CHÚA NHẬT 4 A PHỤC SINH
Lời Chúa: Cv 2:14a, 36-41; 1Pr 2:20b-25; Ga 10:1-10
——
1. Khi con đau khổ Chúa ẵm con lên (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
2. Quản lý kiên trung (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Đấng giải thoát tôi (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Trong Chúa, con luôn được sống (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
5. Sống và sống dồi dào (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
7. Cảnh cổng (Lm. Vũ Đình Tường)
8. Chân dung mục tử nhân lành (Jorathe Nắng Tím)
9. Tin tưởng và can đảm đáp lại tiếng Chúa gọi mời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
10. Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên (Lm. Jos Đỗ Đức Trí)
11. Sức sống (Trầm Thiên Thu)
12. Có một tương quan thật lạ lùng (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
13. Suy niệm chú giải Lời Chúa-CN Chúa Chiên Lành_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
1. Chúa dẫn đưa con (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Cửa chuồng chiên (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Xin Chúa ban nhiều tông đồ mở Nước Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
4. Mục tử và đoàn chiên (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)
5. Giêsu – Mục Tử Nhân Lành (Bông Hồng Nhỏ, Thanh Tuyển sinh MTG. Thủ Đức)
6. Vị mục tử ẩn mình (Anna Cỏ may, Thanh Tuyển sinh MTG. Thủ Đức)
7. Chân dung vị mục tử nhân lành (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
8. Suy niệm Chúa Nhật 4 Phục sinh_A (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
9. Đức Giêsu là cửa chuồng chiên (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
10. Mục tử nhân lành (JM. Lam Thy, ĐVD)
11. Mục tử nhân lành- (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh)
12. Sự sống dồi dào (Trầm Thiên Thu)
13. Chiên tôi thì nghe tiếng tôi (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
14. Cầu nguyện nhiều cho dân chúng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
15. Đấng chăn chiên (AM. Trần Bình An)
16. Người mục tử (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
17. Chúa là mục tử chăn dắt tôi (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
18. Cửa chuồng chiên- (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
19. Mục tử Giêsu (P.Trần Đình Phan Tiến)
20. Chung một gia đình (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
21. Suy niệm Chúa Nhật 4 Phục sinh. Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)
22. Chiên Thiên Chúa (Lm. Trần Việt Hùng)
23. Mục tử: Thiên Chúa và con người (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
24. Đức Giêsu mục tử và cửa chuồng chiên (Lm. Đan Vinh)
25. Chúa Nhật 4 Phục sinh_A (Lm. Antôn)
.
KHI CON ĐAU KHỔ CHÚA ẴM CON LÊN
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Mỗi khi nhìn thấy những đau khổ của tha nhân hay những bất hạnh xảy ra chung quanh, trong tâm hồn tôi lại phảng phất lời bài hát Dấu chân của Đức Cố Giám mục Giuse Vũ Duy Thống với giai điệu mượt mà:
“Bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ.
Đôi khi có những bước phôi pha, mà hình bên bóng chẳng rời xa.
Hôm nao thấy dấu chân đôi: Đó là Chúa đi bên tôi.
Hôm nào còn một dấu chân thôi: Là bởi vì Chúa ẵm tôi lên rồi”.
Lời bài hát dựa trên một giấc mơ kể rằng: Có một chàng trai ngày nào cũng đi dạo bộ với Chúa Giêsu trên bãi biển rất êm ả và bình yên. Chàng thích thú vì những dấu chân song hành như hai người bạn. Đến một ngày sóng to gió lớn, chàng lại chỉ thấy có một dấu chân. Trong hoảng hốt và sợ hãi, chàng hỏi Chúa đi đâu lúc cuộc đời đầy biến động. Chúa trả lời: “Chính những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay”.
Suy nghĩ của chàng thanh niên cũng là suy nghĩ của nhiều người chúng ta. Khi đau khổ dường như chỉ thấy dấu chân của mình lê thê bước, nhưng đâu hiểu rằng dấu chân ấy là chính Chúa đang nỗ lực dìu chúng ta qua khổ nạn.
Nhìn vào lịch sử cứu độ chúng ta thấy có rất nhiều vị thánh đã được Thầy Giê-su dìu qua khó khăn những đoạn đường đắng cay của cuộc đời. Chúng ta thử đồng hoá mình với những nhân vật trong Tin mừng để thấy Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta bao giờ. Nhất là trong những lúc bị hiểu lầm, bị kết án, bị khổ đau bởi nghèo đói và bệnh tật
Hãy nhìn xem một Madalena bị xã hội lên án, ruồng bỏ…lại được ngồi dưới chân Chúa. Một Giakêu bị xếp vào hạng người bất chính, lại được Chúa đồng bàn ăn uống…
Hãy nhìn xem người bất toại đã quá nửa đời người nằm ăn xin ở Betsaida hay người phụ nữ bị băng huyết đã quá khổ bởi bệnh tật, và biết bao người phong hủi sống lấy lất bên ngoài xã hội, thế mà Chúa đã đến và giải cứu họ.
Hãy nhìn xem những người bị ma quỷ khống chế đến nỗi chẳng còn là người, sống lây lất, điên rồ thế mà Chúa đã cho họ trở về trong tự do của con người.
Dường như Chúa không bỏ rơi một ai đang đau khổ, điều cần là sự kiên nhẫn trong lời cầu nguyện và luôn xác tín sự hiện diện của Chúa trong đời sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống đầy gian truân.
Lời Chúa hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví tình thương của mình như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên. Người mục tử tốt lành đầy yêu thương luôn gắn bó với đàn chiên, luôn sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình vì lợi ích đàn chiên. Ngài chính là vị mục tử mà bài đáp ca đã ca ngợi rằng: Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏxanh tuơi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính. Lạy Chúa, dầu qua thung lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có chúa ở cùng con”.
Người mục tử không bỏ đàn chiên mà hết lòng ra tay cứu giúp. Ngài vẫn tiếp tục cúi xuống băng bó từng vết thương và cõng trên vai và đưa về ràn trong tình yêu bao bọc của Ngài.
Giữa khủng hoảnh Covid 19 nhân loại cảm tưởng như đang đơn độc đối phó với sự dữ, khiến chúng ta cảm thấy mệt mỏi và sợ hãi. Nhưng hãy tin vào Thiên Chúa. Ngài im lặng cũng có lý do. Giống như cha mẹ khi thấy con cái khổ đau, tuy không nói ra nhưng vẫn tìm cách để cho con cái bớt khổ đau. Thiên Chúa chúng ta tốt lành, chắc Ngài cũng khổ nhiều khi nhân loại chìm trong khổ sầu. Ngài cũng đang nói với chúng ta giữa cơn gian nguy này, hãy để lòng mình trong thinh lặng sẽ nghe được tiếng sáo của người mục tử đang gọi đàn. Hãy về hợp đoàn. Hãy đến với lòng thương xót của Chúa để tìm sự bình an giữa trăm bề sự dữ. Hãy để Thiên Chúa lo liệu mọi sự cho chúng ta và hãy an tâm phó thác nơi Ngài. Amen
Lm. Jos. DĐH.
Sinh ra làm người, bất cứ ở thời đại nào, giai cấp, mầu da, ốm yếu, hay mạnh khoẻ, tất cả đều là kết quả của yêu thương, dù ta có đón nhận sự thật đó không, thì tâm tư sâu thẳm vẫn tra hỏi ta. Đấng bậc sinh thành có phải là người quản lý không, khi các ngài vừa uốn nắn rèn luyện dạy dỗ con cháu như vị thầy, vừa hầu hạ chăm sóc chúng như một tôi tớ trung thành ? Là con là cháu, hẳn không ai lại hỏi: có thật ông bà là bố là mẹ tôi không ? Là con chiên ngoan hiền, sẽ không có tình trạng tách đoàn đi hoang, nghi ngờ hoặc bất phục tùng chủ chiên. Là người tín hữu, không ai lại lăn tăn về cội nguồn của mình, nhưng mỗi người đều phải trả lời: tôi đang sống tình hiệp thông với Vị Mục tử Giêsu như thế nào trong hoàn cảnh hôm nay ?
Trong bóng tối, ta không thể phân biệt được kẻ xấu người tốt, nhưng ngay cả giây phút nguy hiểm đến tính mạng, ta vẫn có tự do để làm việc tốt, trở thành người hữu ích. Ý thức sứ mạng người mục tử chăn dắt đoàn chiên Chúa Cha giao phó, Đức Giêsu mời gọi mỗi người hãy cùng Ngài lưu tâm đến vị trí của mình đối với cộng đồng xã hội, vì Thiên Chúa sẽ hỏi: bạn đang sống vô tư, vô lo, hay vô tâm trước gia đình nhân loại. Để mở rộng tầm nhìn, đi sát gần hơn về trách nhiệm và bổn phận của mỗi người, Đức Giêsu đã thật rõ ràng khi cho biết: “Tôi là cửa cho chiên ra vào ; ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu”. Thực tế thì rất nhiều điều ta không thể hình dung, tưởng nghĩ ra được, cần phải người có chuyên môn, có kinh nghiệm, họ nói và không sợ sai lạc: bí quyết lớn nhất của thành công là thành thật.
Để nói lên tầm quan trọng của người đứng đầu, cha ông chúng ta đã kết nối tinh thần với trách nhiệm hết sức tế nhị: con dại cái mang, tội quy về trưởng. Người trẻ lại có những mơ ước đầy ẩn ý: hy sinh đời bố, củng cố đời con. Đúng, ở đời người ta chú trọng nhiều đến số lượng hơn là chất lượng, quan tâm đến quyền lợi hơn là nghĩa vụ, nghĩ đến thụ hưởng hơn là đầu tư. Dù truyền thống là dân du mục, người Do-thái vẫn thích có một Đức Giêsu chỉ mãi là cửa chuồng chiên, là người bảo vệ họ, hơn là ngôn sứ. Dù là người kitô hữu, nhưng ai cũng mơ ước được vinh quang, được hồng phúc của Đấng Phục sinh, mấy ai muốn theo Đức Giêsu chịu đau khổ, chịu chết treo thập giá vì đường tình yêu.
Hôm nay đây, Vị Mục tử Giêsu nói đến vị trí “cửa chuồng chiên”, xem ra có vẻ khó hiểu hoặc không mấy áp đặt, nếu như Chúa nói đến cửa quyền lực, cửa hạnh phúc ở trần thế này, hẳn người Do-thái và chúng ta nữa, sẽ dễ dàng và thích thú hơn khi tin theo Ông Giêsu. Rất nhiều người đổ lỗi vì bản chất yếu đuối, nên tôi thích cánh cửa thông thoáng, thích cánh cửa mang vác được nhiều của cải vật chất, do đó tôi sợ cánh cửa chật hẹp, quy củ, sợ cánh cửa có mùi đau khổ thập giá Đức Kitô ! Cũng trong ý tưởng đó, người ta muốn được quản lý tài sản, được quyền chi tiêu tự do, được thống trị đoàn chiên, mấy ai muốn theo Đức Giêsu, để được gọi là người quản lý trung kiên trong đoàn chiên gò bó kỷ luật ! Người quản lý theo tinh thần Mục tử Giêsu, sẽ mãi mãi là người phục vụ, là người vệ sĩ trong tình hiệp thông nên một với Giêsu.
Quy luật ở đời: tất cả những ai muốn vào nhà, đều phải qua cửa, vì họ không thể chui, hoặc không thể bay. Tất cả những ai muốn gia nhập đoàn chiên của Đức Kitô tiến đến đồng cỏ hạnh phúc, đều phải có khởi đầu qua cánh cửa Giêsu. Ngày hôm nay, khái niệm về làm con quan chức, làm con sếp, làm con đại gia, nhiều người thích, và nhiều người vẫn thắc mắc, tại sao Đức Giêsu không nói tôi là vị tướng tài giỏi, tôi là người giầu tiền lắm của ? Chắc chắn phải khôn ngoan và dồi dào kinh nghiệm, các đấng bậc mới có những lời tâm huyết với thế hệ con cháu: mỹ phẩm tốt nhất là nụ cười, nữ trang quý nhất là sự khiêm tốn, và trang phục đẹp nhất là sự tư tin. Theo Mục tử Giêsu, sẽ không phải là để tận hưởng vinh hoa phú quý ở đời này, nhưng sự hiệp nhất nên một trong đoàn chiên Giêsu, người ta sẽ thấy bình an, tự tin, khi mỗi người đang xây dựng và thể hiện sự trung thành với sứ mạng riêng của mình.
Chúa nhật 4 phục sinh hôm nay, Giáo hội dành đặc biệt cho việc cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ, còn Vị mục tử Giêsu vẫn đang giải thích cho nhân loại về ý nghĩa của cánh cửa hạnh phúc. Và Đấng phục sinh sẽ còn tiếp tục minh chứng về tình yêu trong tư cách là “cửa chuồng chiên”. Tìm kiếm hạnh phúc thật, thao thức được ở trong đoàn chiên mà Chủ Chiên Giêsu hướng dẫn, chỉ đạo, đó là mơ ước đúng, đẹp. Người ta chỉ có thể đến với “cánh cửa Giêsu”. Khi dám buông bỏ những ham muốn tiền tài địa vị thế trần, người ta chỉ có thể gặp được sự sống thật, hạnh phúc thật, khi có ước muốn làm chiên ngoan, từng bước, từng bước, sống tốt, sống đúng, sống đẹp, trọng trách người quản lý của mình. Amen.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Ưu tư trong cuộc đời người tín hữu sống trong ràng buộc giữa trần thế, làm sao để sống tự do trong ân sủng?. “Sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian” như lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha trong lời nguyện hiến tế chương 17 phúc âm Thánh Gioan. Xin chia sẻ nhân đọc sách của linh mục Anselm Grun, tu sỹ dòng Biển Đức, trong cuốn “Chinh phục sự tự do nội tâm” với bức thư gửi tín hữu Titô của Thánh Phaolô mô tả sự tự do trong ba chiều kích: chừng mực, công chính, và lòng đạo là ba khái niệm trong triết học Hy lạp.
Chừng mực.
Sống chừng mực giống như nước, mềm mại, khoan dung và cũng cần có lúc như thác lũ… Như thế, đôi khi cũng sai lầm nếu mềm mỏng quá, nếu nghiêm khắc quá, người xưa thường nói: “biết đâu là vừa!”.
Chừng mực có nhiều khía cạnh trong cuộc sống, trong nhân cách, trong giao tiếp, trong hành sự. Chừng mực theo từ ngữ triết học Hy Lạp là thông minh, hiểu biết, liêm chính, đạo hạnh, hiểu biết đúng về thực tại.
Bugental là nhà tâm lý trị liệu cho rằng: “nhiều người cố gắng vô ích để trở thành điều họ tưởng phải là”. Cố gắng để trở nên như ai đó hoặc như con người như mình mong muốn điều ấy được ví như người mộng du, thiếu thực tại. Thánh Phaolô nói về sống chừng mực cơ bản trong thư gửi cho Titô : tiết độ, đàng hoàng, điềm đạm, lành mạnh về đức tin, đức mến, sự kiên nhẫn…lời nói lành mạnh, đoan trang trong cách ăn mặc (Xem Titô 2). Sống chừng mực là trở về với cách sống đơn giản, chân thành, yêu thương, nhận biết Chúa đang sống cùng. Nghĩa là nhờ Chúa dạy bảo đường lành, biết sống như Chúa mong muốn, với Chúa như người bạn, vừa ở trong vừa là người đồng hành.
Công chính.
Theo người Do Thái, người công chính là người sống chu toàn lề luật của Chúa được chỉ bảo trong sách thánh và biết tôn trọng chính mình. Thánh Phaolô chỉ dẫn trong thư gửi Titô: “Nhưng khi lòng từ hậu ái nhân của Thiên Chúa, Ðấng cứu thoát ta đã hiển linh, thì Người đã cứu ta, không phải do tự các việc ta làm trong đàng công chính, nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người, nhờ phép rửa tái sinh và sự canh tân đổi mới của Thánh Thần, Người đã đổ xuống trên ta một cách dồi dào phong phú nhờ Ðức Yêsu Kitô, Cứu Chúa của ta, ngõ hầu khi đã được giải án tuyên công nhờ ơn Ngài, chiếu theo hi vọng, ta được thừa hưởng cơ nghiệp sự sống đời đời.” (Titô 3, 4 – 7).
Không do chúng ta làm các việc trong đàng công chính, nghĩa là không được ngộ nhận nhờ những việc làm đó mà mình được cứu rỗi. Đó cũng là cách sống đúng với mình, không phải ảo tưởng, cố gắng là trước mặt người khác. Đời tu theo cha Alselm Grun một số tu sỹ đã làm mọi việc thiêng liêng, đạo đức, như là lấy sự kiêng nể và sự tôn trọng của bề trên, anh chị em và cả Thiên Chúa nữa, đáp lại sự chờ mong của mình. Điều đánh mất của đời sống như thế là mất chính mình, mất đi niềm vui đích thực nơi Chúa.
Lòng đạo
Lòng đạo theo từ ngữ Hy lạp là: “cúi mình trước nhan Chúa”. Vâng phục thánh ý Người.
Theo Bugental có một từ làm thao thức không nguôi trong lòng mỗi người là ”Thiên Chúa”. Gặp gỡ Thiên Chúa mỗi ngày là một gặp gỡ sâu thẳm trong tâm hồn. Thánh vịnh 138 Đavit đã thưa lên “Chúa biết tất cả về con”. Cái biết làm đảo lộn cuộc đời như Tin mừng Thánh Gioan gợi lên là sự sống sung mãn, dồi dào nơi Chúa: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).
Tất cả mọi việc làm của con người tùy thuộc vào Thiên Chúa, Thánh phaolô nói việc lành phúc đức là bản chất của người Kitô hữu “Hiển linh vinh quang của Thiên Chúa lớn lao và là Cứu Chúa của ta, Ðức Yêsu Kitô, Ðấng đã thí mình vì ta để chuộc ta khỏi mọi tội ác và tẩy rửa lấy cho mình một dân làm sở hữu nhiệt thành với việc lành phúc đức.” (Tito 2, 13 – 14).
Thật sự sống ơn giải thoát là nơi Chúa, Thánh Phaolô đã reo lên: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Ðức Kitô? Phải chăng là gian truân, bĩ cực, bắt bớ, đói khát, trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo ư”? Như đã viết: Vì Người chúng tôi bị sát phạt suốt ngày, chúng tôi bị kể như chiên lò sát. Nhưng trên các điều ấy hết thảy, chúng ta toàn thắng, nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta. (Rm 8, 35 – 37)
TRONG CHÚA, CON LUÔN ĐƯỢC SỐNG
Bông hồng nhỏ
Đã là người, ai cũng có tai để nghe. Nhưng nghe và lắng nghe thì khác nhau. Để lắng nghe thật sự, chúng ta không chỉ cần có một đôi tai có thính lực, nhưng hơn hết chúng ta phải có một con tim tràn đầy tình yêu và có cái nhìn của Chúa.
Chúa Giêsu đã nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27). Chúa Giêsu đã tự ví mình như một người mục tử, người mục tử nhân lành đã hy sinh tính mạng vì đoàn chiên. Là người mục tử, Chúa Giêsu luôn đi bước trước để diễn tả tình yêu dịu hiền dành cho đoàn chiên. Chúng ta là những con chiên thuộc đoàn chiên của Chúa. Mỗi ngày, chúng ta được Người dưỡng nuôi bằng chính Mình và Máu thánh của Người. Người vẫn lên tiếng nơi cõi sâu thẳm của tâm hồn chúng ta. Lời Người vẫn làm rung động trái tim chúng ta, chất vấn lương tâm chúng ta cả trước và sau những chọn lựa. Chúng ta có nghe được lời của Người không? Có những lúc, chúng ta mải mê đi tìm một đồng cỏ khác mà kẻ thù đã khéo bày vẽ cho chúng ta. Chúng ta tự tách mình ra khỏi đoàn chiên và chúng ta đã bị lạc. Chúa Giêsu đang tìm kiếm chúng ta. Người đã thấy chúng ta đang bị mắc kẹt trong bụi rậm của những đam mê xấu, bị trói buộc bằng những ham muốn trần tục. Người lên tiếng gọi chúng ta. Hãy lắng nghe lời Người đang thổn thức, hãy để Người chạm vào những vết thương đang rỉ máu của chúng ta, và can đảm để Người cởi trói cho chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi những cạm bẫy của tội lỗi. Người sẽ chữa lành cho chúng ta.
Chúa Giêsu biết rõ từng người trong chúng ta. Người biết chúng ta đang ở trong tình trạng nào và đang đói khát điều gì. Cái biết của Người làm cho chúng ta được lớn lên, đó là một sự hiểu biết phát sinh sự sống. Chúng ta đã biết Người như thế nào? Chúng ta có ngày càng thêm hiểu biết và yêu mến Người không? Chúng ta nhận biết tiếng nói của Người ra sao? Chúa Giêsu không đến với chúng ta bằng xương bằng thịt như cách Người đã ở giữa các môn đệ ngày xưa. Ngày hôm nay, Người vẫn đến với chúng ta ngang qua người anh chị em. Đức Cha Pierre Lambert de la Motte- Đấng sáng lập dòng nữ Mến Thánh Giá, trong bức tâm thư gửi các nữ tu của Ngài, đã nhắn nhủ: “Nhưng điều hết sức quan trọng là phải thực hành mọi việc thay cho Chúa Giêsu Kitô, Người muốn đích thân làm những việc đó mà không thể được, nên dùng một số người do Người tuyển chọn và ban đầy tinh thần của Người là tinh thần trung gian, để tiếp nối cuộc đời lữ thứ và hy sinh của Người cho đến tận thế”. Ai trong chúng ta cũng có thể trở thành trung gian Chúa Giêsu dùng để đến với người khác và yêu thương họ như chính Người đã yêu thương. Người đã chẳng dạy chúng ta rằng: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15, 12.17). Đó là giới răn mới của Chúa Giêsu đã truyền dạy cho người môn đệ. Là chiên thuộc một đoàn chiên duy nhất được quy tụ bằng chính giá máu của Con Thiên Chúa, chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe lời yêu thương của Chúa mỗi ngày và cùng giúp nhau nhận ra tiếng nói của Người nơi nội tâm mình và ngang qua những vị trung gian Chúa dùng.
Lạy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành! Cảm tạ Chúa đã luôn yêu thuơng con và cho con được ở trong đoàn chiên của Chúa. Mỗi ngày, xin Chúa hãy mở tai con cho con nghe lời của Chúa. Xin hãy mở đôi mắt con để con nhận ra Chúa nơi người anh chị em. Xin hãy biến đổi tâm hồn con, cho con được Chúa chạm vào và để con được sống bằng chính sự sống của Chúa. Amen.
Anna Cỏ may
“Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Mỗi người chúng ta có nhiều khát vọng cho chính mình. Nhưng khát vọng sâu xa nhất mà dường như ai cũng đi tìm cho mình là được sống và sống hạnh phúc. Trước khát vọng ấy, không ít người lên đường đi tìm lối đường để sống hay những phương thức để sống. Có người tìm cuộc sống hạnh phúc dựa trên danh vọng tiền tài, cũng có người tìm cuộc sống bằng cách trộm cướp, bạo lực. Cứ như thế, chúng ta cứ mãi đi tìm mà không tìm thấy hạnh phúc đích thật. Bởi vì, những gì ta kiếm tìm chỉ ở bên ngoài cuộc sống, mà những cái bên ngoài không bao giờ đem lại cho ta cảm giác no thỏa và bền vững bên trong tâm hồn. Chỉ khi chúng ta có bình an trong lòng, lúc đó chúng ta mới cảm nhận được mình được sống và đang sống hạnh phúc. Khi chúng ta cứ mãi đi tìm, thì đã có một Đấng đang đứng ngay bên, hay đang đi cùng chúng ta, Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta tất cả những điều chúng ta khát. Ngài đã nói: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha bằng việc tự hạ mình làm thân phận con người. Ngài không đến trong địa vị giàu sang nhưng đến trong một gia đình nghèo. Ngài đón nhận những con người mà Chúa Cha trao ban trở thành chính mình. Ngài ôm ấp họ vào lòng và bao bọc họ. Ngài thánh hiến chính mình để cứu họ khỏi tội lỗi (x.Ga 17,1-19). Ngài dùng nhiều cách để cho họ nhận ra và cảm nếm tình yêu của Chúa Cha và của Ngài dành cho họ thế nào. Khi đứng trước nhóm người Pharisêu, Chúa Giêsu đã lấy những hình ảnh thực đang diễn ra trong cuộc sống thường ngày để nói với họ Ngài là ai. Ngài ví mình là ông chủ và con người là đoàn chiên. Là ông chủ, Ngài xây cho đoàn chiên ngôi nhà có người giữ cửa là các thiên thần và chỉ có một lối ra vào đó là Ngài. Ai trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai qua cửa ấy mà vào là người tốt lành. Ngài tiếp tục ví mình là người chăn chiên. Người chăn chiên biết rõ từng con và rất quan tâm, nhạy bén với tiếng kêu cứu của chúng; là người luôn đi đằng trước quan sát mọi sự xung quanh và dẫn đoàn chiên đến đồng cỏ xanh có suối mát trong lành. Ngài không những là Đấng đem lại sự sống cho thân xác đoàn chiên mà còn đem lại cuộc sống thần linh cho đoàn chiên. Ngài nói: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10, 9). Ngài là cửa cho đoàn chiên bước đến với Chúa Cha. Vì không ai đến với Chúa Cha mà không qua Ngài (x.Ga 14, 6). Ngài là Đấng Bảo Trợ cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x.1Ga 2,1). Nhưng có mấy ai nhận ra Ngài!
Ngày hôm nay, chúng ta càng không thể nhận ra Ngài vì chúng ta không thấy việc Ngài xuống thế và phục sinh. Chúng ta lại là con người đầy yếu đuối dễ bị cuốn hút vào những gì là trước mắt hơn. Điều đó càng cho chúng ta thấy lời Chúa nói rất đúng: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,19). Lòng tin vào Chúa không phải là hão huyền nhưng có căn cứ là dựa trên các tông đồ là những người đã làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng cuộc sống và cái chết của mình sau khi Chúa Giêsu về trời. Theo dòng lịch sử, lòng tin được tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các vị mục tử là những người tiếp nối Thầy mình để chăm sóc linh hồn chúng ta. Các ngài là những con người đã được Chúa chọn và cắt đặt để bảo vệ và coi sóc đoàn chiên. Là con chiên thuộc về đoàn chiên của Chúa, chúng ta hãy lắng nghe và mau mắn đi theo chủ chăn của mình, dầu rằng vị chủ chăn hiện tại vẫn còn nhiều bất toàn. Vì vậy, các ngài cần sự cộng tác và sự nâng đỡ của đoàn chiên, vì các ngài vẫn mang thân phận con người. Chúa Giêsu yêu chúng ta, Ngài không mong chúng ta đền đáp nhưng để cứu độ chúng ta Ngài cần chúng ta cộng tác. Đó là một khám phá mà thánh Augutinô đã chia sẻ. Bởi vậy, chúng ta hãy cộng tác và lắng nghe các vị mục tử đang dẫn dắt mình, cùng thêm lời cầu nguyện cho các ngài để các ngài luôn biết lắng nghe và mau mắn làm theo thánh ý Chúa.
Lạy Chúa, chúng con là những con chiên đã được Chúa quy tụ về đoàn chiên duy nhất của Chúa. Xin cho chúng con nhận ra tiếng Ngài và mau mắn vâng nghe qua sự dẫn dắt của các vị mục tử đang hiện diện với chúng con. Xin Chúa cũng ban Thánh Thần Tình Yêu trên các ngài, để các ngài luôn yêu thương đoàn chiên của mình và dẫn dắt đoàn chiên đi đúng con đường Chúa muốn. Amen.
CHÚA GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cử hành Chúa Nhật IV Phục Sinh, được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Hình ảnh người mục tử và đoàn chiên là hình ảnh nổi bật trong thánh lễ này.
Đối với người Việt Nam, hình ảnh mục tử và đoàn chiên thì khá xa lạ, nhưng đối với người Do Thái, hình ảnh này rất gần gũi, quen thuộc và quan trọng. Bởi vì, người Do Thái sống bằng nghề chăn nuôi, nuôi chiên cừu. Người mục tử có một tầm quan trọng trong lịch sử của họ. Vì thế, về mặt xã hội, họ dùng hình ảnh người mục tử để áp dụng cho những vị vua của mình. Về mặt tôn giáo, người Do Thái áp dụng hình ảnh để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa là mục tử chăn dắt đoàn chiên dân Người.
Trong Cựu Ước, Thánh Vịnh 23 diễn tả: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì, trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi (Tv 23,1-2).
Trong Tân Ước, hình ảnh lý tưởng về người mục tử tốt lành được thể hiện một cách đầy đủ và cụ thể nơi Đức Giêsu. Chính Người đã tự giới thiệu mình: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Đức Giêsu chính là vị mục tử nhân lành và chúng ta là đoàn chiên của Người.
Tuy nhiên, dựa vào đâu để chúng ta nhận ra Đức Giêsu là mục tử nhân lành?
Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta ít nhất là ba tiêu chuẩn sau đây về người mục tử nhân lành, phân biệt với người chăn thuê.
Tiêu chuẩn thứ nhất: đó là người mục tử tốt lành là người “biết” đoàn chiên của mình. Theo Kinh Thánh, cái biết ở đây không phải chỉ là cái biết thuần lý trí, vô cảm, nhưng là đi vào tương quan gần gũi, mật thiết và hết lòng yêu mến đoàn chiên. Người mục tử sống gần gũi giữa đoàn chiên, lăn lộn với đoàn chiên, biết từng con chiên, con béo hay con gầy, con khỏe hay con bệnh tật, người mục tử đều biết rõ từng hoàn cảnh của mỗi con chiên. Trái lại, người chăn thuê thì không “biết chiên” của mình, là người chỉ làm việc vì tiền công, không phải vì yêu mến đoàn chiên.
Tiêu chuẩn thứ hai, người mục tử đích thực là người chăm sóc, đi trước và bảo vệ đoàn chiên khỏi sự tấn công của lũ sói, dẫu phải đối diện với nguy cơ phải bỏ mạng; còn người chăn thuê là người chỉ làm việc vì tiền công, không phải vì lòng yêu mến đoàn chiên, và thường họ chẳng có yêu mến gì đoàn chiên.
Tiêu chuẩn thứ ba, tiêu chuẩn cao nhất của người mục tử tốt lành là dám hiến dâng mạng sống mình vì đoàn chiên. Còn người chăn thuê chỉ tìm kiếm lợi tức và trục lợi từ đoàn chiên mà không dám hy sinh gì vì đoàn chiên.
Các bài đọc hôm nay là những lời chứng hùng hồn về người mục tử nhân lành đó. Trong bài đọc I, trích sách Công Vụ, Thánh Phêrô được tràn đầy Thánh Thần, đã có một bài giảng xuất thần về Người mục tử nhân lành: “Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2,36). Bài giảng này đã đánh động và làm cho 3000 người trở lại.
Một cách tuyệt vời trong bài đọc II, thánh Phêrô nói về mẫu gương của vị mục tử nhân lành: “Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình” (1 Pr 2,22-23).
Như vậy, Đức Giêsu chính là vị mục tử đã hiến dâng mạng sống mình vì đoàn chiên, Người đã chấp nhận chết trên thập giá vì tội lỗi chúng ta, và sau ba ngày Người phục sinh vinh hiển để cứu độ chúng ta. Đấng Phục Sinh là Đức Chúa và là Đấng Cứu Độ loài người. Bởi lẽ, Người đã chiến thắng sự dữ, đã đập tan xiềng xích tội lỗi và là người đầu tiên đi vào sự sống mới của Thiên Chúa. Sự phục sinh của Đức Kitô là nền tảng cho sự sống vĩnh cửu của chúng ta. Đức Giêsu chính là vị mục tử dẫn con người tới sự sống mới này. Người đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Nhưng khi cử hành Chúa Nhật Chúa Chiên Lành trong Mùa Phục Sinh, Giáo Hội muốn nói với chúng ta điều gì đó hơn nữa. Đấng Phục Sinh chính là vị mục tử nhân lành, Người không chỉ hiến mình cho chúng ta một lần mà thôi, nhưng Người còn tiếp tục hiến mình cho chúng ta nơi bí tích Thánh Thể. Vì Đấng Phục Sinh chính là Chúa Giêsu Thánh Thể. Nơi Thánh Thể, như là mục tử, Người tiếp tục hiến mình thành của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta.
Như thế, khi cử hành thánh lễ này, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm và sống ba bài học sau đây:
1) Đấng Phục Sinh tiếp tục hiện diện với chúng ta qua bí tích Thánh Thể để nuôi sống chúng ta là đoàn chiên của Người. Vì thế, chúng ta được mời gọi hãy đến tham dự thánh lễ, nơi đó Chúa nuôi dưỡng chúng ta qua bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể.
2) Chúa Giêsu chia sẻ sứ vụ mục tử của mình cho Đức Giáo Hoàng, các giám mục và các linh mục. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi” (Ga 10,27). Chúng ta là đoàn chiên của Chúa, chúng ta được mời gọi lắng nghe tiếng nói của Huấn Quyền, của Đức Giám Mục và các linh mục hướng dẫn, ngõ hầu chúng ta cũng lắng nghe tiếng Chúa trong Giáo Hội của Người.
3) Ngày hôm nay, các linh mục phải đối diện với nhiều áp lực và thách đố trong sứ vụ mục tử của mình, chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho các linh mục, cộng tác tích cực với cha xứ để xây dựng giáo xứ của mình phát triển không ngừng. Cách riêng, hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu, chúng ta sốt sắng cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi tu trì và nhất là biết cổ võ ơn thiên triệu bằng sự giúp đỡ của mình cho công cuộc đào tạo ơn gọi linh mục. Amen!
Lm Vũđình Tường
Trước khi ra khỏi nhà bắt đầu ngày làm việc, chúng ta đi qua nhiều cửa, nào là cửa phòng ngủ, cửa phòng tắm, cửa tủ lạnh và cửa cuối cùng là cửa cổng. Cửa cổng là cửa đầu tiên, khởi đầu cho một ngày làm việc; cửa cổng cũng là cửa cuối cùng chấm dứt một ngày làm việc. Câu nói ‘Thiên Chúa là khởi nguyên và là cùng đích’, hay dùng mẫu tự trong ngôn ngữ Hy Lạp là alpha và omega, hai mẫu tự đầu tiên và cuối cùng để diễn tả ‘bắt đầu và kết thúc’, diễn tả một công việc, hay một ngày từ sáng tinh sương cho đến khi mặt trời khuất bóng. Nó còn dùng diễn tả đời con người, từ lúc sinh ra cho đến khi sinh vào cõi trường sinh. Áp dụng câu nói này vào đức tin thì Thiên Chúa là nguồn gốc, nguồn mạch sự sống của mỗi người Kitô hữu. Ta khởi đầu sự sống từ Thiên Chúa và kết thúc cuộc đời cũng trong Thiên Chúa. Ngài là cánh cổng đời ta từ khởi sự cho đến hoàn thành; Ngài cho ta sinh vào đời, và Ngài cho ta sinh vào cuộc sống mới.
Cửa cổng còn là hàng rào ngăn cách giữa riêng tư và chung. Bên trong cánh cổng thuộc về đất tư, bên ngoài cánh cổng dành chung cho mọi người. Nơi nào cũng có luật lệ riêng của nó và vì thế đời sống nơi dó khác biệt. Đức Kitô cho biết Ngài là Đấng chăn chiên nhân lành và đồng thời Ngài còn là cánh cửa chuồng chiên. Hình ảnh cánh cổng chuồng chiên nêu rõ một số đặc tính của cánh cổng. Cánh cổng không di chuyển, đứng trụ, chịu nắng nóng ban ngày, chịu lạnh ban đêm, chịu gió bão, mưa phùn, mưa đá. Mùa nắng cũng như mùa lạnh, trưa hè cũng như đêm đông, cánh cửa hấng chịu tất cả. Đứng vững cho đến khi mục rã, thì thay cánh cổng mới. Ngày cũng như đêm, cánh cổng ngăn chặn thú hoang và ngay cả trộm cắp. Tất cả không được tự nhiên ra vào mà phải phấn đấu vượt qua, phải chui rúc, phải phá bỏ hàng rào đó mới có thể vượt qua. Cánh cổng không những bảo vệ vật dụng trong nhà mà còn bảo vệ tất cả những gì bên trong cánh cổng. Đức Kitô tự nhận Ngài là cửa chuồng chiên, nhận diện chiên ra vào hàng ngày, nhận biết chúng và chúng nhận biết Ngài. Chủ chuồng chiên là người đầu tiên mở cổng mỗi sáng. Nếu có kẻ thù rình rập thì cũng là người đầu tiên phải đối phó. Chủ cánh cổng cũng là người ra sau cùng trước khi khoá cổng. Chủ chuồng chiên làm chủ đàn chiên, coi sóc, bảo vệ, mang lại an toàn cho đàn chiên và là người cuối cùng khoá cổng sau khi đàn chiên vào chuồng. Hình ảnh cánh cổng là hình ảnh mang í nghĩa bảo vệ, che chở, giữ an toàn. Cánh cổng phân chia giữa thiện và ác, giữa ngày và đêm.
Có sự khác biệt giữa người chăn chiên thuê và người làm chủ đàn chiên. Người chăn thuê đặt an toàn của họ trên đàn chiên, nếu cần phải trốn tránh, họ sẵn sàng bỏ rơi đàn chiên cho đến khi an toàn mới lộ diện. Đấng chăn chiên nhân lành coi sự an toàn, sự sống của đàn chiên như chính sự sống mình. Ngài không bỏ chạy khi gặp nguy hiểm, nhưng đứng ra đối diện với sự dữ, bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng chiến đấu cho sự an toàn của đàn chiên. Ngài nghe tiếng chiên và chiên nhận biết tiếng Ngài. Ngài dẫn đàn chiên đến nơi có cỏ non, tươi, có suối nước trong, có bóng mát cho chiên nghỉ buổi trưa hè, có nơi tránh tuyết lạnh mùa đông. Chiên lạc Ngài tìm vác về, chiên thương tích Ngài vỗ về, băng bó và chiên ốm đau được chăm sóc chu đáo. Đấng chăn chiên lành coi sóc chiên cả ngày lẫn đêm. Ban ngày Ngài cho chiên ra để chúng chạy nhảy, để chúng ăn no, tắm mát cùng với những chiên khác; đêm đến Ngài coi sóc bảo vệ, trông chừng để chiên có giấc ngủ ngon. Trong chuồng chiên luôn có bình an, tình cảm đầm ấm chiên dành cho nhau; trong chuồng chiên không có tranh chấp, không có hận thù và không có đau khổ về vật chất cũng như tinh thần. Đó là nơi an bình, thanh thản, vui tươi, cuộc sống hài hoà, không phải lo lắng, cũng không sợ tai ương bởi Chủ Nhân lành lo tất cả mọi sự cho chiên.
Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành, coi sóc đàn chiên của Ngài, coi sóc Giáo Hội Ngài, nơi trần thế. Ngài hiện diện, kề bên, ngày cũng như đêm, luôn đồng hành với chiên trong mọi tình huống, mọi khó khăn của cuộc sống. Đau khổ, ốm đau, bệnh tật, bách hại, tù đầy nơi trần thế bởi vì đàn chiên và Giáo Hội Chúa đang trên đường lữ hành, đang trên đường về miền ‘Đất Hứa’. Cho đến khi nào vào chuồng chiên lúc đó mới thực sự có cuộc sống an bình. Nơi nước trời vắng bóng sự chết; nơi đó không còn chiến tranh; nơi đó bệnh tật bị tiêu diệt tận gốc rễ; nơi đó tràn đầy ánh sáng, bình an, hạnh phúc ngập tràn. Điều này đến vào cuối ngày, đến vào cuối đời người. Mỗi người trong chúng ta, xin học từ Đấng chăn chiên lành sống tinh thần vị tha, bác ái yêu thương, bắt đầu từ gia đình và thể hiện nơi cộng đoàn đức tin mình đang sống và lan tràn ra ngoài xa hội.
Jorathe Nắng Tím
Hai hình ảnh không thể thiếu về người chăn chiên được Đức Giêsu mô tả trong Tin Mừng Gioan về Mục Tử nhân lành là “Tiếng gọi chiên”, và “Cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7), để làm nổi bật sứ vụ của người chăn chiên là “gọi tên từng con và dẫn chúng ra” đến đồng cỏ xanh, suối nước trong “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,3.10).
Quan sát người chăn chiên với đoàn chiên của anh: Anh không ngớt gọi từng con, và nhắc nhớ, khuyến khích, động viên chúng. Làm như chúng hiểu anh nói gì, dặn dò gì, nên khi người lạ nói, người lạ lên tiếng thay anh, chúng không hiểu và ngơ ngác nhìn nhau tỏ vẻ nghi ngờ, sợ hãi, vì “chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10,4-5).
Khi ra vào chuồng, đoàn chiên cũng chờ tiếng nói của mục tử, và tuyệt đối không ra khỏi chuồng khi không có mặt người chăn giữ chúng, vì chúng sợ bị kẻ trộm bắt đi. Chúng cũng không liều lĩnh trốn khỏi chuồng đi lang thang một mình trong rừng, vì biết có nhiều sói dữ rình rập, chực chờ vồ lấy chúng, và ăn thịt (x.Ga 10,12).
Với hình ảnh “tiếng nói của mục tử”, Đức Giêsu nhắc đến sứ vụ của Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Tiếng Nói của Thiên Chúa với nhân loại, cũng như toàn bộ Cựu Ước là lịch sử “Thiên Chúa nói với con người”, và con người tin vào Ngài nhờ lắng nghe tiếng Ngài.
Như thế, Thiên Chúa đã là người đi bước trước đến với con người bằng “mở lời” nói với con người, như trực tiếp nói với Ápraham, Môsê, và gián tiếp qua các ngôn sứ nói với dân Ngài trong Cựu Ước. Cũng vậy, trong Tân Ước, Thiên Chúa đã sai sứ thần Gabrien mở lời với Đức Maria ở ngày Truyền Tin, và chính Đức Giêsu đã trực tiếp mở lời kêu gọi các môn đệ bên bờ hồ Galilê: “Các anh hãy theo tôi!” (Mt 4,19).
Thiên Chúa luôn mở lời trước, đề nghị trước, mời gọi trước, và dành cho con người toàn quyền trả lời đồng ý hay không đồng ý, chấp thuận hay khước từ, với tất cả tự do được Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng. Đó là lý do có rất nhiều người đã được Đức Gêsu “mở lời” mời làm môn đệ, nhiều người được gọi theo Ngài, nhưng con số đáp trả rất ít, số người trả lời tích cực không nhiều, như thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1) “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian, và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11).
Tiếp đến, Đức Giêsu chọn hình ảnh Cửa chuồng chiên, bên cạnh hình ảnh Tiếng Gọi khi nói về người mục tử nhân lành, vì đoàn chiên cần chuồng để được an toàn, cần nơi có cửa nẻo khép kín, có hàng rào ngăn chặn để người lạ, kẻ trộm, sói dữ không thể đột nhập, xâm phạm, phá hoại, cắn giết. Và chỉ khi được ở trong chuồng có cửa khép cẩn thận, có chủ chăn trông nom, đoàn chiên mới thoải mái, bình an.
Là Cửa, người chăn chiên vừa thi hành trách nhiệm gìn giữ, che chở, vừa thực hiện bổn phận giải phóng, khi tập cho đoàn chiên trưởng thành với ý thức tự do, vì chuồng chiên không là trại giam, và người gác cửa chuồng chiên không làm công việc của công an gác cổng nhà tù, bởi chiên có quyền đi ra đi vào: đi vào để ngủ nghỉ an toàn, để khỏi bị mưa ướt, sương lạnh, để kẻ trộm và sói dữ không lợi dụng sơ hở, trống trải mà “giết hại, phá hủy”, cướp đi mạng sống, đồng thời đi ra để “gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9), hầu được “sống và sống dồi dào” (Ga 10,9-10).
Thực vậy, Đức Giêsu nhận mình là Mục Tử nhân lành: mục tử biết nói với chiên, và chiên lắng nghe tiếng Mục Tử (x. Ga 10,3). Nói điều này, Đức Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của tiếng nói, bởi không tiếng nói giữa mục tử và đoàn chiên, không trao đổi giữa chúa chiên và con chiên, không đối thoại giữa người chăn dắt và đám đông được chăn dắt, thì không thể có đoàn chiên đúng nghiã, không thể có chuồng chiên an bình, không đấu đá, và không thể có đoàn thể chiên, cộng đoàn chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Nhưng ai phải nói với ai, và ai giữ phần quyết định thành – bại trong đối thoại, để “mục tử nghe được tiếng chiên, và chiên nghe biết tiếng mục tử”, mà không ngược lại: chủ chiên và chiên, cả hai không ai chịu nghe ai”?
Hỏi tức trả lời, vì chủ chiên là người nói trước, người mở lời, và trách nhiệm đầu tiên của mục tử là nói với đoàn chiên, nên nếu mục tử không nói, không muốn nói, không biết nói gì, hoặc nói mà chiên không hiểu, thì qủa thực đối thoại không đạt chuẩn thành công. Tệ hơn, nếu chủ chiên chỉ nói những gì mình muốn, những gì có lợi cho riêng mình, nói những chuyện không thuộc phận vụ phải nói, nói những chuyện không liên quan đến hạnh phúc của đoàn chiên, không đáp ứng nhu cầu sống của đoàn chiên, không giải quyết những vấn đề thiết thực của đoàn chiên, thì coi như tương quan chủ chiên – đoàn chiên bị tắc nghẽn, đóng băng. Nhưng còn tệ hơn gấp bội, nếu chủ chăn dùng quyền “mở lời, nói trước” của mình mà độc thoại, độc diễn, độc chiếm micrô để “thánh tướng” khoe khoang thành tích, đánh bóng “cái tôi”, mỉa mai, chỉ trích những con chiên không ngoan ngùy, dễ bảo, “mắng vốn mắng lời” người này người nọ, bôi bác, hạ nhục đám này, trách móc, thĩa bãi xa gần phe nhóm kia làm cho chuồng chiên mất bình an, đoàn chiên chia rẽ, hoang mang, hoảng lọan.
Cũng thế, nếu đoàn chiên thấy cửa chuồng ngày càng giống cổng nhà giam, cửa sắt trại tù, thì chúng sẽ không hớn hở nối đuôi nhau chạy vào chuồng để được nghỉ ngơi, thư giãn. Trái lại, nếu mặt người giữ cửa hung bạo, dữ dằn, lại nóng giận “đằng đằng sát khí”, dò xét, đe dọa thì chiên sẽ nói nhỏ với nhau và cùng tìm đường chuồn, không về chuồng nữa để thoát thân, bảo toàn mạng sống, dù đời lang bạt sẽ nhiều rủi ro, và cuộc sống “không cửa không nhà” hứa hẹn nhiều vất vả, nhọc nhằn.
Vì thế, Đức Giêsu không chỉ mô tả “suông và hời hợt” hình ảnh Tiếng Nói và Cửa chuồng chiên, mà không căn dặn các môn đệ điều phải làm để là Tiếng Nói của chủ chiên đích thực, và Cửa bảo đảm an toàn và hạnh phúc của đoàn chiên. Trái lại, Ngài đã dậy các môn đệ là những mục tử nối bước chân chăn chiên của Ngài bài học quan trọng như bửu bối để trở nên mục tử nhân lành như Ngài. Bài học, bửu bối đó chính là Tình Yêu sẵn sàng hiến mạng sống của chủ chiên cho đoàn chiên mình chăn dắt.
Vâng, Đức Giêsu đã lấy chính mạng sống để bảo đảm cho Tiếng Nói đích thực và Cửa an toàn của Mục Tử nhân lành, bởi “không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình cho người mình yêu” (Ga 15,13), khi qủa quyết: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mang sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
Vì yêu đến sẵn sàng hiến mạng, nên sẽ không có mục tử từ chối nói với đoàn chiên của mình, vì Mục Tử nhân lành là người yêu thương chiên, “biết chiên” (Ga 10,14) và “gọi tên từng con” (Ga 10,3); sẽ không có mục tử độc thoại, khống chế, áp đặt, bắt chiên phải gục đầu, nhắm mắt nghe mà không được đối thoại, vì mục tử nhân lành là người có đủ tư cách để nói: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14), bởi biết nhờ trao đổi, trao đổi để hiểu biết nhau hơn; sẽ không có chủ chăn không biết cách nói, hoăc không biết nói gì, vì khi yêu thương đoàn chiên đến độ “tự ý hy sinh mạng sống mình”, trong khi “mạng sống của mình không ai lấy đi được” (Ga 10,18), thì nội dung Tiếng Nói của mục tử sẽ là tình yêu mãnh liệt của chủ chiên nhân lành dành cho đoàn chiên, và chính trái tim đầy “tình yêu chiên” sẽ chỉ cho người chăn chiên cách nói hay nhất, cách nói dễ thương nhất, cách nói ân tình cha con nhất, cách nói thuyết phục nhất, cách nói tuyệt vời của Chúa Thánh Thần có sức biến đổi trái tim, đổi mới cuộc đời của đoàn chiên, để chiên không phải thiếu gì, nhưng được thỏa thuê no đầy, thảnh thơi, hạnh phúc bên bờ suối trong, trên đồng cỏ xanh rì.
Thực vậy, chỉ với tình yêu “sẵn sàng hiến mạng sống mình cho đoàn chiên”, người chăn chiên mới chu toàn được sứ vụ là Tiếng Nói và Cửa cho đoàn chiên. Cũng với tình yêu mãnh liệt và liều lĩnh là dâng hiến cả mạng sống, mục tử mới có thể trở thành mục tử nhân lành, người chăn dắt nhân hậu, và khi đó, không cần phải có tài hùng biện, hay “thôi miên”, lôi cuốn, cũng chẳng cần văn chương hoa mỹ, với những ngôn từ có cánh, mục tử nhân lành vẫn đánh động tâm hồn đám chiên ghẻ lở, ngang ngược; vẫn đưa về chuồng những chiên lầm đường lạc lối trót nghe lời dụ dỗ ngon ngọt của sói rừng; vẫn được đoàn chiên chăm chú lắng nghe, nhất là mãi mãi được đoàn chiên yêu thương, tín nhiệm, để trao đổi tâm tư, trút bỏ tâm sự, cởi mở cõi lòng với chủ chăn, cho Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa được đón nhận, như người đàn bà Samari ngoại đạo đã trân trọng nghe và chân thành nói với Đức Giêsu bên bờ giếng Giacóp. Nhờ vậy, bà đã nhận ra Ngài là Mục Tử nhân lành, là Đấng Thiên Chúa sai đến trong thế gian để yêu thương và cứu độ mọi người, không trừ ai.
TIN TƯỞNG VÀ CAN ĐẢM ĐÁP LẠI TIẾNG CHÚA GỌI MỜI
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật thứ IV Phục Sinh, Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, đồng thời cầu nguyện cho những người đã được Chúa gọi để nhân Danh Chúa chăn dắt đàn chiên Chúa. Chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho có nhiều người trẻ quảng đại dâng mình cho Chúa.
Chúa là mục tử
Hình ảnh người “Mục tử” hay người chăn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông, được dùng để diễn tả mối tương quan thân mật dễ mến dễ thương giữa Thiên Chúa với dân.
Cựu Ước thường gọi Chúa là mục tử, còn dân Chúa là chiên (St 49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v …). Chúa không những là Đấng dẫn dắt dân, tìm kiếm những người tội lỗi, chữa lành những kẻ bị thương lòng, mà còn là Đấng lấy mạng sống mình để bảo vệ dân, trao ban sự sống cho dân. “Đức Chúa phán: Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức ” (Ez 34, 16). Những người được chọn để lãnh đạo dân Chúa như Abraham, Môisen, Đavít đều là những người chăn chiên.
Chúa chăm sóc chiên Chúa như thế nào? “Như người mục tử chăm nom đàn chiên của mình vào ngày nó ở giữa chiên phiêu bạt thế nào, cũng vậy Ta sẽ chăm nom chiên của Ta. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi nơi chúng tán loại, vào ngày mây mù đen tối. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân. Ta sẽ thâu họp chúng lại từ các xứ. Ta sẽ dẫn chúng về lại thửa đất của chúng. Và Ta sẽ chăn nuôi chúng trên núi Israel ” (Ez 34, 13-14).
Chúa tập hợp những con chiên yếu kém không thể đi được ; vác chúng trên vai, ôm chúng vào lòng ; như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa cũng muốn những người nhân danh Chúa chăm sóc đoàn chiên, noi gương Chúa chăm sóc dân Chúa : “Như mục tử, Người chăn đàn chiên của Người, cánh tay Người thâu họp chúng lại; Người bồng chiên con và dìu đi cừu mẹ nuôi con” (Is 40,11). Mục tử nào không làm tròn trách nhiệm, Chúa sẽ quở trách và đòi lại chiên.
“Đức Chúa phán thế này: Này Ta chống lại các mục tử, Ta sẽ đòi lại chiên Ta nơi tay chúng ” (Ez 34, 10). Hỏi các mục tử đã làm gì để Thiên Chúa nổi giận và đòi lại chiên vậy? Qua miệng ngôn sứ Ezêkiel, Thiên Chúa còn nói mạnh hơn nữa : “Ta sẽ không để chúng chăn chiên Ta nữa. Các mục tử sẽ không còn được chăn nuôi lấy mình chúng nữa. Ta sẽ giựt lấy chiên khỏi mõm chúng, khiến chiên Ta không còn là mồi ngon cho chúng ăn thịt nữa ” (Ez 34, 10). À thì ra, các mục tử chỉ để ý đến lợi ích của mình, không dám xả thân để cứu chiên, nay Chúa đòi lại chiên và Ngài tuyên bố : “Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng ” (Ez 34, 10).
Mục tử Giêsu thí mạng sống vì chiên
Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành được người ta khắc vẽ với vẻ dịu dàng, trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, ôm chúng vào lòng, đưa chiên về với đàn của chúng thật là đẹp. Quả thật, Chúa Giêsu Mục Tử đã yêu thương loài người, tức chiên bằng một tình yêu thí mạng, chết cho đoàn chiên. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống, bằng chính thịt máu mình nơi Bí tích Mình Thánh. Người giang cánh ta trên thập giá để thâu họp “con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11,52). Nguy hiểm, Người không chạy trốn như lính đánh thuê, Người chết, nhưng cái chết của Người toàn thắng để cho chiên được sống đời đời.
Cầu cho các mục tử
Chúa Giêsu muốn các tông đồ và con người ở mọi thời tiếp bước theo Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở về. Chúa mong ước các mục tử với ơn Chúa trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.
Chúa nhật này, chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử thân yêu : nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài ! Cầu cho Giáo hội Việt Nam có thêm nhiều linh mục lành thánh. Ý chỉ này cũng thật khẩn thiết cho Giáo hội hoàn vũ.
Chúng ta hướng về các y bác sĩ, nhất là các linh mục của Chúa tại Ý và nhiều nơi trên thế giới đã qua đời vì đàn chiên của mình. Ý thức mình là những người đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, dấu chỉ sự gần gũi của Chúa, hành động trong cương vị của Chúa, nhiều linh mục đang chạy đua trên tuyến đầu chống dịch Covid 19. Sự hiện diện của các ngài xoa dịu nỗi đau, an ủi và chữa lành nhiều tâm hồn. Vì thế, hơn bao giờ hết, các linh lục là những người cùng với các y bác sĩ chữa lành cho những ai nhiễm phải con virus này. Xin cầu nguyện thật nhiều cho các ngài.
Cầu cho ơn thiên triệu
Chủ đề ngày thế giới cầu cho ơn kêu gọi năm nay là : “Những lời của ơn gọi “. Đức Phanxicô lấy lại 4 từ : đau khổ, biết ơn, can đảm và ngợi khen trong thư gửi các linh mục ngày 04 tháng 8 năm 2019, năm 2019, nhân kỷ niệm 160 năm ngày mất của Thánh Gioan Vianney. lấy lại 4 từ : đau khổ, biết ơn, can đảm và ngợi khen.
Trên hết, mọi ơn gọi đều phát sinh từ ánh mắt yêu thương mà Chúa đối với con người; vì phát xuất từ trên cao, nên ơn gọi cũng là lời đáp trả trước tiếng gọi cao vời của Chúa, chúng ta phải biết ơn Chúa.
Chọn lựa nào cũng có khó khăn. Ơn gọi cũng thế, chúng ta phải can đảm vượt qua, Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Thầy đây, đừng sợ!” Chúa cũng nói với chúng ta : “Can đảm lên! Đừng sợ!”
Trên hành trình theo Chúa, phiền muộn, đôi lúc làm ta không thể nhận ra vẻ đẹp của ơn gọi . Lo lắng quá về trách nhiệm khiến chúng ta thấy mệt mỏi trên hành trình ơn gọi. Chúa gọi ai thì trao nhiệm vụ cho người ấy; cố gắng hoàn thành là dĩ nhiên. Nhưng nếu để mình bị ám ảnh bởi những trách nhiệm, người ta sẽ không nhận ra sự hiện diện, đồng hành và ánh mắt nhân từ của Chúa.
Để vượt qua sự mệt mỏi, sợ hãi, cô đơn, sự bất an và lo lắng… cần phải tin tưởng rằng, Chúa sẽ đưa tay cứu giúp. Có Chúa trong hành trình ơn gọi, chúng ta sẽ bình an. Chúa luôn động viên ta: “Cứ yên tâm, đừng sợ!” Chúa ban cho chúng ta sự nhiệt huyết với niềm vui và lòng hăng say để sống ơn gọi của mình.
Lời cuối của sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta noi gương Mẹ Maria cất lời ngợi khen Chúa với lòng biết ơn, biến đời ta thành một bài ca tán tạ hồng ân Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp người trẻ chúng con biết thưa xin vâng với Chúa như Mẹ để làm môn đệ Chúa. Amen.
MỤC TỬ TỐT LÀNH HY SINH MẠNG SỐNG VÌ ĐOÀN CHIÊN
Lm.Jos Đỗ Đức Trí
Cả thế giới xúc động khi nhìn tấm hình Đức Thánh Cha Phanxicô vào ngày Chúa nhật 22/3. Ngài đứng từ ban công đền thờ thánh Phêrô, nhìn xuống quảng trường với nỗi đau buồn hiện trên gương mặt. Trước mặt Ngài là một quảng trường trống vắng, không một bóng người hành hương. Cả đoàn chiên của Ngài đã phải tan tác vì chạy dịch Coronavirus. Càng xúc động hơn nữa, vào chiều Thứ Sáu 27/3, dưới cơn mưa làm ướt đẫm quảng trường, một mình Ngài, vị giáo hoàng 84 tuổi, chỉ còn lại một lá phổi, bước đi những bước nặng nề vì trách nhiệm, Ngài đem Thánh Thể Chúa ban phép lành và cầu xin bình an cho cả thế giới. Hình ảnh thật xúc động, khiến cho các tờ báo lớn của thế giới phải chạy hành tựa: “Cả trời cao cũng phải đổ nước mắt.” Lúc đó dường như cả thế giới ngước mắt hướng nhìn về Đức Giáo Hoàng với tất cả niềm hy vọng. Ngài biết Ngài đang mang một sứ mạng lịch sử để cứu nguy cho cả nhân loại, dẫn dắt đoàn chiên Chúa đã trao cho Ngài vượt qua thử thách: “Con hãy chăn dắt các chiên con chiên mẹ của Thầy.”
Lời của Chúa hôm nay đang được diễn tả cách sống động và cụ thể qua hình ảnh của Đức Giáo Hoàng Phanxicô mà chúng ta đang chứng kiến việc Ngài đã và đang làm cho Giáo Hội, cho thế giới, cách đặc biệt trong những tháng vừa qua. Cả thế giới đang bị bầy sói Coronavirus tấn công khiến cho nhân loại bị tan tác, sợ hãi, đoàn chiên bị hoang mang tản loạn. Lãnh nhận sứ mạng từ vị Mục tử Giêsu, kế vị Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng có nhiệm vụ củng cố đức tin cho anh em và bênh vực bảo vệ đoàn chiên khỏi sói dữ tấn công.
Chúa Giêsu cho thấy sự khác biệt giữa mục tử thật và kẻ chăn thuê: “Người chăn thuê không phải là mục tử và vì chiên không thuộc về hắn, nên khi thấy sói đến nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ vồ lấy chiên và làm cho chiên tản loạn.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã không sợ hãi đại dịch đang bao vây thành Vatican, cho dù sức khoẻ của Ngài không tốt. Ngài vẫn làm việc và liên tục đưa ra những hướng dẫn cho Giáo Hội, Ngài làm mọi cách để nâng đỡ đời sống đức tin cho dân Chúa. Trước đó, vị giám mục giám quản giáo phận Roma tuyên bố đóng cửa các nhà thờ, Đức Thánh Cha đã phải can thiệp và nhắc cho mọi người rằng: “Đừng để cho con virus sợ hãi tấn công chúng ta. Người tín hữu lúc này cần được đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện, để được nâng đỡ.” Vì thế, các cửa nhà thờ lại được mở ra, trở thành nơi trú ẩn trong đời sống đức tin cho các tín hữu. Đức Thánh Cha đi bộ đến Đền thờ Đức Bà Cả, Ngài phó dâng nhân loại cho Đức Mẹ. Ngài đưa ra sáng kiến ngày cầu nguyện, giờ cầu nguyện chung của cả Giáo Hội cầu cho thế giới. Đặc biệt là vào ngày 27/3 Ngài đã ban phép lành cho thành Roma và thế giới để cầu xin ơn bằng an. Đây là phép lành thông thường Ngài chỉ thực hiện vào hai dịp trọng đại trong năm là lễ Giáng Sinh và Phục Sinh. Nhìn hình ảnh vị đại diện Chúa Kitô, người kế vị thánh Phêrô một mình bước những bước chân già nua mệt mỏi trên các bậc đá trơn trượt, khiến cho cả thế giới chạnh lòng. Người ta có thể cảm nhận được sự đau khổ trong lòng của Ngài qua ánh mắt. Ngài đã bước đến chân tượng Chúa chịu nạn để ôm lấy Chúa và cầu nguyện cho Giáo Hội. Trong bài giảng trước đó, Đức Thánh Cha kêu gọi con cái trong Giáo Hội “đừng sợ” nhưng hãy chạy đến với Chúa Giêsu và kêu với Ngài: “Thầy ơi! Xin cứu chúng con với, chúng con chết mất.” Ngài quả quyết rằng: Chúa vẫn hiện diện trên con tàu Giáo Hội. Ngài đang ngồi ở đàng lái để điều khiển con tàu Giáo Hội. Ngài chỉ đang ngủ một chút thôi, hãy đến đánh thức Người dậy. Chúa sẽ ra lệnh cho sóng gió yên lặng.
Bài đọc một, Sách Công Vụ cho thấy một hình ảnh Phêrô thi hành nhiệm vụ chủ chăn mà Chúa trao phó. Nếu như những ngày trước đây, chúng ta thấy một Simon Phêrô bồng bột, hèn nhát trong cuộc thương khó của Chúa, thì nay Phêrô hiên ngang mạnh dạn trong vai trò là thủ lãnh Giáo Hội, là người anh trong số Mười Hai, là người tiên phong trên hành trình truyền giáo. Mới cách đây không lâu, Phêrô và các trông đồ còn nhút nhát, sợ hãi, ẩn nấp trong căn nhà Tiệc ly, thì hôm nay với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ông đã mạnh dạn đứng dậy, bước ra với thế giới. Phêrô đã thể hiện vai trò chủ chăn, người được Chúa Giêsu trao phó sứ mạng chăm sóc đoàn chiên Chúa, ông đã nói với dân chúng rằng: “Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo lên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Kitô. Nghe vậy, họ đau đớn trong lòng và hỏi ông Phêrô và các tông đồ: Thưa các ông, vậy chúng tôi phải làm gì? Ông Phêrô đáp: Anh em hãy sám hối và chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội. Và anh em sẽ nhận được ân huệ là Chúa Thánh Thần.”
Những lời giảng ngắn gọn của Phêrô trong hoàn cảnh này, như là luồng điện chạm vào trái tim, tâm hồn của người Do Thái. Họ hối hận về hành vi và đời sống của họ và ăn năn sám hối. Trong những tháng vừa qua chúng ta cũng đang thấy điều này đang được thực hiện qua vị Đại diện Chúa Kitô ở trần gian. Có những lúc các vị chủ chăn đưa ra những lời khích lệ động viên an ủi, nhằm xoa dịu nỗi đau đớn hoảng loạn của nhân loại. Nhưng cũng có nhiều lần Ngài chỉ cho thấy những lối sống sai trái, những cám dỗ nguy hiểm đang kéo nhiều người xa lìa Thiên Chúa. Ngài cũng mời gọi con cái Giáo Hội cùng sám hối quay trở lại với đòi hỏi của Tin Mừng, sống theo con đường của Chúa Kitô để được ơn giải thoát.
Trở về với con đường của Đức Kitô và Tin Mừng, tức là trở lại với đúng vị trí và ơn gọi của mình là con của Giáo Hội, là đoàn dân của Chúa, đặt mình dưới sự hướng dẫn của Mục Tử Giêsu. Đi theo con đường của Đức Kitô, chắc chắn không phải là con đường thênh thang rộng rãi, nhưng là con đường hẹp. Con đường này đòi chúng ta phải chấp nhận hy sinh và từ bỏ, hy sinh cái tôi, tự ái và những cái riêng, từ bỏ những hành lý cồng kềnh khiến chúng ta mệt mỏi trong cuộc sống. Thánh Phêrô còn nhấn mạnh: “Anh em thân mến, nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế.”
Thưa quý OBACE cử hành ngày lễ Chúa Chiên Lành hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì Chúa đã thương chọn chúng ta và cho chúng ta được làm con chiên dưới sự hướng dẫn chăm sóc của Ngài. Chính Chúa Giêsu là mục tử của chúng ta; Ngài đã dùng lời của Ngài dạy dỗ chúng ta và dùng tình thương, sự tha thứ để chữa lành và nâng đỡ chúng ta. Vị mục tử Giêsu đã hy sinh mạng sống để bảo vệ chúng ta khỏi tay sói dữ là ma quỷ, Ngài cứu chuộc và còn dâng tặng cả máu thịt mình làm của ăn của uống nuôi sống đoàn chiên. Xin cho chúng ta luôn tin tưởng yêu mến và sống gắn bó hết mình với vị mục tử Giêsu.
Vị mục tử Giêsu còn tiếp tục hướng dẫn chúng ta qua các vị chủ chăn được Chúa tuyển chọn và trao phó cho việc thay mặt Chúa củng cố đức tin, chăm sóc hướng dẫn chúng ta trong thời đại mới này. Giáo Hội chính là đoàn chiên của Chúa. Sống trong Giáo Hội, chúng ta được hưởng sự chăm sóc yêu thương và được nuôi dưỡng bằng các bí tích cũng như các ân sủng của Chúa trao cho Giáo Hội. Vì thế, chúng ta được mời gọi trở thành những con chiên ngoan, sẵn sàng lắng nghe và tin tưởng bước theo sự hướng dẫn dạy bảo của Hội Thánh. Đừng bao giờ để mình thành những con chiên xa đàn, dẫn đến lạc đàn, vì sự kiêu căng tự ái hay vì những trái ý, nhưng khiêm tốn đón nhận, cộng tác và có trách nhiệm với cộng đoàn Giáo Hội vì lợi ích chung.
Qua bí tích Rửa tội Chúa cũng cho mỗi người được tham dự vào chức năng mục tử của Chúa Giêsu. Vì vậy, mỗi chúng ta được mời gọi trở nên mục tử đích thật, hy sinh vì đoàn chiên, chăm lo cho đoàn chiên nhỏ bé của mình trong gia đình, nơi cộng đoàn. Chúng ta cũng phải học theo gương mục tử Giêsu để dám hy sinh cả mạng sống vì những người Chúa trao cho mình. Dùng đời sống gương sáng và những lời dạy bảo để hướng dẫn con cái đi theo con đường của Chúa Kitô. Kiên nhẫn tìm kiếm và tha thứ khi con cái sai lạc, yêu thương đón nhận và bao dung để mở đường cho con cái quay về. Đừng bao giờ dựng hàng rào hay ngăn cản lối về của con cái hoặc của anh chị em mình.
Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng ta: Đức Giáo Hoàng, các giám mục và các linh mục là những người đang mang trên vai trách nhiệm chăm sóc bảo vệ và hướng dẫn đoàn chiên Giáo Hội. Các Ngài cũng là những con người giới hạn, yếu đuối cả thể xác, tinh thần nên rất cần lời cầu nguyện và sự cảm thông của chúng ta. Xin cho chúng ta chu toàn sứ vụ vừa là con chiên ngoan của Chúa, vừa là con chiên trưởng thành trong Giáo Hội và đồng thời cũng là chủ chiên trong gia đình mình. Amen.
Trầm Thiên Thu
Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống
Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên
Đó là “bí quyết” chính Chúa Giêsu đã “bật mí” để có thể phân biệt người thật và việc thật, hoặc người giả và việc ảo, và được Thánh sử Gioan đã ghi lại. (Ga 10:11-12)
Ngày xưa, khi thấy đám đông lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương họ và nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9:37-38)
Với lòng thương xót vô tận, Ngài không muốn ai phải sống èo uột, mà chỉ muốn mọi người được sống dồi dào, sống viên mãn, sống đúng nhân vị và nhân phẩm của con người, đồng thời cũng được hưởng nhân quyền và sự tự do đích thực. Ngài không chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc đời sau mà còn được hạnh phúc ngay đời này.
Nếu chúng ta muốn được hạnh phúc như vậy thì chắc chắn phải “đi qua” Đức Giêsu Kitô – Đấng chịu chết và phục sinh. Thật vậy, Đức Giêsu Kitô là Con Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha (Ga 14:6) và là Nguồn Sống Viên Mãn. (Ga 10:10) Ngài không chỉ nuôi sống chúng ta bằng ân sủng mà đặc biệt là chính Mình Máu Ngài để chúng ta được sống dồi dào, vì Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của người chết. (Mt 22:32; Mc 12:27; Lc 20:38) Đó là vấn đề thực sự quan trọng.
Tuy nhiên, nếu muốn được sống viên mãn thì mỗi “cành nho” chúng ta phải nối kết với Cây Nho Thật để được truyền nhựa-yêu-thương. (Ga 15:1-17) Cây có nhiều nhựa thì có nhiều sức sống, con người cũng vậy, đặc biệt là sự sống tâm linh, sự sống từ Thiên Chúa, sự sống dồi dào thực sự.
Người ta sẽ biến đổi hoàn toàn để trở thành một con người mới khi được tái sinh bởi Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem, và họ lắng nghe ông nói: “Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.” (Cv 2:36) Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, rồi họ hỏi ông Phêrô và các tông đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?” (Cv 2:37) Biết hỏi như vậy là dấu hiệu tốt lành, vì chứng tỏ tâm hồn đã thực sự sám hối lỗi lầm, khao khát điều tốt và ước muốn hướng thiện. Chắc chắn ước muốn thì sẽ được, như người Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir.”
Ông Phêrô nghe họ hỏi vậy thì đáp: “Anh em hãy SÁM HỐI, và mỗi người hãy CHỊU PHÉP RỬA nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” (Cv 2:38-39) Ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Rồi ông nói: “Anh em hãy TRÁNH XA thế hệ gian tà này để được cứu độ.” (Cv 2:40) Những ai đã đón nhận lời ông thì đều xin được lãnh nhận phép rửa, muốn được tái sinh để hy vọng được vào Nước Trời. (Ga 3:5) Ngay trong ngày hôm ấy, có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. Cây đức tin có sức sống thật mạnh.
Khoa học tiến bộ, ngày nay có phương tiện định vị toàn cầu giúp người ta định hướng, nhưng vẫn có thể lạc lối, chắc chắn chỉ có Chúa Giêsu mới chính là “định vị kế” chuẩn mực nhất. Người nào nhận biết được như vậy thì luôn an vui tín thác vào Thiên Chúa quan phòng và xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Thực sự an bình, thanh thản.
Đồng thời người đó cũng luôn an tâm vững chí, và hạnh phúc thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:4-6) Thật vậy, ai tuân giữ lời dạy của Đức Kitô thì không bao giờ phải chết. (Ga 8:51) Điều Chúa hứa sẽ luôn chính xác tuyệt đối, chẳng bao giờ sai chút nào.
Tín nhân không xa lạ với lòng nhân hậu và tình thương của Chúa, vì đó chính là Lòng Thương Xót mà ngày nay đang rất phổ biến khắp nơi trên thế giới, từ thành thị tới thôn quê, từ người già tới người trẻ, bởi vì không ai lại không là tội nhân, và vì thế mà bất cứ ai cũng cần đến Lòng Chúa Thương Xót. Hằng ngày, khi cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi, chúng ta nhiều lần kêu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn.” Đó là lời nguyện Đức Mẹ dạy ba trẻ tại Fátima. Thế nhưng cũng rất có thể vì quen quá hóa nhàm, và rồi chúng ta không thực sự chú ý hoặc không cảm nhận lời cầu tha thiết như vậy. Linh hồn nào cũng cần được Thiên Chúa thương xót, dù người đó còn sống hay đã qua đời.
Theo bản tính phàm nhân, con người có thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Đời sống tâm linh được lồng trong đời thường, và cũng có những cảm xúc khác nhau. Do đó, chúng ta luôn phải cố gắng không ngừng, sơ sảy một chút là té nhào ngay. Đôi khi còn có những điều trái tai, gai mắt, và chúng ta phải nỗ lực vượt qua chính mình. Thánh Phêrô đặt vấn đề: “Nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, đó là ơn Thiên Chúa ban.” (1 Pr 2:20) Thật thế sao? Hãy nghe Thánh Phêrô giải thích: “Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình.” (1 Pr 2:21-23) Đó là sống theo Thánh Ý Thiên Chúa.
Là Nguồn Sống nhưng Chúa Giêsu đã chịu bị giết chết, không phải Ngài đáng bị như vậy, mà Ngài chịu thay chúng ta, Ngài chịu chết để chúng ta có cơ hội sửa sai và có thể phục sinh vinh quang như Ngài: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.” (1 Pr 2:24-25) Chúa Giêsu chết vì tội lỗi của chúng ta, Ngài cũng muốn chúng ta phải dám chết cho tội lỗi của mình – và của người khác, nhờ đó mà được sống lại và có sức sống của Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu là ai và là gì? Chính Ngài xác định Ngài là Con Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống, (Ga 14:6) đồng thời Ngài còn là Cửa, (Ga 10:9) chính Cửa này dẫn vào Nguồn Sống Viên Mãn của Thiên Chúa: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.” (Ga 10:1-5) Nghe nói vậy, người ta không hiểu Chúa Giêsu nói gì. Tại sao? Bởi vì hiểu theo ý loài người và muốn hiểu theo ý riêng mình.
Điều đó không chỉ khó hiểu đối với nhóm Pharisêu hồi đó, mà còn khó hiểu đối với cả chúng ta ngày nay, thậm chí có khi chúng ta còn không muốn hiểu. Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói nghe không thấy có gì “gay gắt,” nhưng thực ra hiểu rồi thì mới cảm thấy “đụng chạm” và “nhức óc” lắm, vì Ngài muốn nhấn mạnh đến tính chất nhân lành cần thiết của Mục Tử, nghĩa là người đó phải thể hiện lòng thương xót và dám thí mạng vì đoàn chiên.
Trong cơn đại dịch Corona, nhiều linh mục đã xả thân nơi tuyến đầu để cứu giúp những người không may bị nhiễm bệnh dịch, mặc dù có thể nguy hiểm tới tính mạng của mình. Đó là tấm gương sáng của những người theo Thầy Chí Thánh Giêsu.
Đề cập lòng trắc ẩn, chắc hẳn không thể quên tấm gương sáng chói của Thánh tử đạo Maximilian Maria Kolbe, linh mục Dòng Phanxicô. Ngài sinh ngày 08-01-1894, tử đạo ngày 14-08-1941 tại trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã hồi thế chiến II. Ngài được mệnh danh là vị tử đạo bác ái, vì ngài đã chạnh lòng thương xót mà dám chết thay cho một tử tù còn vợ con. Ngài được Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên thánh ngày 10-10-1982, được tôn phong là bổn mạng của những người nghiện ma túy, các tù nhân chính trị, các gia đình, các ký giả, và phong trào bảo vệ sự sống. Thánh GH Gioan Phaolô II đã tôn ngài làm “Thánh Bổn Mạng của Thế Kỷ Khó Khăn Chúng Ta.” Thánh Maximilian đã nỗ lực thúc đẩy phong trào tận hiến và phó thác cho Đức Mẹ, do đó ngài được mệnh danh là Tông Đồ Tận Hiến cho Đức Mẹ. Chính cái chết của ngài là đỉnh điểm của sự sống hoàn toàn tận hiến cho Đức Mẹ, ngài được gọi là “Gã Khờ của Đức Mẹ,” vì ngài đã làm mọi thứ vì Đức Mẹ. Thật tuyệt vời!
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đích thực, Ngài yêu thương mọi người, và Ngài chỉ muốn mọi người “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm,” (1 Ga 3:18) nhất là những người được lãnh nhận tác vụ linh mục, họ cũng PHẢI là những mục tử nhân hậu, PHẢI biết phục vụ chứ không hưởng thụ. (Mt 20:28) Tuy nhiên, thời nào cũng vẫn thấy có những người thích dùng quyền và ra lệnh hơn là khiêm nhường phục vụ vì yêu thương. Con sâu làm rầu nồi canh. Có lần Đức Phanxicô đã cảnh báo các giám mục: “Mục tử có nguy cơ bị mê hoặc bởi viễn tượng nghề nghiệp, bởi cám dỗ về tiền bạc, và những thoả hiệp theo tinh thần thế gian.” Lần khác ngài còn nhấn mạnh rằng giám mục là người được chọn để PHỤC VỤ một Giáo Hội duy nhất, vì thế KHÔNG ĐƯỢC tìm kiếm một việc gì khác ngoài việc phục vụ Giáo Hội, và ngài đã nói thẳng: “Nếu tìm kiếm một việc gì khác thì chính giám mục đó đang ngoại tình.” Tấm gương mờ của “giám mục xa hoa” Franz Peter Tebartz van Elst (người Đức) còn đó, và rồi ông đã bị đình chỉ nhiệm vụ hồi tháng 10-2013. Chắc hẳn Mục Tử Giêsu buồn lắm!
Gương có nhiều loại – to hoặc nhỏ, sáng hoặc mờ. Một loại “gương lạ” là ĐGM Sebastianappan Singaroyan, 68 tuổi, GP Salem, bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Sau 19 năm thi hành sứ vụ giám mục, ngài từ chức giám mục để làm cha phó tại một họ đạo nghèo, và ngày 09-03-2020, ĐTC Phanxicô đã chấp nhận. Ngài là một người nổi tiếng là “giám mục của dân” qua cách sống thanh bần và gần gũi với mọi người.
Khi đề cập vấn đề “nhạy cảm” như vậy, có những người cảm thấy “nhột” (chính họ nhột hoặc nhột dùm), nhưng phải nhột như vậy mới có thể “qua cơn mê” mà kịp thức giấc. Chúng ta chỉ tâng bốc nhau bằng những lời khen sáo rỗng để lấy lòng nhau thì chẳng lợi ích gì, thay vì dìu nhau vào miền ánh sáng thì lại đưa nhau vào con đường mê lầm. Dám nhìn thẳng vào sự thật mới là người yêu sự thật, và nhờ đó mới có thể thành nhân. Sợ sự thật hoặc tránh sự thật là đồng lõa với sự giả dối, đừng biện hộ vì thế này hoặc thế nọ, và cũng đừng ảo tưởng “chiếc bánh vẽ” nào đó.
Thật chí lý với nhận định của đại nhân Tuân Tử: “Người chê ta mà chê đúng thì là thầy ta, người khen ta mà khen đúng thì là bạn ta, những kẻ nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy.” [Xin được “mở ngoặc” nhỏ: Câu nói này thường thấy người ta sai sót cho là của Khổng Tử.]
Tương tự, khi đọc Lời Chúa thì người ta chỉ thích đọc những câu “vừa ý mình,” tránh những câu “chói tai” càng nhiều càng tốt. Người ta nói rất mạnh khi gặp đoạn Kinh Thánh không “đụng chạm” tới mình, nhưng lại “bẻ lái” khi gặp đoạn Kinh Thánh “hóc búa,” vì có những câu “va chạm” mạnh quá, thế nên họ cảm thấy… “nhột” và rất ngại ngùng, cứ lùng bùng lỗ tai.
Chúa Giêsu luôn thẳng thắn, dù lời Ngài nói ra có thể “mất cả xảo long.” Nhưng không thể khác được. Cũng vậy đối với Kinh Thánh – Lời Chúa. Có lúc Lời Chúa làm cho chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc lại khiến chúng ta xấu hổ, đau lòng. Nhưng ai dám chịu nỗi đau đó thì mới khả dĩ “bừng cơn mê” mà sớm thành nhân và nên hoàn thiện. Chỉ có thuốc đắng mới khả dĩ chữa lành bệnh tật – cả bệnh của thân xác và tật của tâm hồn.
Mục Tử Giêsu xác định: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10:7-10) Mục Tử Nhân Lành là vậy, luôn sống và hành động vì người khác, vì đoàn chiên. Ai không là chủ chiên nhân hậu như Đức Giêsu Kitô thì chỉ là “thợ chiên” (chăn thuê) mà thôi. Đi qua Cửa đó sẽ phải chịu “đau nhức” lắm. Bức tượng càng đẹp thì càng chịu đục đẽo và chà xát nhiều.
Liên quan sự viên mãn, Thánh Phaolô có mơ ước và cũng là lời kêu gọi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.” (Ep 3:17-19) Trong lời kinh hòa bình, Thánh nghèo khó Phanxicô Assisi đã nguyện ước thực tế mà sâu sắc: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.” Và ngài tin chắc: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” Đó chính là sức sống mãnh liệt của những người thực sự tin Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai, Đấng nhập thể làm người, là Con Chiên hiến tế và đã từ cõi chết sống lại vinh quang.
Trong Việt ngữ, mẫu tự kép CH được phát âm là “chờ” – bắt đầu cả hai chữ Chủ Chiên. Ý nghĩa thật thâm thúy: CHỜ và CHO. Ai chờ và chờ ai? Chờ gì và cho gì? Và CH còn bắt đầu chữ CHẾT – Chịu Chết. Chúa Giêsu đã sống các mẫu tự kép CH như vậy.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin ban cho chúng con sự sống của Ngài, để chúng con đủ sức mạnh mà hành động vì chân lý đích thực, và mỗi người sống như một “Kitô khác” chứ không “khác Kitô.” Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
CÓ MỘT TƯƠNG QUAN THẬT LẠ LÙNG
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi giới thiệu một nhân vật quan trọng cho công chúng thì người ta sẽ nêu lên tước vị, vai trò hay học vị cao nhất của người đó để cho mọi người nể trọng, chẳng hạn: Đây là ngài tổng thống… Đây là giáo sư tiến sĩ… Đây là khoa học gia nổi tiếng…
Thế mà qua đoạn Tin mừng được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su tự giới thiệu Ngài bằng một danh hiệu thật lạ kỳ và đáng kinh ngạc. Ngài nói: “Tôi là cửa chuồng chiên!” (Ga 10,7).
Vì sao Chúa Giê-su lại tự giới thiệu mình với một vai trò quá đỗi tầm thường như thế?
Xưa kia, tại Do-thái, để canh giữ đoàn chiên ban đêm, người chăn chọn một bãi đất trống ngoài đồng rồi rào dậu chung quanh, chỉ chừa một lối hẹp cho chiên ra vào mà không có cửa. Ban đêm, sau khi đã lùa chiên vào ràn, người chăn nằm ngay lối ra vào chật hẹp đó thay cho cánh cửa. Thế là chiên bên trong không thể ra bên ngoài được vì đã có người chăn chặn lối, kẻ trộm bên ngoài cũng không vào trong ràn bắt chiên được vì người chăn đã chắn lối đi. Như thế, người chăn trở thành một “cánh cửa sống” bảo vệ an toàn cho đoàn chiên.
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su tự xưng mình là “cửa chuồng chiên” như thế đó.
Thân thế của Chúa Giê-su
Chúa Giê-su, Đấng xưng mình là người chăn chiên, là cửa chuồng chiên… lại có thân thế rất diệu kỳ.
Ngài chính là Ngôi Lời, tức là Thiên Chúa ngôi hai, đã hiện hữu từ lúc vũ trụ chưa được tác thành, như Tin mừng Gioan cho biết: “Từ khởi đầu đã có Ngôi Lời… Ngôi Lời là Thiên Chúa.”
Ngài cũng chính là Đấng tạo dựng nên vũ trụ càn khôn: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1, 1-3).
Thế mà, vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).
Ngài cư ngụ giữa chúng ta để làm gì?
– Để chia vui với người vui như Ngài đã tham dự tiệc cưới tại Ca-na và làm phép lạ đầu tay cho nước hóa nên nhiều rượu ngon cho mọi người vui hưởng;
– Để khóc với người khóc như Ngài đã khóc thương trước mồ La-da-rô khi thấy cô Maria nức nở khóc thương em mình đã chết;
– Để cảm thông với vô vàn đau đớn, khốn khổ của nhân loại, của những người bệnh hoạn tật nguyền… Vì thế, Ngài đã làm cho người mù được thấy, người què được đi, người câm được nói, người phong hủi được lành sạch…
Thế là Ngài đã tạo nên một tương quan rất đặc biệt, rất độc đáo với con người.
Tương quan đó thế nào?
– Ngài là Đấng Tạo hóa, đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ bao la vô biên vô tận, so với Ngài, con người chẳng là gì cả. Vậy mà Ngài vẫn trân trọng chúng ta, yêu quý chúng ta, quan tâm chăm sóc từng người chúng ta.
– Ngài là Chúa tể trời đất, là vua hoàn vũ cao sang phép tắc, quyền năng vô lượng, còn chúng ta chỉ là thần dân nhỏ bé; nhưng Ngài vẫn quý mến chúng ta, không xem chúng ta như người dân đen vô danh tiểu tốt.
Vậy thì tương quan giữa Ngài với chúng ta như thế nào?
Thưa, đó là tương quan bạn bè! Ngài trở nên bạn hữu của chúng ta, Ngài thân ái gọi chúng ta là bạn, như lời Ngài nói: “Thầy không gọi các con là tôi tớ… nhưng Thầy gọi các con là bạn hữu…” (Ga 15,15).
Và qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su xác lập thêm một tương quan mới giữa Ngài với chúng ta, đó là tương quan giữa người chăn và đoàn chiên. Như người chăn chiên tốt, Ngài thấu hiểu từng con chiên một, gọi đích danh từng con trong đoàn, Ngài đi trước dẫn chiên theo sau và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đoàn chiên.
Và đặc biệt hơn nữa, Ngài tự ví mình như cánh cửa chuồng chiên.
– Cánh cửa này đóng lại vào ban đêm để bảo vệ chiên khỏi tay trộm cướp, khỏi nanh vuốt của thú rừng;
– Cánh cửa này mở ra vào ban ngày để đưa chiên đến đồng cỏ xanh, đến nguồn suối mát… vì mục đích Ngài đến trần gian là “để cho chiên Ngài được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa hạ mình xuống thật thấp để nâng chúng con lên thật cao; Chúa chấp nhận làm người để nâng loài người lên hàng con Thiên Chúa; Chúa tự xóa mình đi, gác bỏ vinh quang, quyền lực qua một bên để hóa thân làm người phàm yếu đuối, để đồng cam cộng khổ với chúng con, để nên bạn bè thân thiết, chia vui sẻ buồn với chúng con và thậm chí còn trở thành cánh cửa chuồng chiên để che chắn, bảo vệ chúng con là đoàn chiên của Chúa.
Xin cho chúng con hiểu cho thấu tình thương sâu đậm Chúa dành cho chúng con và sống sao cho xứng với tình yêu đó.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Theo chu trình ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Chúa Nhật cầu cho Ơn Thiên Triệu.
Cv 2: 14, 36-41
Chúng ta tiếp tục đọc bài diễn từ thánh Phê-rô công bố cho đám đông đến Giê-ru-sa-lem mừng lễ Ngũ Tuần. Thánh nhân khuyên họ hoán cải và lãnh nhận phép Thánh Tẩy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Đó phải là con đường đi vào ràn chiên của Đức Giê-su Ki-tô.
1Pr 2: 20-25
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phê-rô, trong đó thánh nhân an ủi các tín hữu đang phải chịu đau khổ và cho họ biết rằng Đức Ki-tô là vị Mục Tử của họ.
Ga 10: 1-10
Dụ ngôn Đấng Chăn Chiên nhân lành được trích từ Tin Mừng Gioan và được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ. Đoạn Tin Mừng được trích dẫn hôm nay là phần đầu của dụ ngôn “Người Mục Tử nhân lành”.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 14a, 36-41)
Bản văn này là phần kết của bài diễn từ mà thánh Phê-rô công bố ở Giê-ru-sa-lem, vào đúng ngày lễ Ngũ Tuần, qua đó thánh nhân đang ngỏ lời với đám đông dân chúng đến mừng lễ.
Trong phần trước đó, thánh nhân công bố ý nghĩa cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su và ân ban dồi dào của Chúa Thánh Thần, Đấng nội tâm hóa sứ điệp của Đức Ki-tô và thúc đẩy các tín hữu dấn bước theo Đức Giê-su.
Trong phần kết này, khởi đi từ nhân tính của Đức Giê-su, thánh nhân công bố tước vị Đức Chúa và Đấng Ki-tô của Đức Giê-su: “Thưa toàn thể nhà Ít-ra-en, xin biết chắc cho điều này: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô”. Tước hiệu “Đức Chúa” (“kupios”) là tước hiệu mà bản Bảy Mươi dùng để dịch danh xưng của chính Thiên Chúa là “A-đô-nai”. Thánh Phê-rô ban cho Đức Giê-su tước hiệu này, như vậy thánh nhân không ngần ngại định vị Đức Giê-su vào trong lãnh vực thần linh. Vả lại, sách Công Vụ ban tước hiệu Đức Chúa lúc thì cho Thiên Chúa (Đức Chúa Cha), lúc thì cho Đức Giê-su (Đức Chúa Giê-su), để nhấn mạnh tính duy nhất của Cha và Con.
Lời công bố này đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn những người đang hiện diện khiến họ đi đến một quyết định cụ thể: “Thưa quý ông, vậy chúng tôi phải làm gì?”. Thế nên, thánh Phê-rô trả lời với một đòi hỏi kép: hoán cải tận căn: “Anh em hãy đoạn tuyệt với thế hệ gian tà này” và lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”. Đây là phương thức đầu tiên để trở thành người Ki-tô hữu.
Như thường gặp thấy trong Kinh Thánh, tên gọi của một người chính là con người mang tên ấy. Ai lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”, tức là tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giê-su Ki-tô, người ấy được sáp nhập vào con người của Đấng Phục Sinh, thuộc vào Đức Ki-tô, trở nên một với Ngài. Thánh Phê-rô nghĩ đến ý nghĩa phép Thánh Tẩy chứ không đến chính nghi thức. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Lu-ca không bao giờ dùng danh từ “phép rửa” để chỉ phép Thánh Tẩy Kitô giáo, bởi vì thuật ngữ này luôn luôn quy chiếu đến phép rửa của Gioan Tẩy Giả. Thánh Lu-ca dành riêng cho phép Thánh Tẩy Ki-tô giáo động từ “rửa”, thường nhất ở thể thụ động thần linh.
Có lẽ công thức Ba Ngôi “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” đã chưa được sử dụng cách phổ quát ngay. Công thức Ba Ngôi được thánh Mát-thêu trích dẫn (Mt 28: 19) rõ ràng được thánh Phao-lô nêu lên ở 1Cr 6: 11: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta”. Cuối thế kỷ thứ nhất, sách Đi-đa-khê hay “Giáo Huấn của nhóm Mười Hai” (sưu tập giáo lý và phụng vụ) chỉ biết công thức Ba Ngôi. Tuy nhiên, ở đây thánh Phê-rô kể ra liền ngay ân sủng Thánh Thần như thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Thế nên, Ba Ngôi hiện diện rồi.
Thánh nhân ngỏ lời trước tiên với người Do thái: “Vì đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em” (nghĩa là ân sủng Thánh Thần như lời hứa ban cho dân Ngài vào thời Mê-si-a), nhưng ngay liền sau đó, thánh nhân ngỏ lời với lương dân: “và tất cả những người ở chốn xa xăm”. Quả thật, cách nói này thường được dùng để chỉ lương dân đối lập với dân Chúa chọn, dân ở “gần” Thiên Chúa, như Is 57: 19: “Bình an cho những ai ở xa (lương dân) như cho những ai ở gần (dân Chúa chọn)”. Đang khi xuất thần ở trong Đền Thờ, thánh Phao-lô nghe tiếng Chúa bảo ông: “Hãy đi, vì Thầy đã sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22: 21).
Thánh Lu-ca kết thúc bài bài trình thuật này khi nhấn mạnh rằng Ki-tô giáo phát triển rất nhanh như thánh nhân thường làm: “Và hôm ấy đã có thêm được ba ngàn người theo đạo” .
BÀI ĐỌC II (1Pr 2: 20-25)
Phụng vụ hôm nay chọn đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô, vì câu cuối của đoạn trích này vang dội Tin Mừng hôm nay về Người Mục Tử nhân lành: “Vì trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về cùng Vị Mục Tử chăm sóc linh hồn anh em”.
Trong đoạn trích này, thánh Phê-rô đưa ra những lời khuyên cho những người Ki-tô hữu thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Những lời khuyên này cốt yếu được gửi đến cho “những tôi tớ”, “những gia nhân”. Bản văn phụng vụ dịch khá khái quát: “anh em”, vì những lời khuyên bảo này có giá trị đối với tất cả những ai đang chịu đau khổ.
Việc thánh Phê-rô chú ý đến những người bé mọn này chứng thực Ki-tô giáo được đón nhận rộng rãi ở giữa những thành phần xã hội bị ngược đãi nhất. Cũng như thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phê-rô không nhằm đặt lại tận căn những cơ cấu xã hội vào thời đại của ngài: thánh nhân chỉ nhắm đến việc biến đổi bên trong. Sống những giá trị Ki-tô giáo trong điều kiện mà người ta đang sống đó là cách thức biến đổi những mối tương quan giữa người với người. Một cách khái quát, thư nhắm đến ý nghĩa này: cách ăn nếp ở của những người Ki-tô hữu phải khiến cho lương dân suy nghĩ, soi sáng họ, khiến họ thay đổi cách hành xử của mình. Lúc đó, sức mạnh giải phóng của Đức Ki-tô thay đổi cơ cấu xã hội và biến toàn thể nhân loại thành một cộng đoàn huynh đệ và bình đẳng.
Để an ủi những người bé mọn này phải chịu nhiều đau khổ bất công, thánh Phê-rô nhắc nhở họ, hãy theo gương Đức Giê-su, hãy lấy Ân báo Oán. Thánh nhân không ngần ngại nói về ơn gọi của người Ki-tô hữu đó là chấp nhận đau khổ: “Anh em được Chúa gọi để sống như thế”, ám chỉ đến lời mời gọi của Đức Giê-su: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy vác lấy thập giá mình…”.
Đức Ki-tô đã không giải quyết những đau khổ, nhưng Ngài đã đảm nhận, đón nhận chúng vào nơi chính bản thân mình và biến đổi chúng bằng cách cho chúng một ý nghĩa. Để giải thích cuộc Tử Nạn mà Đức Giê-su phải chịu dựa trên sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị về Người Tôi Trung Đau Khổ, thánh Phê-rô trích dẫn khá tự do bài ca thứ ba (Is 50: 5-8) và bài ca thứ tư (Is 53: 4-7), và áp dụng vào Đức Ki-tô, Đấng “mang trong thân xác mình tội lỗi của chúng ta mà đưa lên thập giá…”.
Vì thế, câu cuối của đoạn văn này minh họa một chủ để quan trọng của bức thư: thành quả tinh thần của sự đau khổ mà người công chính phải chịu và mối phúc của những người bị bách hại. Những người Ki-tô hữu đang phải sống những gian nan thử thách, họ chắc chắn thuộc vào đoàn chiên của Vị Mục Tử chân thật, Ngài đang “chăn dắt họ”.
TIN MỪNG (Ga 10: 1-10)
Trong cả ba chu trình Năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành.” Dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành” được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ: năm A: Ga 10: 1-10, Ga 10: 11-18 vào năm B: Ga 10: 11-18, và năm C: Ga 10: 27-30.
Hình ảnh “người mục tử và đàn chiên” chạy xuyên suốt Kinh Thánh, từ Cựu Ước đến Tân Ước. Tự nguồn gốc, dân Ít-ra-en vốn là dân du mục. Vào thời Đức Giê-su, một thành phần vẫn còn sống nghề chăn chiên. Các tác giả thánh vịnh đã có chủ ý phóng chiếu trên Thiên Chúa của mình những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng, như Tv 23:
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.
Trên đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức tôi…”
hay Tv 78:
“Còn dân Chúa, Người dẫn đi như thể đàn cừu,
đem họ vào sa mạc chẳng khác bầy chiên,
đưa họ đi an toàn, chẳng có chi phải sợ…” (Tv 78: 51-52).
Các ngôn sứ đã phác họa Đấng Mê-si-a theo những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng này; nhất là ngôn sứ Ê-dê-ki-en mô tả một viễn cảnh thật táo bạo. Vị ngôn sứ, nhân danh Thiên Chúa, gay gắt lên án các vị lãnh đạo thời ông. Họ là những mục tử vô trách nhiệm, là quân trộm cướp, chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm đến đoàn chiên. Vì vậy, Thiên Chúa sẽ tước đi khỏi họ quyền chăn dắt đoàn chiên của Người. Chính Người sẽ đích thân chăm sóc chiên của Người. Cuối cùng, Người sẽ cho xuất hiện một vị Mục Tử Nhân Lành theo dung mạo vua Đa-vít, sống chết vì đàn chiên (Ed 34). Dụ ngôn của Đức Giê-su được đặt vào truyền thống của dụ ngôn Ê-dê-ki-en, vì thế, khi tuyên bố mình là Mục Tử Nhân Lành, Đức Giê-su đòi hỏi cho mình tước hiệu Mê-si-a.
Trong Tin Mừng Gioan, Diễn Từ: “Người Mục Tử đích thật” đặt liền ngay sau câu chuyện người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Những kiểu nói được lập đi lập lại: “Thật, tôi bảo thật các ông” loan báo sự phối hợp của hai câu chuyện này và chỉ cho thấy sự liên tục của tư tưởng và tuyến phát triển của lập luận. Mối liên kết này soi sáng những lời nói của Đức Giê-su. Qua những hình ảnh biểu tượng: người mục tử, ràn chiên, cửa chuồng chiên, Đức Giê-su muốn mặc khải cho chúng ta những khía cạnh mầu nhiệm của con người Ngài, vén mở cho chúng ta thoáng thấy những mối tâm giao mới giữa Thiên Chúa và con người mà Ngài đến thiết lập, và giúp chúng ta nắm bắt một cách sâu xa tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa.
Phần thứ nhất đặt sự tương phản giữa người mục tử và quân trộm cướp. Bức tranh này rất quen thuộc với miền Pa-lét-tinh. Ràn chiên là một thửa đất giữa đồng được rào chung quanh và có người canh giữ để chiên khỏi bị quân trộm cướp đến giết hại. Khi chiều xuống, những người mục tử gửi đàn chiên của mình vào chung một ràn chiên. Sáng sớm, người chăn chiên đến tìm đàn chiên của mình, anh chỉ cần lên tiếng gọi: chiên nào thuộc người chăn chiên thì nhận ra tiếng của anh và chạy đến với anh; chúng không theo người lạ.
Qua hình ảnh đó, Chúa Giê-su khẳng định mối tâm giao giữa người chăn chiên và đàn chiên: “Anh gọi tên từng con một”. Đối với Đức Giê-su, không có đám đông vô danh; Ngài nhận biết và yêu mến từng con chiên. Đáp lại, đàn chiên quen hơi bén tiếng với người chăn chiên của mình: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh”. Qua mối tâm giao hỗ tương này, Chúa Giê-su đối lập thái độ của Ngài với thái độ của nhóm Pha-ri-sêu: họ đã loại bỏ một cách tàn nhẫn anh mù được sáng mắt, như thế họ đã hành xử như mục tử gian ác. Trái lại, Đức Giê-su không chỉ tiếp đón anh, nhưng sau khi đã cho con mắt xác thịt của anh được thấy, Ngài còn dẫn dắt anh đến niềm tin, đã khai lòng mở trí cho anh đón nhận ánh sáng, vì Ngài là mục tử đích thật.
“Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu Người có ý nói gì”. Vì thế, Chúa Giê-su tiếp tục nói với họ khi giới thiệu Ngài là “cửa chuồng chiên”. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận ra nét tinh tế của bản văn ở đây. Đức Giê-su không nói: “Tôi là cửa chuồng chiên”, nhưng “Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Đây là một nét biệt phân quan trọng: Đức Giê-su không là cửa của một nơi chốn, nhưng Ngài là lối đi cho chiên ra vào, như vậy, Ngài khẳng định mình là Đấng trung gian duy nhất. Ngài là cửa duy nhất, qua đó chiên có thể vào nơi trú ẩn an toàn mỗi khi chiều xuống, để rồi khi bình minh đến, đàn chiên ra đi đến đồng cỏ xanh tươi: “Ai qua tôi mà vào, thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ được ra vào và tìm được lương thực nuôi mình”. Cuối cùng, khi phác họa chân dung người mục tử lý tưởng, Đức Giê-su mời gọi tất cả những ai tiếp tục sự nghiệp dẫn dắt dân Ngài hãy bước theo mẫu gương này. Vì thế, Chúa Nhật IV Phục Sinh này cũng được gọi “Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu”.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Trong thánh lễ an táng và cầu hồn, đáp ca được đọc hay hát thường là bài “Chúa là Mục tử” hoặc “Chúa chăn nuôi tôi”, trích từ Thánh vịnh 23. Lời ca sâu lắng, tha thiết và gợi hình, giúp cộng đoàn phụng vụ thêm lòng sốt sắng, giúp thân nhân gia đình người quá cố được ơn an ủi và niềm hy vọng. Thực ra, Thánh vịnh này không chỉ diễn tả việc Chúa dẫn đưa một người đã qua đời về vương quốc vĩnh cửu, mà còn diễn tả sự quan phòng yêu thương của Chúa đối với con người trong suốt cuộc đời. Ngài luôn chăm sóc chúng ta, ân cần chu đáo như một mục tử đối với đoàn chiên.
Trong xã hội du mục của người Do Thái thời xưa, hình ảnh người mục tử và đoàn chiên rất gần gũi đối với nền văn hóa và cuộc sống hằng ngày. Đi đâu ta cũng có thể gặp thấy đồng cỏ xanh, đoàn chiên thư thái ăn cỏ bên dòng suối mát lành dưới dự chăm sóc của các mục tử.
Trong Cựu ước, hình ảnh mục tử và đàn chiên đã được dùng để diễn tả mối quan tâm của Thiên Chúa đối với dân riêng của Ngài. Khi kêu cầu danh Chúa, người Do Thái đạo đức thân thưa với Chúa: “Lạy Mục tử nhà Ítraen, Ngài là Đấng chăn giữ nhà Giuse như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe! (Tv 79,2). Cũng như mục tử chăm sóc yêu thương đàn chiên, tác giả Thánh vịnh muốn xin Chúa chăm sóc, nhất là cứu vớt bảo vệ những ai đang bị chao đảo. Nếu đọc tiếp, chúng ta sẽ thấy tác giả diễn tả tình trạng gây hoang mang, khi nói về vườn nho là dân Ítraen: “Tường rào nó, vậy sao Ngài phá đổ? Khách qua đường mặc sức hái mà ăn! Heo rừng vào phá phách, dã thú gặm tan hoang”. trước bối cảnh đau thương đó, ông không thất vọng, trái lại phó thác và cầu xin với niềm xác tín: “Lạy Chúa…xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời, để chúng con được ơn cứu độ” (Tv 79,20).
Sau khi long trọng mừng lễ Phục Sinh, Phụng vụ mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu ở một khía cạnh đặc biệt: Người là Mục tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã dùng danh xưng này và Người đã thể hiện là một mục tử đặc biệt qua cái chết trên thập giá. Người đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Người đã thi hành đức yêu thương ở mức độ hoàn hảo nhất, vì : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, nhân loại được giao hòa với Chúa Cha. Những ai đón nhận giáo huấn của Chúa Giêsu và chuyên tâm thực hành, người ấy sẽ được kể như con chiên trong đàn chiên của Người. “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và sẽ gặp được đồng cỏ”. Đây vừa là một lời khẳng định vừa là một lời hứa. Những ai tin vào Chúa Giêsu và đi theo Người thì sẽ không bao giờ thất vọng, vì Người là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Trong bài giảng đầu tiên vào ngày lễ Ngũ tuần, Thánh Phêrô khẳng định Chúa Giêsu là Đấng Kitô và là Chúa. Người đã chịu đóng đinh trên thập giá. Người giống như mục tử, vì sự bình an và sự sống của đàn chiên, đã hy sinh mạng sống mình. Bài giảng hùng hồn đã khiến cử tọa khóc lóc đau đớn trong lòng, và đã có thêm ba ngàn người xin gia nhập Đạo Chúa trong ngày hôm ấy (Bài đọc I).
Các đức tính của vị mục tử được Thánh Phêrô tông đồ nêu rõ: trung thành, chân thật, phó thác cho Thiên Chúa Cha (Bài đọc II). Cũng như mọi con chiên phải nghe theo mục tử, mỗi tín hữu được mời gọi hãy bắt chước các nhân đức của Đấng đã hy sinh mạng sống vì hạnh phúc con người. Bài học lớn nhất mà chúng ta học được nơi cây thập giá, đó là sự hy sinh vì tha nhân, sống vì người khác, để đem hạnh phúc cho họ.
Vị mục tử đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên không phải chỉ là một nhân vật của lịch sử xa xưa, nhưng hôm nay Người đang sống. Người vẫn đang dẫn đưa chúng ta đến bến bờ của sự sống, đó là các bí tích và niềm vui của ân sủng. Giáo Hội là một đàn chiên, có Chúa Giêsu là mục tử. “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Chúa Giêsu khẳng định Người là hướng đi cho tất cả những ai muốn đạt tới hoàn thiện. Vào “cửa” có tên là Giêsu là học cùng Người để lĩnh hội giáo huấn Người chỉ dạy. Người cũng là một trường học dạy sự hiền lành và khiêm nhường. Ngôi trường này luôn mở rộng cửa để đón tiếp mọi người. Tại ngôi trường này, con người được gặp gỡ Chúa Cha và gặp gỡ anh chị em trong tình thương mến. Nhờ việc đón nhận và thực hành giáo huấn của Chúa, cuộc đời của chúng ta được biến đổi. Sự biến đổi này thật lạ lùng đến mức làm cho người môn đệ được trở nên như hiện thân của Thày Giêsu trong lời nói, suy nghĩ và việc làm.
“Hỡi bạn là Kitô hữu, hãy luôn tự hào vì danh xưng ấy” (Thánh Lêô cả Giáo Hoàng). Mỗi chúng ta hãy cảm thấy vinh dự và vui mừng vì được mang danh Chúa Giêsu, đồng thời hãy góp phần mình làm cho đàn chiên Giáo Hội luôn vững mạnh, tỏa sáng giữa lòng đời. Giữa một cuộc sống còn nhiều góc khuất do tội lỗi và hận thù gây, hãy làm cho Giáo Hội thực sự là Ánh Sáng Muôn Dân, rạng soi thế giới.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Cửa có hai công dụng. Để đóng vào và để mở ra. Có những cánh cửa như cửa tù ngục để giam kín phạm nhân. Có những cánh cửa giam hãm, bưng bít con người không cho thông giao với thế giới bên ngoài. Có những cánh cửa lò sát sinh nhốt thú vật để giết chết. Đó là những cánh cửa đóng kín chết chóc, huỷ hoại. Có những cánh cửa mở ra đón gió mát, đón khí trong lành, đón ánh sáng mặt trời tươi vui. Có những cánh cửa mở ra những chân trời xa tắp, khơi lên trong tâm hồn mơ ước cao xa. Có những cánh cửa mở ra đón nhận anh em trong tình huynh đệ thân mến. Đó là những cánh cửa mở ra sự sống.
Hôm nay, Chúa Kitô nói: “Ta là cửa chuồng chiên”, Người đã tự nhận mình là cánh cửa. Chúa Giêsu là cánh cửa không phải để đóng kín giam hãm đàn chiên. Nhưng là cánh cửa mở ra.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra những chân trời vô tận.
Thỉnh thoảng ta nghe có dư luân xôn xao về ngày tận thế. Tất nhiên đó là một tin đồn thất thiệt, nhảm nhí, đượm mầu sắc mê tín dị đoan. Nhưng tin đồn đó cũng nói lên một sự thực là: Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới hạn hẹp, sinh mạng con người là bèo bọt, kiếp sống con người là monh manh. Thật đáng buồn nếu con người chỉ có thế, bị kết án chung thân vào một thân xác mau tan rã, bị giam hãm trong một thế giới vật chất mau tàn tạ.
Chúa Giêsu Phục sinh đã phá vỡ vòng vây giam hãm đó. Khi tảng đá lấp cửa mộ lăn ra, Chúa Giêsu đã mở ra cho nhân loại một cánh cửa. Cánh cửa đó dẫn vào một không gian vô tận. Từ nay con người không còn bị kết án chung thân vào thân xác mau tan rã nữa, vì Chúa Giêsu phục sinh đã mặc lấy thân xác vinh hiển không bao giờ chết. Từ nay con người không còn bị giam hãm trong thế giới vật chất mau tàn tạ nữa, vì Chúa Giêsu Phục sinh đã mở lối ra thế giới thần linh, trong đó con người sống trong tự do, không còn bị ràng buộc trong không gian. Đó là một thế giới mới, thế giới vĩnh hằng, không bao giờ tàn tạ, thế giới vô biên chẳng có giới hạn.
Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã đẩy lùi ranh giới của thế giới vật chất đến vô hạn. Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã chắp cánh cho ước mơ của con người. Ước mơ ấy chẳng còn hạn hẹp trong những hạn chế của vòng vây thế giới, nhưng bay lên ngang tầm trăng sao để mơ những giấc mơ thần thánh. Khi mở cửa và thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã giải phóng con người khỏi cảnh ngộ nô lệ vật chất hư hèn, nâng con người lên cuộc sống tự do của con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra suối nguồn sự sống
Thật là vô lý nếu con người sống chỉ để chết. Thật là vô lý nếu chết là hết. Nếu định mệnh con người là như thế, thà không sống còn hơn. Mỗi khi vào bệnh viện, ta không khỏi suy nghĩ khi nhìn những bệnh nhân rên xiết, quằn quại đau đớn hoặc thấy những tấm thân gầy còm, những khuôn mặt hốc hác. Đó là cái chết đang sống hay là một sự sống đang chết? Đời sống như thế còn có ý nghĩa gì không?
Chúa Giêsu đã bước vào thế giới kẻ chết để chiến đấu chống lại thần chết. Người đã chiến thắng. Và khi Người mở cửa mộ bước ra, Người đã mở cánh cửa dẫn vào một cuộc sống mới. Cuộc sống mới là một cuộc sống trọn vẹn bởi vì không còn bóng dáng Thần chết. Cuộc sống mới là một cuộc sống sung mãn bởi vì chẳng còn vết tích của đau khổ, bệnh tật, đói khát. Cuộc sống mới là một cuộc sống siêu nhiên trong đó con người được nâng lên làm con Thiên Chúa, được tham dự vào chính sự sống của chúa. Cuộc sống mới là một cuộc sống hạnh phúc vì được kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong một tình yêu trọn hảo.
Như thế cuộc sống con người vẫn có một hướng đi lên, để được nâng cao, để được phong phú, để được hoàn hảo. Chính vì thế mà dù biết cuộc sống khổ đau, người ta vẫn vui mừng khi một em bé chào đời. Chính vì thế người ta vẫn ăn mừng sinh nhật, coi đó là ngày trọng đại trong đời người.
Chính Chúa Giêsu đã biến đổi thân phận con người. Con người sinh ra không phải để chết, nhưng để sống, sống sung mãn, sống trọn vẹn, sống vĩnh viễn trong suối nguồn sự sống.
Nhưng để mở ra cho ta những chân trời vô tận của con Thiên Chúa, chúa Giêsu đã chịu nhận lấy kiếp sống mong manh, phù du, bèo bọt của con người. Để mở ra cho suối nguồn sự sống, Người đã phải đón nhận cái chết đau đớn. Người chính là vị Mục tử chân chính đã thí mạng vì đàn chiên.
Chúa Giêsu quả thật là cánh cửa mở ra cho đàn chiên đi đến những chân trời xa rộng, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đi đến những dòng suối trong lành.
Chúa Giêsu quả là vị mục tử tốt lành luôn chăm sóc đoàn chiên, luôn nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực bổ dưỡng. Chúa Giêsu đã đến cho ta được sống và được sống dồi dào.
Đó là cánh cửa duy nhất dẫn đến sự sống, ta hãy theo sát gót Người. Đó là người mục tử duy nhất, ta hãy nghe tiếng Người. Hãy đến với Người để Người đưa ta đến những chân trời xa rộng. Hãy đến với Người để Người băng bó vết thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống. Hãy đến với Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Tôi có theo vào cửa Người hay tôi đã chọn nhầm cửa khác?
2) Chúa Giêsu là cánh cửa mở. Tôi có thường đóng cửa, ngăn không cho người khác vào?
3) Chúa Giêsu đã hiến mạng sống để mở cửa cho tôi. Tôi có sẵn sàng hi sinh để mở cửa thêm rộng không?
.
XIN CHÚA BAN NHIỀU TÔNG ĐỒ MỞ NƯỚC CHÚA
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Đức Chúa phán thế này: Này Ta chống lại các mục tử, Ta sẽ đòi lại chiên Ta nơi tay chúng ” (Ez 34, 10). Các mục tử đã làm gì để Thiên Chúa nổi giận và đòi lại chiên đây? Qua miệng ngôn sứ Ezêkiel, Thiên Chúa còn nói mạnh hơn nữa : “Ta sẽ không để chúng chăn chiên Ta nữa. Các mục tử sẽ không còn được chăn nuôi lấy mình chúng nữa. Ta sẽ giựt lấy chiên khỏi mõm chúng, khiến chiên Ta không còn là mồi ngon cho chúng ăn thịt nữa ” (Ez 34, 10). À thì ra, các mục tử chỉ để ý đến lợi ích của mình, không dám xả thân vì để cứu chiên, nay Chúa đòi lại chiên và Ngài tuyên bố : “Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng ” (Ez 34, 10). Thiên Chúa chăm nom chiên như thế nào? Ngài phán : ” Như người mục tử chăm nom đàn chiên của mình vào ngày nó ở giữa chiên phiêu bạt thế nào, cũng vậy Ta sẽ chăm nom chiên của Ta. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi nơi chúng tán loại, vào ngày mây mù đen tối. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân. Ta sẽ thâu họp chúng lại từ các xứ. Ta sẽ dẫn chúng về lại thửa đất của chúng. Và Ta sẽ chăn nuôi chúng trên núi Israel ” (Ez 34, 13-14).
Những “ngọn núi Israel ” theo các tác giả Thánh Kinh là nơi an nhàn, có suối nước trong lành, không có gì độc hại và nguy hiểm, nơi ấy có đồng cỏ non tốt tươi, màu mỡ (x. Ez 34, 13-15). Nếu ta muốn an toàn thoải mái, hãy đến đó tận hưởng. “Đức Chúa phán: Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức ” (Ez 34, 16). Những ngọn núi chúng ta vừa nói ở trên còn ám chỉ dòng suối chảy Tin Mừng được rao giảng từ các Tông Đồ cho đến tận cùng thế giới : ” Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển ” (Ps 18, 5).
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố : ” Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi : tôi có phải là chiên của Chúa không, nếu phải thì tôi có biết Chúa không, biết thì biết thế nào ? “Biết” ở đây, không có nghĩa là “biết” nhờ đức tin, nhưng là “biết” nhờ đức mến. “Biết” không có nghĩa là “biết” được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là “biết” được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác : “Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2, 4).
Chúa Giêsu còn nói về các con chiên : ” Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất ” (Ga 10, 27).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội gọi Chúa nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước, Người muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân mình để bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở về.
Vì thế, chủ đề ngày thế giới cầu cho ơn kêu gọi năm nay được Đức Thánh Cha đưa ra là : “Được Thần Khí Dẫn Dắt Cho Việc Truyền Giáo ” như một dấu nhấn đối với người rằng “không thể không có sự cổ võ cho ơn gọi hoặc sứ mạng Kitô Giáo tách ra khỏi đời sống cầu nguyện chiêm niệm liên lỉ”. Đức Thánh Cha nói : “Dấn thân cho việc truyền giáo không phải là một điều gì thêm vào đối với đời sống Kitô Giáo như một kiểu trang trí, mà thay vào đó là một yếu tố thiết yếu của chính niềm tin. Một mối quan hệ với Thiên Chúa”, và Ngài khích lệ mối quan hệ sâu sắc này với Chúa, ” trên hết vì sự khẩn xin từ trên cao những ơn gọi mới cho đời sống linh mục và đời thánh hiến “. Ngài nhắc lại rằng, ngang qua “Phép rửa, mọi Kitô Hữu là một ‘Christopher’, một người mang lấy Đức Kitô, cho anh chị em của mình”.
Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết rằng : “Ngày nay vẫn vậy, sống trong cộng đồng các môn đệ là Giáo Hội, Chúa Giêsu Kitô kêu gọi đi theo Người”. Ngài cũng đặc biệt mời giới trẻ “hãy trau dồi nét hấp dẫn các giá trị, các mục tiêu nâng cao, các chọn lựa triệt để, để có thể phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu”. Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại “Hãy đến! Hãy theo ta”. Theo Chúa Giêsu “có nghĩa là nhấn chìm ý muốn của chính mình vào thánh ý Chúa Giêsu, dành ưu tiên cho thánh ý Người và đặt Chúa Giêsu ở vị trí đầu so với tất cả những gì làm nên cuộc sống chúng ta : gia đình, công việc, những lợi ích ca nhân và bản thân”.
Xin cho giới trẻ hôm nay đang ở giữa biết bao những gợi ý nông cạn và phù phiếm, tạm thời, biết chuyên tâm trau dồi nét hấp dẫn đối với các giá trị, các mục tiêu cao thượng, những chọn lựa triệt để, hầu phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu. Đáp trả quảng đại và mau lẹ tiếng Chúa Kitô kêu gọi đi theo Người sát sao hơn nữa, đặc biệt với các thế hệ mới. Amen.
.
Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng
Bài phúc âm Chúa nhật hôm nay nói lên mối dây thân tình giữa người tín hữu với Chúa Giêsu, giữa mục tử và đoàn chiên. Một mối giao hảo tự do, không ép buộc, tạo nên do niềm tin tưởng và hiểu biết giữa mục tử và các con chiên. Đó cũng là hình ảnh giữa cuộc sống nội tâm, sự giao thân của người kitô hữu với Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu thường ví chúng ta là đoàn chiên của Ngài, và Ngài là Đấng chăn chiên.
Hôm nay, Ngài còn ví Ngài là cửa chuồng chiên. Nhờ cửa, các chiên của Ngài là chúng ta bước ra để tìm gặp ơn cứu rỗi. Đi qua cửa Chúa Giêsu có nghĩa là chúng ta phải tìm đến gặp gỡ Ngài. Có như thế, Ngài mới có thể gọi tên từng con chiên, và từng con chiên mới có thể nhận biết tiếng chủ chăn.
– Ngài là mục tử, Ngài đã đến để gọi các con chiên của Ngài. Và các chiên khi nghe gọi, nhận biết tiếng mục tử, liền theo ra, và một khi đã được gọi ra, tất cả các chiên theo mục tử.
– Chiên đặt hết tin tưởng vào mục tử, mục tử đi đâu thì chiên theo đó. Chiên sống bằng niềm tin cậy vô biên vào người chăn. Sự sống còn, cứu rỗi của chiên là niềm phó thác của chiên nơi mục tử.
– Trong chiều hướng đó, bài giảng về mục tử nhân từ hôm nay cho thấy rõ Chúa Giêsu là mcụ tử duy nhất của đoàn chiên là Giáo Hội. Chính Ngài đã gọi từng chiên nhập vào đoàn. Và chính Ngài giữ sự kết hợp giữa các chiên.
– Chúng ta cần phải thắt chặt mối thân tình của chúng ta với Chúa Giêsu. Chúng ta phải lắng nghe lời Ngài và cậy tin phó thác nơi Ngài. Chỉ có Ngài là chủ chiên và tất cả chúng ta là một đoàn chiên. Ngài mu6ón đoàn chiên của Ngài duy nhất là một.
– Ngoài ra, chúng ta còn phải tìm sống hợp nhất với anh em, và cùng anh em theo Chúa Giêsu, vị Mục Tử nhân hậu.
“Ai yêu mến Ta, thì sẽ giữ lời Ta, và Cha Ta sẽ yêu mến nó, và chúng Ta sẽ đến và cư ngụ trên người đó” (Ga 14, 23)
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử nhân hậu, xin giúp con luôn bước đi theo Chúa, và biết lắng nghe tiếng Chúa, nhất là biết thực thi lời Chúa dạy để đạt tới hạnh phúc bất diệt.
.
Bông Hồng Nhỏ
Cánh cửa vừa mở, những tia nắng theo đó ùa vào thích thú. Chàng thanh niên bước vào và gọi từng con chiên. Ban sáng, thời tiết thật mát mẻ. Mây trắng vắt ngang nền trời từng sợi mỏng manh. Từng chú chiên ngoan ngoãn đi ra khỏi ràn. Anh lấy bình nước đeo bên hông, tay cầm chắc cây gậy cũ kỹ. Đóng xong cánh cửa còn ướt sương, anh bước lên đi trước, cả đàn chiên túc tắc theo sau. Cả đàn chiên nghe tiếng của anh bởi tiếng nói rất quen thuộc ấy sẽ dẫn chúng tới đồng cỏ xanh rì và suối nước trong lành. Ở đó, chúng sẽ được thỏa thuê. Anh chăm sóc đàn chiên, từng con một. Ánh mắt tinh tường của anh phóng thật xa, trong tay vẫn cầm chắc cây gậy. Anh luôn trông chừng đàn sói kẻo chúng đến vồ chiên làm chiên tan tác. Nếu có sói đến, anh sẽ dùng cây gậy thô sơ ấy để xua đuổi chúng đi. Anh sẵn sàng xả thân để bảo vệ đàn chiên. Vì anh là mục tử. Chiều đến, khi đàn chiên đã về ràn đầy đủ và mạnh khỏe, anh đóng cửa ràn và nụ cười thoáng hiện trên môi. Vai áo anh còn ướt đẫm mồ hôi. Mùi mồ hôi hòa lẫn với mùi chiên, khó mà tách biệt được.
Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành gọi từng người môn đệ. Như những con chiên hiền lành, các môn đệ đi theo Thầy ngang dọc khắp miền, tới nhiều vùng đất, gặp gỡ nhiều người. Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành đi trước dẫn đường, các môn đệ theo sau đến nơi Người dẫn họ tới: vào Hội đường hay ngang dọc khắp miền Galilê, ghé thăm vùng đất Samari hay lên Giêrusalem. Theo Thầy, các ông thấy những việc tốt đẹp Thầy làm, từng lời giảng dạy đầy tình thương và uy quyền của Thầy. Các ông vui sướng khi danh Thầy được người đời tôn vinh. Được thơm lây, lòng các ông thỏa thuê. Ước mơ sắp đến ngày thành tựu.
Kìa sói đến vồ lấy chiên và làm chiên tan tác. Thầy Giêsu bị nộp, các môn đệ hoảng loạn chạy tan tác, chỉ có vài người đi theo Thầy xa xa. Vị mục tử Giêsu đã bị nộp vào tay phường tội lỗi và bị xử tử. Người không chỉ mang trên mình mùi chiên nhưng hơn thế, Người đã thí mạng mình vì đoàn chiên. Sói dữ làm chiên tan tác nhưng chính Người sẽ thâu tập lại. Người chính là Cửa sự sống. Ai qua Người thì sẽ được cứu.
Trong đám người hỗn loạn và đầy phẫn nộ, thấp thoáng bóng cây thập giá mà chính Thầy Giêsu đang vác lấy để lên đồi Canvê. Ngài đang dẫn đường để đưa họ tới một đồng cỏ xanh tươi và một nguồn suối mới. Chính trên ngọn đồi chết chóc ấy, Người sẽ hiến chính thân mình trở nên đồng cỏ xanh tươi và sẽ đổ máu mình ra thành dòng suối trong lành để ban cho các ông một sự sống mới. Đường thập giá là đường thương đau nhưng không phải là đường của sự chết. Chính Giêsu đã bước đi bằng con đường ấy và dùng tình yêu của mình để cứu độ nhân loại tội lỗi. Từ đây, nhân loại được nuôi dưỡng bởi một nguồn sống mới được kín múc từ Đấng Tình Yêu. Bởi Thầy đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Chính Mục tử Giêsu sẽ chăm sóc linh hồn của từng người con bé nhỏ. Đường Thầy đã đi qua, chính các môn đệ cũng sẽ đi tiếp.
Tâm hồn các ông đã sầu khổ khi chứng kiến cái chết tức tưởi của Thầy, buồn đau và thất vọng khi giấc mộng hão huyền chỉ tựa làn khói trắng bay lên từ đống tro tàn. Chẳng còn đâu ngày nào Thầy được tôn vinh, chẳng còn đâu những tháng ngày bên Thầy yêu dấu. Chúa Phục sinh mang đến cho các ông niềm vui ngập tràn. Từ cánh cửa đóng kín im ỉm vì sợ hãi, Ngài hiện diện giữa các ông và ban bình an, thổi Thần Khí đổi mới tâm hồn các ông. Từ đây, người ta sẽ thấy một Phêrô mạnh dạn rao giảng Tin Mừng Phục Sinh và luôn vui mừng khi được chịu đau khổ vì danh Thầy; một Gioan càng yêu Thầy mãnh liệt và thâm sâu hơn, một Anrê miệt mài trên từng chặng đường truyền giáo… Bởi các ông đều đi qua Cửa Sự Sống và tìm được đồng cỏ. Các ông được cứu khi đã kiên vững đi trên con đường Thầy đã đi qua. Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
Như những con chiên lạc được trở về với Mục Tử nhân lành, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi bằng một tình yêu rất riêng. Được sống trong mái nhà Hội Thánh, chúng ta được Người chăm sóc linh hồn, dưỡng nuôi bằng chính Thánh Thể – nguồn tình yêu bao la, được dạy dỗ và hướng dẫn bước đi trên con đường sự sống. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã luôn yêu và chọn gọi chúng ta dù chẳng ai trong chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn cao quý ấy. Người đã mang vào thân mình tội lỗi chúng ta để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Là những con chiên bé nhỏ và yếu đuối, chúng ta hãy lắng tai nghe tiếng gọi thân thương của Người, đi theo Người trên con đường Người dẫn chúng ta. Chỉ nơi Giêsu, chúng ta mới được thỏa no tâm hồn.
Lạy Chúa, Chúa biết rõ từng người chúng con dù cho chúng con chưa kịp thưa lên cùng Chúa điều chi. Chúa đã hiến mình vì yêu chúng con. Xin cho các linh mục của Chúa luôn thấm mùi chiên, có đôi tai tâm hồn thính nhạy trước tiếng Chúa, có con tim thật rộng lớn để dẫn dắt đoàn chiên trên đường về nhà Cha. Xin cho mỗi chúng con là những Kitô hữu luôn biết trở về với Mục Tử nhân lành là chính Chúa để được Người chăm sóc linh hồn chúng con. Amen.
.
Anna Cỏ may
Cuộc sống như dòng nước chảy. Mỗi chúng ta không tự đi tự chạy. Chúng ta cần người dẫn dắt. Bên cạnh chúng ta là cha mẹ, anh chị em và người có trách nhiệm sẽ dẫn ta đi. Nhưng, người âm thầm dẫn đi và bảo vệ chúng ta tốt nhất là Chúa Giêsu. Bài Tin Mừng của Thánh Gioan cho chúng ta biết Ngài dẫn dắt và bảo vệ chúng ta thế nào.
Chiên là loài hiền lành, mắt kém và chân yếu. Vì thế, thú dữ dễ dàng tấn công. Tuy vậy, nó lại biết lắng nghe. Chiên cũng là con vật mà xưa kia người Do Thái xem như một gia tài, một người bạn hay một thành viên gia đình. Chúng được ôm ấp và ngủ chung với người nhà như ngày nay chúng ta thường ôm thú cưng vậy. Vì thế, Chúa Giêsu đã lấy hình ảnh đàn chiên để nói lên tương quan của Ngài với chúng ta.
Ngài ví chúng ta như đàn chiên. Những con chiên yếu đuối dễ sa ngã. Chúng cần người bảo vệ yêu thương. Chúa Giêsu đã đặt mình vào vị trí cánh cửa ra vào cho đàn chiên. Ngài nói: “Tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào”( x. Ga 10,7). Một cánh cửa có chức năng đóng và mở. Cửa đóng lại khi đàn chiên vào chuồng nghỉ ngơi và mở ra khi chúng đi ăn. Ngài làm như vậy để được ở gần chúng, được gặp gỡ chúng mỗi ngày. Khi đàn chiên đi ăn, người trở thành người chăn chiên chăn dắt chúng ta. Ngài nói: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x Ga 10,9). Là người chăn chiên, Ngài sẽ đi đầu để bảo vệ và dẫn chúng đến những đồng cỏ tốt, những dòng nước mát. Khi đàn chiên gặp thú dữ, Ngài ra sức bảo vệ. Nếu con nào bị thương, Ngài băng bó và vác nó lên vai mà đi. Ngài cũng không để con nào bị lạc. Ngài khác những kẻ chăn chiên thuê. Những người chăn chiên thuê, họ làm vì cuộc sống mưu sinh, nên khi thú dữ hay kẻ ác tới họ liền bỏ chạy. Còn Chúa Giêsu thì lao mình ra để đánh lạc hướng thú dữ và chết thay cho đàn chiên. Ngài đã làm như vậy qua những lời giảng dạy, chịu những đòn roi và lời sỉ vả, đã chết và sống lại. Ngài trở thành người chăn chiên tốt lành của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Tôi chính là mục Tử nhân lành”. Người Mục Tử vẫn ở với chúng ta và chăn dắt chúng ta mỗi ngày. Ngài ẩn mình nơi các Giám mục, Linh mục và các tu sĩ.
Ngày hôm nay nền kinh tế phát triển, chúng ta dễ dàng bị cám dỗ bởi những sự nhẹ nhàng, những lời nói thách thức nhau và những cuộc chơi làm chúng ta không còn là con chiên hiền lành nữa. Chúng ta sẽ bị lô kéo, dễ bỏ đàn chiên và bị lạc lối. Chúng ta hãy tỉnh thức và tin tưởng vào Chúa, vị Mục Tử nhân lành.
Lạy Chúa, hôm nay là lễ Chúa Chiên Lành, chúng con xin Chúa ban ơn tiếp sức cho các Giám mục, Linh mục và các tu sĩ có một tấm lòng nhiệt thành và một tình yêu bao la để dẫn dắt đàn chiên là chúng con, để chúng con không bao giờ xa rời Chúa. Là đàn chiên, chúng con xin Chúa cho chúng con luôn luôn là con chiên ngoan, biết lắng nghe, được chữa lành, được vác trên vai. Nhờ đó, chúng con mãi thuộc trọn về Ngài trên con đường theo Ngài. Amen.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Trong Giáo Hội có rất nhiều vị mục tử thánh thiện và gương mẫu, đáng để chúng ta noi theo. Nhưng, mẫu gương tuyệt hảo nhất chính là Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành khả kính, Đấng mà Giáo hội hôm nay mời gọi chúng ta quy hướng về. Giáo hội dành riêng ngày Chúa nhật tuần 4 mùa Phục sinh với các bài đọc Lời Chúa để chúng ta học hỏi nơi Đức Giêsu, nguyên mẫu mục tử cho tất cả mọi người.
Tình yêu mục tử nơi Chúa Giêsu được hiển thị rõ nét qua ba chiều kích : Vị mục tử biết chiên của mình, vị mục tử lặn lội đi kiếm tìm con chiên lạc, và vị mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.
Mục tử nhân lành ‘biết’ các chiên của mình
Trong Tin mừng Gioan chương 10, Chúa Giêsu đã nói về đặc nét căn bản này. Trước hết, vị Mục tử nhân lành biết rõ các con chiên trong đàn mình :“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Đây không phải là cái biết của tri thức, nhưng đó là thái độ biết chiên được biểu tỏ bằng sự hiệp thông sâu xa. Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nói về việc Ngài biết Chúa Cha và thi hành những công việc được Chúa Cha trao phó (Ga7,29; Ga 8,19; Ga 9,55,…). Cũng tương tự như thế, Ngài mời gọi các học trò của mình bắt chước Ngài, hãy ‘biết’ các con chiên, giống như Ngài. Chúa là vị Mục tử nhân lành luôn luôn biết các con chiên thuộc đàn của mình.
Để diễn bày thái độ ‘biết’ chiên, Đức Giêsu đã đi vào trần gian, chia thân sẻ phận với chúng ta. Ngài vui với người vui, khóc với người khóc. Ngài đi dự tiệc cưới tại Cana để chung chia niềm vui với đôi uyên ương trẻ. Ngài thổn thức trước cái chết của đứa con trai bà góa thành Naim. Chúa cũng rơi lệ khi đứng trước ngôi mộ của Lazarô, người bạn nghĩa thiết. Đức Giêsu là Thiên Chúa rất Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là một con người rất con người, gần gũi với cuộc sống đời thường, sống giống hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Trong một bài giảng mùa chay, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khuyến mời các vị mục tử đừng bao giờ ‘mỏi mệt’ để biết các con chiên của mình và người Mục tử phải có ‘mùi chiên’. Cụ thể, Đức Thánh Cha vẫn hay đến thăm các nhà tù, đã từng cúi xuống rửa chân cho các thiếu niên phạm pháp, đã ngồi ăn uống với những người vô gia cư… Điều Đức Thánh Cha thực hiện, không phải là một học thuyết mới lạ mang tính cách mạng, nhưng Ngài chỉ muốn sao chép lại cách sống của Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành luôn biết các con chiên của mình, và mang nơi mình ‘mùi’ của từng con chiên.
Mục tử nhân lành đi kiếm tìm con chiên bị lạc
Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Ba dụ ngôn mà Thánh Luca viết lại trong chương 15 diễn bày chân dung cứu thế và lòng thương xót của một vị mục tử đích thực. Đó là dụ ngôn kể về người đàn bà đi tiềm kiếm đồng bạc bị mất, dụ ngôn người chăn chiên lặn lội tìm kiếm con chiên đi lạc, và nhất là dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về trong sự vui mừng tột độ của người Cha. Chúa đã chọn cái chết bi thương trên Thập giá để diễn bày lòng thương xót và sự tha thứ vô điều kiện đối với các tội nhân. Phán quyết của Đức Giêsu, một vị quan tòa đầy lòng thương xót khi Ngài nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình, cũng là phán quyết Chúa ngỏ trao tới từng người chúng ta, là những tội nhân đáng phải chết : “Tôi không kết án chị đâu. Hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Trong một bài giảng tại Missouri bên Hoa kỳ, Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã dí dỏm nói rằng Đức Giêsu là một học sinh rất dốt toán. Ngài coi con số 1 lớn hơn con số 10. Ngài cũng là một kinh tế gia khá tồi, vì dám liều bỏ lại 99 con chiên khỏe mạnh để lặn lội đi tìm kiếm một con què quặt đang đi lạc. Ngài cũng là một kẻ đãng trí và hay quên. Ngài không nhớ cô gái đang ngồi khóc bên chân Ngài là một cô gái điếm khét tiếng, cũng quên mất tên tử tù bị đóng đinh bên cạnh Ngài là một tay gian phi nguy hiểm với một quá khứ đặc kín tội ác… Bởi vì, Chúa Giêsu luôn mãi là một Mục tử nhân lành, và Ngài mắc phải một căn bệnh kinh niên, đó là bệnh dễ quên. Căn bệnh lú lẫn và hay quên của Chúa thật đáng yêu biết bao.
Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên
Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến để chúng được sống và sống dồi dào.” Thánh giáo phụ Irênê cũng đã viết : “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”. Để chúng ta được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết khủng khiếp giống hệt một tên tử tội đốn mạt nhất. Ngài đã nói: “Cha tôi đã làm việc, và tôi cũng luôn làm việc”. Công việc của Ngài là hy sinh mạng sống để đem lại sự sống cho con người, phục hồi cho ta phẩm giá cao quý được làm con Thiên Chúa. Thánh Phanxicô Salê đã nói: “Điều linh thánh nhất trong tất cả mọi điều linh thánh là làm việc cho thiện ích các linh hồn (Divinissimum divinorum est opere ad lucrum animorum)”. Điều linh thánh ấy, Đức Giêsu đã thực hiện trong 3 năm rao giảng và cao điểm cuối cùng là Ngài chấp nhận cái chết oan ức trên Thập giá để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Ngài trở nên nguyên mẫu cho tất cả chúng ta, vì Ngài là Mục tử toàn hảo, đã hy sinh ngay cả mạng sống cho đoàn chiên.
Kết luận
Một linh mục trẻ đã chia sẻ tâm sự của mình trên blog như sau: “Tôi có một người bạn và cũng là một người anh rất thân thương. Ngài là một linh mục, lớn tuổi hơn tôi, và hình ảnh của vị linh mục đó luôn in đậm dấu ấn trong cuộc đời tôi. Ngài được bề trên sai về coi sóc một giáo xứ mới thành lập, và Ngài cũng là Cha xứ đầu tiên của giáo xứ đó. Giáo dân rất quý mến Ngài, vì Ngài hiền lành, luôn sống yêu thương chan hòa với mọi người. Ngài đặc biệt quan tâm tới những người nghèo, những người bệnh tật, những cụ già đơn chiếc và đặc biệt Ngài quý mến các trẻ em. Nhưng có một số vị trong ban hành giáo lại không thích Ngài. Lúc đầu họ ngấm ngầm chống đối, rồi dần dần ra mặt phản kháng công khai. Có điều kỳ lạ, là giáo dân trong giáo xứ cho dầu kính phục Cha xứ, nhưng đã bị ban trùm lôi kéo và dần dần quay lại chống đối Ngài. Một kết cục rất đau buồn đã xảy ra, là đến một ngày đã sắp xếp, cả xứ kéo vào nhà xứ và dã tâm đập chết Cha xứ mà trước đây họ rất nể phục. Người ta báo cho chính quyền, chính quyền cũng làm ngơ và ra vẻ như đồng thuận. Bà cố của Cha khi nghe tin, đã rất đau khổ, tâm hồn tan nát như chết đứng. Tuy nhiên, bà cố không bao giờ than trách và chẳng tỏ dấu buồn bực hay trách cứ một ai. Dần dần, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Từ khắp nơi, người ta kéo đến giáo xứ để tưởng nhớ đến Ngài và cầu nguyện trước di ảnh của Ngài như một vị Thánh.
Người ta mới thắc mắc và hỏi: “Thế, Cha xứ đó tên là gì, và ở đâu ? Chúng tôi cũng muốn đến kính viếng và học hỏi nơi cuộc sống của Ngài”. Vị linh mục trẻ kia mới trả lời: “Ngài ở rất gần đây và cũng chẳng xa xôi gì. Tên Ngài quen thuộc lắm. Vị Cha xứ đáng kính đó tên là Giêsu”.
Giêsu chính là vị Mục tử khả ái, người Mục tử nhân lành. Ngài đã trở nên khuôn mẫu tuyệt hảo nhất cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay, nhất là cho các anh em linh mục.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_A
Lm. Giuse Mguyễn Văn Nam
Hôm nay Chúa nhật Chúa Chiên Lành, ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu sĩ. Bài Tin mừng thánh Gioan giới thiệu cho chúng ta Đức Giêsu là vị mục tử nhân lành và là Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại, Ngài yêu thương đàn chiên, sống chết cho đàn chiên, hy sinh tất cả cho đàn chiên để đàn chiên được sống: “Tôi là mục tử nhân lành. Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào… Tôi là cửa chuồng chiên…” (Ga 10, 8-10).
Thời xưa, dân Do Thái là dân du mục, đa số sống bằng nghề chăn chiên, hình ảnh người mục tử và đàn chiên rất thân quen với người Do Thái và là chủ đề lớn trong Thánh kinh.
Người mục tử nhân lành chính là Thiên Chúa. Đàn chiên là dân Irael. Trong tân ước, Đức Giêsu tự khẳng định mình là mục tử nhân lành và tất cả mọi người trong Giáo hội đều là những con chiên của Chúa. Theo truyền thống của đạo Công giáo, người tín hữu được gọi là con chiên.
Theo William Barclay, vào thời Chúa Giêsu, có hai loại chuồng chiên. Trong các làng xã thường có một chuồng chiên công cộng, nơi tập trung tất cả các bầy chiên lại khi những người chăn chiên trở về nhà vào lúc ban đêm. Những con chiên này được bảo vệ bằng một cửa vững chắc mà chỉ có người chăn giữ đàn chiên mới có chì khoá để mở. Đức Giêsu nói: “Ai qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cửa cho anh ta vào”(Ga 10, 2).
Loại chuông chiên thứ hai, khi đàn chiên đi ăn cỏ ở xa trên cánh đồng, hoặc đồi cỏ vào mùa ấm áp, đàn chiên không trở về làng vào ban đêm, thì các con chiên được quy tụ trong một chuồng chiên ở ngoài cánh đồng hay ngọn đồi. Chuồng chiên ở ngoài trời này là một bức tường đá vây chung quanh, có một lối ra vào và không có cửa. Ban đêm, ngoài mục tử nằm chắn ngang lối ra vào, không có con chiên nào ra chuồng, hoặc con thú nào vào chuồng mà không bước qua người mục tử. Nói một cách khác, Người Mục Tử là cửa chuồng chiên. Vì thế, Chúa Giêsu mới nói: “Tôi là cửa chiên ra vào” (Ga 10, 7-10). Khi Đức Giêsu nhận mình là cửa chuồng chiên, thì Ngài muốn nói Ngài là Đấng Cứu độ duy nhất của nhân loại hôm qua, hôm nay và mãi mãi và Ngài cũng là vị Mục Tử nhân từ. Đó là nội dung chính của bài Tin mừng hôm nay.
1. Đức Giêsu là mục tử nhân lành. Hình ảnh người mục tử tốt lành gợi cho chúng ta Thiên Chúa yêu thương con người, luôn hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh cuộc sống lúc vui buồn, khi đau yếu lúc mạnh khoẻ, gắn bó thân thiết với đàn chiên “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28, 20). Thánh vịnh 23 chúng ta đọc ở phần đáp ca nói là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với đàn chiên “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”.
– Người mục tử nhân lành biết rõ từng con chiên: “Ta biết chiên của Ta, và chiên của Ta biết Ta” (Ga 10, 14). Biết theo nghĩa Thánh kinh không chỉ biết tên, gọi tên từng con chiên, mà còn hiểu biết tâm tư, nguyện vọng, những nhu cầu của con chiên để đáp ứng, phục vụ đàn chiên thật tốt. Sự hiểu biết tương quan tình thương thân mật và chân thành “Người mục tử tất cả vì đàn chiên”.
– Người mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đàn chiên, sẵn sàng đương đầu với sói dữ, với kẻ trộm kẻ cướp để bảo vệ đàn chiên, vì mỗi con chiên đều quý giá vô cùng. Ngài bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, Ngài sẵn sàng: “hy sinh mạng sống cho đàn chiên” (Ga 10,11). Đức Giêsu đã chết và phục sinh để đem ơn cứu độ cho tất cả nhân loại.
Người tín hữu được gọi là con chiên của Chúa. Người con chiên ngoan hiền phải hội đủ điều kiện sau đây:
– Biết chủ chiên của mình là Đức Giêsu Kitô, yêu mến Người, tôn thờ Người và nhìn nhận Đức Giêsu Kitô là Vị lãnh đạo tối cao của mình.
– Biết lắng nghe tiếng chủ chăn, nghĩa là biết lắng nghe và thực hành lời Chúa, để cho lời Chúa thấm sâu vào tâm hồn, quyết tâm sống theo luật Chúa trong mọi hoàn cảnh thường ngày, luôn biết thưa có với Chúa và nois không với sự xấu.
– Đi theo và bước theo Chúa Giêsu Kitô phục sinh để tiến về cuộc sống vĩnh cửu qua cuộc sống chứng nhân: yêu thương và phục vụ mọi người, noi gương Đức Giêsu Kitô.
– Người Kitô có bổn phận học hỏi, lắng nghe, tuân giữ lời Chúa. Đó là bổn phận thiêng liêng vô cùng quan trọng, vì nghe và thực hành lời Chúa bảo đảm cho ta ơn cứu độ.
.
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta được hỏi hay chính mình đặt ra cho mình câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?”. Đây có thể là câu hỏi quan trọng nhất trong cuộc đời của con người nói chung và của những người tin Đức Giêsu nói riêng. Tuy nhiên, câu hỏi đó hôm nay chúng ta được chính Đức Giêsu mặc khải khi nói: “Ta là cửa chuồng chiên”.
Tại sao lại là “cửa chuồng chiên?”
Trước khi nói đến “cửa chuồng chiên”, chúng ta nên nhắc lại hình ảnh người mục tử chăn chiên nơi đất nước Dothái:
Ở đất nước này, người ta thường hay có những đàn gia súc như chiên hoặc cừu. Mỗi đàn như thế thường có người chăn dắt. Bổn phận của các mục tử chăn chiên chính là lo sao tìm được cho chúng những đồng cỏ xanh tươi, những dòng suối mát trong lành. Bảo vệ chúng khỏi bị tấn công bởi những sói dữ, hùm beo… Khi chăm lo cho chúng như thế, người mục tử phải biết rõ từng con: con nào đau ốm; ghẻ lở; con nào đi hoang, lạc đàn… Biết để làm gì? Thưa để yêu thương, để chăm sóc… để có tương quan thân tình.
Khi đêm về, người mục tử có trách nhiệm dẫn chiên về dàn và cho chúng vào chuồng. Lúc này, họ lại được ví như “cửa chuồng chiên”.
Hình ảnh “cửa chuồng chiên” là một hình ảnh được dùng để biểu đạt cho sự an toàn.
Thật vậy, khi nói đến cửa thì ai cũng hiểu là để đóng vào hoặc mở ra. Khi đóng vào thì như một sự bảo vệ để khỏi bị kẻ thù tấn công và trộm cắp. Đóng vào để tránh sương gió lùa vào. Đóng vào thì mọi người an tâm ngon giấc.
Còn khi cánh cửa mở ra, thì như chào đón một luồng gió mới vào nhà, làm cho nhà khỏi bị ẩm mốc, hôi hám. Mở ra là để cho mọi người và súc vật trong nhà được tự do ra vào, lui tới…
Khi tự cho mình là Mục Tử và Cửa Chuồng Chiên, Đức Giêsu muốn sống những đặc tính của người mục tử và vai trò của cửa chuồng chiên trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Mặt khác, Ngài cũng muốn giới thiệu và trao cho các Tông đồ và môn đệ những đặc tính của người mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên trong Giáo Hội.
Thật vậy, Đức Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành, Ngài đã biết rõ từng con chiên, Ngài đã yêu thương chúng và làm cho chúng được hạnh phúc. Ngài đã chữa lành mọi vết thương thân xác và tâm hồn để cho chiên được bình an, và Ngài đã hy sinh cả mạng sống để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Khi mời gọi các Tông đồ, môn đệ và những ai dấn thân trên con đường loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu cũng mời gọi họ hãy đi trên con đường mà Ngài đã đi. Con đường đó là gì, nếu không phải là con đường của hiền lành, khiêm nhường, vâng lời và yêu thương. Con đường đó chính là con đường của hạt lúa mục nát, con đường của thánh giá…?
Trở nên như Ngài, tức là cũng phải trở nên như những cánh cửa của chuồng chiên. Như vậy, các ngài như là người lính canh chừng. Canh chừng cho khỏi kẻ thù tấn công là những thứ học thuyết vô bổ, tạm thời, chóng qua vô ích. Canh chừng để đàn chiên không bị kẻ thù gian dối, lọc lừa và tội lỗi lôi kéo. Canh chừng như một người cha, người mẹ canh giấc ngủ của con mình. Nếu cần, hình ảnh người Mục Tử hi sinh cả mạng sống của mình cho đoàn chiên cũng là lời mời gọi cho các mục tử ngày nay trong Giáo Hội.
Khi nói đến ngày thế giới cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu, nhiều người nghĩ đây là ngày dành riêng cho các linh mục và tu sĩ. Nghĩ như vậy không sai. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì hôm nay cũng là ngày của mỗi chúng ta, những người đã lãnh nhận Phép Rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi để thi hành chức năng Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Đức Giêsu Kitô.
Vì thế, khi kết hợp với Đức Giêsu là vị Mục Tử tối cao, mỗi người đều có thể và như một trách nhiệm phải là mục tử cho mình và gia đình mình.
Mục tử cho mình và gia đình, tức là hãy tự lo cho chính mình. Lo cho chính mình là biết làm điều lành, tránh điều ác. Biết trở nên gương sáng, chứng nhân cho người khác. Những bậc làm cha mẹ khi thi hành sứ vụ mục tử này chính là sống sự chung thủy với nhau, trở thành những người mẫu mực, khôn ngoan, Luôn làm gương sáng, yêu thương các con mình. Biết lo cho các con mình được học hành, trau dồi đạo đức cho chúng, dạy cho chúng biết mến Chúa và yêu người… Biết cảnh giác và canh trừng trước những nguy hại của thời buổi kinh tế thị trường, công nghệ thông tin… Biết giáo dục con cái hướng thiện, làm ăn chân chính…
Với những người làm con, chúng ta nghĩ ngay đến bổn phận trước tiên phải có chính là sự hiếu kính với ông bà, cha mẹ, tổ tiên… biết làm những gì có lợi cho đời sống thiêng liêng trước rồi mới nghĩ đến các lợi vật chất sau.
Nói chung, mọi thành phần trong gia đình phải lo chu toàn bổn phận cách tốt đẹp trong sự yêu mến Chúa, kính trọng và yêu thương nhau, để xây dựng tình đoàn kết, hiệp nhất trong gia đình.
Làm được như thế, ấy là lúc chúng ta thể hiện vai trò mục tử phổ quát của mình cách rõ nét nhất.
Mong thay, trong năm “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình”, mỗi người hãy trở nên mục tử của chính mình, gia đình và tha nhân… Lấy nền tảng Lời Chúa để hướng dẫn hành vi của chúng ta. Lấy tình thương làm căn cốt. Lấy tình huynh đệ làm động lực…
Hôm nay, Giáo Hội cũng dành riêng Chúa Nhật này để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu; đồng thời Giáo Hội cũng muốn mọi thành phần trong Giáo Hội biết liên đới với nhau để cùng giúp nhau chu toàn sứ mạng đem Chúa đến cho muôn dân.
Vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các bạn trẻ, biết quảng đại đáp lại lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa, sẵn sàng dấn thân trên con đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Xin cũng cầu nguyện cho các linh mục đang làm mục vụ khắp nơi trên thế giới, được trở nên mục tử đích thực của Chúa giữa trần gian. Gặp được nhiều điều thuận lợi trong khi thi hành sứ vụ. Xin cũng nhớ đến các linh mục đang gặp khó khăn trên hành trình ơn gọi cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Và mỗi người chúng ta cũng hãy đóng góp phần mình vào trong việc vun trồng ơn gọi bằng cách khuyến khích con em mình tiến bước trên hành trình dâng hiến; sẵn sàng hy sinh dâng con cho Chúa, đồng thời quảng đại giúp đỡ các Chủng Viện, Dòng Tu trong khả năng của mình, để góp phần vào việc đào tạo ơn gọi linh mục, tu sĩ cho Chúa và cho Giáo Hội.
Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con những mục tử là các linh mục. Xin Chúa tiếp tục thánh hóa các ngài, để các ngài trở nên những mục tử như lòng Chúa ước mong. Xin Chúa cũng đón nhận sự chân thành, cộng tác của mỗi người chúng con trong việc bảo vệ, cổ võ và vun trồng ơn Thiên Triệu. Amen.
.
JM. Lam Thy
Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/TN-A – Ga 10, 1-10) trình thuật về dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành”. Ngay ở câu mở đầu, Thánh Gio-an ghi lại Lời Đức Giê-su nói với cộng đồng người Do-thái: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử.” Nếu bình thường nghe nói tới cái cửa chuồng chiên, bất kỳ ai cũng chỉ nghĩ đó là một công cụ bảo vệ đàn chiên. Cửa chỉ mở ra khi muốn cho đàn chiên đi ăn cỏ ngoài đồng, nó sẽ được đóng lại khi chiên đã vào hết trong chuồng. Như vậy, khi suy niệm bài Tin Mừng, đa số hay chú ý đến vai trò chủ nhân của đàn chiên, đó là Đức Giê-su Ki-tô, vị Mục Tử Nhân Lành. Đức Ki-tô đã dùng dụ ngôn nói về ràn chiên và nhấn mạnh đến vai trò người chủ. Người chủ đích thực sẽ vào ràn chiên bằng cửa chính và chiên sẽ nghe lời ông chủ, bởi ông biết tên từng con chiên và chúng nhận biết tiếng của ông. Ngoài ra, những kẻ không theo cửa chính mà vào, lại trèo lối khác, thì đó chỉ có thể là kẻ trộm, kẻ cướp.
Nghe dụ ngôn này, đáng lẽ những người Do-thái phải hiểu rằng Đức Ki-tô muốn nói đến những kẻ tin theo Người giống như đàn chiên ngoan hiền và Người chính là Mục tử chăn dắt đàn chiên đó. Tiếc một điều là họ chẳng hiểu, khiến Đức Ki-tô phải nói rõ hơn: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 7-10). Cũng vì thấy Đức Ki-tô khi thì nói đến người chủ của đàn chiên, bây giờ lại tự nhận mình là cửa ràn chiên, khiến cho bộ mặt của đám đông càng thêm ngơ ngác. Điều đó cho thấy họ vẫn chưa hiểu Người nói gì; nên cuối cùng, Đức Ki-tô phải nhấn mạnh: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 11).
Đức Ki-tô cho biết Người là vị Mục tử nhân lành thì điều đó là hiển nhiên, nhưng tại sao Người lại nói Người là cửa chuồng chiên? Chuồng chiên có cửa là để đón nhận và bảo vệ đàn chiên. Khi chiên đã vào hết trong ràn, thì cửa được đóng chặt để tránh sói dữ. Tránh được sói dữ nhưng khó tránh được con người nếu con người đó là kẻ trộm kẻ cướp, vì chúng sẽ đào tường khoét vách mà vào. Suy nghĩ sâu hơn một chút sẽ thấy khi Đức Ki-tô tự nhận Người là cửa chuồng chiên, thì cũng có nghĩa là Người kêu mời tất cả mọi người hãy đến cùng Người với một niềm tin và một tấm lòng trung thực công chính. Nói rõ hơn, khi đã qua cửa Giê-su mà vào thì chỉ có thể là những con chiên ngoan hiền biết nghe lời chủ. Cũng có thể có sói dữ lẫn lộn trong đoàn chiên (giống như cỏ lùng trong ruộng lúa), nhưng tất nhiên chúng không vào bằng cửa chính – cửa Giê-su Ki-tô – mà là trèo vào bằng cửa khác, đó chỉ có thể là kẻ trộm kẻ cướp mà thôi. Rõ ràng Đức Ki-tô vừa là xuất phát điểm, vừa là đích điểm cho hành trình của người Ki-tô hữu. Người là cửa để đón nhận và bảo vệ đoàn chiên, đồng thời Người cũng là vị Mục tử nhân lành chăn dắt đoàn chiên đó (“Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” – Ga 10, 9-10).
Đức Giê-su Ki-tô mời gọi tất cả mọi con chiên, không phân biệt chiên “nội” hay chiên “ngoại” như kiểu phân biệt của những kinh sư Do-thái thời đó (“Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.” – Ga 10, 16). Điều làm cho những con chiên Ki-tô hữu vui mừng hãnh diện nhất, là được chính Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật mời gọi hãy qua chính cửa Giê-su mà vào làm chiên con trong ràn chiên của Thiên Chúa. Còn đáng vui mừng hãnh diện hơn thế nữa khi được thấy không chỉ những tín hữu là con chiên của Thiên Chúa, mà chính vị Mục tử nhân lành chăn dắt mình cũng là một con chiên – Chiên Thiên Chúa – được sát tế để cứu chuộc tội lỗi cho đoàn chiên nhân thế (“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” – Ga 1, 29). Như vậy, Thiên Chúa đã thương yêu con cái của mình, coi chúng như đoàn chiên ngoan ngoãn dễ thương, nên mới ban Con Một xuống thế để chăn dắt đoàn chiên đó, đồng thời hy sinh chính mạng sống mình làm “chiên sát tế” để đem lại ơn cứu rỗi cho chiên con.
Ngoài ra, khi nói về “cửa chuồng chiên” đón nhận những con chiên ngoan hiền vào trong “ràn chiên”, Đức Ki-tô còn dạy cho người tín hữu biết về ý định của Người sẽ thành lập Giáo Hội (ràn chiên) để nuôi dưỡng những con chiên sẽ là những thành phần trung kiên của Giáo Hội tương lai. Ràn chiên Giáo Hội được xây trên Tảng Đá Phê-rô (“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” – Mt 16, 18) và cũng chính Phê-rô sẽ là Mục tử kế nghiệp Mục Tử nhân lành Giê-su Ki-tô trực tiếp chăm sóc những chiên con trong ràn chiên của Chúa. Ràn chiên Giáo Hội sẽ phát triển và trường tồn với những mục tử (giám mục, linh mục thừa tác vụ Linh Mục Thượng Phẩm Giê-su) chăn dắt đoàn chiên Ki-tô hữu.
Ý thức được vấn đề như vậy, người Ki-tô hữu hãy cầu xin cho mọi thành phần của Giáo Hội sống đúng và sống trọn vẹn vai trò của mình: Ai được chọn làm mục tử thì luôn luôn phải là người mục tử tốt theo gương Chúa Giê-su; và xin cho đoàn chiên luôn biết đoàn kết thương yêu nhau, cùng nghe theo tiếng nói đích thực của vị Mục Tử Nhân Lành Giê-su thông qua các mục tử trong ràn chiên Giáo Hội, để ai nấy đều “được sống và sống dồi dào” Tình Yêu của Chiên-Sát-Tế-Giêsu-Kitô. Ước được như vậy. Amen.
.
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Trong tất cả hình ảnh về chúa Giesu, tưởng không có hình ảnh nào gợi lòng trắc ẩn yêu thương hơn hình ảnh Mục Tử Nhân Lành. Trước thời đức Giesu, hình ảnh mục tử nói lên sự dịu dàng và chăm lo cho loài người qua Thiên Chúa. Mục tử và đoàn chiên là hai hình ảnh nổi bật giữa một sa mạc nóng bức, khô cằn và đầy nguy hiểm, trong đó người mục tử là người bảo vệ chiên đồng thời cũng bảo vệ những kẻ di hành trong sa mạc, giúp họ có nơi trú ẩn, tránh sự ám hại của kẻ cướp. Trong Kinh Thánh và thời Cận Đông cổ đại, từ “mục tử” còn là một danh diệu có tinh chính trị ám chỉ bổn phận của vua đối với dân, hàm ý quan tâm, lo lắng, sẵn sàng hy sinh vì dân. Hình ảnh mục tử cũng nói lên một quyền lực.
Toàn thể câu chuyện Mục Tử Nhân Lành trong bài tin mửng Gioan hôm nay (Ga 10:1-21) là tiếp tục đề tài phê phán những người biệt phái ở cuối chương 9 tin mừng Gioan. Người mục tử nuôi dưỡng đoàn chiên có nghĩa là bảo vệ chiên chống lại kẻ thù, sẵn sàng chiến đấu khi gặp thú dữ. Roi của mục tử chính là khí giới dùng để chống trả thú rừng, còn gậy là khí cụ có tính chống đỡ, biểu tượng cho sự săn sóc và lòng trung thành.
CỔNG VÀ CỬA Ở ISRAEL
Để tìm hiểu ý nghĩa về cổng chuồng chiên, chúng ta thử coi lại từ cổng trong Israel cổ đại. Cổng của Zion biểu trưng ý tưởng dẫn đưa đến trước mặt Thiên Chúa. Khi tiên tri Isaiah nói về ngày hòa bình thế giới, người diễn tả nó là thời đại mà “Cổng Thiên Chúa sẽ mở liên tục suốt ngày đêm, không bao giờ đóng.” (Is 60:11) Cũng giống vậy, bàn thờ lễ vật toàn thiêu thì không để trong nhà tạm mà đặt trước “lối vào trướng tao phùng” (Xh 40:6). Chúa Kito đã hoàn thành tất cả những điều đó: Ngưới là cửa, qua đó chúng ta có thể đến với Thiên Chúa Cha (Ep 2:18). Người là “đường và là đường hằng sống” (Dt 10:20). Lời thánh vịnh Mùa Vọng nói về cổng (Tv 24:7-10) như sau:
Hỡi cổng, Hãy nhấc đầu lên
Hỡi cổng vạn đại, Hãy mở rộng ra
Để vua vinh hiển lâm trào!
Vua vinh hiển là ai?
Là Chúa quyền uy đấng hùng anh,
Là Chúa anh hùng nơi trận địa!
Hỡi cổng, Hãy nhấc đầu lên
Hỡi cổng vạn đại, Hãy mở rộng ra
Để vua vinh hiển lâm trào!
Vua vinh hiển là ai?
Là Chúa thiên binh,
Là Chúa chủ nhà, là vua hiển vinh!
CỔNG CHUỒNG CHIÊN TRONG TÂN ƯỚC
Trong bài Tin Mừng hôm nay (Ga 10:1-10), chúa Giesu nói về hai loại chuồng chiên trước khi tỏ lộ chính Người là cổng chuồng chiên. Trong hai câu đầu, Chúa nói về chuồng chiên cộng đồng mà mỗi đêm mục tử lùa chiên vào. Chuồng chiên có cổng rất vững chắc chỉ có thể mở được bằng chìa khóa của thủ lãnh mục tử.
Những câu tiếp theo nói về loại chuồng chiên thứ hai. Loại này dùng để giử chiên vào những đêm chiên ở ngoài đồng (như đêm Chúa giáng sinh). Đây là loại chuồng tạm thời có đá bao quanh và mở ra ở khúc cuối. Chính mục tử sẽ là cổng chuồng; mục tử nằm ngang cổng mà ngủ. Nếu chiên rời chuồng hay sói xâm nhập bắt chiên thì chúng phải đi qua cổng. Mục tử chính là cổng.
CỔNG CHIÊN Ở JERUSALEM
Khi đức Giesu xác định về mình thì Người không nói Người là Mục tử nhân lành mà là cổng chiên. Ở bức tường cổ bao quanh Jerusalem có một cái cổng ở hướng Bắc dùng để lùa súc vật từ những vùng lân cận vào để làm của tế lễ, gọi là cổng chiên. Một khi đã vào bên trong để hiến tế thì không có đường nào khác có thể ra khỏi thành ngoài cổng đã đi vào. Vậy hướng duy nhất là ở đó để được hiến tế vì tội lỗi nhân loại. Đối với khán thính giả đầu tiên nghe Chúa giảng vể chiên thì họ bị chạm vì những lời Chúa nói: “Ta nói cho các ngươi một sự thật, Ta là cổng chiên…Ta là cổng, bất cứ ai qua ta thì sẽ được cứu. Người đó sẽ ra vào, và kiếm được đồng cỏ xanh tươi” (Ga 10:7-9). Ngay chính trong phạm vi thành lúc mà chiên đang bị bách hại, đức Giesu cũng đã tuyên bố: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Ta là Chúa Chiên Lành” (Ga 10: 10-11).
Khi nói về chiên, Đức Giesu có ý ám chỉ chiên đang bị tàn sát, không giống mục tử và chiên bình thường đang vô tư hưởng thú trên những sườn đồi đầy cỏ xanh tươi như chúng ta tưởng. Trái lại săn sóc chiên kiểu chúa Giesu đòi hỏi một cài gì hơn cả những bàn tay dịu dàng và con mắt hiền từ. Chiên phải được bảo vệ tránh khỏi tử thần. Đức Giesu giảng rằng bất cứ ai vào trong đoàn chiên mà không qua cửa này –cửa đức Giesu- thì là kẻ trộm và kẻ cướp. Không một ai đến với Cha Ta mà không phải qua Ta. Chính chúa Giesu là cổng, qua đó mục tử đến với chiên. Do đó chỉ có những mục tử thực sự mới được Người chấp nhận. Những câu 7-8 là hình ảnh cổng để cho mục tử đến với chiên. Những câu 9-10 là hình ảnh cổng để cho chiên ra vào. Những người biệt phái, vì không qua cổng chúa Giesu, nên là kẻ trộm. Những ai đi qua cổng này thì được chúa Giesu ban sự sống.
MỤC TỬ GƯƠNG MẪU
Chúa Giesu là nước sự sống, bánh sự sống và cổng sự sống. Người là mục tử gương mẫu theo ba cách: Trước nhất, Người đã hy sinh mạng sống người vì chiên. Người biệt phái là những kẻ làm thuê nên không trung thành với chiên. Mục tử trung thành, giống như David hồi xưa, thì bảo vệ đoàn chiên. Thứ đến, Người biết chiên một cách cặn kẽ thân mật nên người yêu thương và chăm sóc chúng ngày đêm. Đó là lý do người chết vì chiên. Tình yêu của người vượt quá cả “chính chiên của người” trong cộng đồng thánh Gioan vươn tới tất cả những ai tin vào Người. Thứ ba, đức Giesu là cổng chiên, không phải là cửa bẫy, mà là lối vào an toàn đầy tình yêu thương của Thiên Chúa, để được mục tử nhân lành bảo vệ.
Chúa Kito không phải chỉ là cổng, người còn là vua đi vào đền thánh và là đền thánh có cửa dẫn lối! Vào thời cổ đại, danh xưng “cửa thiên đàng” là bầu trời từ đó Thiên Chúa ban cho chúng ta manna (Tv 78:22), nhưng hiện nay chúa Kito là bánh thật đến từ trời (Nicodemus). Jacob đã nhìn thấy “cửa đi vào thiên đàng” (St 28:17) tại đền thánh ở Bethel, nhưng khi thánh tử đạo Stephen nhìn vào đó thì ngài thấy “vinh quang Thiên Chúa và chúa Giesu”. (Cv 7:55) Chúa Kito không chỉ mời gọi chúng ta vào vương quốc thiên đàng qua Người, mà còn để lại chìa khóa cho các môn đệ và quả quyết rằng “Các anh ràng buộc ai ở dưới đất thì trên trời cũng rang buộc, tha cho ai thì trên trời cũng tha” (Mt 16: 18-20).
KỶ NIỆM CUỘC VIẾNG THĂM CỦA THÁNH MỤC TỬ TẠI DENVER
Chúng ta hẳn vẫn chưa quên bài giảng của thánh Gioan Phaolo II về bài Tin Mừng hôm nay trong ngày giới trẻ thế giới năm 1993 ở Denver, Colorado, USA, ngày vọng 14-8-1993 tại công viên Cherry Creek State Park ở Denver. ĐTC đã nói:
“….Nơi Chúa Giesu Kito, Thiên Chúa Cha đã nói lên tất cả sự thật về tạo dựng. Chúng ta tin rằng trong sự sống, sự chết và phục sinh của chúa Giesu, Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tất cả tình yêu của Ngài cho nhân loại. Vì vậy chúa Kito đã gọi mình là “Cổng Chiên” (Ga 10:7) Là cổng chiên, Người đứng canh chừng mọi tạo vật tin tưởng vào Người. Người dẫn dắt họ đi vào đồng cỏ xanh tươi: “Ta là cổng, bất cứ ai đi qua ta thì sẽ được an bình. Họ đi ra vào và tìm được đồng cỏ tươi mát” (Ga 10:9).
“…Thiên niên kỷ thứ ba sắp tới, Giáo Hội biết rằng mục tử nhân lành vẫn tiếp tục, như đã luôn luôn tiếp tục, là hy vọng chắc chắn của nhân loại. Chúa Giesu Kito không bao giờ ngừng là “cổng chiên”. Dù cho lịch sử tội lỗi của nhân loại chống lại sự sống, thì Người vẫn không bao giờ ngừng nhắc lại với cùng một nhiệt huyết và tình yêu thương câu nói: “Ta đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Ga 10:10).
“…Đức Kito -mục tử nhân lành- hiện diện giữa chúng ta, giữa muôn dân, giữa mọi quốc gia, mọi thế hệ và chủng tộc, như là đấng đã hy sinh mạng sống vì chiên”. …Đúng vậy, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống, nhưng rồi Ngườ lấy lại (Ga 10:17). Trong cuộc sống mới phục sinh, Người trở thành –theo lời thánh Phaolo- thần khí ban sự sống (1Cr15:45), đấng bây giờ có thể ban sự sống cho tất cả những ai tin vào Người.”
“Hy sinh mạng sống –lấy lại mạng sống- mạng sống lại được ban cho. Trong Người, chúng ta có sự sống mà Người đã liên kết với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta tin vào Người. Nếu chúng ta là một với Người qua tình yêu như Chúa nói “Ai yêu Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em mình” (1Ga 4:21).”
ĐÔI LỜI KẾT: SUY NIỆM TRONG TUẦN VỀ MỘT VÀI TỰ VẤN
Đức Giesu nói: Chiên sẽ nhận biết tiếng mục tử và không đi theo kẻ lạ
Tôi đã lắng nghe tiếng gọi của Mục Tử Nhân Lành thế nào?
Tôi tìm cách nghe tiếng Người ở đâu?
Tôi có bước theo lối Người chỉ dẫn không?
Đức Giesu nói: Người đến để cho chúng ta sống, và sống cách dồi dào
Chúa ám chỉ gì trong câu nói đó?
Tôi có sống cuộc sống dồi dào mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng tôi không?
Đức Giesu nói: Người còn có những chiên khác không thuộc về đoàn chiên, nhưng chúng cũng cần phải gia nhập đoàn chiên. Nhiều học giả tin rằng Người có ý nói dân ngoại là những người không chờ mong đấng thiên sai nhưng họ đã hân hoan tiếp nhận Tin Mừng
Những ai là chiên ở thế giới ngày nay cần phải gia nhập đoàn chiên?
Chúng ta làm gì để đem họ về với đoàn chiên Chúa Kito?
.
Trầm Thiên Thu
Nhân lành Mục tử Giêsu
Kiếm tìm chiên lạc ốm o gầy mòn
Đưa về an ủi, chăm nom
Sớm chiều lo liệu mọi phần cho chiên
Có câu chuyện kể rằng…
Một hôm, cậu lễ sinh vừa cười vừa tròn mắt nhìn linh mục xứ và nói:
– Ôi, cha có mùi gì lạ thế?
– Mùi gì?
– Con không xác định được, nhưng hình như là mùi… heo!
Linh mục cười và xoa đầu cậu bé:
– À, tưởng gì. Cha mới tắm cho mấy con heo bên nhà hàng xóm, mùi heo là tất nhiên rồi!
– Sao cha lại làm việc ấy?
– Không có việc xấu, chỉ có người xấu. Ông ấy đã già, không thân nhân, nuôi heo để sinh sống. Mấy hôm nay ông ấy bị mệt, cha phải giúp ông ấy thôi.
– Dạ, con hiểu rồi.
Hôm sau, cậu lễ sinh cười:
– Ôi, hôm nay cha lại có mùi gì kỳ lắm. Mùi này tanh lắm!
– À, hồi nãy cha đi thăm mấy bệnh nhân nằm liệt, không ai giúp đỡ, cha phải giúp họ vệ sinh cá nhân.
– Dạ, con hiểu rồi.
Tuần sau, cậu lễ sinh ngạc nhiên nói:
– Mùi lúc này khác lạ lắm, cha ơi!
– Thế con thấy mùi gì?
– Mùi này không hôi, không tanh, không khó chịu, mà thơm tho lắm, dễ chịu lắm.
– Cái thằng này, mũi thính thế!
Cậu bé gãi đầu, ngập ngừng:
– Nhưng…
– Nhưng gì nào?
– Nhưng… con thích… ngửi mùi hôi… hơn mùi… thơm.
Linh mục tròn mắt:
– Sao vậy? Thơm không thích mà thích hôi à?
– Mùi hôi tanh là mùi thật. Mùi thơm là mùi giả. Cha hôi thì con còn muốn đến gần, cha thơm thì con không dám đến gần, vì cha sang trọng quá! Chúa Giêsu cần chiên đen hơn chiên trắng, luôn gần gũi người nghèo khổ chứ đâu có thân thích với người giàu có.
– Cha xin lỗi và cảm ơn con. Từ nay cha sẽ cố gắng giống Ngài hơn!
Câu chuyện ngắn gọn nhưng chứa đựng triết lý sống tích cực về nhân bản. Thiên Chúa là tình yêu, là vị Mục Tử luôn chạnh lòng thương, và vì giàu lòng thương xót, Ngài chấp nhận bỏ 99 con chiên trắng để đi tìm cho được 1 con chiên đen (Mt 18:12-14; Lc 15:4-7). Ngài không muốn ai phải sống èo uột, mà chỉ muốn mọi người được sống dồi dào, sống viên mãn, sống đúng nhân vị và nhân phẩm của con người, đồng thời cũng được hưởng nhân quyền và sự tự do đích thực – cả về xã hội lẫn tôn giáo. Muốn được vậy thì chắc chắn chúng ta phải “đi qua” Đức Giêsu Kitô.
Thật vậy, chỉ có Đức Giêsu Kitô là Con Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha (Ga 14:6) và là Nguồn Sống dồi dào (Ga 10:10) cho chúng ta. Đức Giêsu Kitô không chỉ nuôi sống chúng ta bằng ân sủng mà đặc biệt là chính Mình Máu Ngài để chúng ta được sống dồi dào, vì Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của người chết (Mt 22:32; Mc 12:27; Lc 20:38).
Tuy nhiên, nếu muốn có sự sống dồi dào thì mỗi cành-nho-chúng-ta phải nối kết với Cây Nho Thật để được truyền nhựa-yêu-thương (Ga 15:1-17). Cây càng có nhiều nhựa thì càng có nhiều sức sống, con người cũng vậy, đặc biệt là sự sống tâm linh, sự sống từ Thiên Chúa.
Khi được tái sinh bởi Đức Giêsu Kitô, người ta biến đổi hoàn toàn để trở thành một con người mới – tội nhân trở thành thánh nhân. Hồi đó, sau khi Chúa Giêsu đã phục sinh, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem, và lắng nghe những lời ông nói: “Toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2:36). Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các Tông Đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?”. Biết hỏi như vậy là dấu hiệu tốt lành biết bao, vì chứng tỏ tâm hồn đã thực sự biết sám hối lỗi lầm, biết khao khát điều tốt, và biết ước muốn hướng thiện!
Thấy họ chân thành hỏi như vậy, ông Phêrô đáp: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi” (Cv 2:38-39). Ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Rồi ông nói: “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ” (Cv 2:40). Những ai đã đón nhận lời ông thì đều xin được lãnh nhận phép rửa, muốn được tái sinh để hy vọng được vào Nước Trời (Ga 3:5). Thật kỳ lạ, ngay hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. Việc Chúa làm thật lạ lùng vô cùng!
Ngày nay, chúng ta có phương tiện định vị toàn cầu giúp người ta không lạc lối, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới chính là “định vị kế” chuẩn mực nhất. Người nào nhận biết được như vậy thì sẽ an vui tín thác vào Ngài, để Ngài quan phòng và tiền định, vì người đó xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3).
Chắc chắn người đó cũng luôn an tâm vững chí và hạnh phúc thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:4-6). Thật vậy, ai tuân giữ lời dạy của Đức Kitô thì không bao giờ phải lạc đường và cũng không phải chết (Ga 8:51).
“Lòng nhân hậu và tình thương của Thiên Chúa” không hề xa lạ, bởi vì đó chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mà ngày nay đang rất phổ biến khắp nơi trên thế giới, từ thành thị tới thôn quê, từ người già tới người trẻ. Không ai không là tội nhân, và vì thế mà không ai lại không cần đến Lòng Chúa Thương Xót. Hằng ngày, khi cầu nguyện bằng Kinh Mai Côi, chúng ta vẫn nhiều lần tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn”. Nhưng cũng rất có thể vì quen quá hóa nhàm nên chúng ta không thực sự chú ý hoặc không cảm nhận lời cầu da diết như vậy.
Đời sống tâm linh được lồng trong đời thường, vẫn có đủ thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,dục) theo bản tính phàm nhân. Do đó mà chúng ta luôn phải cố gắng không ngừng, sơ sảy một chút là té nhào ngay thôi. Đôi khi còn có những điều trái tai, gai mắt, và chúng ta phải “vượt qua chính mình”. Thánh Phêrô nói: “Nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, đó là ơn Thiên Chúa ban” (1 Pr 2:20). Thật vậy ư? Chúng ta hãy nghe Thánh Phêrô giải thích: “Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình” (1 Pr 2:21-23). Cái khó là “im lặng” và “phó thác” cho Chúa.
Chính Chúa Giêsu là Nguồn Sống nhưng Ngài đã chịu bị giết chết, không phải Ngài đáng bị như vậy, mà Ngài chịu thay cho chúng ta, Ngài chịu chết để chúng ta có cơ hội sửa sai và có thể phục sinh vinh quang như Ngài: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (1 Pr 2:24-25). Chúa Giêsu chết vì tội lỗi của chúng ta, nghĩa là chúng ta cũng phải dám chết cho tội lỗi của chính mình – và tội lỗi của người khác, nhờ đó mà được sống lại và được sống dồi dào trong Đức Giêsu Kitô Phục Sinh.
Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống (Ga 14:6), đồng thời Ngài còn là Cửa (Ga 10:9), chính Cửa này dẫn vào Nguồn Sống Dồi Dào của Thiên Chúa: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10:1-5). Nghe Đức Giêsu nói vậy, người ta không hiểu Ngài nói gì.
Tất nhiên không chỉ khó hiểu đối với những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu hồi đó, mà còn khó hiểu đối với cả chúng ta ngày nay, thậm chí có khi chúng ta còn không muốn hiểu. Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói nghe không thấy có gì “gay gắt”, nhưng thực ra hiểu rồi thì mới cảm thấy “đụng chạm” và “nhức óc” lắm, vì Ngài muốn nhấn mạnh đến tính chất cần thiết của Mục Tử Nhân Lành. Mục tử đó phải thể hiện lòng thương xót và dám liều mạng vì đoàn chiên. Nói đến lòng trắc ẩn, và đặc biệt trong Tháng Hoa, chắc hẳn nhiều người còn nhớ gương yêu thương sáng chói của Thánh tử đạo Lm Maximilian Maria Kolbe (*).
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đích thực, Ngài yêu thương mọi người, và Ngài chỉ muốn mọi người “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18), nhất là những người được lãnh nhận tác vụ linh mục, họ cũng PHẢI là những mục tử nhân hậu, PHẢI biết phục vụ chứ không hưởng thụ (Mt 20:28), thế nhưng vẫn thấy có những người thích dùng quyền và ra lệnh hơn là khiêm nhường phục vụ vì yêu thương. ĐGH Phanxicô đã từng cảnh báo các giám mục: “Mục tử có nguy cơ bị mê hoặc bởi viễn tượng nghề nghiệp, bởi cám dỗ về tiền bạc, và những thoả hiệp theo tinh thần thế gian”. Có lần ngài nhấn mạnh rằng giám mục là người được chọn để phục vụ một Giáo hội duy nhất, vì thế không được tìm kiếm một việc gì khác ngoài việc phục vụ Giáo hội, và ngài đã nói thẳng: “Nếu tìm kiếm một việc gì khác thì chính giám mục đó đang ngoại tình”. Gương “giám mục xa hoa” Franz Peter Tebartz van Elst (người Đức) còn đó, và rồi ông đã bị đình chỉ nhiệm vụ hồi tháng 10-2013. Chắc hẳn Mục Tử Giêsu buồn lắm!
Nhắc tới những điều “nhạy cảm” như vậy, có những người “nhột” (chính họ nhột hoặc nhột dùm), nhưng phải nhột như vậy mới có thể “thức giấc”. Chúng ta chỉ tâng bốc nhau bằng những lời khen sáo rỗng để lấy lòng nhau thì có ai lợi gì không, hay lại chỉ dìu nhau vào con đường mê lầm? Dám nhìn thẳng vào sự thật mới là người yêu sự thật, và nhờ đó mới có thể thành nhân. Sợ sự thật hoặc tránh sự thật là đồng lõa với sự giả dối, đừng biện hộ vì thế này hoặc thế nọ, và cũng đừng ảo tưởng “chiếc bánh vẽ” nào đó!
Cũng vậy, khi đọc Lời Chúa thì người ta chỉ thích đọc những câu “vừa ý mình”, tránh những câu “chói tai” càng nhiều càng tốt. Người ta nói rất mạnh khi gặp đoạn Kinh Thánh không “chạm” tới mình, nhưng lại “bẻ lái” khi gặp đoạn Kinh Thánh “hóc búa”, vì có những câu “chạm” mạnh quá, nên họ cảm thấy… “nhột” lắm!
Lời Chúa là thế, có lúc khiến chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc làm chúng ta đau điếng. Nhưng có dám chịu “nỗi đau” đó thì mới khả dĩ “bừng cơn mê” mà sớm thành nhân. Chỉ có thuốc đắng mới “đã” tật!
Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành và là Chúa Chiên Lành, Ngài xác định: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:7-10). Mục Tử Nhân Lành là vậy, luôn sống và hành động vì người khác, vì đoàn chiên. Ai không là chủ chiên nhân hậu như Đức Giêsu Kitô thì chỉ là “thợ chiên” (chăn thuê) mà thôi. Đi qua Cửa đó sẽ phải chịu “đau nhức” lắm đấy!
Liên quan sự viên mãn, Thánh Phaolô có mơ ước và cũng là lời kêu gọi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (Ep 3:17-19). Trong lời kinh hòa bình, Thánh nghèo khó Phanxicô Assisi đã nguyện ước thực tế mà sâu sắc: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Và ngài tin chắc: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Đó chính là sự-sống-dồi-dào của những người tin thật Đức Giêsu Kitô là Thiên-Chúa-nhập-thể-làm-người, là Con-Thiên-Chúa-chịu-chết-và-phục-sinh.
Trong cuộc sống con người, những người thân thích được gọi là “họ máu”. Máu rất quan trọng. Máu có màu đỏ tươi, rất đẹp, và cũng rất đắt giá. Chúa Giêsu đã cứu độ chúng ta bằng Giá Máu. Chính nhờ Giá Máu đó mà chúng ta được phục hồi cương vị làm con và được hưởng sự sống dồi dào trong ân nghĩa với Thiên Chúa.
Hôm nay là Chúa Nhật CHÚA CHIÊN LÀNH, ngày cầu cho ơn thiên triệu dâng hiến – ơn gọi Linh mục và Tu sĩ. Ngày xưa, Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Và Ngài đã nhắn nhủ với môn đệ: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9:37-38).
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con biết sẵn sàng quên mình mà dấn thân vì chân lý, vì công lý, và vì tha nhân – nhất là vì những người hèn mọn. Xin cho chúng con được sự sống dồi dào của Ngài, biết thể hiện sự sống đó bằng hành động cụ thể chứ không bằng lời nói suông, thực sự trở nên “Kitô khác” chứ không “khác Kitô”, chấp nhận chịu thiệt thòi và bị người đời ghét bỏ. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(*) Thánh Maximilian Maria Kolbe, linh mục Dòng Phanxicô (O.F.M.), sinh ngày 8-1-1894, tử đạo ngày 14-8-1941 tại trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã hồi thế chiến II. Ngài được tuyên xưng là vị tử đạo bác ái, vì ngài đã động lòng trắc ẩn mà chịu chết thay cho một tử tù còn vợ con. Ngài được Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên thánh ngày 10-10-1982, ngài được chọn làm thánh bổn mạng của những người nghiện ma túy, các tù nhân chính trị, các gia đình, các ký giả, và phong trào bảo vệ sự sống. Thánh GH Gioan Phaolô II đã tôn ngài làm “Thánh Bổn Mạng của Thế Kỷ Khó Khăn” – tức là thời đại chúng ta đang sống. Thánh Maximilian đã nỗ lực thúc đẩy phong trào tận hiến và phó thác cho Đức Mẹ, do đó ngài được mệnh danh là Tông Đồ Tận Hiến cho Đức Mẹ. Cái chết của ngài là đỉnh điểm của sự sống hoàn toàn tận hiến cho Đức Mẹ, và người ta gọi ngài là “Gã Khờ của Đức Mẹ”, bởi vì ngài đã làm mọi thứ cho Đức Mẹ.
.
Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Ai cũng biết điếc là khổ. Người điếc bị người ta coi khinh và còn xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Điều đáng buồn là người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc.
Có một lần tôi đi xức dầu bệnh nhân, sau khi nói chuyện, tôi hỏi bà cụ có muốn xức dầu không? Bà liền nói: con đâu có đau đầu đâu! Hóa ra bà bị điếc tưởng tôi nói bà có đau đầu không?
Điều đáng buồn là người điếc lại cho không biết mình bị điếc nên vẫn vô tư sống.
Có một người đàn ông đi gặp bác sĩ để kể về người vợ của mình. “Tôi cho rằng vợ tôi bị điếc, cô ấy chả nghe thấy tôi nói gì mà toàn khiến tôi phải nhắc lại”.
Người bác sĩ trả lời: “Được rồi, bây giờ anh cứ về nhà. Tối nay đứng cách vợ 6 m và nói một điều gì đó. Nếu bà nhà không trả lời, đứng lại gần 2 m nữa và nhắc lại. Cứ tiếp tục như thế để xem mức độ ngễnh ngãng của bà ấy nặng đến mức nào”.
Người chồng trở về nhà và thực hiện đúng theo chỉ dẫn. Ông đứng cách vợ 6 m khi bà đang thái thịt trong bếp và hỏi: “Cưng à, tối nay mình ăn gì vậy?”. Ông không nghe thấy câu trả lời. Ông đứng gần lại 2 m nữa và hỏi lại. Vẫn không có câu trả lời. Ông đứng gần thêm 2 m. Vẫn chẳng thấy gì. Cuối cùng, ông tiến sát lại sau vợ và hỏi: “Em yêu, tối nay mình ăn gì?”.
Cô vợ bực mình quát: “Đây là lần thứ 4 rồi nhá – thịt bò hầm!”.
Ai cũng biết điếc là khổ. Điếc là cách ly với thế giới bên ngoài. Điếc là khổ mình và phiền toái với người bên cạnh. Thế mà, cuộc đời vẫn còn đó những kẻ giả điếc làm ngơ. Họ cố tình bịt tai để khỏi nghe tiếng đồng loại kể cả tiếng Thiên Chúa. Họ giả điếc để sống theo ý mình. Họ cố tình gạt ra ngoài tiếng nói của lương tâm, của sự thật và chân lý. Họ bất chấp lề luật. Họ bỏ ngoài tai lời khuyên dạy của Thiên Chúa và tha nhân. Con người của kẻ giả điếc là tự tách mình ra khỏi cộng đồng xã hội để sống theo ý riêng.
Hôm nay, Chúa bảo “chiên Ta thì nghe tiếng Ta”. Chúa mời gọi chúng ta là con Chúa hãy sống theo giáo huấn của Chúa. Hãy bước đi theo đường lối của Ngài. Bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài để được bảo vệ, chở che. Ngài sẽ bảo vệ chúng ta như mục tử bảo vệ đàn chiên khỏi sự tấn công của sói dữ. Ngài sẽ dẫn chúng ta đến đồng cỏ xanh tươi bên dòng suối mát là ân sủng của Ngài luôn đong đầy trên cuộc đời chúng ta. Bước đi theo Ngài thì sẽ không đói, không khát bao giờ.
Lời mời gọi: “chiên Ta thì nghe tiếng Ta” còn là tiếng mời gọi con người làm điều lành tránh điều dữ. Ngài tha thiết kêu mời con người sống trong tình bác ái yêu thương. Sự bác ái không chỉ dừng lại ở việc yêu người yêu mình mà còn yêu cả kẻ thù. Tình yêu thương không dừng lại việc không làm tổn thương đến ai mà còn biết giúp đỡ, chia sẻ với nhau trong vui buồn cuộc đời.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin cho giới trẻ hôm nay nghe được tiếng Chúa kêu mời giữa biết bao ồn ào của cuộc đời. Xin cho họ không chỉ lắng nghe được tiếng nói của sự thật, của chân lý giữa xã hội đầy lừa đảo bon chen mà còn dấn thân bước đi theo tiếng Chúa kêu mời. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen
.
CẦU NGUYỆN NHIỀU CHO DÂN CHÚNG
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Căn tính Linh mục có hai chiều kích, một hướng lên Thiên Chúa, và một hướng về nhân loại. Hướng lên Thiên Chúa, căn tính Linh mục hệ tại sự thánh thiện. Hướng về con người, căn tính ấy hệ tại dấn thân phục vụ với đức ái mục tử.
Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử, chúng ta đọc : “Đây là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó : Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu – Mục Tử Nhân Lành đã nêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội.
Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ… Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng : cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết mà còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm : “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18).
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm giáo hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng đức Phanxicô đã can đảm chấp nhận. Những năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội !
Với chủ trương “Giáo hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si’ kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình.Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi ! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của ĐTC Phanxicô đã khiến nhiều giám mục và linh mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.
“Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” (Đức Phaolô VI). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.
Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài : tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình.
Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3 T (tình, tiền, tửu), 3 Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa.
Vì linh mục là người của sự linh thánh, nên việc huấn luyện thiêng liêng là quan trọng nhất (ĐTC Phanxicô đã phát biểu rằng, ngài muốn chủng sinh được đào tạo ưu tiên về mặt thiêng liêng), các mặt khác cũng quan trọng : nhân bản, vì linh mục cũng là một con người như mọi người; trí thức, vì linh mục sẽ phải giảng dạy hướng dẫn người khác; mục vụ, vì đó là “nghề” của linh mục. Có thể nói, sau bao nhiêu năm tháng được huấn luyện như thế, linh mục là người hoàn hảo, hay theo cái nhìn chung của mọi người, là một người có tài có đức, giỏi giang. Linh mục phải là người có những nhân đức đối thần (Tin-Cậy-Mến), những nhân đức đối nhân (Bác ái-Khôn ngoan-Công bằng-Can đảm-Tiết độ), những nhân đức tôn giáo (Các lời khuyên Phúc Âm, tha thứ, hiền lành, đạo đức, trung thành...), những nhân đức nhân loại hay còn gọi là đức tính của con người theo quan điểm Á Đông (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín (với tha nhân), Cần-Kiệm-Liêm-Chính-Dũng (với chính mình).
Được đào tạo kỹ lưỡng như thế, linh mục hẳn phải đạt một mức độ cao trên “đàng nhân đức” mới phải lẽ. Cho nên khi thấy các linh mục không sống đúng với những đòi hỏi của chức vụ và đời sống thì chẳng trách giáo dân bất mãn, và dễ đi đến chỗ bài bác.
Linh mục không tuyên khấn như các tu sĩ, nhưng cũng phải giữ đức thanh bần, khiết tịnh và vâng phục, không thụ động, miễn cưỡng, nhưng như lời ĐTC Phanxicô : “Những lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là “chứng từ vui tươi về tình yêu của Thiên Chúa”, khi chúng được cắm rễ trong lòng Chúa thương xót”. (x. “Đức ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan Thiết 2016, Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).
Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.
Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21). Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42). Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28 ; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13 ; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc 18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)… Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4 ; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
“Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. ĐTC nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng giáo dân, trên vai và trong trái tim mình” (Vũ văn An : Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013). Linh mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.
Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.
.
AM. Trần Bình An
Người chăn chiên hay cừu, được nhắc đến nhiều lần trong Kinh Thánh, từ sách đầu tiên là Sáng Thế Ký cho đến sách cuối là Khải Huyền (St 4, 2; Kh 7, 17). Những người nổi bật như Abraham, Môise và vua Đavít đều là người chăn cừu. Người viết sách Thánh vịnh là Đavít miêu tả một cách thi vị trách nhiệm và mối quan tâm của người chăn cừu tốt lành.
Sau này, vào thời Chúa Giêsu, chăn cừu vẫn còn là công việc quan trọng. Chúa Giêsu tự cho mình là “người chăn chiên tốt lành” và ngài thường dùng các đức tính của người chăn tốt để dạy những bài học quan trọng (Ga 10, 2-4, 11). Ngay cả Đấng Toàn Năng, Đức Chúa Trời cũng được ví như người chăn chiên: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì…” (Tv 23, 1-4)
Người chăn cừu vào thời nước Israel xưa hẳn chăn một số loại cừu, trong đó có giống cừu Syria, đuôi mập và lông dày. Cừu đực thuộc giống này có sừng, còn cừu cái thì không. Loài vật ngoan ngoãn ấy không thể tự bảo vệ mình, khi sống ở ngoài thiên nhiên, khỏi nanh vuốt của thú dữ. Người chăn cừu phải luôn huấn luyện bầy cừu của mình biết vâng lời. Dù vậy, người chăn tốt lành kiên nhẫn và dịu dàng chăm sóc bầy, ngay cả đặt tên cho mỗi con để nó có thể nghe tiếng người chăn. (Ga 10, 14 & 16)
Vào mùa xuân, có lẽ mỗi ngày người chăn dẫn bầy từ chuồng ở gần nhà đến những cánh đồng cỏ gần làng. Ở đấy, chúng gặm chồi non xanh tươi. Trong mùa này, cừu con sinh sôi nảy nở. Cũng vào thời điểm này, người ta xén lông cừu và đây là dịp ăn mừng!
Sau khi những cánh đồng gần làng đã thu hoạch, người chăn dẫn bầy ra ăn chồi non và hạt còn lại trên những gốc rạ. Khi mùa hè oi bức đến, người chăn chuyển bầy mình đến những cánh đồng cỏ trên vùng đất cao hơn. Trong nhiều ngày liền, người chăn dẫn bầy đi ăn cỏ trên những đồi dốc xanh mướt, làm việc và ngủ ngoài trời để canh chừng bầy. Đôi khi, người chăn cho bầy của mình nghỉ qua đêm trong một cái hang, nơi chúng được che chở khỏi những con sói và linh cẩu. Nếu tiếng tru của linh cẩu làm cho bầy hoảng loạn trong đêm tối, thì giọng trấn an của người chăn làm chúng bình tĩnh lại.
Mỗi buổi chiều tà, người chăn đếm và kiểm tra sức khỏe từng con. Buổi sáng, ông gọi và chúng theo ông ra đồng cỏ (Ga 10, 3-4) Giữa trưa, người chăn dẫn bầy đến những ao nước mát. Khi ao cạn, người chăn dẫn chúng đến giếng và múc nước cho chúng uống. Cuối mùa khô, người chăn có thể chuyển bầy đến cánh đồng và thung lũng thuộc miền duyên hải. Khi mùa mưa đến, ông dẫn chúng về nhà để trú đông. Nếu không, loài vật này có thể chết vì mưa, bão mưa đá và tuyết. Người chăn giữ chúng trong chuồng cho đến mùa xuân. Người chăn tốt lành thì siêng năng, đáng tin cậy và can đảm, thậm chí liều mạng sống để bảo vệ bầy. (1Sm 17, 34-36) (Người chăn cừu, Thư viện trực tuyến)
Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay phác hoạ chân dung vị Mục Tử nhân lành với tất cả tình yêu dành cho từng con chiên, sự phục vụ chu đáo và cứu chuộc đoàn chiên khỏi phải chết đời đời.
Yêu thương
“Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.” Mục Tử nhân lành chính thức, công khai, hợp pháp đến với đàn chiên. Người biết rõ tên từng con, âu yếm gọi tên và dẫn chúng đi ăn. Quan tâm chăm sóc, Người còn biết cả thể trạng, sức khoẻ, tính nết mỗi con, chứ chẳng bao giờ gọi chúng bằng những con số lạnh lùng, xa lạ.
“Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh.” Chúng nhận biết chủ chăn, vì anh yêu thương chúng, anh nưng niu từng con, chẳng muốn mất mát con nào.”Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi, mà đi tìm con chiên lạc sao?” (Mt 18, 12)
Phục vụ
“Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.” Mục Tử nhân lành luôn quên mình, dấn thân phục vụ đoàn chiên, chẳng bao giờ hách dịch, đe doạ, áp bức con chiên. “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Chỉ có chủ chăn giả mạo, sói đội lốt, mới đến lợi dụng, hãm hại, a tòng, âm mưu với kẻ dữ ăn thịt chiên lành.
Bởi vì ”Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ.”(Mc 10, 45) Mặc dù là Mục Tử là người chỉ huy, lãnh đạo, nhưng luôn yêu thương phục vụ, chăm sóc, dẫn dắt, nuôi dưỡng đoàn chiên được sung mãn.
Hy sinh
“Tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên của Tôi” (Ga 10, 15) Không chỉ yêu thương phục vụ, Đấng Chăn Chiên tốt lành còn sẵn sàng chịu đối xử bất công, chịu khổ nạn, chịu đóng đinh, chịu chết nhục nhã trên thập giá, để cứu chuộc đoàn chiên khỏi phải chết trầm luân và sống lại khải hoàn. Vì thế, Người đã công khai tuyên bố cho những ai trung thành đi theo Người: “Tôi là cửa Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”
“Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu.” (Ga 15, 13) Người khiêm nhường, tự hạ, yêu thương phục vụ, còn hơn là bạn hữu, mà y như người Đầy Tớ đau khổ, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Ðây là người Tôi Trung Ta đã tuyển chọn, đây là người Ta yêu dấu. Ta hài lòng về Người. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người. Người sẽ loan báo công lý trước muôn dân…” (Mt 12, 18 – 21)
Kinh Tin Kính phải đánh động con vì sự hy sinh của Chúa Giêsu: “Người đã nhập thể… và đã làm người. Người chịu đóng đinh… chịu tử hình, và mai táng…” Hy sinh trong cả cuộc sống, hy sinh trong lễ toàn thiêu. (Đường Hy Vọng, số 173)
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn ý thức rằng, Người chính là Mục Tử Nhân Lành, luôn quên mình, dấn thân, hy sinh, chăm sóc, nuôi dưỡng, cứu giúp chúng con từng giây phút trong đời. Xin giúp chúng con biết đáp lại tình yêu vô biên của Người.
Khấn xin Mẹ Maria luôn cầu thay nguyện giúp chúng con, xin Chúa ban cho nhiều Mục Tử Nhân Lành, để dẫn đưa chúng con về Nước Hằng Sống. Amen.
.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
G. A. Smith đã tả hình ảnh người chăn chiên như sau “Trên một cánh đồng khô cỏ cháy, ban đêm chỉ có tiếng chó hú, người chăn chiên với gương mặt tỉnh táo, đôi mắt nhìn xa, màu da cháy nắng, mình đeo khí giới, đứng dựa trên cây gậy, mắt chăm chú nhìn bầy chiên đang ăn”. Phúc Âm Thánh Gioan cho biết thêm một tính cách nữa của người mục tử vào buổi sớm khi đưa chiên ra ngoài: “chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra” (Ga 10, 3).
Hai đặc tính quan trọng của người mục tử: Mạnh mẽ và hiểu biết.
Mạnh mẽ.
Người mục tử được phác họa hình ảnh uy nghiêm, thủ lĩnh tinh thần, dẫn dắt con người đi trên đường chân lý và cứu thoát.
Cánh đồng cỏ dưới ánh mắt quan sát và bảo vệ của người mục tử, bảo đảm nơi ăn uống, nghỉ ngơi cho đoàn chiên an toàn. Đó là hình ảnh hiển đạt của những con người học biết về chân lý, không còn lo sợ gì, họ làm việc và tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ.” (Tv 37, 5 – 6).
Người mục tử sống tùy thuộc vào không gian, vì cần đi tìm đồng cỏ ở giữa những triền núi và cả những nơi đồng bằng. Không gian chăn thả nhiều hiểm nguy rình rập, đòi hỏi người mục tử có đôi mắt tinh tường, màu da xám nắng, mình đeo khí giới. Hình tượng người mục tử giữa đồng khô cháy nắng, nói lên tính chất can trường, hy sinh, chấp nhận mọi gian khổ cho đoàn chiên.
Ngay trong hoàn cảnh đó, cũng nói lên một hình ảnh khác nữa mà Chúa muốn huấn luyện dân Người cần trở nên những chiến sỹ can trường: “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được.” (Mt 11, 12)
Hiểu biết.
Người mục tử đồng hóa với con chiên của mình. Vai trò người chăn chiên không phải là một nghề nghiệp, nên Tin Mừng cũng nói về những người chăn thuê: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.” (Ga 10, 12 – 13).
Người mục tử sống chết với đoàn chiên của mình. Hình tượng này nói lên ý nghĩa mật thiết giữa Chúa và dân Người. Chúa Giêsu đã nên một với con người, vận mạng của con người là vận mạng của chính Chúa. “Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Is 53, 5).
Biết và gọi tên. Am hiểu là một trong những tố chất cần thiết cho người mục tử. Đàn chiên hoàn toàn theo sự khôn ngoan của người dẫn dắt, biết cánh đồng nào cỏ xanh tươi; biết nhìn trời đoán được thời tiết, gió dông, bão, hay yên lành; biết dự đón trước chỗ nghỉ đêm cho đàn chiên; biết tên từng con chiên, khi lạc còn gọi về; biết phân biệt từng tiếng thú dữ, cọp beo, sư tử, chó sói… Nhiều điều cần biết và am hiểu, đồng thời người mục tử còn là người biết cầu nguyện, để phó dâng đàn chiên cho Chúa, vì chính Chúa là Người Mục Tử nhân lành và chính thức hướng dẫn đàn chiên.
Xin Chúa hướng dẫn chúng con trên đường chân lý, tình yêu và hiệp thông để chúng con tiếp tục sứ vụ làm cho Danh Chúa ngày càng tỏa sáng
.
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Năm 1925, cha Gioan Cassaein được thụ phong linh mục, thuộc Hội Thừa Sai Paris. Một năm sau, cha có tên trong danh sách 8 vị đi truyền giáo tại Châu Á. Đến Việt Nam, Ngài được Đức Giám mục Sài Gòn cử đi làm công tác mục vụ truyền giáo tại Di Linh, một vùng đất của anh em dân tộc K’Ho. Đến vùng đất xa lạ này, cha đã học tiếng K’Ho, sau đó đến thăm viếng các gia đình dân tộc trong vùng, nói với họ bằng ngôn ngữ của họ. Lúc bấy giờ, ở Việt Nam hầu như chưa nhiều người biết về cuộc sống của các anh chị em dân tộc cao nguyên, cha Gioan Cassein đã lặn lội vào các buôn làng để thăm viếng và chăm sóc cho các anh em dân tộc này. Cha đã gặp rất nhiều anh chị em dân tộc bị bệnh phong, bị mọi người bỏ rơi trong rừng, đói khát vì thiếu thốn, đau đớn vì bệnh tật. Cha đã đưa những người này về nhà mình để chăm sóc, lau rửa vết thương cho họ và đã lập nên Trại Phong Di Linh ngày nay. Cả cuộc đời cha đã gắn bó với anh em dân tộc, coi họ như con ruột của mình và dành hết cả cuộc đời chăm sóc phục vụ họ.
Năm 1941, cha được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Tông tòa Giáo phận Sai Gòn. Ba năm sau, dịp lễ Thánh Gioan Baotixia là bổn mạng của ngài, cũng là ngày Đức Cha Gioan Cassein nhận được kết quả xét nghiệm bị lây bệnh phong. Ngài không buồn, nhưng đã vui mừng trả lời vị linh mục đem kết quả đến cho ngài rằng: Đây là món quà mừng lễ bổn mạng tôi. Thế là tôi lại được trở lại với những người bệnh phong Di Linh. Đức Cha đã xin từ chức Giám mục và về sống với anh chị em dân tộc bệnh phong và dành cả cuộc đời tận tụy hy sinh cho anh chị em dân tộc ở đây. Ngài mất năm 1973 sau một cuộc đời không mệt mỏi thi hành nhiệm vụ của người chủ chiên tận tụy hy sinh hết cả cuộc đời, mạng sống mình vì đoàn chiên. Cuộc đời và gương sống của Đức cha Gioan Cassain giúp chúng ta dễ hình dung lời khẳng định của Chúa Giêsu hôm nay: Ta là mục tử nhân lành.
1/ Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Mục tử và chiên trong văn hóa, đời sống của người Do Thái có những mối tương quan hết sức đặc biệt. Con chiên và đàn chiên không chỉ là tài sản, không chỉ là vật nuôi, nhưng còn thực sự là bạn, là người thân của gia đình. Người Do Thái có thể bồng ẵm, ăn ngủ với chiên, coi chiên như thành viên của gia đình.
Chúa Giêsu đã khẳng định tình yêu và sự hy sinh của Ngài cho nhân loại cũng giống như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên của mình. Là mục tử, Chúa Giêsu đã chấp nhận từ bỏ địa vị vinh quang của một vị Thiên Chúa để đến ở với đoàn chiên, yêu thương chăm sóc cho đoàn chiên nhân loại như cha mẹ yêu thương, chăm sóc cho con. Mục tử Giêsu đã kiên nhẫn và dùng tình thương để dẫn dắt, chỉ bảo cho nhân loại bước đi trên con đường an toàn, đến đồng cỏ sự sống, uống nguồn suối tình yêu của Thiên Chúa. Ngài chỉ cho chúng ta biết cách để đề phòng và xa tránh sói dữ là ma quỷ, tránh những vực sâu của tội lỗi, để chúng ta có thể bước đi trên con đường đưa tới hạnh phúc thật.
Khi con người sa ngã lạc lối, nghe theo lời dụ dỗ của ma quỷ, Mục tử Giêsu đã ân cần tìm kiếm chúng ta về. Chúa không hề trách chúng ta, cũng không loại trừ khinh miệt, nhưng đã dùng các Bí tích để yêu thương chăm sóc, chữa lành nhũng vết thương thể xác và tâm hồn, ban ơn tha thứ cho chúng ta. Mục tử Giêsu không ngại khó khăn nguy hiểm đến tính mạnh để chiến đấu với bầy sói dữ là ma quỷ, đem lại sự an toàn cho chiên.
2/ Sau khi đã trải qua cuộc tử nạn thập giá, Mục tử Giêsu đã sống lại, đã tiêu diệt thần chết. Ngài đã quy tụ tất cả đàn chiên lại chung quanh Ngài và trao phó đàn chiên cho sự chăm sóc, hướng dẫn của Giáo Hội. Chúa Giêsu còn tiếp tục dùng Thánh Thần để quy tụ tất cả muôn dân trở nên một đàn chiên duy nhất, không ai bị lạc ra khỏi tình thương và sự quan tâm của Ngài. Mục tử Giêsu tiếp tục nuôi dưỡng đàn chiên Giáo Hội bằng chính Máu Thịt của Ngài và hướng dẫn đàn chiên bằng Lời của Ngài và dùng các mục tử, cộng tác viên để tiếp tục yêu thương và phục vụ đàn chiên Ngài đã cứu chuộc.
Giáo Hội là đoàn chiên của Mục tử Giêsu, mỗi chúng ta là con chiên trong đoàn chiên của Ngài. Chúng ta không phải là một con số trong đàn chiên, mà mỗi người luôn được Chía Giêsu yêu thương cách riêng biệt và đặc biệt. Chúa Giêsu đưa ra hai tiêu chí để xác định những ai thuộc về đoàn chiên của Ngài: Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi. Như thế, để thực sự là chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta phải để cho Chúa biết chúng ta và chúng ta phải biết Chúa và nghe được tiếng Chúa.
3/ Là con chiên của Chúa, thuộc đoàn chiên là Giáo Hội, trước hết, chúng ta phải để cho Chúa biết chúng ta. Để cho Chúa biết có nghĩa là chúng ta phải dám mở lòng mình ra với Thiên Chúa, để cho Chúa dễ dàng đi vào tâm hồn, để cho Chúa dạy bảo, uốn nắn cuộc đời chúng ta. Chúa biết chúng ta yếu đuối, giới hạn, chúng ta cần đến ơn Chúa ; vì vậy, Chúa không ngừng ban ơn trợ giúp và dùng các Bí tích làm phương thế, là sức mạnh để bổ sức cho chúng ta
Chiên của Ta thì biết Ta và nghe tiếng Ta. Biết Chúa không chỉ là sự hiểu biết một số kiến thức hay lý tuyết về Thiên Chúa, nhưng là sự gắn bó nhận biết bằng trực giác, bằng tình yêu như con cái biết về bố mẹ mình. Biết mình được Chúa yêu thương, biết Chúa luôn muốn cho chúng ta hạnh phúc và Ngài hướng dẫn chúng ta đạt tới hạnh phúc đích thực. Như con cái biết cha mẹ mong đợi gì nơi mình, ta cũng phải biết Chúa mong đợi gì nơi chúng ta: Ngài mong chúng ta luôn ở bên Ngài, sống hiếu thảo với Ngài và tuân giữ Lời của Ngài; Ngài muốn chia sẻ với ta mọi lo toan của cuộc sống, và còn muốn gánh vác mọi nhọc nhằn cho cuộc đời của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng ngại ngần đến với Mục tử Giêsu, nghỉ ngơi trong vòng tay yêu thương, chăm sóc của Ngài và để cho Ngài an ủi, nâng đỡ, bổ sức cho ta.
Là con chiên của Chúa, biết Chúa, chúng ta còn phải cùng chia sẽ với khao khát của Mục tử Giêsu: Tôi còn những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi sẽ đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Mục tử Giêsu khao khát mong mỏi đưa các anh em khác về chung một đàn chiên, khao khát ấy cũng sẽ phải là khao khát của mỗi chúng ta. Chúng ta sẽ phải cùng với Ngài để đem các anh chị em khác về với Chúa, để họ cùng được sống trong tình thương và sự săn sóc của Ngài, cùng được nghe Lời của Ngài và cùng đạt đến đồng cỏ hạnh phúc Nước Trời.
4/ Là thành viên trong đàn chiên Giáo Hội địa phương là Giáo phận, Giáo xứ, chúng ta đang được sống trong sự chăm sóc của các mục tử đã được Chúa Giêsu tuyển chọn và ủy thác. Các ngài cũng là con chiên trong đoàn chiên của Chúa như mỗi chúng ta, nhưng các ngài được tuyển chọn để nhân danh Mục tử Giêsu yêu thương, phục vụ, chăm sóc và hướng dẫn anh chị em mình. Vì thế, chúng ta cũng được mời gọi cầu nguyện để các ngài hết lòng tận tụy hy sinh vì đoàn chiên theo gương Mục tử Giêsu; yêu mến, cộng tác giúp đỡ các chủ chăn để các ngài xứng đáng là những mục tử được Chúa trao phó và chu toàn việc chăm sóc chiên của Chúa. Chúng ta còn phải sống như những thành viên trưởng thành trong đoàn chiên của Giáo xứ, tích cực góp phần mình vào việc xây dựng tình hiệp thông, hiệp nhất trong đoàn chiên và cùng với chủ chăn để phục vụ và chăm sóc cho những anh chị em khác đang cần đến sự chăm sóc yêu thương của chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người luôn ý thức mình là con chiên trong đoàn chiên của Chúa, thuộc về Chúa để chúng ta chú tâm bước theo sự hướng dẫn của Mục tử Giêsu và làm theo lời chỉ dạy của Ngài để chúng ta có thể cùng với các anh chị em khác bước vào đồng cỏ Nước Trời với Chúa. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi xây nhà, quan tâm hàng đầu của chủ nhà là lắp đặt các khuôn cửa thật vững chắc để bảo vệ cho bản thân cũng như cho tài sản của mình. Khi vắng nhà hoặc vào ban đêm, chủ nhà phải khóa cửa cài then cẩn thận để bảo đảm cho người nhà được yên giấc và của cải được an toàn.
Người ta có thể tìm thấy trên thị trường nhiều loại cửa vững chắc và kiên cố để bảo vệ người nhà và tài sản, nhưng biết tìm đâu ra một thứ cửa đủ kiên cố có thể bảo vệ linh hồn con người được an toàn trước những đợt tấn công khốc liệt của ác thần?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su tự giới thiệu mình như một thứ Cửa cho chuồng chiên. Khi Cửa đóng lại, chiên bên trong được an toàn; khi Cửa mở ra, đoàn chiên sẽ được dẫn tới đồng cỏ xanh tốt.
Cửa đóng lại để bảo vệ chở che
Chúa Giê-su nói: “Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu”. Như thế, Ngài tự xem mình như cánh cửa được đóng lại sau khi đoàn chiên đã vào bên trong chuồng chiên. Nhờ đó, đoàn chiên được bảo vệ an toàn, không bị trộm cướp và ác thú giết hại.
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại lại có nhiều cạm bẫy của ác thần, nhiều nọc độc của văn hoá sự chết, nhiều cám dỗ tệ hại lôi kéo nhân loại vào vòng sa đoạ như trong thế kỷ hôm nay.
Vô vàn sách báo xấu xa, phim ảnh đồi trụy, tư tưởng độc hại, lối sống thác loạn… được quảng bá khắp nơi trên thế giới, được tung lên mạng lưới điện toán toàn cầu làm sai lệch méo mó lương tâm con người, khiến người ta xem tội ác là chuyện bình thường, giải quyết tranh chấp bằng bạo lực là chính đáng, xem hôn nhân đồng tính là lẽ tự nhiên, xem việc huỷ hoại đời sống chung thuỷ của vợ chồng là chuyện nhỏ…
Trước những nguy cơ khủng khiếp như thế đang đe doạ nhân loại trên khắp thế giới, chỉ có một lá chắn vững chắc, một cánh cửa an toàn, một thành trì kiên vững là Chúa Giê-su. Giáo huấn của Ngài là tấm Cửa che chắn đoàn chiên được an toàn không kẻ thù nào xâm hại được, nếu chiên của Ngài biết lắng nghe.
Cửa mở ra để dẫn đưa vào đồng cỏ thiêng liêng
Không chỉ đóng lại để bảo vệ chở che, Cửa Giê-su còn mở ra để mở lối cho nhân loại tiến vào đồng cỏ thiêng liêng. “Tôi là Cửa. Ai qua tôi … thì sẽ gặp đồng cỏ… Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào (Gioan 10, 9-10).
Các vị đại thánh trong Giáo hội như Phan-xi-cô Át-xi-di, Phan-xi-cô Xa-vi-ê, Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su của những thế kỷ trước hay những nhân vật tầm cỡ như thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta thời nay… nhờ được nuôi ăn trong cánh đồng cỏ thiêng liêng nầy nên đã được trở thành những danh nhân của nhân loại và những thánh nhân sáng ngời trong Hội thánh.
Nhân loại hôm nay như đàn chiên đói khát, đói khát lương thực tinh thần cách khẩn thiết, nhưng tiếc thay, còn lắm người chưa chấp nhận bước qua Khung Cửa Giê-su để được dẫn vào đồng cỏ thiêng liêng để bồi bổ cho tâm linh mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Cửa đóng lại che chắn nên chúng con được bảo vệ khỏi sự xâm nhập và tàn phá của ác thần;
Chúa là Cửa mở ra đồng cỏ xanh, nên chúng con được nuôi dưỡng sung mãn với vô vàn ân phúc của Chúa.
Xin cho nhân loại hôm nay biết tin nhận Chúa là Đấng bảo vệ che chở và dưỡng nuôi họ, nhờ đó mọi người được vui hưởng hồng phúc và hoan lạc muôn đời.
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Mục Tử Giêsu là một Mục Tử của Tân Ứơc, Vị Mục Tử Nầy đã thể hiện sứ mạng Thiên Sai cao cả đã minh chứng “cuộc tình” này với “đàn chiên” bằng cuộc Tử Nạn để “cứu thoát” đàn chiên.
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn “ chết vì kẻ thù ” thì không thiếu, nhưng “chết cho kẻ thù” thì không ai có thể làm được điều ấy, vì “dại gì mà làm”. Nhưng, Đức Kitô không “chết cho kẻ thù”, mà là : “ chết cho người mình yêu”. Vì , Người đã nói : “ … Ta đến để cho chiên của Ta được sống, và sống dồi dào” (Ga 10, 10 b).
Như vậy, Mục Tử Giêsu không nói suông, mà là đã thực thi như Lời Người nói.
Vâng, Đoạn Tin Mừng hôm nay có thể có 03 ý chính :
Thưa quý vị, Chúa Giêsu nói : “ Tôi là cửa cho chiên ra vào…” ( c7b), sau khi Người đã nói cho người Dothai biết “ý nghĩa” của cái cửa chuồng chiên. Cửa chuồng chiên bên Dothai không hẳn nhiên như cửa chuồng trâu, bò ở Việt Nam. Cửa chuồng chiên ở Dothai có khi chỉ là một cái vòng tròn, do người chăn chiên vẽ ra và chiên theo tín hiệu ấy mà vào. Dù bằng cách nào đi nữa, thì “cái cửa” chuồng chiên thật quan trọng, bởi vì nó nói lên nhu cầu thân thiết, quen thuộc của đàn chiên và người chủ chăn.
Nghề chăn chiên khá quen thuộc vì phổ biến bên Nước Dothai từ xa xưa, có thể nói từ nguyên sơ, người Dothai đã quen thuộc với nghề chăn chiên. Đặc tính của con chiên là con vật nuôi, hiền lành, thì dễ nhút nhát, sợ hãi với thú dữ và người lạ.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh thân quen đó mà mô tả “sứ mạng mục tử “ của Người, bởi vì tính cánh của chiên là như thế, thì người chăn chiên phải “yêu thương” săn sóc đàn chiên của mình đúng với tính cách của chiên. Người chăn chiên phải biết đặc tính của từng con chiên mà mình chăn dắt. Phải săn sóc như chúng được săn sóc., vỗ về yêu thương. Vì thế, người chăn chiên là “cái cửa ” để cho chiên ra vào, có nghĩa là sự giám sát, sự săn sóc, sự biết rõ từng con chiên một. Con chiên nào bệnh hoạn ốm đau thì người chăn chiên phải biết.
Tai sao Chúa Giêsu dùng hình ảnh “con chiên”, “người chăn chiên” để giàng dạy cho người Dothai? Thưa, vì Thiên Chúa muốn dùng hình ảnh gần gũi, quen thuộc đối với người Dothai là “hình ảnh con chiên”. Chiên là động vật hiền lành,người chăn nuôi khai thác được lợi tức từ nghề nuôi chiên, lấy lông, sữa, thịt. Đó là theo hình ảnh tự nhiên, còn hình bóng siêu nhiên, thì đoàn dân Chúa, tức “giáo dân” được trao cho những người mục tử Cựu Ứoc chăn dắt, thì họ ra sức khai thác theo nghĩa đen, giống như khai thác con chiên một cách không thương tiếc. Theo đó, Thiên Chúa ban Đấng Cứu Thế cho thế gian, ví như “con chiên” hiền lành được đem đi sát tế.
Khi Người đến thế gian, Người loan báo sứ vụ của Người như một “Mục Tử” nhân lành vì đoàn chiên. Hình bóng con chiên tự nhiên, được Chúa Giêsu nhân cách hóa hình ảnh “con chiên Nước Trời”. Vâng, vì vậy, Chúa Giêsu là Chủ chăn đàn chiên Nước Trời, người đến thế gian để chăn dắt đàn chiên của Thiên Chúa là chúng ta. Người Chủ chăn “đó” không bóc lột, không xén long, không vắt sữa, không làm thịt chiên. Mà trái lại , Người chăm sóc tận tình từng con chiên một, lấy chính Thịt, Máu mình để nuôi chiên. Vậy, ý nghĩa Chúa Giêsu ví mình như ” cái cửa “ là vậy đó. “ Cái Cửa” đ1o chỉ cho biết Người là Đấng duy nhất và đích thật chăn giữ đàn chiên của Thiên Chúa, để phân biệt với “kẻ chăn thuê” hay người lạ, tức phần tử bất hảo.
Vâng, ý nghĩa đoạn Tin Mừng ( Ga 10, 1- 10) hôm nay là đoạn Tin Mừng cho chúng ta biết sứ vụ cứu chuộc của Chúa Giêsu chính là “tình yêu cứu độ duy nhất” bởi Thiên Chúa. Bởi vì, là “cửa chuồng chiên”, Chúa Giêsu vừa là ông chủ, vừa là Người chăn chiên, chứ không phải là kẻ chăn thuê, khác với hình ảnh chăn thuê, Chúa Giêsu minh họa rõ nét về Người chăn chiên nhân lành. Những, hình ảnh nầy không có trong Cựu Ứơc. Chúng ta nhớ lại trong Cựu Ứơc, có lần Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ đối với những thầy tư tế Lê-vi là những người đã bóc lột dân chúng, việc dâng lễ trong đền thờ đã xúc pah5m đến Thiên Chúa, tội lỗi phía sau bàn thờ, những người con trai của những thầy tư tế đã xúc pah5n đến thiên Chúa. Tất cả những thứ tội lỗi phạm đến việc thờ phượng , không tuân giữ giới răn của Thiên Chúa, đến độ họ dâng lễ vật, máu chiên, bò để đền tội, nhưng cũng không nguôi lòng Thiên Chúa, vì thế, Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ cho muôn dân là Đức Giêsu – Kitô. Vì vậy, để hiểu rõ hơn Đoạn Lời Chúa hôm nay, chúng ta trở về với Cựu Ứơc. Vì vậy, lễ tế Cựu Ứơc không sánh với Lễ Tế Tân Ứơc là chính giao ước của Thiên Chúa đã thiết lập qua Đức Kitô và chính Người đã thực hiện, vì thế, Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, để cho chiên được sống và sống dồi dào
Đọan Tin Mừng hôm nay một lần nữa xác tín , Đức Kitô đã trở nên Vị Mục Tử duy nhất của Tân Ứơc . vị Mục Tử đã đến để cho chiên được sống và sống dồi dào, chứ không phải “ăn” của dân, mà là “cho “dân ăn và ăn no nê.
Theo đó, hôm nay là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành là ngày cầu cho ơn Thiên Triệu, tức “ơn gọi từ Trời”, chứ không phải từ nơi phàm nhân. Hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành GIÊSU chính là những hình ảnh mục tử thừa tác ngày nay theo đúng nghĩa đen và nghĩa bóng. Vậy, linh mục ngày nay không phải là “ Chúa Kitô khác” ( Alter Christus), nếu như vậy, cũng có thể hiểu là :”khác Chúa Kitô”, như vậy là không đúng. Phải nói là : “chính ( như ) Chúa Kitô”, có nghĩa là : “ Christum ipsum directio” mới sát nghĩa. Mong thay !
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Vị mục Tử nhân lành, Chúa đã đến vì đoàn chiên thân yêu và chính Chúa đã hiến mạng sống vì đoàn chiên, để cho chiên được sống và sống dồi dào. Xin cho mọi thời có nhiều người đáp lại tiếng Chúa để họ biết sống như chính Chúa là hy sinh hiến mạng sống mình vì đoàn chiên, như vậy, họ được xứng đáng tháp nhập vào Chúa như “cành liền cây”, quả thật , họ sẽ được trổ sinh hoa trái./. Amen
.
Lm. Jos. DĐH.
Quan niệm về người giữ cửa hay người gác cổng của một cơ quan hành chánh, một công ty xí nghiệp, dân gian vẫn hiểu họ chỉ là những cá nhân bình thường trong xã hội. Người nổi tiếng, các y bác sĩ tài đức, giáo sư giỏi, họ luôn bị thu hút về thành phố lớn, nơi dân trí có trình độ cao, với hy vọng sẽ có thu nhập khá hơn. Hình ảnh “bắt mắt” chưa chắc đã phải là những hình ảnh chuẩn mực, hoạt động có ích đâu giới hạn bởi một vài cá nhân, đất nước vững mạnh là nhờ mối liên kết chặt chẽ giữa các phần tử xã hội. Thực tế thì tài giỏi đức độ, người thành đạt hay kém may mắn, giầu nghèo, địa vị, tất cả vẫn đang sống chung trong sự bao bọc của gia đình nhân loại, dù ta đã ý thức hoặc chưa đủ ý thức.
Hàng ngày và từng phút giây trong đời, con người đang tự do hít thở nguồn sinh lực rất thiêng liêng, cơ hội ấy, nỗi niềm ấy, có người thật hạnh phúc, có người vẫn đang thất vọng vì cuộc sống của họ chỉ là mảng tối lý thuyết. Vì quanh ta, không ít trường hợp đang tự đánh mất đi giá trị thiêng liêng của gia đình Giáo hội, quên đi sự che chở yêu thương của cộng đồng xã hội. Thật câu ca dao mà tiền nhân ta đúc kết quả là thấm thía: cây cao bóng mát không ngồi, ra ngồi chỗ nắng, trách trời không râm. Hôm nay tuần 4 Phục Sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta hiệp thông cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ, cầu nguyện thì ai cũng cầu rồi, nhưng cầu nguyện theo tinh thần của Chúa thì chưa biết thế nào ?
Ở trong gia đình huyết thống, gia đình nhân loại, hay sống trong một gia đình “bề thế”, mỗi thành viên đều có một chỗ đứng, có chung niềm hạnh phúc, có chung nguồn yêu thương. Đức Giêsu hôm nay gợi lên cho chúng ta thấy vị trí “cửa chuồng chiên” thật quan trọng, được sánh ví như nhà phải có cửa để ra vào, chiên cừu thì phải có nơi ăn chốn ở, đối tượng nào cũng cần được chăm sóc bảo vệ. Khi cho thấy “chuồng chiên” phải có cửa, đàn chiên phải có “chủ”, chiên đến đồng cỏ xanh tươi, trở về chuồng trại bình an, không thể thiếu người chăn chiên đủ nhiệt huyết. Trong bối cảnh thật giả lẫn lộn, mức độ nắm bắt của con người thì vẫn giới hạn, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Ta là cửa chuồng chiên”.
Ngày hôm nay, con người vẫn đầy thiếu sót bất toàn, Đức Giêsu không cần ta tìm kiếm dấu vết của thật giả, tốt xấu, nhưng hãy tin lời Ngài: “Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân”. Để được bảo vệ chăm sóc, để đạt tới hạnh phúc đời đời, không phải là lúc ta dò hỏi đâu là mục tử tốt lành, cánh cửa cứu rỗi hiện ở đâu ? Nhưng hãy suy xét tôi có đang chung sống trong đại gia đình nhân loại, tôi có tin Đức Giêsu là Mục tử đang dẫn dắt đoàn chiên không ? Vị Mục tử Giêsu sẽ không hỏi ta thẻ sinh viên đâu, cũng sẽ không hỏi ta sử dụng ngôn ngữ nào, Ngài sẽ hỏi bạn có tin Đấng chịu tử nạn phục sinh không, và bạn đang sống niềm tin đó thế nào ?
Ngày hôm nay, cánh cửa nào cũng có then cài, một số cổng, cửa còn có bảo vệ, có ca-me-ra giám sát, không dễ gì ta có sự tự do để tùy ý ra vào, dù làm việc tốt hay xấu. Riêng cánh cửa Giêsu thì lúc nào cũng rộng mở, Ngài tiếp nhận và mời gọi chúng ta chung sống mãi với Đại gia đình Hội Thánh, Ngài còn sẵn lòng làm “vệ sĩ” cho từng tâm hồn ta, nếu ta muốn. Ngày hôm nay, người tín hữu chúng ta vẫn hiểu, Đức Giêsu chính là cánh cửa duy nhất dẫn ta đến sự sống đời đời, Vị Mục tử Giêsu sẽ hiểu chiên, chỉ Mục tử Giêsu mới đủ tình yêu thương biến đổi tâm hồn của chiên. Ngày hôm nay cánh cửa Giêsu vẫn thông thoáng, không giới nghiêm, không phân biệt, nhưng luôn đặt để ta trong qui trình yêu thương để được nên giống Đấng đã chết và sống lại vì gia đình nhân loại.
Cha ông chúng ta có câu: máu ai cũng đỏ, nước mắt ai cũng mặn, trái tim ai chẳng phải rung đập. Rõ ràng tình quê hương, tình gia đình, hay tình huynh đệ, tất cả đều đẹp, và đang được chung sống trong gia đình Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Đấng phục sinh đang mời gọi từng tâm hồn, hãy cùng với Ngài tiếp tục mở rộng cánh cửa yêu thương, để qua đó trách nhiệm và bổn phận được làm tròn đầy, ta sẽ hạnh phúc hơn khi chung sống trong Đại gia đình của Chúa. Xin Vị Mục tử Giêsu tiếp tục ban ơn, ban điều kiện, để tất cả mọi nhà, mọi tâm hồn được nên một đàn chiên duy nhất mà Chúa đã yêu thương thiết lập. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH. NĂM A
Lm. Anthony Trung Thành
Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật IV Phục Sinh này để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Vì thế, Lời Chúa hôm nay xoay quanh chủ đề mục tử và chiên. Đức Giêsu gọi mình là mục tử thật, mục tử nhân lành. Ngài cũng muốn những ai tham dự vào chức vụ mục tử cũng hãy trở nên mục tử thật, mục tử nhân lành chứ không phải là mục tử giả. Còn những ai là chiên của Ngài thì cũng phải là chiên thật chứ không phải là chiên giả. Vậy, thế nào gọi là mục tử thật, mục tử nhân lành? Thế nào gọi là mục tử giả? Thế nào gọi là chiên thật hay chiên giả?
1. Thế nào gọi là mục tử thật?
Mục tử thật là mục tử “đường đường chính chính” luôn yêu thương đàn chiên: hiểu biết và cảm thông với đàn chiên; lo lắng chăm nom đàn chiên; sẵn sàng hy sinh vì đàn chiên. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết thế nào là vị mục tử thật: “Ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy”(Ga 10, 1-4).
Đức Giêsu chính là mục tử thật. Ngài là vị mục tử nhân lành. Chính Ngài tuyên bố: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”(Ga 10, 14 ). Thật vậy, Ngài là mục tử nhân lành: Vì Ngài không những biết từng con chiên mà Ngài còn đi tìm các con chiên bị thất lạc: “Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng”(Ez 34, 10); Ngài chăm sóc và băng bó những con chiên bị xây xát, bệnh hoạn: “Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức”(Ez 34, 16); Ngài cho các con chiên được sống dồi dào: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”(Ga 10,10).
Điều này đã được chứng minh một cách cụ thể qua những hành động trong suốt ba năm đời sống công khai của Ngài: Chính Ngài đã từng gặp gỡ và chữa lành các bệnh nhân, tha thứ cho những người tội lỗi; chính Ngài là người cha trong “dụ ngôn người cha nhân hậu”(x. Lc 15, 11-32), là người chủ chiên trong “dụ ngôn con chiên bị mất”(x. Lc 15,4-7), là người đàn bà trong “dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất”(x. Lc 15, 8-10); chính Ngài đã chấp nhận hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,11). Không những thế, Ngài còn hơn hẳn các mục tử bình thường vì chỉ có Ngài mới cho đàn chiên được sự sống đời đời: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”(Ga 10,28).
2. Thế nào gọi là mục tử giả?
Đức Giêsu cho chúng ta biết thế nào là mục tử giả: Đó là những mục tử “đường đường chính chính”, nghĩa là những kẻ không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác; đó là những kẻ đến chỉ để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ đàn chiên (x. Ga 10,10).
Thật vậy, mục tử giả là mục tử không có trách nhiệm với đàn chiên: “Con chiên nào mất, nó chẳng quan tâm; con thất lạc, nó chẳng đi tìm; con bị thương, nó không chạy chữa; con mạnh khoẻ, nó chẳng dưỡng nuôi” (Dc 11,16a); mục tử giả là mục tử không lo chăn dắt đàn chiên mà chỉ nghĩ đến mình, sẵn sàng bóc lột đàn chiên để phục vụ cho nhu cầu của mình, như tiên tri Êdêkiel đã nói: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Ed 34,3); mục tử giả là mục tử thống trị đàn chiên “một cách tàn bạo và hà khắc” (x. Ed 34,3); mục tử giả là mục tử “đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến đàn chiên” (x. Gr 23,2b); mục tử giả luôn tác hại đến đàn chiên, có thể làm cho đàn chiên phải tan tác (x. Gr 23,2).
Tóm lại, mục tử giả không có tình thương với đàn chiên, không muốn mang vào mình “mùi chiên”, không chấp nhận hy sinh, thiệt thòi về mình vì đoàn chiên, trái lại coi đàn chiên như là phương tiện, bắt chúng phải hy sinh phục vụ cho lợi ích riêng tư và tham vọng của mình.
3. Thế nào là chiên thật?
Chiên thật là chiên biết nghe tiếng của Chủ chiên. Đức Giêsu nói: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất”(Ga 10, 27). Tiếng chủ chiên ở đâu? Đó là tiếng Chúa qua Kinh Thánh; đó là lời giáo huấn của Hội Thánh; đó là tiếng nói của lương tâm; đó là sự hướng dẫn dạy dỗ của những kẻ thay mặt Chúa như cha mẹ, thầy cô giáo, anh chị và những người khôn ngoan.
Chiên thật thì phải biết tin tưởng, phó thác và yêu mến Chủ chăn của mình. Vì Chủ chiên luôn quan tâm, chăm sóc và cho chiên được sống và sống dồi dào. Điều đó được diễn tả một cách cụ thể qua Thánh vịnh 22: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).
Ngày hôm nay, Đức Giêsu mục tử nhân lành vẫn tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta qua Lời của Ngài, qua các Bí tích. Ngài chăm sóc chúng ta qua Giáo Hội của Ngài. Vì vậy, chúng ta phải đáp trả bằng việc lắng nghe, tin tưởng phó thác và yêu mến Ngài.
4. Thế nào là chiên giả?
Đó là những người kitô hữu trên danh nghĩa nhưng không sống theo tinh thần của Bí tích Rửa tội là từ bỏ ma quỷ và tuyên xưng đức tin.
Đó là những kẻ không thực hành bác ái yêu thương như lời Đức Giêsu nói: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” Nên gọi họ là dê (x. Mt 25,31-46).
Đó là những “giáo gian”, là những kitô hữu luôn bắt cá hai tay, bên nào có lợi cho mình thì theo bên đó. Họ có thể vì tiền, vì quyền, vì lợi ích của mình mà bán rẻ Giáo Hội, bán rẻ anh chị em của mình.
5. Câu hỏi gợi ý và cầu nguyện
Mỗi người chúng ta hãy tự xét mình xem: Tôi có phải là mục tử thật, mục tử tốt lành đối với những người Chúa giao phó cho tôi coi sóc không? Hay tôi chỉ là mục tử giả, là kẻ trộm cướp? Tôi có phải là con chiên thật, con chiên ngoan trong đoàn chiên của Chúa của Giáo Hội không? Hay tôi chỉ là con chiên giả, thậm chí là con dê luôn phá hoại Giáo Hội, làm hại anh chị em mình? Tôi đã đóng góp gì cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ ?
Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con trở thành những mục tử nhân lành khi chúng có có trách nhiệm với anh chị em mình. Đồng thời, xin cho chúng con luôn là con chiên ngoan hiền trong đàn chiên của Chúa và Giáo Hội. Amen.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Ai không qua cửa mà vào,
Đi qua lối khác, trèo rào nhảy dô.
Đó là trộm cướp hồ đồ,
Giả nhân bất nghĩa, nông nô gian tà.
Ai mà qua cửa vào ra,
Chúa chiên dẫn dắt, hải hà yêu thương.
Nhiệt tâm đi trước dẫn đường,
Đàn chiên theo lối, tựa nương tháng ngày.
Đồng xanh cỏ mới tràn đầy,
Bên dòng suối mát, sum vầy thảnh thơi.
Chăm nom sức khỏe mọi thời,
Con nào yếu bệnh, tới nơi chữa liền.
Chính Ta là cửa chuồng chiên,
Dủ lòng thương xót, nhân hiền bao dung.
Xả thân yêu mến đến cùng,
Chiên Ta nghe tiếng, tín trung gọi mời.
Lãnh ơn cứu độ muôn đời,
Ban cho sự sống, cao vời biết bao.
Đàn chiên được sống dồi dào,
Chúa Chiên chiến thắng, bước vào vinh quang.
Kinh Thánh Cựu Ước dùng hình ảnh con chiên hiền lành trong nhiều vai trò khác nhau. Chiên gánh tội thay cho người ta. Dùng chiên để hiến tế. Giết chiên để tưởng niệm mỗi dịp lễ Vượt Qua. Chiên bị đem xén lông không kêu ca. Hình ảnh con chiên qúa quen thuộc trong các cuộc dâng tiến lễ toàn thiêu của người Do-Thái.
Chúa Giêsu được thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Thiên Chúa là mục tử tốt lành. Người mục tử chăm sóc từng con chiên. Người mục tử uốn nắn và sửa trị từng con chiên trong tình yêu thương. Chúa Giêsu được gọi là Chúa Chiên Lành. Chúa Chiên hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Chúa Chiên sống chết với bày chiên của mình. Người tin Chúa được gọi là con chiên, hình ảnh chiên con bước theo chủ chiên.
Chủ chiên tốt lành là chủ chiên đi trước và đàn chiên theo sau. Chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Truyện kể: Có hai đàn chiên ở chung một chuồng. Sáng sớm người chủ chăn hô to Marah, tất cả các chiên của ông rời chuồng đi theo ông. Người thợ chăn kia thấy thế lấy làm ngạc nhiên. Ông mượn áo choàng và gậy của người chăn chiên, ông hô Marah, nhưng chẳng có con chiên nào để ý đến. Ông hỏi người chăn chiên: Có khi nào chiên của ông đi theo người khác không? Chủ chiên nói rằng: Có chứ, đôi khi con chiên bị bệnh hay cứng đầu. Nó sẽ đi theo người khác. Chiên ngoan hiền sẽ theo chủ của nó.
Chúng ta có Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên tốt lành. Chúa đã lập Giáo Hội và trao quyền chăm sóc cho các tông đồ và những người kế vị các ngài. Trong Giáo Hội, Chúa tiếp tục chăn dẫn đoàn chiên tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi. Nơi có nguồn sống ân điển và sự sung mãn. Chúa bồi dưỡng đàn chiên qua các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể.
Hình ảnh chủ chiên tốt lành là hình ảnh của các cha mẹ, thầy cô, các tu sĩ, linh mục, những người có trách nhiệm hướng dẫn tinh thần. Họ là mẫu gương đi trước, hướng dẫn cho đoàn con cái theo sau sống con đường chính trực. Họ cần hiểu biết nhu cầu của từng cá nhân, từng thành viên. Hiểu được tâm trạng và hoản cảnh khó khăn của từng người. Với sự cảm thông, họ có thể cùng nâng đỡ, ủi an và khuyến khích nhau sống đạo.
Chúa Chiên đã hy sinh cho đoàn chiên. Các bậc cha mẹ và thầy dạy được mời gọi trở nên những chủ chăn tốt. Biết dẫn dắt con cái đến dòng suối mát của yêu thương và thông cảm. Con cái ngoan hiền biết nghe theo lời của chủ chăn. Xin Chúa cho chúng con luôn là những con chiên ngoan hiền biết lắng nghe và bước theo tiếng chủ chiên.
.
MỤC TỬ: THIÊN CHÚA VÀ CON NGƯỜI
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Từ rầt xa xưa, hình ảnh người chăn chiên là hình quen thuộc. Đoàn chiên và người chăn chiên đã bước vào lịch sử cứu độ cách hết sức êm đềm, thân thiện như chính bản chất vốn có của con chiên và người dẫn dắt nó. Vì thế, có quá nhiều hình ảnh liên quan đến mục tử và chiên – Thiên Chúa và loài người.
1. Thiên Chúa là Mục Tử Nhân Lành.
– Ngay những trang đầu Kinh Thánh, văn hoá du mục đã gắn liền với ơn gọi của Thiên Chúa, khi Người trao cho con Người: Thiên Chúa tuyển chọn các tổ phụ Abraham, Ixaác, Giacóp, Môsê… từ nơi đồng cỏ, giữa đoàn chiên… Nhiều tiên tri lãnh nhận ơn kêu gọi của Thiên Chúa đang khi chăn dắt đàn chiên của mình…
– Trải qua các thời kỳ: tổ phụ, thủ lãnh, tiên tri và quân chủ, Thiên Chúa không ngừng huấn luyện, đào tạo dân riêng. Chính Thiên Chúa trao ban sáng kiến cứu độ và dạy toàn dân đợi chờ ơn cứu độ. Thiên Chúa luôn đi bước trước trong sáng kiến để thiết lập giao ước và duy trì sự trung thành với giao ước.
– Từng trang Kinh thánh, mỗi lần nhắc tới Đấng Thiên Sai của tương lai, Đấng Cứu Tinh, Đấng Mêsia, tất cả đều dùng hình ảnh người chăn chiên ám chỉ “Đấng nhân danh Chúa mà đến” sẽ là Mục Tử chăn dắt dân Thiên Chúa trong đường lối chính trực, công minh.
– Đặc biệt, Thánh vịnh nhiều lần ca tụng Thiên Chúa là Chủ Chăn bênh vực, chăm lo cho dân Người:
* “Lạy Chúa, chính Ngài là khiên che thuẫn đỡ, là vinh dự của con, là Đấng cho con được ngẩng đầu bất khuất” (Tv 3, 4).
* “Con ẩn náu bên Ngài, xin cứu vớt và giải thoát con” (Tv 7, 2).
* Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).
Suốt bao nhiêu ngàn năm, hình ảnh chủ chăn và đoàn chiên vẫn là hình ảnh đẹp, trở thành chủ đề xuyên suốt lịch sử ơn cứu độ.
Qua đó, Thiên Chúa bộc lộ chính mình là Mục Tử Nhân Lành, tràn tình yêu, đầy lẽ sống, luôn dịu dàng. Đấng là Mục Tử Nhân Lành không chỉ sẵn sàng mà còn không ngừng trao ban cho con người là đoàn chiên mà Người chăn dắt chính bản thân Người qua sự quan phòng lãnh đạo quyền năng, nhân từ, rộng lượng.
Thiên Chúa thể hiện, chính Người gầy dựng đàn chiên, tức dân riêng của Người. Thiên Chúa không ngừng gìn giữ, bảo vệ họ, để dù trải qua không biết bao nhiêu sóng gió, nhất là những lúc họ quỵ ngã trong tội, họ phản bội và vô ơn với Người, hay khi họ phải mang thân nô lệ, bị chà đạp quyền sống, lầm lũi hoang mang trong sa mạc đằng đẳng bốn mươi năm, hoặc bị phác lưu tủi nhục… Tất cả chỉ đặt dấu ấn của một mình Thiên Chúa, Đấng dẫn dắt, chăm sóc bằng bàn tay uy lực và từ ái.
2. Chúa Giêsu, hiện thân của Thiên Chúa nơi trần gian.
Chúa Giêsu là nguồn mạc khải trọn vẹn về Chúa Cha và của Chúa cha, để qua Người, khi thể hiện mình là Mục Tử Nhân Lành, Chúa Giêsu cho biết, từ nơi Người, Chúa Cha đón nhận chúng ta, yêu thương chúng ta, tha thứ cho chúng ta, ban cho chúng ta sự sống thần linh để chúng ta sống và sống dồi dào.
– Bởi chính Chúa Giêsu là Mục Tử, nên Chúa ưu ái với các mục tử. Ngay buổi bình minh của Tân Ước, trong đêm Chúa giáng sinh, chỉ các mục đồng mới trở thành những người đầu tiên lãnh nhận tin mừng giáng sinh và sứ mạng loan báo tin vui cứu độ Con Thiên Chúa đã giáng trần.
– Chúa Giêsu, vốn là Thiên Chúa, lại chấp nhận trở thành một trong những thân phận hèn kém, mong manh như chúng ta. Người hoàn toàn vâng thánh ý Chúa Cha để hòa mình với trần gian sống khiêm nhường trong gia đình Nagiaret nghèo khó.
– Chúa Giêsu, một đời làm người nơi dương thế, là một đời kể từ khi sinh ra, sống, chết, sống lại, được vinh thăng trên trời là để mang ơn cứu độ cho chúng ta.
Nhất là trong những năm ra đi công khai, Chúa Giêsu luôn tận tụy rao giảng Tin Mừng nước trời, Tin mừng tình yêu. Chúa đồng sớt chia và chấp nhận mọi khó khăn, mệt nhọc, mọi phản ứng chống đối.
Nhiều lần Chúa chạnh lòng thương những ai bơ vơ không người chăn dắt. Chúa thực hiện nhiều phép lạ chữa lành nhiều bệnh tật. Chúa yêu thương quan tâm những người nghèo, người bị bỏ rơi, người bị gạt ra bên lề đời sống tôn giáo và xã hội…
– Chúa Giêsu chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên cho đến tận cùng. Không ai có thể cướp chiên khỏi tay Chúa. Không ai có thể lấy đi sự sống đời đời mà chiên nhận được từ nơi Chúa.
– Nhiều lần Chúa Giêsu khẳng định: Ta Là Người Chăn Chiên Tốt Lành. Chúa không chỉ minh họa sự tốt lành bằng dụ ngôn Con chiên lạc và người chăn tìm kiếm rồi vui mừng vác chiên lên vai trở về, mà đến khi hoàn tất hành trình dương thế, chính Chúa sẵn sàng hiến thân nhận lấy cái chết tủi nhục trên thánh giá cứu chuộc đàn chiên mà Chúa lãnh nhận trách vụ chăn dắt.
Chúa Giêsu vui nhận thánh giá để nói lên tình yêu có một không hai trên cõi đời. Đó là tình yêu của một vì Thiên Chúa cao sang hạ cố chính mình, chết cho loài thụ tạo mà mình dựng nên.
Mãi mãi Chúa Giêsu tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn dân bằng chính thịt máu Người. Đó là sáng kiến độc đáo mà Chúa Giêsu thiết lập để mãi mãi tiếp tục hiện diện giữa đoàn dân của Người bằng phương cách bí tích. Nhờ Thánh Thể, Chúa ở lại và đồng hành với dân Người cho đến muôn đời.
3. Chúng ta là mục tử cho nhau.
Cách đây hơn hai năm, tôi chít lên đầu vành khăn tang tiễn đưa người ông của mình, một linh mục cao niên, nhưng qua đời khá đột ngột. Kế tiếp, tôi tiễn đưa người bạn mới ngoài năm mươi tuổi, làm linh mục chưa đầy hai mươi năm. Chẳng lâu sau, tôi tiếp tục bàng hoàng chia tay một linh khác trong giáo phận nhà, cũng chưa tròn sáu mươi. Vài ngày trước , tôi lại tham dự thánh lễ an táng một linh mục giáo sư Đại Chủng viện mới ngoài sáu mươi…
Tất cả đều giống nhau: Họ rời trần thế quá đột ngột, trong khi tất cả còn đang hoạt động, sức sống vẫn căng tràn, độ nhanh nhạy trong những giải quyết, những liên đới, những quyết đoán… đều chưa có dấu hhiệu suy giảm…
Những cái chết như thế, gieo trong lòng người ở lại không ít thương đau, tiếc nhớ. Chỉ có niềm an ủi trong đức tin mới có thể xóa nỗi nghẹn ngào cho bất cứ ai có liên quan thân tình với người nằm xuống.
Tuy thời gian có thể sẽ làm lành mọi vết thương, và lớp bụi của nó có thể phủ lấp để đẩy mọi thứ vào quá khứ, thậm chí vào quên lãng. Nhưng với người hay hoài niệm, chắc phải cần đến độ dài năm tháng…
Sở dĩ người còn ở lại khó quên là vì tất cả họ đã từng hiện diện bằng một đời tận tụy trong chức năng mục tử. Họ noi gương Chúa Giêsu Mục Tử để thi hành cách tốt nhất, triệt để nhất ơn gọi làm mục tử của mình.
Nói như thánh Augustinô: “Cho anh chị em, tôi là giám mục, cùng với anh chị em tôi là Kitô hữu”, tôi nhận ra nơi họ hình ảnh sống động của Augustinô hôm nay. Bởi họ đã từng sống ơn gọi linh mục vì anh chị em, và làm Kitô hữu với anh chị em.
Tuy nhiên, chúng ta đừng giới hạn chức năng mục tử cho giám mục, linh mục mà thôi, nhưng tất cả chúng ta là mục tử cho nhau. Trong từng vai trò theo khả năng mà ơn gọi của mình đòi hỏi, có thể là cha mẹ, anh chị em, bè bạn, những người thân thuộc, những người ở gần bên nhau, những người có trách nhiệm về người khác…, đều có nghĩa vụ lôi kéo nhau về đàng lành, noi gương đời sống thánh thiện, gây ảnh hưởng về một lối sống công chính cho nhau…
Là mục tử cho nhau, chúng ta cùng nhìn lên Chúa Giêsu Mục Tử mà học nơi Người tinh thần vâng phục trong mọi hoàn cảnh, mọi biến cố của đời mình, để luôn luôn đặt thánh ý Thiên Chúa lên trên mọi sự, mọi quyết định, mọi hành động.
Chúa ta học nơi Chúa Giêsu lòng khiêm nhường, hiền hậu và sự hy sinh dâng hiến, dù phải dâng hiến cả bản thân, cả cuộc sống, cả quyền lợi tư riêng của mình.
Chúng ta học nơi Chúa Giêsu đời sống công chính, để luôn luôn tiến đi chỉ trên một con đường, đó là sự thánh thiện mà thôi.
Ước mong, mỗi chúng ta là mục tử cho nhau, sẽ giúp đỡ nhau để cùng tiến về hạnh phúc vĩnh cửu như Chúa muốn.
.
ĐỨC GIÊSU MỤC TỬ VÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 10,1-10
(1) “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2) Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh, anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ. (6) Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ. (7) Vậy, Đức Giê-su lại nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. (9) Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu Đức Giê-su vừa là mục tử vừa là cửa chuồng chiên:
– LÀ MỤC TỬ THẬT SỰ CỦA DÂN ÍT-RA-EN: Vì Người đi qua cửa chính mà vào chuồng chiên và được người giữ cửa là Gio-an Tẩy Giả giới thiệu. Do đó, Người được đàn chiên là dân chúng nghe theo. Còn các đầu mục Do thái chỉ là người lạ, nên chiên chạy trốn và không đi theo họ.
– LÀ CỬA CHO CHIÊN RA VÀO: Các luật sĩ và Biệt phát không tin Đức Giê-su và không được Thiên Chúa ủy nhiệm coi sóc đàn chiên. Họ leo rào mà vào chuồng nên chỉ là hạng trộm cướp. Kẻ trộm đến chỉ để giết hại và phá huỷ đàn chiên. Còn Đức Giê-su đến để đem lại cho chiên sự an toàn, tự do, lương thực và sự sống dồi dào.
3. CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Ràn chiên: hay chuồng chiên, là hình ảnh quen thuộc của dân Do thái vốn là một dân du mục. Ở đây ràn chiên là hình ảnh ám chỉ Giáo hội là Nước Trời hay Nước Thiên Chúa. + Cửa vào: Mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa chính để chiên ra vào. Ai muốn được công nhận là mục tử đích thực của Chúa phải qua cửa chính là Đức Giê-su mà vào Hội Thánh. Họ phải được Người tuyển chọn và trao sứ mệnh chăn chiên. Còn kẻ trèo qua lối khác mà vào, như các kinh sư hay Pha-ri-sêu, thì chỉ là mục tử giả hiệu hay hạng trộm cướp. + Người giữ cửa mở cho anh ta vào: Đức Giê-su chính là Mục tử đích thực, vì Người đã được người giữ cửa là Gio-an Tẩy Giả làm chứng là “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,31-34). + Và chiên nghe tiếng của anh: Đàn chiên chỉ nhận biết và nghe theo một chủ chăn duy nhất, như các Tông đồ đã nghe lời và đi theo một mình Đức Giê-su (x. Ga 1,35-51). + Anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra: Trong ràn có nhiều đàn chiên. Ban chiều, mỗi mục tử sẽ đưa đàn chiên vào ràn, rồi đến sáng sẽ lại đến dẫn đàn chiên ấy ra khỏi chuồng để dẫn đến đồng cỏ cho chúng ăn cỏ uống nước. Đây là kiểu nói cường điệu. Thực ra các mục tử chỉ đặt tên và gọi tên một con chiên đầu đàn thôi và các con khác sẽ theo sau con chiên đầu đàn này ra ngoài. Ở đây Đức Giê-su nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm của Người là vị Mục tử tốt lành, khác với các Pha-ri-sêu và kinh sư là những kẻ chăn thuê vô trách nhiệm.
– C 4-6: + Anh ta đi trước và chiên đi theo sau: Câu này nhắc đến sứ mệnh Mục tử của Đức Giê-su: Khi đã kéo Môn đệ ra khỏi thế gian (x. Ga 15,19). Người đi tiên phong dẫn họ tới đồng cỏ non là Hội Thánh. Chiên sẽ nhận biết tiếng nói và chỉ đi theo Mục tử Giê-su, vì Người luôn nói Lời của Thiên Chúa cho họ (x. Ga 14,10). + Chúng sẽ không theo người lạ,..: Người lạ là những kẻ không do Thiên Chúa sai đến, nhưng đã leo rào mà vào. Người lạ ám chỉ các đầu mục dân Do thái đương thời. Vì họ không phải là mục tử đích thực, nên chiên đã không đi theo họ mà trái lại chúng còn lẩn trốn họ nữa.
– C 7-8: + Tôi là cửa cho chiên ra vào: Vì thính giả không hiểu ý nghĩa dụ ngôn, nên Đức Giê-su phải giải thích rõ ràng: Người chính là cửa chuồng chiên tức là cửa ngõ để vào Nước Trời, mà ai muốn vào Nước Trời ấy đều phải tin Người. + Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ: Mọi kẻ đến trước ở đây không nhằm chỉ các ngôn sứ Cựu Ước, mà chỉ nhắm tới những kẻ không được Thiên Chúa sai như các pha-ri-sêu và kinh sư Do thái (x. Mt 23,1-8). Họ bị Đức Giê-su quở trách là bọn đạo đức giả, cản đường người khác gia nhập Nước Trời, có lòng tham lam, ăn ở bất công, dẫn dường đui mù và đã từng giết hại nhiều vị ngôn sứ chân chính (x. Mt 23,13-32).
– C 9-10: + Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu: Đức Giê-su là con đường người ta phải đi ngang qua để được vào Nước Trời. Tương tự như câu: “Thầy là đường…Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). + Người ấy sẽ ra vào: Ra vào nghĩa là được tự do đi lại. + Gặp được đồng cỏ: Trong Đức Giê-su, các tín hữu sẽ được cứu khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và ma quỷ. Họ sẽ được hưởng tự do đích thực (x. Ga 8,31-36). Nhờ Đức Giê-su, họ sẽ tìm được của nuôi thân là Nước hằng sống và Bánh trường sinh (x. Ga 4,14 ; 6,35). + Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy: Kẻ trộm ám chỉ các đầu mục Do thái, vì không được Thiên Chúa sai đến, nhưng họ đã leo rào mà vào chuồng chiên. Họ chỉ đi tìm lợi ích cho bản thân hơn là lợi ích của đàn chiên (x. Mt 23,4-7). + Tôi đến cho chiên được sống và sống dồi dào: Nhờ có lương thực là Lời Chúa và Thánh Thể, mà đức tin của các tín hữu sẽ trở nên vững mạnh và có được sự sống đời đời.
4. CÂU HỎI:
1) Ràn chiên nghĩa là gì và là hình ảnh ám chỉ điều gì? Cửa vào ám chỉ ai? 2) Đức Giê-su là Mục Tử thực sự của đoàn chiên vì đã được Gio-an Tẩy Giả là người giữ cửa làm chứng như thế nào? 3) Đàn chiên chỉ nhận biết tiếng nói và đi theo ai? Phải chăng mọi con chiên đều được đặt tên và mỗi buổi sáng người mục tử phải gọi tên từng con chiên để dẫn chúng ra khỏi chuồng? 4) Ý nghĩa của câu: anh ta đi trước và chiên đi theo sau… là gì? 5) Tại sao đàn chiên không nghe theo người lạ? Người lạ nói đây ám chỉ những ai? 6) Những kẻ đến trước được liệt vào hạng trộm cướp nói đây ám chỉ ai? Tại sao? 7) Đức Giê-su tự nhận mình là cửa chuồng chiên mà ai muốn vào chuồng chiên phải đi qua, giống như nơi khác Người đã tự ví mình là gì? 8) Kẻ trộm đầu mục Do thái khác với vị Mục Tử tốt lành là Đức Giê-su thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LÒI CHÚA: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9)
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC GIO-AN PHAO-LÔ II – HÌNH ẢNH MỤC TỬ NHÂN LÀNH :
Ngày 27/04/2014, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã được Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh. Người là một người môn đệ đã hoạ lại rõ nét hình ảnh mục tử của Thầy Chí Thánh Giê-su. Một vị mục tử luôn làm việc : Cho dù tuổi đã cao lại thêm nhiều bệnh tật, thế mà ngài vẫn luôn hiện diện bên đàn chiên, vẫn lên tiếng gọi đàn chiên, vẫn là chỗ dựa vững chắc và an toàn cho đàn chiên. Đến nỗi khi ngài qua đời, Đức tổng Giám mục Lê-ô-nar-do San-dri, thứ trưởng Ngoại giao của Toà Thánh đã nói với toàn thể thế giới rằng: “Hôm nay, chúng tôi trở thành những đứa con mồ côi”.
Tại sao người ta lại tỏ lòng thương tiếc một cụ già như thế? Có phải người ta ngưỡng mộ Ngài vì ngài nhiều tiền, nhiều quyền thế không? Thưa không phải thế. Người ta thương tiếc ngài như một mục tử đã sống hết mình vì đàn chiên. Một mục tử canh giữ hoà bình không chỉ cho đàn chiên mà cho hàng tỉ người trên khắp hành tinh này. Người mục tử với 26 năm chăn dắt đàn chiên của Chúa đã không ngừng bảo vệ quyền sống của con người, nhất là của các thai nhi. Người mục tử đã không ngừng đi đến tận cùng thế giới để gieo rắc an bình, công bình, tha thứ và yêu thương. Người mục tử đã đi đến cùng đường để quy tụ đàn chiên, để tìm kiếm các con chiên lạc đưa về một mối và cuối đời, trong những tiếng nấc hoà trộn với hơi thở bị ngắt quãng, ngài đã nói với đàn chiên đang canh thức cầu nguyện cho ngài trong giờ lâm chung rằng: “Ta đã đi tìm kiếm các con. Và bây giờ các con đã đến với Ta. Ta xin cám ơn các con”.
2) MỘT BÀ MẸ LÀ MỤC TỬ ĐÍCH THỰC :
Trong cuốn tự thuật, DIM-MY CÁC-NÂY (Jimmy Cagney) một nam diễn viên nổi tiếng ở HÔ-LI-GÚT (Hollywood) đã thuật lại câu chuyện cảm động về bà mẹ của ông. Câu chuyện xảy ra vào thời thơ ấu của Các-nây khi mẹ ông nằm thoi thóp chờ chết. Chung quanh giường có bốn anh em trai và một cô em gái út duy nhất. Vì bị tai biến mạch máu não, nên bà mẹ của Các-nây không thể nói thành tiếng. Sau khi bà cố lần lượt hôn năm đứa con, bà liền giơ cánh tay phải còn cử động được lên. Dim-my kể lại những gì đã xảy ra như sau “Mẹ tôi dùng ngón tay phải chỉ vào anh con trai trưởng rồi lại chỉ vào ngón tay trỏ của bàn tay trái bị tê liệt của bà, rồi bà lần lượt chỉ vào từng người trong mấy anh em chúng tôi, mỗi người được tượng trưng bằng một trong bốn ngón tay trái. Riêng ngón cái thì bà chỉ vào đứa em gái út Din-ni (Jeannie) mới ba tuổi. Bà cầm ngón cái ấy để vào giữa lòng bàn tay và ép bốn ngón tay kia lên ngón cái ấy. Cuối cùng bà dùng bàn tay phải vỗ nhẹ lên nắm đấm của bàn tay trái”. Dim-my nhận xét rằng cử chỉ của mẹ ông lúc đó thật tuyệt vời. Năm anh em hiện diện đều hiểu được ý nghĩa mà bà muốn diễn tả: Bốn anh em trai phải thay bà để che chở và giúp đỡ cho cô em gái út bé nhỏ sau khi bà qua đời. Đó là một cử chỉ đầy ý nghĩa mà không lời nói nào có thể diễn tả hay hơn được. Cử chỉ ấy của bà đã để lại ấn tượng mạnh mẽ không bao giờ phai mờ trong tâm khảm của anh em chúng tôi, khiến chúng tôi luôn giữ đúng lời trăn trối của bà”.
3) ĐỨC TÍNH HY SINH CỦA NGƯỜI MỤC TỬ: ANH PHẢI SỐNG :
Có hai vợ chồng trẻ làm nghề đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước quay về nhà. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bị bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây qua đi lại trở nên mạnh mẽ hơn. Sức lực của anh chồng xem ra mỗi lúc đuối dần khi phải một mình bơi sải vừa để thoát thân lại vừa phải cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã sắp cạn kiệt, nên đã buông tay ra để mặc cho dòng nước lũ cuốn đi. Chị chỉ kịp gào thét trong cơn mưa giông và nước lũ: “Anh phải sống để nuôi dạy đàn con anh nhé !”.
4) TÌNH THƯƠNG MỤC TỬ BIẾN ĐỔI SỐ PHẬN CỦA MỘT NGƯỜI :
Dương Ân Điển là đứa bé bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền Nam, đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời co thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: “Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc”. Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
5) ĐỨC GIÊ-SU LÀ CỬA BẢO VỆ ĐÀN CHIÊN:
George Smith kể lại một loại chuồng chiên khi đi du lịch ở Đông phương : Bấy giờ ông cùng đi với một người chăn chiên. Thấy một chiếc chuồng ông liền hỏi người chăn chiên:
– Đó có phải là chuồng chiên không ?
Người ấy đáp :
– Dạ, phải.
Rồi Geoge nói :
– Tôi thấy chỉ có một lối đi vào.
Giơ tay chỉ khoảng trống ở hàng rào, người ấy đáp :
– Vâng, ở đàng kia là cái cửa.
Ông Geoge rất ngạc nhiên bảo :
– Nhưng ở đó đâu có cửa ?
Người chăn chiên đáp :
– Dạ, tôi là cửa.
Geoge chợt nhớ câu truyện trong Tin Mừng Gio-an nên nói với người chăn chiên :
– Anh muốn nói gì khi bảo chính anh là cái cửa ?
Người chăn chiên giải thích :
– Chiên vào chuồng xong, tôi đến nằm ngay ngưỡng cửa, và sẽ không có con chiên nào có thể đi ra hoặc con chó sói nào có thể đi vào chuồng nếu không nhảy qua người tôi.
Hình ảnh về cửa chuồng chiên này đối với chúng ta thì rất lạ, còn đối với người Do thái lại là hình ảnh rất quen thuộc. Chúa Giê-su tự ví mình như cửa chuồng chiên và như người mục tử nhân lành. Cả hai hình ảnh này đều nói lên tình thương yêu chăm sóc và sự bảo vệ mà Người dành cho chúng ta, là những con chiên trong đàn chiên do Người chăn dắt.
3. SUY NIỆM:
Chúa nhật IV Phục Sinh hằng năm được gọi là Chúa nhật lễ Chúa Chiên lành. Tin Mừng Gio-an đề cập đến hình ảnh quen thuộc của vùng Trung Đông: các mục tử chăn dắt đàn chiên, dẫn chúng ra đồng cỏ xanh tươi bên giòng suối mát để được ăn uống thỏa thuê.
TÔI LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH (Ga 10,7):
– Mục tử là người vào chuồng chiên ngang qua cửa chính, chứ không lén lút leo rào mà vào chuồng (x. Ga 10,1-2). Người giữ cửa quen biết mục tử nên sẵn sàng mở cửa, và chiên cũng quen biết mục tử quen với giọng nói của anh, nên dễ dàng phân biệt anh với người lạ hay kẻ trộm (x. Ga 10,3-5). Mục tử nhân lành yêu thương chiên, biết tên và âu yếm gọi từng con chiên trong đoàn ra ngoài. Mục tử sẽ đi trước dẫn đường, các con chiên sẽ yên tâm theo sau, vì chúng biết đang đi theo ai và người chủ chiên sẽ dẫn chúng đi đâu. Hầu như có một sự hiểu biết cảm thông và gần gũi giữa đoàn chiên và người mục tử.
– Trong lịch sử dân Ít-ra-en, các vua chúa và đại tư tế được gọi là mục tử. Danh hiệu Mục Tử Nhân Lành thường được dành riêng để gọi Đức Chúa. Qua trung gian ông Mô-sê, Đức Chúa đã dẫn đưa con dân Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ, qua sa mạc 40 năm để về miền Đất Hứa dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và con cháu đến muôn đời. Đức Chúa như người mục tử đã gắn liền số phận với đàn chiên là dân Ít-ra-en. Hình ảnh mục tử đó chỉ được rõ nét nơi Đức Giê-su trong thời Tân Ước sau này. Hôm nay, Đức Giê-su tuyên bố Người là Mục Tử nhân lành. Khác với các đầu mục Do thái là bọn người chăn thuê. Chúng chỉ biết lợi dụng đàn chiên để tìm tư lợi, Mục Tử nhân lành Giê-su thì yêu thương đàn chiên, hiểu biết từng con, luôn phục vụ đàn chiên và sẵn sàng thí mạng sống bảo vệ đàn chiên khỏi bị sói dữ cắn xé. Đối lại, con chiên cần phải nghe tiếng chủ chiên, yêu mến và vâng lời chủ chiên. Đức Giê-su phán: “ Kẻ trộm đến chỉ để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần Tôi, Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
2) TÔI LÀ CỨA CHUỒNG CHIÊN (Ga 10,9) :
Sau khi đã tự mô tả là một người mục tử nhân lành, Đức Giê-su lại nhận mình là cửa chuồng chiên. Hôm nay Đức Giê-su tuyên bố: « Tôi là cửa cho chiên ra vào… Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ » (Ga 10,7.9). Đức Giê-su chính là mục tử chăn dắt đoàn chiên là các tín hữu. Khác với kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy, Đức Giê-su đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
– Cửa chuồng chiên là lối cho chiên ra vào chuồng để được bảo vệ an toàn và được sống dồi dào. Chỉ người nào đi qua Cửa chuồng chiên Giê-su tức là Hội Thánh thì người ấy mới là mục tử thực sự của Thiên Chúa và mới được hưởng ơn cứu độ của Ngài ban cho (x. Ga 10,9). Thánh Gio-an Kim Khẩu nói: “Khi Đức Giê-su đưa chúng ta đến với Chúa Cha, Người nhận mình là Cửa. Khi Người săn sóc dưỡng nuôi ta, Người nhận mình là Mục Tử”. Cửa Giê-su cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật : Mục tử giả sẽ không dám đi ngang qua Cửa Giê-su để vào chuồng chiên. Chớ gì Hội Thánh có nhiều mục tử thực sự của Chúa Giê-su, có tình yêu thương thể hiện qua lối sống gần gũi « có mùi chiên », biết tên từng con chiên và mang lại cho chiên của ăn thiêng liêng là Lời Chúa và Thánh Thể đem lại sự sống dồi dào.
3) LỄ CHÚA CHĂN CHIÊN NHÂN LÀNH :
a) Hội Thánh dành Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh hằng năm gọi là lễ Chúa chiên nhân lành, và mời gọi các tín hữu ý thức bổn phận cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục tu sĩ. Đây là một vấn đề sống còn của Hội Thánh khắp hoàn cầu. Hiện nay nhiều nơi trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ, đang thiếu trầm trọng ơn gọi linh mục tu sĩ. Nhiều nhà thờ không có linh mục nên đành phải đóng cửa hoặc bán đi để trả nợ. Cũng có nhiều dòng tu bị giải thể vì không còn lớp tu sĩ trẻ kế thừa.
b) Hiện tượng thiếu ơn gọi linh mục tu sĩ là do mấy nguyên nhân chính sau đây:
– Một là vì cuộc sống tu trì hiện nay không còn hấp dẫn lớp người trẻ đã bị tục hóa.
– Hai là các người trẻ hôm nay luôn chịu ảnh hưởng của lối sống thực dụng và hưởng thụ: chỉ biết tìm thỏa mãn các đam mê nhục dục thấp hèn, các nhu cầu ích kỷ bản thân… và mất đi cảm thức về đức tin.
– Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất có lẽ là do người lớn chúng ta đã không nhiệt tâm cổ võ cho ơn thiên triệu và không quảng đại hiến dâng con mình cho Chúa.
– Mỗi Giáo xứ phải trở thành vườn ươm trồng ơn thiên triệu: Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II trong sứ điệp về ơn gọi năm 1996 đã nhắc đến việc cần phải làm là tạo một môi trường thuận lợi cho hạt giống ơn gọi dễ phát triển là các giáo xứ. Ngài nói như sau: “Phải làm sao để mỗi giáo xứ trở thành một cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa, cộng đoàn cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ và luôn quan tâm phục vụ những người nghèo khổ. Giới trẻ hôm nay vẫn không thiếu những tâm hồn quảng đại, không thiếu những người trẻ muốn sống cuộc đời lý tưởng và có ý nghĩa. Họ cần được Hội Thánh hướng dẫn để gặp được Đức Giê-su, để nghe lời Người và theo làm môn đệ của Người, sẵn sàng chia sẻ sứ mệnh cứu độ của Người. Giới trẻ hôm nay cũng cần được nghe những tiếng kêu than của bao người đói khát chân lý hay đang cần được công lý bảo vệ. Hội Thánh phải giúp giới trẻ cảm nhận được bổn phận lớn lao là xây dựng thế giới này trở thành một ngôi nhà của tình thương và hạnh phúc. Giới trẻ cũng cần có những người thầy, người bạn dám sống điều mình tin giữa muôn trở lực khó khăn, và luôn đứng vững trước sức mạnh của các cám dỗ muốn thỏa mãn các đam mê tội lỗi bất chính”.
4) LÀM GÌ ĐỂ HỘI THÁNH CÓ THÊM NHIỀU ƠN THIÊN TRIỆU ?
a) Hỗ trợ của các bậc cha mẹ trong gia đình: Hiện nay sở dĩ thiếu ơn gọi một phần cũng là do lỗi của mỗi người tín hữu chúng ta chưa thiết tha cầu xin Thiên Chúa sai thêm thợ gặt đến, chưa quyết tâm canh tân đời sống để trở thành chứng nhân của Chúa Giê-su, chưa quảng đại dâng con cái và khuyến khích chúng quảng đại phục vụ Chúa và Hội Thánh trong cuộc sống tu trì hiến dâng.
b) Gương sáng của các mục tử trong Hội Thánh: Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã nói về các mục tử trong Hội Thánh như sau: “Giám Mục không phải là Giám Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân. Cũng vậy, Linh Mục không phải là Linh Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân: để phục vụ, nuôi dưỡng, chăm sóc dân là đoàn chiên của ngài…” Đức Giáo Hoàng đòi hỏi linh mục như sau : “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình.” Hiện nay trong giáo xứ của chúng ta, vẫn còn nhiều người chưa biết Chúa, hoặc đã biết Chúa nhưng chối bỏ đức tin, cố tình loại Chúa ra khỏi cuộc đời mình… Các cha xứ phải trở thành mục tử nhân lành khi biết tìm kiếm họ để an ủi, chữa lành và mời họ trở về với Chúa.
c) Gây ý thức về tầm quan trọng và nhiệm vụ ươm trồng ơn thiên triệu : Trong năm Mục Vụ Gia Đình, chúng ta cũng cầu nguyện cho mỗi người chúng ta là chủ chăn của giáo xứ, là người phục vụ trong giáo họ, ý thức để sống đúng vai trò của mình là linh mục, quý chức giúp việc, là chồng vợ, cha mẹ và con cái : Chồng biết yêu thương và chung thủy với vợ, không ngoại tình, không dùng bạo lực. Người làm vợ phải biết yêu thương, chung thủy và phục tùng chồng để gia đình được hạnh phúc. Các bậc cha mẹ phải sẵn sàng yêu thương đón nhận con cái Chúa ban cho, nuôi nấng dạy dỗ con khôn lớn, biết chăm sóc gìn giữ từng đứa con khỏi những nguy hiểm trong cuộc sống hiện tại. Giáo dục con cái biết hiếu thảo, vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ để đẹp lòng Chúa; Các vị trùm trưởng phải ý thức xây dựng giáo họ hay đoàn thể mình phụ trách trong tình yêu thương, hiệp nhất và phục vụ để có thể lớn lên về mọi mặt.
d) Quảng đại đóng góp tinh thần vật chất cho chủng viện : Các gia đình, hội đoàn, giáo xứ… hãy quảng đại để tích cực cộng tác với Hội Thánh ươm trồng ơn thiên triệu để thêm nhiều linh mục và tu sĩ chăm sóc đàn chiên và truyền giáo vì « lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt ».
4. THẢO LUẬN:
1) Hãy chọn trong những phẩm chất sau đây 10 phẩm chất mà bạn cho là không thể thiếu được nơi các vị linh mục trẻ hôm nay: khôn ngoan, đạo đức, có bằng cấp cao, thông thạo ngoại ngữ, đàn hay hát giỏi, giảng hấp dẫn, nhiệt tình tông đồ, sống đơn giản, sẵn sàng dấn thân hy sinh, biết chu toàn bổn phận, có thái độ khiêm tốn, hiền hòa, vui vẻ, tiết độ, trung thực, vị tha, đúng đắn trong giao tiếp, quan tâm đến giới trẻ, có lòng thương người nghèo khổ ? Tại sao các linh mục lại cần phải có những phẩm chất ấy ? 2) Bạn sẽ làm gì giúp Hội Thánh có thêm nhiều linh mục tình nguyện dấn thân phục vụ dân Chúa ? 3) Cùng hát bài: “Lạy Chúa xưa Chúa đã phán…” để xin Chúa sai thêm thợ gặt đến cánh đồng lúa đã chín vàng ở khắp nơi.
5. NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ban cho chúng con những linh mục biết quảng đại, hy sinh trong đời phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng để sẵn sàng đón nhận hết mọi người, nhất là những người đau khổ và bị bỏ rơi. Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được chính Chúa. Xin ban cho chúng con những linh mục biết chăm chỉ rao giảng Lời Chúa, có sức làm nóng lên đức tin yếu kém và làm bùng cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm đức tin để nhìn thấy Chúa trong mọi người. Cuối cùng xin Chúa ban cho chúng con những linh mục là những vị chủ chăn tốt lành noi gương Chúa xưa, đến để cho chiên “được sống và sống dồi dào”.
– LẠY CHÚA. Xin cho các gia đình Công giáo trở thành một môi trường tốt ươm trồng ơn thiên triệu, bằng việc tạo bầu khí đạo đức và yêu thương giữa các thành viên với nhau. Xin cho chúng con luôn kính trọng yêu mến các linh mục coi sóc chúng con, thành tâm cộng tác với các ngài, sẵn sàng giúp đỡ các ngài chu toàn nhiệm vụ. Ước gì Giáo Xứ chúng con trở thành một Cộng Đoàn luôn có sự hiệp nhất giữa chủ chăn và đoàn chiên, là điều kiện để có thể phát triển cả về vật chất cũng như tinh thần. Nhờ đó chúng con sẽ chu toàn được sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa nhật Thứ tư Phục sinh hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, vì trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu tự ví mình là Cửa Chuồng Chiên và Mục Tử Tốt Lành của chúng ta. Người biết rõ từng người chúng ta, và vì yêu thương, Người hy sinh mạng sống để bảo vệ, gìn giữ chúng ta được bằng an, và dẫn chúng ta tới sự sống thật.
Chúng ta nên biết, ngày xưa ở xứ Palestin, người ta nuôi chiên rất đông. Ban đêm, các mục tử dẫn các đàn chiên của mình vào một cái chuồng chung, và chia phiên nhau bảo vệ canh gác ở ngay cửa ra vào. Ðến sáng, từng mục tử đến chuồng và đứng ở cửa dùng tiếng gọi các con chiên trong đàn mình. Vì các con chiên đã quen tiếng mục tử nên đi theo ra khỏi chuồng đến những đồng cỏ. Cũng vậy, nếu chúng ta là chiên thật của Chúa Giê-su thì chúng ta sẽ nhận ra tiếng và đi theo Người. Ngày nay, Chúa dùng Lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội để nói với chúng ta, và nếu chúng ta tin thật Chúa là Mục Tử Tốt Lành của chúng ta, chúng ta sẽ đi theo và thực hành những điều Người dạy bảo.
Có một câu chuyện được kể như sau. Một thanh niên rất thích cuộc sống di chuyển mọi nơi để trình diễn của đoàn xiệc, nên anh đến xin một công việc làm, việc gì cũng được. Người giám đốc mướn và giao cho anh công việc phụ tá cho người huấn luyện và điều khiển những con sư tử. Người huấn luyện sư tử là một phụ nữ trẻ đẹp và đang chuẩn bị một buổi tập luyện. Cô vào chuồng, đội nón và mặc một bộ đồ sặc sỡ nhiều màu rất đẹp. Sau đó cô cầm một cái cây ra lệnh cho các con sư tử chạy và bò chung quanh. Các con sư tử tuân theo mệnh lệnh chạy, bò chung quanh và sau đó quì xuống trước mặt cô để được cho ăn. Cô huấn luyện sau đó nói với người thanh niên: “Anh nghĩ anh có thể làm được việc đó không?” Người thanh niên trả lời: “Tôi chắc chắn sẽ làm được việc đó. Nhưng điều trước tiên, cô phải đem mấy con sự tử này ra khỏi chuồng!”
Ông bà anh chị em thân mến. Như những con sư tử nhận ra tiếng và tuân theo mệnh lệnh của người huấn luyện mình, Chúa Giê-su nói với chúng ta qua bài Tin mừng con chiên trong đàn thì nhận ra tiếng gọi và làm theo mệnh lệnh của người chủ chăn mình. Chiên sẽ không đi theo những người lạ, vì không nhận ra tiếng của người lạ. Những người Pha-ri-siêu lúc đó không nhận ra điều Chúa muốn nói với họ, vì họ không chấp nhận Người là chủ chăn của mình. Họ không nghĩ rằng Chúa đang đề cập đến họ. Chúa cho họ biết họ không còn là những chủ chăn thực, vì họ không dẫn dân riêng của Chúa tới công lý, sự thật và thánh thiện. Họ đến và vào với đàn chiên bằng lối khác, không bằng cửa chính. Cửa ở đây là chính Chúa Giê-su, và vì cửa là lối vào duy nhất để vào chuồng chiên, cho nên Chúa Giê-su cũng là người duy nhất có thể đưa chúng ta đến với Thiên Chúa.
Chúng ta thấy Chúa Giê-su dùng hình ảnh cửa để ám chỉ đến chính Người là cửa chuồng chiên. Ai vào và đi ra qua Người sẽ được bảo vệ, gìn giữ và tìm được đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát. Chúng ta biết cửa rất quan trọng. Cửa cho chúng ta vào ngôi nhà trong đó có những người thân yêu và cũng là nơi trú ẩn an toàn. Cửa mở ra để chúng ta đi ra tiếp xúc với những người khác hay để đi làm sinh sống, hay đi tham dự những sinh hoạt bên ngoài như đi thờ phượng và làm những công việc bác ái. Cửa còn ngăn chặn những người lạ, hay ngăn chặn những người trộm cắp. Chúa Giê-su dạy bảo chúng ta rằng nếu cửa rất cần thiết và quan trọng cho chúng ta, thì chính Người cũng vậy. Nếu Chúa dự phần vào việc chúng ta ra và vào trong cuộc sống, hay khi chúng ta đặt Chúa ở trọng tâm cuộc sống, hay khi chúng ta xin Chúa chúc lành cho những công việc, những hoạt động trong cuộc sống, thì chúng ta sẽ được Chúa gìn giữ, che chở và chúng ta sẽ cảm nhận được sự bình an và bảo đảm.
Theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa và để tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu, Người Mục Tử Tốt Lành, Chúa thương chọn những mục tử để phục vụ dân Chúa, đó là các giám mục và linh mục. Các vị cũng có những trách nhiệm và bổn phận như những mục tử là bảo vệ, gìn giữ, chăn dắt và dạy dỗ dân Chúa. Trách nhiệm ấy thật cao cả những cũng thật khó khăn và nặng nề! Cao cả vì các vị phải noi gương Chúa Giê-su, trở thành sứ giả của Người, sống yêu thương và hy sinh, để phục vụ cộng đồng dân Chúa được giao phó cho các vị. Các vị chủ chăn có một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống thiêng liêng của cộng đoàn dân Chúa. Khó khăn và nặng nề vì các vị cũng vẫn là những con người phàm trần với nhiều yếu đuối và đam mê như mọi người khác. Chính vì thế mà Giáo hội tha thiết kêu gọi tất cả mọi Kitô hữu cầu nguyện cách đặc biệt cho các vị. Vì không có ơn Chúa, thì làm sao các vị có thể chu toàn được những công việc mà Tin mừng đòi hỏi. Ngoài ra, Giáo hội còn kêu gọi mọi người hy sinh cộng tác với các vị, có lòng bác ái và quảng đại trong công việc xây dựng Nước Chúa và làm sáng danh Chúa.
Tôi xin được chia sẻ với ông bà anh chị em một phát biểu chân thành của một giáo dân như sau: “Vị chủ chăn gần chúng ta nhất là cha xứ. Tất cả công việc, những sự hy sinh của ngài cho giáo xứ gần như mọi người không để ý đến. Hầu hết mọi người chỉ đi xem lễ rồi ra về, không giúp gì cho cha xứ, dù chỉ một việc nhỏ mọn là nhặt một cái rác, hay thu dọn bánh kẹo của con mình rơi xuống thảm. Nhiều người đi lễ chỉ cho 1 hay 2 đô la, nhưng muốn cho xứ tổ chức cái nọ cái kia. Có những điều cha xứ dạy hay khuyên bảo mà chúng ta không đồng ý, thì chúng ta chê bai, chống đối. Hay khi cha xứ có những lầm lỗi nhỏ thì chúng ta bàn ra, tán vào, thậm chí nói xấu, hoặc tìm cách gây những chia rẽ. Thay vì tiếp tay để giúp giáo xứ đoàn kết, thì có khi chúng ta lại kiêu căng, tự cao, tự ái, chia bè, chia nhóm để chống đối làm cho giáo xứ điêu tàn. Con chiên có thể bỏ đàn đi nơi khác, đi nhà thờ khác, nhưng chủ chăn, cha xứ thì không thể bỏ giáo xứ của mình. Đó là lời phát biểu chân thành của một giáo dân để chúng ta cùng suy nghĩ.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì hồng ân được thuộc về đàn chiên của Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết trung thành lắng nghe và sống những lời Vị Mục Tử Nhân Lành dạy bảo, và qua các các vị chủ chăn đại diện cho Chúa ở trần gian. Xin Chúa cũng gởi thêm cho chúng ta nhiều mục tử tốt lành biết noi gương Chúa, hết lòng yêu thương và sẵn lòng hy sinh cho đàn chiên được Chúa trao phó.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn