước Trời là gì. Khi biết tận hưởng niềm hân hoan, hòa bình chúng ta mới khám phá ra thế nào là niềm hạnh phúc đích thực. Và khi được quyền sống, được quyền thể hiện và phát triển phẩm giá của mình một cách trọn vẹn nhất thì chính lúc đó các mối phúc Thiên Chúa ban, qua Chúa Giêsu sẽ trở thành hiện thực.

Như vậy các mối phúc không phải là một lời hứa hão, không phải là chuyện ảo tưởng, viễn vông,nhưng là một sự thật hiển nhiên, điều sẽ đến với mỗi người, rất gần gũi với chúng ta, bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em”.

Lạy Chúa Giêsu. Khi công bố các mối phúc Chúa hứa ban Nước Trời cho những người nghèo khó, Chúa mời gọi chúng con sống tinh thần khó nghèo là biết tận dụng những gì Chúa ban để sinh lợi ích cho mọi người, chứ không bo bo giữ cho riêng mình. Xin cho chúng con biết yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo, những người đang cần chúng con giúp đỡ, những nạn nhân của bất công xã hội để chúng con được Chúa yêu thương chúc phúc và hừa ban Nước Trời. Amen.

Về mục lục

.

PHÚC CHO NGƯỜI NGHÈO KHÓ

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

So sánh với Bài giảng trên núi trong Matthêô (5:1-7.29), bài giảng trong Luca ngắn hơn và diễn ra trên một chỗ đất bằng và có rất nhiều điểm khác biệt khác (6:17. 20-26). Bốn mối phúc trong Luca nói đến những thiếu thốn cụ thể: nghèo nàn, đói khát, khóc lóc, và bị ghét bỏ. Đoạn 6:20-26 nằm trong văn mạch của diễn từ dành cho các môn đệ (6:17-49), vì họ vừa được qui tụ thành nhóm (6:12-16). Đoạn nầy có thể phân chia làm hai phần đối xứng nhau: 1 – Bốn mối phúc (6:20-23); 2 – Bốn lời chúc dữ (6:24-26). Thính giả trực tiếp của bài giảng nầy là đám đông các môn đệ: “Ngước mắt lên nhìn các môn đệ, Người nói..” (6:20). Như thế, những gì Người sắp nói cho họ phải được hiểu trong tương quan làm môn đệ của Chúa Giêsu. Các mối phúc khác có thể tìm thấy rãi rác trong tin mừng Luca (1:45; 7:23; 10:23; 11:27.28; 12:37.43; 14:15; 23:29; Cv 20:35; ). “Phúc cho…” là từ diễn tả sự ca ngợi, qui chiếu về một điều may mắn chẳng hạn con mắt (Lc 10:23), cái dạ mẹ (23:29), tuy nhiên phần lớn qui chiếu về một người được sủng ái, chúc phúc, may mắn. Thiên Chúa là nguồn của mọi phúc lành ban cho họ (x. 1 Tt 6:15). Và “Khốn cho…” là tiếng ta thán diễn tả sự đau buồn hoặc than phiền hơn là một lời chúc dữ hoặc kết án.

Mối phúc thứ nhất là “Phúc cho người nghèo vì Nước Thiên Chúa thuộc về họ” (6:20); đối lại “Khốn cho người giàu vì họ đã được sự an ủi” (6:24). Luca không dùng chữ “nghèo trong tinh thần” như trong Matthêô (x. Mt 5:3). “Người nghèo” (ptōchos) theo nguyên ngữ chỉ một người sợ hãi vô cùng đến nỗi phải che dẩu mình. Họ thường lẩn tránh và không ở một nơi nào nhất định. Từ đó, chữ nầy chỉ đến người ăn xin, túng thiếu (x. Cv 4:34).

Thế nào là người nghèo? Luca không định nghĩa “người nghèo”, mà chỉ cho thấy cách hành động của người nghèo để được Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu là người nghèo vì Người đã “trở nên không” (kenoō) vì Chúa Cha (x. Phip 2:7), đến nỗi Người chẳng còn nơi để tựa đầu (9:58). Các môn đệ là nghèo vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Người (5:11; 18:28). Bà góa được gọi là nghèo không phải vì bà chỉ có hai xu, trong thực tế có thể bà giàu hơn người chỉ có một xu hoặc chẳng có gì hết, mà vì bà đã bỏ tất cả hai xu ấy vào hòm dâng cúng cho Thiên Chúa (21:3); trong khi người được Chúa Giêsu mời gọi bán của cải tất cả mà cho người nghèo được gọi là giàu và “có nhiều của cải”, là vì người ấy từ chối từ bỏ và “trở nên không” để có thể đi theo Người (18:22). Vậy người nghèo được đặt trong tương quan với Chúa Giêsu, chứ không phải với những gì họ đang có hoặc với người khác khi so sánh về tài sản.

Mối phúc thứ nhất nầy được kết cấu bằng hai mệnh đề, mà mệnh đề phụ có chức năng cắt nghĩa mệnh đề trước: không phải vì nghèo mà người môn đệ có phúc, nhưng vì họ được Nước Thiên Chúa như là kết quả của việc từ bỏ mọi sự. Động từ “là” ở thì hiện tại trong mệnh đề phụ muốn chỉ đây là một quả quyết, chứ không phải là một lời hứa. Điều nầy trở nên định luật cho những ai muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu là phải “từ bỏ những gì mình có” (14:33); trái lại, nếu không từ bỏ để trở nên nghèo như Người, không thể làm môn đệ của Người, như trường hợp người giàu có. Đàng khác, chỉ khi nghèo mới để mình lệ thuộc hoàn toàn vào sự trợ giúp của người khác, đến bất cứ lúc nào và từ bất cứ hướng nào. Đặc điểm nổi bật của họ là đón nhận dễ dàng hơn người giàu. Họ dễ chấp nhận vào dự tiệc hơn bội phần những người giàu có đã được mời (x. 14:13.21). Và cũng cho đi cách dễ dàng và quảng đại hơn những người giàu. Xem xét sự quảng đại của bà goá (x. 21:3) và sự từ chối của người giàu có (18:22). Vậy, mối phúc của người nghèo là được Nước Thiên Chúa làm của mình, vì họ đã từ bỏ mọi sự để làm môn đệ của Chúa Giêsu; khác với những người giàu là tìm và hưởng những an ủi do sự giàu có mang lại (x. 6:24).

Câu 6:21 nói đến hai mối phúc “đói-no” và “khóc-cười” (6:21). Chúng được xem như là biểu hiện và hậu quả của cái nghèo. Luca liên kết cái nghèo với sự thiếu thốn thực phẩm: Lazarô vì nghèo nên không có gì để ăn (x. 16;21); trái lại, ông phú hộ thì tiệc tùng linh đình mỗi ngày (16:19). Luca xác định thời điểm hiện tại “bây giờ” (6:21[2x]) vừa để cho thấy là sự đau khổ của cái đói và khóc lóc chỉ là tạm thời chứ không trường cửu; đồng thời cho thấy sự tương phản của tình trạng hiện tại với điều sẽ đến khi Thiên Chúa can thiệp vào. Do đó, sự no đầy và vui cười của những người đang hưởng bây giờ cũng tạm thời; cái đói khát và khóc lóc sẽ đến ngay với họ (x. 6:24). Những câu chuyện được ghi lại trong tin mừng Luca cho thấy những người đang khóc lóc là những người đang sầu khổ: bà góa thành Naim (7:13), ông Giairô (8:51-51), người đàn bà tội lỗi (7:38), Phêrô (22:62). Và chính khi họ đang khóc lóc, Chúa Giêsu can thiệp và biến đổi sự khóc lóc ấy thành tiếng cười khi thấy người con sống lại, hoặc biết tội lỗi đã được tha. Đối lại mối phúc nầy (6:24), Luca dùng thêm chữ “than khóc” (x. Mt 5:4; 9:15) bên cạnh chữ “khóc” để nhấn mạnh tình trạng trầm trọng đảo ngược của những người bây giờ đang vui cười. Động từ “no đầy” ở thể thụ động cho thấy chính Thiên Chúa là người làm hành động nầy. Đồng thời cả hai hành động “được no đầy” và “cười” đều ở thì tương lai, hướng về một sự can thiệp từ phía Thiên Chúa sẽ đến. Vậy, hai mối phúc nầy không xây dựng trên sự đói khát thể lý hoặc thiêng liêng và trên những đau buồn đang xảy ra (x. Mt 5:6), mà trên sự can thiệp quyền năng của Chúa Giêsu, “Người đã đổ đầy cho người đói những điều tốt lành” (1:53).

Sự chúc phúc bằng việc sở hữu Nước Thiên Chúa đã bắt đầu ngay bây giờ cho những ai trở nên nghèo như Chúa Giêsu: Maria (1:48), Simêôn (2:29), Phêrô (5:10), Lazarô (16:25) và ngay cả Con Người (22:69).

Về mục lục

.

PHÚC CHO ANH EM LÀ NHỮNG KẺ NGHÈO KHÓ

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG:  Lc 6,17.20-26

(17) Đức Giê-su đi xuống cùng với các ông. Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đon đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. (20) Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. (21) Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. (22) Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa. (23) Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa. Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các Ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế. (24) Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. (25) Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than. (26) Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.

  1. Ý CHÍNH: PHÚC CHO KẺ NGHÈO KHÓ

Bài Tin mừng Lu-ca hôm nay ghi lại bài giảng khai mạc của Đức Giê-su tương đương với Tám Mối Phúc Thật trong Tin mừng Mát-thêu. Nội dung được tóm lại như sau:

– BỐN LỜI CHÚC PHÚC (c 20-23) : Phúc cho những kẻ nghèo hèn, đói khát, ưu sầu và bị bách hại, vì bây giờ Chúa đến thiết lập Nước Thiên Chúa, họ sẽ được đền bù những thiệt thòi kia bằng ơn cứu độ và hạnh phúc đời đời

– BỐN LỜI THỞ THAN (c 24-26) : Đây là những lời cảnh báo và ngăm đe đối với những kẻ đang sống trong giàu có, được no đầy, vui cười và được ca tụng, vì những điều ấy sẽ không còn nữa khi Nước Thiên Chúa đến trong Ngày của Chúa. Bấy giờ kẻ giàu có sẽ hóa nên trắng tay, kẻ no nê sẽ phải chịu đói khát, kẻ vui cười sẽ phải chịu khổ đau, kẻ được vinh dự trước mặt người đời sẽ bị tước đọat tất cả.

  1. CHÚ THÍCH:           

– C 20-21: +Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…: Nghèo khó ở đây là sự nghèo về tiền bạc vật chất, khác với Tin mừng Mát-thêu nói về sự nghèo khó trong tâm hồn. Nghèo khó còn được hiểu là sự bé mọn (x. Lc 10,21), khiêm nhường tự hạ (x. Lc 14,11), là thái độ không dựa vào thế lực của tiền bạc, mà chỉ biết tín thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. +Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói…: Sự đói khát và no thỏa ở đây cần hiểu theo chiều hướng cánh chung hay thế mạt. +đang phải khóc…: Người ta cần phải biết đón nhận đau khổ gặp phải hằng ngày trong mầu nhiệm tình thương cứu độ của Thiên Chúa.

– C 22-23: +Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa: “Bị xóa tên như đồ xấu xa” nghĩa là bị bôi nhọ thanh danh. +Hãy vui mừng nhảy múa: vì Chúa đến sẽ thiết lập một Trời Mới Đất Mới (x. Kh 21,1), và sẽ đền bù cho những ai đang bị thiệt thòi bằng ơn cứu độ.

– C 24-26: +Khốn cho các ngươi…: Bốn lời tuyên bố nói đây song đối với bốn mối phúc ở trên. Đây không phải là những lời nguyền rủa, nhưng chỉ là sự xác nhận, than thở và ngăm đe, nhằm kêu gọi người ta ăn năn hối cải để thay đổi đời sống. +Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có: Lời kêu gọi người giàu có phải hồi tâm sám hối, vì không thể cùng lúc làm tôi hai chủ là Thiên Chúa và tiền bạc được (x. Lc 16,13). +Khốn cho các ngươi bây giờ đang được no nê, đang được vui cười: Đức Giê-su cảnh báo về một sự đảo ngược tình thế: No nê bây giờ, nếu không chịu chia sẻ cơm bánh cho người nghèo thì sau này chính mình sẽ bị đói khát! Vui cười hôm nay, cần phải đề phòng mai ngày sẽ phải khóc than! +Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng: Nếu kẻ nào chỉ lo tìm kiếm hư danh cho mình ở đời này, nếu không sống theo sự chân thật công chính, thì số phận sau này của họ sẽ phải chịu đau khổ nhục nhã mà bọn ngôn sứ đạo đức giả sẽ phải gánh chịu!

  1. CÂU HỎI: Tại sao Đức Giê-su lại chúc phúc cho những kẻ nghèo khó tiền bạc, những kẻ đang chịu đói khát, khóc lóc sầu khổ và bị người đời thù ghét bách hại, là những điều không ai mong muốn và thường mang lại sự bất hạnh ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” (Lc 6,20).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) GIÁ TRỊ TƯƠNG ĐỐI CỦA TIỀN BẠC:

Một cuộc khảo sát do Đại Học PO-LY-TECH-NIC ở Hong Kong thực hiện phỏng vấn 2,000 người giúp việc Philippines ở Hong Kong và 300 ông bà chủ của họ. Kết quả là 92% người giúp việc Phi cảm thấy “hạnh phúc” hơn các ông bà chủ của họ.

– Tuy nhiên, khi hỏi nếu được hoán đổi vị trí xã hội để trở thành ông bà chủ, thì 100% các chị em ô-sin đều sẵn sàng hoán đổi, dù họ biết rất rõ là các người chủ của họ hàng ngày phải lo lắng đối phó với bao điều phức tạp như: Bị căng thẳng do áp lực của công việc kinh doanh, lúc nào cũng lo xem chỉ số chứng khoán lên xuống, nên không có giờ vui chơi giải trí hay giao tiếp với người thân, luôn phải suy nghĩ để cải tiến kỹ thuật giúp công ty tồn tại và phát triển…

– Ngược lại, khi hỏi các ông bà chủ có muốn hoán đổi vị trí để trở thành ô-sin không, thì 100% đều dứt khoát trả lời “không bao giờ”, dù trước đó họ vừa công nhận là những người giúp việc đang sống “hạnh phúc” hơn họ nhiều.

Như vậy tiền bạc tuy có giá trị vì là thành quả của tài trí khôn ngoan và lao động chăm chỉ. Nhưng giá trị của tiền bạc cũng chỉ là tương đối, dễ bị tiêu tan và không phải lúc nào cũng đem lại hạnh phúc… như tựa đề một cuốn phim: “Người giàu cũng khóc !”. Chính thái độ đối với tiền bạc mới là nguyên nhân làm cho người ta được hạnh phúc hay bị bất hạnh. Người nghèo tiền bạc vẫn có thể hạnh phúc nếu biết quan tâm chia sẻ cho tha nhân những gì mình đang có. Và người giàu cũng có thể bị bất hạnh nếu coi đồng tiền là ông chủ và tìm mọi cách để sở hữu nó càng nhiều càng tốt. Chính khi biết quên mình để lo tìm hạnh phúc cho tha nhân bằng việc chia cơm xẻ áo cho những người nghèo ở bên cạnh như lời Chúa dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35).

2) CHIẾC QUẦN LÓT CỦA GÃ CHĂN CHIÊN HẠNH PHÚC:

Một ông vua kia có đủ mọi thứ của cải trên đời: Nào là cung điện nguy nga tráng lệ, vàng bạc chất đầy kho, ăn uống no say với đủ thứ cao lương mỹ vị, lại có cả một đoàn hầu thiếp mỹ nữ phục vụ ngày đêm… Thế mà nhà vua vẫn không cảm thấy được hạnh phúc. Vua ngày một bị buồn phiền không thiết đến việc ăn uống đến bị phát bệnh. Các thày thuốc giỏi trong triều đình ngày đêm chữa trị cho nhà vua nhưng tất cả đều bó tay. Cuối cùng một vị thần y đã được phát hiện và được cấp thời triệu vời vào hoàng cung chũa bệnh cho nhà vua. Sau khi thăm mạch, vị danh y cho biết Đức vua chỉ bị tâm bệnh, không cần dùng thuốc, mà chỉ cần mặc được chiếc quần lót của người nào thực sự hạnh phúc là bệnh sẽ lập tức khỏi ngay. Một đoàn thái y được sai đi khắp nơi để tìm kiếm con người hạnh phúc để lấy chiếc quần lót mang về trị bệnh cho nhà vua. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp nơi nhưng đoàn vẫn không sao tìm ra được người nào thực sự hạnh phúc, nên viên quan trưởng đoàn đành quyết định quay về triều chịu tội. Một hôm khi đi ngang qua một cánh đồng cỏ thì đột nhiên đoàn thái y nghe thấy có tiếng ca hát rất hồn nhiên vui vẻ. Lần theo tiếng hát thì đoàn thái y gặp một gã chăn chiên nằm dưới gốc cây đa và đang nghêu ngao ca hát. Khi được hỏi, gã chăn chiên cho biết dù luôn sống nghèo khó, nhưng lúc nào gã cũng thấy hạnh phúc. Đoàn người liền vui mừng hè nhau trói gã lại, lột chiếc áo khoác cũ kỹ gã đang mặc trên người để tìm lấy chiếc quần lót đem về cho nhà vua chữa bệnh. Thế nhưng thật bất ngờ: Gã chăn chiên này lại nghèo đến nỗi ngoài chiếc áo khoác sờn rách đang mặc, trên người gã chẳng còn bất kỳ thứ quần áo nào ngay cả một chiếc quần lót !

Nhiều người nghĩ rằng, chỉ những người giàu sở hữu nhiều của cải mới được hạnh phúc. Vì thế, họ không thỏa mãn với số tài sản đang có, và luôn tìm mọi cách để của cải ngày một gia tăng.  Đang khi thực ra hạnh phúc không hệ tại sở hữu nhiều tiền bạc của cải mà bắt nguồn từ sự bình an nội tâm như lời Chúa dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời sẽ là của họ” (Mt 5,3).

3) KHI TIỀN VÀO NHÀ THÌ CHÚA ĐI RA:

Có một đôi vợ chồng tá điền kia làm công cho một ông lãnh chúa giàu có. Hai vợ chồng tuy nghèo nhưng rất có lòng đạo đức: Ngày nào cũng vậy, cả hai đều thức giấc khi gà vừa gáy sáng và dâng giây phút đầu ngày tạ ơn chúc tụng Thiên Chúa. Trong ngày dù phải chịu vất vả làm việc nắng nôi, họ cũng không quên hát những bài thánh ca quen thuộc. Trước và sau bữa ăn đạm bạc, cả hai đều có những lời cầu nguyện sốt sắng. Ngày nào họ cũng đọc kinh tối: ăn năn sám hối tội lỗi và đọc 50 kinh Mân côi dâng kính Đức Mẹ rồi phó thác hồn xác cho Chúa trước khi nghỉ đêm. Tiếng lành về lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá điền đã đến tai ông lãnh chúa. Ông ta quyết định thử để biết nếu đôi vợ chồng này giàu lên thì họ có còn giữ được lòng đạo đức như hiện tại hay không ?

 Một hôm chờ lúc đêm khuya ông lãnh chúa sai đầy tớ bí mật mang một hòm tiền đựng 100 đồng vàng đến để trước cửa nhà của đôi vợ chồng tá điền rồi quan sát động tĩnh. Hôm ấy khi nghe tiếng gà gáy sáng, theo lệ thường hai vợ chồng bác nông dân liền thức dậy đọc kinh râm ran rồi ăn sáng qua loa trước khi ra đồng làm việc. Chợt anh chồng phát hiện ra một chiếc hòm rất đẹp nằm ngay trước cửa nhà. Anh liền gọi vợ ra khiêng vào nhà. Cả hai rất đỗi ngạc nhiên khi mở hòm ra đếm được tới 100 đồng tiền vàng, một tài sản lớn lao mà không bao giờ hai người dám mơ ước. Thế là họ không đi làm như mọi khi mà ở nhà bàn nhau cách cất giấu hòm tiền vàng. Họ hết đào góc nhà lên chôn hòm tiền vàng xuống, rồi lại moi lên mang cất giấu chỗ khác trong nhà vì không yên tâm. Buổi trưa hôm ấy họ không cảm thấy đói và bỏ ăn luôn cả bữa chiều. Đến tối họ cũng không còn đọc kinh râm ran như mọi khi và lúc nào cũng thắc mắc hòm tiền kia của ai và lý do tại sao xuất hiện trước cửa nhà mình. Ba ngày sau, do ăn uống thất thường và tâm trạng quá lo lắng, nên sức khỏe suy kiệt và cả hai vợ chồng đều nằm liệt giường với chiếc hòm tiền được cất giấu ngay dưới gầm giường.

Tất cả thái độ và cách ứng xử của đôi vợ chồng đều được gia nhân báo cáo cho ông lãnh chúa nên ba ngày sau, ông liền đến nhà đôi vợ chồng tá điền thăm hỏi và báo tin nhà ông bị trộm mất một hòm tiền vàng. Lúc đầu cả hai vợ chồng đều chối, nhưng một phần vì sợ bị đi tù và phần khác biết không thể tiếp tục dấu được mãi, nên hai vợ chồng đành phải thành thật khai báo đã cất giữ hòm tiền vàng ra sao và xin được hoàn lại chủ cũ để tránh sự tù tội. Từ ngày đó, do không còn lo lắng về tiền của bất minh nên hai vợ chồng bác nông dân đã dần dần bình tâm trở lại và tiếp tục thói quen cầu nguyện chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa như trước. Từ nay họ bằng lòng với hòan cảnh hiện tại và đã rút ra bài học này: “Khi tiền vào nhà thì Chúa đi ra!”.

  1. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta phải làm gì để góp phần xóa đói giảm nghèo, thăng tiến và phát triển con người ngay từ trong gia đình ra đến môi trường xã hội ta đang sống ?
  2. SUY NIỆM:

1) Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc: Cuộc đời mỗi người là một cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc. Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn từ sự giàu sang phú quý, có danh thơm tiếng tốt và quyền cao chức trọng… Thế nhưng Đức Giê-su lại chúc phúc cho những kẻ nghèo khó! Thế nhưng Người không đề cao sự bần cùng, vì “bần cùng sinh đạo tặc!”.

2) Đức Giê-su đã thực hiện các mối phúc: Người đã làm nghề thợ mộc vất vả để kiếm sống; Người đã bị rơi vào vảnh đói khát sau khi ăn chay 40 ngày. Người đã nhỏ lệ khóc thương bạn thân là anh La-da-rô mới chết; Trong cuộc khổ nạn, Người chấp nhận mọi đau khổ, xỉ nhục, đòn vọt và chịu đóng đinh chân tay vào thập giá… Nhưng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Người vẫn luôn hạnh phúc vì đã bỏ đi ý riêng để vâng theo thánh ý Chúa Cha…

3) Đức Giê-su đến để xóa bỏ các đau khổ bất công: nhân loại đang giàu có đã trở nên nghèo khó, đang sung sướng hạnh phúc lại phải chịu đau khổ bệnh tật và còn phải chết là do tội lỗi đã phạm, bắt đầu từ tội tổ tông truyền và sau đó là tội của tất cả mọi người. Đức Giê-su đến để chia sẻ thân phận nghèo khó ấy để mở ra con đường cứu độ giúp loài người chúng ta lại được ơn nghĩa với Thiên Chúa như thánh Phao-lô đã dạy: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã hóa nên nghèo khó vì anh em, để lấy sự nghèo khó của mình mà làm cho anh em nên giàu có” (x. 2 Cr 8,9). Người đến ban ơn cứu độ bằng việc: xua trừ ma quỷ, tha thứ tội nhân, mở mắt người mù, mở tai kẻ điếc, cho kẻ què được đi, người câm nói được, phục sinh kẻ chết, mở xiềng xích cho các tù nhân và công bố Năm Hồng Ân của Thiên Chúa (x Lc 4,18-21).

4) Chúng ta phải làm gì ? Hôm nay Đức Giê-su muốn các tín hữu chúng ta tiếp tục sứ mệnh cứu độ bằng cách thay Người thăm viếng chia sẻ tiền bạc cho những bệnh nhân nghèo khó tại các bệnh viện, những trẻ em đường phố … Người muốn chúng ta cộng tác với những người thiện chí để xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ các tệ nạn xã hội như: mê tín, mù chữ, sì-ke ma túy, đĩ điếm…, tạo công ăn việc làm cho những người thất nghiệp, sản xuất nhiều của cải phục vụ xã hội… Người muốn chúng ta sống có nhân cách: “Đói cho sạch, rách cho thơm”.

Tóm lại, Đức Giê-su đã tự nguyện sống khó nghèo, để nêu gương chịu đựng gian khổ và góp phần biến đổi thế giới đau khổ hiện tại nên Trời Mới Đất Mới như sách Khải huyền đã tiên báo: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt của họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm như Chúa đã quá biết : Vừa bị túng thiếu đói khát lại vừa phải sống vất vả nhọc nhằn, và còn bị người khác khinh dể. Thật là thiệt thòi đủ thứ! Chúa chọn sống nghèo như thế làm chi ? Nếu không phải là Chúa, thì thế nào người ta cũng sẽ chê cười và coi Chúa là kẻ khờ dại dở hơi thôi!

– LẠY CHÚA. Chúa đã chúc phúc cho người nghèo không phải để họ tiếp tục sống trong sự bần cùng nghèo khổ. Sứ mệnh của Chúa đến là để thiết lập Nước Trời, một “Trời Mới Đất Mới” công bình và hạnh phúc. Trong đó mọi người yêu thương nhau và chia sẻ tình thương cho nhau. Chúa đến nhằm tái lập “công lý và hòa bình”, để cất đi những sự thiệt thòi bất công mà người nghèo phải gánh chịu. Xin cho chúng con ý thức trách nhiệm của mình là phải sống vị tha, quảng đại chia sẻ cơm bánh vật chất cho người nghèo và làm cho xã hội chúng con đang sống ngày một ấm no hạnh phúc hơn và công bình nhân ái hơn.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Về mục lục

.

ĐỐI LẬP

Trầm Thiên Thu

Đối lập là tình trạng trái ngược nhau, đối nghịch, bất đồng, mâu thuẫn. Phải có ít nhất hai thứ (người, vật, phe, hướng,…) mới xảy ra tình trạng đối lập, chỉ một thì không thể. Trong mọi lĩnh vực, cụ thể và trừu tượng, đều có nhiều thứ đối lập: cao – thấp, dài – ngắn, vuông – tròn, trắng – đen, đẹp – xấu, tốt – xấu, hay – dở, khôn – dại, yêu – ghét, thiện – ác, phúc – họa, sinh – tử. Và còn nhiều thứ khác…

Một trong các cặp đối lập “nổi bật” liên quan tinh thần là cặp đôi “phúc – họa”, được đề cập trong Gr 17:5-8. Chính Đức Chúa đã tuyên phán: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa!”. Đó là cái họa lớn nhất và nguy hiểm nhất.

Tại sao nguy hiểm? Như một cách giải thích, cũng chính Đức Chúa cho biết: “Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa CHẲNG ĐƯỢC THẤY hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng CHẲNG NHÌN RA, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người”. Người ta nói đó là tình trạng “có mắt mà không tròng” hoặc “có mắt mà như mù”. Thế thì thật nguy hiểm và đáng sợ, vì đó là đại họa!

Ngược với cái họa là cái phúc. Chắc chắn chẳng có phúc nào bằng phúc của Thiên Chúa trao ban: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái”. Thánh Vịnh gia so sánh tín nhân như cây tươi tốt vì đủ nguồn nước để phát triển, rất dễ hiểu và thực tế. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).

Thánh Vịnh gia nói tới “hai con đường” liên quan Phúc – Họa: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:1-2). Cách so sánh cũng rất cụ thể: “Người ấy tựa cây trồng bên dòng nước, cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh, cành lá chẳng khi nào tàn tạ. Người như thế làm chi cũng sẽ thành. Ác nhân đâu được vậy: chúng khác nào vỏ trấu gió thổi bay” (Tv 1:3-4).

Nguyên nhân thế nào thì hệ quả như vậy, chúng ta gọi là nhân – quả. Và hệ lụy là điều tất yếu và minh nhiên: “Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính, còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong” (Tv 1:6). Cái gì Tốt thì Lành, dù cụ thể hay trừu tượng. Vấn đề tâm linh cũng không ngoài quy luật tất yếu như vậy.

Qua trình thuật 1 Cr 15:12, 16-20, Thánh Phaolô đề cập cặp đối lập đặc biệt nhất: Sinh – Tử. Thánh nhân đặt vấn đề: “Nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Kitô đã từ cõi chết trỗi dậy thì sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại?”. Sống hôm nay, chết ngày mai, rồi chấm hết. Nếu chỉ thế thôi thì cũng không hơn gì cây cối và thú vật, người ta không gì phải lo sống tốt hay xấu. Cứ xả láng rồi sáng về sớm cũng chẳng sao.

Thánh Phaolô giải thích: “Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy thì Đức Kitô cũng đã không trỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”. Ôi, tội nghiệp thật. Và chỉ như thế thì chán thật, cũng chẳng có gì để người ta phải cố gắng chi cho mệt.

Nhưng không phải thế! Nhân quả của con người khác hẳn thảo vật và động vật: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại”. Đó mới là chuyện đáng nói, đáng nỗ lực không ngừng. Nếu sinh – tử theo kiểu luân hồi thì cũng chẳng đáng quan ngại, vì cứ như vòng tuần hoàn thì không gì phải lo lắng cho nhọc óc, nghĩa là cứ “vô tư”. Thế nhưng không như thế, cho nên cứ “vô tư” thì hóa “đại ngu”, ta tự hại mình!

Trình thuật Lc 6:17, 20-26 (≈ Mt 5:1-12) đề cập một cặp khác cũng đặc biệt: Phúc – Họa. Hôm đó, Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Ngài dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Ngài, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn. Chúa Giêsu nói hai vấn đề:

Thứ nhất là các MỐI PHÚC (Lc 6:20-23 ≈ Mt 5:3-10). Thánh Mátthêu cho biết đầy đủ chi tiết hơn, gọi là Bát Phúc, còn Thánh Luca tóm tắt thành Tứ Phúc: “Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: PHÚC cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. PHÚC cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. PHÚC cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. PHÚC cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”.

Thứ nhì là các MỐI HỌA (Lc 6:24-26 ≈ Mt 5:11-12), Thánh Luca phân định thành Tứ Khốn: “KHỐN cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. KHỐN cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. KHỐN cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than. KHỐN cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế”.

Cách phân định của Thánh sử Luca tạo thành hai vế đối cân bằng: Tứ Khôn và Tứ Khốn. Phải chịu khốn vì không sống khôn, nếu sống khôn thì tránh được cái khốn – cái họa. Liên quan sự khôn ngoan có truyện “Bán Sự Khôn Ngoan” thế này:

Một ngày nọ, hiền triết Diogène (Hy Lạp) đến giữa chợ Athènes và dựng lên một căn lều với tấm bảng ghi đậm hàng chữ: “Ở đây có bán sự khôn ngoan”.

Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao và cười thầm trong bụng. Muốn biết phía sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.

Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ. Anh ta đưa cho Diogène 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, hiền triết Diogène vẫn thản nhiên và ôn tồn nói với người đầy tớ: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: ‘Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến Cùng Đích’. Vậy nhé!”.

Vị khoa cử thành Athènes vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và cũng để mọi người đi qua trước nhà ông đều có thể đọc được: “Trong tất cả mọi sự, hãy suy nghĩ đến Cùng Đích”.

Nghĩ đến Cùng Đích là nghĩ đến cái gì? Đó là Cái Chết. Nghĩ đến Cái Chết không phải là ý tưởng tiêu cực, bi quan, chán đời hoặc yếm thế, mà lại chính là CÁCH SỐNG KHÔN NGOAN, với hệ lụy tất yếu: sống Khôn để thoát Khốn. Chính Thiên Chúa cũng đã nhắc nhớ: “Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Người Latin có thành ngữ: Memento Mori – Hãy Nhớ Mình Sẽ Chết. Nhớ làm gì cái thứ đó? Nhớ để nên khôn bằng cách Luôn Sẵn Sàng – Semper Paratus – Always Ready.

Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài thấu suốt mọi sự, biết cả những gì con chưa nghĩ tới, xin ban Thần Khí soi sáng để con biết việc phải làm cho hợp ý Ngài, biết khôn ngoan chọn những gì đẹp ý Ngài, và cố gắng sống vuông tròn cho tới hơi thở cuối cùng. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA MUỐN CHÚNG TA LÀ NHỮNG NGƯỜI CÓ PHÚC

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Trong Tin mừng thánh Luca hôm nay dìu chúng ta về với các Mối Phúc để sống và các mối họa để mà tránh. Trước khi nói đến phúc thì Chúa Giêsu nói đến họa “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!” Quả thật, nghèo khó là trung tâm của Tin Mừng : “Phúc cho những ai có tình thần nghèo khó” là mối phúc đầu tiên trong các mối phúc và là sứ mạng khi Chúa Giêsu tự giới thiệu về mình với dâng làng Nagiaret tại hội đường : “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo, tin vui cho người nghèo”.

Vấn nạn từ mối phúc

Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn từ giàu sang, no đủ, từ danh thơm tiếng tốt. Khi công bố trong đoạn Tin Mừng (Lc), Chúa Giêsu đưa chúng ta đi vào một thế giới khác, với sự đánh giá khác. Người cho các môn đệ biết rằng: họ là những người có phúc, khi phải chịu nghèo đói, đau khổ, bách hại vì Người, khiến người nghe những mối họa và phúc không khỏi thắc mắc : Thế nào là giàu, thế nào là nghèo ? Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cái nghèo? Hơn nữa, Người lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?

Nếu Chúa Giêsu tuyên bố : “Phúc cho anh em là những người bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” (Lc 6,21). Vậy ai là người đói khát và ai là người no thỏa ?

Chẳng những Chúa Giêsu từ ngàn xưa đã công bố như thế, mà ngay chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong thời hiện đại khi kể chuyện về giây phút cái danh hiệu PHANXICÔ đi vào lòng ngài, ngài diễn tả chương trình hành động của ngài, không phải bằng một lời tuyên bố long trọng, nhưng bằng cách bộc lộ một nỗi khao khát: “Ôi, tôi mong ước biết bao có được một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo”. Nhưng khi nghe đến “một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo”, có người hỏi : “Thế còn người giàu thì sao?” Phải chăng một “Hội Thánh nghèo” là một Hội Thánh gồm toàn những người nghèo?

Phúc cho kẻ nghèo

Câu chuyện về một vị ẩn tu sống rất nghèo do Đức Cố Hồng Y Carôlô Maria Martini viết trong một cuốn sách, giúp chúng ta hiểu phần nào về người giàu có thể có tâm hồn nghèo khó, người nghèo lại không.

Chuyện kể rằng, vị ẩn sĩ này chỉ có một tấm áo rách trên mình và một cái vò đựng nước đã bể… Một hôm ông hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con có phải là người nghèo nhất trên thế gian này chưa?” Chúa sai thiên thần đưa ông đến trước một lâu đài sang trọng và bảo: “Người sống trong lâu đài này mới là người nghèo nhất trên thế gian”. Vị ẩn sĩ rách rưới ngẩn người hỏi Chúa: “ Sao lại như thế được?” Chúa trả lời: “Người sống trong lâu đài sang trọng này có đủ mọi thứ, nhưng lòng không dính bén chút gì, còn con, con dính bén với chính cái áo rách và cái vò đã bể của con”.

Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất thật cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người đặt con người làm chủ và hưởng dùng mọi sự trong vũ trụ. Nhưng của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh. Người nghèo là người biết sống cho những giá trị ấy, cho dù giữa những vất vả lo toan, miếng cơm, manh áo, họ vẫn luôn tìm kiếm Nước Trời, họ sẽ là người hạnh phúc nhất, vì biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.

Khốn cho người giầu

Tại sao Chúa Giêsu lại nặng lời với những người giầu? Có lẽ vì của cải là ngẫu tượng hấp dẫn, nó cuốn hút chúng ta và đẩy xa Thiên Chúa ra khỏi lòng chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố : “Anh em không thể làm tôi hai chủ, hoặc ghét chủ này yêu chủ nọ”. Liên hệ trực tiếp, chúng ta chỉ có thể làm tôi Thiên Chúa, hoặc làm tôi tiền của, chứ không thể làm tôi cả hai được. Vì thế, nếu xem tiền của là chủ đời ta, thì tiền của sẽ túm lấy ta, phá vỡ sự hòa hợp giữ con người với nhau, hủy hoại cuộc sống và linh hồn khiến ta không còn yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức và hết trí khôn nữa, và như thế là đối nghịch lại với điều răn thứ nhất là thờ phượng Một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự.

Nếu Chúa ban cho ta của cải giàu có thì chính là để trao tặng cho người khác, để nhân danh Chúa làm nhiều điều tốt cho tha nhân. Nhưng của cải có khả năng cám dỗ chúng ta và chúng ta bị sa ngã, trở thành nô lệ của sự giàu có. Đã có lần Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi chúng ta cầu nguyện một tí và hy sinh một tí, không phải cho người nghèo, nhưng cho người giàu. (REI 24/05/2018)

Một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo

Một Hội Thánh nghèo không phải là một Hội Thánh gồm toàn người nghèo. Hội Thánh không phải là Bang Hội của Cái Bang (ăn mày). Hội Thánh gồm tất cả những ai tìm kiếm và tin nhận Thiên Chúa là hạnh phúc duy nhất và vĩnh cửu và “Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,2). Chính khi kêu gọi các tín hữu quyên góp để chia sẻ với cộng đoàn Giêrusalem đang lâm cảnh khó khăn mà thánh Phaolô nại đến gương Chúa Giêsu: “Quả thật anh em biết Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của minh mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cor 8,9). “Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…”(Pl 2,7) để cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa. Như vậy, Một Hội Thánh nghèo là một Hội Thánh sống tinh thần nghèo khó của Tin Mừng, không dính bén với của cải vật chất, không chạy theo thói thế gian, không đặt của trọng hơn người.

Sống lời Chúa dạy

Việc đầu tiên phải làm cho người nghèo, là chiến thắng sự lãnh đạm, vô cảm, những viện cớ này khác để xa tránh những con người này, biết quan tâm đến những cảnh ngộ lầm than, đáng thương quanh ta. Giảm thiểu khoảng cách bất công giữa người giầu và người nghèo một vùng miền nào đó.

Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta trở nên những khí cụ tình thương hải hà của Chúa đối với anh em. Amen.

Về mục lục

.

MỐI PHÚC THẬT

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Thầy trò xuống núi truyền rao,
Tin mừng giải thoát, ơn cao đổ tràn.
Đám đông dân chúng kêu van,
Chữa lành bệnh tật, ban ngàn ân thiêng.
Dẫn đường mở lối thiêng liêng,
Thực hành Phúc Thật, ơn riêng theo Thầy.
Phúc thay nghèo khó đời này,
Nước Trời chiếm hữu, vui vầy mai sau.
Phúc ai đói khát khổ đau,
Mai ngày vui sướng, no đầy phúc vinh.
Phúc người khóc lóc cực hình,
Vui cười hớn hở, an bình cõi tiên.
Người ta thù ghét sỏ xiên,
Mong rằng hạnh phúc, cõi thiên tìm về.
Bất lương phỉ báng ê chề,
Hân hoan phần thưởng, mọi bề reo vui.
Khốn kẻ giầu có mù đui,
No say đầy đủ, sống chui phận hèn.
Vui cười thỏa mãn đời khen,
Người đời ca tụng, sang hèn chóng qua.

Phúc cho ai đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, họ sẽ được hạnh phúc và sẽ gặp may mắn. Mối phúc thật thứ nhất: Phúc cho ai có tinh thần khó nghèo, vì nước trời là của họ. Chúng ta đang sống trong xã hội mà các giá trị của con người đặt trong các kỷ lục thế giới. Trong cuốn Guiness Book of World Records, chúng ta đọc thấy giá trị cuộc sống được đánh giá qua các thành qủa của các môn thể thao, phát minh khoa học và kỹ thuật…và những giá trị trần thế tựa dựa vào sự phát triển và sự giầu sang phú quí. Là Kitô hữu, chúng ta đặt niềm tin nơi Chúa và đi tìm hạnh phúc đích thực cho cuộc đời.

Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu trình bày dẫn vào các mối phúc thật. Chúa nói rằng: Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó. Ai trong chúng ta cũng sợ cái nghèo và cái khổ. Nhiều người coi sự nghèo khó là bất hạnh. Nên ai ai cũng cố gắng kiếm tiền càng nhiều càng tốt. Chúng ta lo làm lụng để có của ăn, của để và một chút vốn liếng phòng thân. Thánh Phaolô nhắc nhở: Nếu ai không muốn làm, thì đừng có ăn. Chúng ta phải cật lực lao động để trang trải cuộc sống và trả các món nợ. Đó là lẽ thường, ‘tay làm hàm nhai.’ Nhưng Chúa Giêsu lại nhắc khéo chúng ta rằng các con chớ áy náy lo lắng các con sẽ ăn gì, mặc gì. Cha các con biết rõ. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và mọi sự Người sẽ ban thêm cho.

Tiền là ông chủ xấu nhưng là đầy tới tốt. Khi có tiền, chúng ta vẫn có thể sống tinh thần nghèo khó. So với các nhà tỷ phú và triệu phú thì vốn liếng của chúng ta chẳng có là bao. Có bao nhiêu tiền của mới gọi là giầu và người thiếu bao nhiêu, mới gọi là người nghèo. Có người nghèo của cải, nhưng lại giầu lòng từ bi như bà góa bỏ tiền vào thùng khấn. Sống tinh thần nghèo khó sẽ giúp chúng ta trút bỏ được những bận vướng của trần gian.

Truyện kể: Khi xảy ra nạn đói tại Hoa Kỳ, các cơ quan thiện nguyện của chính phủ đi tìm giúp đỡ những người bất hạnh ở vùng núi. Họ tìm đến những nơi nghèo khó để giúp đỡ tiền bạc, sửa chữa nhà cửa và phân phát hạt giống để gieo trồng. Nhân viên cơ quan gặp một người đàn bà sống trong một túp lều nghèo nàn. Cánh cửa thì bể nát và mái lều xiêu vẹo. Người đàn bà chỉ có nơi tạm trú nghèo hèn và thiếu thốn mọi bề. Nhân viên nói với bà rằng nếu chính phủ cho bà 200 đô la, bà sẽ làm gì với nó? Bà trả lời: Tôi sẽ cho người nghèo.

Nghèo về vật chất, đôi khi chúng ta còn có thể phấn đấu và vượt qua. Khi phải khóc lóc vì vu oan giáng họa, bị thù ghét và phỉ báng, tâm hồn chúng ta mới thấy khổ não và buồn phiền. Chúa chúc phúc cho những người phải khóc lóc và bị người ta thù ghét vì danh Chúa. Chúa phán: Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Trong tất cả mọi sự, chúng ta hãy luôn hướng lòng lên cùng Chúa. Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_C

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Kính thưa anh chị em,

Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng rất hay do Thánh Luca ghi lại. Đây là bài Tin Mừng hơi khó giải thích. Thế nhưng đây lại là bài Tin Mừng hết sức quan trọng vì nó đề cập đến một vấn đề cũng hết sức quan trọng trong cuộc sống của con người. Đó là vấn đề Hạnh Phúc.

Khi bàn về đời sống hạnh phúc, sách Giáo Lý chung ngay từ số đầu tiên (Số 1) đã có những diễn tả hết sức ấn tượng như sau:

“Thiên Chúa, tự bản thể là Đấng vô cùng hoàn hảo và hạnh phúc. Theo ý định hoàn toàn do lòng nhân hậu, Ngài đã tự ý tạo dựng con người, để cho họ được thông phần sự sống hạnh phúc của Ngài. Do đó, trong mọi thời và mọi nơi, Ngài đã đến gần với con người. Thiên Chúa kêu gọi con người, giúp họ tìm kiếm Ngài, nhận biết và đem hết tâm lực yêu mến Ngài. Thiên Chúa triệu tập mọi người, vốn đã bị phân tán vì tội lỗi, để hợp nhất thành gia đình của Ngài là Hội Thánh. Để thực hiện điều này, khi thời gian tới hồi viên mãn, Ngài đã sai Con Ngài đến làm Đấng Chuộc Tội và Cứu Độ. Trong và nhờ Người Con ấy, Thiên Chúa kêu gọi loài người để trong Chúa Thánh Thần, họ trở nên dưỡng tử của Ngài và do đó, được thừa hưởng sự sống hạnh phúc của Ngài.” (Số 1)

Chúng ta hãy nhắc lại một lần nữa để chúng ta thấy được tầm quan trọng của vấn để mà bài Tin Mừng hôm nay đề cập tới như thế nào: “Theo ý định hoàn toàn do lòng nhân hậu, Thiên Chúa đã tự ý tạo dựng con người, để cho họ được thông phần sự sống hạnh phúc của Ngài”+ “Thiên Chúa kêu gọi loài người để trong Chúa Thánh Thần, họ trở nên dưỡng tử của Ngài và do đó, được thừa hưởng sự sống hạnh phúc của Ngài.”

Đúng là Thiên Chúa muốn cho con người được sống hạnh phúc, thế nhưng làm sao con người có thể có được hạnh phúc theo lòng nhân hậu của Thiên Chúa đây?

Có một câu chuyện cổ phát xuất từ Ba Tư là nơi người ta bảo là cái nôi của sự khôn ngoan trên thế giới như sau.

Ngày xưa, tại quảng trường của thành phố nọ có một nhà hiền triết đã xuất hiện và tuyên bố sẽ giải đáp được mọi thắc mắc của bất cứ ai tới vấn kế. Một hôm, giữa lúc mọi người đang say mê lắng nghe lời của nhà hiền triết thì có một người mục tử trên núi cao đi xuống. Nghe tiếng về sự thông thái của nhà hiền triết nên anh muốn chứng kiến tận mắt và nghe tận tai, nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông. Anh đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chắc một con chim nhỏ. Anh hỏi:

– Thưa ngài, tôi nghe đồn ngài là một người thông thái khôn ngoan, vì vậy ngài có thể nói cho tôi rõ con chim tôi đang cầm trong tay là con chim sống hay con chim đã chết được không?

Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy mà người mục tử đang giương, nếu ông bảo rằng nó còn sống thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết, trước khi anh ta mở bàn tay ra. Còn nếu như ông bảo con chim không còn sống thì người mục tử sẽ mở bàn tay để chim bay đi. Sau một hồi thinh lặng trước sự hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết trả lời như sau:

– Con chim, mà ngươi đang cầm trong tay đó sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó sẽ chết.

Hạnh phúc cũng tương tự như thế. Hạnh phúc có được hay không là tuỳ ở mỗi người chúng ta.

Có nhiều người trong chúng ta tưởng hạnh phúc ở chỗ nọ chỗ kia nên đã dốc công đi tìm. Có người tìm ở nơi tiền bạc. Có kẻ đi tìm ở nơi lạc thú. Có kẻ khác đi tìm ở nơi danh vọng nhưng thử hỏi đã có ai thực sự tìm thấy hạnh phúc ở nơi tiền bạc, lạc thú, danh vọng hay chưa thì quả là chưa có ai dám can đảm quả quyết đã tìm thấy.

Hôm đó Đức Thích Ca vào thủ đô của vua Kaniska. Nhà vua đã thân hành ra đón chào Ngài. Nhà vua là bạn thân của thân phụ Đức Thích Ca. Đức Thích Ca nhìn sâu vào đôi mắt nhà vua và nói: “Xin Ngài hãy thành thực nói với tôi: Trong tất cả những thú vui mà Ngài đang có, Ngài có thực sự được một ngày hạnh phúc không?”

Vua Kaniska cúi nhìn xuống đất và giữ thinh lặng.

Nhà vua im lặng vì không có can đảm trả lời là có.

Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do thái rất giàu có, thời trai trẻ ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong buổi giảng mùa vọng tại đền thờ đức bà ở Balê, ngài nói:

– Tôi đã đi khắp cả mặt đất, tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều: không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở những nơi vàng bạc, ở nơi sắc đẹp… Ôi lạy Chúa, điều con mơ ước mọi giờ mọi ngày ở đâu? Và con chỉ tìm được nó trong Chúa và trong tình yêu Chúa mà thôi.

Vua Abder Rahman Đệ Tam Vị vua Hồi giáo nổi tiếng nhất của Tây Ban Nha , đã biến đất nước Tây Ban Nha thành trung tâm khoa học của Âu Châu vào thế kỷ thứ 10  vào cuối đời rằng Ông đã tuyên bố:

– Ta đã ngồi trên ngai vàng 50 năm, đã kinh nghiệm chiến thắng và hòa bình, được thần dân mến phục, kẻ thù sợ hãi, và đồng minh kính nể. Danh lợi, quyền quí và tất cả các thú vui trên trần gian ta đều có cả. Nhưng khi ngồi tính thật kỹ số ngày ta được hoàn toàn hạnh phúc, thì con số đó quá ít ỏi, chỉ vốn vẹn có 14 ngày.

Làm vua một nước lớn, có quyền thế, danh vọng, giàu sang trong tay suốt 50 năm, tức là 18.250 ngày, vậy mà chỉ hương được có 14 ngày hạnh phúc! Nhiều người ngày nay tương rằng danh vọng, giàu có, quyền thế là hạnh phúc, nhưng thật ra những thứ đó đều không thể hoàn toàn đem lại hạnh phúc. Những ngày hạnh phúc do các thứ ấy mang lại rất là ít ỏi.

Xét như vậy thì Hạnh Phúc không phải là thứ mà con người muốn có là có. Muốn có Hạnh Phúc con người phải tìm đến với một nguồn cội khác. Nguồn cội ấy là Thiên Chúa.

Khi hoàng đế Napoléon của Nước Pháp bị đày sang đảo Saint Hélène sau những thất bại thê thảm trên chiến trường và chính trường. Người viết tiểu sử vẫn theo sát bên cạnh ông để ghi lại từng chi tiết của cuộc đời một con người rất nổi tiếng, đã từng chinh phục một phần  khổng lồ của lục địa Châu Âu.

Một hôm, biết ngày tận cùng của Napoléon đã đến gần, người viết tiểu sử mới hỏi ông

– Thưa hoàng đế, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?

Vị cựu hoàng, lúc ấy đang nằm liệt giường, không vội trả lời ngay. Ông quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thắm một lúc rồi quay lại, nói như một lời tâm sự cuối cùng:

– Ta nhớ, ta nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong đời ta đã diễn ra cách đây lâu lắm rồi, khi ta còn thơ bé. Đó chính là ngày ta được rước lễ lần đầu!

Đức Cha Fulton Sheen trong tác phẩm bàn về Hạnh Phúc đã có một xác tín rất hay khi Ngài nói: “Cho dầu thế giới này có xa cách Thiên Chúa đi nữa, thì con tim của mỗi người cũng không xa cách Ngài”.

Vâng! Đúng như vậy. Chỉ khi nào con người biết tin vào Chúa xót thương, để rồi cũng xót thương kẻ khác như Chúa xót thương mình, chúng ta mới có được hạnh phúc, một thứ hạnh phúc ngọt ngào, đầy bình an, vượt trên mọi thứ hạnh phúc, mà trần gian tôn vinh tìm kiếm, một thứ hạnh phúc vượt trên không gian và thời gian, hòa nhập vào hạnh phúc của Thiên Chúa Ba Ngôi.Amen.

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC ĐẦY NGHỊC LÝ

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Lời Chúa của Chúa Nhật này chứa đựng sứ điệp niềm vui và chỉ cho chúng ta con đường tốt nhất để đạt tới hạnh phúc mà con người không ngừng tìm kiếm. Con đường đó không phải là con đường mà người đời nói đến, nhưng là con đường các mối phúc thật của Chúa Giêsu, được thánh Luca trình thuật trong Tin Mừng hôm nay.

1- Tin Mừng cho người nghèo của Thiên Chúa

Theo Luca, các mối phúc là “Tin Mừng,” tin vui dành cho những người “nghèo của Thiên Chúa” để khích lệ niềm hy vọng của họ và đề nghị một sự thay đổi tận căn của con người trong xã hội về bậc thang giá trị cuộc sống. Các mối phúc thiết lập một dạng thức Kinh Thánh về truyền thống ngôn sứ. Theo Mátthêu, có tám mối phúc (x. Mt 5,1-10). Còn theo Luca, chỉ có bốn mối phúc đối lập với bốn mối họa. Khi trình bày các mối phúc đối lại với các mối họa, thánh Luca muốn đề cập đến tám loại người đối nhau: phúc cho anh em là người nghèo khó vì Nước Trời là của họ, và khốn cho các người giàu có vì các ngươi đã được an ủi rồi; phúc cho anh em là những kẻ đang phải đói, và khốn cho các ngươi là những kẻ đang no nê; phúc cho anh em là những người đang phải khóc, và khốn cho các người là những kẻ đang vui cười; phúc cho anh em là những kẻ đang bị oán ghét, và khốn cho các ngươi là những kẻ được mọi người ca tụng…

Theo đó, các mối phúc tiếp tục đường hướng của truyền thống ngôn sứ Kinh Thánh, là xây dựng lược đồ song đối, vì thế, chúng chứa đựng lời loan báo ngôn sứ về một phúc lành mà nó mang lại niềm vui, đồng thời gửi tới một lời “khốn thay,” như là lời cảnh báo, để mời gọi sự tỉnh thức và sự hoán cải.

Cũng theo cách thức này, trong bài đọc I, ngôn sứ Giêrêmia đối lập hai hạng người: hạng thứ nhất đó là phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và hạng thứ hai là khốn thay kẻ tin ở người đời và lòng dạ xa rời Đức Chúa. Hạng người thứ nhất như cây trồng bên dòng nước. Hạng thứ hai như bụi cây trong hoang địa (x. Gr 17,5-8).

2- Các mối phúc, cuộc canh tân tận căn

Các mối phúc tạo nên một trang Tin Mừng có tính cách mạng lớn nhất. Bởi lẽ, trong đó Chúa Giêsu thiết lập một cuộc thay đổi toàn diện các tiêu chuẩn nhân loại liên quan đến hạnh phúc. Nó trở thành điều kiện mà mỗi người phải có nếu muốn sống hạnh phúc. Vì thế, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta cách thức để thoát ra khỏi tiêu chuẩn mà mỗi người quan niệm về hạnh phúc khi cho rằng hạnh phúc là giàu có, tiền bạc, thành công, có địa vị xã hội, an toàn và tình yêu, quyền lực và thống trị, tính dục và hưởng lạc v.v… Chúa Giêsu biết rõ trái tim con người luôn khát khao tìm kiếm hạnh phúc. Với các mối phúc này, Người đề nghị với con người một hành trình chắc chắn để tìm kiếm hạnh phúc đích thực. Đây cũng là hành trình mới mẻ và đầy nghịch lý.

Bởi lẽ, tất cả những gì mà thế gian cho là bất hạnh, thì Chúa Giêsu quả quyết chúng là những mối phúc. Tất cả những ai sống nghèo khó, những ai đói khát, khóc lóc, những ai đang chịu đau khổ, những ai biết thương xót người, những ai có tâm hồn trong sạch, những ai xây dựng hòa bình, những ai chịu bách hại vì đạo, họ sẽ được chúc phúc vì Nước Trời là của họ. Và ngược lại, Chúa cũng loan báo những bất hạnh, đáng thương và những hiểm họa cho những ai giàu có, tự mãn, những kẻ vui cười và những ai được người đời ca tụng.

Trước Chúa Kitô, chưa có một ai đã dám khẳng định như thế. Các mối phúc thực sự rất nghịch lý, mà chỉ có thể hiểu được đối với những ai sống, thực hành nó, như chính Chúa Giêsu, như Đức Maria và thánh Phanxicô Assisi. Chính Chúa Giêsu, nơi con người, đời sống và cách hành xử của Người, thiết lập một chìa khóa tốt nhất để giải thích các mối phúc, một chìa khóa có giá trị hoàn vũ cho mọi thời và mọi nơi để đọc các mối phúc. Người là một người nghèo, người đau khổ, người dấn thân cho hòa bình và hòa giải, bị bách hại và hiến mạng vì công bình và thiện ích chung.

3- Các mối phúc, tóm lược Tin Mừng

Các mối phúc là một tóm lược Tin Mừng Chúa Giêsu, là lời loan báo ngôn sứ về Nước Thiên Chúa, hiện diện và khai mở trong con người Chúa Kitô, là sự công bố những thái độ nền tảng để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, là căn cước của những công dân Nước Trời, là chương trình sống và là bản trắc nghiệm mà mỗi người mỗi ngày phải xét mình với tư cách là Kitô hữu.

Bởi vì sự mới mẻ tận căn của các mối phúc, nên có những người cáo buộc rằng chúng là ảo tưởng, là phi logic; một số người khác cho rằng chúng chỉ là một lý tưởng duy tu đức, cao xa không thể vươn tới. Tuy nhiên, khi loan báo các mối phúc, Chúa Giêsu biết rõ ý nghĩa của chúng mà Người giới thiệu và đưa ra cho những ai muốn theo đuổi con đường này. Bởi lẽ, chúng là những thái độ nền tảng để trở thành môn đệ Người, để vào Nước Trời, và đạt tới sự hạnh phúc viên mãn.

Quả thật, các mối phúc không phải là một hình thức duy tu đức, phi nhập thể, một sự thụ động vong ngã hay là một dạng thức ảo tưởng chạy trốn trách nhiệm xây dựng xã hội. Chúa Giêsu cũng không có chủ trương bần cùng hóa con người. Nhưng các mối phúc chứa đựng một nhiệm vụ cá nhân và hiệu lực đối với việc xây dựng đời sống xã hội tốt hơn nhờ sự nghèo khó và hy sinh của con người trong bất kỳ sự diễn tả nào: như sự vô vị lợi và sự cộng tác, chọn lựa sống theo sự tử tế và công bình ngay cả khi có nguy cơ bách hại, dấn thân vì hòa bình và bất bạo động, yêu thương, huynh đệ và đoàn kết giữa loài người.

Tuy nhiên, khi chọn lựa sống theo các mối phúc, có thể chúng ta phải đối diện với những chống đối và thù ghét, bởi vì tinh thần các mối phúc không phù hợp với những tiêu chuẩn của thế gian. Vì thế, chúng tạo nên sự thù ghét. Điều đó thánh Phaolô đã báo trước: “Tất cả những ai muốn sống đạo đức trong Chúa Kitô Giêsu, đều sẽ bị bắt bớ” (2 Tm 3,12). Đó là sự chống đối mà Tin Mừng thánh Gioan đề cập đến, sự chống đối giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Kitô và thế giới thù địch với Thiên Chúa, giữa tin và không tin, giữa tình yêu và ích kỷ, giữa thiện và ác.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta yêu mến các mối phúc của Chúa Giêsu và sống các mối phúc đó trong đời sống hằng ngày, để chúng ta tìm thấy con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực là Nước Trời. Amen

Về mục lục

.

PHÚC VÀ HỌA

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Chẳng ai biết được phúc thật hay hoạ thật, nhưng người ta tin rằng trong phúc có hoạ và trong hoạ có phúc. Chỉ một điều chắc chắn trong Chúa mới có phúc thật. Thánh Luca sở dĩ trình bày bốn mối phúc và bốn mối hoạ, cũng cho thấy điều này, để giới thiệu về phúc thật từ nơi Chúa.

Trong Thánh Lễ đầu năm Chúa phán bảo với Môi sê, truyền cho Aaron khi cầu nguyện cho dân Chúa: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!” (Ds 6, 24).

Những câu truyện về phúc và hoạ nhiều lắm. Đó là một thực tại cho thấy, chẳng biết đâu hay chẳng biết đâu dở. Người ta vẫn bảo: “Phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí”. Cái hoạ thường hay gặp phải nhưng không phải thật sự là bất hạnh, còn tuỳ theo cách mình nhìn nhận.

Nhà văn Ohenry nói; “Nếu con người tha thiết với cuộc sống thì có thể ung dung đối mặt với khó khăn, thử thách.”. Con người biết xoay chuyển tình thế luôn nhìn thấy những khoảng mở hẹp trong cái hoạ xảy đến.

Nguy hiểm nhất vẫn là tưởng cái phúc trong cái hoạ. Đó là cái tưởng do tâm trí mù tối. Trong cái tội lỗi là cái hoạ mà cứ tưởng là cái phúc trời cho để hưởng thụ. Có rất nhiều hoang tưởng ấy, cho nên sau cuộc vui tàn lại phải kiếm cuộc vui khác, cho đến khi chẳng còn gì, mới tỉnh ngộ thì đã muộn.

Thánh Luca nói đến bốn cái hoạ mà tưởng cái phúc đó. Giàu có, no nê, vui cười, được ca tụng. Bốn cái vui này thuộc về thế gian, nó thuộc về ba điều tham, sân, si. Hậu quả luôn theo sau nếu không tỉnh ngộ biết chuyển hoá sớm.

Lão Tử viết đại ý như: “Biết mình dũng mãnh mà lại luôn nhu hòa, khiêm những, nhẫn nhịn. Biết nhưng giả không biết, không áp đặt cái biết lên người khác, học thêm cái biết ở nơi người. Biết mình ở địa vị cao, vinh hoa phú quý nhưng luôn sống giản dị, gần gũi, giúp đỡ mọi người” (Đạo Đức Kinh).

Hành thiện tích đức.

Ngay sau bốn mối phúc và bốn mối hoạ, Chúa Giêsu dạy: “Yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em”  (Lc 6, 27) và hãy có: “lòng nhân từ như Cha là Đấng nhân từ”  (Lc 6, 36). Với những điều dạy đó khi thực hiện trong đời, mối hoạ luôn sẽ được chuyển hoá thành phúc, và mối phúc này được ngay ở đời này và đời sau.

Xin Chúa ban thêm lòng quả cảm để thắng cái ích kỷ của cái tôi, sống hài hoà với anh em, có lòng nhân từ, bác ái, độ lượng. Sống mối phúc thật mỗi ngày nên hoàn hảo hơn, nhờ ơn Chúa ban không trở nên vô ích.

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC THẬT.

Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Nếu chúng ta có chìa khóa của Thánh Phêrô để mở cửa thiên đàng, chúng ta sẽ thấy đầy những người nghèo như “bà góa nghèo đến bỏ tiền vào đền thờ hai đồng kẽm chỉ bằng một phần tư đồng bạc Rôma” (Mc. 12, 42), đầy những kẻ đói khát như anh ăn mày Ladarô mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà giàu (Lc. 16, 20), đầy những người khóc lóc như con thành Giêrusalem đến khóc thương Chúa trên đường vác Thánh giá, đã được Chúa đứng lại yên ủi như Cha yên ủi con trong cơn khóc lóc, hay như Phêrô khóc than vì đã phạm tội chối Thầy ba lần, đầy những người bị oán ghét, khai trừ, nhục mạ và xóa bỏ tên tuổi coi như đồ xấu xa như Đức Giêsu, Gioan tiền hô, các tiên tri và các thánh tử đạo.

Nếu chúng ta có quyền tự lực đập tan cửa hỏa ngục, chúng ta sẽ thấy đầy dẫy những hạng phú hộ ăn chơi, những hạng tham ô, móc ngoặc, những quản lý giết người cướp của, như hạng nhà giàu không thương giúp Ladarô, hạng kinh sư móc hết tài sản các bà góa, hạng tá điền cướp vườn nho (Mc. 12. 1-9, 38-40), đầy những hạng quyền quý sang trọng được tung hô, yến tiệc khao vọng, múa nhẩy, nghiện ngập như Hêrôđê no say còn bày trò chém đầu Gioan tiên hô, đầy hạng vui cười, chế nhạo, oán thù như quân dữ, trưởng tế và luật sĩ nhục mạ Đức Giêsu lúc bị treo trên Thánh giá.

Tại sao những người nghèo khó, đói khát, khóc lóc bị oán ghét lại được Chúa chúc phúc chan chứa vui mừng trong vinh quang nước trời?

Thưa, vì họ bị đàn áp, bóc lột, tước đoạt hết các thứ thuộc về thế gian. Hàng đoàn đám đông dân chúng đó chỉ còn biết trông cậy vào Đức Giêsu. Họ bỏ cả quê hương danh tiếng như Giudêa, Giêrusalem, Tyrô, Siđon để đến theo Chúa. Người đã cứu chữa họ cả xác lẫn hồn. Người vừa chữa cho họ khỏi tật nguyền quỷ ám, vừa giảng cho họ biết đường sống hạnh phúc muôn thuở.

Họ là những người nghèo khó về tiền của như Đức Giêsu không có chỗ tựa đầu, nhưng lại giầu lòng thương người như Đức Giêsu đã cho bao nhiêu người nương tựa. Họ nghèo khó, vì không tham lam, trộm cắp, nhưng lại giầu tinh thần cao quý thanh tao, siêu thoát. Họ nghèo của trần tục, nhưng họ giầu của nước trời. Họ là những người bụng đói của ăn như Ngài, đến nỗi các môn đệ bứt lúa ăn và bị chỉ trích, nhưng họ khao khát công chính và theo Ngài đi rao giảng Tin Mừng nước trời cho muôn dân. Họ đói bánh nuôi cái bụng, nhưng họ thoả dạ an lòng vì siêng năng rước Bánh Hằng sống.

Họ là những người sầu khổ khóc lóc thương xót bao nhiêu cảnh lầm than như Chúa đã khóc thương Ladarô, khóc thương thành Giêrusalem và chịu chết cho con cháu họ. Ít ra, họ là những người như Phêrô biết ăn năn thống hối và trở lại với Thầy để lãnh nhận trách nhiệm cứu giúp muôn dân sa ngã như mình.

Họ là những người hy sinh chịu đau khổ, oan uổng, bất công, biết vác thập giá theo Chúa để cứu nhân độ thế. Họ đã được phần thưởng lớn lao trên nước trời.

Tại sao những kẻ giầu, no nê, vui sướng, vinh quang lại bị chúc dữ?

Thưa, họ là những kẻ ham danh, ham lợi, ham thú vui vật chất phàm tục. Họ cậy vào tiền của vì họ tưởng: “Có tiền mua tiên cũng được”, chẳng cần đến ai. Họ xa lìa Thiên Chúa đi theo các thần tài, thần hoàng, thần nữ, thần thổ địa và các thần tượng. Đó là các tử thần, họ sẽ chết theo chúng.

Lịch sử đã cho thấy, khi con người nghèo đói, túng cực, lam lũ khổ sở, họ sốt sắng chạy đến kêu cầu, trông cậy vào Thiên Chúa. Nhưng khi được ấm no, sung túc thì ăn chơi, lười biếng, cậy mình kiêu ngạo, không cần đến Thiên Chúa nữa. Dân nước Balan trước đây hơn 90% siêng năng đi lễ, cầu nguyện, đoàn kết như một, dưới quyền hướng dẫn của Giáo Hội. Nay được dễ dãi, làm ăn phát đạt, họ lại chia rẽ, khinh thường hàng giáo phẩm và xa lìa Thiên Chúa. Các nước Âu Mỹ cũng thế. Giáo dân Việt Nam cũng không khá gì: trong những năm 1975-1985, đời sống đói khổ, thì ngày thường cũng như Chúa nhật nhà thờ đầy người. Nay, ngày thường chỉ leo teo một số cụ già, con nít, còn thanh niên người lớn có tiền bạc, ăn chơi, rượu chè, hút sách bất tận. Chúa nhật đi lễ hơn một giờ thì thấy lâu, sốt ruột, ngồi ngoài sân, đứng lấp ló xó nọ góc kia, nói chuyện, hút thuốc, mà không biết rằng ai cho cái miệng để ăn nói, ai cho cái mũi để thở, ai cho hơi thở khí mát để sống. Thật vô phúc, vô ơn Thiên Chúa đến chừng nào! Những hạng đó đến bao giờ mới được chúc phúc, Đức Giêsu còn phải chúc dữ đến bao giờ!

Người ta nói: “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Trồng người để có người tốt, có dòng giống con cháu tốt thì mới có việc tốt, nhờ đó xây dựng gia đình, xã hội tốt từ đời này tới đời kia, lâu dài hàng trăm năm. Trồng cây để lấy của hưởng thụ, chỉ được mươi mười năm là hết. Biết rõ như thế, những bậc thánh hiền vĩ nhân luôn luôn quan tâm đặc biệt tới trồng người, dù có phải sống hy sinh kham khổ như Khổng Tử, Đức Phật.

Khổng Tử đã từ chức quan đại thần sống thật thanh bần: “Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay gối đầu, lòng đầy hoan lạc. Bất nghĩa mà giầu sang, ta coi như phù vân … Ta thường trọn ngày quên ăn, trọn đêm quên ngủ vì suy tư … lo đạt đạo” (Ln. 7, 15 và 15, 30-31). Đức Phật không thể chịu nỗi cảnh giầu sang, danh vọng của hoàng cung, đã trốn lên rừng tìm đạo để cứu nhân độ thế, thoát khỏi cảnh khổ của hoàng cung phàm trần này mà nhân loại đang trầm luân trong đó. Các vị đó thật giống với cuộc đời thanh bần trong sáng của Đức Kitô: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc. 9, 58). Vậy hạnh phúc muôn thuở của các ngài, không phải giầu sang, quyền quý, mà là siêu thoát để truyền dậy chân lý không mệt.

Lạy Chúa, xin cho con “đừng tựa vào tường vì tường sẽ đổ, đừng tựa vào cây vì cây sẽ gẫy, đừng tựa vào người vì người sẽ chết” mà chỉ lo sống tựa vào lời chúc phúc của Chúa

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Là con người, ai cũng mong muốn hạnh phúc và nỗ lực đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là khát vọng ngàn đời của mỗi người. Khi con người chiều theo cơn cám dỗ của loài rắn, đó chính là lúc hạt mầm hạnh phúc không còn đủ “thiên thời địa lợi” để đơm hoa kết trái. Bất hạnh và gian dối theo về, ùa vào cuộc đời, chảy xuôi dòng lịch sử. Con người bắt đầu dệt những ước mơ, chắt chiu từng kỷ niệm, hồi tưởng về quá khứ, một quá khứ in đầy dấu chân hạnh phúc. Vậy hạnh phúc là gì giữa đa đoan và trắc trở, giữa bền vững và mong manh, giữa ích kỷ và bao dung?

1. Quan niệm về hạnh phúc.

Có người cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền của, nhiều vàng bạc, lúa thóc đầy kho; hạnh phúc là quyền lực, địa vị danh vọng. Có người nghĩ hạnh phúc là có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con thơ, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Có người lại quan niệm hạnh phúc là sức khoẻ, là sự bình an thư thái của tâm hồn; hạnh phúc là sự hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, giữa cái tôi và vũ trụ bao la.

Theo truyền thống Ấn Độ, hạnh phúc là Sukha, đó là trạng thái giống như một bánh xe mà trong đó mọi sự đều ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là Dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.

Tần Thuỷ Hoàng cho xây vạn lý trường thành, sai người đi tìm thuốc trường sinh bất tử để mong thỏa ước mơ được hạnh phúc, được sống bất tử. Với Nhà văn Philippe Delerm, hạnh phúc là điều thật đơn giản, là tổng cộng các niềm vui nhỏ gộp lại. Năm phút nằm dài trên bãi cỏ xanh nhìn mây trời lãng đãng trôi, hớp ngụm bia ngon, thưởng thức một bản nhạc hay… đều có thể làm hưng phấn, tạo được niềm vui hạnh phúc. Kim Thánh Thán, nhà phê bình Trung Hoa đã từng có 33 phút vui tinh thần mà ông cho đó là phút giây thực sung sướng trong đời. Thú vui đó là thưởng thức thiên nhiên, dưới ánh trăng non, tay bầu rượu túi thơ, cùng bạn hữu trao đổi kinh sử văn thơ, cùng uống trà để quên đi sự huyên náo của phồn hoa, lòng thấy thanh thản (x. quan niệm về hạnh phúc, nội san chia sẻ số 23). Có muôn lối nhìn về hạnh phúc tuỳ theo quan niệm mỗi người.

2. Đi tìm về hạnh phúc.

Hạnh phúc không như bông hoa có thể dễ dàng hái được ở bên đường, không giống như chiếc áo, chiếc xe đạp hay cái nhà có thể vẽ ra thành hình hài màu sắc có thể mua bán. Hạnh phúc là điều cảm thấy được trong tâm hồn, nó thuộc chiều sâu cõi lòng tuỳ thuộc thái độ sống đối với cuộc đời. Con người phải ra công chăm sóc vun trồng thì cây hạnh phúc mới đơm hoa kết trái.

Hạnh phúc chính là khát khao được sống, được hiện diện, được yêu thương. Đi tìm hạnh phúc cũng là đi tìm sự sống. Sống là tồn tại, có tồn tại mới có yêu thương, có tương quan, có sinh trưởng. Đi tìm hạnh phúc cũng như đi tìm tình yêu. Khi người ta yêu nhau, mọi sự đều trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp “yêu nhau yêu cả đường đi; yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng; yêu nhau mấy núi cũng trèo mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”. Hạnh phúc là tình yêu. Tình yêu nối dài những ước mơ, ước mơ thường hướng con người về hạnh phúc.

Hạnh phúc chính là sự sống và là tình yêu. Tình yêu và sự sống như đôi cánh đưa con người bay vào khung trời hạnh phúc.

3. Tám mối phúc thật.

Đức Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarêch bằng câu: Vạn sự vô thường vạn sự thường, nghĩa là mọi sự thay đổi không ngừng nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh lão bệnh tử, con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật và cuối cùng là phải chết. Đời là bể khổ, muốn có hạnh phúc, ra khỏi bể khổ, cần diệt lòng tham sân si. Khổ diệt lòng tham muốn mới thoát khỏi bến mê, khỏi u minh chốn hồng trần.

Đức Kitô trên “Núi Bát Phúc” đã thuyết giảng điệp ca hạnh phúc “Tám mối phúc thật”: Phúc cho ai… (Mt 5, 1-12).

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Đức Phật coi đời là bể khổ. Đức Giêsu nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch của tâm hồn nghèo khó.

LmThiện Cẩm đã nhận định rằng: Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời gian, sức lực để nghiên cứu suy tư bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu. Tuy nhiên, có lẽ chẳng mấy ai hiểu chính xác nội dung ý nghĩa hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra cả Đức Phật và Đức Giêsu đều không chú ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Đức Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được cái tồn tại trong cái mất mát, thấy được sự sống trong cái chết.

Điệp ca trên núi của Đức Giêsu đã trở thành Hiến Chương Nước Trời: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho ai hiền lành. Phúc cho ai… điệp ca vang vọng mãi ở trên núi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho các môn đệ và cho nhân loại qua muôn thế hệ.

Tất cả Tám Mối Phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là quả; vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác, vế thứ hai là người khác vì mình; vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh phúc. Các mệnh đề trong vế một phải hiểu ngầm là vì Chúa, vì tha nhân, nghèo vì tha nhân, hiền lành đau khổ vì tha nhân. Nếu không do tự nguyện vì Chúa, vì tha nhân thì sự nghèo, sự hiền lành, sự đau khổ, bách hại ta phải chịu đều là đau khổ chứ không phải là phúc đức. Chẳng hạn, mối phúc thứ nhất là nghèo vì người khác, sống nghèo cho người khác thì mới là phúc thật, còn sống nghèo để dành dụm tiền của ngày càng nhiều thì đó là trọc phú, là hà tiện chứ không phải là sống nghèo theo Tin mừng. Cái nghèo mà Đức Giêsu nói đến là nghèo vì yêu thương tha nhân. Nghèo vì cho đi vì muốn làm lợi ích cho người khác thì cái nghèo đó mới gọi là Đức Khó Nghèo. Vì thế giữa Đức Khó Nghèo và Đức Bác Ái có tương quan với nhau. Khó nghèo để bác ái, khó nghèo mà không bác ái thì trở thành hà tiện. Hà tiện là một trong bảy mối tội đầu. Vì thế tâm hồn nghèo khó của Tin mừng là tâm hồn sẵn sàng chấp nhận mất mát thời giờ, vật chất, sức lực, của cải, tài năng vì yêu thương tha nhân, vì mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Một người có tinh thần phục vụ cao, dám hy sinh cho người khác, chắc chắn người đó sẽ được mọi người quý trọng, yêu mến, được tín nhiệm, được giao những trọng trách. Một người như vậy thì Nước Trời trong lòng họ, tinh thần họ luôn bình an, hạnh phúc, tràn đầy niềm vui vì sống cho hạnh phúc của người khác.

Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy, những người ích kỷ suốt ngày chỉ nghĩ tới mình, tới hạnh phúc hay nỗi đau của mình đều là những người đau khổ nhất. Còn những người có tâm hồn vị tha, chỉ nghĩ đến người khác, đến hạnh phúc và đau khổ của người khác, không còn thời giờ để nghĩ đến mình thì những người ấy luôn luôn hạnh phúc thoải mái trong tâm hồn và thành công trong cuộc đời.

Người Kitô hữu chúng ta cần tập thói quen sống vì Chúa, vì tha nhân và thường xuyên tìm đủ mọi cách để người xung quanh mình được hạnh phúc. Sống như thế không những được hạnh phúc ở đời này mà còn đời sau nữa. Đường lên thiên đàng thì nhỏ và chật hẹp, vất vả hơn đường xuống hỏa ngục đầy thênh thang bóng mát. Chọn lựa theo Chúa Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.

Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người để giúp con người sống hạnh phúc. Sau khi sống lại, Người mở đường dẫn lối cho chúng ta đi về hạnh phúc viên mãn trong Thiên Chúa Tình Yêu và Sự sống.

Về mục lục

.

PHÚC CHO NHỮNG AI ĐẶT TRỌN NIỀM TIN VÀO CHÚA

Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng

Trong xã hội ngày hôm nay, người ta thường nói: Con cha cháu ông muốn gì được nấy. Hay chúng ta thường nghe ông bà ta nói: “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa.Bao giờ dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa.” Chúng ta thường cậy dựa vào sức lực và ảnh hưởng của người khác, của những ngưới có quyềnthếvàđịa vịtrong xã hội [hoặc Giáo Hội], để tìm chút lợi danhcho mình và cho người thân. Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại những giá trị trong cuộc sống và trong xã hội, vì chúng ta là những môn đệ của Ngài, những người thuộc về Ngài chứ không thuộc về thế gian.

Ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc 1 trình bày sự tương phản vềcuộc sống của những người đặt niềm tin vào con người và những người đặt niềm tin vào Đức Chúa. Thật vậy, Đức Chúa, qua ngôn sứ Giêrêmia, khiển trách những kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làmnơi nương tựa,và lòng dạ xa rời Đức Chúa!” (Gr 17:5). Họ sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ,hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra,nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy,trong vùng đất mặn không một bóng người”(Gr 17:6).Còn những người “đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Đức Chúa làm chỗ nương thân.Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong,mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi,gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại,và không ngừng trổ sinh hoa trái” (Gr 17:7-8). Hai loại người này sẽ được trình bày cách chi tiết và rõ ràng hơn trong bài Tin Mừng.

Còn trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói đến sự phục sinh của Đức Giêsu Kitôlà trung tâm điểm của niềm tin Kitô giáo: “Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì Đức Kitô cũng đã không trỗi dậy.Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cor 15:16-17). Chính niềm tin vào sự phục sinh đã làm cho chúng ta hiểu rằngcuộc sống của chúng ta không kết thúc bởi cái chết, như Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cor 15:20). Sự kiện Đức Kitô trỗi dậygiúp chúng ta nhận ra rằng, những giá trị đích thật trong đời sống của chúng ta không nằm ở cuộc sống chóng qua ở trần thếnày, nhưng nằm ở cuộc sống mai sau, vì khi chết chúng ta không thể mang theo tiền tài danh vọng xuống nấm mồ. Trong bối cảnh của sự phục sinh của Đức Kitô mà Thánh Phaolô trình bày, chúng ta hiểu bài Tin Mừng hôm naycách rõ ràng hơn vì những lời hứa và hình phạt kèm theo nằm ở “thể tương lại,”tức là ởcuộc sống mai sau. Thật vậy, chỉ trong sự sống phục sinh chúng ta mới hiểu điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ về các mối phúc thật.

Bản phúc thật của Thánh Luca trong Tin Mừng hôm naygồm có bốn mối phúc và bốn mối hoạ, thay vì cả tám mối phúc nhưđược tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Mátthêu (x. Mt 5:1-12). Qua các mối phúc và hoạ trong bàiTin Mừng,Chúa Giêsu đảo lộn các giátrị mà người đời xemnhư là tiêu chuẩn của thành công hay thất bại để trở thành những giá trị đích thật của cácmôn đệ của Ngài. Nói cách khác, những môn đệ mà Chúa Giêsu gọi là có phúc thì thế gian cho là bất hạnh; còn những môn đệmà Chúa Giêsu gọi là bất hạnh thì thế gian cho là hạnh phúc. Đề tài này tiếp nối đề tài “đáp lại tiếng Chúa Giêsu mời gọi” để trở nên môn đệ của Ngài trong Chúa Nhật tuần trước: Khi đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, những giá trị trong cuộc đời của chúng ta cũng bị thay đổi. Và Chúa Giêsu đã đưa ra bản giá trị mới này cho chúng ta trong các mối phúc và hoạ. Theo Deissmann, “Những mối phúc [và hoạ] được công bố trong môi trường đầy điện [và có thể tạo nên những cú điện giật chết người]. Chúng không phải là những vì sao thinh lặng, nhưng là những tia chớp của sét kèm theo tiếng sấm đầy kinh ngạc và sửng sốt.”

Trước khi phân tích chi tiết các mối phúc và hoạ, chúng ta cần lưu ý điều này: Như chúng ta đã trình bày ở trên, Chúa Giêsu muốn nói các mối phúc và họa này cho chính các môn đệ [nhóm 12] của Ngài, cho chính mỗi người chúng ta: “Khi ấy, Đức Giêsu ở trên núi xuống cùng với Nhóm Mười Hai, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, có nhiều môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng đến từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđôn…. Thấy vậy, Đức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói” (Lc 6:17-20). Vì vậy, để lời Chúa hôm nay trở nên “máu thịt” của mình, chúng ta hãy mở rộng con tim và đặt mình trước mặt Chúa Giêsu để nghe Ngài nói những lời đầy thách đố, nhưng cũng đầy an ủi này cho mỗi người chúng ta.

Mối phúc thứ nhất: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6:20). Khi thế gian xem những người giàu có về của cải vật chất là có phúc thì Chúa Giêsu lại nói chỉ những người nghèo mới có phúc.Cái nghèo mà Chúa Giêsu nói đến ở đây không nhất thiết là cái nghèo về vật chất, nhưng là “thái độ tự do, không làm nô lệ cho vật chất” để chỉ sở hữu mình Thiên Chúa làmgia nghiệp.Chúng ta đã từng chứng kiến việc có những người giàu có về của cải vật chất, nhưng họ sống nghèo vì họ sử dụng của cải của mình để chia sẻ và chuẩn bị cho mình một kho tàng ở trên trời. Ngược lại, có những người nghèo về của cải vật chất, nhưng “giàu có” trước mặt Chúa vì họ chỉ lo đi tìm của cải vật chất để thoả mãn ước mơ có được đời sống tiện nghi để rồiquên mất Chúa.

Mối hoạ thứ nhất: “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” (Lc 6:24). Như chúng ta đã trình bày, khi thế gian xem giàu có là một ơn phúc, thì Chúa Giêsu lại xem giàu có là một mối hoạ.Tại sao giàu có là mối hoạ? Vì nó dễ dàng làm cho con người ngủyên trong phần an ủi chóng qua của mìnhở đời này mà quên đi hoặc dửng dưng trước những nhu cầu của anh chị em xung quanh. Có câu nói trong đời rằng: Giàu có dễ dàng làm cho chúng ta ngăn cách với người nghèo bằng những bức tường thật cao, những cánh cổng khoá thật chặt. Hơn nữa, giàu có dễ dàng làm cho con người sử dụng tất cả năng lực mình có để càng trở nên giàu có hơn trước mặt người đời mà không lo đến việc chuẩn bị cho mình một khotàng ở trên trời. Chúng ta hãy nhớ rằng: Những gì chúng ta có được về của cải vật chất chỉ là những giá trị của thế gian. Khi sự chết ập đến, khotàng trần thế sẽ để lại cho người khác. Những giá trị của người môn đệ của Chúa Giêsu là: “Hãy đi, bán hết của cải anh [chị] có, cho người nghèo, tích luỹ cho mình một kho tàng ở trên trời, rồi đến và theo Thầy” (x. Mt 19:21).Một lối sống thật thanh thoát với của cải vật chất!

Mối phúc thứ hai: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói,vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” (Lc 6:21). Mối phúc này đi theo mối phúc về  nghèo  khó.  Thường những người nghèo khó thì thiếu thốn cái ăn cái mặc nên dễ dàng phải chịu đói chịu khát. Khi thế gian xem những người luôn no đầy là có phúc thì Chúa Giêsu nói phúc cho các môn đệ khi họ phải chịu đói khổ. Tuy nhiên, cái đói mà Chúa Giêsu nói đến ở đây không phải là cái đói đơn giản mang tính vật chất, mà là cái đói và cái khátlời Chúa và sự công chính của Ngài. Chỉ những người đói khát lời Chúa và sự công chính của Ngài mới luôn hướng lòng về Ngài và xem Ngài là tất cả của cuộc đời mình. Khi làm như thế, họ sẽ được Thiên Chúa cho no lòng với tình yêu, sự tha thứ, ủi an và chăm sóc của Ngài.

Mối hoạ thứ hai: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói” (Lc 6:25).Những người đang no nê ở đây là những người đang tận hưởng những của cải vật chất như mối hoạ thứ nhất nói đến. Họ được no nê về của cải vật chất, nhưng đói khát những giá trị thiêng liêng.Chúng ta chứng kiến trong cuộc sống thường ngày của chúng ta thực tại này là có nhiều người và nhiều gia đình rất no đủ về vật chất, nhưng họ lại rất đói về tình thương, về cảm thông và tha thứ.

Mối phúc thứ ba: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười” (Lc 6:21). Khi thế gian gọi những người luôn vui cười là hạnh phúc thì Chúa Giêsu lại nói nhưng ai đang phải khóc là được phúc. Tại sao Chúa Giêsu lại nói những người than khóc là có phúc? Theo nghĩa Kinh Thánh, dân Chúa than khóc khi họ phạm tội và cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa. Như vậy, những người than khóc là có phúc vì họ than khóc cho tội của mình và của người khác. Đây là sự than khóc của những tâm hồn thống hối ăn năn, của những người khóc cho sự bất công trong xã hội. Nhưng than khóc đó sẽ được Chúa làm cho trở nên vui cười, niềm vui vì được tha thứ và yêu thương.

Mối hoạ thứ ba: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bâygiờ đang được vui cười vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than” (Lc 6:25).Những người sẽ gặp khốn cùng trong ngày sau hết là những người không bao giờ biết than khóc cho tội của mình và tội của người khác. Những người “cười” trên nỗi đau của đồng loại; những người hưởng lộc, ăn no mặc ấm trong khi anh chị em của mình đói khát và lạnh lẽo.

Mối phúc thứ tư: “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6:22-23). Khi thế gian cho rằng những người không bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả là hạnh phúc, thì Chúa Giêsu lại nói ngược lại. Ai trong chúng ta cũng đã từng bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xem như là tên xấu xa. Nhưng thường chúng ta bị đối xử như vậy là vì những việc làm vì mình. Điều đó không làm cho chúng ta được chúc phúc. Chúng ta được phúc chỉ khi chúng ta chịu những điều đó vì danh Chúa Giêsu. Nói cách cụ thể, chúng ta bị loại trừ, oán ghét, sỉ vả, và xem là tên xấu xa khi sống đời sống thật yêu thương, thật tha thứ, thật cảm thông, thật tốt. Tóm lại, là chúng ta sống một lối sống như Chúa Giêsu vậy. Chúng ta trở nên quá khác với những người thời đại là những người cảm thấy khó để yêu thương, để tha thứ, để cảm thông và sống thành thật.

Mối hoạ thứ tư: “Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6:26). Lối sống giả tạo và chạy theo vẻhào nhoáng bên ngoài luôn là một hấp dẫn và cám dỗ của chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta thường làm việc với động lực để được người khác biết đến và khen ngợi, ngay cả những việc “bác ái” đúng ra ngay cả tay phải cũng không biết việc tay trái làm, thì chúng ta lại dùng chúng để tìm vinh danh cho mình thay vì vinh danh cho Thiên Chúa.

Tóm lại, chủ đề chính của lời Chúa trong Chúa Nhật VI Thường Niên hôm nay được trình bày cách tuyệt diệutrong câu Thánh Vịnh Đáp ca: “Phúc thay người đặt tin tưởng nơi Chúa.”Những người đặt niềm tin vào Chúa là những người để cho Chúa hướng dẫn cuộc đời của mìnhtheo cách Ngài muốn chứ không theo cách họ muốn; họlà những người trao cho Chúa trọn con tim của họđể Chúa đổ vào trong đó tình yêu vô điều kiện của Ngài; và cuối cùng, họlà những người luôn sẵn sàng tha thứ và cảm thông cho người phạm đến mình bảy mươi lần bảy trong một ngày.

Về mục lục

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây