Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 2 Phục Sinh – Năm A
Chúa Nhật Về Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa
Lời Chúa: Cv 2,42-47; 1Pr 1,3-9; Ga 20,19-31
DẪN NHẬP
Lời Chúa: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 2 Phục sinh hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ và cho Tôma được đụng chạm đến Chúa. Từ cái nhìn thấy bằng giác quan và diễm phúc được cảm nếm Lòng Thương Xót của Chúa, Tôma đã tuyên xưng Chúa Kitô Phục sinh là Thiên Chúa của ông:
Tô - ma được thấy Chúa rồi,
Ông liền xưng tụng : Chúa Trời kính yêu !
Công to phúc lớn hơn nhiều,
Cho ai không thấy những điều lòng tin !
Hiệp thông mầu nhiệm tạ ơn,
Vững tin có Chúa hiện thân đồng bàn !.
Hiệp dâng thánh lễ Kính Lòng Thương Xót của Chúa hôm nay, xin Chúa Kitô Phục sinh chúc phúc cho lòng tin của chúng ta, nhất là đã bao phen chúng ta sống trong hoài nghi ngờ vực, xin Lòng Thương Xót của Chúa bao dung và tha thứ. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đã đến trong trần gian để đem bình an cho nhân loại. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa đã từ cõi chết sống lại để tái sinh chúng con và cho chúng con được sống. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
“Tin hay không tin là chấp nhận hay từ chối.Tin hay không tin là sống mãi hay trầm luân. Tin hay không tin đời sáng ngời hay mù tối. Tin hay không tin nay quyết định cho đời tôi”. Lời bài hát “Tin hay không tin” của tác giả Nguyễn Lý được cất lên lúc này đây, giúp cho mỗi người chúng ta đặt mình vào tâm trạng của Tôma năm xưa, để xác tín và định hướng cho cuộc đời của mỗi người chúng ta. Chính vì thế, hôm nay Chúa nhật 2 Phục sinh, Giáo hội kính Lòng Thương Xót của Chúa để kính nhớ việc Chúa Kitô đã tỏ cho Tôma thấy cạnh sườn, nơi trào ra nước và máu, suối nguồn ân sủng. Đồng thời, Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta cảm nhận được tình yêu và sự tha thứ do lòng thương xót Chúa.
Thưa anh chị em, sau khi sống lại Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần với các Tông đồ nhằm củng cố lòng tin nơi các ông và sai các ông đi rao giảng Tin mừng Phục sinh. Tin mừng hôm nay thuật lại hai lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các Tông đồ: chiều ngày Phục sinh để uỷ thác sứ mạng loan báo Tin mừng, và tám ngày sau, tức là lần thứ ba để củng cố và xác tín các tông đồ vào giá trị vĩnh hằng của sứ điệp Tin mừng, cách riêng cho Tôma tin rằng: Người đã sống lại thật từ cõi chết. Ông Tôma đã được gặp gỡ Chúa Kitô Phục sinh, được nhìn ngắm Chúa Phục sinh, được đụng chạm đến Chúa Phục sinh. Đây quả là phúc lớn. Chúa muốn Tôma được đụng chạm vào Người và các thương tích của Người để nghiệm được bao nỗi truân chuyên của Người đã trải qua, để vâng phục thánh ý cứu độ của Thiên Chúa Cha. Đồng thời, Chúa muốn các thương tích của Người đụng chạm con người bất tín, bất an và cứng lòng như Tôma để chữa lành mọi thương tật của họ.Quả thật, từ cái nhìn ấy, dụng chạm ấy, Tôma đã nhảy vọt đến chân lý không đụng chạm được, ông đã thốt lên trong đau đớn: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi”. Ông tuyên xưng Chúa Kitô Phục sinh là Thiên Chúa của ông: khoảng cách từ cái nhìn thấy bằng giác quan đến chân lý tin nhận quả là một bước nhảy vọt. Tuy nhiên, Chúa Kitô Phục sinh còn chúc phúc hơn nữa cho những ai không thấy mà tin.
Có câu chuyện kể rằng, một người nông dân đang đào lỗ chôn con lừa của ông mới chết. Ngay lúc đó, một người vô thần đi ngang qua, ông muốn nhạo cười người nông dân này, ông nói: “như vậy là thế nào? Ông là một người rất sùng đạo, thế mà tại sao ông không đem nó vào nhà thờ cùng giật chuông?”. Người nông dân ôn tồn đáp lại: “nhưng thưa ông, không thể được. Bởi vì con lừa của tôi, nó cũng như ông: nó không tin gì cả!”.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Câu chuyện trên đây lại một lần nữa gợi lại cho chúng ta lời bài hát “Tin hay không tin” của tác giả Nguyễn Lý: Tin hay không tin nay quyết định cho đời tôi. Các tín hữu thời sơ khai đã đón nhận được niềm tin nhờ lời giảng dạy, tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, họ đã tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc, là Đấng đã chết và nay sống lại và là Thiên Chúa duy nhất phải tôn thờ. Nhờ niềm tin ấy họ được sống trong tình hiệp nhất của cộng đoàn: sống hoà hợp với nhau, để mọi sự làm của chung, dùng bữa vui vẻ và đơn sơ, được toàn dân mến chuộng. Đây là một cuộc sống lý tưởng, hạnh phúc tràn đầy và vĩnh hằng mà những kẻ tin vào Chúa Kitô sẽ được tham dự trong ngày Người lại đến như thánh Phêrô quả quyết: “Bởi tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả, vì chắc chắn anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi linh hồn”. Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ kính Lòng Thương Xót của Chúa là dịp để chúng ta nhìn vào tình thương Chúa có thể chữa lành mọi sự. Dù linh hồn chúng ta có tội lỗi, Chúa vẫn bao dung tha thứ, vì tình thương Chúa phủ lấp muôn vàn tội lỗi, và Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta trở nên những chứng nhân Lòng Thương Xót của Chúa, để ân sủng và tình yêu của Chúa chữa lành những vết thương tâm hồn và thân xác chúng ta. Xin Chúa ban ơn bình an cho mỗi người chúng ta Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
MỤC LỤC
Con người thuở ban sơ thật tốt lành, sống chan hoà tình thương trong cảnh địa đàng. Cùng làm cùng ăn và cùng chung nhau mọi sự. Một cảnh sống hạnh phúc và thanh bình. Nhưng Sách Thánh đã ghi lại biết bao nhiêu sự tích phản ảnh cho những sự kiện đã phá vỡ rất sớm cái cảnh hoà bình yên vui đó.
Tội lỗi đã đột nhập vào cuộc sống, khi con người bắt đầu có của riêng, với nghề nghiệp riêng, quyền lợi riêng, đã gây ra những mâu thuẫn đối kháng. Ai ngờ anh em ruột thịt như Cain và Abel, đã đi tới chỗ thanh toán nhau, anh giết em rồi phủi tay như không có một chút trách nhiệm nào. Anh làm nghề trồng trọt, em làm nghề chăn nuôi, đồng cỏ và ruộng vườn đã trở thành đối tượng tranh chấp quyền lợi khi nó trở thành đồng riêng và ruộng riêng. Abraham và Lót là chú cháu. Nhưng đàn súc vật của chú không còn là của cháu và giếng nước càng phải nên của riêng, chú cháu tranh chấp rồi chia rẽ, mỗi người phải đi về một hướng, mâu thuẫn nhau như đông với tây.
Tiếp đến là cảnh người được làm chủ nhân, kẻ phải làm đầy tớ, cũng đã khiến hai anh em Isaac và Ismael cùng cha khác mẹ, trở thành kẻ thù truyền kiếp. Địa đàng không còn, hoà bình đã tan vỡ, đang khi nó vẫn là đòi hỏi mãi mãi bức thiết của một nhân loại cần được sống hạnh phúc. Sách thánh có thể được coi như mặt trái của lịch sử đòi hoà bình trên nền tảng không thể thiếu của công bình xã hội, theo những đòi hỏi của một niềm tin vào Thiên Chúa.
Lịch sử đã chỉ rõ cho thấy từ bao thế hệ niềm tin mà không tổ chức thành hành động xã hội thì không thể giải quyết được vấn đề xã hội nào, kể cả hoà bình: hoà bình giữa người với người, hoà bình giữa dân tộc này với dân tộc khác, hoà bình trên khắp mặt địa cầu. Bởi vì bao lâu còn bất công, thì bấy lâu sẽ còn tồn tại những bất bình. Muốn xoá bỏ bất công, muốn chấm dứt bất bình, thì phải có những hành động xã hội. Phải chăng các tín hữu đầu tiên đã hiểu ra bài học kinh nghiệm này của lịch sử dân Chúa, hiểu ra được ý nghĩa thiết thực của sứ điệp Tin Mừng, để tổ chức một nếp sống mới. Từ sau cái chết của Chúa Giêsu, một cộng đồng tín hữu mới xuất hiện như dấu chỉ của ơn phục sinh, như hoa trái đầu mùa của ơn cứu rỗi. Họ không lập ra những nghi thức mới, những đền thờ mới, nhưng họ tổ chức một nếp sống xã hội mới, phỏng theo tinh thần của Đức Kitô: bỏ mọi sự làm của chung, rồi phân phối theo nhu cầu, không ai phải thiếu thốn bên cạnh sự giàu có của kẻ khác. Do đó mà giữa họ có được một cảnh sống đoàn kết yêu thương và hoà bình chan chứa.
Một phần nào đó, tất cả chúng ta đều giống Tôma. Thực vậy, chúng ta chỉ tin một khi đã thấy. Tinh thần khoa học ngày nay làm cho chúng ta đặt lại tất tất cả các vấn đề. Chúng ta phê bình, chúng ta phân tích, chúng ta thí nghiệm, chúng ta kiểm chứng trước khi ưng thuận.
Rồi từ đó chúng ta bước sang lãnh vực đức tin. Chúng ta đòi hỏi đức tin phải có những lý lẽ hợp lý, xác thực như những sự kiện của khoa học. Vì thế, những chân lý mạc khải, đối với chúng ta thật khó mà chấp nhận.
Tuy nhiên, để khỏi lầm lẫn tai hại, chúng ta cần phải xác định: đối tượng của đức tin không phải là đối tượng của khoa học. Phạm vi của khoa học là vật chất, cho nên nó đòi hỏi những sự vật cụ thể, khả dĩ có thể thực nghiệm được. Còn phạm vi của đức tin là siêu nhiên, cho nên nó đòi hỏi những chân lý khả dĩ đem lại cho con người sự giải thoát. Và những chân lý ấy phải được dựa trên uy quyền và lời chứng của Đức Kitô. Khoa học chỉ có thể biến đổi cái thế giới vật chất bên ngoài, nhưng đức tin sẽ biến đổi cái thế giới tâm linh bên trong của mỗi người chúng ta.
Chúng ta thấy khi Chúa hiện đến, Tôma liền nhận ra Ngài và quỳ gối xuống tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Tất cả mọi nghi ngờ đều tan biến. Tôma chấp nhận toàn bộ thực tế và nhìn nhận Đức Kitô, người đã chết mà nay lại đang sống. Ông không cần sờ vào vết thương của Ngài, chỉ sự hiện diện của Ngài, một sự hiện diện đầy yêu thương và uy quyền đã củng cố niềm tin và thay đổi hẳn con người Tôma.
Và như thế, chúng ta sẽ rút ra được một bài học quý giá, đó là trong phạm vi đức tin, chúng ta cần tìm tòi, cần đào sâu để có được một đức tin kiên vững. Đó mới chỉ là bước thứ nhất. Bởi vì có đức tin mà thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn là phải sống đức tin. Hay nói một cách khác liệu đức tin có đủ mạnh để làm chuyển biến cuộc đời, cũng như đổi thay chính con người chúng ta hay không?
Muốn được như thế, không gì hơn là hãy sống gắn bó và tiếp xúc thân mật với Đức Kitô. Sự tiếp xúc này, ngày xưa đã biến đổi các môn đệ từ những người u mê dốt nát, hèn nhát và sợ sệt trở thành những người thông suốt giáo lý Tin Mừng và nhất là can đảm loan truyền và làm chứng cho Tin Mừng đó. Lạy Đức Kitô phục sinh, xin hãy biến đổi và uốn nắn con người chúng con.
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra cách nhau vừa đúng một tuần.
Lần thứ nhất Ngài hiện ra với nhóm các môn đệ đang run sợ trong một căn phòng đóng kín. Ngài đã cầu chúc bình an, còn các ông thì vui mừng khi gặp lại Ngài. Chúa Giêsu hiện ra không phải chỉ để đem lại cho các ông niềm vui mừng và an ủi sau những giờ phút kinh hoàng của cuộc thương khó. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn muốn mời gọi các ông tham dự vào sự biến đổi sâu xa nơi bản thân Ngài. Hay nói cách khác, Ngài muốn đưa các ông đi vào mối quan hệ với chính Ngài. Các ông đã biết Ngài trong cuộc sống thân xác, nhưng cuộc sống ấy đã qua bởi vì Ngài đã sống lại, đã được đổi mới trong Thánh Thần cho một cuộc sống mới, trong một cuộc sáng tạo mới.
Đúng thế, khi tạo dựng Adong nguyên tổ loài người, Thiên Chúa đã hà hơi ban sinh khí thì nay vào ngày đầu tiên của công cuộc tạo dựng mới, Đức Kitô Phục sinh cũng đã hà hơi trên các môn đệ đang như chết cóng vì hợ hãi, để ban cho các ông sinh khí mới là Thánh thần. Chính nguồn sinh khí mới này sẽ đem lại cho các ông quyền tha tội, mà trước đây chỉ dành cho một mình Chúa Giêsu. Các con hãy chịu lấy Chúa Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Như thế, chúng ta thấy: Chúa Thánh Thần và quyền tha tội được nối kết chặt chẽ với nhau, vì mục đích chính yếu của Chúa Thánh Thần là tẩy luyện, là đổi mới. Tiếp đến các ông được Chúa sai đi, hầu tham dự vào công cuộc tẩy luyện và đổi mới trần gian. Trước kia, khi Chúa Giêsu còn ở với các ông, các ông có thể sống ỷ lại và tầm thường, nhưng giờ đây thì không được nữa, bởi vì các ông đã lãnh nhận một sứ mạng lớn lao: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con. VÌ thế các ông tiếp nối chính sứ mạng được sai đi của Chúa Giêsu. Các ông sẽ lên đường và làm chứng về Ngài cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Lần thứ hai Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, trong đó có cả Tôma một người vốn cứng lòng. Và chúng ta thấy Tôma đã tuyên xưng đức tin của mình sau khi đã nhìn thấy những vết thương nơi tay chân và trái tim của Chúa. Từ đó, Ngài mời gọi các ông hãy có lấy một lòng tin mới. Từ nay lòng tin sẽ không còn đặt nền tảng trên giác quan, mà là trên chứng từ của những người đã thấy. Chính với lòng tin này mà người Kitô hữu được kết hiệp mật thiết với Đức Kitô Phục sinh.
Ngày nay, Giáo Hội nói chung và mỗi người tín hữu nói riêng cũng sẽ tiếp nối sứ mạng được sai đi mà ngày xưa Ngài đã trao cho các môn đệ. Chúng ta được sai đi để rao tỉang sự sống lại, để xây dựng một quan hệ mới giữa con người với con người. Con người tội lỗi, thuộc thế giới cũ, bị đặt dưới quyền lực của sự chết và bị coi như thù địch. Trong khi đó, con người phục sinh với cuộc sống mới, phải đối xử với nhau như anh em phải yêu thương và đùm bọc lấy nhau. Thực hiện được sứ mạng sai đi như thế, là chúng ta đã chu toàn được điều Đức Kitô Phục sinh nhắn gởi đến mỗi người chúng ta.
GẶP GỠ ĐỨC KITÔ PHỤC SINH
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Người xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần LinhChúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
Anh Chị em thân mến,
Thiên Chúa là tình yêu, một khi đã yêu, Ngài yêu cho đến cùng.
Thật ý nghĩa khi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Đấng Phục Sinh tỏ mình cho các môn đệ nhân Chúa Nhật “LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA”. Trong vài phút, chúng ta thử quan sát Trái Tim Giêsu, trái tim người Thầy; đồng thời cũng thoáng qua trái tim Tôma, trái tim học trò; nhờ đó, có thể hiểu được đôi chút lòng Chúa, đôi chút lòng ta.
Trái Tim Giêsu, một trái tim chan chứa yêu thương mà Tin Mừng không ngừng lặp đi lặp lại đã bao lần “Ngài chạnh lòng thương” trước cảnh cùng khốn của con người: Thấy dân chúng tất tưởi bơ vơ như chiên không người chăn, “Ngài chạnh lòng thương”; thấy người ta khiêng đi chôn con trai duy nhất của một bà goá, “Ngài chạnh lòng thương”; thấy những người phong cùi tiến đến từ xa, “Ngài chạnh lòng thương”; thấy hai người mù đang dò dẫm lại gần, “Ngài chạnh lòng thương”… Và chắc hẳn các tông đồ, kể cả Tôma, cũng đã ít nhiều cảm nhận cái thổn thức “chạnh thương” đó nơi Thầy mình. Cũng trái tim đó, bởi đã chạnh thương cho đến cùng nên bị đâm thâu, để giọt máu sau hết và chút nước cuối cùng nhỏ xuống mà có lẽ Tôma đã chứng kiến xa xa hay ít nữa đã nghe thuật lại chiều ngày thứ Sáu hôm ấy vì ông không dám lại gần.
Trái Tim Tôma, một trái tim nhát đảm và ngờ vực. Thầy mất, không ai biết vì lý do gì, “Đi Đi Mô” rời bỏ cộng đoàn. Phải chăng trái tim Tôma đang tan nát vì thương tích, vì những vết đau dù không nhìn thấy nhưng là những thương tích có thật và đau thật. Một trái tim ngờ vực khủng hoảng đến tội nghiệp, “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài thì tôi không tin”. Ôi, còn đâu bao lời tiên báo và giáo huấn của người Thầy khả ái? Còn đâu những cảm nghiệm đầy thán phục khi chứng kiến bao phép lạ của Con Đức Chúa Trời?
Thật là mỉa mai, thật là chua xót cho người môn sinh tuyệt vọng. Thật là thất đoạt, thật là vô ích cho người Thầy luống công. Sự ngã lòng của Tôma xúc phạm đến Thầy đâu kém việc bán Thầy hay chối Thầy của hai bạn đồng môn! Có khi còn tệ hơn; bởi lẽ, Giuđa và Phêrô tránh né liên luỵ đến một người sắp từ giã cõi sống trong khi Tôma lại đan tâm chối nhận một Đấng vừa trở về từ cõi chết.
Vì thế, cũng bởi “chạnh thương” nên tám ngày sau, Vị Thầy lại phải hiện ra một lần nữa và trái tim đã yêu dấu loài người quá bội đó đã biết lựa lời khôn khéo nhẹ nhàng trách yêu người học trò. Ngài dỗ dành chứ không mắng mỏ, chìu chuộng chứ không phỉ báng, “Hãy đặt ngón tay con vào đây, hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Thôi, đừng cứng lòng nhưng hãy tin”.
Lạ thay, Tin Mừng không nói đến việc Tôma có sấn tới thọc tay vào lỗ đinh Thầy, đặt tay vào cạnh sườn Thầy mà trong đó cũng có một trái tim hay không. Nhưng chúng ta có thể đoan chắc, chính Đức Giêsu Phục Sinh đã một lần nữa “chạnh thương chạm đến” và băng bó trái tim thương tích của người môn sinh.
Tim đụng tim, lòng chạm lòng! Nhờ đó, bình an lại đến với tâm hồn người môn đệ; và thay vì reo lên Magnificat, Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, cách nào đó, Tôma đã phải cất cao Credo, Tôi tin! Bởi lẽ, trước tiên là phải tin, sau đó mới có thể ca khen Đấng mình tuyên xưng.
Vậy là tim chữa lành tim, lòng cảm mến lòng. Tim Thầy chữa lành tim trò, lòng Thầy khoả lấp lòng môn đệ. Nhờ lòng Thầy chạnh thương mà từ đây, lòng người môn đệ xác tín thay cho ngờ vực; yêu mến thay cho hững hờ; chứng tá, thay cho trốn chạy; và bình an thay cho bất an.
Hơn lúc nào hết, có lẽ mỗi người trong chúng ta hôm nay, dù ở đấng bậc nào, cũng đều cảm thấy cần đến lòng Chúa xót thương hơn bất kỳ ai. Vì chỉ có Chúa mới là Đấng xót thật và thương thật; chỉ có Chúa mới biết được mỗi người cần đến lòng Ngài xót thương biết bao; chỉ có Chúa là Đấng có thể chữa lành, có thể hàn gắn, có thể băng bó, có thể đem về và trao tặng bình an, một sự bình an không ai lấy mất. Vì bình an của Chúa là chính Chúa.
Mừng kính Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta không quên cầu nguyện cách riêng cho các mục tử của mình và cho cả đoàn chiên được Chúa trao phó cho các ngài. Vì nhiều lúc, cả đoàn chiên lẫn chủ chiên cũng đang “đi đi mô”, bất an vì ngờ vực, hững hờ vì thiếu lòng mến, trốn chạy vì nhát đảm.
“Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô,
xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục”.
“Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô,
xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục”.
“Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô,
xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục”.
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Hoa bạch chỉ là loại hoa nổi tiếng quý giá. Có một người dân thành thị về chốn thôn dã tìm hái hoa này. Anh ta nghĩ hoa quý, ắt phải nở trên đỉnh núi cao, bèn cố sức trèo lên đỉnh núi tìm hoa. Lên đến đỉnh núi, anh ta lục lạo suốt buổi mà chẳng thấy bông hoa nào, đành thất vọng xuống núi, ra về tay không.
Hôm sau, anh ta lại tìm theo lối cũ lên núi lục lạo thêm một phen nữa, vẫn không kiếm ra. Ngày thứ ba, anh vẫn chưa nản chí, tiếp tục leo lên đỉnh núi tìm hoa bạch chỉ. Anh tự nhủ:
– Giống hoa quý này chỉ có trên đỉnh núi cao, ta không tin là sẽ không kiếm ra nó trên đỉnh núi cao!
Nhưng cuối cùng, anh ta vẫn không kiếm ra loại hoa quý này. Trong lúc chán nản thất thểu xuống núi, anh ta chợt thấy trong đám cỏ mọc dướii chân núi có hoa bạch chỉ. Đáng tiếc là nó đã bị chính anh giẫm nát mất rồi.
* * *
Những người quá tin vào ý nghĩ chủ quan của mình thường cố cháp, không lắng nghe ai, để rồi công sức của mình đều đem ra đổ sông, đổ biển. Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh, hiện ra với các tông đồ, vắng mặt Tôma.
Vì thế, khi nghe các môn đệ khác nói: “Chúng tôi đã được thấy” (Ga 10,25), ông đã không tin. Tôma đúng là một con người của thực nghịệm, việc gì cũng đòi phải kiểm chứng, đòi phải “thấy và chạm đến” mới tin. Nhưng thực ra đâu phải những gì “thấy mới tin”. Có ai thấy lúc cha mẹ sinh ra mình đâu, thế nhưng vẫn tin đó là cha mẹ của mình. Có ai thấy luồng điện chạy qua sợi dây điện đâu, thế mà mọi người vẫn tin là có điện ở trên đó. Người ta thường “tin” vào các sự kiện mà người khác “thấy”. Chúng ta tin Đức Thánh Chsa đang cai quản Hội thánh tại kinh thành Roma, co dù chúng ta chưa bao giờ thấy ngài. Chúng ta tin Đức Kitô chết và sống lại , cho dù chúng ta chẳng hề thấy người. Niềm tin của chúng ta chỉ dựa vào lời chứng của các Tông đồ: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”.
Như thế, niềm tin đâu chỉ dựa vào giác quan mà còn dựa vào đức tin của những kẻ đã “thấy và đã tin”, những kẻ đã dám lấy cái chết để chứng minh cho niềm tin của mình.
Nếu Đức Kitô đã thỏa mãn lòng mong ước của Tôma là cho ông được “thấy và chạm đến” vết thương của Người là để củng cố niềm tin của ông. Đôi khi trong cuộc sống, Thiên Chúa cũng cho chúng ta được “thấy và chạm đến” những quyền năng phép lạ, những hồng ân bất ngờ, là để chúng ta thêm niềm tin tưởng nơi Người.
Đứng trước ân ban của Đức Giêsu cho Tôma được “thấy và chạm đến” Người, thì ông đã đáp lại bằng một cử chỉ tuyệt vời, là sấp mình xuống thưa:
“Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” ! (Ga 20,28). Lời tuyên xưng của Tôma quả là rõ ràng, trong suốt như pha lê. Đó là niềm tin của chúng ta. Niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Người là Chúa và là Thiên Chúa thật. Chính nhờ Tôma mà niềm tin của chúng ta được chúc phúc: “Phúc thay những ngưồi không thấy mà tin” (Ga 20,39).
* * *
Lạy Chúa, Đức tin là một ân huệ Chúa ban, chúng con xin cảm tạ Chúa. Xin thêm đức tin cho chúng con, để dù bao thăng trầm của cuộc sống, chúng con vẫn vững một niềm tin vào Thiên Chúa và con người. Amen.
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Chúng ta đã long trọng mừng lễ Phục Sinh. Mọi ồn ào của những cuộc kiệu rước đã lắng xuống. Những bận rộn của Tuần Thánh cũng đã đi qua. Đối với nhiều người, Tuần Thánh và lễ Phục Sinh giống như những ngày lễ hội mỗi năm tổ chức một lần, lễ xong là hết. Điều còn lại có thể chỉ là những lời bình phẩm về cách tổ chức lễ năm nay có gì hơn hay kém năm ngoái. Để tránh lối suy nghĩ lệch lạc đó nơi các tín hữu, Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta rằng Chúa phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu. Người hiện diện như mối dây liên kết chúng ta nên một trong tình bác ái và sự chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau. Hình ảnh cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem là lời mời gọi chúng ta hãy noi gương mà sống xứng đáng với danh nghĩa những môn đệ Chúa Kitô (Bài đọc I). Nếu các tín hữu có thể coi mọi sự là của chung và chuyên cần tham dự bẻ bánh, siêng năng cầu nguyện và nhiệt thành thực thi bác ái là vì họ tin Chúa Giêsu phục sinh đang ở giữa họ và chứng kiến những điều tốt lành họ đang làm.
Tuy vậy, vấn đề người chết sống lại, xưa cũng như nay, được coi là một câu chuyện hoang đường, không thể chấp nhận. Ngay như các môn đệ là những người đã cùng sống với Chúa và đã được nghe Người tiên báo về sự phục sinh, mà các ông còn chưa dễ dàng tin vào sự kiện này. Thánh Máccô ghi lại sự nghi ngờ đến mức cứng lòng của các ông: Khi bà Maria Mácđala kể với các ông là bà đã gặp Chúa phục sinh, các ông cũng không tin. Các ông cũng không tin khi hai môn đệ từ Emmau trở về quả quyết đã gặp Chúa (x. Mc 16, 9-13).
Lời Chúa hôm nay dẫn chứng một nhân vật cụ thể nữa, đó là Tôma. Ông không có mặt khi Chúa hiện ra với các môn đệ. Điều các bạn kể lại không thể thuyết phục ông chấp nhận một điều “ngược đời”. Dấu đinh ở tay, vết thương ở cạnh sườn Chúa… là những điều ông đã chứng kiến như bằng cớ của việc Chúa Giêsu đã chết. Đối với ông, việc được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn bị đâm thủng là bằng chúng xác thực về việc Chúa sống lại. Thực ra, Tôma không thách thức Chúa, ông chỉ cần bằng chứng thiết thực để ông tin.
Chúa Giêsu đã đáp trả những điều kiện Tôma đã đưa ra. Tám ngày sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện đến với các ông với những thương tích trên thân thể Người. Nếu trước đây Tôma đã ra điều kiện để tin, thì nay Chúa mời ông thực hiện những điều ấy. Ông chẳng còn lòng dạ nào mà xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa. Đúng hơn, ông chẳng cần làm những điều đó, vì Chúa đang ở trước mặt ông bằng xương bằng thịt và đang nói với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Qua lời nói với Tôma, Chúa Giêsu phục sinh muốn gửi đến cho chúng ta một thông điệp: “Phúc thay những người không thấy mà tin.” Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay. Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp. Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin. Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tin vào Người thì sẽ không phải thất vọng. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục. Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình.
Trong trình thuật của mình, thánh sử Gioan hai lần nói đến chi tiết “các cửa đều đóng kín,” để diễn tả Đức Giêsu phục sinh không còn bị giới hạn bởi không gian, nghĩa là Người trở nên thiêng liêng giữa thế giới của chúng ta. Cũng như Người có thể vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, hôm nay Người đang hiện diện nơi dung mạo và cuộc đời của những ai mang tên Người, tức là các Kitô hữu. Thánh Phêrô đã khuyên chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của Đức tin là ơn cứu độ con người” (Bài đọc II)
Chúa Giêsu phục sinh hôm nay đang hiện diện cách huyền nhiệm nơi cuộc đời này. Sự hiện diện của Chúa có thể được chứng tỏ qua đời sống đạo đức yêu thương của các tín hữu. Xin cho mỗi chúng ta biết nhận ra Người đang sống giữa chúng ta để hăng hái nhiệt thành làm chứng cho Người. “Đức tin là sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Bài Phúc Âm hôm nay trích từ Phúc Âm thánh Gioan có thể được xem như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục Sinh và hơn nữa là một tổng kết cho con đường đức tin của các Tông đồ, của các đồ đệ Chúa.
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các Tông đồ, củng cố đức tin của họ với hồng ân Thánh Thần và sai các ngài ra đi với sứ mạng mà Chúa đã chuẩn bị các ngài trong suốt thời gian đến Phục Sinh: “Như Cha đã sai Thầy, thì giờ đây Thầy cũng sai các con ra đi”.
Con đường đức tin của các Tông đồ từ ngày được gọi theo Chúa cho đến giây phút quan trọng được củng cố bởi quyền năng của Chúa Phục Sinh. Chọn theo con đường đức tin này như được gợi lại cho chúng ta chiêm ngắm nơi đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, trước hết chúng ta nhìn thấy các Tông đồ lo sợ thu mình lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước những chống đối của những kẻ không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà Chúa đã trải qua và các ngài cũng sẽ phải trải qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai mà họ đã nghe Chúa nói đến và đã được chuẩn bị để thi hành nhưng cảm thấy chưa đủ sức để thi hành. Nếu không có mầu nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa Phục Sinh đến đổi mới con người họ thì đức tin của các Tông đồ chưa được trưởng thành hoàn toàn đúng mức Chúa mong muốn để có thể làm chứng cho Chúa, chu toàn sứ mạng Chúa trao phó cho.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta được chứng kiến một cuộc thay đổi quan trọng trong đời sống các Tông đồ, chứng kiến một cuộc đổi mới và kiện cường đức tin nơi các Tông đồ, từ lo sợ đến được củng cố để ra đi bắt đầu sứ mạng. Trước khi Chúa Phục Sinh hiện đến, các Tông đồ đang sống trong lo sợ, đóng kín nơi chính mình và đóng kín trong căn phòng. Ai trong chúng ta đã không trải qua một giai đoạn thử thách này và cũng có thể là đang trải qua thử thách đức tin, đó là những giây phút đen tối bị cám dỗ mất đức tin vào Chúa về những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, về mầu nhiệm thập giá trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Trong bộ phim có tựa đề là Dấu Ấn Thứ Bảy, có một đoạn đối thoại thật ý nghĩa:
Thần chết hiện ra trong dung mạo của một người phàm và đã đối thoại với một dũng sĩ, cuộc đối thoại đó như sau:
Trước hết Dũng sĩ bắt đầu:
Tại sao Thiên Chúa lại ẩn mình? Tại sao Ngài không xuất hiện mạc khải chính mình cho chúng ta biết? Tại sao Thiên Chúa không đưa tay Ngài ra và chạm đến chúng ta? Tại sao ít ra là Ngài nói vài lời với chúng ta?
Thần chết trả lời:
Nhưng Thiên Chúa đâu có làm điều đó được, không phải vậy sao? Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói, Ngài chỉ giữ im lặng.
Dũng sĩ tiếp:
Đành vậy, Thiên Chúa không làm điều gì như vậy, Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói chuyện với chúng ta. Đôi khi tôi nghi ngờ không biết Ngài có thật sự hiện hữu ở bên kia nữa không?
Thần chết trả lời:
Có thể Ngài không hiện hữu ở bên kia, có thể không ai hiện hữu bên kia cả, có thể là tất cả chúng ta chỉ hiện diện một mình nơi cõi đời này mà thôi. Dũng sĩ có bao giờ nghĩ như vậy hay không? Có lẽ Thiên Chúa không có đâu, chỉ có chúng ta sống cô đơn lẻ loi một mình trong thế giới này mà thôi.
Anh chị em thân mến!
Mẫu đối thoại trên đây có thể làm chúng ta suy nghĩ thêm. Các Tông đồ ngày xưa là những kẻ duy nhất được nghe Chúa nói, được sống với Chúa như với một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, nhưng không phải vì thế mà các Ngài không bị thử thách, không bị lạc mất niềm tin vào Chúa khi Chúa trải qua cuộc khổ nạn, các Ngài phải tin vào Chúa là Con Thiên Chúa, là Đấng đã chết và đã phục sinh.
Chúa cho các Tông đồ và đặc biệt là Tôma, cũng như chúng ta đã đọc qua trong bài Phúc Âm hôm nay, được dịp may kiểm chứng một cách cụ thể: “Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây”. Chúng ta ngày hôm nay không thể nào được diễm phúc kiểm chứng như vậy, như cuộc đối thoại tưởng tượng giữa Dũng sĩ và Thần chết, nhưng như các Tông đồ ngày xưa, chúng ta cần tin vào Chúa để không còn sống trong lo sợ, để có đủ sức chu toàn sứ mạng của Chúa. Lời Chúa phán với Tôma cũng như cho chúng ta ngày hôm nay đó là: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Xin Chúa ban cho chúng ta hồn ân Chúa Thánh Thần, xin Chúa ban cho chúng ta sự bình an của Ngài để củng cố chúng ta trong đức tin. Amen.
Ngày thứ nhất của nhân loại cũ
Từ khởi thuỷ, sau khi dựng nên trời đất muôn vật, Thiên Chúa lấy bùn đất dựng nên Ađam. Mới đầu thân thể ông chỉ là một khối đất bất động, không hề có dấu hiệu của sự sống.
Thế rồi, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam (St 2,7), tức thì Ađam bắt đầu mở mắt, cựa mình và vươn vai chỗi dậy thành một con người đầy sức sống và được trở thành thuỷ tổ loài người đông đảo trên khắp trái đất.
Đó là ngày thứ nhất của lịch sử loài người, ngày khai sinh nhân loại cũ, khởi đi từ con người đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng, thông ban sự sống và những phẩm tính cao đẹp của Ngài.
Tiếc thay, con người tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đoạ, đánh mất phẩm chất cao đẹp mà Thiên Chúa đã phú cho và phải mang lấy án phạt đời đời nên Thiên Chúa phải thực hiện kế hoạch kiến tạo một nhân loại mới.
Ngày thứ nhất của nhân loại mới
Thế rồi, “vào ngày thứ nhất trong tuần – và cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới – nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Chúc anh em được bình an!” (Ga 20, 19-22)
Kế đó, như thời khởi thuỷ, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam để thông truyền sự sống cho ông, thì nay Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các tông đồ đang co cụm như những xác không hồn để thông ban Chúa Thánh Thần cho họ: “Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22)
Thế là từ đây, các tông đồ bắt đầu đón nhận sức sống mới, các ông được hồi sinh, được trở nên can đảm mạnh mẽ, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông suốt mấy tuần qua để ra đi khắp các nẻo đường, hô vang Tin Mừng cứu độ.
Đó là ngày thứ nhất trong tuần đồng thời cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử của nhân loại mới.
Ngày thứ nhất trong cuộc đời người môn đệ
Vậy mà cho đến hôm nay, sau hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu khai sinh nhân loại mới, vẫn còn trong ta sự ương ngạnh của Ađam, muốn sống theo dục vọng của mình bất chấp lời giáo huấn của Thiên Chúa. Vẫn còn trong ta tính ù lì khiếp nhược của các tông đồ sau biến cố Thầy Giêsu thụ nạn, tự giam mình trong phòng kín như mộ địa tối tăm. Vẫn còn trong ta con người ích kỷ chỉ biết sống cho mình, cho gia đình mình mà chưa mở ra với tha nhân và lối xóm.
Thế nên, hơn lúc nào hết, chúng ta cần Chúa Giêsu hiện đến thổi hơi truyền ban Thần Khí cho chúng ta như Ngài đã thực hiện cho các tông đồ xưa, để chúng ta được hồi sinh, được vượt ra khỏi ngục tù do lòng tham lam ích kỷ dựng nên, thoát ra khỏi mộ địa do chính sự hèn yếu của chúng ta vây bọc.
Và nhờ đó, ngày thứ nhất trong cuộc đời người môn đệ được khai mở trong ta.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Phục Sinh, sự kiện vĩ đại về một con người đã bị đóng đinh trên thập tự giá tới chết và được mai tang trong mộ đá, nhưng đã trỗi dậy và ra khỏi mồ: đó quả là một biến cố có một không hai trong lịch sử loài người. Sự kiện này đúng là nền tảng niềm tin của mọi Kitô hữu qua mọi thời đại, thế nhưng nó lại chỉ được cả 4 Phúc âm tường thuật cách quá tẻ nhạt và tầm thường. Thậm chí, nếu so sánh với việc Chúa Hiển Dung trên núi Ta-bo, tôi thấy tường thuật thiếu đến cả các chi tiết tối thiểu: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17,2) Tất cả những gì được đề cập tới trong trình thuật phục sinh của các sách Tin Mừng chỉ đơn giản là ngôi mộ trống vắng và lời công bố giản dị: “Người không còn ở đây nữa, nhưng đã sống lại rồi!” Đôi lúc tôi cũng cảm thấy khó chịu về điều này; và như nhiều tín hữu trong các đám rước Chúa Phục Sinh, tôi muốn bù đắp bằng một hình ảnh vinh quang hơn: hình tượng Chúa uy nghi giơ cao cờ chiến thắng khải hoàn, ung dung bước ra khỏi ngôi mộ với ánh sáng chói lòa, giữa các thiên thần thờ lạy và các tên lính khiếp sợ.
Chắc chắn Chúa Phục Sinh có khía cạnh thể lý: một Giêsu đã gục chết trên thập giá, đã được hạ xuống và tẩm liệm, được mai táng trong phần mộ, mà nay được loan báo là đã sống lại. Sự kiện thể lý này là nền tảng cho việc tuyên xưng một trong các tín điều căn bản nhất của Kitô giáo: “Tôi tin kẻ chết sống lại”. Nhưng theo cách diễn tả của các sách Tin Mừng, khía cạnh thể lý xem ra chỉ là thứ yếu. Cũng như trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, các đau khổ thể lý, cho dầu có được mô tả cách sinh động tới đâu thì ý chính vẫn là nói lên tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Phục Sinh cũng vậy, biến cố (đúng hơn là lời loan báo) Đức Giêsu ‘không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi’, cũng phải nói lên được tình yêu cứu độ trong tất cả sức mạnh vô địch của nó: tình yêu của Thiên Chúa từ nhân đã dứt khoát và vĩnh viễn chiến thắng sự chết về mọi mặt, và sẽ tồn tại bất diệt.
Theo Kinh Thánh thì chết thể lý chỉ là một trong các hậu quả của tội lỗi, và là hình bóng của một cái chết khác còn tệ hại hơn nhiều (St 2,17). Đức tin Công giáo dạy rằng tất cả chúng ta đều đã chết trong tội và cần tới ơn cứu độ để hoàn lại cho ta sự sống. Trong số các hình ảnh được dùng để diễn tả tội lỗi, chết là hình ảnh rõ ràng và trung thực nhất. Qua các thời đại, con người muốn dùng các nghi lễ tôn giáo để hoàn lại cho mình sự sống mà tội đã lấy mất. Các hình thức hoàn lương, đền tội, tu luyện và khổ chế đều mang cùng một mục đích đó. Nhưng trong thâm tâm tất cả đều biết rằng: chẳng một ai có quyền tha tội ngoại trừ một mình Thiên Chúa, cũng như chẳng ai có thể hoàn lại sự sống sau cái chết của tội lỗi ngoại trừ Thiên Chúa toàn năng (xem Ga 11,40-44). Ngày nay một số người (trong số đó có cả tín hữu – linh mục?) có khuynh hướng cho rằng tội chỉ là một yếu đuối, một cơn bệnh hay một khiếm khuyết nhất thời mà con người có nhiều cách để thắng vượt, nhiều cách để chữa trị, trong đó tâm lý học được coi như liều thuốc hữu hiệu nhất. Nếu tội chỉ là một căn bệnh cho dầu hiểm nghèo thì tác hại của nó cũng chỉ giới hạn. Cái chết thập giá của Đức Giêsu là một khảng định ngược lại: tội không chỉ dẫn tới cái chết nhưng thực sự là chết. Cũng vậy sự phục sinh của Người khảng định ơn cứu chuộc thực sự hoàn lại sự sống đích thực và toàn diện cho mọi người đã chết trong tội.
Cần bằng chứng Kinh Thánh ư? Dựa và câu khảng định của Đức Giêsu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25) Phao-lô đã có thể xác quyết: “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô lại còn lớn lao hơn biết mấy… ” (Rm 5,17), “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15,22). Như vậy, đối với một Thiên Chúa cứu độ, cho Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết là điều nhất thiết phải làm, cũng thế nhất thiết không kém Người phải làm cho chúng ta, những kẻ tin, sống lại từ cõi chết. Trên Thập giá, Đức Giêsu đã mặc lấy cái chết tội lỗi của cả trần gian, mà chết thể lý của Người là hình ảnh cụ thể nhất, một đàng để mạc khải cho thấy Thiên Chúa yêu thương cứu độ ‘đến cùng’, đàng khác như một A-đam mới Người cũng trọn vẹn đón nhận tình thương cứu độ của Cha để được sống, “Con phó linh hồn con trong tay Cha”. Phục sinh của Người là bằng chứng hùng hồn về sức mạnh của Tình Yêu Thiên Chúa cứu độ vĩnh viễn chiến thắng sự chết dưới mọi hình thức, lòng nhân ái thần linh chiến thắng tội chết trong mọi chiều kích. Chính Đức Giêsu đã khảng định cách chắc nịch: “Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”. ‘Sẽ’ đây nói lên một định luật chứ không phải thì tương lai: sống lại ngay bây giờ, chứ không chỉ trong ngày sau hết, sống lại trong ân sủng ngay tức thời chứ không chỉ trong ngày thế tận; cũng vậy ‘chết’ đây là về thể lý, nhưng còn quan trọng hơn nhiều là về mặt thiêng liêng. “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng”.
Suy nghĩ như thế làm tôi hiểu ra rằng: chỉ nhấn mạnh về một Đức Giêsu Kitô phục sinh vinh quang về mặt thể lý rất có thể trở thành một lạc đề nguy hiểm. Vinh quang đích thực của Phục sinh, đồng thời cũng là sức mạnh vô địch của Thập giá chính là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Lòng thương xót của Người đã vĩnh viễn chiến thắng tội chết nơi con người: tình yêu đã chứng tỏ mạnh hơn cả sự chết, đặc biệt chết trong tội. Cho nên rõ ràng “nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,8) trong tình yêu nhân hậu và tha thứ của Thiên Chúa. Mầu nhiệm thập giá và phục sinh không bao giờ được tách rời. Đó chính là sự Vượt Qua (Pasqua – Passover) của mọi Kitô hữu chúng ta, một mầu nhiệm sống động vĩ đại.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho con nhận biết tội đã làm con chết thực sự, để con nghiệm ra được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Kinh nghiệm về cái chết thể lý đã cho con phần nào thấy được lòng nhân từ của Chúa… nhưng đó cũng chỉ là hình ảnh mờ nhạt của một thực tế vĩ đại hơn nhiều: Đấng Cứu Độ không ngừng tiêu diệt sự chết nơi con để hoàn lại sự sống. Xin cho con không ngừng biết đón nhận ơn phục sinh trong suốt cuộc đời, bao lâu con vẫn còn yếu đuối sa ngã trong tội chết. Và chính trong sự kỳ diệu vĩ đại này, xin cho con (cùng với mọi tín hữu) cất cao lời ca ngợi lòng từ bi thương xót của Chúa hàng ngày và cho đến muôn đời. Amen.
LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA ĐỐI VỚI THẾ GIỚI LÀ VÔ CÙNG VÔ HẠN
Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa được tiếp liền sau Đại Lễ Phục Sinh, Phụng vụ của Giáo hội mời gọi chúng ta cách đặc biệt, kể từ ngày 22 tháng Tư năm 2001 là sùng kính Lòng Thương Xót Chúa. Chính thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, hôm nay Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh muốn đáp lại ý muốn của Thiên Chúa cách minh nhiên được truyền lại cho thánh cho vị thánh đồng hương của mình là Faustina Kowalska sứ điệp về lòng thương xót Chúa đối với thế giới là vô cùng vô hạn. Chúng ta cùng nhau thực hành lời khuyên của Chúa, để nhận được ơn tha thứ tội lỗi và mọi hình phạt, do đó, trong lời Ca nhập lễ hôm nay: “Như những trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa thiêng liêng tinh khiết, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ. Allêluia”.
Tin Mừng chung cho cả ba năm Phụng vụ A,B,C được trích từ Phúc Âm theo Thánh Gioan (20, 19-31), tường thuật lại sự kiện Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp gỡ các tông đồ thật là cảm động trong lần gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh làm cho chúng ta dâng trào cảm xúc. Cử chỉ trao ban bình an của Chúa cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21-23).
Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi Phục Sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào tin được, lòng thương xót của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Ga 3: 16). Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thể nhân loại.
Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải và tái tạo tâm hồn, mang lại cho ta niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa!
Hôm nay, Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa chúng ta cùng nhau lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hỏa tâm, vì đức từ bi của người muôn thuở” (Tv 117, 1). Quả thật: “Tình thương Chúa tồn tại muôn đời!”. Cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô đã thay đổi tận căn số phận của nhân loại nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng. Đây là điều kỳ diệu trong đó được thể hiện trọn vẹn tình thương của Thiên Chúa Cha, một tình yêu không ai hiểu thấu, Đấng vì phần rỗi chúng ta, và để cứu chúng ta, Chúa đã nộp chính Con yêu.
Chúa Giêsu Kitô bị hành hạ và chịu đau khổ vì xót thương chúng ta, thật quá mọi mức độ có thể tưởng nghĩ được. Cả sau biến cố Phục Sinh của Con Thiên Chúa, Thập Giá nói lên và không ngừng nói về Thiên Chúa là Cha, Đấng tuyệt đối trung thành với tình thương muôn đời của Ngài đối với con nguời. Tin vào tình thương này có nghĩa là tin vào lòng nhân từ của Thiên Chúa” (Dives in misericordia, số 7).
Hãy cảm tạ Chúa vì Chúa hảo tâm, một tình thương mạnh hơn sự chết và tội lỗi. Giờ đây, nhân loại vẫn đang tiếp tục được thừa hưởng tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa đổ ra từ những vết thương vinh hiển và từ trái tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi, sự thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa tuôn tràn sự dịu dàng, thánh nữ Faustina Kowalska thấy xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian. Theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, “Hai tia sáng nầy tượng trưng cho máu và nước”. Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3, 5; 4, 14).
Lời kinh chúng ta vẫn đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”, diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào tay Thiên Chúa, Đấng cứu rỗi duy nhất của chúng ta ! Những tia sáng của lòng nhân từ Chúa ban lại niềm hy vọng, một cách đặc biệt, cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi.
Lạy Chúa, nhờ sự chết và sự sống lại của Chúa, Chúa đã mạc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha cho chúng con, chúng con tin thác vào Chúa, chúng con lặp lại ngày lúc này với xác tín rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, xin thương xót chúng con và thế giới.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ của lòng nhân từ hay thương xót, xin giúp chúng con là con cái Mẹ duy trì lòng tin vào Con Mẹ, Đấng cứu chuộc chúng con. Lạy thánh Giáo hoang Gioan XXII, Gioan Phaolô II hôm nay hiển thánh và thánh nữ Faustina mà hôm nay chúng con nhớ đến với hết lòng mộ mến, xin cũng trợ giúp chúng con. Xin cho chúng con được cùng với các thánh, hướng nhìn về Đấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”. Bây giờ và mãi mãi. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bác sĩ nói rằng: mỗi lần mổ bệnh nhân khi thấy thân thể họ tan nát ông thường đắng lòng kêu lên “Lạy Chúa, lại Chúa tôi”. Đây là lời than ai oán, lời cảm thương, lời chia sẻ với nỗi đau của tha nhân. Đây cũng là lời chúng ta vẫn thường nói hay thường nghe khi chứng kiến một người bị tai nạn, bị đói khổ, bất hạnh chúng ta cũng từng kêu lên “lạy Chúa, lạy Chúa tôi”.
Cuộc đời quanh ta có biết bao người khốn khổ lầm than. Có kẻ đói ăn. Có kẻ đói hạnh phúc. Có kẻ cô đơn, bệnh tật, bị bỏ rơi. Có biết bao mảnh đời chung quanh khi nhìn thấy mà lòng chúng ta cũng quặn đau với nỗi đau của họ. Có chứng kiến được những bất hạnh của tha nhân mới thấy nhu cầu dấn thân xoa dịu nỗi đau thật cần thiết. Có nhìn thấy nỗi bất hạnh của tha nhân mới biết mình cần phải làm gì để xoa dịu nỗi đau.
Ông Tôma năm xưa khi được tận mắt thấy những dấu đinh đâm tan nát nơi thân thể Chúa, khi ông trông thấy lỗ rách nơi cạnh sườn Chúa, ông cũng đã thốt lên trong đau đớn “lạy Chúa, lạy Chúa tôi”. Ông cảm thương với nỗi đau của Thầy. Mặc dù ông đã chứng kiến từ xa cảnh tan nát của Thầy, nhưng hôm nay ông được tiếp xúc gần gũi, gần đến nỗi có thể xỏ ngón tay vào các lỗ đinh của Thấy thì nỗi cảm xúc của ông cũng dâng trào trong trái tim ông. Dù rằng, ông đã không xỏ một ngón tay nào vào lỗ đinh của Chúa, nhưng trái tim mách bảo cho ông biết cần phải làm gì để xoa dịu nỗi đau cho Thầy Chí Thánh.
Khi cảm nghiệm về nỗi đau của Thầy Giêsu, Tôma đã được biến đổi. Ông quỳ xuống tôn thờ Chúa. Ông mong muốn dành cuộc đời để loan truyền tình thương Chúa cho nhân loại. Ông hiểu hơn về lòng thương xót của Chúa dành cho nhân loại. Chính vì yêu. Chính vì muốn biểu lộ lòng thương xót cho nhân loại mà Thầy Giêsu đã can tâm tình nguyện chịu chết trên thập giá. Chính Thầy Giêsu đã bày tỏ lòng thương xót của mình khi tự nguyện gánh lấy những cực hình, những đau đớn để cứu độ chúng sinh. Chính Chúa không chỉ nhìn thấy những khổ đau của con người để xót xa, chạnh lòng thương mà ngài còn dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau cho chúng ta. Chúa xót thương khi sống nghèo để đồng cảm với những người nghèo. Chúa xót thương khi sống phục vụ để xoa dịu nỗi đau cho những kẻ bất hạnh. Chúa xót thương nhân loại đang chết trong tội lỗi nên đã gánh lấy cực hình để đền thay tội lỗi nhân gian. Lòng thương xót của Chúa mãi mãi chịu hiến tế để cứu nhân gian.
Hôm nay, ngày lễ Lòng Thương Xót của Chúa, Giáo Hội cũng tôn phong hai chân phước lên bậc hiển thánh. Đặc biệt Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, một con người của lòng thương xót. Lòng thương xót của Ngài biểu hiện qua việc tha thứ cho kẻ đã ám sát ngài. Lòng thương xót của ngài còn biểu hiện qua việc cảm nhận sự liên đới trách nhiệm với những sự chia rẽ trong quá khứ do hiểu lầm hay do bất khoan dung, thế nên, Ngài đã rất nhiều lần xin lỗi Chúa, xin lỗi anh em, xin lỗi vì những đối xử bất khoan dung đã gây nên những đổ vỡ.
Chính ngài cũng là tông đồ của Lòng Thương Xót khi dấn thân cổ võ lòng thương xót của Chúa. Chính ngài đã thổi vào nhân loại này một năng lực mới từ lòng thương xót của Chúa. Để rồi lòng thương xót của Chúa như vũ khí mới để chiến thắng ba thù, như làn nước trong xanh để đem lại ơn phúc cho những ai tin tưởng chạy đến với Lòng Thương Xót của Chúa.
Ước gì chúng ta luôn nhận ra tình thương vô bờ bến của Chúa để như Tôma quỳ lạy tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào lòng thương xót của Chúa để ân sủng của Chúa chữa lành những vết thương tâm hồn và thân xác cho chúng ta. Amen.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Có lẽ đây là mối phúc thứ chín mà Đức Giêsu dành cho những ai tin vào sự phục sinh của Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh là một sự kiện được chứng thực bằng nhiều lần hiện ra với các môn đệ, và nhất là được chứng thực bằng chính cộng đoàn kitô hữu tiên khởi. Cộng đoàn này “đã thấy”, “đã tin” và “đã nhận được”.
Họ “đã thấy” Chúa đến viếng thăm khi cửa nhà họ vẫn im ỉm đóng kín.
Họ “đã tin” khi Đấng Phục Sinh hiện diện giữa họ, thân ái và dịu hiền.
Họ “đã nhận được” bình an và hoan lạc từ Đấng Phục Sinh.
Khi Đấng Phục sinh giải thoát họ khỏi nỗi sợ hãi, bất an.
Nhưng có một người đã chưa thấy, đã chưa tin và đã chưa nhận được… đó là Tôma. Ông là người môn đệ không ở với cộng đoàn khi Đức Giêsu đến, và ông đã không chấp nhận lời chứng của các môn đệ bạn bè. Tôma đã tạo nên một khoảng cách với cộng đoàn, và hơn nữa, ông đã tự tách lìa với niềm tin của cộng đoàn. Chính việc đó đã đẩy ông tới chỗ ngờ vực và đa nghi.
Hình ảnh Tôma được xem là biểu tượng cho những người kém lòng tin; ông không ở với cộng đoàn Giáo hội nên ông đã không thấy; ông không thông hiệp với cộng đoàn Giáo hội nên đã không tin. Ông tự hào với những nhận định của riêng mình nên đã không nhận được hồng ân của niềm tin.
Nhưng tình yêu thương của Đức Giêsu đã biến đổi ông. Ngài đã hiện đến vào tám ngày sau khi Toma đang ở với cộng đoàn. Một chút bối rối, rồi một chút bất an… và sau đó, mọi sự vụt tan biến. Tôma đã mở miệng thốt lên với thầy mình: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”. Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân. Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông. Tin bao giờ cũng đòi hỏi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu của Tôma, nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu cách khác. Cần tập thấy Chúa trong cuộc sống của ta để rồi tin, tin rằng Chúa Phục Sinh vẫn đang có mặt giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau trên đường đời.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin“, và “phúc cho những ai biết thấy nên tin”.
***
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng than khóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài, như Chúa đã đi với hai môn đệ trên đường Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con, như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cứng lòng cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con, như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho các môn đệ bên bờ hồ năm xưa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban cho chúng con “con mắt đức tin” để được nhìn thấy Ngài, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con mỗi ngày. Amen.
Chứng kiến cảnh mồ trống, thánh Gioan đã thấy và đã tin. Gioan cùng với Đức Maria và một số Tông đồ tiếp tục họp nhau cầu nguyện. Sau khi Chúa Giêsu chết, lúc còn tranh tối tranh sáng, những người đi theo Chúa tản mát, tâm trạng mỗi người phản ứng một cách khác nhau. Có người bỏ về quê, có người muốn quay lại nghề cũ, có người rơi vào sự hoài nghi và có những vị nhiệt thành tín trung và âm thầm dõi theo. Khi sống lại, Chúa Giêsu không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Ngài có thể hiện diện với bất cứ ai và bất cứ nơi đâu mà Ngài muốn. Ngài cũng hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau, khi thì giống như người làm vườn, lúc thì giống như khách bộ hành, khi thì giống người chài lưới và có lúc là hình ảnh Chúa với chân tay còn dấu tích. Hôm nay Chúa đến với các Tông đồ một cách rất bất ngờ, vì cửa còn đóng kín. Chúa chúc bình an cho các ông và Chúa chứng thực chính mình: Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa (Ga 20, 20). Niềm vui vỡ òa hân hoan, các Tông đồ được gặp lại Thầy của mình trong sự sống vinh quang.
Chi tiết câu truyện của ông Tôma giúp chúng ta hiểu rõ hơn và tin hơn. Tuy Tôma có thái độ hoài nghi, nhưng ông rất thực nghiệm. Sự đòi hỏi của Tôma, đôi khi cũng là sự đòi hỏi của mỗi người chúng ta. Tôma muốn được diện kiến, được đụng chạm và sờ mó vào các vết thương của Chúa. Chúa thấu tỏ lòng tin của Tôma, Chúa cho ông được toại nguyện: Đoạn Chúa với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây và hãy xem tay Thầy, hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng nhưng hãy tin (Ga 20, 27). Hiện diện trước mắt các Tông đồ, Tôma đã tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kito Phục Sinh. Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Qua các sự kiện đã xảy ra với các Tông đồ, Chúa Phục Sinh đã củng cố lòng tin của các ông bằng nhiều cách. Các ông đã từ từ xác tín niềm tin và bắt đầu xả thân để làm chứng nhân cho Chúa Kitô sống lại.
Các Tông đồ bắt tay thực hành ngay sứ mệnh được trao phó, khởi đầu là qui tụ các tín hữu, tụ họp các gia đình và gầy dựng các nhóm nhỏ cầu nguyện, nâng đỡ nhau và làm nghi thức bẻ bánh. Nghi thức Bẻ bánh là trọng tâm, mang một ý nghĩa rất quan trọng. Các Tông đồ nhớ lời Thầy: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Ngay từ buổi sơ khai, Giáo Hội đã hình thành qua những nhóm nhỏ thông hiệp trong tình liên đới: Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện (Tđcv 2, 42). Các tín hữu sơ khai hoàn toàn được tự do chọn lựa sống theo giáo lý mới và tin vào Chúa Giêsu Kitô. Các nhóm nhỏ tiên khởi là rường cột thông truyền các lời giảng dậy của Chúa và của các Tông đồ. Họ là những nhân chứng sống động mắt thấy, tai nghe và chứng kiến các biến cố đã xảy ra trong đời. Họ đã thấy và đã tin.
Các Kitô hữu thời sơ khai đã phải đối diện với sự thay đổi cuộc sống về các truyền thống và việc tôn thờ. Họ từ từ tách ra khỏi cách thế hành đạo của Do-thái Giáo. Giáo hội tiên khởi xây dựng một tổ chức riêng thờ phượng Thiên Chúa trong ngày Thứ Nhất trong tuần. Ngày Chúa Kitô Phục Sinh từ cõi chết. Họ đồng tâm hiệp ý trong đức tin, đức cậy và đức mến: Hằng ngày họ hợp nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền thờ, bẻ bánh ở nhà, họ dùng bữa cách vui vẻ đơn sơ (Tđcv 2, 46). Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: Con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Kitô đã thổi hơi trao quyền cầm giữ và tháo cởi cho các Tông đồ để các ngài xây dựng và cai quản Hội Thánh. Các ngài đã ra đi làm nhân chứng rao truyền Tin mừng và tìm kiếm các con chiên lạc Israel để qui về một mối.
Với lòng thương xót vô bờ, Chúa Giêsu cư xử rất nhẹ nhàng và cảm thông sự yếu đuối và chậm chạp của các Tông đồ. Chúa đã chọn gọi họ trong khả năng và tính khí riêng biệt. Chúa Giêsu kiên nhẫn dẫn dắt các Tông đồ từng bước đi vào sứ mạng mới. Chúa loan báo trước với các Tông đồ là sẽ phải đối diện với nhiều sự gian nan, khốn khó, bắt bớ và tù đầy. Muốn làm môn đệ của Chúa là vác thánh giá hằng ngày mà đi theo Chúa. Cánh đồng lúa chín thì nhiều và sứ mạng truyền giáo thì bao la, các tông đồ đã can đảm dấn thân ra đi như chiên vào giữa bầy sói. Từng vị, từng vị đã lần lượt hiến thân mình đổ máu đào để làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Cái chết của các ngài là hạt giống sinh mầm đức tin.
Tất cả sứ mệnh rao giảng đều qui về Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ Đức Giêsu Kitô, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa Cha: Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại. Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống (1Petr 1, 3). Qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta được tái sinh làm con cái Chúa trong niềm hy vọng cuộc sống đời đời. Chúa Kitô sống lại vinh hiển đã mở cửa nước trời cho những ai đặt niềm tin tưởng nơi Ngài. Chúa Nhật thứ hai mùa Phục Sinh, đặc biệt dành để kính nhớ Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Chúa rất giầu lòng từ bi thương xót với mọi kẻ khốn cùng, tội lỗi và xa lạc muốn trở về. Vì Chúa đến là để kêu gọi và chữa lành những tâm hồn bị đau thương và dập nát tâm can.
Truyện kể: Một người đàn ông đang đi thăm viếng Đất Thánh. Vào một đêm nọ, ông một mình vào trong vườn Gethsemani. Đêm tối rất đẹp, bầu trời đầy trăng sao tinh tú và khung cảnh thật thanh tịnh. Suy gẫm về cơn hấp hối của Chúa trong vườn Cây Dầu, ông cảm thấy bị xúc động mạnh và bắt đầu khóc. Ông quỳ gối xuống và cầu nguyện: Lậy Chúa, xin đừng để con bao giờ phạm tội phản nghịch cùng Chúa nữa. Lắng nghe một giọng nói từ đáy lòng: Hỡi con, con xin Cha đừng bao giờ để con phạm tội nữa. Nếu Cha ban điều con xin đó cho tất cả các con cái của Cha, làm thế nào Cha có thể tỏ bày lòng thương xót của Cha cho chúng sinh?
Lòng Chúa Xót Thương là cửa ngõ dẫn đưa chúng ta vào vòng tay yêu thương tha thứ. Chúa Giêsu dậy chúng ta hãy thương xót, thì sẽ được xót thương. Trái tim thương xót là không kết án, nhưng tha thứ và quên lãng lỗi lầm, bởi vì Chúa đã tha thứ và quên đi tội lỗi của chúng ta. Chúng ta đều là tội nhân. Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu nguyện rằng xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Nếu chúng ta không tha cho anh chị em, chúng ta bị tách ra khỏi cuộc chơi (out of the game). Sự tha thứ cần đến lòng khoan dung độ lượng và trái tim nhân hậu. Sự khiêm tốn chân thật sẽ giúp chúng ta nhận biết thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình để nài xin lòng Chúa xót thương.
Trong thơ, thánh Phêrô khuyến khích các tín hữu đặt niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Phúc cho ai không thấy mà tin: Anh em yêu mến Ngài, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng không thấy Ngài bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả (1Petr 1, 8). Các Tông đồ ra đi rao giảng Tin mừng với hành trang là niềm phó thác cậy trông và uy quyền chữa lành mọi bệnh họan tật nguyền. Trong khi đi giảng đạo, người ta xin thánh Phêrô bố thí, Phêrô chẳng có qùa bánh gì để cho họ, nhưng với danh nghĩa Đức Kitô sống lại, ngài đã truyền cho nhiều người được ơn khỏi bệnh.
Lạy Chúa, Chúa giầu lòng thương xót nhưng chậm bất bình. Xin Chúa xót thương chúng con là những kẻ tội lỗi đang dõi đường tìm về bên Chúa. Xin cho niềm vui của Chúa Kitô Phục Sinh tràn đổ sự bình an trong tâm hồn chúng con. Alleluia!
Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.
Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng gọi: “Adam, Adam ngươi đang ở đâu?”. Âm thanh của tiếng gọi không mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt, có điều pha trộn chút âm điệu xót xa. “Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây trong vườn mà ta đã cấm?”.
Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn. Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói, lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem “đừng than khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm hại mình, vì “họ không biết việc họ làm”; Đỉnh cao của lòng thương xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: “ngay đêm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa Giêsu trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavít đã từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.
Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn “Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ” như sau:
Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!
Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.
Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
Có lẽ đây là vấn đề mà những người Kitô hữu phải lo lắng quan tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng, nhưng tội phạm thì năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc: “năm nay cao hơn năm trước”.
Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu diệt.
Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu long xót thương tha thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.
Có một bài hát sinh hoạt mà chúng ta đã từng hát. Bát hát đó như thế này: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh…” Quả thực, nếu ai đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô họ sẽ được đổi mới. Họ sẽ thay đổi đời mình theo như đòi hỏi của chân thiện mỹ. Từ Giakêu đến Maria Madalena tội lỗi, tham lam đã dũ bỏ mọi quyến luyến của tiền tài mà dấn thân theo Chúa. Từ Phaolô, Phêrô quá khích, yếu đuối đã hoàn toàn biến đổi để dấn thân xây dựng và mở mang Nước Chúa. Chính Đức Kitô đã thay đổi cuộc đời họ. Chính Đức Kitô đã biến đổi cuộc đời họ thành những trang Tin Mừng của Chúa.
Người ta kể rằng: Có một nhà báo không tin có Chúa, cho đó là trò mê tín dị đoan. Ông ta tìm đến một Giáo Xứ, hỏi thăm mọi người để tìm ra một người mới theo Đạo, và đã tìm được một người công nhân ít học để phỏng vấn, dự định từ đó sẽ viết một bài báo bôi bác Đạo. Cuộc phỏng vấn diễn ra như sau:- Xin hỏi thăm, có phải anh mới theo Đạo Chúa không?- Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Ki-tô.- Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào?- Rất tiếc, tôi là người ít học, lại mau quên, tôi đã có được học những chi tiết này trong một khóa Giáo Lý, nhưng bây giờ thì tôi lại không nhớ nổi, nghe đâu như Đức Ki-tô là người Do-thái thì phải!- Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?- Tôi không nhớ rõ lắm, hình như cũng vào khoảng tuổi tôi bây giờ, gần 40 hoặc trẻ hơn một chút.- Vậy, anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta?- Câu này thì tôi xin chịu thua!- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo cái ông Ki-tô ấy!- Ông nhà báo nói thế thì chỉ đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Ki-tô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: 3 năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối, khi tôi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi… Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng đợi chờ tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Ki-tô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Người…Nghe đến đây thì ông nhà báo không tin Chúa hậm hực đứng lên bỏ ra về, không được một lời cám ơn. Ông ta không ngờ lại gặp một con người hết lòng xác tín vào Đức Ki-tô như thế…
Hai môn đệ đi làng Emmau đã từng đi trong tâm trạng thất vọng buông xuôi. Bao nhiêu hy vọng vào Thầy đều tan rã theo cái chết của Thầy. Sự nghiệp, hoài bão cũng tan thành mây khói. Họ trở về quê trong tâm trạng lo âu buồn phiên vì tương lai thật đen tối. Thế nhưng, Chúa đã đến với họ trong hình dáng của người khách lạ. Một người tưởng chừng như tình cờ đến với họ để khai thông cho họ hiểu Kinh Thánh. Một người bạn đồng hành giúp họ hiểu hơn về những gì đang diễn ra theo thánh ý Chúa. Họ đã được an ủi nhờ người bạn chân thành cùng đi với họ. Nhưng điều quan trọng là họ đã bừng tỉnh và thay đổi não trạng khi họ nhận ra người khách lạ chính là Thầy mình đã sống lại. Niềm vui gặp lại Thầy đã thay đổi tâm trạng của họ. Từ thất vọng sang hân hoan. Từ mất định hướng sang việc trở về cùng với đồng bạn loan truyền tin vui Chúa đã Phục sinh.
Quả thực, hai môn đệ đã hoàn toàn thay đổi nhờ gặp được Chúa Giêsu. Một Giêsu là Chúa của họ đã đánh bại thần chết để sống lại vinh quang. Chính cuộc gặp gỡ này đã mang lại cho họ một niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Chính cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn não trạng của họ từ thất vọng đến tin tưởng, lạc quan.
Xin cho chúng ta luôn xác tín về sự hiện diện của Chúa để dám sống làm chứng cho Chúa. Ước gì chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng nhưng luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa trước những khó khăn trong dòng đời. Xin đừng vì những nghi nan mà chối bỏ Chúa nhưng luôn biết cậy dựa vào Chúa để vượt qua sóng vỗ ba đào. Amen.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Có một chi tiết đặc biệt liên quan tới đoạn Phúc Âm vừa nghe, đó là cùng một đoạn Phúc Âm này đã được chọn để dùng cho Chúa Nhật thứ hai phục sinh cho ba năm liền A, B, và C, nghĩa là năm nào vào Chúa Nhật thứ hai phục sinh, chúng ta cũng đều đọc, nghe đoạn Phúc Âm này. Chi tiết này nói lên tầm quan trọng và ý nghĩa phong phú trong Mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục Sinh là trung tâm và là nguồn năng lực tái tạo cộng đoàn những đồ đệ của Chúa.
Ngay từ khởi đầu đoạn Phúc Âm, chúng ta được nhắc lại việc Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng lại vắng mặt Thomas, và trong lần hiện ra này, Chúa đã ban cho các tông đồ sự bình an: “Bình an cho các con”. Sự bình an này làm cho các tông đồ thực sự được vui mừng. Các tông đồ được vui vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho các tông đồ Chúa Thánh Thần, quyền năng tha tội và sai các ông ra đi làm chứng cho Chúa. Các tông đồ có thể nói được trong giai đoạn này – trong phần thứ nhất của đoạn Phúc Âm hôm nay – đã tin phần nào và đã chia sẻ cho Thomas: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”, nhưng Thomas không tin và đòi kiểm chứng một cách cụ thể. Có thể nói, đây là giai đoạn thứ hai của cộng đoàn. Thái độ cứng lòng tin của Thomas đã gây chia rẽ hay làm yếu kém đi sức mạnh làm chứng của cộng đoàn cho Chúa Phục Sinh. Một cộng đoàn chia rẽ như vậy thì chắc chắn không thể nào có sự bình an, không thể nào có niềm vui để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Cộng đoàn Kitô chúng ta ngày hôm nay là một cộng đoàn của những người tin Chúa Phục Sinh đã qui tụ lại. Chắc chắn Chúa Phục Sinh hiện diện ở giữa chúng ta, Ngài là trung tâm liên kết và nâng đỡ sự hiệp nhất của cộng đoàn chúng ta, Ngài là nguồn mạch của sự bình an và niềm vui của cộng đoàn chúng ta. Chúa Phục Sinh ban cho cộng đoàn các đồ đệ đầu tiên sự bình an, Chúa Thánh Thần và sức mạnh làm chứng cho Chúa. Đó là một cộng đoàn lý tưởng cho tất cả mọi cộng đoàn Kitô khác rải rác khắp nơi trên thế giới, qua muôn thế hệ. Đó là một cộng đoàn lý tưởng, trong đó niềm vui và sự bình an đã thay thế cho sự u buồn thất vọng: thấy Chúa các tông đồ đều vui mừng. Và niềm vui, sự bình an này luôn luôn là dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Nhưng vì là những con người cụ thể, như chúng ta đây, mỗi người đều có những giới hạn của mình và cộng đoàn của chúng ta, cộng đoàn của các môn đệ Chúa chắc chắn phải trải qua những thử thách, những trở ngại.
Sự vắng mặt, sự cứng lòng tin của Thomas, thái độ của Thomas, tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Sự vắng mặt của chúng ta, sự cứng lòng tin của mỗi người chúng ta hay thái độ của chúng ta đối với Chúa Giêsu cũng như đối với anh chị em, thái độ đó cũng có ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã đáp lại khuyết điểm này của cộng đoàn các tông đồ để mang lại niềm vui và sự bình an, để trao ban sứ mạng qua việc Chúa đáp lại đòi hỏi của Thomas để biến đổi ông, và Thomas đã tin và tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa Trời tôi, Lạy Chúa và là Chúa Trời con”. Và Chúa Giêsu dường như muốn cho các môn đệ của Ngài từ đó không nên thách thức như Thomas nữa: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Cộng đoàn chúng ta hôm nay cần thực hiện lý tưởng của cộng đoàn Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để cho Chúa Giêsu Phục Sinh qui tụ chúng ta lại trong tình yêu của Người, hãy đón nhận sự bình an của Chúa trong niềm vui nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm chứng một cách xứng đáng cho Chúa. Nhưng như vừa nói chúng ta đây là những con người có giới hạn và Chúa Phục Sinh cũng đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập và để lại cho chúng ta một phương thế để tái tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn, để gìn giữ cộng đoàn được luôn hiệp nhất với Chúa và giữa mọi người với nhau, phương thế đó là bí tích Hòa Giải: “Các con tha tội cho ai thì trên trời cũng tha; các con cầm tội ai thì trên trời cũng cầm lại”.
Không có phương pháp nhân loại nào khác có sức phục hồi và củng cố sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa cho bằng phương thế siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã thiết lập và muốn cho các tông đồ sử dụng, và chúng ta biết rất rõ phương thế đó là phương thế nào. Đó là sự tha thứ bí tích, và đó cũng là bí tích của sự tha thứ. Dĩ nhiên, để lãnh nhận bí tích tha thứ của Chúa để chúng ta được tha thứ và tha thứ cho nhau, để xây dựng lại sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa, để làm cho cộng đoàn chúng ta có thể chu toàn sứ mệnh Chúa đã trao phó “Hãy làm chứng cho Thầy”, thì mỗi người chúng ta cần hành động như Thomas, cần kiểm điểm lại đức tin của mình và loại bỏ đi những gì không phù hợp với đức tin trong nếp sống của chúng ta, để có thể khiêm tốn tuyên xưng mỗi ngày, mỗi giây phút: “Lạy Chúa, Lạy Chúa Trời con, Lạy Chúa, con tin Chúa là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ của con.” Cần phải canh tân đức tin hàng ngày để đức tin của chúng ta được củng cố thêm mãi, để chúng ta có được sự bình an, niềm vui và sức mạnh làm chứng cho Chúa mọi nơi, mọi lúc.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta canh tân đức tin và củng cố đức tin.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Cả bốn Tin mừng đều thuật lại những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh với những cá nhân (Ga 20,14-17; Mt 278,5-7; Lc 24,25-31; Mc 16,9-13) và những nhóm môn đệ khác nhau (Mt 28,16-20;Lc 24,36-49;Ga 21,1-23).
Tường thuật Chúa Phục Sinh đến với Nhóm Mười Hai vào ngày thứ nhất trong tuần có một tầm quan trọng đặc biệt. Nhóm Mười Hai trở thành nền tảng của cộng đoàn Phục Sinh, thành những chứng nhân mắt thấy tai nghe về Chúa Phục Sinh, để loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người ( x. CV 4,20).
Khi Chúa đến với Nhóm Mười Hai lần đầu tiên vào chiều ngày thứ nhất trong tuần thì Tôma vắng mặt. Các Tông đồ đã nói với ông:”Chúng tôi đã được thấy Chúa”(Ga 20,25). Đây vừa là lời tuyên xưng đức tin vừa là lời làm chứng về Chúa Phục Sinh. Những lời này có tác dụng chuẩn bị và khơi dậy đức tin đã phai lạt nơi Tôma.
Tôma đã không tin vào lời của họ. Không tin như thế không phải chỉ vì Tôma cứng lòng, nhưng cũng vì khi đó các môn đệ khác vẫn chưa có những dấu chứng tỏ họ là những người đáng tin. Thực vậy, làm sao Tôma có thể dễ dàng tin vào lời nói của những người mà chẳng bao lâu trước đó, khi Thầy lâm nạn, không một ai trong họ dám lên tiếng bênh vực cho Thầy. Ai cũng sợ bị vạ lây nên tất cả đã lánh mặt hay bỏ chạy. Phêrô đã không ngượng ngùng ba lần chối không biết Đức Kitô là ai. Họ đã bỏ Đức Kitô, và Ngài đã chết đau thương tủi nhục trên thập giá. Như vậy thì làm sao bây giờ Tôma có thể tin lời của những người yếu hèn nhát đảm đó?
Để xoá tan nghi nan của Tôma, Chúa Phục Sinh hiện đến và tỏ cho Tôma xem thấy những vết thương của Ngài. Trong cộng đoàn Phục Sinh, Tôma tìm lại được đức tin của mình. Chính cộng đoàn đã thắp sáng lên niềm tin cho người anh em. Bởi đó, khi Chúa Phục Sinh với lời mời gọi yêu thương:” Tôma,hãy xỏ ngón tay con vào lỗ đinh,hãy đặt bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng nhưng hãy tin” thì lập tức Tôma được biến đổi từ bóng tối nghi nan sang ngời sáng niềm tin “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”(Ga 20,28).
Một trong những khuyết điểm lớn nhất của Tôma là ông đã tự tách rời khỏi các Tông Đồ khác, khỏi đời sống cộng đoàn. Trong sự choáng váng, thất vọng, chán nản, trong tâm trạng hoài nghi, đau khổ, ông đã tự nhốt mình trong sự cô đơn xa lánh anh em,tìm quên lãng trong sự phiền muộn nên đánh mất cơ hội gặp Chúa Phục sinh. Chỉ đến khi tham gia trở lại với cộng đoàn, thì ông mới gặp gỡ Ngài và nhờ đó ông đã tìm lại được lòng tin mạnh mẽ, kiên trung. Truyền thống Giáo hội kể lại, Tông đồ Tôma qua Ấn độ truyền giáo và chịu tử đạo ở đó.
Đức tin của người tín hữu được trao ban và nhận lãnh nơi cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn giáo xứ. Nơi cộng đoàn này, người tín hữu được nuôi dưỡng và lớn lên trong đức tin, hoặc tìm lại được niềm tin của mình.
Đức tin Kitô giáo vừa có chiều kích cộng đoàn vừa có chiều kích cá nhân. Đức tin cá nhân được cộng đoàn nuôi dưỡng và làm thành đức tin cộng đoàn. Cộng đoàn lớn lên và phát triển là nhờ đức tin cá nhân. Cộng đoàn làm cho đức tin cá nhân phong phú và độc đáo.
Lời Chúa được công bố giữa cộng đoàn Thánh Thể chính là Lời Phục sinh, mỗi người tín hữu lắng nghe và chấp nhận cho riêng mình. Mỗi người, nhờ lòng tin và lòng mến mà Lời Chúa sẽ sinh hoa kết quả trong tâm hồn.
Mình Máu Chúa được trao ban cho mọi tín hữu trong cộng đoàn Thánh Thể, mỗi cá nhân tín hữu lại đón nhận với mức độ đức tin khác nhau. Người tín hữu phải đủ đức tin khi rước Thánh Thể của Đấng đã chết và sống lại.Không chỉ ăn uống Mình Máu Chúa mà còn là gặp gỡ riêng tư với Chúa Phục Sinh như Tôma vậy.Trong cuộc gặp gỡ riêng tư này, người tín hữu được đón nhận sự sống dồi dào vào tâm hồn mình.
Đời sống cộng đoàn thật quan trọng cho niềm tin người tín hữu. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông Huấn “Người Kitô hữu giáo dân” đã đưa ra bốn hình ảnh về giáo xứ, cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn Thánh Thể.
* Giáo xứ là một gia đình của Thiên Chúa chan hoà tình bác ái huynh đệ: mọi người được đón tiếp chân thành,được sống trong bầu khí bác ái,được cảm thấy mình được kính trọng, được yêu thương che chở,ai cũng cảm thấy mình thuộc về giáo xứ là một vinh dự.
* Giáo xứ là một cộng đoàn nuôi dưỡng đức tin:Mọi người được bồi dưỡng đức tin,được kêu gọi sống đức tin,được giúp hiểu biết các vấn đề đức tin. Các Thánh lễ, các giờ giao lý,các buổi cầu nguyện luôn hướng về Thiên Chúa, được Lời Chúa và lời Giáo hội soi sáng để người tín hưũ hiểu biết những biến cố cuộc đời.
* Giáo xứ là một cộng đoàn có tổ chức: Mọi người được sắp xếp trong một hệ thống trật tự,có phân công, có trách nhiệm.Tất cả liên hệ với nhau trong tinh thần hiệp thông, cộng tác, trách nhiệm để xây dựng giáo xứ tốt đẹp.
* Giáo xứ là một cộng đoàn truyền giáo: Đây là hình ảnh mà Công Đồng Vatian II đề cao nhất,hình ảnh cộng đoàn truyền giáo. Mọi người được nuôi dưỡng đức tin, được sống tình bác ái để ra đi truyền giáo, loan báo Tin Mừng Phục Sinh, rao truyền niềm vui, niềm hy vọng như cộng đoàn Nhóm Mười Hai đã ra đi đến với muôn dân.
Cộng đoàn phụng vụ ngày Chúa Nhật là điểm hẹn chính thức và thường xuyên của Chúa Phục Sinh với các tín hữu. Không nên lỗi hẹn với Chúa trong các cuộc họp cộng đoàn ( x.Dt 10,25), trái lại cần chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh. Ngài luôn có mặt để giải thích Kinh Thánh đồng thời mở lòng mở trí cho các tín hữu hiểu Lời Ngài (x. Lc 24,32.45) và hiến ban chính mình để nuôi sống người tín hữu chúng ta.
Tôma đã nhờ cộng đoàn yêu thương nâng đỡ mà tìm lại được niềm tin. Nơi Tôma có cái gì đáng yêu đáng ngưỡng mộ, tuy cứng lòng tin nhưng lại dễ dàng khiêm nhường đón nhận những góp ý chân thành của cộng đoàn.
Nhờ Tôma mà ta có được mối phúc thứ chín: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Mối phúc này nghe như có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy và chừng như cũng có lời ước hẹn: tin điều mình không thấy sẽ thấy điều mình tin. Mỗi tín hữu vững tin sẽ thấy điều mình tin để nói được rằng: “Tôi đã thấy Chúa”(Ga 20,18), nhờ đó cả cộng đoàn cũng đều nói lên: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).
(Suy niệm của ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt)
Có thể nói thánh Tôma là một người rất hiện đại. Ngài đòi hỏi phải thấy, phải chạm vào, phải chứng nghiệm được mới tin. Đó chính là não trạng khoa học đang rất phổ biến trong thế giới ngày nay.
Tất nhiên không phải ai cũng như vậy. Thánh Gioan chỉ cần thấy ngôi mộ trống thì hiểu Thánh Kinh và tin Chúa Giêsu đã phục sinh. Các môn đệ khác hầu hết nhờ thấy Chúa Giêsu phục sinh nên tin. Có những người chỉ cần lời chứng của các tông đồ cũng đủ để tin. Ngày nay hầu hết chúng ta không thấy Chúa Giêsu hiện ra cho xem chân tay và ăn cá nướng để chúng ta tin. Lời chứng của các tông đồ và của cả Hội Thánh trong 20 thế kỷ qua được chúng ta coi là đủ để tin. Đó là những người Chúa Giêsu gọi là “không thấy mà tin”.
Nhưng thời nay cũng như thời xưa, vẫn có những người đòi hỏi như thánh Tôma. Chúa Giêsu đã từng đáp ứng những đòi hỏi xem ra quá quắt ấy của thánh Tôma ngày xưa. Còn những “thánh Tôma” ngày nay thì sao? Họ chờ mong được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào vết giáo trên cạnh sườn nơi thân thể Đức Kitô phục sinh là Hội Thánh. Đã từng có những chi thể của Đức Kitô mang thương tích vì yêu mến tha nhân, thương tích trên chân tay hay trong trái tim. Và ngay ở đầu thế kỷ XXI này, những thương tích ấy vẫn khá rõ ràng.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã “cho thánh Tôma xem năm dấu mình”, nay xin cũng cho các môn đệ Chúa biết yêu mến đến phải mang thương tích để thỏa mãn những người đòi hỏi phải thấy bằng chứng yêu thương qua những dấu tích nơi Hội Thánh và từng môn đệ Chúa.
Chúng ta đang ở vào cuối tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao hơn cả. Mầu nhiệm căn bản của Đức Tin chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của chúng ta vẫn còn trong tội lỗi” (1 Cr 15, 17).
Tại Nhã điển, thủ đô Hy lạp, Phaolô gặp ngoài đường phố những bàn thờ “kính thần vô danh”. Phaolô dùng sự kiện ấy làm nhập đề và giảng một bài cho giới trí thức tại Tối cao Pháp viện. Ngài trình bày việc Chúa Giêsu đã Phục sinh sống lại từ cõi chết. Vừa nghe đến việc người chết sống lại, một nhà trí thức đứng lên, nhắc cho Phaolô biết lời của nhà hiền triết Eschyle rằng: “Khi tro bụi đã uống máu một con người, người ấy không bao giờ sống lại”. Phaolô buồn “rũ áo” đi đến cùng dân ngoại (Cv 17, 22-33).
Đạo Kitô giáo không phải là một triết lý theo quan niệm Hy lạp, một thứ tam đoạn luận, mà là một cái gì cao siêu hơn: một mầu nhiệm, một sự sống, một niềm Tin.
Mầu nhiệm ấy, Thiên Chúa không mặc khải cho người khôn ngoan hiền triết mà cho kẻ bé mọn, để bẻ gãy sự kiêu căng của người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng.
Chiều thứ nhất Phục sinh, các môn đệ họp nhau trong nhà Tiệc ly nơi Chúa đã lập phép Thánh Thể thứ năm tuần trước và hứa rằng Ngài sẽ trở lại. Bỗng nhưng, trong khi đóng cửa then cài, Ngài xuất hiện. Ngài đứng đó và nói: Shalom – Bằng an cho các con. Ngài đến đem sự bìng an vui mừng cho họ và sai họ đi phổ cập ơn cứu rỗi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Chúa Giêsu nhận lấy cho mình quyền năng tha tội, quyền năng của một Thiên Chúa (Mt 9, 2-8). Hôm nay, Ngài trao lại cho các môn đệ bằng một lời nói, bằng một hơi thở, “Ngài thổi hơi trên họ và nói: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha, các con cầm tội ai thì tội họ bị cầm lại”. Ngày khai thiên lập địa, Chúa thổi hơi ban sự sống cho nguyên tổ Ađam (St 2,7) thì nay, hơi thở ấy chính là Ngôi Ba Thiên Chúa mà một trong hoa quả là bình an (Ga 5, 22).
Nhưng chiều hôm ấy, trong một nhóm môn đệ thiếu mặt Tôma, một con người thực tế, khó bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, nhưng người ta cũng dùng lý trí để kiểm chứng, dùng niềm tin để tăng phần hiểu biết.
Tôma nghe các bạn cho biết, họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống lại. Tôma không tin. Có lẽ ông nói: “Còn khuya tôi mới tin”, nếu tôi không kiểm chứng bằng mắt thấy, tay sờ đụng. Thái độ của Tôma lại càng làm nổi bật sự hiển nhiên của dữ kiện sống lại.
Hôm nay, Chúa hiện ra với các môn đệ có Tôma hiện diện. Chúa nhắc lại các đòi hỏi của Tôma kéo dài cả tuần lễ nay. Tôma không biết làm gì hơn là phủ phục xuống và tuyên xưng Đức Tin, “Lạy Chúa là Chúa Trời tôi”, một lời tuyên xưng trong sáng, tóm tắt tất cả Tin Mừng của Gioan và của chúng ta.
Ngài là Cứu Chúa đã chết để đền tội ta nhưng nay Ngài đã phục sinh trở về với Thiên Chúa, đồng hàng với Thiên Chúa, chính là Thiên Chúa. Trong dịp này. Ngài cũng để cho chúng ta, qua Tôma, một mối phúc thật khác là phúc thật Đức Tin. Ngài nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin, Phúc cho ai không thấy mà tin” (Gio 20, 29). Đức Tin là một đặc ân của Thiên Chúa, người ta có thể thành tâm đón nhận cũng như có thể, như dân Do thái xưa, từ chối ơn Chúa.
Tại Lộ-Đức, Đức Mẹ đã ban nhiều ơn và làm nhiều phép lạ. Cách đây 50 năm, có hai người thời danh là Bác sĩ Alexis Carrel và nhà văn Emile Zola cùng đi Lộ-đức để quan sát. Cả hai cũng chứng kiến một ơn lạ nhãn tiền. Tại nhà ga Austerlitz, Zola gặp một người đàn bà hấp hối, bệnh lao đến thời kỳ tuyệt vọng. Bà tên là Marie Lebranche, Zola nói: “Bà này đến Lộ-Đức khỏi bệnh thì tôi tin!” Người đàn bà sắp chết đó đi tắm suối Đức Mẹ run rẩy nhưng sau đó chỗi dậy, cất tiếng hát Ave Maria, rồi tự đi ra hang đá quì cầu nguyện một giờ. Bác sĩ khám, phổi nguyên lành. Zola ứa nước mắt. Bác sĩ Carrel cũng xúc động, được ơn trở lại. Bác sĩ viết cuốn “Hành trình Lộ-Đức” để nói lên sự thật; Zola chối sự thật trong cuốn “Lourdes” của ông.
“Tôma, vì con thấy Thầy nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Xin Chúa ban cho con mối phúc thật niềm Tin ấy.
(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Dựa theo bố cục tổng quát của Tin Mừng Gioan, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin Mừng.
Trong tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người. Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng để các ông trở thành sứ giả đi khắp nơi mà ban ơn tha tội, ban sự bình an.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không có Tôma (20,19-23):
2) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (20,24-29):
3) Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (20,30-31).
3.- Vài điểm chú giải
– Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần (19): Cuộc hiện ra xảy ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc 24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều, Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau, rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác giả dùng từ ngữ “ngày ấy” mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20; 16,23.26). Tác giả dùng công thức “Ngày thứ nhất trong tuần” cho cả hai lần hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có thể là vì ông muốn nhắc đến thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào “ngày thứ nhất trong tuần” (Cv 20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
– các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu ra trong bản văn là “vì các ông sợ người Do Thái”, nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là thân thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đóng kín. Đây cũng có thể là một ghi nhận về hoàn cảnh hiện tại của các môn đệ.
– Bình an cho anh em (19): Trong tiếng Hípri, shâlôm (= bình an, HL eirênê) là một lời chào thông thường. Nhưng trong văn cảnh long trọng ở đây, lời của Đức Giêsu có ý nghĩa khác, không phải chỉ là “Cầu chúc anh em được bình an”, như thể họ còn phải chờ đợi sự bình an đến trong tương lai. Ở đây, lời Đức Giêsu nói là một nhận định về thực tại: chắc chắn họ đang có sự bình an của Người.
– Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong các Tin Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47), nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai đi là quan hệ của Con với Cha (một đề tài thần học của Ga, xem 17,18).
– Người thổi hơi vào các ông… Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến làn hơi sáng tạo của Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là Thánh Thần. Trên thập giá, Người đã “trao Thần Khí” (paredôken to pneuma; trước đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta đã dịch là “trút hơi thở”) (19,30): Người đã trao ban Thánh Thần cho những người đứng dưới chân thập giá, đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của Thiên Chúa, và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng các Kitô hữu.
– Anh em tha tội cho ai…; anh em cầm giữ ai… (23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy Lạp (Bản LXX), Truyện Bilơam: chẳng hạn so sánh Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX. Theo bản văn Hípri, vua Balác xác tín rằng “kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc họa/bị nguyền rủa” (Ds 22,6 Hípri), nghĩa là sẽ bị nguyền rủa qua lời nguyền Bilơam tuyên bố. Ông không bận tâm với quyền năng của Thiên Chúa Israel, là Đấng có đồng ý thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa (Ds 22,12; 23,8). Ngược lại, trong bản văn Hy Lạp, lời của Balác ở 22,6 có một ý nghĩa có thể giải thích theo hai hướng: có thể hiểu “được phúc” (eulogêntai) và “mắc họa/bị nguyền rủa” (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu quả sẽ xảy ra trong tương lai gần (bản văn Hípri: dạng phân từ và vị hoàn), vừa theo nghĩa một lời thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên Chúa chúc phúc hoặc bị Thiên Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa. Đó chính là điều Thiên Chúa đã nói với Bilơam: “Ngươi không được đi với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin gar eulogêmenon)”. Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng được chúc phúc, từ đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã đang bị Thiên Chúa nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông không biết.
Dạng hoàn thành apheôntai (“được tha”) và kekratêntai (“bị cầm giữ”) ở Ga 20,23 có thể được hiểu như thế.
– Chúng tôi đã được thấy Chúa (heôrakamen ton kyrion, 25): Heôrakamen là thì hoàn tất của động từ horaô, diễn tả việc “thấy” kèm theo sự hiểu biết thật sự.
– Nếu tôi không thấy dấu đinh… (25): Đây là lời Tôma khẳng định rằng ông không tin, hoặc để ông tin, Đức Giêsu cũng phải hiện ra với ông, như đã hiện ra với các môn đệ kia. Đức Giêsu đã đáp ứng yêu cầu của ông, Người đã mời ông làm như ông nói lúc này, để có thể tin.
– Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin (27): Dịch sát là “đừng cứ tiếp tục không tin nữa, nhưng hãy bắt đầu tin đi”. Đức Giêsu mời Tôma thay đổi thái độ.
– Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con (28): Đây vừa là một tiếng kêu vừa là một hô-cách dưới dạng chủ-cách (= “Lạy Chúa và lạy Thiên Chúa của con!”) vừa là một lời tuyên xưng đức tin (= “Ngài là Chúa và Thiên Chúa của con”) độc đáo chưa ai làm. “Chúa của con” nhắm đến Đức Giêsu của lịch sử, còn “Thiên Chúa của con” là một lượng định mang tính thần học về bản thân Người. Tuyên xưng Đức Giêsu là “Đức Chúa” thì Maria Mácđala và các môn đệ đều đã làm (20,18.25); nhưng tuyên xưng vị “Chúa tể” này là “Thiên Chúa”, thì chỉ có Tôma mới làm ở đây. Vì thế, cũng có thể hiểu câu này là một phép thế đôi (hendiadys): “Chúa của con” cũng là “Thiên Chúa của con”.
– là để anh em tin rằng (31): Bản văn Hy Lạp ghi “để anh em tin” là hina pisteu[s]ête (với con chữ sigma nằm trong ngoặc đơn), tức là có thể đọc hina pisteusête hoặc hina pisteuête. Cả hai cách đọc đều có thể chấp nhận, nhưng đưa tới hai ý nghĩa rất khác nhau:
(1) Cách đọc thứ nhất, hina pisteusête (subjuntive aorist): Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em có thể đi đến đức tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật là truyền giáo. Những người nhận bản văn hẳn là những người ở bên ngoài cộng đoàn Kitô hữu.
(2) Cách đọc thứ hai, hina pisteuête (subjuntive present): Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em tiếp tục tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật chỉ là khuyến thiện. Những người nhận bản văn hẳn là những người thuộc về cộng đoàn Kitô hữu.
Cho dù cách hợp lý hơn là cách đọc thứ hai, ta cũng không thể chỉ vì có hoặc không có một con chữ sigma (s) mà phân biệt để xác định rằng mục đích của tác phẩm là truyền giáo hay không. Ta còn phải khảo sát tất cả các cách dùng liên từ hina, rồi khảo sát cấu trúc văn chương tổng quát của tác phẩm. Dù sao, khi nghiên cứu TM IV kỹ càng hơn, ta có thể nghĩ rằng tác phẩm được ngỏ với những người đã là Kitô hữu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong cả hai lần Đức Giêsu hiện ra, thời gian là “ngày thứ nhất trong tuần”, “ngày của Chúa”, ngày Chúa Nhật. Người chào các môn đệ với những lời như nhau, “Bình an cho anh em!”. Đây là cuộc gặp gỡ hàng tuần của cộng đoàn Kitô hữu. Đức Giêsu Phục Sinh tỏ mình ra cho các môn đệ của Người.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không có Tôma (19-23)
Các môn đệ đang sống trong căn nhà cửa đóng then cài, “vì sợ người Do Thái” (c. 19). Điều này hiểu được sau khi Đức Giêsu qua đời, nhưng có lẽ cũng phản ánh hoàn cảnh của các môn đệ vào lúc Gioan viết Tin Mừng. Nhiều lần, trong tác phẩm, ta thấy những ai thuộc về nhóm Đức Giêsu đều sợ bị đuổi ra khỏi hội đường (x. 9,22). Các môn đệ lúc này không còn là mười hai nữa, mà là mười một, rồi đọc thêm nữa thì thấy chỉ còn có mười. Khi hiện ra, điều đầu tiên Đức Giêsu làm là cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các ông. Rồi Người nói: “Bình an (eirênê) cho anh em!” (c. 19). Không chỉ nói về bình an, Người còn cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết thương (tay [chân] và cạnh sườn). Vậy Người chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng Người đã thắng cái chết. Không có sự buồn phiền khi trông thấy các dấu vết của cuộc Thương Khó. “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (c. 20). Chỉ có niềm vui bởi vì thời điểm tiêu cực cuộc cuộc Thương Khó đã bị vượt qua. Các môn đệ vui mừng bởi vì Đức Giêsu vui mừng và chuyển thông niềm vui cho họ. Các ông cũng vui mừng bởi vì Đức Giêsu đã hoàn tất sứ mạng của Người.
Đức Giêsu lại ban cho sự bình an cho các ông một lần nữa, rồi cho các ông được thông phần vào chính sứ mạng, chính sự sống và quyền của Người là tha tội. Sau khoảnh khắc nhận biết, như trong trường hợp Maria Mácđala, bây giờ đến một loại tương quan khác. Ở c. 20, Đức Giêsu nói tiếp: “Như (kathos) Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (c. 21). Chỉ là một chuyển động duy nhất: Trong tư cách Chúa Con, Người làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách môn đệ Người, các môn đệ đi làm chứng về Người và đưa người ta tới chỗ tin vào Người, để rồi trong Người, các ông được thông hiệp với Chúa Cha. Điểm này rất quan trọng: tất cả những gì các môn đệ làm, các ông không tự mình mà làm, nhưng làm theo lệnh Đức Kitô.
Thế rồi để các ông chu toàn được sứ mạng, Đức Giêsu ban cho các ông Chúa Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (c. 22). Chính Thánh Thần sẽ ban cho các môn đệ sức mạnh để làm chứng “ad extra” (hướng ra bên ngoài). Nhưng không chỉ có thế. Dấu chỉ cụ thể của ân ban này là sự tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (c. 23). Nối tiếp sứ mạng của Người, các môn đệ sẽ tha tội và cầm buộc. Có dây liên kết rõ ràng giữa ân ban Thánh Thần và quyền tha tội để xây dựng nội bộ cộng đoàn. Đều này nêu bật chiều kích “ad intra” (hướng vào bên trong). Sứ mạng và sự tha tội đi chung với nhau và là hoa trái của cùng một Thánh Thần do Đức Giêsu ban tặng.
Ở trong một thế giới đang làm cho các ông phải lo sợ, các ông đã có ở giữa mình Đấng chiến thắng thế gian (x. 16,33) và được đầy sự bình an và niềm vui của Người. Đức Giêsu đã mở cửa ra cho các ông và làm cho các ông có thể đi vào thế giới và mang các ân huệ đến cho thế giới. Các môn đệ không được khép mình lại trong nỗi sợ hãi trước thế giới, nhưng phải đầy tin tưởng đi vào thế giới.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (24-29)
Khi Đức Giêsu đến, Tôma, một trong Nhóm Mười Hai, không ở với các môn đệ. Các môn đệ đã gặp Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và được Người sai đi (cc. 19-23) đảm bảo với Tôma rằng: “Chúng tôi đã được thấy Chúa (heôrakamen ton kyrion)!” (c. 25). Đây không phải chỉ là lời chia sẻ thông tin về một sự kiện, mà còn là một lời tuyên xưng đức tin: các ông (“chúng tôi” , tương tự cộng đồng Hội Thánh) đã thấy Thầy, mà các ông gọi là “Chúa” (danh xứng của Đức Giêsu sau Phục Sinh), và các ông đã hiểu, đã tin. Nhưng Tôma không tin anh em; ông nêu ra những điều kiện: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (c. 25). Tôma muốn làm cho rõ ra là Đấng Phục Sinh chẳng phải là ai khác, mà chính là Đấng đã chịu đau khổ và đã chết, là đây không phải là một Giêsu khác, nhưng vẫn là Giêsu như trước đây. Trách Tôma cứng tin, hay không hiểu gì cả, là quá đáng! Ông muốn có một kinh nghiệm cá nhân, ông muốn chính ông đạt tới đức tin. Đức Giêsu đã chấp nhận các điều kiện của ông. Người chấp nhận tỏ mình ra theo cách có thể giúp Tôma nhận biết Người.
Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, và cũng như lần trước, Người ban bình an, sự vững vàng an toàn và sự che chở. Rồi Người ngỏ lời với Tôma. Làm sao Người biết những chuyện đã xảy ra? Chúng ta không biết, vì bản văn không nói, nhưng khả năng hiểu biết này của Đức Giêsu chứng tỏ rằng kể từ nay, Người hiện diện gần gũi với các môn đệ, cho dù về thể lý, họ không nhìn thấy Người. Người bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (c. 27). Người cho Tôma thấy những dấu chỉ của cái chết và tình yêu của Người, và cũng chứng minh rằng Người là nguồn mạch ơn cứu độ. Có người cho rằng Tôma đã đưa tay chạm tới Đức Giêsu. Hẳn là không cần như thế. Tôma đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, một lời tuyên xưng chưa hề có ai nói lên: “Lạy Chúa của con và là Thiên Chúa của con” (c. 28). Ông đi theo một lộ trình dài hơn mọi anh em, nhưng ông đã đến gần Đức Giêsu hơn mọi anh em. Vì đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và Thiên Chúa. Người là Đức Chúa, có quyền năng cứu độ. Quan hệ với Người có tính vững bền trọn vẹn mãi mãi vì Người là Thiên Chúa. Sau đó, Đức Giêsu đã đưa ra một sự đối lập giữa “thấy” (horaô) và “tin” (pisteuô) (cc. 8b. 18. 20b. 25ab. 27. 29ab; x. 1,45; 4,50), và nhìn đến các thế hệ tín hữu tương lai. Kể từ nay, chứng từ về kinh nghiệm mà các môn đệ đã có về Đức Giêsu Phục sinh phải là động lực đưa moi người đến đức tin, chứ không phải là kinh nghiệm về một cuộc hiện ra trực tiếp của Đấng Phục Sinh hay về một thánh tích.
* Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (30-31)
Cuối cùng, tác giả TM IV tóm tắt mục tiêu của công trình của Đức Giêsu và cho thấy, đối với những người không được thấy, đâu là nẻo đường đưa tới đức tin. Các tín hữu hôm nay được mời gọi tin vào Đức Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Đức tin nối kết chúng ta với Người, và nhờ Người là Chúa Con, chúng ta được đưa vào thông hiệp với Chúa Cha. Đó là sự sống đời đời. Phải chăng ở đây có nguy cơ chủ quan? Chính là xuyên qua tính chủ quan mà ta đạt được tính khách quan. Kinh nghiệm đức tin của một người riêng lẻ phải được đối chiếu với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn. Đức tin của một người tự nó không đủ. Chứng từ của cộng đoàn luôn cần để bảo đảm cho đức tin của từng người. Tuy nhiên, đức tin của cộng đoàn không bao giờ thay thế đức tin của từng người. Nếu TM IV có nhấn mạnh là nhấn mạnh trên điểm này: chiều kích cá vị của tương quan với Đức Giêsu Phục Sinh.
+ Kết luận
Chúng ta có thể đọc bản văn trên đây như một bức tranh bộ đôi: trong tất cả các bài tường thuật này, ta ghi nhận chiều kích cá vị trong tương quan với Đức Giêsu. Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của sự bình an của các ông.
Đã nhận được các lời chứng của các môn đệ, kinh nghiệm của Tôma, các Kitô hữu hôm nay được mời gọi xác tín: quả thật, Đức Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, và hãy tin vào Người. Niềm tin nối kết họ với Người, và nhờ Người là Chúa Con, các Kitô hữu được đưa vào hiệp thông với Thiên Chúa Cha.
5.- Gợi ý suy niệm
Chuyện kể rằng: Một môn đệ của Khổng Tử hỏi sư phụ: “Thưa thầy, đâu là yếu tố cơ bản của một chính quyền vững chắc?”. Sư phụ đáp: “Đủ lương thực, binh khí và lòng tin của dân”. “Nhưng giả sử thầy phải cắt giảm một trong ba thứ đó, thầy sẽ bỏ cái nào?”. “Binh khí”. “Giả sử chỉ chọn một trong hai thứ còn lại, thầy sẽ bỏ cái nào?”.”Lương thực. Chết là phần số của mọi người. Nhưng dân tộc không còn lòng tin vào lãnh đạo, dân tộc ấy sẽ tan rã!”.
Vâng, không chỉ trong cộng việc lãnh đạo đất nước, mà bất cứ mối quan hệ nào cũng cần phải có lòng tin. Vợ chồng tin nhau, trò tin thầy, bạn bè tin tưởng nhau, tin tưởng đối tác làm ăn… Nếu mất niềm tin lẫn nhau, chẳng thể giao tế gì với nhau được nữa. Do đó, mỗi người phải tạo uy tín cho mình nơi người khác dựa trên sự thật.
Tin mừng về “Đức Kitô đã bị giết đi và Thiên Chúa đã cho Người sống lại” (x. Cv 2,23-24) không phải là tin đồn nhảm. Đây cũng không phải là chuyện bịa đặt lừa dối thiên hạ. Chính các Tông đồ đã thấy và đã làm chứng. Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại biến cố Đức Giêsu hiện ra với các Tông đồ, cho các ông tận mắt xem thấy thân xác sống lại của Người và sai các ông đi loan báo cho mọi người, để mọi người “nhờ tin mà được sống nhờ danh Người” (Gn 20,31).
Đức Giêsu không bao giờ lừa dối chúng ta. Hơn nữa, việc nầy chẳng mang lại cho Người ích lợi gì. Nhưng vì phần rỗi của chúng ta, Người đã hiện ra với các Tông đồ, những người bảo tồn và loan báo niềm tin Phục Sinh. Như vậy, niềm tin của chúng ta không đơn độc, không mù quáng. Chưa có một bằng chứng nào cho thấy tin vào Đức Kitô Phục Sinh là chuyện hoang đường, phù phiếm. Có hay chăng chỉ là những suy nghĩ thiếu đức tin mà thôi. Thử hỏi những kẻ chối bỏ niềm tin Phục Sinh giờ ở đâu? Tất cả đã qua đi với thời gian. Đức Kitô Phục Sinh vẫn ngời sáng từ lúc bước ra khỏi huyệt mộ cho đến ngày nay. Điều đó được minh chứng bằng Tin Mừng Phục Sinh của Người, Tin mừng ấy đã – đang và sẽ vang mãi cho đến tận cùng thời gian.
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Gn 20,25). Sự cứng lòng của Tôma phản ánh lại thử thách đức tin mà mỗi người chúng ta thường gặp phải. Rất nhiều lúc chúng ta rơi vào tình cảnh của Tôma, “không thấy, không tin”, một đòi hỏi về tính chắc chắn. Nhưng nếu đã thấy rồi thì chỉ chấp nhận sự thật thôi, khi đó không cần đến lòng tin nữa. Như thế, tin là chấp nhận những điều mình không thấy; và tin như thế mới thật là có phúc (x. Gn 20,29).
“Vì đã thấy Thầy nên anh tin, phúc cho những ai không thấy mà tin” (Gn 20,29). Lời phê bình nhắm vào sự bướng bỉnh của Tôma, lại là lời khích lệ đối với chúng ta, là những người được đòi hỏi phải tin vào Đức Kitô Phục Sinh, mặc dù không có khả năng nhìn thấy hoặc đụng chạm vào Người. Người ta nói: “Muốn xem thấy cầu vồng, phải biết chịu đựng cơn mưa”. Thiên Chúa để chúng ta gặp thử thách trong đời sống đức tin là vì yêu ta và để ta chứng tỏ tình yêu dành cho Ngài. Giữa những thử thách mà ta vẫn giữ được lòng tin của mình thì ta càng xứng đáng hơn với tình yêu Chúa dành cho ta.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sau khi được phục sinh, Đức Giêsu được tôn vinh lên làm Chúa, nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ.
Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.
Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp, khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u.
Ngài chúc cho họ bình an ba lần (c.19.21.26), thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Đức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Chỉ có một người không vui, đó là ông Tôma. Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Đức Giêsu phục sinh. Chỉ biết ông đã “không ở với” các môn đệ, lúc Ngài đến. Có vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn, khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn: “Chúng tôi đã thấy Chúa.” Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan. “Nếu tôi không thấy… nếu tôi không xỏ ngón tay… nếu tôi không thọc bàn tay… tôi sẽ chẳng tin đâu.” Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Đức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai. Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến. Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em, nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi. Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại. Quanh chúng ta vẫn có nhiều người giống Tôma. Họ đòi “thấy và chạm đến” những thực tại vô hình, như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau.
Nếu “thấy và chạm” có nghĩa là “có cảm nghiệm”, thì đòi hỏi trên thật là chính đáng. Đức Giêsu đã cho Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng giúp người khác thấy và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật. Chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa, cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao, cần bay lên khỏi cái nặng nề của thân xác như người đã cảm được cái nhẹ bổng của linh hồn.
Truyền giáo là làm cho người ta tin, làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta phải nói được rằng: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).
Gợi Ý Chia Sẻ
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác…
Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
Anh chị em thân mến.
Trong một đoàn xiếc, có những diễn viên bước ra sân khấu người ta vẫn không biết người đó sẽ biểu diễn trò gì. Nhưng có một người vừa bước ra, thì không ai bảo ai, mọi người đều vui mừng vì họ sẽ được những giây phút thư giãn, được những trận cười thoã thích. Nhìn vào anh hề, người ta biết anh ta sẽ mang đến cho họ một sứ điệp vui mừng. Từng cử chỉ, từng điệu bộ, những lời nói, tất cả mọi hành động đều mang sứ điệp của niềm vui.
Nếu một người nào khác, làm nhiệm vụ thay thế cho anh hề, thì họ cũng phải có phong cách như thế nào để mọi người nhận ra được phong cách vui mừng mà họ thay thế. Nếu không làm được như thế thì họ sẽ khó được mọi người chấp nhận.
Vừa nghe qua bài phúc âm, có lẽ cảm giác đầu tiên đến với mọi người là Chúa Giêsu khó chịu vì Tôma quá cứng tin, không chịu nghe những gì các tông đồ chứng kiến và thông báo lại cho ông. Không phải thế. Chúng ta bình tâm nghe lại lời Chúa Giêsu, một lời nhẹ nhàn thân mật, một lời khiến cho Tôma cảm động và giật mình, một lời đi vào tận cõi riêng tư của ông mà ông cảm nhận được, lời khiến ông không thể nào đứng yên được mà phải quỳ gối xuống để tuyên xưng niềm tin của mình. Những gì Tôma suy tưởng, những gì ông nói, những gì ông làm, Chúa đều biết cả. Ông cảm nhận được đều đó. Cảm động hơn nữa là Chúa Giêsu còn nhớ đến ông đặc biệt hơn những người khác, đáp ứng nhu cầu của ông. Nhận ra như thế ông liền biểu lộ niềm tin của mình.
Còn các tông đồ cũng báo tin cho Tôma: các ông bảo rằng đã nhìn thấy Chúa sống lại, chúc bình an cho các ông, Chúa sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Làm sao Tôma có thể tin được các ông ấy khi các ông vẫn ngồi yên bất động trước lệnh truyền của Đấng đã sống lại. Các ông vẫn hèn nhát, vẫn trốn tránh mọi người, vẫn ưu sầu phiền muộn, vẫn không có gì đổi mới. Làm sao Tôma có có thể tin được những người lãnh sứ mệnh loan báo Tin Mừng, nhưng không có một chút nào là vui mừng. Làm sao Tôma có thể tin được nơi những người không có một chút niềm tin nào trong cuộc sống để cho ông nhìn thấy.
Chỉ cần nhìn thấy Chúa Giêsu, Tôma biểu lộ niềm tin của mình ngay: ông không thể ngồi yên bất động, ông quỳ xuống và tuyên xưng “Lạy Chúa Tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Trong cuộc sống đời người, mỗi người mang lấy một sứ điệp mà Thiên Chúa trao ban, để đem Tin Mừng của Chúa đến cho người khác. Mọi người nhìn vào nơi chúng ta và có nhận ra được rằng chúng ta mang đến cho họ sứ điệp như thế nào không? Làm sao người khác nhận được niềm vui nơi gương mặt không có nụ cười, làm sao có được niềm vui nơi một gương mặt giận dữ và những lời nói nặng nề biều lộ sự nóng nãy, giận hờn với những lời chua cay khó chịu. Cũng thế, làm sao có được niềm vui nơi những người chỉ biết trốn chạy, với những lời nói khô khan. Như thế mọi người làm sao có thể tin vào Chúa Kitô được với những sứ giả Tin Mừng như thế.
Mọi người nhìn vào trong chúng ta và họ nhận ra được Tin Mừng, khi họ nhìn thấy được một con người biết đổi mới cuộc sống mình tốt hơn. Mọi người chỉ nhận được Tin Mừng nơi những người sống Tin Mừng thật sự.
Nếu chúng ta vượt qua được những ưu sầu phiền muộn của cuộc sống, với sự bình tâm chấp nhận mà vẫn có được niềm vui khi đón nhận người khác. Nếu chúng ta nhận ra được Chúa Phục Sinh và lắng nghe mệnh lệnh của Ngài để thi hành trong hoàn cảnh sống, để biết đến và giúp đở mọi người khi cần thiết, biết nói những lời động viên an ủi, biết giằng lại một chút nóng giận để có thể cho đi một nụ cười, biết nhẫn nhịn khi bi thiệt thòi chút ít, biết chấp nhận để nâng đỡ người khác làm cho đời sống được nhẹ nhàng hơn. Nếu chúng ta biết quỳ gối cảm tạ Chúa, vì nhận ra hồng ân lạ lùng của Chúa ban cho mình, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Khi đó chúng ta không cần phải dùng lời nói mà loan báo Tin Mừng, nhưng chúng ta đã thi hành mệnh lệnh Chúa bằng hành động thật sự. Khi đó chúng ta đáng được lời Chúc phúc của Chúa Giêsu “Phúc cho những ai không thấy mà Tin”.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban đức tin cho mỗi người, để biết sống đức tin bằng chính đời sống hằng ngày, và biết đem Tin Mừng cho những người chung quanh.
Sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh không những là chuyện khó tin, khó hiểu đối với người thời đại nhưng nó vẫn luôn là một thách thức cho niềm tin của mọi Kitô hữu và ngay cả các tông đồ là những người sống cùng thời với Chúa. Mà đại biểu cho niềm tin yếu kém ấy chính là tông đồ Tôma.
Chúng ta phải công nhận rằng, dù sống cách chúng ta hằng 20 thế kỷ nhưng Tôma có tâm trạng và lối suy nghĩ giống với suy nghĩ của con người sống trong thời đại khoa học hôm nay. Ông thuộc mẫu người có đầu óc thực tế. Ông chỉ xác nhận những gì là chân lý khi được kiểm chứng bằng giác quan. Tuy nhiên, ông quên một điều quan trong là không phải tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống là tuyệt đối và chắc chắn, điều có thể kiểm chứng bằng giác quan, nhất là trong lãnh vực tinh thần. Khổng Tử có nói: “những gì mắt thấy, tai nghe chưa hẳn là sự thật”.
Qua thật, kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy, có quá nhiều vấn đề mà chúng ta không thể giải quyết với kiến thức khoa học. Khoa học không phải là tất cả và sự hiểu biết của con người vẫn luôn là giới hạn. Khoa học không thể cho chúng ta thấy được ý nghĩa của cuộc sống này, cũng như không thể cất đi những đau khổ mà con người đang phải đương đầu gánh chịu. Nhưng câu hỏi: Con người từ đâu tới? Rồi sẽ đi về đâu? Đằng sau cuộc sống đầy những nuớc mắt và hạnh phúc là gì…? Vẫn luôn là một dâu chấm hỏi thách thức các nhà khoa học.
Chúng ta tưởng rằng khi khoa học phát triển đến một cạnh giới rực rỡ thì chúng có có thể xóa hết mọi đau khổ của kiếp người. Nhưng thực tế cuộc sống hôm nay cho chúng ta câu trả lời chính xác: có qua nhiều chiến tranh, quá nhiều bệnh tật, quá nhiều vũ khí giết người tối tân do con người tạo ra…một sự thật là con người có nguy cơ là nạn nhân của khoa học: vũ khí hạt nhân, bom nguyên tử… Đương nhiên chúng ta không phủ nhận những giá trị và những cống hiến của khoa học cho công ích con người nhưng nếu khoa học không được đặt trên nền tảng ý nghĩa của cuộc sống con người thì nó trở thành thảm họa cho nhân loại.
Với cách suy nghĩ cá nhân và với đầu óc khoa học của mình, Tôma có quyền đặt nghi vấn cho sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu do các Tông đồ thuật lại. Ông đòi được thấy và chạm vào Chúa. Và rồi Chúa đã hiện ra, có mặt Tôma. Chúa chê ông cứng lòng tin trước những lời chứng của anh em. Nhưng Ngài cũng đáp ứng khát vọng của ông. Để# rồi ông cũng đượcthấy và tin như anh em.
Xung quanh chúng ta hôm nay, cũng có nhiều người như Tôma, thậm chí còn cứng lòng hơn Tôma. Họ đòi được thấy và chạm đến những thực tại vô hình như: Thiên Chúa, linh hồn, đời sau… rồi mới tin. Nhưng liệu khi thấy và chạm đến thì đức tin có còn cần thiết và có ý nghĩa gì nữa không?
Thật ra đức tin và lý trí không mâu thuẫn nhau. Nhưng bổ túc cho nhau: chính đức tin làm cho chúng ta hiểu biết sâu rộng hơn và cũng chính nhờ lý trí mà niềm tin của chúng ta thêm vững chắc.
Trước những tực tại vô hình thì sự tuân phục của đức tin vẫn luôn cần thiết. Chính nhờ sự tuân phục của đức tin mà những người phụ nữ viếng mồ Chúa nhận ra Chúa Giêsu phục sinh và trở thành nhân chứng cho Người. Các Tông đồ cũng thế. Cách nào đó họ có diễm phúc hơn chúng ta. Nhưng đức tin của họ cũng không được trang bị hơn chúng ta bao nhiêu khi đứng trước sự kiện Chúa Giêsu sống lại và hiện ra. Sự khác biệt giữa Tôma và các Tông đồ khác chính là sự tuân phục của đức tin. Phép lạ chính yếu không phải là một việc phi thường mà trước tiêm là một gặp gở trong đức tin. Chỉ có trong đức tin con người mới nhận ra phép lạ, và cũng chỉ trong đức tin chúng ta mới có thể gặp được Đức Kitô phục sinh.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói lên rằng Chúa đã sống lại. Vì thế, chúng ta cũng phải giúp người khác thấy và chạm đến Chúa. Muốn thế, chúng ta cần phải sống như người đang thấy Chúa. Thấy Chúa phục sinh khi sống thanh thoát, không bám díu vào những danh lợi thấp hèn. Tin Chúa phục sinh khi nhận ra ý nghĩa của thập giá đau khổ chỉ là chặng đường tiến đến sự sống vĩnh cữu. Tin vào Chúa Phục sinh là dám hiến thân vì hạnh phúc nhân loại. Vì nếu tin vào Chúa phục sinh mà con tha thiết với cuộc sống trần thế đến nỗi sợ thiệt thân, ngại hy sinh… thì đó là niềm tin giã tạo.
Lạy Chúa Kitô phục sinh, xin cho ánh sáng của Chúa hướng dẫn tâm trí, suy nghĩ và hành động của chúng con, để trong tất cả mọi sự chúng con luôn sống theo thánh ý Chúa. Xin cho chúng con nhận ra được giới hạn của lý trí và sự yếu kém của đức tin để cần được Chúa gia tăng đức tin và mở mang trí hiểu. Ước gì sự hiểu biết của con không làm cho con rời xa Chúa mà kéo chúng con đến gần Ngài hơn để chúng con nhận ra tình thương của Chúa hiện diện quanh con trong từng phút giây của cuộc sống.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo, hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua. Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ, Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo, dù điều đó chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã.
Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành. Có những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương. Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin.
Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình, của Hội Thánh, của cả thế giới, để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin”, và phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy Chúa Phục Sinh đã tặng cho các môn đệ những món quà nào?
Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu trước thái độ của ông Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma! Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải gỡ những xung đột trong nhóm của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi.
Dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người – cũng như con – đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh. Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con sẽ về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Sau cái chết của Thầy Giêsu, thì kể như mọi hy vọng và kế hoạch âm thầm nơi các môn đệ của Ngài cũng tan thành mây khói. Giờ đây, ngẫm nghĩ “sự đời”, chắc các ông hơi nuối tiếc và hối hận vì đã chọn lựa sai lầm khi bước theo một người thầy có tên gọi Giêsu! Giờ đây, các ông phải sống trong căn phòng đóng kín vì sợ người Do thái; sợ họ làm khó dễ một phần, nhưng chắc cũng sợ miệng đời thị phi! Tôma, người hay vắng mặt nơi cộng đoàn bé nhỏ này chắc cũng vì đang mang tâm trạng buồn chán và thất vọng ấy. Tôma ra đi kéo theo cả niềm tin đã tắt lịm hay đã lệch hướng theo mình.
Nhưng rồi mọi sự đã thay đổi trong chớp mắt, vượt quá sức mong đợi hay nghĩ tưởng của các môn đệ Đức Giêsu. Ngài đã hiện đến với các ông mang theo niềm vui, hy vọng và bình an tràn đầy tâm hồn các ông. Aùnh sáng đã bừng lên giữa màn đêm tăm tối. Cộng đoàn bé nhỏ ấy đã bừng lên ánh sáng tin yêu và hy vọng. Nhưng niềm vui của các ông cũng còn chút gì đó chưa trọn vẹn bởi còn một thành viên đang vắng mặt. Rồi Tôma trở về, về thăm anh em mình nhưng cũng trong tâm trạng buồn hiu và thất vọng của ngày nào. Niềm tin của ông vẫn còn tắt lịm hay đang lạc lối nơi nao. Nghe các anh em bạn mình nói là đã thấy Thầy hiện ra và Thầy vẫn đang sống, ông cho đó là chuyện đùa của trẻ con. Niềm tin tắt lịm đã không cho ông tin nhận điều đó. Ông đã phủ nhận những gì các anh em mình nói lại bằng những lời đầy thách thức: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).
Rồi 8 ngày sau đó, Tôma đã chứng kiến được điều ông đã liều lĩnh nói trong lúc chán nản vì thiếu vắng niềm tin. Và khi đã tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu, ông đã thốt lên rằng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Lời nói của một con người tuyệt đối tin tưởng được thốt ra. Niềm tin của Tôma giờ đây đã sống lại, đã quay về với ông cách mãnh liệt nhất. Tôma là môn đệ cuối cùng tin vào Chúa Giêsu Phục sinh, nhưng ông đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu cách mãnh liệt nhất và cao độ nhất. Phải chăng, có lạc lối thì khi trở lại mới thấy mình hạnh phúc; có sai lầm thì khi hồi tâm mới nhận ra trọn vẹn ý nghĩa của tình yêu! Cho nên điều quan trọng không phải là tôi phạm tội, nhưng là tôi biết nhận ra tội lỗi để tôi hồi tâm quay về và cố gắng hết mình để sửa chữa. Cũng vậy, điều quan trọng không phải là lạc lối, nhưng biết mình lạc lối và can đảm quay về mới là quan trọng trước mặt Thiên Chúa.
Dù các môn đệ đã nhận ra sự thật là Thầy Giêsu của mình đã Phục sinh và không ai còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng niềm tin của các ông vẫn còn là niềm tin của những con người tin ở cấp độ thấp: thấy mới tin. Niềm tin đòi có dấu hiệu để kiểm chứng là niềm tin còn yếu kém và ở mức độ thấp. Đức Giêsu muốn nâng đức tin và tâm hồn của các ông lên một mức độ cao hơn “Phúc cho những ai không thấy mà tin” Và lời chúc phúc này là dành cho chính chúng ta đó. Đức tin không cần kiểm chứng mới thật là đức tin trọn hảo và vững mạnh.
Chúa Giêsu Phục sinh đang sống và đang hiện diện với từng người chúng ta trong cách thức siêu nhiên. Ngài không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian nữa. Cũng như Đức Giêsu đã đến với các môn đệ đang họp nhau trong căn nhà tiệc ly đang đóng kín sau ngày Ngài Phục sinh, thì hôm nay, Ngài cũng vượt qua các bức tường và rào cản trong hay ngoài chúng ta để đến với chúng ta, để hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách thức khác nhau.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Lời hứa này của Chúa Giêsu đảm bảo với chúng ta rằng: Không một thế hệ nào sẽ bị kém ưu ái hơn so với các môn đệ ngày xưa. Chúng ta hãy thắp lửa tin yêu lên trong lòng chúng ta để cho niềm tin của chúng ta quay về. Vì rất có thể, với những quyến rũ của trần gian, niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh của chúng ta đã tắt lịm hay còn lạc lối ở phương trời xa xôi nào đó. Sống đạo đích thực là làm cho niềm tin quay về trong ta và làm cho niềm tin đó bừng sáng lên trong ta mỗi ngày, để trong mọi hoàn cảnh, chúng ta vẫn hiên ngang tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa của chúng ta. Amen.
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha: – Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?
Người cha giải thích: – Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
– Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!
– Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số, đó là tần số Tình Yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì “rất đỗi ngạc nhiên” còn Gioan thì “Ông đã thấy và ông đã tin”? (Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay những người đã không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “ngày thứ ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy” (Hs 6,2) và phép lạ “ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm” (Gn 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm phục sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các Tông Đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô đứng chung với mười một Tông Đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: “chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Đức Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng con tin Chúa mãnh liệt hơn.
Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen.
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
Chúng ta đang sống trong một thế giới có nền khoa học phát triển vượt bậc. Ngày nay, người ta đã phát minh ra được nhiều thứ rất tinh vi và hiện đại. Người ta có thể đi lên cung trăng hay xuống lòng biển một cách dễ dàng như đi chợ… Trước tình trạng đó, dường như người ta tưởng là con người có thể kiểm nghiệm được tất cả mọi sự trong thế giới này. Rồi những gì họ thấy được, nghe được, sờ được… nói chung là những gì kiểm chứng được giác quan thì họ mới tin.
Thế là, con người nói chung và cách riêng với người Kitô hữu lại áp dụng điều trên cho cả niềm tin tôn giáo. Cách riêng là họ áp dụng điều ấy vào cho đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh. Điều này đã có từ thời các Tông đồ. Khi nghe các bạn báo tin Thầy Giêsu sống lại, Thánh Tôma đã tuyên bố: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Do đâu mà Thánh Tôma cũng như con người chúng ta lại thường hay muốn đòi kiểm chứng như vậy? Thưa vì chúng ta chưa thật sự mến Chúa hết lòng. Khi thật sự mến Chúa thì có lẽ chúng ta sẽ tin vào Người cách dễ dàng. Ngay cả, chúng ta sẽ cho là xúc phạm khi nghi ngờ Chúa. Và khi ấy chúng ta mới thật sự được hạnh phúc và bình an.
Thật vậy, một đứa con trong gia đình khi đã yêu mến cha mẹ thật lòng thì nó sẽ biết tin và làm theo những điều cha mẹ khuyên dạy. Lúc ấy, chắc chắn nó sẽ được cha mẹ yêu thương và chăm sóc cho nhiều hơn nữa. Cũng vậy, vợ chồng khi đã yêu nhau thì sẽ tin nhau chứ không nghi ngờ nhau. Bao lâu họ còn yêu và tin nhau thì bấy lâu gia đình họ sẽ còn hạnh phúc và đầm ấm.
Như vậy, lòng mến hổ trợ rất nhiều cho đức tin. Nó cũng sẽ là một trong những điều quan trọng làm nên sự hạnh phúc cho chúng ta đời này lẫn đời sau. Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Hơn nữa, tin vào Chúa Giêsu phục sinh không phải là điều hão huyền. Vì nếu đây là chuyện phù phiếm thì chắc là niềm tin ấy đã tan rã từ lâu rồi.
Chúng ta đã theo Chúa từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta đã long trọng mừng lễ Chúa Giêsu phục sinh cách đây đúng một tuần. Thử hỏi chúng ta có thật sự mến Chúa và thật sự tin vào Người chưa. Hay là chúng ta vẫn còn nghi ngờ như Thánh Tôma. Chúng ta hãy luôn nhớ bao lâu còn sống trong tâm trạng nghi ngờ thì bấy lâu đời sống của ta sẽ còn luôn bất ổn.
Như chúng ta biết, đoạn Tin mừng này được Giáo hội chọn đọc trong cả 3 năm Phụng vụ của Chúa nhật cuối tuần bát nhật hôm nay. Dĩ nhiên là có lý do. Đó là Giáo hội muốn cũng cố lòng tin và lòng mến vào Chúa Giêsu Phục sinh của mỗi người chúng ta ngày càng trở nên chắc chắn hơn. Hãy xin Chúa Giêsu tiếp tục ban thêm lòng tin và lòng mến cho mỗi người chúng ta.
NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM
Đức Giêsu đã phục sinh. Nhưng điều này đâu có quan hệ gì đến tôi, nếu Đức Giêsu cũng tương tự như bao người khác, cũng chỉ là một người như bao người khác: họ được nhưng đâu có nghĩa rằng tôi được? Đức Giêsu Phục Sinh chỉ ảnh hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu Ngài là Thiên Chúa.
Qua các tông đồ Thiên Chúa của Đức Giêsu Phục Sinh hiện diện
Sau khi Đức Giêsu phục sinh, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ đã nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa. Và dưới tác động của Thánh Thần các tông đồ đã can đảm tuyên xưng, rao giảng Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại. Và hôm nay sách tông đồ công vụ cho thấy những người tin vào Đức Giêsu đã trở thành một nhóm đặc biệt, trở thành dấu chỉ của Đức Giêsu Phục Sinh cho con người thời đó.
Thánh Phêrô trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho con người. Bóng của Ngài ngả xuống trên bệnh nhân nào thì người đó được khoẻ lại. Có người nghĩ: không chừng các tông đồ còn làm được những điều lớn lao hơn cả Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu cũng nói: “Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm người ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta về cùng Cha” (Ga.14, 12).
Ngày xưa khi Chúa về trời, các tông đồ đã thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội Thánh nơi các tín hữu, Thiên Chúa cũng hiện diện với con người hôm nay.
Đức Giêsu Phục Sinh là Thiên Chúa
Đức Giêsu khi còn tại thế, Ngài đã nói những lời người Do Thái không thể chấp nhận được, như Ngài nhận Ngài có quyền tha tội (Mc.2,7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Người Do Thái không thể chấp nhận những lời đó, nên đã lấy đá định ném chết Ngài. Nếu Ngài không là Thiên Chúa, quả thật Ngài phạm tội “phạm thượng”: là người phàm mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Ngài đã sống lại, nghĩa là, những điều Ngài nói là thật, vì nếu Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài! Như vậy, Ngài có quyền tha tội (mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật.
Ngài là Thiên Chúa thật, nghĩa là Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Và do đó, người ta biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, vì nếu không yêu con người, tại sao Thiên Chúa nhập thể làm người? Tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá? Tại sao Ngài mãi mãi là người? Chính vì tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên Chúa trở thành một người như bao người. Thiên Chúa làm tất cả cho con người.
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con
Khi hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu nói với các tông đồ: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Như vậy, các tông đồ, và sau đó là các Kitô hữu, có cùng sứ mạng với Đức Giêsu.
Sứ mạng của Đức Giêsu, của Ngôi Lời nhập thể, là làm sao để con người nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa! Để làm được điều này, Lời Thiên Chúa đã nhập thể, đã sống như một người hoàn toàn, đã hiến mình làm của ăn cho con người, đã chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá vì yêu con người, đã yêu con người đến chết.
Sứ mạng của các tông đồ, của Hội Thánh ngày nay, của mỗi người tín hữu, là làm chứng cho tình yêu, làm cho thế gian biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng. Để làm được điều này, cũng đòi tín hữu phải hy sinh, phải yêu thương con người ngày nay đến độ quên mình như Đức Giêsu. Thập giá minh chứng tình yêu. Lửa thử vàng, gian nan thử tình yêu. Tình yêu cải biến, chinh phục lòng người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Trong thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người làng Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống lại đã gây nên nhiều thái độ khác nhau: Tin và không tin, chấp nhận và chống đối. Chúng ta cùng nhau phân tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng ta, cũng như soi sáng cho chúng ta tin vào Đức Kitô Phục sinh hơn.
Trước hết tin là phải chấp nhận có một thế giới khác vượt ngoài tầm tay và suy tưởng của chúng ta. Trong thời đại khoa học này, chúng ta dễ bị cám dỗ, chỉ tin vào những gì thấy được và hợp lý mà thôi.
Chính vì thế một bác sĩ giải phẫu đã tuyên bố:
– Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng thấy linh hồn ở đâu.
Hay như một phi hành gia sau lần bay quanh mặt trăng ba vòng cũng tuyên bố:
– Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy Chúa nào ở trên trời cả.
Tôma cũng đòi phải thọc chính tay mình vào cạnh sườn Chúa thì ông mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi mình là trung tâm điểm và bắt Thiên Chúa phải thế này thế nọ thì chúng ta mới tin.
Tiếp đến, tin vào Chúa Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều. Hai người yêu nhau dù có tâm sự tính toán kỹ với nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn phải dám liều. Biết ngày mai sẽ ra như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt làm chi.
Chẳng bao giờ con người có thể hiểu hết về Thiên Chúa cũng như về thế giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay sống lại, đồng thời Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu sau khi chết.
Cũng như Tôma, chúng ta chỉ được nghe nói lại. Ngài là Đấng vô hình và dường như luôn vắng bóng và im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta. Tin như vậy không phải là dám liều, dán trao cả cuộc đời và con người chúng ta vào tay Đấng vô hình đó sao. Với Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp tục từ bỏ những dự định riêng tư để bước theo Ngài.
Sau cùng, tin đòi phải chiến đấu. Đức tin không đem lại sự yên ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá hủy con người cũ trong chúng ta. Bởi đó chúng ta phải chiến đấu với chính mình. Con người vẫn có khuynh hướng ôm chắc lấy những gì có sẵn, không muốn đánh mất thế giới họ đã tạo ra như của cải, mạng sống.
Tin vào Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc sống về đời sau Chúa hứa. Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại giá trị tất cả những gì chúng ta đang có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi đức tin còn đòi chúng ta phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ, nếu của cải, mạng sống ngăn cản Tin Mừng. Nếu không chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như vậy, chúng ta sẽ bị kéo ghì và ở lại mãi trong thế giới vật chất…
Hơn nữa, đó cũng chính là não trạng chung của những người chung quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể chẳng có Tin Mừng Phục sinh. Sống ngược với não trạng trần thế ấy đòi chúng ta phải có một ý chí phấn đấu và mạnh mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có cảm giác lạc lõng và bơ vơ, không giống ai và bị thiệt thòi ở đời này.
Sống đức tin và đón nhận niềm vui của Đấng đã sống lại là điều khó khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ đặt lại vấn đề đức tin, linh hồn, đời sau, giống như người Do Thái ngày xưa luôn muốn trở lại với kiếp nô lệ nhưng no nê, bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng và đòi hỏi.
Hãy vững niềm tin vì Chúa đã sống lại, Ngài ở với chúng ta luôn mãi.
Khi bị quân dữ bắt và tra tấn, mọi Tông đồ đều bỏ và chối Chúa, chỉ trừ một mình thánh Gioan. Trên cây Thánh Giá Chúa cũng chỉ nhìn thấy một Thánh Gioan bên cạnh và mẹ Người. Khi Chúa sống lại thì các tông đồ lại không tin, dù những người phụ nữ ra mồ trông thấy và đã nói một cách khẳng định cho họ, nhưng họ vẫn không tin. Nhưng Chúa vẫn không hề bực tức hay khó chịu, còn tỏ ra khoan hồng đến nỗi hiện ra với họ, để cho họ trông thấy mà không còn nghi ngờ nữa. Và hơn thế, khi nói chuyện, Người không một lời la rầy, mắng nhiếc cũng không, và nhất là không nhắc đến sự hèn nhát, bội phản và yếu tin của họ. Chắc chắn lần hiện ra này không phải chỉ có Đức Giêsu Phục Sinh, mà tất cả mọi người chúng ta ai cũng nghĩ tất cả các Tông đồ không còn ai dám nghi ngờ hay yếu tin nữa. Nhưng không phải thế! Chúa hiện ra và ban cho các Tông đồ ơn huệ được “mắt thấy” , “tai nghe”. Má những ân huệ đó chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được khi chúng ta có đức tin.
Than ôi! đức tin là cái mà con người ta thường không có. Phúc âm hôm nay kể lại sự cứng lòng tin của Thánh Tôma. Khuýnh hướng đó cũng chính là khuynh hướng của những con người đang sống trong thời đại hôm nay. Ai ai cũng muốn sống bằng thực nghiệm bằng kiểm chứng, chỉ muốn tin cái gì mắt mình trông thấy, trí mình hiểu được. Còn cái gì mà người khác thuật lại, phải nhờ người khác cho biết thì khó tin, và cho là nhảm nhí. Vì thế, sự thật mà nói ai ai trong chúng ta cũng muốn được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và bàn tay vào cạnh nương long Chúa thì mới tin ở Người.
Người cứng tin nhất chắc chắn là Tôma và người được may mắn nhất chắc cũng là ông, được thỏa tính tò mò, được đặt tay vào lỗ đinh và bàn tay vào cạnh nương long Chúa. Vì chính ông đã đòi hỏi đích thân động đến Chúa thì ông mới tin, nên Chúa đã phán với ông: “Vì đã thấy nên con tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Do đó, Chúa muốn đòi mỗi người chúng ta hãy rút ra bài học kinh nghiệm từ Tôma. Khi thấy thì mới tin thì chẳng còn gì lạ, mà hãy tin khi chưa thấy. Đó mới là đức tin Chúa cần nơi mỗi người.
Thật ra tin chính là chấp nhận có một cái gì đó mà ta chưa thấy, nhưng phải phó thác vào một người thật đáng tin cậy. Như thế, đức tin của chúng ta là phó thác vào sự chân thật của Thiên Chúa để mà chấp nhận những chân lý đã được Người truyền dạy. Mặc dù lúc đó ngũ quan ta không cảm thấy và trí khôn ta không hiểu được. Nhưng cũng đừng hiểu lầm tin như thế là mù quáng, nhưng mù quáng sao được khi ta tin vào một người rất đáng tin cậy, vì thế lòng tin của ta thật có lý.
Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta cũng đã phải tin nhiều điều chúng ta không thấy rồi. Như ông bà ổ tiên, chúng ta cũng đâu thấy các ngài, cũng đâu sờ được các ngài, cũng đâu trò chuyện được với các ngài, nhưng chúng ta vẫn tin trong quá khứ vẫn có các ngài. vậy ai có thể quả quyết chỉ tin những điều mình trông thấy, và coi tất cả những người nói cho mình biết điều mình không trông thấy là dối trá, thì người ấy không thể sống trong xã hội loài người được. Vì trong xã hội loài người mối tương thân tương trợ, chỉ bảo, nương tựa tin tưởng lẫn nhau là điều cần thiết. Ngược lại, người không tin tưởng vào bất cứ ai, chứng tỏ họ không có một nhân cách thật sự, chỉ biết cố thủ trong ốc đảo ích kỷ nghi ngờ, nhìn người khác với cặp mắt giả dối, vì chỉ có người dối trá mới không tin vào lời người khác nói là sự thật, chỉ có người hà tiện mới không tin người rộng rãi. Một người không dám đặt niềm tin vào ai, chứng tỏ mình thiếu hẳn các đức tin của một con người. Đó là nhìn vào phạm vi tự nhiên. Trong phạm vi siêu nhiên sự lệ thuộc của ta vào Thiên Chúa còn sâu xa hơn sự lệ thuộc của ta vào xã hội nhiều. Vì thế đức tin không những cần thiết mà còn đánh giá sự thánh thiện của mỗi người, vì người thánh thiện chắc chắn phải có một đức tin chuyển được núi, vì người ấy nhận biết Thiên chúa toàn năng và đặt cả niềm cậy trông của mình vào Người.
Lạy Chúa, chúng con không được may mắn như các tông đồ, được trông thấy Chúa, sờ đến Chúa, nói cùng Chúa và ăn uống với Người. Nhưng chúng con lại được may mắn chứng kiến rất nhiều người đã sống cho Chúa và chết cho chúa. Vì chỉ có Chúa Phục Sinh thật sự mới là động lực như thế. Xin cho con biết vững tin. Amen.
Tôi không ngạc nhiên trước lời đòi hỏi của Tôma. Điều làm tôi suy nghĩ trong lúc này đó là tại sao thân xác phục sinh của Đức Kitô lại còn mang những thương tích, những dấu ấn của đau khổ?
Tôi cứ nghĩ rằng: sau khi sống lại, thân xác vinh quang của Đức Kitô hẳn không còn vết tích nào của những cực hình phải chịu.
Bởi vì, sau cuộc thương khó là sự sống lại, sau đau khổ là vinh quang, sau ngày thứ sáu tuần thánh là sáng Chúa nhật phục sinh. Sự tương phản mãnh liệt đến độ chúng ta tưởng như có một bước nhảy vọt, cắt đứt và chia lìa giữa hai tình trạng kể trên, như thể sự phục sinh và vinh quang là phần thưởng cho những đau khổ Ngài đã phải chịu trong suốt cuộc thương khó, để rồi chúng ta sẽ dần dần quên đi những kỷ niệm bi đát ấy.
Trong cuộc sống chúng ta thấy người ta thường tặng thưởng huân chương cho những kẻ can đảm cứu vớt người bị chết đuối hạy gặp phải tai ương hoạn nạn. Tấm huân chương xứng đáng với những hy sinh mà kẻ ấy đã phải gánh chịu. Thế nhưng, đó cũng chỉ là một qui ước do xã hội đặt ra.
Sự phục sinh của Đức Kitô thì khác. Đó không phải chỉ là một dấu chứng của chiến thắng, của phần thưởng mà thôi, nhưng còn là một diễn tiến liên tục nơi thân xác Đức Kitô. Chính Ngài đã cắt nghĩa:
– Như hạt lúa mì rơi xuống đất, có mục nát đi thì mới trổ sinh nhiều bông hạt.
Giữa hạt giống được gieo trồng và bông lúa chín vàng dưới ắng nắng mặt trời có một sự liên tục trong phát triển. Bông lúa chỉ là kết quả của hạt giống được gieo trồng.
Nơi khác, Ngài cũng nói:
– Như người đàn bà lo âu khi giờ của mình đã đến, nhưng sau đó thì vui mừng vì đã sinh được một người cho thế gian.
Sự sinh nở chỉ là kết quả của việc thai nghén. Giữa hai sự kiện này luôn có một sự liên tục trong phát triển.
Cũng thế, Đức Kitô đã bước vào sự chết và sống lại. Chúa nhật phục sinh không phải chỉ đến sau ngày thứ sáu tuần thánh, mà còn là một sự tiếp nối, một kết quả, một hoa trái.
Chính vì thế, chúng ta hiểu được tại sao Tôma có thể nhìn thấy những dấu ấn của đau khổ, của cực hình trên thân xác sống lại của Đức Kitô.
Vinh quang xuất phát từ thập giá và những dấu đanh đã không làm xấu đi, trái lại còn làm đẹp thêm cho thân xác phục sinh của Ngài.
Cũng giống như trên khuôn mặt nhăn nheo của một cụ già. Những nếp nhăn ấy chính là kết quả những năm tháng dài của cuộc đời với những khổ đau và tang tóc, những hy sinh và gian khổ, những yêu thương và phục vụ. Những nếp nhăn ấy tạo nên vẻ đẹp của kinh nghiệm, của già dặn và chín chắn. Và rồi cặp mắt của cụ già sáng lên niềm hy vọng được gặp lại chính cái nhìn của Thiên Chúa.
Để kết luận, chúng ta hãy suy gẫm lời Chúa đã phán để hiểu được toàn bộ cuộc đời của Ngài, đó là Con người phải chịu đau khổ, và phải chết đi trước khi được bước vào vinh quang.
Bài Tin Mừng kể lại câu chuyện Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ tám sau khi Chúa sống lại. Vì thế, hôm nay là ngày thứ tám sau lễ Phục sinh, tức là ngày cuối cùng của tuần bát nhật mừng đại lễ Phục sinh, chúng ta nghe đọc lại câu chuyện này. Thực vậy, vào buổi chiều chính ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Kitô đã hiện đến với các môn đệ đang tụ họp nhau trong căn phòng ăn bữa tiệc ly trước đó ba ngày, Chúa cho họ xem các thương tích ở tay và cạnh sườn Ngài để chứng thực Ngài đã sống lại. Nhưng hôm ấy không có mặt ông Tôma. Vì thế, khi nghe các bạn kể lại, ông không tin và khi nào tự tay kiểm chứng mới tin. Tám ngày sau, tức là Chúa nhật liền sau đó, Chúa Kitô hiện đến lần nữa và gọi ông Tôma ra kiểm chứng tay và cạnh sườn Ngài. Chúa đáp lại tất cả lời thách đố của Tôma. Khi ấy, ông cung kính và run sợ nói lên lời tuyên xưng lòng tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Chúa âu yếm nhìn ông và nói: “Hỡi Tôma, vì đã thấy Thầy, nên anh tin”. Rồi Chúa đưa mắt nhìn tất cả và nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Qua câu chuyện Tin Mừng kể lại, có người coi ông Tôma như là “bổn mạng” của những kẻ hoài nghi, cứng lòng, hoặc như là “ông tổ” của phái duy lý, duy thực nghiệm, chỉ tin những gì nhìn thấy được, sờ mó được. Nói thế quả là quá đáng và bất công. Nhưng dầu sao trong thái độ của ông Tôma, chúng ta cũng thấy phản ảnh thái độ hoài nghi và kém lòng tin của nhân loại, của mỗi người chúng ta. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta dễ tin lời người ta nói, dễ tin quảng cáo, tuyên truyền, nhưng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta lại dễ hoài nghi, yêu sách lý lẽ minh bạch và đòi bằng chứng rõ ràng. Cho nên đừng vội trách ông Tôma, vả lại, thái độ toàn diện của ông rất đáng cho chúng ta khâm phục. Quả thực, lúc ban đầu, ông Tôma tỏ ra một thái độ cứng lòng, khó tin những điều các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể lại, ông cho là ảo tưởng, không đáng tin. Chúa nhân từ và nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày rồi mới hiện ra để thỏa mãn những yêu sách quyết liệt của ông. Nhưng trước bằng chứng quá hiển nhiên ấy, ông phục xuống và kêu lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Theo cha Larăng, một học giả Kinh thánh nổi tiếng: đây là lần thứ nhất Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt. Cho nên đây là một tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước. Tác động đức tin này có giá trị, vì thực sự ông Tôma đã vượt qua hình dáng bên ngoài để tới thực tại tiềm ẩn. Mắt ông chỉ nhìn thấy con người Chúa Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết thương vật chất hữu hình, nhưng ông tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa của ông.
Lúc ấy Chúa phán một câu mà muôn đời sẽ suy niệm và trở nên nguồn an ủi phấn khởi cho mọi thế hệ về sau: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Nói điều ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta và muôn thế hệ sau nữa, là những người không được đặc ân chiêm ngưỡng dung nhan nhân loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân xác thánh thiện của Ngài. Chúng ta tin theo bằng chứng của các tông đồ và lời giảng dạy của Giáo Hội. Đức tin ở đây không phải là tin theo một học thuyết, một chân lý viễn vông, nhưng là tin vào một nhân vật lịch sử, sống động: Chúa Kitô chết và Phục sinh. Quả thực, sự hy sinh lớn lao của Chúa Kitô trên núi Sọ được Thiên Chúa đáp ứng, đó là Chúa Kitô đã sống lại. Nếu Chúa không sống lại thì tất cả cuộc khổ nạn của Ngài chỉ là một đường hầm mù mịt, chẳng dẫn đến đâu hết. Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa nhật Phục sinh là hai mặt của chung một thực tại. Giả sử thiếu một trong hai biến cố: Chúa chết, Chúa sống lại, thì sự việc thành vô nghĩa. Tất cả những điều trên đây làm cho chúng ta phấn khởi và tăng thêm niềm xác tín vào mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô. Tuy nhiên, thái độ cứng lòng tin của ông Tôma cũng là điều có lợi cho chúng ta. Việc ông không tin lúc đầu là một bảo đảm làm cho niềm tin của chúng ta thêm vững chắc, vì niềm tin Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời nói suông, nhưng được xây dựng trên đức tin của một người thực tế, bình dân, đã nhìn thấy tận mắt và sờ tới tận tay vào thân xác sống lại của Chúa. Do đó, cùng với thánh Gơrêgôriô, chúng ta có thể kết luận: “Ngón tay đa nghi của ông Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thể thế giới; bàn tay đa nghi của ông Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Chúa Giêsu Kitô đã Phục sinh”.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Cảnh tượng thuật lại ở đây diễn tả ơn Chúa Thánh Thần mà Chúa Kitô ban cho các môn đệ khi Ngài chưa lên cùng Cha Ngài. Ơn Chúa Thánh Thần mà Chúa Kitô ban cho các môn đệ khi Ngài chưa lên cùng Cha Ngài. Ơn Chúa Thánh Thần có mục đích làm cho hàng giáo phẩm nên môi giới trong việc tha thứ tội lỗi và ban phát Chúa Thánh Thần. Đoạn Tin Mừng này là một trong những đoạn đánh dấu sự chuyển tiếp giữa thời kỳ Chúa Kitô trong những ngày còn trong thể xác và thời kỳ Giáo Hội tức là thời kỳ Chúa Kitô theo Thần Linh. Đoạn này loan báo những liên hệ mới nối kết con người với Thiên Chúa. Giáo Hội ngày nay đang sống trong một sự hiện diện của Chúa Kitô khác với sự hiện diện của những ngày kế tiếp Chúa sống lại, nhưng là một sự hiện diện thể hiện lời hứa không để các môn đệ mồ côi. Đâu là những liên hệ hiện nay của người Kitô hữu với Chúa Kitô, với Chúa Cha và với Chúa Thánh Thần.
1) Với Chúa Kitô. Chúa Kitô trong giai đoạn lịch sử của Ngài trong sự chết sống lại và vinh hiển, là đối tượng của đức tin. Chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô là Đấng thực hiện sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta và nơi chúng ta. Thiên Chúa là Đấng cao xa đã nhờ Chúa Kitô, trở thành một sự hiện diện gần gũi với con người. Niềm xác tín mạnh mẽ rằng Chúa Kitô sống lại và hằng sống vẫn hiện diện với chúng ta ngày hôm nay, là một ơn huệ kỳ diệu của Phục Sinh. Việc Chúa sống lại không làm cho Ngài hiện diện cách thể lý như khi còn ở Galilêa, nhưng nó tạo điều kiện cho một sự kết hợp mới, về thiêng liêng thâm sâu hơn với Ngài nhờ đức tin và các bí tích. Hơn nữa, Chúa Kitô hoạt động trong chúng ta và qua chúng ta.
2) Với Chúa Cha. Xuyên qua hành động tin kính Chúa Kitô, chúng ta đến được với Chúa Cha. Nhìn ngắm Chúa Kitô trong một cái nhìn đức tin, tức là nhìn thấy Chúa Cha. Ngược lại, Chúa Cha khi nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Con, sẽ có một cái nhìn trìu mến mà Ngài hằng có đối với Chúa Giêsu. Lời nguyện cầu của chúng ta với tư cách là môn đệ Chúa Giêsu bắt gặp sự lắng nghe mà Chúa Cha luôn có đối với Chúa Con; lời cầu nguyện này luôn được chấp nhận. Hơn nữa toàn thể môn đệ họp thành Giáo Hội hôm nay, làm được những công việc mà Chúa Giêsu đã làm trong quãng đời ngắn ngủi của Ngài ở trần gian. Việc Phúc Âm hoá thế giới là một thí dụ. Trên tất cả mọi sự, nhờ ơn cứu độ, chúng ta được nên con của Thiên Chúa trong Chúa Con. Trở nên con cái Thiên Chúa: ôi, một sự thăng cấp kỳ diệu!
3) Với Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta những cơ cấu nội tâm làm phát sinh những hành động đức tin. Chính Ngài tạo ra trong chúng ta một tương quan mới liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài sáng soi, khuyên nhủ và củng cố chúng ta. Cần nhấn mạnh điều mà thánh Gioan nói về Thần Linh mà Chúa Giêsu ban cho các môn đệ. Các môn đệ ngày nay tức là Hàng giáo phẩm. Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến một sự phản kháng chống đối Hàng giáo phẩm nhân danh cái mà người ta có thể tóm tắt bằng từ ngữ dễ chịu là “tiếng nói tiên tri”. Những tác phẩm mới đây đã chứng tỏ rằng có một thứ tiên tri sai lầm, tách lìa khỏi Hàng giáo phẩm hay đối nghịch bằng một sự đối nghịch tự căn bản đối với giáo quyền, vùng vẫy trong những xung đột mâu thuẫn và chắc chắn không thể xuất phát từ Chúa Thánh Thần được. Thế thì do thần linh nào đây? Hãy coi, một tiên tri như thánh Phanxicô thành Assisi ngày xưa và nhiều vị Tông đồ lớn ngày nay, họ luôn tỏ ra rất lưu tâm đến việc hiệp thông với Phêrô và các môn đệ. Có lẽ thái độ của họ bắt nguồn từ cái họ không coi tình cảm cá nhân mình là cái gì tuyệt đối. Thật quá dễ mà chụp mũ từ ngữ Thần linh vào những “tiếng kêu la” của một thứ nhạy cảm độc địa hoặc những lời sấm của một thứ kiêu ngạo vô thức. Nhưng ai có được bảo đảm sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần nếu không phải là Phêrô và các Tông đồ.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhiều năm trước đây có một nhà bác học vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà bác học để ý thấy cứ chiều đến, khi hoàng hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô tận, thì những người Ả Rập cùng đi đường đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời chắp tay cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
– Các ông làm gì vậy?
Họ thản nhiên trả lời không chút do dự: Chúng tôi sấp mình thờ lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của chúng tôi.
Nhà bác học hỏi lại một cách mỉa mai:
– Vậy chứ các ông đã thấy Chúa bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng của Ngài khi nào chưa?
Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:
– Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt thấy tai nghe tiếng Chúa bao giờ cả?
Nhà bác học sửng sốt lên giọng:
– Các ông thực là những người điên, các ông mù quáng sấp mình thờ lạy một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc tai chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không đáp lại lời nào hết.
Sáng hôm sau, mặt trời chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy, bước ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:
– Ông hãy nhìn xem, chắc chắn là tối hôm qua có con lạc đà nào đã đi qua đây rồi.
Một tia sáng đầy hy vọng và vui mừng loé lên trong ánh mắt hướng dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học những câu hỏi liên tiếp:
– Vậy thì chắc là ông đã thấy lạc đà đi ngang qua đây tối hôm qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông nó đang lúc ông ngủ chăng?
Nhà bác học thật thà đáp lại:
– Không, tối hôm qua tôi ngủ ngon, đâu có thấy lạc đà và cũng không sờ tới lông nó.
Hướng dẫn viên nói:
– Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết là lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi ông lại nói là mắt ông không thấy, tai ông cũng không nghe tiếng chân lạc đà.
Nhà bác học cương quyết cãi lại:
– Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân lạc đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?
Cùng lúc đó, mặt trời từ từ ló rạng kéo dài những tia sáng rực rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay trịnh trọng tuyên bố:
– Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là dấu chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa mà chúng tôi tôn thờ.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu Phục Sinh đã nói với ông Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học. Đời sống được xây dựng trên khoa học, được hướng dẫn bởi khoa học, được đánh giá bằng khoa học. Cái gì cũng phải có khoa học. Mà khoa học thì phải chính xác, rõ ràng, có thể phân tích, mổ xẻ và kiểm nghiệm được. Tinh thần khoa học thực nghiệm được áp dụng vào mọi lãnh vực, kể cả tôn giáo. Người ta nhân danh khoa học mà phê phán tôn giáo. Cái gì có tính khoa học, kiểm nghiệm được mới đáng tin, ngoài ra là vấn đề tình cảm, cuồng tín, mê tín. Thái độ phê phán và não trạng thực nghiệm của con người thời nay không khác bao nhiêu so với tâm tính thực nghiệm và cứng rắn của Tông đồ Tôma thời xưa trong câu truyện Tin Mừng hôm nay.
Nghe các bạn kể lại: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa Phục Sinh”, ông Tôma vẫn không tin. Ông muốn dựa vào kinh nghiệm giác quan, chứ không phải dựa trên các chứng từ. Chúa Giêsu đã sẵn sàng đáp ứng và thoả mạn nguyện vọng của ông. Ngài đã hiện ra và bảo ông: “Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy… Hãy đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi ông: “Đứng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin…”. Không những tin vì đã thấy mà còn phải tiến đến chỗ tin cho dù không được thấy. Dựa vào Lời Chúa, ông Tôma đã tin mà không cần kiểm chứng nữa. Lúc ấy, Chúa Giêsu mới mạc khải chân lý này: “Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”.
Thưa anh chị em,
“Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”. Lời này như được ngỏ với chúng ta, những người tín hữu Kitô hôm nay mà lòng tin dựa trên chứng từ của các Tông đồ, chứ không dựa vào kinh nghiệm giác quan: sống cách xa biến cố Chúa Phục Sinh gần 2000 năm, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận đức tin. Tin nơi Thánh Kinh, tin nơi Giáo Hội, những bảo chứng đáng tin nhất, không còn cách nào khác. Với ơn đức tin, chúng ta có thể gặp Chúa và tiếp cận với Ngài. Đó là một hạnh phúc thật sự. Theo ý hướng đó, lời tuyên xưng của ông Tôma cũng phải là lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, của mỗi người ca vào Đức Kitô ”Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh thực sự đem lại cho người Kitô hữu một niềm hân hoan khôn tả, như Thánh Phêrô đã xác quyết: “Dù bây giờ anh em không thấy Ngài, nhưng anh em tin, nên anh em sẽ được vui mừng khôn tả, vì đã nắm chắc thành quả của đức tin anh em, là ơn cứu độ” (1Pr 1,9). Niềm hân hoan đó không chỉ lắng sâu trong tâm hồn, mà còn tràn ra bên ngoài trong cuộc đời các Kitô hữu. Điển hình là niềm vui trong cuộc sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, nếu Giáo Hội hôm nay có được cuộc sống như các tín hữu tiên khởi thì Giáo Hội lo sợ gì trước những tra vấn của khoa học. Chẳng những thế, Giáo Hội còn có khả năng cống hiến cho thời đại khoa học một lời chứng sống động, hùng hồn về hoạt động của Đấng Phục Sinh trong lịch sử, ngang qua cuộc sống dấn thân của các Kitô hữu để đem lại tình yêu và sự sống cho anh em đồng loại.
Con đường của lòng tin chúng ta hôm nay là con đường của lòng mến. Càng yêu mến nhiều, càng tin vững chắc. Và những người có lòng mến Chúa thường không cần phải tin, mà họ thấy. Thánh Tôma tiến sĩ cầu nguyện: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa”. Và có lẽ đó cũng là lời cầu xin của mỗi người tín hữu chúng ta, trong cuộc hành trình đức tin trên trần thế này cho đến ngày được xuất hiện trong vinh quang với Đấng Phục Sinh.
Chứng lý về sự Phục sinh của Chúa Kitô, không chỉ dựa vào sự kiện ngôi mộ trống, mà còn phải kể đến những lần Đấng Phục sinh hiện ra với nhiều người, cũng như phải quan tâm đến những lời chứng của những người đã tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô sống lại. Trang Tin Mừng hôm nay sẽ cung cấp cho chúng ta những chứng lý quan trọng và sống động ấy.
Chúa Kitô Phục sinh hiện đến vào lúc thánh Tôma vắng mặt, cho nên ông đã không tin rằng Chúa Giêsu sống lại. Vì thế, ông đòi hỏi một sự kiểm chứng. Thử hỏi 10 vị tông đồ kia, nếu không tận mắt nhìn thấy và đích thân gặp gỡ Đấng Phục sinh, các ông có thể dễ dàng chấp nhận lời của anh em khác không? Chúng ta rất hồ nghi. Bởi lẽ, chuyện kẻ sống lại là chuyện rất khó chấp nhận. Và chính các ông đã không ít lần tỏ ra nghi ngờ, nao núng, kể cả sau khi đã gặp Đấng Phục sinh.
Chúng ta không nên trách Tôma, ngược lại phải biết ơn ngài. Bởi vì chính “sự cứng lòng” của ngài lại làm kiên vững cho niềm tin yếu đuối của chúng ta, khi Đấng Phục sinh đáp trả đòi hỏi sự kiểm chứng bằng giác quan của thánh Tôma: “Tôma hãy đặt ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Điều này không chỉ để thỏa mãn đòi hỏi riêng của thánh Tôma, mà còn đáp trả cho yêu cầu của tất cả chúng ta, những kẻ “không thấy” mà được gọi là “tin”, nhất là trong thời đại khoa học thực nghiệm hôm nay.
Đồng thời, “sự cứng lòng” của thánh Tôma cũng làm cho lời chứng của cộng đoàn thêm mạnh mẽ. Ngày nay, chúng ta đều là những người không thấy mà tin dựa vào lời chứng của các tông đồ – những kẻ dám sống, dám chết cho niềm tin của mình.
Thánh Tôma là môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng đức tin. Sau khi được kiểm chứng về việc Phục sinh, ngài đã tin – một niềm tin đầy đủ nhất khi ông tuyên xưng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Khi ông tuyên xưng như thế, thì lời chứng của các tông đồ thật sự trở thành “đắt giá”, thật sự trở thành nền tảng vững chắc cho việc tuyên xưng đức tin của bao thế hệ Kitô hữu.
Hơn thế nữa, Đấng Phục sinh hiện ra không chỉ để chứng minh Người đã sống lại, nhưng còn để ban cho các ông sự sống mới “Người thổi hơi vào các ông…”
Con người vốn chỉ là bùn đất và chỉ có thể trở nên sống động qua việc “thổi hơi” của Thiên Chúa. Thì ở đây, chúng ta cũng nói được rằng chính Đấng Phục sinh đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới, Ngài thổi hơi để biến đổi các tông đồ từ những con người yếu đuối, nhút nhát trở thành những con người mới với sức sống mới, trở thành những khí cụ sắc bén trong Thánh Thần để rao giảng Tin Mừng Phục sinh.
Đồng thời với việc ban sự sống mới là mệnh lệnh sai đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Tiếng “như” ở đây không phải là so sánh, mà là nền tảng và cội nguồn: nguồn cội của mệnh lệnh là chính Chúa Cha và nền tảng của mệnh lệnh là sứ vụ cứu thế mà Đấng Phục sinh hoàn thành. Các tông đồ được sai đi để làm chứng về Đấng Phục sinh và để nối dài hành động của Người trong thế giới. Hành động này giải thoát thế giới khỏi sự thống trị của tội lỗi, mà sức mạnh lớn nhất của nó là sự chết đã bị vượt qua.
Mỗi chúng ta, nhờ bí tích Thêm sức cũng được mời gọi trở nên những tông đồ hăng say làm chứng cho Chúa ngay trong môi trường sống của mình.
Trong thời đại hôm nay, chúng ta làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh không chỉ bằng lời rao giảng mà còn phải bằng chính cuộc sống của chúng ta. Cụ thể trong xã hội hôm nay, có rất nhiều người nhất là những người trẻ, họ luôn sống trong lo âu, sợ hãi, khủng hoảng hoặc không cần biết đến ý nghĩa cuộc sống, họ lao vào những tệ nạn xã hội mà không thoát ra được. Trước tình trạng đó, lẽ nào chúng ta ngồi yên? Là những con người của thiên niên kỷ mới này, chúng ta phải là những người đi bước trước đem sự bình an và đức tin sâu sắc giúp họ thoát khỏi thất vọng để tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống.
Mỗi chúng ta cần phải mở rộng lòng dám đi sâu vào thế giới để tìm hiểu và đem Chúa Phục sinh vào mọi lãnh vực, không bo bo trong vỏ ốc nhưng phải mở rộng ra khắp thế giới.
Có một câu chuyện kể lại rằng, một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan của mình ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng thấy ai theo. Ông bèn than thở với một người bạn thì nhận được một lời khuyên: “Nếu anh muốn người ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối cùng, thì thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa nhật anh sống lại! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?”.
Quả là lời khuyên độc đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này chính là Napôlêon!
Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại.
Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.
Đấng Phục sinh đã chọn “ngày thứ nhất trong tuần” làm ngày gặp gỡ các tông đồ. Như thế, “Ngày thứ nhất trong tuần” đã trở thành ngày của cộng đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát mừng niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của cuộc “sáng tạo mới”. Xin cho mỗi ngày Chúa nhật cũng trở thành một ngày giúp chúng ta sống thánh thiện, hiệp thông, yêu thương… Để mỗi chúng ta trở thành một bằng chứng cho sự hiện diện sống động của Đấng Phục sinh.
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người theo trào lưu chính thống. Đối với người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ là trắng hoặc đen. Nếu có một điều gì đó chưa đích thực theo sát nguyên văn, thì đúng là điều đó không hề có thật.
Ngày nay, trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự thiếu chắc chắn gây ra nỗi e ngại, nên họ co rút lại vào trào lưu chính thống. Trào lưu này có thể rất hấp dẫn. Đối với người theo trào lưu chính thống, đường lối phải thẳng tắp, câu trả lời phải đơn giản. Nhưng trào lưu chính thống là một cách thức nghèo nàn trong việc nhìn nhận chân lý. Điều này có nghĩa là cuộc sống chỉ có một chiều kích mà thôi. Trào lưu này tước đoạt mất sự phong phú của lòng tin, hậu quả là đưa đến một thứ tôn giáo cứng rắn, đơn giản, thuần theo luân lý và độc đoán. Điều này làm cho người ta biến thành một đám người chỉ đi theo đúng một đường lối, hơn là một nhóm người bao gồm những cá nhân, mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình để kể ra, và một đường lối đặc biệt riêng để đi theo.
Sau đây là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường tự nhận thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên họ không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sợ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn khi gặp được một người gác rừng, người này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con đường mòn đi xuyên qua rừng.
Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện được một con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con đường mòn đó. Khi làm như vậy, anh đã tiết kiệm được nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú của khu rừng.
Người thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn là những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm cung cấp cho anh những phương hướng, để mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.
Khu rừng tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.
Người thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính thống. Anh ta suy nghĩ về các học thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như không liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý đó để cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những nét phong phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa khóa, để giải mã mầu nhiệm của cuộc sống.
Đức tin của người theo trào lưu chính thống tạo ra một đường lối an toàn. Đức tin này bảo vệ người đó khỏi phải làm một công việc khó khăn, đó là tìm kiếm ý nghĩa và những giá trị của bản thân mình. Nó giảm bớt cho người đó khỏi nỗi lo lắng phải đương đầu với sự chọn lựa, với trách nhiệm, và sự thay đổi liên tục trong ý thức về bản thân mình. Trào lưu chính thống là một đức tin đã được xác nhận bằng sự thiếu tự tin.
Đối với một người theo trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ là một phần của cuộc sống. Còn đối với người không đi theo trào lưu chính thống, tôn giáo chính là cuộc sống được nhìn và sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi sự kiện đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không muốn nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó, từng sự kiện lại được phong phú hơn và bí nhiệm hơn. Đức tin lấp đầy cuộc sống của chúng ta bằng những sự kiện mà, nếu không có chúng, thì cuộc sống của chúng ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn của chúng ta sẽ bị khô héo và chết đi.
Chúa Giêsu không cổ vũ cho trào lưu chính thống. Người không muốn những kẻ đi theo Người cách mù qaung. Trái lại, Người đã cố gắng mở mắt mọi người, mà không hề đe dọa hoặc ép buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong muốn người ta tự nguyện đi theo Người, bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Và người còn đi đến chỗ mong muốn chúng ta có thể có được sự sống, không chỉ ở cuộc sống mai sau, mà còn ở nơi đây, trên trái đất này nữa, để có được một cuộc sống dồi dào.
Cách xử sự của Tôma cũng là cách xử sự thông thường của nhiều người. Người ta chỉ chấp nhận là có thật những gì mà người ta có thể xem bằng mắt, bắt bằng tay, những gì cân, đo, đong, đếm… được. Còn những gì người ta không thấy, bị xem như là không có. Khi tôi hỏi bạn bè: Tại sao bạn không tin Thiên Chúa, không tin có linh hồn, không tin có sự sống đời sau? Họ trả lời thật đơn giản: “Có thấy đâu mà tin!”
Thế nhưng, có nhiều điều chúng ta không thấy nhưng chúng ta vẫn phải nhận là chúng hiện hữu. Người ta không thể nhìn thấy tình mẫu tử nơi người mẹ, không nhìn thấy ý chí kiên cường nơi bậc anh hùng, không nhìn thấy trí khôn tuyệt vời của nhà khoa học (bởi vì tình yêu, ý chí, trí tuệ… là những thực tại vô hình, không màu sắc, không trọng lượng, không khối lượng)… nhưng không ai dám phủ nhận rằng những thực tại nầy không có.
Với đôi mắt trần nầy, tầm nhìn của người ta rất hạn hẹp, như “ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”.
Với đôi mắt trần nầy, chúng ta chỉ nhận thấy một ít sự vật phù du mà thôi. Còn những điều quan trọng, những điều chính yếu thì không thể nhận thấy. Nhà văn Saint-Exupéry đã khám phá ra điều nầy, ông viết: “L’essentiel est invisible pour les yeux” (Thực tại thiết yếu thì mắt trần không thấy được). Do đó, nhân loại cần đến những con mắt khác, những con mắt thứ ba để nhận thức những thực tại cao siêu. Con mắt nầy giúp người ta nhìn xa, nhìn rộng, nhìn sâu, nhìn thấy điều thiết yếu, nhìn thấy chân lý…
Con mắt thứ ba của các nhà vi trùng học là ống kính hiển vi. Nhờ con mắt nầy, nhà nghiên cứu có thể nhìn thấy vi trùng và những siêu vi cực nhỏ… Con mắt thứ ba của các nhà thiên văn là ống kính thiên văn, nhờ đó các nhà khoa học có thể thấy được những ngôi sao cách mặt đất đến mười tỉ năm ánh sáng… Con mắt thứ ba của các nhà quân sự là màn ảnh ra-đa, là vệ tinh quan sát… Chúng giúp các nhà quân sự nắm rõ địa hình cũng như các bí mật quân sự của đối phương nhằm đạt tới chiến thắng.
Trong Phật giáo, con mắt thứ ba của nhà tu hành đạt đạo là ‘huệ nhãn’, giúp người ta thấy được những thực tại tâm linh siêu hình. Đối với Đức Giêsu, con mắt thứ ba mà Ngài mong muốn các môn đệ Ngài phải có là Đức Tin. Nhờ “Con Mắt Đức Tin”, nhân loại có thể nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương, nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, nhận ra mình có hồn thiêng bất tử, biết mình có cuộc sống mai sau, có thiên đàng hoả ngục…
Tông đồ Tôma chưa có con mắt thứ ba. Anh chỉ tiếp cận với thế giới qua đôi mắt trần. Anh chủ trương chỉ những gì được xem thấy tận mắt, được sờ tận tay… mới là điều có thực. Chính vì thế, khi nghe các môn đệ bảo anh: “Nầy Tôma, Thầy đã sống lại và đã hiện ra với chúng tôi”, Tôma cho là chuyện đùa.
Cho dù Tôma có thấy Chúa tận mắt đi nữa, chắc gì anh đã tin, vì biết đâu đó chỉ là bóng ma của Chúa Giêsu hiện về. Anh đòi phải kiểm chứng bằng cách xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn… thì anh mới tin! Chúa Giêsu không hài lòng với quan điểm đó. Ngài nói: “Tôma, vì anh đã thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.”
Như thế, phúc cho những ai không dùng đôi mắt trần, nhưng dùng con mắt thứ ba, “Con Mắt Đức Tin” để nhận ra Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn tuyên dương những ai có Đức Tin vì đó là con mắt tối cần giúp thấy được những thực tại siêu nhiên và đạt tới ơn cứu độ. Chúa luôn khiển trách các môn đệ khi các ông yếu lòng tin. Chúa buồn phiền vì dân chúng thiếu lòng tin. Chúa khiển trách Tôma là kẻ cứng lòng tin. Xin khai mở cho chúng con con mắt thứ ba, con mắt Đức Tin, để chúng con nhận biết Thiên Chúa Cha là Cha yêu thương, nhận biết Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và nhận biết Thánh Thần Chúa là Đấng thánh hoá mọi người, cùng nhận biết mọi người là anh em thật của chúng con trong Chúa Kitô. Amen.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn suy nghĩ về thái độ của Tôma. Tôma không phải là một kẻ cứng lòng, ông chỉ muốn tin vào những gì là rõ ràng và hiển nhiên. Vì thế, khi nhìn thấy Chúa, ông đã vội vã kêu lên:
– Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.
Và Chúa Giêsu đã nói một lời đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ:
– Phúc cho ai không trông thấy mà tin.
Có lẽ khi nói lời này Chúa Giêsu đã nghĩ tới hằng triệu triệu người tin tưởng và trung thành phụng sự Ngài, dù chưa một lần nhìn thấy.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta chưa một lần nhìn thấy Ngài, chưa một lần được đụng tới gấu áo Ngài, chưa một lần được nghe Ngài giảng, chưa một lần được chứng kiến phép lạ Ngài làm. Dầu vậy, chúng ta vẫn tin tưởng, yêu mến và thờ lạy Ngài.
Thế nhưng có kẻ đã bảo:
– Đó chỉ là một niềm tin tưởng mù quáng vào một người đã sống cách đây hơn 2000 năm, niềm tin tưởng ấy không còn thích hợp với não trạng của con người thời nay.
Tôi xin trả lời:
– Đức tin của chúng ta không mù quáng, nhưng dựa trên những cơ sở vững chắc.
Thực vậy, sự hiện diện của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử như sự hiện diện của César, của Khổng Tử. Hàng ngàn năm về trước, các tiên tri đã loan báo và trong Tân Ước, cuộc đời Chúa Giêsu đã được xác định một cách rõ ràng và cụ thể, cùng với những lời Ngài đã dạy và những việc Ngài đã làm. Qua đó chúng ta thấy được rằng: Ngài là Thiên Chúa. Bởi vậy, chúng ta hãy tin tưởng vào lời Chúa, dù lời ấy nó không phù hợp với sở thích và nguyện vọng riêng tư của chúng ta.
Thế nhưng, có kẻ lại bảo:
– Nếu đó là những sự kiện cụ thể và hiển nhiên, tại sao không lôi kéo được hết mọi kẻ tài cao và học rộng?
Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi, ngày nay có nhiều người trí thức vỗ ngực tự xưng mình là kẻ không tin tưởng. Để có một cái nhìn đứng đắn, chúng ta cần phải xác định: Những chân lý siêu nhiên không phải là những chân lý toán học như hai với hai là bốn. Để đón nhận, cần phải có một tâm hồn sẵn sàng. Đức tin mãi mãi vẫn là một hồng ân của Thiên Chúa. Những đam mê vẩn đục thường là những chướng ngại vật cản ngăn con đường đức tin.
Tôi xin lấy một thí dụ: Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại. Đó là một sự kiện lạ lùng, thế nhưng, những kẻ chứng kiến đã có phản ứng như thế nào? Phúc âm đã kể lại:
– Có những người đã tin vào Chúa, nhưng có những kẻ lại hậm hực tức tối, để rồi tìm mọi cách để giết Chúa. Trước một sự kiện hiển nhiên như thế, người thì bảo: Ngài thực là Thiên Chúa hãy tin vào Ngài. Kẻ thì bảo: Ông ta là một tay nguy hiểm, cần phải khử trừ.
Ngày nay cũng thế. Có những nhà bác học Công giáo thì cũng có những nhà bác học vô thần. Và đây chính là vai trò của tác dụng ơn Chúa trong tâm hồn mỗi người. Người thì công nhận, kẻ thì từ khước và làm cho ơn Chúa trở nên vô hiệu quả, như một câu danh ngôn đã nói:
– Chính trái tim làm cho đầu óc bị hư hỏng.
Cho đến tận cùng thời gian, nhân loại này luôn luôn chia thành hai giới tuyến: Giới tuyến của những người tin tưởng vào Chúa và giới tuyến của những kẻ chối bỏ Ngài. Cũng như trên thiên đàng vào thời nguyên thủy đã có những thần lành và thần dữ. Vậy thì chúng ta thuộc về giới tuyến nào? Hãy tuyên xưng đức tin như Tôma ngày xưa: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi.
Câu hỏi gợi ý:
Suy tư gợi ý:
Khi chưa đích thực gặp lại thân xác đã sống lại của Đức Giêsu, thì ngoài Tôma ra, các tông đồ khác dường như không cảm thấy có vấn đề gì trong việc tin Ngài đã sống lại. Các ông đã tỏ ra tương đối dễ tin. Nhưng riêng Tôma, ông không tin dễ dàng như thế, vì từ xưa đến nay, ông chưa hề nghe nói có một ai tự mình sống lại từ cõi chết bao giờ. Cứ bình thường mà xét, phải nói rằng Tôma khôn ngoan và thận trọng hơn các tông đồ khác.
Đối với người như Tôma, Đức Giêsu đã không phiền trách gì về sự cứng lòng tin của ông. Ngài chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng để bổ túc cho sự cứng tin hợp lý ấy: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Và Đức Giêsu đã cho phép Tôma được xỏ tay vào lỗ đinh ở tay và lỗ đòng đâm ở cạnh sườn Ngài. Nhưng có lẽ chính nhờ như thế mà Tôma sẽ tin chắc vào sự sống lại của Ngài hơn ai hết. Người cứng tin mà đã tin thì sẽ tin rất vững. Còn kẻ quá dễ tin thì cũng sẽ dễ dàng mất niềm tin, hoặc cũng sẽ dễ dàng tin những điều khác dù chưa đủ nền tảng để tin.
Ngày nay, con người đã bước vào kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật, nên con người chịu ảnh hưởng của tinh thần khoa học thực nghiệm rất nhiều. Tinh thần khoa học thực nghiệm chính là tinh thần của Descartes (1596-1650): “Chỉ tin sau khi đã chứng minh”. Và tinh thần ấy được thể hiện thành chủ trương “nghi ngờ có phương pháp và phổ quát” (doute méthodique et universel) của ông. Nghi ngờ để tìm tòi hầu đi đến kết luận chắc chắn. Tinh thần khoa học thực nghiệm ấy đòi hỏi con người trước khi đi đến một kết luận, cần phải trải qua ba giai đoạn: nhận xét, đưa ra giả thuyết, và thí nghiệm kiểm chứng như đòi hỏi của Claude Bernard (1813-1873).
Tinh thần ấy chính là tinh thần của Tôma, chính vì thế, các nhà khoa học Công giáo đã nhận thánh Tôma làm bổn mạng của các nhà khoa học. Riêng bản thân tôi, người viết bài này, cũng rất thích sự cứng tin của Tôma, và coi đó như một đức tính rất cần thiết để sự phán đoán và lời nói của mình có giá trị, đáng tin. Sự đáng tin không chỉ đòi hỏi đức tính chân thật, mà còn đòi hỏi sự phán đoán chính xác và chắc chắn. Một người hết sức thật thà không bao giờ muốn lừa dối ai, nhưng lại dễ tin và hay bị lường gạt, thì phán đoán và lời nói của người ấy không còn đáng tin nữa. Thiết tưởng những người rao giảng chân lý, ngoài đức tính chân thật, cần phải có sự chững chạc trong cách phán đoán để trở nên đáng tin trước mặt mọi người.
Những nhà truyền giáo hiện nay tại Việt Nam thường thuộc lứa tuổi giao thời giữa hai thời đại: thời khoa học chưa ảnh hưởng mạnh và thời khoa học ảnh hưởng rất mạnh trên lề lối suy nghĩ của con người. Thời trước, người ta dễ tin những ai có uy tín (như các giám mục, linh mục, tu sĩ, hoặc ông bà cha mẹ, cô dì chú bác). Trẻ con dễ tin vào những điều người lớn nói, không đặt vấn đề điều đó đáng tin tới mức nào. Nhưng thời nay và nhất là những thế hệ mai sau, người ta không dễ tin như thế nữa. Họ thường đòi hỏi “nói có sách, mách có chứng”. Muốn họ tin thì phải có bằng chứng. Nếu không chứng minh bằng sự kiện thì ít nhất phải chứng minh được sự khả tín của điều mình nói. Ngoài ra, lập luận phải vững chắc, trình bày rõ ràng. Vì thế, việc rao giảng Tin Mừng hay sứ điệp Kitô giáo không thể theo phương cách cũ mang nặng tính giáo điều được.
Ngày xưa, tại Việt Nam, trình độ văn hóa giữa linh mục và giáo dân có sự chênh lệch rất cao. Ngày nay, sự chênh lệch ấy giảm đi rất nhiều, thậm chí không còn nữa. Rất nhiều giáo dân có trình độ văn hóa cao hơn những linh mục bình thường. Tuy nhiên các linh mục vẫn thường hơn giáo dân trong những kiến thức về thần học, giáo lý, v.v… vì người giáo dân hiện nay không được quan tâm đào tạo về mặt này, hoặc không có điều kiện để quan tâm. Vì thế, các linh mục thường đảm trách việc loan báo và rao giảng Tin Mừng cho giáo dân và người ngoại. Nhưng vì trình độ văn hóa của người bình thường ngày càng cao hơn, nên việc rao giảng Tin Mừng không còn dễ dàng như ngày xưa. Điều ấy đòi hỏi những người rao giảng Tin Mừng cũng phải có một tinh thần khoa học thực nghiệm trong cách rao giảng, cần chú trọng đến những bằng chứng xác thực, những lý luận chặt chẽ, cho dù đức tin không phải đến từ những thứ ấy. Nhưng nếu không chú trọng đến những thứ ấy, lời rao giảng sẽ bị từ chối ngay từ đầu.
Tại châu Á, Giáo Hội đã thành công rất khiêm nhường trong việc truyền giáo, không thành công rực rỡ như ở châu Âu. Một phần khá lớn là do thiếu hội nhập văn hóa, vì trước đây, có sự khác biệt về văn hóa giữa dân tộc truyền giáo với dân tộc được truyền giáo. Ngày nay, với việc toàn cầu hóa, sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc bị giảm thiểu rất nhiều, nên việc hội nhập văn hóa theo chiều ngang không còn cần thiết và quan trọng như xưa. Trái lại, sự khác biệt về văn hóa giữa thế hệ trước với thế hệ sau ngày càng gia tăng. Lề lối suy nghĩ của các thế hệ sau càng ngày càng thấm nhuần tinh thần khoa học thực nghiệm hơn. Vì thế, nếu không có sự thích ứng khôn ngoan của thế hệ Phúc Âm hóa (thế hệ trước) với thế hệ được Phúc Âm hóa (thế hệ sau) trong việc diễn tả sứ điệp, chắc chắn việc Phúc Âm hóa sẽ thất bại. Do đó, hiện nay việc hội nhập văn hóa theo chiều dọc cần được Giáo Hội quan tâm và thực hiện nhiều hơn là hội nhập văn hóa theo chiều ngang.
Tinh thần khoa học thực nghiệm của con người thời đại đòi hỏi những dấu chứng cụ thể mới tin được. Do đó, những xác quyết trong rao giảng cần được chứng tỏ bằng thực tế đời sống. Thật vậy, ai mà tin được cái Tin mà chúng ta rao giảng là Tin Mừng khi chúng ta rao giảng nó với bộ mặt buồn so, ảo não? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Giải Phóng khi mà người rao giảng nó vẫn sẵn sàng khom lưng làm nô lệ cho người, cho vật, cho sự này sự khác, hoặc cho chính bản thân? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Cứu Độ khi mà nó không làm cho người người rao giảng nó hoặc theo nó sống tốt hơn, có tình có nghĩa hơn, và hạnh phúc hơn những người bình thường khác?
Thiết tưởng đã tới lúc chúng ta – những ai còn tha thiết với tiền đồ của Kitô giáo – cần đặt lại vấn đề sống đạo một cách nghiêm túc hơn và hãy thành thật với chính lòng mình. Nếu ta cảm thấy Kitô giáo trong thực tế đã không đem lại một thứ hạnh phúc tự tại cho chúng ta, không tạo được một động lực đủ mạnh để thúc đẩy ta sống tốt đẹp hơn người ngoài, mà ta vẫn cứ mạnh miệng rao giảng như là một tôn giáo tốt nhất, hữu hiệu nhất, thì việc rao giảng của chúng ta đúng là một sự lừa dối có hệ thống. Nếu như thế chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về sự lừa dối ấy. Chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng trong thực tế, đức tin ấy đã chết hay mất đi từ lâu mà ta tưởng là ta vẫn còn đức tin. Vì đức tin không phải là một chấp nhận xuông, hay chỉ là hành động tuyên xưng ngoài miệng, mà là một cái gì tự nhiên ảnh hưởng rất sâu xa vào đời sống, khiến ta thay đổi cách suy nghĩ và hành động nên tốt đẹp hơn, và đời sống ta hạnh phúc hơn rất nhiều. Nếu không được như thế, “đức tin” mà ta tưởng rằng ta có, không phải là đức tin đích thực.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, rất nhiều khi con chê trách Tôma là quá cứng tin, và tự hào mình dễ tin hơn nhiều. Nhưng trong thực tế, đức tin của con chẳng ảnh hưởng gì trên cuộc sống con bao nhiêu, nó chẳng làm con hạnh phúc hơn người không đức tin, chẳng làm con sống tốt đẹp và yêu thương hơn họ. Xin cho con nhận ra đức tin ấy chưa phải là đức tin đích thật. Xin Cha hãy ban cho con đức tin đích thực có khả năng thay đổi con người của con, làm con nên thật sự tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Amen.
HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ
KHÔNG CÓ ÔNG TÔMA (20,19-23)
Chúa hiện đến (19-20)
Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn trước xem chừng không thay đổi cách hành xử của các môn đệ (ta có thể nghĩ rằng các môn đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn hữu” vào nhóm Mười Một này). Các ông sống trong lo âu sợ hãi và trốn tránh. Chính trong nơi cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu ngự đến. Sự hiện diện của Người không còn lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những điều bó buộc tự nhiên như những sự bó buộc của con người với thể xác mình. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường: đơn giản Người có thể hiện diện cách khác hơn loài người.
Chúa đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Người nói “Chúc anh em được bình an”, điều này không chỉ là một lời chúc xã giao, mà còn có nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu độ, của niềm vui và của sự bình an. Các dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh. Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường của Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên con người đang đứng ở giữa họ là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng một con người như Đấng họ đã biết và y trong, nhưng mà từ nay sự Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan vui mừng.
Sứ vụ (21-23)
Những lần hiện ra tự nó không nhằm mục đích riêng. Chúng mở màn cho một sứ vụ. “Như”: đây không chỉ là một sự so sánh, đây là căn nguyên và nền móng. Các môn đệ được sai đi (theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo dài hoạt động của Chúa Giêsu. Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước hiệu Tông đồ cho nhóm Mười Một. Chủ đề sai đi này đã được trình bày sâu rộng trong diễn từ tư tế (17,17-19). Như Thiên Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn làm Chúa, thổi (cũng động từ Hy Lạp ở đây như trong St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên các môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để có kinh nghiệm về cái chết, tự tỏ mình ở đây như là Chúa Tể sự sống. Còn các môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ hãi, bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến là Chúa Giêsu, họ có thể tha tội, nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong quyền năng cái chết cảu Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi, khi họ được tha cho ai hoặc cầm giữ tội của ai, thì chính Thiên Chúa qua họ mà tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở đây một dạng văn phạm gọi là “thì thụ động thần linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa qua thì thụ động. Ta có thể dịch như thế này: “Bất cứ người nào anh em tha… Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người nào… Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội họ”.
Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp theo, đều diễn ra vào “ngày của Chúa’, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên khởi hội họp cử hành phụng vụ, thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Người và mỗi khi họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực hóa một lần nữa việc sai họ đi khắp thế gian.
Ông Tôma: Không thấy mà tin (20,24-29)
Việc ông Tôma vắng mặt cho phép người kể chuyện đưa vào cảnh tượng tiếp sau. Sự cứng lòng không tin của ông Tôma được đặc biệt nhấn mạnh, bởi lẽ điều này được diễn tả gần như cùng một từ ngữ như trong 4,48: “Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu”. Ông Tôma, là người tuy đã mời gọi các bạn đồng môn cùng đi cùng chết với Chúa Giêsu (11,16), lại chối từ cùng với các bạn đi theo Chúa trong đức tin vào Chúa Giêsu hằng sống. Ông có hai lỗi: trước hết không tin vào lời chứng của các Tông đồ; sau nữa, nghi ngờ Chúa Giêsu sống lại.
Chúa Giêsu hiện đến lần thứ hai cũng được miêu tả với những từ ngữ như lần thứ nhất. Tuy nhiên sự cứng lòng tin của ông Tôma cho phép thánh sử thực hiện hai mục tiêu: trước tiên việc nhấn mạnh về những dấu vết thương tích đánh dấu sự liên tục và sự liên kết giữa Chúa Giêsu chịu đóng đinh và Chúa Giêsu được tôn vinh. Chính việc nâng cao là thập giá làm nên mặc khải tối thượng về tình yêu của Chúa Cha và vinh quang của Chúa Con. Tiếp đến, đức tin mà ông Tôma, kẻ không tin, tìm gặp lại, trổi vượt đức tin của các môn đệ bởi vì ông dành cho Chúa Giêsu tước hiệu vĩ đại nhất của cả Tin Mừng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Trong số tất cả các tước hiệu của Chúa Giêsu đã được khai trình giữa chương đầu này, chúng ta đạt đến tột đỉnh mà mọi định nghĩa giáo lý sau này đều không thể vượt qua được. Giữa “Ngôi Lời là Thiên Chúa” ở Lời Tựa (1,1) và lời tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa và Thiên Chúa”, mọi sự đều đã rõ. Quả là ngược mặc khải, kẻ làm chứng về chân lý này lại là người không muốn tin vào lời chứng của các Tông đồ.
Hạnh phúc cuối cùng là kết luận của Tin Mừng và là sự lặp lại chủ đề chính yếu của đối tượng: giữa thấy và tin, cảnh tượng và nghe biết, sự kỳ lạ và lời nói, thì chính phần thứ hai mới là điều kiện thường tình và lý tưởng của kẻ tin. Ngay cả những kẻ đã thấy, cũng phải tin hơn điều họ đã thấy. Ngôi Lời từ lúc mặc lấy các phàm, nghĩa là nhân tính nơi mà vẫn phải “nhận biết Thiên Chúa tỏ hiện trong vinh quang”. Chúng ta, những người lãnh nhận Tin Mừng, chúng ta quả có phúc vì đã không thấy mà nhờ những lời chứng của các Tông đồ, chúng ta gắn bó với Chúa Kitô và trở nên những kẻ tin vào Người.
KẾT LUẬN (20,30-31)
Hai câu này làm thành đoạn kết của Tin Mừng trước khi chương 21 được thêm vào. Gioan là tác giả duy nhất trong các thánh sử đã đưa vào tác phẩm của mình đoạn kết. Để cho độc giả tương lai tiện sử dụng, ông có hai xác định quan trọng:
Trước hết, Gioan nhận biết đã cố ý thực hiện một sự tuyển chọn trong số các sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu. Vậy nên cần phải ghi nhớ điều đó mỗi khi thấy một vài thời kỳ trong cuộc đời của Chúa Giêsu được các Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại, còn ông thì vẫn im lặng, và đừng vội kết luận rằng ông không hay biết các sự kiện đó. Trong khi định trước các môn đệ như những người lãnh nhận các dấu lạ, Gioan đặc biệt liên tưởng đến các độc giả của mình, tuy đã trở thành môn đệ, nhưng lại không thấy các dấu lạ được thực hiện trong cuộc đời của ông.
Sau nữa và nhất là, ông minh định mục tiêu của mình: kiên định các môn đệ trong đức tin vào Chúa Giêsu, vừa là Đấng Mêsia như Kinh Thánh đã hứa, vừa là Con Thiên Chúa, từ đó các môn đệ có được sự sống nhờ Chúa Giêsu. Như vậy, độc giả có sẵn chìa khóa để học hiểu. Tin Mừng không phải là một quyển sách bình thường, sáng tác để cho độc giả giải trí, mà là một quyển sách có sự sống; thừa hưởng cũng một năng lực từ sự xác tín và cũng một tiềm năng sự sống như lúc Chúa Giêsu còn tại thế. Đối với các độc giả sinh sống vào thời mà Chúa Giêsu không còn hiện diện bằng xác thể nữa, thì có quyển sách này đây, sẵn sàng cho cuộc hội ngộ giữa độc giả và quyển sách, làm nảy sinh sự sống do đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng Mêsia và Con Thiên Chúa.
Vào chiều hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần… các môn đệ khi đó tụ tập lại… Tám ngày sau, các môn đệ lại ở trong nhà…
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai sự hiện tỏ của Đức Giêsu đã sống lại, cách khoảng 8 ngày. Một cách tự nhiên, chúng ta có xu hướng tập trung chú ý vào cuộc hiện ra lần thứ hai, đó là với Tôma… bởi vì chúng ta thường khi tự động hóa mình với ông, và tìm được một giải pháp thực tiễn là có dưới tay mình một người nào đó hoài nghi, một người nào đó khó tin… và tìm ra được nơi ông một thứ biện minh cho sự thiếu lòng tin của chính chúng ta.
Nhưng những sự thông đồng của chúng ta với Tôma không ngăn chúng ta đọc toàn thể văn bản. Trước hết chúng ta lưu ý rằng Đức Giêsu hằng sống hiện ra, chuyện đó có phải tình cờ không? Vào Chúa nhật. Ngày thứ nhất trong tuần. Chúng ta biết rất rõ những Kitô hữu ban đầu không họp nhau mỗi ngày đâu. Chính họ, họ cũng có cuộc sống hằng ngày của mình. Họ không thể luôn luôn ở với nhau được. Vì thế, chính trong khuôn khổ cuộc gặp gỡ hằng tuần của họ, mà Đức Giêsu sống lại đến thăm. Chúng ta có thể sai lầm khi nghĩ rằng đức tin là một công việc có nhiều tính cách riêng tư hay cá nhân: chúng ta nhận thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô sống lại chủ yếu được người ta thử nghiệm, nhận biết, cảm thấy trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ cộng đoàn. Họ ở với nhau,…hội họp lại… trong Giáo Hội.
Các môn đệ đã gài chốt các cửa nơi họ ở, bởi vì họ sợ. Đức Giêsu hiện đến và ở giữa họ.
Khi thánh Gioan viết điều đó, thì lúc ấy luôn luôn là thời gian sợ hãi và bách hại. Các môn đệ của Chúa Giêsu có thói quen khi hội họp ở nhà người này, khi ở nhà kia. Họ đón tiếp nhau… Họ tin cậy nhau. Có những vụ bỏ cuộc, những người bỏ đức tin và nhóm… Họ cũng sợ… Họ cài chốt các cửa lại. Nhưng ở mỗi Chúa nhật, dấu chỉ của phòng tiệc ly được làm lại, Chúa nhật đầu tiên này: một cách huyền nhiệm, Đức Kitô lẻn vào giữa những người thân của Người, tại nơi họ đang ở: E-phê-sô, Cô-rin-tô, Giêrusalem, Roma. Vâng, mỗi Chúa nhật, chính là lễ Phục sinh! Chúa ở đó, ngay giữa cuộc đời chúng con, và chính Chúa đã làm cho chúng con được sống… Không thấy Chúa, chúng con vẫn tin.
Lạy Chúa hôm nay, chúng con cũng bị cám dỗ cài chết cữa nhà một cách sợ hãi. Khi Thần Khí thổi vào, chớ chi các bức tường trong nhà tù của chúng con sập đổ, chớ chi thời giờ ca hát của chúng con trở lại: Chúng ta hãy mở cửa nhà chúng ta cho Đức Kitô sống lại!
Trước khi đi xa hớn trong cuộc suy niệm Tin Mừng này chúng ta hãy xin Đức Kitô, để giải thoát chúng ta, làm cho chúng ta sống lại khỏi tình huống chết chóc nào. Như tội lỗi, như thử thách về sức khỏe, như những gò bó đau đớn và tuyệt vọng, như khó khăn gia đình và nghề nghiệp… Nơi mà ở đó họ đã gài then cửa!
Người nói với họ: “Bình an cho anh em!”.Nói xong Người cho họ xem bàn tay và cạnh sườn Người. Các môn đệ tràn ngập vui mừng khi thấy Chúa. Đức Giêsu lại nói với họ: “Bình an cho anh em!”
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô giáo trước hết không phải là một niềm vui dễ dãi, niềm vui tự phát, thứ niềm vui nâng chúng ta lên cao khi mọi chuyện xuông xẻ, khi sức khỏe được tốt lành, tuổi trẻ ở đó đầy sức sống, khi các doanh nghiệp của chúng ta thành công, khi các quan hệ bạn bè và gia đinh được dễ chịu. Niềm vui Phục sinh, chính là niềm vui đến sau sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an đi trở lên từ một tinh huống về cơ bản là thất vọng (cái chết của một Đấng bị đóng đinh) mà không gì có thể tước đoạt được! Đó là niềm vui và sự bình an đến từ lòng tin vào Đức Giêsu, ở mỗi cuộc hội họp Chúa nhật, giống như ngày đó, Đức Giêsu nguyện chúc sự bình an qua tiếng nói của vị linh mục: “Bình an cho anh chị em!”. Và Công đồng Vatican II đã lập lại truyền thống xưa “hôn bình an: các Kitô hữu được mời ban bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô. Trao cho nhau một cái bát tay, ôm lấy nhau, mỉm cười với nhau, trong khi vừa chúc với nhau: Bình an Đức Kitô. Đó không phải là một cử chỉ tầm thướng… chính là “trở nên Đức Kitô” với người gần ta…, khi nhiều người họp nhau lại nhân danh Ta. Ta sẽ ở giữa họ.
“Như Chúa Cha đã sai Thầy. Thầy cũng sai anh em..”
Đấy! Chúng ta không tin là nói quá tốt như thế!chính Đức Kitô nói lại với chúng ta… Tôi, người đàn ông đáng thương người đàn bà đáng thương, tôi là “Giêsu” được sai đến cùng anh em tôi… đúng như Người đã được Cha mình sai đi. Ta đừng đi quá nhanh trên các từ này. Ta đừng đi quá nhanh để bắt kịp Tôma, người cứng lòng tin. Hãy nán lại trên các từ về Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe trách nhiệm cao vời mà Người trao cho chúng ta: “sứ mệnh” của Đức Kitô được trao cho Giáo Hội, cho tôi, một phần. Tôi được Đức Giêsu sai đi… như Đức Giêsu đã được Cha sai đi! Tôi còn phải khám phá ra ý nghĩa của hai từ này, thêm một lần nữa, đó là những từ Latinh và Hy Lạp không được dịch ra, hỡi ôi. “Sứ mệnh” có nghĩa “sự sai đi” (từ missus trong Latinh)… và “tông đồ có nghĩa là “người được sai đi” (từ Apostolos trong tiếng Hy Lạp)…
Khi tôi gặp gỡ một người nào, trong công việc của tôi, trong môi trường cuộc cống của tôi, tôi không ở đó chỉ nhân danh riêng tôi, vì lợi ích của tôi: Tôi được Đức Giêsu sai đến đó nhân danh Người, vì lợi ích của chính Người! Như Đức Giêsu đã được Cha Người sai đi! Tôi còn phải nói với một sứ điệp của Đức Giêsu: chính Người nói cho bạn biết điều mà tôi sắp nói với bạn… người đang sống trong tôi là đôi môi và thân xác của Người, ở gần với Người, để tỏ ra cho bạn tình yêu của Chúa Cha.
Khi đã nói xong. Người thổi hơi trên họ và Người nói với các ông: “Anh em nhận lấy Thánh Thần”.
Ơn huệ của Thánh Thần, sự sáng tạo mới… Thần Khí của Đức Giêsu được truyền đạt cho các môn đệ của Người. Đức Giêsu đã chết, “trở lại cùng với Cha”. Nhưng người Kitô hữu nhận lấy đà tiếp sức! Họ là những người mang hơi thở đầy sinh lực và Thần Khí Người… họ đi theo công trình của Người: Thánh Phaolô sẽ nói: “Anh em là Thân thể Đức Ki- tô, anh em là Đền Thờ của Thánh Thần. Thánh Gioan, chính ông cho chúng ta thấy, vì lợi ích chính mình, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Sáng Tạo trong sách Sáng Thế (St 2,7): “Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin hãy đến (Veni, Creator Spintua)”.
Đối với Gioan, Lễ Hiện Xuống, chính là buổi chiều ngày Lễ PS cái chính yếu trong hoạt động của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng cái chết, chính là ơn huệ của Chúa Thánh Thần, Người đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ trong những kẻ chết (Rm 8,11). Trong kinh Tin Kính, đó là điều mà chúng ta khẳng định một cách chính yếu về Chúa Thánh Thần: Ngài là Đức Chúa, và Ngài ban sự sống. Thánh Thần được ban cho con người ngay chính chiều ngày Phục sinh, và Ngài sẽ tỏa sáng rực rỡ trên công trường năm mươi ngày sau, vào ngày lễ Hiện Xuống, chính cùng một Thánh Thần này, vừa mới thành công một đòn bậc Thầy nếu ta cấm nói như thế, bằng cách kéo Đức Giêsu khỏi sự chết, đồng thời mạc khải Người là Con Thiên Chúa nhờ sự Phục sinh. “Nhờ sự Phục Sinh Người được lập là Con Thiên Chúa theo Chúa Thánh Thần”.
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha..”
Trói buộc, và tháo gỡ, tha thứ và cầm buộc… các tội lỗi. Lời lẽ này là một công thức ngữ pháp aramên: người ta dùng hai từ trái nghĩa để khẳng định mạnh mẽ hơn nữa một thực tại, và nhấn mạnh lên từ “tích cực”. Vì thế, khi ban cho họ Thần Khí của Người, Đức Giêsu cũng ban cho các môn đệ của Người quyền tháo gỡ con người khỏi sự xấu của mình: Từ nay, trên trần gian này, họ là những người mang theo lòng thương xót của Thiên Chúa… như Đức Giêsu khi trước: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Các Kitô hữu được mặc lấy sứ mệnh mà chính Đức Giêsu đã nói là của Người, trong giáo đường Na-da-rét, đầu tác vụ của Người: Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi, Thần Khí Thiên Chúa đã thánh hóa tôi. Người đã sai tôi đi mang Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo một năm hồng ân do bởi Thiên Chúa, giải thoát những người tù đầy ” (Lc 4,18-19). Tôi có phải là người mang tinh thần đó, Thần Khí giải phóng, của Thần Khí ban sự sống, của Thần Khí yêu thương, và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không? Sự tha thứ là một ân huệ Phục sinh.
Một trong Nhóm Mười Hai, Tôma, lúc đó không ở với các ông, khi Đức Giêsu hiện đến… ông tuyên bố: “Nếu tôi không thấy… tôi sẽ không tin…”
Đấy là “người đến trễ, đến sau cuộc lễ Gặp gỡ. Tôma, luôn luôn, trong Tin Mừng, là người chỉ tin vào lương tri của mình, con người tích cực ngờ vực những hành vi táo bạo của Đức Giêsu. “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu” (Ga 14,15). Khi Đức Giêsu nói về sự sống lại của La-da-rô, thì chính Tôma chỉ thấy sự chết (Ga11,15-16).
Tám ngày sau… Đức Giêsu lại đến: “Đặt ngón tay anh vào đây, hãy xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin nữa…”
Đức Giêsu, dù đã sống lại, vẫn có tính khôi hài? Người đã để cho Tôma, bên ngoài, xem ra có lý trong một tuần. Chính với một cách mỉm cười mà tôi đã xem Đức Giêsu nói thẳng với Tôma. Đức Giêsu như có vẻ nói với ông: Anh bạn đáng thương của tôi ơi, bạn đã tưởng tôi chết, và vắng mặt, khi bạn nói với các bạn khác, bảo với họ là bạn không tin… nhưng tôi vẫn ở đó, vô hình, có nghe chuyện bạn nói. Dẫu vậy, tôi không tỏ mình cho bạn lúc đó. Ôi! Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người luôn có tất cả thời gian của Người.
Tôma nói: “Lạy Chúa của con và Thiên Chúa của con”.
Đó chính là tiếng kêu đức tin của một người mà đối với anh ta, sự đụng chạm cũng thành vô ích. Anh ta đã hiểu rằng Đức Giêsu, dù vồ hình, vẩn có ở đó. Ngay giờ phút ông hoài nghi, thì Người cũng có mặt ở đó.
Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin.
Một mối phúc thật, mối phúc cuối cùng. Người ta không thể trông thấy những thực tại cao cả nhất của Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới đưa chúng ta tới đó. Đó chính là hạnh phúc đích thực.
TỪ NHẬN THỨC ĐẾN TRUYỀN GIÁO
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Phần đầu của Phúc âm Chúa nhật này – năm nào ta cũng đọc lại – đưa ta đến “Sau cái chết của Đức Giêsu” buổi chiều “ngày thứ nhất trong tuần, ngày qui tụ phụng vụ của các Kitô hữu, thời gian thuận tiện để Chúa hiện diện giữa cộng đoàn mà Người qui tụ để chia sẻ Lời và Bánh, và để sai họ đi vào thế giới.
Trong trình thuật, ta gặp lại 3 thời gian đặc biệt của tiến trình phục sinh.
Các môn đệ hội họp ở một nơi mà các cửa đều đóng kín vì họ sợ người Do Thái, tức là chức quyền tôn giáo ở Giêrusalem. Có lẽ qua việc xác định rõ ràng này, tác giả muốn nói tới cảnh bắt bớ mà những người nghe Phúc âm phải chịu: bị loại ra khỏi Hội Đường vì họ nhận Đức Giêsu là Kitô. Dần dà, họ tìm những địa điểm họp riêng, tránh ánh mắt của những kẻ bắt bớ. Trong lúc họ họp nhau, Đức Giêsu tới với họ “Đức Giêsu đến và ở giữa họ”. Lời đầu tiên của Người là lời chúc bình an. “bình an cho các con” (Shalom). Ơn cứu độ không chỉ là một lời chúc lịch sự, nhưng là ơn cứu độ có hiệu quả, của niềm vui, và niềm bình an.
Nhận Đức Giêsu sống vượt qua cái chết.
Đức Giêsu cho họ xem: “Tay và cạnh sườn Người (đối chiếu với ngọn giáo của Gioan). Marchadour bình luận: “Dấu vết của việc đóng đinh trên tay và cạnh sườn Đức Giêsu chứng tỏ rằng, dù những điều kiện lạ lùng trong các cuộc tỏ mình ra của Đức Giêsu, tác giả Phúc âm không muốn các độc giả lầm Chúa với một bóng ma, nghĩa là một người khác với Đấng chịu đóng đinh. Chắc chắn, sự hiện diện thể lý bình thường của Đức Giêsu không còn nữa, nhưng Đấng ngự giữa họ vẫn là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng vẫn là Đấng mà họ đã biết và đã yêu, nhưng từ nay đã biến hình đổi dạng qua cuộc phục sinh. Sợ hãi tiêu tan, các môn đệ tràn đầy niềm vui.
Sứ mệnh nhận từ Đấng phục sinh.
Sự hiện ra của Đấng phục sinh không có một mục đích tự thân. Nó khai mở ra một sứ mệnh: sai đi, với sức mạnh của Thánh Linh, đem cho mọi người Tin Mừng về ơn tha thứ của Thiên Chúa. “Như Cha đã sai Thầy thế nào, Thầy cũng sai các con như vậy”. Nói thế rồi Người rồi thổi hơi trên các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha…”
A.Marchadour bình luận: Đó không phải chỉ là một so sánh, đó chính là một nền tảng, một cội rễ. Các môn đệ được sai đi (nguyên ngữ là: trở thành tông đồ) để nối dài hoạt động của Đức Giêsu… Như Thiên Chúa đã thổi hơi thần khí của Người vào Ađam (St 2,7), như Thánh Thần xuống trên Đức Giêsu (1,33-34), Đức Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn phong làm Đức Chúa, cũng thổi hơi cùng một động từ như ở (St 2,7) sức mạnh của Thánh Thần trên các tông đồ… Như Thiên Chúa, rồi như Đức Giêsu kẻ được Thiên Chúa sai đi, các môn đệ tha thứ tội lỗi nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong sức mạnh của sự chết của Đức Giêsu.
Sự vắng mặt của Tôma vào ngày thứ nhất trong tuần cho phép tác giả Phúc âm dẫn nhập vào màn kế tiếp, “tám ngày sau”. Típ người tiêu biểu cho sự cứng lòng, ông từ chối xếp mình vào hàng ngũ chứng nhân của các tông đồ khác và ông nghi ngờ Đức Giêsu phục sinh: ông đòi “thấy” và “sờ” rồi mới “tin”.
Thế là Đức Giêsu đến một lần nữa, ngôn ngữ dùng miêu tả cũng như lần hiện ra trước. Đức Giêsu lại hiện diện, dù các cửa đều “khoá chặt”. Lại một lần nữa, Người gởi lời chào phục sinh: “Bình an cho các con”. Một lần nữa, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Hơn nữa, Người nói với Tôma, nhấn mạnh đến tính cách liên tục và tính cách mạch lạc giữa tình trạng bị đóng đinh và tình trạng vinh hiển hiện tại: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, hãy xem tay Thầy, hãy thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy. Gérard Bessière thắc mắc: “Người tông đồ cứng lòng tin ấy có làm như thế không. Từ lâu người ta đầy tranh cãi về điều ấy. Những bức hoạ thường chỉ vẽ Tôma đang giơ tay về phía những vết thương. Điều quan trọng ấy là lời nói thốt ra: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin. Và đây tìm lại được đức tin, Tôma kẻ cứng lòng đã tặng Đức Giêsu danh hiệu lớn lao nhất của cả Phúc âm: “Lạy Chúa là Thiên Chúa tôi”. “Một đỉnh cao mà các định nghĩa tín lý sau này không vượt qua nổi. Giữa “Ngôi Lời là Thiên Chúa” ở khởi đầu (1,1) và lời tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa”, không còn gì để nói thêm nữa. Càng rõ ràng hơn nữa khi kẻ làm chứng về chân lý này lại là kẻ không muốn tin vào lời chứng của các tông đồ.
Màn kịch kết thúc bằng một mối phúc hứa ban cho những ai sống trong thời đại vắng bóng sự hiện diện thể lý của đức Giêsu, là chính chúng ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin. Mối phúc cuối cùng của eáe Phúc âm, mối phúc của những kẻ tin. A. Marchadour nói tiếp: Đó là câu kết luận của cả cuốn Phúc âm và nhấc lại một chủ đề lớn trong Do Thái giáo: Giữa điều thấy và điều tin, cảnh tượng và lắng nghe, sự trình bày và lời lẽ, chính từ thứ 2 tạo nên điều kiện bình thường và lý tưởng của tín hữu. Ngay cả những kẻ đã thấy cũng phải tin vượt quá điều họ thấy. Ngôi Lời, ngay từ phút giây trở thành “nhục thể” đã chỉ cho các môn đệ thấy “nhục thể” nghĩa là nhân tính nơi lẽ ra ta phải “thấy Thiên Chúa tỏ mình ra trong vinh quang”. Chúng ta thật phúc đức những người tiếp nhận Phúc âm. Chúng ta không thấy, nếu, do lời chứng của các tông đồ mà ta gắn bó với Đức Kitô và trở thành tín hữu.
BÀI ĐỌC THÊM
Phòng đóng kín, Đức Giêsu đột ngột hiện ra giữa các môn đệ, ba lời vắn vỏi: bình an, Thánh Thần, tha tội. Ở đây các môn đệ sợ người Do Thái chứ không sợ ma. Trái lại, họ tràn đầy niềm vui. Sao họ có thể dè dặt về căn tính của Đấng hiện ra, vì Người đã cho họ xem thấy và cạnh sườn Người? Đức tin vào sự phục sinh phát sinh từ khám phá này, cũng với niềm bình an và niềm vui được gặp lại Người, 2 món quà của thời đại Messia mà Người đã hứa cho họ. Theo Gioan và Luca, sự hiện diện của Người không có mục đích đưa họ trở lại quá khứ nhung nhớ: Đức Giêsu “sai” họ như Cha Người đã sai Người. Họ trở nên “Tông đồ” của Người. Để tấn phong, người thổi hơi, nghĩa là ban Thánh Thần của Người cho họ theo 2 nghĩa của từ ngữ bằng tiếng Do Thái và Hy lạp. Theo Gioan, thổi hơi liên hệ đến việc ban phát hào sóng Thánh Thần mà Luca đặt vào thời điểm 50 ngày sau, trong lễ Hiện Xuống. An ban Thánh Thần cho phép họ tha thứ tội lỗi mà theo Gioan, chủ yếu là tội từ chối tin Đức Giêsu là Con Chúa Cha. Ai tuyên xưng Người sẽ được tha tội, vượt qua cái chết đến sự sống. Sứ mạng của các tông đồ là loan báo tha tội này nhân danh Đức Giêsu.
Đức Giêsu tuyên bố từ nay sẽ là chế độ đức tin. Người đã tỏ mình ra trong vinh quang phục sinh cho các tông đồ và các môn đệ. Họ sẽ là những chứng nhân ưu tuyển đã thấy trước điều mai sau sẽ tỏ ra cho mọi người: khi chúng ta thấy- Người diện đối diện, ta sẽ nhận ra Đấng đã cho ta xỏ ngón tay vào vết thương trên bàn tay và ở cạnh sườn người. Trong khi chờ đợi ngày mạc khải chung cuộc ta tìm thấy sự bảo đảm và niềm vui của đức tin trong chứng từ của các môn đệ đầu tiên. Phúc cho những ai không thảy mà tin. Ta tin khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong tấm gương đức tin của những chứng nhân đã thấy Chúa, cho dù đối với ta sự phục sinh vẫn là một điều khó hiểu. Nếu ta tiếp nhận phép lạ phục sinh trong sự vững vàng tăm tối của đức tin, một ngày kia Đấng phục sinh sẽ tỏ mình cho ta, và ta sẽ phải kêu lên như Tôma: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.
Chương 20 của Phúc Âm thứ tư được cấu tạo thành một khối duy nhất về phương diện văn thể và đề tài. Nó kể lại vài lần hiện ra của Đức Kitô phục sinh ở Giêrusalem. Ý chính của chương này: việc chuyển từ kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng.
Khi đã để ý đến yếu tố văn thể và giáo thuyết, chúng ta có thể thấy chương 20 được hình thành như sau:
+ Phần thứ nhất: buổi sáng Phục sinh (20,1-18)
– Đoạn 1: viên đá được lăn ra và ngôi mộ trống (c.1-10); xem Mt 28,1-10; Mc 16,1-8; Lc 14,1-10.
– Đoạn 2: Đức Kitô hiện ra với Maria Madalena (c.11-18; xem Mt 28,9tt; Mc 16,9)
+ Phần thứ hai: hiện ra cùng các môn đệ (20,19-21)
– Đoạn 1: hiện ra ngày phục sinh của Đức Kitô sống lại cho các môn đồ (c.19-23; x. Mc 16,14; Lc 24,36-49; 1Cr 15,5)
– Đoạn 2: hiện ra sau tám ngày cho Tôma, kẻ cứng tin (c.24-49)
+ Kết cục: (20,30-31)
1) Nhìn sơ qua, chúng ta thấy không những hai phần này được đặt gần nhau mà còn được cấu tạo một cách gần như đồng nhất, Tôma chiếm một chỗ quan trọng phần thứ hai. Trong lúc Maria Madalena, trong một giây phút buồn phiền, đã khóc khi thấy mồ trống, Tôma, cách tự phát nhưng bồn chồn, đã hồ nghi thực thể của Chúa Giêsu phục sinh. Vắng mặt khi Phêrô và môn đệ dấu yêu khám phá ra mồ trống và khi Gioan biểu lộ đức tin vào sự phục sinh của Đức Kitô (c.8-9), Maria tuyên xưng đức tin khi Chúa tự mạc khải cho bà (c. 18). Cũng thế, vắng mặt khi Chúa hiện ra ngày phục sinh khi các môn đệ tụ họp, Tôma đã tin cách phấn khởi khi Chúa Giêsu chiếu cố hiện ra với ông tám ngày sau.
Trong cả hai phần, sự kiện hay dịp sờ đến thân xác phục sinh Chúa đều được đặt nổi bật (đối với Maria, x.câu 17; với Tôma x.câu 25 và 27) với một cảm giác thật nhân bản. Ngoài ra đức tin của Maria đã làm bà được sứ mệnh loan báo cho các tông đồ sự sống lại (c.18), trong lúc việc tuyên tín của Tôma khai mào đức tin của những người không thấy mà tin (c.29).
Cuối cùng, mỗi đoạn đều nhắm đến kiệc chuyển từ kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng: môn đồ dấu yêu tin khi nhìn thấy tấm khăn liệm và dải vải (c.8), Maria tin khi nghe giọng nói quen thuộc của thày gọi tên bà (c.0, các môn đồ tin khi ngắm nhìn tay và cạnh sườn của Đức Kitô (c.20), cuối cùng Tôma tuyên xưng đức tin hoàn toàn vào Đức Kitô phục sinh (c.29) khi nhìn thấy tay chúa và thọc tay ông vào cạnh sườn Ngài (cc.25 và 27). Những tương hợp này chứng tỏ có sự đồng nhất trong việc sắp xếp và khai triển toàn bộ chương 20. Tuy nhiên bắt đầu phần thứ hai, đức tin vào Đức Kitô phục sinh có những chiều kích rộng lớn hơn. Thật vậy, ngoài các vị tông đồ, toàn thể Giáo hội được nổi bật nhờ được sai đi truyền giáo và nhờ việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Cũng thế, đức tin của một Tôma cứng lòng nhưng đã ăn năn gợi lên đức tin của tất cả các tín hữu sau này.
2) “Đoạn Ngài phán cùng Tôma: hãy đem ngón tay ngươi đặt đây, này tay Ta; Hãy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta và đừng ở như người cứng tin mà là như người thành tín” (c.27). Phần đầu của câu nói hay là một sự hạ cố đến Tôma hầu như làm ta khó chịu. Chúa Giêsu chấp nhận thách thức mà Tôma đã đòi cho kỳ được: sờ đến Ngài để đảm bảo đó không phải là một hữu thể tưởng tượng nhưng là một con người thật, sống động. Ngược lại, phần thứ hai hàm chứa một lời khuyến cáo đích đáng. Tôma phải trở nên một tín hữu thật sự trong thực thể của Chúa Giêsu phục sinh.
Không có gì trong bản văn cho thấy là vị tông đồ hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và thi hành điều mà thày dạy làm. Lời nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu đã đủ cho ông. Vì thế Toma trả lời và nói: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”. Lời tuyên xưng đức tin rạng rỡ này, lời xác quyết nặng về phương diện Kitô học phát xuất từ miệng Tôma cứng tin, nói lên sự hiển nhiên của việc phục sinh.
Từ đầu cho đến giờ, không có ai trong Phúc Âm Gioan gán tước hiệu này cho Chúa Giêsu Kitô. Một cách bộc phát và phấn khởi, Tôma phát biểu đức tin hoàn toàn của mình vào thiên tính của Đức Kitô. Lời tuyên xưng đức tin này là chóp đỉnh, là cao điểm của toàn thể Phúc Âm thứ tư. Câu “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”, vì nặng phần giáo thuyết, đã làm các nhà chú giải để ý nhiều. Tước hiệu “Chúa” (Curios) đã được nghiên cứu rất nhiều. Chỉ cần nhắc lại ở đây là nhiều lần các sách Tân Ước đã gán tước hiệu Curios cho Chúa Kitô. Nhưng trong mỗi trường hợp, cần phải xét kỹ để có thể xác định một cách rõ ràng nội dung Kitô học của tước hiệu đó.
Đức Kitô cũng được gọi là Thiên Chúa, nhất là trong các thư mục vụ (Có lẽ trong Rm 9,5 nữa), trong lúc thánh Gioan chỉ gán tước hiệu này hai lần trong 1,1.18 (x.5,18; 10,53). Trong trường hợp chúng ta đây, hai tước hiệu “Chúa” và “Thiên Chúa” đều được liên kết chặt chẽ trong cùng một câu. Để xác định ý nghĩa đích thực của hai tước hiệu này, một vài tác giả đã nói rằng văn chương ngoại giáo đã dùng tước hiệu đó (Deisman), đặc biệt trong việc sùng bái các hoàng đế vào thời đầu tiên của Kitô giáo (Bauer). Tuy nhiên, hầu như chắc chắn rằng môi trường của câu nói này phải được tìm trước hết trong văn chương Do thái và Thánh kinh. Thật vậy, câu nói này được tìm thấy nhiều lần trong bản dịch Hy lạp 70 (xem nhất là 2S 7,28; 1V 18,39; Tv 30,2; 35,5.24; 125,15; 138,1; Ga 18,17). Có ý nói là Tôma tôn thờ Đức Kitô, Chúa Con, với những lời mà người Do thái có thói quen dành để tôn thờ TC. Như thế, Tôma đi trước thánh Stephano, người khi chịu tử đạo, sẽ phó dâng tâm hồn mình cho Chúa Giêsu như cho TC (Cv 7,59).
3) Theo từ ngữ nay thành cổ điển của Origène, Phúc Âm thứ tư là “Phúc Âm thiêng liêng” (x. Eusèbe de Kesarée, Hist.Eccl. VI,14,7). Hơn cả Phúc Âm nhất lãm, thánh Gioan, thần học gia, đã nhấn mạnh đến các thực thể cao quí nhất cấu tạo nên đời sống Kitô hữu: tin, đời sống thần linh, ân sủng, ánh sáng. Ông có tài hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của các sự kiện và biến cố cùng khám phá ra những mầu nhiệm linh thiêng của chúng. Tất cả đều xảy ra trên bình diện cao quí của tâm hồn, của việc chúng ta được kết hợp trong ân sủng với Chúa Cha nhờ Đức Kitô. Tuy nhiên, sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta dù cao quí đến đâu, cũng không xóa bỏ được bản tính cùng thực tại thể lý. Cần phải luôn lặp lại điều này: Gioan không giảng đến một thần học thiêng liêng mà không liên quan đến lịch sử; sứ điệp thiêng liêng của ông giả thiết và đòi hỏi phải có các chứng nhân mắt thấy tai nghe.
Như thế, một khi đã để ý đến công trình khảo cứu hiện thời của khoa phê bình văn hình sử (Formgeschichte), và độc lập với mọi cuộc tranh luận về sự sống lại như một sự kiện lịch sử, chúng ta không thể hoài nghi là chính Gioan đã lưu tâm nhiều đến các chứng từ liên quan đến những lần hiện ra của Đức Kitô.
Những lần hiện ra của Đức Kitô ngày phục sinh và 8 ngày sau, việc nhấn mạnh đặc biệt về sự kiện Chúa Giêsu chỉ các thương tích và cạnh sườn Ngài cho các môn đệ và cho Tôma, chúng tỏ cách rõ ràng rằng đối với Gioan, Đức Kitô vinh hiển và Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết là một. Gán cho những trình thuật của Gioan về các lần hiện ra một ý nghĩa hoàn toàn tượng trưng là cưỡng chế bản văn. Vì thế chúng ta không chấp nhận lời chú giải nổi tiếng của Bultmann: “Bài tường thuật về Tôma cũng như bài tường thuật về Maria Madalena… chỉ có một giá trị tương đối…(chúng ta phải coi chúng) như là một lời trong đó các biến cố được kể lại đã trở thành những hình ảnh biểu tượng cho cộng đoàn” (R.Bultmann, The Gospel of John, Oxfort, Elackwell,1971 tr.696).
Lời xác quyết này lại càng đáng ngạc nhiên và gây sửng sốt khi tác giả Phúc Âm thứ tư, hơn các Phúc Âm nhất lãm, đặc biệt làm nổi bật tính cách thể lý của thân xác Đức Kitô trong những lần hiện ra. Tại sao Gioan, thần học gia, tác giả Phúc Âm có tính cách thiêng liêng nhất, lại nhấn mạnh nhiều đến đặc tính nhân loại của Đức Kitô sau khi sống lại? Ngoài ra chúng ta phải thành thật tự hỏi tại sao Gioan suốt cả cuốn Phúc Âm, thường chú trọng đến vinh quang hiển nhiên và thần linh của Đức Kitô, lại tránh ám chỉ đến vinh quang này trong những lần hiện ra, ngược hẳn với Matthêu? Khó có thể tìm ra câu trả lời. Đây là câu trả lời: vì Gioan – tác giả Phúc Âm thiêng liêng nhất, tự cảm thấy cần phải nhấn mạnh phải đến sự kiện Đức Kitô đi vào vinh quang bên cạnh Chúa Cha, nhưng đến mọt sự kiện khác đã đánh động ông nhất với tư cách là nhân chứng tận mắt: Đức Kitô giờ đây, cũng như trước khi tử nạn, tiếp tục tiếp xúc cá nhân với các môn đồ của Ngài, với Tôma.
4) “Còn nhiều dấu lạ khác nữa…”: Gioan, khi kết thúc tác phẩm của ông, biết rằng tác phẩm đó chưa chấm dứt. Nhưng có khi nào người ta viết cạn ý một quyển sách không? hay hơn nữa, có bao giờ có thể minh chứng xong xuôi đức tin của ta không? Chúa Giêsu đã nói trong bài tạ từ: “Thày còn nhiều điều phải nói với các con…” (Ga 16,2). Với hình ảnh Chúa Giêsu ao ước mạc khải Chúa Cha cho thế gian – thế gian với tinh thần ích kỷ hay với tâm hồn quá tự mãn để có thể đón nhận đức tin – Gioan nóng lòng trình bày cho độc giả con người của Chúa Giêsu trong chiều kích thật sự của Ngài, con người gây nhiều ngạc nhiên vì là thần linh, Gioan có cảm tưởng tác phẩm của mình chỉ là nét phác họa đơn sơ. Không phải là ông không nói hết: thật ra còn nhiều dấu lạ khác…(x. Hđ 43,27; 1M 9,22), nhưng nhất là vì trình thuật không bao giờ có thể trình bày đủ.
Cuối cùng, ông có thể làm gì nếu không phải là thuật lại các dấu chỉ? Chúng ta hãy nhớ lại các dấu chỉ có tính cách thiên sai ở phần đầu trong đời công khai (Ga 2-4). Ở đây quan niệm này hiểu rộng ra: nó bao gồm những phép lạ (dấu chỉ và công việc 12,37) cũng như lời nói và cả cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Lời nói và phép lạ luôn đi đôi với nhau, tạo nên một khối (12,38); cả hai soi sáng cho nhau vì phép lạ và lời nói chỉ là những dấu chỉ nói lên con người thiêng liêng của Chúa Giêsu. Người ta chỉ có thể dừng lại nơi những biểu lộ bên ngoài và kêu lên: “Phi thường thay, những phép lạ đó. Ý nghĩa tôn giáo sâu xa thay, những lời nói đó”. Bao lâu lời nói và phép lạ không gợi được cho độc giả con người thiêng liêng của Chúa Giêsu, bấy lâu chúng không đạt được mục đích. Gioan, với tư cách là tín hữu đích thực và văn sáng suốt, biết chắc rằng thực tại trổi vượt hơn hình ảnh được diễn tả. Vì thế ông tha thiết kêu xin độc giả đừng dừng lại nơi dấu chỉ, nhưng phải đạt đến sự vật được dấu chỉ diễn tả, như ông đã làm dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Độc giả cần phải có đức tin, Phúc Âm không được viết ra như một lời biện hộ gởi đến người không tin, trong trường hợp này, Gioan có lẽ chứng tỏ mình thiếu chiến thuật. Thật vậy, cho dù dá mắt vào các sự kiện, ông không quan sát chúng trên phương tiện thuần lý, nhưng dưới ánh sáng của đức tin do Thánh Thần cổ võ và soi sáng. Gioan cho các tín hữu đã tin, nhưng ông báo cho biết không bao giờ họ đi đến mút cùng đời sống đức tin của họ đâu. Dấu chỉ luôn bao hàm một thực thể không bao giờ cạn đối với ai muốn tin nhiều hơn. Đi từ lòng tin vào tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, tính cách đã được đưa ra ánh sáng trong phần đầu của Phúc Âm (Ga 2-4) và được củng cố do phản ứng đức tin đầu tiên của cộng đoàn Kitô hữu (Cv 2,36), người Kitô hữu phải đào sâu lòng tin vào tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, mối tử hệ được mạc khải vào giờ tôn vinh. Và đức tin càng đâm rễ sâu, thì sự sống thần linh và không thể phá hủy càng được trao ban nhờ danh – hay con người – Chúa Giêsu, vì Chúa Cha đã ban cho Chúa Giêsu danh Người (17,11-12) và quyền thông sự sống thần linh vĩnh cửu. Ai tin vào danh Chúa Giêsu thì nhờ Ngài sẽ được sống muôn đời (1,12; 3,15-18; 12,50; 1Ga 5,13)
Không! Tin Mừng không thể chấm dứt: là một tuyển tập các dấu chỉ, Phúc Âm vẫn còn là như vậy bao lâu lòng tin của độc giả chưa đạt đến đích. Và đích này khi nào sẽ đạt được? Khi người tín hữu thấy vinh quang của Chúa Giêsu mà Chúa Cha ban cho Ngài khi Ngài trở về cùng Cha, thứ vinh quang thần linh đã hiện hữu trước mọi thời gian (17,24)
KẾT LUẬN
Từ đây đức tin không dựa trên cái nhìn, nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy; chính nhờ đức tin này mà các tín hữu kết hiệp sâu xa với Đức Kitô phục sinh (17,20).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Một cơn dịch xuất hiện, dân làng hoảng sợ dắt díu nhau chạy trốn vào rừng sâu, bỏ mặc những con bệnh đang nằm chờ chết. Trước thảm cảnh này, một vị linh mục thừa sai đã quyết định ở lại cùng với mấy người thiện chí, ra sức chạy chữa cho những người mắc bệnh. Nhờ sự hy sinh tận tụy này, cơn dịch bị đẩy lui, dân chúng trở về làng để tiếp tục cuộc sống.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta ghi nhận được sự sợ hãi của các môn đệ sau ba ngày đen tối.
Thực vậy, mười hai tông đồ là những người nòng cốt được Chúa Giêsu kêu gọi và huấn luyện. Cả nhóm đã từng hy vọng Ngài sẽ thiết lập vương quốc và mình thì sẽ làm lớn và chiếm một chức vụ quan trọng.
Nhưng rồi những biến cố đau thương dồn dập xảy đến, làm cho hiện tại của các ông trở nên đen tối và tương lai thì mù mịt. Một người trong nhóm đã phản bội, nộp Ngài cho người ta đem đi giết. Con người phản bội ấy đã thắt cổ vì tuyệt vọng. Còn Phêrô là trưởng nhóm, cũng đã chối Ngài ba lần. Một vài môn đệ khác đã lên đường trở về quê cũ, như hai môn đệ đi Emmaus.
Từ bối cảnh này, chúng ta thấy mười một người còn lại như bị co rúm trong căn phòng đóng kín vì sợ người Do Thái. Thế nhưng, chính trong cái bối cảnh không mấy sáng sủa ấy, Đức Kitô Phục sinh đã hiện ra, nhờ đó mà niềm tin của các ông d củng cố. Chỉ cần điểm qua những nhân vật của buổi sáng Chúa nhật Phục sinh, chúng ta sẽ nhận ra điều đó.
Trước hết là Madalêna. Cô tới mộ từ sáng sớm. Khi thấy cửa mộ mở tung, cô nghĩ rằng người ta đã ăn trộm xác và đem ra khỏi mộ. Và như vậy, cô vẫn chưa tin Chúa đã sống lại. Cô chỉ tin khi đã được nghe tiếng Chúa Giêsu gọi cô và chính cô được thấy Ngài.
Kế đến là Phêrô và Gioan. Khi tới mộ, hai ông thấy khăn liệm và dây băng đã được xếp lại cẩn thận. Phêrô thì bán tín bán nghi, nhưng Gioan thì đã tin. Còn nhóm mười một đã tiến từ sợ hãi đến niềm tin, khi các ông được nhìn thấy Ngài. Cuối cùng là Tôma. Ông đã khởi đi từ tình trạng không tin, nếu mắt không thấy và tay không sờ. Thế nhưng, chính Chúa đã mời gọi ông đi vào niềm tin ấy.
Qua những nhân vật kể trên, chúng ta thấy tin không phải chỉ là chuyện chấp nhận một số những tín điều. Trái lại tin chính là gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh và nhận được ơn biến đổi của Ngài. Và ơn biến đổi đầu tiên chính là nhận ra Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá, nhưng đồng thời đã được sống lại. Đó là dấu chứng của tình yêu lớn lao nhất khiến các ông tràn ngập niềm vui.
Và hơn thế nữa, qua Đức Kitô Phục sinh, các ông nhận biết Ngài là Thiên Chúa. Bản tính Thiên Chúa ấy được dấu ẩn trong suốt những năm tháng đã qua, bây giờ mới được tỏ hiện với tất cả vẻ huy hoàng, để rồi từ đó, với niềm xác tín sâu xa, các ông đã lên đường rao giảng Tin Mừng Phục sinh cho muôn dân.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự là những chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc đời này hay chưa?
Thị kiến của thánh Gioan trong bài đọc 2 hôm nay trình bày tổng quát Kitô học với toàn thể cuốn sách: Tôi thấy một Đấng giống như Con Người. Qua Giáo Hội, Gioan đã nhìn nhận ra Đức Kitô, nhưng hình ảnh vẫn chưa rõ ràng. Ở đây Gioan dùng một hình ảnh của Cựu ước trích từ sách Đaniel chương 7 nói về Con Người. Kiểu nói “giống như” nói lên tính cách huyền nhiệm và mỹ diệu của Chúa Kitô giống hình ảnh của Con Người. Sau hình ảnh tổng quát về Con Người, Gioan mô tả thêm cách đặc biệt về Con Người và được đọc nơi bài đọc 2. Chúng ta có thể nói qua ở đây để thấy đầy đủ quyền hành của Đức Kitô mà Gioan thấy trong thị kiến. Ngài mặc áo choàng trắng, chỉ vương quyền tư tế vương giả của Chúa Kitô. Đứng trước thị kiến Con Người, Gioan cũng như các tiên tri khác và các tông đồ đều lo sợ, vừa trông thấy Ngài tôi đã ngã xuống như chết dưới chân Ngài.
Thế giới thần thiêng không thể tỏ hiện cho con người mà không gây nên nơi họ một tâm tình lo sợ không thôi, nhưng đồng thời tin cậy. Chỉ khi nào được khích lệ trấn an người ta mới yên lòng. Ngài đặt tay lên tôi và nói đừng sợ, có Chúa nâng đỡ khích lệ Gioan.
Sau cùng khi mạc khải cho Môisê, Thiên Chúa nói: “Ta là Đấng Có”. Câu nói này các thánh có những suy tư là: là đầu, là sau hết, là Alpha và Omêga, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng có đời đời. Các tước hiệu về Thiên Chúa đã được Giáo Hội sơ khai tin tưởng đặt nơi Chúa Kitô. Ta là Đấng đã chết, nhưng nay Ta vẫn sống đến muôn đời.
Sống là đặc quyền của Thiên Chúa. Người ta vẫn đặt điều này làm chủ chốt cho các vấn đề quan trọng. Ba đặc tính “là đầu, là sau hết, là sống”. Nơi Cựu ước hay áp dụng cho Chúa Kitô, nơi Giáo Hội sơ khai không chỉ suy tôn Chúa Kitô là Thiên Chúa nhưng còn nhận nơi Ngài là vị đã sống, chết và sống lại do quyền năng Thiên Chúa ban cho Ngài.
Trong các phần sau của sách Khải huyền, nguồn tư tưởng này được diễn tả qua hình ảnh chiên được sát tế và được tôn vinh ngự trên ngai vàng để thống trị mọi loài. Tư tưởng này dựa vào một sự kiện lịch sử trong bản văn Hy lạp, tác giả viết: Ta đã bỏ nên người chết thật rồi, nhưng này đây Ta vẫn sống và còn sống cho đến muôn đời. Uy quyền của Đức Kitô còn ảnh hưởng đến sự chết. Ta giữ chìa khóa sự chết và địa ngục.
Ngày nay sự chết không còn quyền gì với Ngài. Chúa Kitô đã sống lại và cứu vớt những kẻ chết và tin vào Ngài. Ngài không cần để cho thế giới của địa ngục hoành hành tác hại nữa. Qua sự việc sống lại của Chúa Kitô đã thắng vượt tất cả.
Cùng với Chúa Kitô Phục sinh chúng ta phải dám tin Ngài, thông phần chịu mọi đau khổ của cuộc đời trong sự chiến thắng Phục sinh của Chúa Kitô. Cuộc sống này chính là cuộc sống mà tác giả sách Khải huyền đã sống, đã trải qua. Dưới ánh sáng đức tin, chúng ta cần phải tin vững mạnh vào Chúa Kitô đã chết và đã sống vì chúng ta. Xin Chúa thêm đức tin, niềm cậy trông và sự chịu đựng mãnh liệt cho tất cả chúng ta, để chúng ta vững bước trên con đường tiến về quê hương Thiên Quốc.
Trong bài Phúc Âm hôm nay diễn tả buổi tối ngày thứ nhất phục sinh. Các môn đệ Chúa Giêsu đang ẩn núp trong căn nhà đã được khóa kỹ và suy nghĩ, “Bây giờ mình phải làm gì?” Nói về sự trung thành với Chúa Giêsu, họ đã nhát gan chạy trốn. Một câu ngạn ngữ mà người ta thường dùng là ‘họ không thể nào chịu nổi sức nóng, nên họ đã đi ra khỏi nhà bếp’. Người vụng về nhất lại là người cầm đầu trong các môn đệ, Simon Phêrô, không những đã chối không biết Thầy, mà chối đến ba lần. Cho dù là đến bây giờ Maria Magđalêna đã báo cho họ biết về sự phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng họ vẫn còn rất hèn nhát. Họ đang trốn chạy. Họ đang run sợ. Đùng một cái, một sự việc đã xảy ra: những người môn đệ vụng về, nhát đảm, này được chan chứa niềm vui bởi vì họ nhìn thấy Chúa Giêsu ở giữa họ.
“Bình an cho các con,” Chúa Giêsu phán. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài, và Ngài tiếp, “Bình an cho các con.”
Một đứa bé viết thư cho Chúa, “Thưa Chúa, người đàn ông và người đàn bà hàng xóm của con cứ chửi nhau lớn quá. Tại sao Ngài không để cho người tốt lấy nhau? Karen.”
Một đứa bé trai 6 tuổi ghi, “Thưa Chúa, người bố của con thật là dữ tợn. Xin làm cho bố con hiền lành, nhưng đừng làm hại bố con nhá! Johnny.”
Một đứa bé khác thưa với Chúa: “Khi con lớn lên, Con muốn trở nên giống như Chúa. Tommy.”
Chúa Giêsu, Hoàng Tử của hòa bình, đã sai các môn đệ Ngài đi rao giảng giống như Ngài! Chúa Giêsu, Hoàng Tử của Bình An, muốn chúng ta trở nên giống Ngài. Chúng ta là những người xây dựng hòa bình mà Ngài sai đi. Tuy nhiên, để chúng ta có thể trở nên những người xây dựng hòa bình, chúng ta cần phải có sự hòa bình trong chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con muốn trở nên giống như Chúa. Chúng con muốn là những người xây dựng hòa bình.
Tháng Mười Một, năm 1940, lúc đó là Đại Thế Chiến II, tại Anh quốc. Một nhà thờ chánh tòa Coventry đã bị phá hủy. Sau đó, trong đống đá vụn, người ta đã lượm được một số lớn đinh từ thời Trung Cổ. Các cây đinh đó đã được dùng để làm thành một cây thánh giá, và được mạ bằng bạc. Cây thánh giá được dựng lên và ở đằng sau có hàng chữ, “LẠY CHA, XIN THA.” Sau đó, nhiều cây Thánh Giá nhỏ làm bằng những cây đinh đã được gởi đi các nước đã lâm vào cảnh chiến tranh. Hàng ngàn tấm hình đã được in trên các loại postcards cây Thánh Giá làm bằng đinh với hàng chữ ” LẠY CHA, XIN THA.” Cây Thánh Giá tại nhà thờ chánh tòa Coventry đã trở nên một dấu chỉ của sự tha thứ, giải hòa, và bình an!
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại cho chúng ta thêm một lần nữa, “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: ‘Bình an cho anh em!'” (Ga 20:19). Trong một câu nói này, Thánh Gioan chú tâm vào hai khía cạnh của sự sống đã được phân tích do sự phục sinh của Chúa Kitô: Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh. Bắt đầu câu, diễn tả thứ Sáu Tuần Thánh và được kết câu bằng sự phục sinh. Các môn đệ đã sống trong tình trạng đau khổ và thất vọng, và khi Chúa Giêsu đến thì tất cả những bi quan đó đã được thay thế bằng niềm hy vọng và vui sướng. Lo âu và chán nản đã được thay thế bằng sự bình an. Qua sự cảm nghiệm Chúa Kitô phục sinh, các môn đệ đã tự trấn tĩnh chính bản thân mình. Họ trở nên giống Chúa Kitô! Họ trở nên những người xây dựng hòa bình!
“Lạy Chúa, chúng con muốn trở nên giống như Chúa!” Nếu chúng ta muốn trở nên những người làm phép lạ, người xây dựng hòa bình, thì chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Tôi xin phép đề nghị: mỗi buổi sáng, các bạn hãy cầu xin cho được một ánh mắt tình yêu để nhìn tất cả sự vật. Sau đó, bạn bắt đầu ngày sống của bạn, hãy nhìn tạo vật với cặp mắt tình yêu. Hãy nhìn những người đang sống chung quanh bạn với ánh mắt đầy sự kính trọng. Khi bạn đang làm những công việc hằng ngày, mỗi lần bị cám dỗ để suy nghĩ một chuyện đau khổ hoặc là một phiền muộn, bạn hãy nhớ đến lời nguyện trước tấm kiếng của bạn. Hãy nhớ mở lòng bạn ra với những vẻ kỳ diệu của tạo vật và những phép lạ của tình yêu Ngài. Hãy nhớ rằng bạn muốn là những sứ giả hòa bình. Hãy nhớ rằng bạn mong muốn lớn lên trên đường thiêng liêng để trở nên giống Chúa Giêsu.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Nhật II Phục Sinh, lễ kính “Lòng Thương Xót Chúa”, ĐTC Phanxicô tuyên thánh cho hai vị Giáo Hoàng, Gioan XXIII và Gioan Phaolô II.
Câu chuyện về một thanh niên tật nguyền được diễm phúc gặp gỡ Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thật cảm động.
Tony Melendez là một người Nicaragua, sinh năm 1962 và bị mất cả hai tay vì ảnh hưởng tai hại của một loại thuốc cảm cúm mà bà mẹ đã uống khi không biết là bà đang mang thai. Sau khi Tony được 1 tuổi, cả gia đình được ông ngoại bảo lãnh sang Los Angeles Hoa Kỳ, ở đây Tony học sử dụng mọi thứ bằng đôi chân, kể cả học đánh đàn ghita. Đến năm 16 tuổi, với cây đàn ghita, anh thường hát dạo ở một góc phố Laguna Beach để kiếm tiền cho gia đình. Anh cũng rất chán nản với tương lai đi ăn xin như vậy, và anh tự hỏi, “chẳng lẽ cuộc đời mình chỉ đi ăn xin như thế thôi hay sao?”.
Rồi một ngày kia anh nhận được lá thư mời đến trình diễn cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong ngày Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 9 năm 1987 ở Los Angeles. Trong cuộc họp mặt đó có trên 6.000 người trẻ từ khắp nơi đến tham dự. Anh đã nhận lời trình diễn và cũng kể từ đó cuộc đời anh thay đổi. Sau khi trình diễn một bài do anh sáng tác, cả hội trường đứng dậy hoan hô anh, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đứng dậy và đi đến tận bục trình diễn để hôn anh, và điều quan trọng là câu nói của Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói, “Tony, con là một người thực sự can đảm. Con đang đem lại hy vọng cho mọi người ở đây. Cha ao ước con sẽ tiếp tục đem hy vọng cho tất cả mọi người”.
Từ lúc đó trở đi, anh được mời đi lưu diễn ở nhiều nơi trong nước, và bất cứ ai trông thấy một thanh niên cụt hai tay nhưng vui vẻ dùng đôi chân đánh đàn và say sưa cất tiếng hát với những lời lẽ không than van, không cay đắng, không oán hờn thì tất cả mọi người đều ngập tràn hy vọng. Chính Tony, anh chia sẻ như thế này: “Có lúc tôi thực sự tin rằng tôi phải có đầy đủ chân tay, mắt mũi để yêu thương, để phục vụ, để lo lắng cho người khác. Tôi nghĩ là tôi cần những điều đó. Dĩ nhiên, có đôi tay thì giúp đỡ người khác dễ dàng hơn. Nhưng tình yêu thì không cần đôi tay. Để yêu thương ai đó, tất cả những gì bạn cần là con tim và để ý đến họ.”
Với thân thể tật nguyền, Tony Melendez đã đem lại hy vọng cho những người thấy anh trình diễn. Đó là chứng từ của một hành trình phục sinh.
Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ, Ngài đều trao ban bình an: “bình an cho các con” và “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài.
Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại. Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông. Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân. Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần. Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây…”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi… Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).
Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.
Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.
Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.
Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.
Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.
Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.
Có câu chuyện “Trái tim có nhiều vết sẹo” diễn tả tình yêu chia sẽ trao ban qua những thương tích cuộc đời.
Một buổi chiều trong công viên, có một chàng trai đang chăm chú vẽ một trái tim. Trên khung giấy trắng dần dần hiện ra một trái tim thật đẹp, thật hoàn hảo khiến mọi người đứng xem đều trầm trồ khen ngợi.
Bỗng một ông lão đi đến. Ông trầm tư ngắm nghía bức tranh của chàng trai một hồi lâu, rồi lặng lẽ mượn bút vẽ một hình thoạt nhìn rất lạ, nhìn thật kỹ mới nhận ra đó là hình một trái tim…
Chàng trai ngạc nhiên nhìn trái tim ông lão vừa vẽ, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh to nhỏ khác nhau. Mọi người bắt đầu bàn tán và lắc đầu tỏ ý không hiểu ý nghĩa hình vẽ trái tim của ông lão.
Chàng trai thắc mắc:
– Cụ ơi! Cháu không hiểu vì sao ông lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim lại mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?
Ông cụ mỉm cười rồi nói:
– Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thật sự. Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người mà tôi tình cờ gặp được… thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ trao cho tôi bao giờ cũng lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vàp nhau và tạo thành những vết chắp vá của trái tim tôi. Chính điều này luôn nhắc tôi nhớ về những người tôi yêu dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…
Ông lão nói tiếp:
– Còn những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu trao đi chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Chàng trai ạ, nhờ những mảnh chắp vá này mà trái tim của tôi có sức sống mãnh liệt, trưởng thành và cảm nhận cuộc sống trọn vẹn, sâu sắc hơn.
Đám đông im lặng, còn chàng trai không giấu được nỗi xúc động đang dâng trào trong lòng. Anh tự hào cầm bút cắt đi một mảnh trong trái tim hoàn hảo của mình và đắp vào một phần khuyết của trái tim ông lão. Đáp lại, ông lão cũng tặng anh một mảnh trái tim ông.
Giờ đây, trái tim của chàng trai đã có một vết sẹo. Tuy không còn hoàn hảo nữa, nhưng chàng trai cảm thấy trái tim mình đầy sức sống hơn bao giờ hết. Anh nhận ra sức mạnh và vẻ đẹp của trái tim không phải ở chỗ nó được giữ kỹ để không có một vết tích, tổn thương nào của cuộc đời mà trái lại, càng hòa nhập và biết chia sẻ, dám yêu, dám sống và sẵn sàng cho đi, trái tim của con người càng trở nên nhạy cảm, sâu sắc và đập mạnh mẽ hơn…
Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh. Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!
Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Sống chiều kích Phục Sinh trong ý nghĩa trao ban và tận hiến chính là sống ý nghĩa “trái tim có nhiều vết sẹo”.
Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân hay một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình, cũng có thể gọi đó là sự phục sinh! Trước khi thụ nạn, Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ về những thống khổ như là nỗi đau quặn của một phụ nữ khi sinh nở, để sau đó có được niềm vui khi một mầm sống mới được khai sinh (Ga 16, 20-22).
Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh. Rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vỡ, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự Phục sinh sao ? Khi ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, loại trừ sự oán ghét, đó là cuộc vượt qua phi thường…
Như mùa xuân sau đông tàn, Phục sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
Chi Tiết Hay
Đoạn Phúc Âm này tả lại phần thứ hai của việc Đức Kitô hiện ra với các tông đồ theo các Phúc Âm của Matthêu, Luca và Gioan. Tuy nhiên chỉ có Phúc Âm của Gioan mới kể chuyện xảy đến với Tôma. Thánh Gioan không nói rõ có bao nhiêu người hiện diện vì thế có thể có hơn 12 người ở đó, không kể Tôma và Giuđa.
(c.20) Các tông đồ vui mừng vì thấy Đức Kitô. Ngài đã giữ đúng lời hứa trước đó (16:22) khi nói rằng: “Nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng”
(c.22) Đức Kitô thổi hơi vào các ông như xưa kia Thiên Chúa đã thổi sự sống vào Adong: Chúa Giêsu đã tái tạo các ông bằng Thần Khí.
(c.27) Sau khi nói “đặt tay vào”, chúng ta tưởng Đức Kitô sẽ nói tiếp “và hãy cảm giác thấy”, nhưng, thay vào đó Ngài lại bảo “và nhìn xem”, có nghiã là “hãy thực sự nhận ra” hoặc là “hãy hiểu”
Các môn đệ mỗi ngày một hiểu biết Thầy mình rõ hơn và dần dần đặt cho Ngài các danh hiệu càng ngày càng chính xác hơn. Ở đây Tôma gọi Ngài bằng danh xưng cuối cùng và chính xác nhất: Chúa Giêsu là Chúa, là Thiên Chúa.
(c.28) Trong phần kết của cuốn Phúc Âm nguyên thủy, Gioan dùng lời của Tôma để lập lại lời mở đầu: “Ngôi Lời là Thiên Chúa” (1:1)
Một Điểm Chính
“Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Tôma tuyên xưng, không phải vì đã thấy, nhưng vì ông đã tin, và điều ông tin là tất cả sự thật.
Suy Niệm
Hãy tưởng tượng bạn đang ở trong phòng với các tông đồ khi Chúa Giêsu hiện ra. Hãy nhìn những phản ứng của họ, và nhìn Chúa Giêsu khi Ngài ban phép lành cho bạn. Bạn muốn thưa với Ngài điều gì?
Chúng ta giống và khác Tôma ở những điểm gì?
Điều gì, hoặc ai, đã giúp bạn tin Chúa Giêsu và được sự sống?
Bài Phúc Âm nêu lên khá nhiều điểm cần được để ý. Điểm thứ nhất, các môn đệ đang cầu nguyện trong nhà các cửa đều được đóng kín vì sợ người Do Thái và Chúa Giêsu hiện ra giữa các ông. Điểm này bao gồm hai điểm khác đó là tại sao các môn đồ sợ người Do Thái? Chúa Giêsu sau khi sống lại có thể đi xuyên qua vách tường hay cửa của căn nhà đóng kín. Điểm thứ hai nơi Phúc Âm đó là Ngài thổi hơi và phán bảo các môn đệ hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm buộc ai thì người ấy bị cầm buộc. Điểm thứ ba nói về điều kiện để thánh Tôma tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại, nhìn thấy vết đinh nơi tay Chúa Giêsu, thọc ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn của Ngài. Điểm thứ tư, lời Chúa Giêsu nói, phúc cho những ai đã không thấy mà tin.
Thường khi đọc một câu truyện hay xem một cuốn phim chúng ta chỉ để ý tới cốt truyện để rồi có nhận định về những vai trò trong đó thế nào. Chúng ta đưa ra nhận xét về cá tính của diễn viên hay nhân vật nơi cốt truyện để rồi đưa ra kết luận người này nên như thế này hoặc nên như thế kia. Nếu ai đọc truyện hay coi phim ảnh và kết quả chỉ có thế, quả thật quá uổng phí thời giờ, công sức, và tiền bạc để tìm niềm vui trong một hai tiếng đồng hồ nếu không muốn nói là giết thời giờ… vì không biết nên dùng thời giờ để làm gì. Dẫu chỉ một phút thì đó cũng chính là phần thời giờ nơi cuộc sống của mỗi người. Như thế, vấn đề đáng được nói đến lại là chúng ta được sinh ra để làm gì? Chẳng lẽ để chờ chết? Bởi vậy, thời giờ nơi cuộc sống hữu hình này có giá trị đặc biệt của nó. Lãng phí thời giờ tức là lãng phí cuộc đời của chính mình. Và nếu chúng ta không lãng phí thời giờ thì mục đích đọc sách, đọc truyện, xem phim ảnh để làm gì. Ai cũng có thể nhận thức được rằng cuộc đời mỗi người là cơ hội để chúng ta thăng tiến cuộc sống tâm linh, để học hỏi những kinh nghiệm bồi bổ cho nghiệm chứng tâm linh và nhận ra mục đích tối hậu của cuộc đời mình đã được ban cho…
Tuy nhiên, đã nhiều lần tôi nghe thấy người ta dùng thánh Tôma làm đề tài, chẳng những bào chữa cho thói ỷ lại, không chịu suy tư, nghiệm chứng mà cốt chỉ để an tâm lãng phí cuộc đời. Tôi thử hỏi, đã bao nhiêu lần chúng ta lặp đi lặp lại câu, “Con cháu ông thánh Tôma.” Nếu tôi không lầm, chúng ta thường dùng câu này với ý nghĩ, đến ngay cả thánh Tôma, môn đệ của Chúa mà còn không tin thì mình đâu cần biết gì… cứ vờ đi, bảo sao nghe vậy, các cha giảng sao thì giảng nào khác gì mười voi không được bát nước xáo, mình tin Chúa, đi nhà thờ, nhà thánh cho khỏi tội là đủ… Thực tâm tôi nghĩ, chúng ta đã được dạy dỗ như vậy… Không đi nhà thờ thì không bỏ tiền nhà thờ, không bỏ tiền nhà thờ thì ông cha chết đói nên luật giữ ngày chủ nhật phải được nhấn mạnh… Quả là dùng Chúa để cổ võ cho tổ chức thế tục quá ư thông minh, tuyệt vời.
Tôi đặt vấn đề, tại sao Phúc Âm lại viết truyện thánh Tôma có tính cách nghi ngờ rõ ràng như vậy. Phỏng bằng ấy người, thánh Tôma không tin được một ai sao. Điều rõ ràng Phúc Âm đã nói đó là các tông đồ chẳng hiểu biết gì về những điều Chúa Giêsu rao giảng. Thế nên, tôi đề nghị, hãy đặt mình vào vị thế thánh Tôma, chúng ta sẽ nhận được nhiều sự lạ rất bình thường nhưng chưa bao giờ để ý. Chúng ta nói rằng có đức tin, chúng ta tin vào Thiên Chúa, tin vào Chúa Giêsu, điều này có nghĩa là gì? Tại sao Chúa Giêsu nói, “Kẻ nào tin vào ta thì các việc Ta làm, kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Gioan 14:12). Chúng ta nói tin vào Chúa Giêsu, phỏng chúng ta làm được gì như Ngài và hơn Ngài… hoặc thoạt mới nghe ai nói tới có quyền như Chúa Giêsu đã vội kêu tên cực trọng “Giêsu Maria Giuse phạm thượng.” Chúng ta được dạy, chúng ta nghĩ, chúng ta lặp lại rằng tin vào Chúa, tin vào Chúa Giêsu như con vẹt, như chiếc máy thâu băng không biết mình nói gì, không cần biết Phúc Âm nói gì để rồi cho rằng bất cứ ai không nói giống chúng ta thì đều là sai. Nói cho đúng, những ai dám nói theo Phúc Âm, chúng ta đều cho là sai… Chúng ta không cần biết Phúc Âm nói gì, chúng ta chỉ muốn lặp lại những điều đã được dạy dỗ sai lầm, đối nghịch với Phúc Âm. Thí dụ, chúng ta hay nói câu, Chúa phạt hoặc Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ. Lời nói này, ý nghĩ này quả là chống nghịch lại Phúc Âm mà không ai thèm để ý. Nơi Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên chúng ta, “Hãy biết thương xót như Cha các con trên trời là Đấng hay thương xót… Ngài cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5;45); thế mà chúng ta nói Chúa phạt! Bao nhiêu đấng khôn ngoan cũng đã giảng Chúa phạt! Quả thực là quái lạ!
Tôi muốn nói, chúng ta nên học gương thánh Tôma; chúng ta cần thực chứng những gì được gọi là tin. Đưa trái ớt cho người không ăn được ớt hay đưa cho đứa nhỏ và bảo ăn ớt với bún bò huế ngon lắm thì coi chừng bị ăn đòn chứ đừng nói là ăn ngon. Thực tế, chúng ta không cho rằng ớt ngon nếu chưa bao giờ ăn ớt, và chỉ những người đã ăn ớt và thích ăn ớt mới thực sự nghiệm chứng được ớt ngon ngọt như thế nào. Ngược lại, chúng ta nói rằng tin vào Chúa, tin vào Chúa Giêsu mà lời Ngài nói nơi Phúc Âm chẳng thể nào áp dụng nơi cuộc đời chúng ta thì nghĩa là lý gì? Phúc Âm viết, “Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện, các ngươi sẽ được” (Mt. 21:22). Thử tự hỏi, đã bao giờ chúng ta lấy lòng tin để cầu nguyện và chúng ta đã được chưa? Vậy tin là thế nào? Nếu chúng ta cầu nguyện mà không được, chúng ta nên chân thành ít nhất là với chính mình mà nhận thực rằng chúng ta đã cầu mà không được, chúng ta đã chẳng biết tin là thế nào. Nơi Phúc Âm thánh Marcô có chép lời tuyên bố của Chúa Giêsu, “Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:24). Vậy câu này có nghĩa gì và làm thế nào để chúng ta có thể thực hiện được. Thế nên, tôi thực lòng đề nghị với quý ông bà anh chị em, hãy thực chứng, hãy nghiệm chứng những lời Chúa Giêsu dạy trong Phúc Âm, chẳng nên nghe theo bất cứ ai, chẳng nên vội cho những lời tôi nói là đúng hay sai mà cần suy nghĩ, suy tư cho tới cùng, suy nghĩ cho tới khi nào áp dụng lời Phúc Âm trong cuộc đời của mình mới được gọi là tin vào Chúa, tin vào Chúa Giêsu.
Khi chúng ta đã thực chứng được những lời dạy của Chúa Giêsu nơi Phúc Âm, chúng ta sẽ cảm nhận được tại sao các môn đồ sợ người Do Thái. Chúng ta sẽ biết rõ ràng Chúa Giêsu hiện ra giữa nhà đóng cửa kín mít thế nào. Chúng ta sẽ thực chứng được ai có quyền cầm buộc, và ai có quyền tha… Và chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tại sao Phúc Âm nói phúc cho những ai đã không trông thấy mà tin.
Tóm lại, chúng ta nên học gương thánh Tôma mà thực chứng những lời Phúc Âm. Lời Chúa chẳng khác gì nước uống; ai uống sẽ hết khát; ai không uống dù có hiểu nước uống hết khát thì vẫn còn khát. Xin quý vị nhớ cho một điều; đó là khi khát, chúng ta cần uống nước. Nghe giảng giải về lợi ích của nước chẳng được ơn ích gì nếu chúng ta không uống. Lời Phúc Âm cũng thế, không ai có thể giải thích mà chính mỗi người cần tự thực chứng để áp dụng trong đời sống của mình.
Phúc cho những kẻ không thấy mà tin
Sau khi Đức Chúa Giêsu Phục sinh, trước hết Người đã hiện ra bên mồ trống với thánh nữ Maria Mađalêna, và Người truyền cho bà đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ, nên bà được truyền thống gán cho danh hiệu là “tông đồ của các tông đồ”. Sau đó, Chúa đồng loạt hiện ra với 2 môn đệ trên đường Emmaus và với 10 tông đồ nhưng vắng mặt Tôma. Các ngài đã tường thuật lại cho thánh Tôma, nhưng ngài vốn là con người có óc thực tế, không muốn tin những gì mà giác quan chưa kiểm chứng. Tám ngày sau, Đức Chúa Giêsu lại hiện ra với các tông đồ, lần này có cả thánh Tôma. Chúa bảo ông hãy dùng giác quan để kiểm chứng kẻo hoài nghi. Thế nhưng, khi đối diện với Chúa, Tôma như hồn xua phách lạc chỉ biết hốt hoảng thốt lên một câu tuyên xưng đức tin đầy ý nghĩa: “Lạy Chúa con và Lạy Thiên Chúa của con” Đức Chúa Giêsu liền phán với Tôma: “Vì con thấy Thầy nên con mới tin, phúc cho những kẻ không thấy mà tin hết lòng!”
Lời chúc phúc nầy, Đức Chúa Giêsu nhắm đến hàng hàng lớp lớp các thế hệ tín hữu hậu lai trong đó có chúng ta là những kẻ không thấy Chúa nhưng tin nhận Người qua lời rao giảng của Hội thánh. Đức tin là nền tảng của đời sống công giáo, là một hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban cho và là một trong 3 nhân đức đối thần: Tin, Cậy, Mến; Thánh Phaolô nói: “Mai sau trên thiên đàng chỉ tồn tại đức Mến, vì khi đã thấy Chúa và đạt được mục đích thì đức tin và đức cậy không còn nữa!”.
Chúng ta hãy nuôi dưỡng đức tin bằng đời sống cầu nguyện liên lỉ, siêng năng lãnh nhận các bí tích và chớ dùng lý trí để lý luận nhưng hãy dùng con tim để chấp nhận.
Đức tin rất quan trọng, vì khi làm phép lạ chữa bệnh cho ai Đức Chúa Giêsu đều nói: “Đức tin của con đã chữa con”, và Người cũng từng phán: “Nếu đức tin chúng con bằng hạt cải thôi thì chúng con có thể chuyển núi dời non… và chúng con còn có thể làm những việc vĩ đại hơn thầy nữa”
Những kẻ ly giáo, lạc giáo đều là những kẻ đã đánh mất đức tin quý báu. Những việc thờ phượng, đạo đức chúng ta làm nếu không có đức tin chỉ là trò hề hoặc mê tín dị đoan mà thôi.
Trong phúc âm Đức Chúa Giêsu có phán một câu đáng chúng ta run sợ và tự kiểm điểm mình luôn: “Không biết ngày Con Người trở lại trần gian có còn tìm thấy đức tin nữa không?”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn đức tin cho những người lương giáo và xin tăng thêm đức tin cho những tín hữu chúng con, chớ gì tất cả chúng con được liệt vào số những kẻ đáng hưởng lời chúc phúc của Chúa ngày xưa: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Amen.
Cùng với các môn đệ, chúng ta đang sống trong những ngày sau cái chết của Chúa Kytô và, cùng với các ngài, chúng ta đang sống và sinh hoạt vào thời điểm sau biến cố Phục Sinh đó là vào chiều ngày thứ nhất trong tuần vốn được xem là ngày đoàn tụ của các Kytô hữu tiên khởi. Đồng thời đó cũng là ngày đặc biệt, ngày mà Đấng Phục sinh chọn để hiện diện giữa một cộng đoàn còn non trẻ để chia sẻ với họ niềm vui Phục Sinh, đồng hành với họ trong việc cử hành Lời Chúa và nghi lễ Bẻ bánh và sau cùng là sai họ ra đi rao giảng Tin mừng cho nhân loại.
TỪ BÌNH AN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH….
Từ sau biến cố xảy đến cho Thầy, các môn đệ chưa hết bàng hoàng đớn đau, các ông lại phải đối diện với sự bách hại khác từ phía những người Dothái. Các ông sợ người Dothái hay đúng hơn sợ các ông thủ lãnh Dothái. Các môn đệ sợ là phải. Lý do là vì ngay đến Thầy mà họ còn không buông tha, còn đối xử tàn ác đến như vậy huống gì trò. Chính vì thế, cách tốt nhất để bảo vệ mình là “bế quan toả cảng, nội bất xuất, ngoại bất nhập” để tránh sự săn lùng và dòm ngó của người Dothái. Đang sống trong tâm trạng bất an và não nề như thế, Đấng Phục Sinh xuất hiện và điều Ngài mang đến cho các ông thời điểm này chính là hoa trái của sự Bình an (Shalom). Bình an cho anh em. Đây không chỉ là lời chào hỏi xã giao thông thường mà đó còn là một sự xác quyết mạnh mẽ về sự hiện diện đích thực của Đấng Phục Sinh. Bình an đích thực chỉ đến từ Đấng Phục sinh và chính Ngài và từ nơi Ngài mới có thể đem bình an đến cho những ai đang sống trong tâm trạng bất an nặng nề.
Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh không chỉ thuần tuý mang ánh sáng và bình an để phá tan bóng tối mây mù đang rình rập các môn đệ, xua tan nỗi thống khổ ưu phiền của các ông mà còn là việc trao ban Thần Khí và sai các ông tiếp tục sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Như thế, chúng ta thấy rõ rằng, sứ mạng đi vào thế giới của các môn đệ xuất phát từ sau biến cố Phục Sinh. Đặc biệt hơn, đối với thánh sử Gioan thì đây lại là một sứ mạng nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu vốn phát xuất từ Chúa Cha. Để được như thế, chính Đấng Phục Sinh trao ban hay đúng hơn là thổi Thần Khí vào các môn đệ như gợi nhớ ngày Giavê Thiên Chúa thổi sinh khí để làm nên con người trong buổi đầu công trình tạo dựng (x. St 2,7) hay làm cho con người hồi sinh (x. Ed 37,5.9). Các môn đệ nhận lãnh Thần Khí của Đấng Phục Sinh, tiếp tục sứ mạng của Thầy nhằm rao giảng cho muôn dân Tin mừng Phục sinh, xoá bỏ tội lỗi và ban ơn tha thứ.
ĐẾN LỜI TUYÊN XƯNG CỦA TÔMA
Thật thú vị là lần hiện ra của Chúa Phục Sinh cách đây tám ngày không có sự hiện diện của Tôma Điđymô. Tôma đi đâu? Tin mừng không đề cập, nhưng cứ theo sự thường, chúng ta có thể thấy Tôma có lẽ cũng đang ở trong tâm trạng hoảng loạn, mất phương hướng, thậm chí chán nản sau cái chết của Thầy. Tệ hơn, có thể Tôma không đủ can đảm để gánh vác trách nhiệm, để chia sẻ với anh em đồng môn trong tình cảnh “xẻ đàn tan nghé”, mà hơn lúc nào hết rất cần đến sự “chung lưng đấu cật” để vượt qua khó khăn. Việc Tôma không ở cùng các môn đệ phải chăng là sự thoái thác một phần hay hoàn toàn trách nhiệm? Và phải chăng đó còn là sự thể hiện tính nhút nhác, sợ liên lụy với các đồng môn của mình mà ông biết rằng các thủ lãnh Dothái sẽ không tha như đã xử với Thầy? Tôma ra đi, xa rời nơi nguy hiểm, xa rời nơi ẩn náu của anh em để tìm cho mình một sự bình an, một sự an toàn chắc chắn cho riêng mình. Ông có biết đâu đó cũng chính là lần mà ông đã mất đi diễm phúc được nhìn thấy Chúa Phục Sinh, mất đi lời chúc Bình an của Người, mất tất cả.
Khi được các môn đệ thuật lại việc các ông thấy Chúa, Tôma lại cho rằng đó là việc không tưởng, rỗi hơi, khéo tưởng tượng, óc mụ mẫm của đàn bà con gái, chứ làm gì có chuyện đó. Tôma dõng dạc tuyên bố trước mặt anh em: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Trước lời tuyên bố hùng hồn của Tôma, các môn đệ khác đành tiu nghỉu im lặng. Mà không tiu nghỉu im lặng sao được khi lý luận mà Tôma đưa ra không chê vào đâu được. Đối với các ông, việc thấy Chúa sống lại là một niềm vui qúa sức mong đợi, như quên đi tất cả, còn tâm trí đâu để ý đến chân với tay, lỗ đinh với cạnh sườn để giờ đây đành phải “bí” trước đòi hỏi của Tôma. Tôma quả đúng là ông tổ của khoa học thực nghiệm: không bao giờ đi đến kết luận nếu trước đó chưa có kiểm nghiệm cách chắc chắn.
Một lần nữa Chúa Phục sinh hiện đến với các môn đệ và chính Người mới có thể hoá giải thế bí cho các môn đệ đồng thời để giải đáp những yêu sách của “ông tổ khoa học thực nghiệm” là Tôma đưa ra. “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Được đứng trước Thầy và được nghe những lời chúc bình an thốt ra từ môi miệng Thầy, Tôma làm gì còn tâm trí mà thử với chả nghiệm. Phản ứng tức thời của ông là lời tuyên xưng vốn được xem là lời tuyên xưng duy nhất trong Tin mừng để chuộc lấy lỗi lầm vì đã không tin việc Người sống lại. “Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!”. Lời tuyên xưng của Tôma cũng chính là lời tuyên xưng được vang lên trong các kinh Tin kính của các cộng đoàn Kytô tiên khởi, được nối tiếp qua các thời đại và sẽ còn vang vọng đến muôn đời.
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Từ sau lần ấy, đức tin của Tôma cũng như của các thế hệ mai sau sẽ không còn dựa trên những thực nghiệm, những kinh nghiệm cụ thể về Đấng Phục Sinh hiện ra nữa mà chính là dựa trên lời chứng do các Tông đồ rao giảng – những người đã chứng nghiệm rõ ràng, được thấy, được tận hưởng niềm vui ngọt ngào của Đấng Phục sinh.
Là những người thừa kế di sản của Tin mừng và tiếp nối niềm tin vào Đấng Phục sinh từ các tông đồ rao giảng, chúng ta thật diễm phúc. Nếu chỉ dừng lại ở việc mắt thấy, việc chiêm ngưỡng hình ảnh Đấng Phục sinh, các Tông đồ là người hạnh phúc hơn chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức tin là một ân ban nhưng không mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, nên việc chúng ta xác tín niềm tin vào Đấng Phục sinh cũng xứng đng xếp chúng ta vào hàng ngũ các tông đồ của Chúa. Chính vì thế, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân lớn lao này, đồng thời cũng xin Chúa trợ giúp chúng ta để mỗi một ngày trôi qua, chúng ta không ngừng tiếp bước sứ vụ mà các Tông đồ đã truyền lại để ra đi rao giảng tin vui Phục sinh cho muôn người.
Kính Lòng Thương Xót Chúa
Có ai dám cả gan bơi ngược lại dòng nước chảy mạnh xuống dốc, cuốn theo những vật trên mặt nước, hay chỉ có những người liều lĩnh mới làm như vậy? Những trào lưu tư tưởng phóng khoáng, những lối sống buông thả, sa đoạ trong xã hội hiện đại với nhiều phương tiện truyền thông cận đại và nhanh chóng, giống như những dòng nước chảy mạnh. Bên cạnh dòng nước chảy mạnh, còn có những dòng nước nhỏ, chảy chậm hai bên bờ. Để khỏi bị lôi cuốn vào dòng nước chảy mạnh, người ta phải dùng một trong hai giải pháp. Một là dùng thuyền nhỏ, đi mon men sát bờ, đôi khi cần bám vào những gốc rể cây. Hai là đóng bè lớn cho vững chắc, rồi chung sức lèo lái: người thì dùng chèo hoặc gậy để chống cho thuyền khỏi trôi xuôi dòng nước, người khác dùng sào dài để đẩy cho thuyền đi ngược dòng từng nấc và cứ thế từng nấc một. Sống trong xã hội hiện nay, người ta chỉ cần nhấn con chuột là tin tức và hình ảnh có thể hiện ra trên màn ảnh máy điện toán ngay tại phòng ngủ, người ta ít có cơ hội chọn giải pháp đi mon men hai bên bờ. Vì thế người ta cần đóng bè để giúp nhau giữ vững đức tin.
Người ta cũng đóng bè với nhau vì hai lý do. Một là cùng chung một đối tượng, một mục đích như cùng xuống đường để đòi hỏi một quyền lợi hay phản đối điều gì. Hai là cùng chia sẻ một cảm tình như lo sợ, vui mừng… chẳng hạn dự đám cưới để chung vui, dự đám tang để chia buồn.. Sau biến cố tử nạn của Thầy mình, các tông đồ tìm đến với nhau để đóng bè. Vì sợ người Do Thái tầm nã như Phúc âm hôm nay kể lại mà các tông đồ tụ họp trong phòng lầu tại Giêrusalem, đóng cửa và gài chốt bên trong. Trong cảnh tang thương bi đát trước cuộc tử nạn của Thầy mình, các ông tụ họp nhau lại cầu nguyện để an ủi, nâng đỡ nhau. Bỗng nhiên Chúa Giêsu hiện ra trước mắt các ông để củng cố đức tin gần như bị tàn lụi của các ông.
Riêng có ông Tôma lại tách rời ra khỏi các bạn đồng chí hướng. Do đó đức tin của ông đã bị dập tắt: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào vết đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi nhất định không tin (Ga 20:25). May phúc cho ông là chính Chúa Giêsu lại đích thân hiện ra để phục hồi đức tin của ông. Lúc này ông kêu lên: Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con (Ga 20:28).
Cộng đồng Kitô giáo hay chặt chẽ hơn là cộng đồng Công giáo được gọi là cộng đồng đức tin, gồm những người cùng chia sẻ một niềm tin và cùng theo đuổi một mục đích. Nếu muốn giữ vững đức tin, người ta cần ở lai trong cộng đồng, thờ phượng và sinh hoạt với cộng đồng đức tin. Khi người ta liên kết và thờ phượng với cộng đồng đức tin, đức tin của họ sẽ được củng cố. Nếu đức tin của người ta vững mạnh, họ có thể giúp làm tăng triển đức tin của người yếu đức tin. Các tín hữu thời Giáo hội sơ khai, theo sách Công vụ Tông đồ, nhờ có đức tin tập thể của người nọ nâng đỡ người kia, mà họ có thể để mọi sự làm của chung (Cv 2:44). Còn thánh Gioan thì cho rằng nhờ đức tin mà người tín hữu thắng được thế gian (1Ga 5:4).
Đức tin của người công giáo dựa trên hai chiều: chiều dọc và chiều ngang. Theo chiều dọc thì Thiên Chúa từ trên, mời gọi ta đến đời sống đức tin và ta đáp trả. Còn đức tin dựa theo chiều ngang có nghĩa là ta cần dựa vào cha mẹ, họ hàng, bạn hữu và những người cùng chung một niềm tin, để giúp nhau duy trì và phát triển đức tin. Ta cần tìm đến những người có đức tin mạnh, những người có tâm hồn đạo hạnh, để hun đúc lại đức tin của mình. Ngoài ra đức tin cần phải được thực hành. Nếu không thì như Thánh Giacôbê quả quyết: Đức tin không có việc làm, là đức tin chết (Gc 2:26). Vì thế những người chủ trương giữ đạo tại tâm là tự lừa dối mình. Tách biệt ra khỏi cộng đồng đức tin, đức tin của người tín hữu có thể bị lung lạc, khi bị gièm pha và tấn công bởi những người chống đối đạo mà họ tin theo.
Để áp dụng thực hành, người ta cần biểu lộ đưc tin bằng việc làm như cầu nguyện, dự lễ, hi sinh, bác ái. Nếu là thiên thần, người ta không cần biểu hiệu. Là loài người có xác, người ta cần biểu lộ đức tin bằng những cử chỉ đạo hạnh như qùi gối, chắp tay, cúi đầu… để khơi dạy tâm tình đạo đức bên trong. Người ta cũng cần những biểu hiệu như tượng ảnh đạo treo trong nhà, hay trong phòng để nhắc nhở cho mình về sự hiện diện của Chúa, Mẹ Maria và các thánh.
Nhà thờ giáo xứ là biểu hiệu đức tin và là trung tâm điểm của đời sống đức tin. Sau khi sinh ra, ta được mang đến nhà thờ để chịu Phép Rửa tội. Ta Rước lễ lần đầu ở trong nhà thờ. Ta chịu Phép Thêm sức cũng ở trong nhà thờ xứ đạo. Và ta lãnh nhận Bí tích Hôn phối cũng ở trong nhà thờ. Khi nằm xuống vĩnh viễn, thân xác ta còn được mang đến nhà thờ để được cử hành lễ an táng. Đến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ là cách biểu lộ đức tin một cách cụ thể nhất. Như vậy đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng việc bàu cử của Mẹ Maria và các thánh, bằng lời cầu nguyện và gương sáng của người tín hữu khác. Không tìm đến sức hỗ trợ thiêng liêng, là tự cô lập hoá đức tin của mình.
Hôm nay cũng là Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa. Năm 1931, Chúa Giêsu hiện ra và yêu cầu nữ tu Faustina Kowalska cổ võ lòng thương xót Chúa. Chúa bảo thánh nữ cho vẽ bức ảnh mô tả lòng thương xót Chúa như thánh nữ đã thấy trong thị kiến với lời ghi chú: Lậy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa. Thứ Sáu Tuần thánh 1937, Chúa yêu cầu thánh nữ cổ võ làm Tuần Cửu nhật bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần thánh bằng cách dùng tràng hạt đọc chuỗi thương xót: Vì cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới như khi lần hạt mà đọc kinh Kính mừng, để mừng Lễ Kính Lòng Thương Xót của Chúa.
PHÚC THAY NHỮNG KẺ THÂN THIẾT TRỞ NÊN THÂN THIẾT HƠN
Bài Phúc Âm hôm nay đáng nên suy niệm rất lâu. Chúng ta đơn giản ghi lấy một số yếu tố để hiểu rõ nội dung hơn.
1) Ngày hôm đó, ngày đầu trong tuần, là ngày Chúa sống lại, là Chúa nhật của chúng ta ngày nay. Các môn đệ hội họp, có lẽ là do Phêrô (người đã nhìn thấy ngôi mộ trống) triệu tập. Các cửa đóng chặn kỹ, biết đâu được phản ứng của nhà chức trách Do thái ra sao. Chúa đột nhiên ở giữa các ông, cho các ông tức khắc trông thấy Người đang sống trong trạng thái phục sinh, Người không trở lại trạng thái trước đây nữa. Câu nói đầu tiên của Chúa là: “Bình an cho anh em!”. Đó là câu chào người ta thường dùng, nhưng ta có thể nghĩ rằng nghe thấy câu đó các môn đệ bớt được phần nào băn khoăn, vì cung cách cư xử của họ đối với Thầy hai hôm trước khiến họ không an tâm. Đàng khác, câu chúc bình an của Chúa luôn luôn là một ân huệ. Chúa ban cho các ông bình an của Người, bao gồm tha thứ, nhân từ và yêu mến, mà thành quả là niềm vui. Chúa nói thêm: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em … Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…”
2) “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Chúa Giêsu sai các môn đệ. Chúng ta lưu ý về hai tính chất của sự sai phái này. Chúa sai các ông thi hành một sứ mạng giống sứ mạng của Người, cho các ông một quyền như Người. Đích phải đạt là cứu độ thế giới bằng cách loan báo Đấng là sự thật và có quyền tha tội. Quyền là do Thiên Chúa, do Cha. Cũng như Chúa Giêsu được Cha uỷ nhiệm làm Đấng cứu chuộc nhân loại, các môn đệ được Chúa Giêsu đặt làm sứ giả, làm tông đồ của ơn cứu độ. Cũng như quyền hành sứ mạng của Chúa Giêsu là do Cha, quyền hành sứ mạng của các môn đệ là do Chúa Giêsu. Đối với Phúc âm, tự ý trao cho bất cứ ai đã chịu phép thánh tẩy sứ mạng rao giảng Phúc âm cứu độ – là một sự lầm lẫn rất nặng nề. Các môn đệ là những người được Chúa Giêsu tuyển chọn, kêu gọi và trao quyền. Sự rao giảng chân truyền bắt buộc phải theo đúng ý muốn của Chúa. Điều này không giảm nhẹ nghĩa vụ mỗi tín hữu phải làm việc tông đồ theo phương pháp rất hiệu quả, rất hào hiệp, đồng thời rất được linh ứng và rất thực tiễn. Nhưng không phải bất cứ tín hữu nào cũng có sứ mạng đặc biệt được quyền rao giảng.
3) “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…”. Truyền thống Kitô giáo luôn luôn thừa nhận trong câu này sự thiết lập bí tích Giải tội. Kitô hữu là kẻ từ khoảnh khắc gặp Chúa Giêsu Kitô, phát hiện bản thân mình tội lỗi, nghĩa là thấy mình khốn khổ và có tội. Người tín hữu biết rằng niềm tin của mình trong Chúa Giêsu Kitô làm cho mình hiệp thông với một vận dụng cứu độ, tha tội và tái sinh. Khi Chúa thiết lập một bí tích, nghĩa là khi lập ra một dấu chỉ rõ ràng về ơn tha thứ và tái sinh, Chúa muốn cho kẻ có tội dễ dàng gặp ơn cứu độ. Ở đây cũng vậy, không phải bất cứ ai cũng có trách nhiệm ban phép bí tích. Nói với các môn đệ (và những vị thừa kế các ông sau này), Chúa phán: “Anh em tha tội (dẫu cho người ta giải thích lời Chúa Giêsu theo một nghĩa rộng hơn, cũng không phải tất cả mọi người trong Giáo Hội đều có quyền giải tội). Các ông sẽ làm việc ấy với quyền hành sứ mạng. Tuy Giáo Hội quy định rõ thể thức về bí tích Giải tội, nhưng phải xác nhận bí tích này xuất phát từ chính lời Chúa Giêsu. Phúc thay những bạn hữu của Chúa Giêsu trở nên thân thiết với Chúa hơn vì đã được tha thứ và tái sinh.
Trong cuốn “A Forgiving God In An Unforgiving World”, “Một Thiên Chúa Tha Thứ Trong Một Thế Giới Không Tha Thứ”, của Ron Lee Davis, kể lại câu chuyện về một linh mục người Phi Luật Tân như sau:
Vị linh mục là một người rất yêu mến Thiên Chúa, nhưng ông luôn luôn bị ám ảnh bởi một tội bí ẩn đã phạm nhiều năm trước đây. Ngài đã ăn năn sám hối, nhưng vẫn không cảm thấy bình an vì chưa cảm nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Trong giáo xứ của ngài có một người phụ nữ có lòng yêu mến Thiên Chúa rất sâu xa và tuyên bố là được ơn biết những điều Chúa Giêsu muốn nói với bà. Riêng vị linh mục lại không tin điều này. Để thử thách bà, ngài nói: “Lần sau bà nói chuyện với Chúa Giêsu, tôi muốn hỏi Ngài xem tội của tôi đã phạm trong thời gian còn học ở chủng viện là tội gì”. Người phụ nữ đã đồng ý.
Vài ngày sau đó, vị linh mục hỏi bà, “Này bà, bà đã gặp Chúa Giêsu trong giấc mơ chưa?” Bà trả lời, “Rồi”, “Vậy bà có hỏi Ngài tôi đã phạm tội gì trong chủng viện không?” ngài hỏi. “Có chứ”. “Vậy thì Ngài nói gì?” Người phụ nữ mỉm cười và nói, “Một điều rất thú vị mà tôi chưa bao giờ nghe Ngài nói khi tôi hỏi Ngài rằng cha đã phạm tội gì, Ngài chăm chú nhìn tôi và nói, “Ta chẳng còn nhớ nữa!”
Thật vậy, khi hiện ra Chúa Giêsu đã không hề nhắc tới các việc ba lần Phêrô chối Ngài, sự đào ngũ của các tông đồ ở vườn Giệtsimani, sự nghi ngờ của Tôma. Ngài đã tha thứ tất cả! Đây là điều an ủi lớn cho chúng ta.
Tuy nhiên, Ngài đã đòi hỏi chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”.
Ngày 13.5.1881, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bị bắn bởi Mehmet Ali Agca. Trong khi còn đang nằm trong phòng cấp cứu, ngài nói, “Tôi cầu nguyện cho người anh em đã bắn tôi, và tôi thành thật tha thứ cho anh ta”. Vào ngày 27.12.1983, ngài đã đến nhà tù thăm anh, nói chuyện và ôm anh.
Bà Barbara Reynolds trước đây là một ký giả của tờ nhật báo USA Today. Khi còn bé đã bị lạm dụng tình dục bởi một người trong họ hàng. Đến tuổi trưởng thành, bà gặp lại người đàn ông đó và đối chất với ông về sự kiện loạn luân. Bà đã chia sẻ như sau: “Khi tôi đối chất với người họ hàng, kẻ đã lạm dụng tình dục lúc tôi còn nhỏ. Một cách kỳ lạ, ông ta đã không nhận ra sự đau khổ của tôi. Ông đã không năn nỉ xin tha thứ. Ông chỉ nhìn chằm chặp vào tôi với những ánh mắt trống rỗng và chán chường, rồi nói, “Tôi như thế đó!” Do vậy tôi có thể làm gì được? Bắn ông ta hả? Thưa kiện? Tránh mặt? Đến lúc đó ông ta vẫn không hiểu. Có lẽ ông sẽ không bao giờ hiểu. Bởi vậy, tôi chỉ có thể làm được hai điều. Trước hết, tôi bỏ đi, và không bao giờ nói chuyện với ông ta nữa. Thứ đến, tôi đã tha thứ cho ông “.
Bà Reynolds kể rằng sau nhiều năm đi đến các nhà phân tích tâm lý học, sự tha thứ vẫn là phương thuốc trị liệu tốt nhất. Chúng ta tha thứ cho người khác không phải chỉ vì ích lợi linh hồn của người đã làm điều sai trái cho chúng ta, nhưng còn vì ích lợi tinh thần của chính chúng ta. Tuy vậy, sự tha thứ không phải dễ!
Cô Corrie Ten Boom đã diễn tả sự tha thứ giống như buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Bạn có bao giờ nhìn thấy một ngôi thánh đường với tháp chuông cao vút chưa? Để nghe được tiếng chuông kêu, bạn phải kéo thật mạnh một lúc. Ngay khi tiếng chuông đã bắt đầu vang lên, chỉ cần giật nhẹ tay theo đà chuyển động. Bao lâu bạn tiếp tục kéo, chuông cứ vang. Cô Corrie đã so sánh rằng sự tha thứ chính là buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Đơn giản là như vậy!
Khi bạn làm như thế, tiếng chuông vẫn cứ tiếp tục vang, vì sự chuyển động vẫn còn làm việc. Tuy nhiên, nếu bạn buông tay ra khỏi sợi dây, tiếng chuông sẽ bắt đầu chậm lại, rồi dần dần ngưng hẳn. Giống như vậy, khi bạn quyết định tha thứ, những cảm giác không tha thứ xưa kia có lẽ vẫn còn tiếp tục, vì chúng vẫn còn nhiều chuyển động. Nhưng nếu bạn quyết định tha thứ, cái tinh thần không tha thứ kia sẽ bắt đầu chậm lại và dần dần im bặt. Sự tha thứ không phải là một cảm giác, nhưng là một hành động. Đó là buông tay ra khỏi sợi dây oán thù.
Hãy tha thứ cho chính mình. Biết nhìn nhận con người tội lỗi của mình và tha thứ cho chính mình là điểm khởi đầu cho sự hoán cải. Vì không thể tha thứ được cho chính mình, nên Giuđa mới tuyệt vọng treo cổ tự vẫn!
Sách Giáo lý Công giáo số 827 đã dùng lời của Công đồng Vatican II để khẳng định rằng: “Giáo Hội gồm những tội nhân trong lòng mình. Cho nên Giáo Hội vừa thánh thiện vừa được kêu gọi hãy tự thanh tẩy, và phải luôn nỗ lực sám hối và đổi mới. Tất cả thành viên của Giáo Hội, cả các thừa tác viên, đều phải nhận mình là tội nhân”. (Lumen Gentium, đoạn 8).
Sau 94 lần xưng tội của Giáo Hội, ngày 12.3.2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng xưng tội tổng quát cho mọi lỗi lầm của Giáo Hội từ 2000 năm qua. Ngài đã liệt kê ra 6 loại tội: tội thiếu khoan dung gây ra các cuộc thánh chiến, tòa án dị giáo, tội chia rẽ, ra vạ tuyệt thông và những cuộc chiến tranh tôn giáo, tội kỳ thị dân Do Thái, im lặng trước sự bắt bớ của Đức Quốc xã, tội không tôn trọng quyền các dân tộc, các văn hóa, các tôn giáo khác, tội không tôn trọng phẩm giá người phụ nữ và tính đơn nhất của nhân loại, tội chống lại những quyền căn bản của con người.
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Phục sinh, là lễ tôn kính Lòng Thương Xót Chúa – the Feast of Divine Mercy. Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập vào năm 2000, năm Nữ tu Maria Faustina được phong thánh. Năm 1930, Chúa Giêsu đã chọn Nữ tu Maria Faustina, người Ba Lan để làm cho thế giới chấp nhận Lòng Thương Xót vô bờ của Ngài. Nữ tu đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa Giêsu và diễn tả ra để vẽ lên bức hình của Ngài với hàng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, Con phó thác nơi Ngài”. Trong y phục màu trắng, tay phải Chúa Giêsu đưa lên ban phép lành, và tay trái đặt vào ngực. Từ trái tim Ngài phát tỏa ra hai luống sáng, màu đỏ và xanh lợt, tiêu biểu cho Máu và Nước đã đổ ra trong cuộc khổ nạn khi Trái Tim Ngài bị đòng đâm thâu qua trên thập giá. Anh sáng xanh lợt biểu tượng cho nước lau sạch và thanh tẩy linh hồn. Anh sáng đỏ biểu tượng cho máu, phát sinh sự sống mới cho linh hồn. Chúa Giêsu đã đặt Nữ tu Faustina là thư ký và tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa. Chị đã được chỉ đạo phải viết lại những lời hướng dẫn cho mọi người cùng học hỏi để tin tưởng và phó thác nơi Lòng Thương Xót Chúa.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho Nữ tu Faustina biết rằng Lòng Thương Xót của Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho những tội nhân xấu xa nhất, ngay cả đối với người tuyệt vọng. Ngài mong muốn mọi người đi xưng tội và rước lễ để hoàn toàn được ơn tha thứ mọi tội lỗi và hình phạt trong ngày lễ Lòng Thương Xót Chúa. Chúa Giêsu đã tuôn đổ cả đại dương ân sủng trên những linh hồn đến với Lòng Thương Xót của Ngài. Mọi tội lỗi đều được Thiên Chúa tha thứ, bởi “tình thương mạnh hơn tội lỗi”.
Ngày nay, người ta muốn đặt lại tất cả các vấn đề, kể cả vấn đề niềm tin Chúa Kitô Phục sinh. Bởi thế, chúng ta không cảm thấy khó chịu với tông đồ Tôma, là người đã không muốn chấp nhận những gì người ta nói, và chống lại những điều được chấp nhận theo sự lôi cuốn của đám đông. Tôma khăng khăng muốn chính mình kiểm chứng điều mà các tông đồ khác nói lại là chính họ đã được thấy, được gặp Chúa Kitô Phục sinh. Đúng ra ông không có lý do chính đáng để nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút thì chắc hẳn ông đã dễ dàng chấp nhận rồi. Nhưng như thế thì lại thiệt cho chúng ta, mất một bằng chứng cụ thể, sống động về Chúa Kitô Phục sinh, và nhất là câu nói bất hủ của Chúa: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Đàng khác, khiển trách Tôma kém lòng tin thì Chúa đã khiển trách với thái độ êm dịu và trìu mến: “Tôma, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúng ta thấy khác hẳn khi Chúa khiển trách những người Pharisêu hay các tông đồ khác. Như thế, Chúa còn thông cảm nhiều với Tôma. Tại sao? Vì Chúa thấy những thiếu sót của Tôma: ông không chống đối để đi đến việc từ chối đức tin, nhưng là khát vọng thấy rõ hơn để tin. Bởi thế, trong thời đại chúng ta, có phản chứng chăng nữa thì cũng đừng ngạc nhiên và lo lắng, ngược lại, phải hy vọng, vì đó là thái độ tìm kiếm sâu xa, nó là dấu hiệu của lòng tin hoạt động và tự do, của những người đang tìm kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá ra những giá trị chân thực. Do sự tìm kiếm này người ta nhận ra được điều chính yếu của Kitô giáo là đức tin. Điều chính yếu ở đây là tin vào Đức Kitô.
Vậy đức tin là gì? Đức tin là tiếng kêu. Thật vậy, Tin Mừng đã nói lên như thế. Khi Chúa Giêsu hiện ra đứng trước Tôma, thì ông run sợ và phát ra tiếng kêu này “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. phải chăng chính những lời bộc phát đó đã diễn tả điều sâu thẳm nhất nơi tâm hồn người ta? Phải chăng đó là tiếng nói của trái tim, của tâm hồn, khắc hẳn với sự đắn đo so nghĩ của con người để tìm những lời lẽ hợp tình hợp lý, trước khi muốn nói lên?
Những nơi khác trong Tin Mừng cũng cho thấy cảnh tương tự, như lời tuyên xưng của Phêrô. Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?” Thì Phêrô đã trả lời mà kêu lên: “Thầy là Đức Kiô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Và Chúa đã xác định ngay rằng đó là tiếng kêu đức tin: “Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha Ta trên trời”.
Cũng vậy, đám đông tụ họp bên Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh, lúc bấy giờ Chúa nói về bánh ban sự sống, Ngài làm cho họ chưng hửng khi Ngài quả quyết: “Phải ăn thịt và uống máu Ngài mới được sự sống đời đời”, nghe Chúa nói thế họ bỏ đi, còn các môn đệ ở lại, Chúa hỏi: “Anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không?” Một lần nữa, tiếng kêu lại vang lên và cũng là tiếng kêu của Phêrô: “Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Với Martha, chị của Lagiarô, Chúa đã hỏi bà: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, con có tin điều đó không?” Martha trả lời: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Đó cũng là một tiếng kêu tuyên xưng đức tin.
Đức tin là một tiếng kêu, nhưng sau đó là gì? Là nhận biết. Đối với một vật nào đó thì người tìm ra, khám phá được. Nhưng đối với một người thì người nhận biết. Đức tin là nhận biết một Đấng. Đức tin giống như tia chớp nơi một người chồng đang chờ đợi một người vợ tương lai mà anh ta đã yêu thương. Và rồi, giữa đám đông, anh đã nhận ra người anh thương yêu, chỉ có mình nàng thôi. Đấng mà đức tin nhận biết là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài thôi.
Chúng ta tin Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi, chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Bất cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều có thể rút ra một bài học. Dù muốn dù không, du khách nào cũng phải thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng của người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính sách hay một phát minh mới như một đồ trang sức, mà ngược lại, họ tìm cách ứng dụng vào đời sống thực tế.
Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để làm bài học cho đức tin của mình. Chúng ta có ứng dụng đức tin vào đời sống hằng ngày không? Chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha nhân từ. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng một cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác, hân hoan, ngay cả khi gặp gian nan thử thách không? Chúng ta là tín hữu của Đấng đã sống và đã chết cho tha nhân, và là Đấng dạy chúng ta phải sống yêu thương, bác ái với mọi người. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của yêu thương, quảng đại, quên mình, tha thứ với mọi người không? Chúng ta tin có một cuộc sống mai hậu, vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh phấn đấu không?
Đức tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Giống như cái đèn được đốt lên, cần đặt ở chỗ cao để soi sáng cho mọi người, thì đức tin của chúng ta cũng cần phải được thắp lên chiếu sáng cho mọi người. Nó cần phải được đốt lên một cách liên tục trong cuộc sống hằng ngày.
Cuộc sống mỗi ngày với những độc điệu, phiền toái và thử thách của nó, chính là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của chúng ta. Những mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin của chúng ta. Xin Chúa cho cả cuộc sống của chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Và xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Lê Nho Phú)
Hôm nay (27/04/2014), Chúa Nhật II Phục Sinh, toàn thể Giáo Hội vui mừng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn vì Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra để ban bình an cho các môn đệ. Tạ ơn vì “Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc,1, 50). Trong chính hôm nay, Giáo Hội có thêm hai người con đã được dồi dào ơn Chúa để trở nên hai vị thánh: thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII và thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Lễ phong thánh hai vị Giáo Hoàng này diễn ra tại quảng trường thánh Phêrô vào lúc 10g00 sáng giờ Roma (tức 15g00 Việt Nam)
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trong khung cảnh Chúa Nhật cuối tuần Bát Nhật Phục Sinh, còn được gọi là “Chúa Nhật về Lòng Thương Xót Chúa”. Chúng ta không thể không quan tâm đến sự hiện diện vừa có tính siêu việt, vừa rất thân tình và giàu lòng nhân hậu của Đấng Phục Sinh.
Chúng ta nhớ lại, trong trình thuật về bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu và các môn đệ, thánh sử Gioan đã viết “Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
Do vậy, “vào chiều ngày thứ nhất trong tuần” (Ga 20,19), khi các môn đệ đang ở trong phòng đóng kín các cửa vì sợ, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra và ban bình an cho các ông. Vì yêu thương nên chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã lập tức hiện đến và giúp các môn đệ vượt qua nỗi sợ hãi. Vì quan tâm rất nhiều nên Người tìm cách giúp họ bình an sau những biến cố đau thương vừa xảy ra. Những lo sợ không còn nữa, thay vào đó là niềm vui không ai có thể lấy mất được. Thầy Giêsu chịu chết và chịu táng xác giờ đây hiện ra với một quyền năng lạ lùng. Người không còn bị giới hạn bởi không gian, ngôi nhà đóng kín cửa không còn cản trở được tình thương của Người dành cho các môn đệ.
Riêng tông đồ Tôma, vì không có mặt khi Chúa Phục Sinh hiện đến nên ông đòi hỏi với những xác minh cụ thể: “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,27). Trước một đòi hỏi có tính cứng lòng tin như vậy, Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn yêu thương ông và đã đáp ứng để ông Tôma được lòng sám hối:“Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga, 20,27). Ông Tôma đã được biến đổi và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Chính tình yêu, chính lòng thương xót của Đấng Phục Sinh đã hoán cải Tôma và cho giúp ông được phục sinh tâm hồn!
Đáp ca hôm nay được lặp đi, lặp lại: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 117,1). Trong suốt dòng lịch sử, dân Israel luôn nghiệm thấy Thiên Chúa là Đấng nhân từ, giàu lòng thương xót. Trong suốt dòng lịch sử, tội lỗi loài người cứ chồng chất, nhưng Thiên Chúa vẫn cứ yêu thương, sẵn sàng tha thứ khi con người hối cải. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin và Con của Người thì không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới này là sự hiện diện của chính Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng thương xót.
Ngày hôm nay làm sao chúng ta không thể không nhớ đến Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II. Trong “Thông điệp và việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa” có viết: “Ngày 30.04.2000, trong bài giảng lễ phong thánh cho chị Faustina, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa trong toàn thể Giáo Hội. Ngài nói: “Thật là quan trọng việc chúng ta đón nhận trọn vẹn sứ điệp đến với chúng ta từ Lời Chúa của ngày Chúa Nhật II Phục Sinh, ngày mà từ nay khắp Hội Thánh sẽ gọi là Chúa nhật của Lòng Thương Xót Chúa”.
Chính ngày hôm nay, tại quảng trường thánh Phêrô, ĐGH Gioan Phaolô II được phong hiển thánh. Thật là một biến cố trọng đại và là một tin vui. Đây là vị thánh Giáo Hoàng đã tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương xót Chúa. Người muốn giới thiệu và mời gọi mọi người hãy chạy đến với lòng thương xót Chúa. Thế giới ngày nay cần đến lòng thương xót Chúa biết bao! Một thế giới có nhiều hận thù và chiến tranh, một thế giới có nhiều bất công và khổ đau. Con người ngày nay cần chạy đến lòng thương xót Chúa biết bao! Một đời người vui ít nhưng buồn nhiều, một đời người gặp nhiều oan trái hơn là công bình, một đời người đầy yếu đuối và tội lỗi, một đời người nhiều bệnh tật thì thử hỏi biết chạy đến với ai nếu không chạy đến Lòng Thương Xót Chúa?
Hạnh phúc cho những ai gặp gỡ được Đấng Phục Sinh trong cuộc đời mình. Tốt đẹp biết bao cho những ai tín thác vào tình yêu của Cha trên trời và cầu khẩn “Vì cuộc Khổ Nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô. Xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới”; “Lạy Đấng Chí Thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Xin thương xót chúng con và toàn thế giới”; “Jesus I trust in You: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”. Khi siêng năng và sốt sắng dâng lời cầu nguyện như vậy, chắc chắn Thiên Chúa sẽ ban cho ta, cho người thân, cho nhân loại nhiều ơn lành hồn xác!
Đấng Phục Sinh không chỉ hiện ra vào “ngày thứ nhất” hay“tám ngày sau” cho các môn đệ và cho Tôma. Người tiếp tục yêu thương và hiện đến cách vô hình trong cộng đoàn các tín hữu để giúp họ sống hợp nhất với nhau và thực hành 05 chuyên: “một chuyên cần giáo lý, hai vững chí hiệp thông, ba bền lòng phụng vụ, bốn vui thú nguyện cầu, năm cùng nhau làm chứng”. Người vẫn luôn hiện đến một cách vô hình giữa cộng đoàn cầu nguyện “ ở đâu có hai hay ba người hợp lại nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ” (Mt 18,20).
Nhờ lời cầu bàu trợ giúp của hai vị thánh Giáo Hoàng: Gioan XXIII và Gioan Phaolo II cho chúng ta biết chạy đến với lòng thương xót Chúa. Nhờ đó, mỗi người, mỗi gia đình và thế giới này được gặp Chúa Giêsu Phục sinh, được biến đổi và được phục sinh với Chúa. Amen.
Có câu chuyện kể rằng có một người muốn xin gia nhập trong một đoàn xiếc. Anh nói: “Tôi sẽ biểu diễn bằng cách trèo lên bậc cao khoảng 50 mét và nhảy xuống một đống mùn cưa”. Chủ đoàn xiếc nói, “Nghe anh nói thật hấp dẫn. Dầu vậy tôi cũng cần phải coi anh biểu diễn ra sao đã”. Sau đó, họ làm một dàn nhảy cao cỡ 50 mét, và anh xin việc bắt đầu biểu diễn. Khi anh ta từ trong đống mùn cưa ngoi ra, thân xác say sứt, mặt mày méo mó thì ông chủ đoàn xiếc nói với anh ta rằng, “Thật là tuyệt. Tôi nhận anh vào đoàn xiếc. Chúng tôi sẽ trả anh 250 Đô La một tuần”. Anh ta lắc đầu nói, “Cám ơn, nhưng tôi không muốn”. Ông chủ nâng tiền lương lên dần từ 250 tới 500 và 1000 Đô La một tuần. Thế nhưng anh kia vẫn không chịu. Ông chủ không hiểu nổi nên nói, “Sao anh kỳ vậy? Anh cần việc mà!” Anh ta trả lời, “Tôi đau lắm… Tôi không bao giờ dám nữa đâu!” Anh thanh niên này có ước vọng tốt nhưng khi gặp điều khó, anh ta không dám dấn thân. Anh ta bỏ lỡ cơ hội cho một tương lai tốt.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu tụ họp cách bí mật trong phòng kín, vì họ sợ rằng những người giết Chúa cũng sẽ tìm kiếm và giết họ như vậy. Thế rồi Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra với họ và ban cho họ sự bình an của Ngài. Thánh Gioan đã nói: “Các môn đệ đã vui mừng khi nhìn thấy Ngài”. Nhưng sau đó khi họ nói với Tôma (Tôma là người không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra) là “chúng tôi đã nhìn thấy Chúa”, ông trả lời: “Trừ phi tôi nhìn thấy bàn tay của Ngài và những lỗ đinh, xỏ ngón tay tôi vào những lỗ đinh đó, và thọc tay tôi vào cạnh sườn Ngài, thì tôi không bao giờ tin điều ấy” (Ga 20:25). Tám ngày sau đó, Đức Kitô Phục Sinh lại hiện ra với các tông đồ, và lần này dĩ nhiên có Tôma đang ở với họ và chính mắt ông đã nhìn thấy Chúa; bởi đó ông chỉ còn biết thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “Con tin vì đã nhìn thấy Thầy, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20:28-29).
Tin luôn đòi có sự dám liều, có sự dấn thân. Khi niềm tin của ta là vô điều kiện, chúng ta biết rằng mọi cái đều có thể là nguyên nhân cho sự việc xảy ra. Cũng như Tôma, chúng ta thường thấy rằng rất khó quay lại với Chúa khi có quá nhiều sự đòi buộc chúng ta. Tin vô điều kiện vào Chúa, dạy cho chúng ta biết là Ngài có sự đòi buộc mà chúng ta không thể ngờ được. Đó là điều kiện để đi theo một người mà người đó lại là một người mà chúng ta luôn luôn không thể biết và làm chúng ta ngạc nhiên.
“Mọi sự đều có thể cho những kẻ tin”, chính Chúa Giêsu đã nói điều ấy với đám đông dân chúng đã chứng kiến những phép lạ Người làm. Mọi sự đều có thể cho những ai tự đặt mình dưới chân Chúa cách vô điều kiện như trẻ nhỏ tin vào cha mẹ em. Mọi sự đều có thể xảy ra cho những ai sẵn sàng chấp nhận hy sinh đời sống mình vào Quyền Năng Phục Sinh của Chúa.
Trong những giới hạn khả năng của riêng bạn mà bạn muốn trở nên con người và nhận ra toàn diện bản chất con người của mình như Chúa muốn, thì xin bạn hãy nhớ rằng chẳng có gì có thể xảy ra được nếu như bạn không làm một sự thay đổi và “trở nên như trẻ nhỏ”. Nhưng khi bạn làm sự thay đổi đó thì bạn trở nên con người vĩ đại. Khi bạn quyết định thay đổi con người mình thì mọi sự đều có thể xảy ra!
Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng nếu chúng ta muốn cảm nghiệm một cuộc sống hạnh phúc mà Ngài đã làm cho chúng ta qua đời sống, sự chết và phục sinh của Ngài thì chúng ta phải trở về với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta phải trở về với Cha trên trời trong cùng một tâm hồn của trẻ thơ hoàn toàn phó thác vô điều kiện trong tay cha mẹ trần gian của bé.
Mọi cái đều có thể cho những ai mở rộng đôi mắt và thưa cùng Chúa, “Xin hãy làm cho con được ngạc nhiên!”
Cách đây 10 năm, ngày 30. 04. 2000, Đức cố GH Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho chân phước Faustina, người được xem là vị tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa. Và không đầy một tháng sau, ngày 20. 05. 2000, ĐGH đã chính thức thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa trên Giáo Hội Công giáo toàn cầu vào Chúa Nhật II sau lễ PS. Kể từ đó đến nay, Chúa Nhật II PS như hôm nay còn có tên gọi khác là Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của TC.
Vậy sứ điệp về Lòng Thương Xót của Chúa nói với chúng ta điều gì? Theo nhật ký của thánh nữ Faustina để lại thì Chúa Giêsu đã hiện ra với chị và nói với chị là Ngài muốn: “mọi người hãy tín thác vào Lòng Thương Xót khôn dò của Chúa. Đó là cơ hội quý báu và tối hậu để nhân loại được cứu rỗi.”
Tín thác vào Chúa là cơ hội quý báu và tối hậu để được ơn cứu độ. Hay nói cách khác, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là cho ta một cơ hội để hoán cải đời sống và để được cứu độ.
Thật vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra và cho tất cả các môn đệ một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Đối diện với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu tuần vừa qua, tất cả các môn đệ đều vấp ngã. Họ chạy trốn, đóng cửa rất kỹ vì mang trong mình một nỗi sợ hãi, hoang mang tột cùng. Không chỉ sợ người Do thái bắt được mình và mình phải chết; mà còn sợ hãi, hoang mang vì mang trong mình một mặc cảm tội lỗi ghê gớm vì chính mình đã bỏ Thầy, chối Chúa.
Trong tình cảnh bi đát đó, Chúa Giêsu đã hiện ra. Ngài không chỉ chữa lành vết thương tâm hồn các môn đệ khi trao gởi: “Bình an cho anh em” (Ga 20, 19-20) và trao ban chính Thánh Thần của Ngài; mà Ngài còn mở cho các ông một cơ hội để làm lại cuộc đời khi trao cho các ông sứ vụ đi rao giảng Tm: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Đó chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Và còn hơn các môn đệ khác, tôi nghĩ, có lẽ hôm nay Tôma là người cảm nghiệm sâu xa nhất Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không những đã cho ông thấy Chúa như các môn đệ khác, mà Chúa còn tự nguyện đáp ứng yêu cầu của ông là thọc ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn Người. Đứng trước nghĩa cử của Chúa, ông chỉ còn biết rưng rưng nước mắt mà thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.”
Chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta vừa tham dự vào Tam Nhật Thánh tuần vừa qua xong, chúng ta có nhận ra rằng chính Chúa Giêsu đã thương ta vì ta long đong, lầm than, khốn khổ, và ngay cả khi ta tội lỗi, vô ơn … thì Ngài vẫn chịu chết vì ta để cho ta sống không?
Thiên Chúa của ngày hôm qua, cũng là Thiên Chúa của ngày hôm nay. Ngài vẫn tiếp tục trắc ẩn trước cảnh khốn khó, nhọc nhằn của con cái mình. Ngài vẫn tiếp tục mở cho ta cơ hội để đến với Lòng Thương Xót của Ngài, cụ thể là qua các bí tích. Tôi thấy có hai Bí tích thể hiện Lòng Thương Xót của Chúa rõ nét nhất là Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Thánh Thể.
Ai trong chúng ta, với một lương tâm ngay thẳng, khi phạm tội thì đều cảm thấy bất an, bất ổn trong tâm hồn. Và khi đã xưng tội xong thì thấy lòng mình thanh thản, bình an, như trút được một gánh nặng. Quả thật, đến với Bí Tích Hòa Giải chúng ta được Thiên Chúa xót thương, tha thứ mọi tội lỗi và Ngài cũng nói với ta như nói với các môn đệ hôm nay: “Bình an cho các con.” Ngài cho ta một cơ hội để được đổi mới cuộc đời, được sống trong ơn nghĩa của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy mạnh dạn đứng lên để trở về với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mỗi khi ta vấp ngã bởi muôn ngàn yếu đuối trong cuộc đời.
Còn với Bí Tích Thánh Thể, Thiên Chúa đã trao ban chính Ngài để ở lại với ta, để chia sẻ, đồng hành, nâng đỡ và mở cho ta một cơ hội để được cộng tác với Ngài khi sai ta đi như sai các tông đồ hôm nay: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.” Amen.
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Giáo hội trình bày cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu sống lại trích từ Phúc âm thánh Gioan có thể được xem như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục Sinh và hơn nữa là một tổng kết cho chặng đường đức tin của các Tông đồ. Đồng thời cho thấy sứ mạng sống đức tin, sứ mạng sống mầu nhiệm phục sinh nối dài trong đời thường của chúng ta.
Thật khó diễn tả cách hiện diện của Chúa Giêsu thế nào sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Chỉ biết Ngài xuất hiện cách lạ thường nhưng vẫn giữ nguyên nét gần gũi thân tình với các môn đệ. Do đó, ta không thể trách các Tông đồ. Các ông mới sống thân tình với Thầy ba năm nhưng sao lại thay đổi quá nhanh chóng như vậy? Đứng trước cái chết của Thầy mình, môn đồ làm sao mà thoát khỏi lo âu, ngạc nhiên và còn đầy sợ hãi. Các cửa nhà đều đóng kín. Họ đã kinh hoàng sợ hãi vì người Do thái vừa giết chết Thầy Giêsu. Chắc hẳn, rồi cũng sẽ đến các môn đệ của Thầy Giêsu thôi, các ông thừa hiểu rằng rồi đây sẽ đến lượt mình. Cửa nhà đóng kín và lòng người càng đóng kín hơn. Rõ ràng là một số môn đệ thất vọng đã trở về quê, một số khác nửa tin nửa ngờ khi biết xác Thầy không còn trong mộ nữa. Vì thế, đứng vào hoàn cảnh các Tông Đồ lúc bấy giờ chúng ta sẽ thông cảm hơn, đáng thương các ông hơn là đáng trách.
Tuy nhiên, Thiên Chúa có đường lối riêng của Ngài. Trong lúc sự kiện phục sinh còn quá mới mẻ, quá lạ thường này, các Tông đồ vẫn chưa được biến đổi hẳn thì Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra cho các ông, Ngài ban bình an và củng cố để các ông tin và đang sống niềm tin ấy. Riêng Tông Đồ Tôma thì dứt khoát hơn, ông cần một xác tín. Có lẽ, lúc này ông cần một sự ủng hộ Thầy Giêsu, ông cần một mạc khải, ông cần sự cảm thông và cần được sáng tỏ vấn đề. Sự khao khát này được thể hiện rất rõ trong câu nói đầy niềm trông cậy: “Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không đặt bàn tay vào cạnh sườn Thầy thì tôi không tin”. Hay nói một cách khác: “tôi cần gặp lại Thầy Giêsu yêu dấu”. Dường như chúng ta đang đứng trước một sứ điệp của Tôma: “Nếu anh em đã gặp được Thầy thì tôi cũng cần gặp Người vì tôi cũng là môn đệ của Người”. Tôma tin điều ấy xảy ra.
Sự khao khát của Tôma là chính đáng. Tôma yêu mến Thầy Giêsu nên đã theo Thầy. Bây giờ Tôma muốn gặp Thầy. Chúa Giêsu thấu suốt những bí ẩn trong lòng người. Chúa Giêsu biết rõ con người Tôma. Chúa thấu hiểu tâm trạng hiện thời của Tôma, Chúa biết rõ tâm tình của Tôma trong những lúc này đây. Chúa không chỉ thấu hiểu tấm lòng mà Chúa còn là Đấng làm thoả lòng cho Tôma. Chính Ngài đến và nói: “Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây”. Sự kiện hiện diện của Thầy Giêsu lúc này là một minh chứng về tình thương và ân huệ của Thiên Chúa quan phòng. Chúa Giêsu thương mến các Tông Đồ trong đó có Tôma.
Trong cách thức mới, trong quyền phép Đấng Phục Sinh, Người hiện diện ở ngay bên nhưng các ông không biết được. Thế nên khi Thầy Giêsu hiện ra trong sự phục sinh, Tôma đã ý thức thân phận của mình chỉ là học trò của Thầy Giêsu nhưng được Thầy quan phòng yêu thương lớn lao, sự khao khát chính đáng của ông được Thầy chấp nhận, ông sung sướng thốt lên tâm tình tin tưởng và đầy lòng yêu mến: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi!”. Tôma thấy rõ hiệu quả của tình yêu và sự cậy trông của mình vào Thầy Giêsu. Đó quả là một đức tin chân chính.
Thầy Giêsu thì luôn quan phòng và yêu thương. Ngài không chỉ hiện ra để củng cố, an ủi và ban bình an cho các môn đệ mình mà Ngài còn muốn đi xa hơn nữa, Ngài muốn các Tông Đồ đem đức tin, tình yêu và bình an của Ngài đem cho muôn dân: “Như Cha đã sai Thầy, thì giờ đây Thầy cũng sai các con”, Ngài muốn các ông đi khắp nơi để làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm cho muôn dân cũng biết Thiên Chúa là tình yêu và quan phòng, cũng đón nhận ơn cứu độ là tin, yêu và giữ những điều Ngài muốn.
Tuy nhiên, chấp nhận bước theo Chúa để sống đức tin là đều không mấy dễ dàng. Các Tông đồ lo sợ nên ở lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước những chống đối của những kẻ không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà Chúa đã trải qua và các ngài cũng sẽ phải đi qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai mà họ đã nghe Chúa nói đến và đã được chuẩn bị để thi hành. Dù các ông đang sống trong hoàn cảnh đó, Chúa quan phòng vẫn hiện diện bên các ông và đã dự liệu hiện ra nhiều lần. Mặc cho đau khổ, sự dữ, gian khó xảy ra, chúng ta luôn trung thành theo Chúa và thể hiện đức tin và tình yêu của mình. Các Tông Đồ, các môn đệ, các thánh tử đạo Việt nam,… đã là những nhân chứng về điều đó. Do đó, nhìn lại bản thân mỗi người, là Kitô hữu nghĩa là những người tin có Chúa Kitô, người có Chúa Kitô nên chúng ta phải sống niềm tin đó, ta phải thể hiện niềm tin “có Chúa Kitô Phục sinh” trong đời sống mình. Đó là sống chứng nhân. Hơn nữa, người Kitô hữu tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha đầy yêu thươngnhân từ. Niềm tin ấy được thể hiện bằng một đời sống tin tưởng, hân hoan và phó thác vào Chúa Kitô; yêu thương, tha thứ và quảng đại với mọi người. Đồng thời, Chúa Kitô phục sinh cho chúng ta một xác tín rằng có cuộc sống sau khi chết. Nhờ Chúa Kitô phục sinh, chúng ta tin có một cuộc sống vĩnh cửu, bất diệt. Ý thức điều đó nên chúng ta sống như chuẩn bị cho cuộc sống mai sau ngay từ bây giờ, sống như đã chết. Sống như chết là sống hy sinh, sống từ bỏ mình, làm nhiều việc lành phúc đức, làm nhiều cử chỉ yêu thương bác ái. Cuộc sống này mỗi ngày với những điều kỳ diệu của nó là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của mình. Tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là môi trường để chúng ta thể hiện niềm tin của mình. Mặt khác, nếu không có mầu nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa Phục Sinh đến đổi mới thì đức tin của các Tông đồ chưa được trưởng thành hoàn toàn đúng mức Chúa mong muốn để có thể làm chứng cho Chúa, chu toàn sứ mạng Chúa trao phó cho. Do đó, ta cần trung thành và trông cậy vào ơn Chúa trợ giúp để chúng ta đi trọn đường đời và hoàn thành xuất sắc sứ mạng chứng nhân của người môn đệ bước theo Thầy Giêsu.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúa Kitô chính là hình ảnh về tình thương, lòng nhân lành và hay thương xót đối với loài người. Người luôn hiện diện bên chúng ta. Ngài ở trong cõi lòng mình, trong các Bí tích, nơi Nhà tạm, trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài vào những nơi đó để trò chuyện trong sự thân tình, đàm đạo trong sự thân mật, sống tâm tình tin tưởng đầy lòng yêu mến Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho cả cuộc sống của chúng con trở thành dấu chứng của tình yêu Chúa đối với mọi người. Đó là vui sống niềm tin vào Thiên Chúa quan phòng, sống tình yêu thương bác ái đối với tha nhân. Xin cho bình an của Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời của chúng con để cho tất cả những ai gặp gỡ chúng con đều có thể nhận ra được tình yêu và sự hiện diện của Chúa. Amen.
Mặc dầu đã được Kinh Thánh cũng như chính Đức Giêsu báo trước về Ngài, các môn đệ vẫn tỏ ra bàng hoàng sợ hãi khi chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu. Ông Phê-rô thì chối Chúa, các môn đệ hầu hết đã bỏ trốn chỉ còn một số ít theo Người xa xa. Bao nhiêu mộng ước của các ông dường như đã tiêu tan cùng với cái chết của Thầy mình. Khi được báo tin Chúa sống lại, các ông vẫn còn bán tín bán nghi. Đức Giêsu đã phải hiện ra nhiều lần để trấn an, giải thích và củng cố niềm tin cho các ông.
Tin Mừng Thánh Gio-an hôm nay thuật lại hai lần hiện ra của Đức Giêsu với các môn đệ trong phòng cửa đóng kín và lời đầu tiên của Ngài là lời chúc bình an cho các ông. Trong cả hai lần gặp gỡ, Đức Giêsu đã lập lại lời chúc này tới ba lần. Ngài đã cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài, các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, nhưng lần hiện ra này vắng mặt ông Tôma. Tám ngày sau các môn đệ lại tụ họp trong nhà, có cả ông Tôma ở đó nữa. Trong khi các cửa đều đóng kín, Đức Giêsu đến đứng giữa các ông, và sau lời chúc bình an Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem Thày. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thày. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20,27) Xem ra Chúa có ý trách ông Tôma vì sự cứng lòng của ông, nhưng chính nhờ đó mà các môn đệ và các thế hệ sau này là chúng ta có thêm một bằng chứng mạnh mẽ về việc Chúa sống lại. Ở những lần hiện ra khác, Đức Giêsu cũng tỏ ra ân cần và thân mật khi gặp gỡ, giải thích Kinh Thánh hoặc cùng ăn uống với các ông.
Quả vậy, Thánh Phao-lô, trong thư gởi các tin hữu Cô-rin-tô, có viết: “… Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng,…lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15, 14-17). Việc Đức Giêsu sống lại cho chúng ta một bảo đảm chắc chắn chúng ta cũng sẽ được sống lại như Người. Thư thứ nhất của Thánh Phê-rô hôm nay giới thiệu cho chúng ta một “gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai… Gia tài đó chính là ơn cứu độ Người đã dành sẵn và sẽ bày tỏ trong thời sau hết” (1 Pr 1, 3-9). Nhưng không nhất thiết phải đợi lâu như thế, vì nhờ đức tin, chúng ta có thể nếm trước được niềm vui ơn cứu độ và có được sức mạnh để kiên trì trong thử thách. Và ngược lại chính những thử thách đó tinh luyện, làm cho đức tin của chúng ta nên tinh ròng hơn: Vàng là của phù vân, mà còn phải thử lửa, huống hồ là đức tin là thứ quí giá hơn vàng gấp bội (1Pr 1,7)
Đức Giêsu, sau khi sống lại, Ngài đã gặp gỡ các môn đệ và tiếp tục sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã ban cho các ông Chúa Thánh Thần: “Anh em hay nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; Anh em cầm giữ ai thì, người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20,22). Từ đây, khởi đầu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, Đấng áp dụng ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Chúa Thánh Thần, với bảy ơn của Ngài, đã biến đổi các Tông Đồ từ những người nhút nhát trở nên can đảm, từ những người thuyền chài ít học thành những nhà thuyết giảng hùng hồn (Cv 2,14-41). Các ông đã can đảm, sẵn sàng chịu mọi thử thách gian lao, đem Tin Mừng của Chúa đến với mọi người, không phân biệt Do-thái hay dân ngoại. Chúa Thánh Thần cũng hoạt động trong Hội Thánh: Đoạn sách Công Vụ hôm nay cho chúng ta thấy những ân huệ của Ngài sinh hoa kết trái nơi cộng đồng Kitô hữu đầu tiên: “Họ chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng… Họ để mọi sự làm của chung, bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu… Họ đồng tâm nhất trí… và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ (Cv 2,42-47). Thật là một hình ảnh tuyệt vời về một xã công bằng và đầy tình nhân ái, hình ảnh của Nước Trời.
Lạy Cha, nhờ sự chết và phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu Con Cha, Cha đã ban cho chúng con một gia tài vô cùng quí giá là được trở nên con của Cha, được sống cuộc sống vĩnh cửu chan chứa niềm vui. Xin cho chúng con luôn ý thức ơn huệ cao cả này và luôn biết ca ngợi tình yêu bao la Cha đã dành cho chúng con.
(Suy niệm của Lm Giuse Phạm Ngọc Ngôn)
Chúa nhật thứ 2 Phục sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục khám phá thực tại mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu qua lăng kính của một môn đệ vốn được mệnh danh là “ông tổ thực nghiệm” – Tôma Đyđymô, để xác tín niềm tin vào Chúa Phục sinh cách mạnh mẽ; đồng thời tuyên xưng niềm tin đó cho muôn người.
Tôma “sinh đôi” hay còn gọi là Đyđimô, người làng Galilê, một trong số 12 môn đệ của Chúa Giêsu. Tin Mừng nói rất ít về người môn đệ này. Tôma trong Tin Mừng Gioan chỉ xuất hiện vỏn vẹn bốn lần, nhưng có đến ba lần ông xuất hiện trong những trường hợp rất đặc biệt, để lại những dấu ấn khó phai mờ.
Lần thứ nhất khi Chúa Giêsu muốn lên đường tiến về Giuđê, về làng Bêtania thăm lại người bạn Ladarô “đang yên giấc” của Người. Trong khi các môn đệ can ngăn vì cho rằng điều đó hết sức nguy hiểm bởi người Dothái đang tìm cách trừ khử Chúa, thì Tôma dỏng dạc tuyên bố: “Chúng ta cùng đi (lên Giuđê) để cùng chết với Thầy” (Ga 11, 16b). Rõ ràng Tôma là con người rất nhiệt thành, tận tuỵ và dám hy sinh. Tính cách của ông so với các môn đệ kia là rất riêng, rất đặc trưng, nó chứng tỏ ông là con người dám nghĩ, dám nói và dám làm trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Lần thứ hai trong diễn từ Biệt ly của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn đệ đừng xao xuyến và lo lắng vì sự ra đi của Người. Bởi việc Người ra đi là có lợi cho các ông. Người đi để dọn chỗ cho các ông. Các ông vốn không hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì, giờ lại nghe Người “bồi” thêm một câu nữa: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”, làm các ông rối tung cả lên, chả hiểu gì thêm được nữa. Trong lúc các môn đệ vừa buồn phiền vừa chẳng hiểu Thầy nói gì, Tôma lại lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 5). Câu hỏi của Tôma là nguyên nhân dẫn đến câu trả lời bất hủ của Chúa Giêsu, tóm trọn đạo lý của Thầy: “Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.
Lần thứ ba là câu chuyện sau khi Chúa sống lại. Lần hiện ra đầu tiên, Tôma vắng mặt. Tin Mừng không nói lý do nhưng chúng ta có thể hiểu tâm trạng của Tôma cũng như của hầu hết các môn đệ trước biến cố xảy đến cho Thầy. Như hai môn đệ Emmau, chắc hẳn Tôma cũng buồn phiền, lo lắng, thậm chí chạy trốn nữa, nhưng ông không thể rời xa cộng đoàn thân yêu của mình. Chính vì thế, ông đã quay về, ở lại để rồi chứng kiến việc Chúa Phục sinh hiện ra cho riêng cá nhân ông. Nghe các môn đệ thuật lại câu chuyện Thầy sống lại, Tôma thấy có điều gì đó không ổn. Không ổn là bởi vì Tôma cho rằng các môn đệ vì quá thương nhớ Thầy, tâm trí căng thẳng nên sinh ra những tưởng tượng chứ thực tế làm gì có. Theo ông việc này chớ vội vàng, cần phải kiểm nghiệm rõ ràng. Vì thế, ông dỏng dạc tuyên bố chính kiến của mình: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Các môn đệ khác thì im lặng, đuối lý, còn Tôma thì ra sức chờ đợi và hy vọng…
“Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúa Phục sinh hiện đến, đáp ứng những đòi hỏi, những lý luận mang tính thực nghiệm của Tôma. Chúng ta thấy phản ứng tức thời của Tôma cũng chính là lời tuyên xưng duy nhất trong Tin Mừng như để chuộc lại lỗi lầm vì đã không tin vào điều các môn đệ truyền lại: “Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!”. Lời tuyên xưng của Tôma là nguồn cảm hứng được vang vọng trong kinh Tin kính của cộng đoàn Kytô tiên khởi và lưu truyền mãi đến muôn đời. Đây cũng là lời tuyên xưng của một con người tận mắt chứng kiến Đấng từ cõi chết sống lại để rồi trọn đời, Tôma đã sống và đã chết với lời tuyên xưng ấy.
Niềm tin vào Chúa Kytô Phục sinh không phải là một niềm tin ảo tưởng, mụ mẫm, rẽ tiền mà là niềm tin được chính Chúa Phục sinh hiện ra nhiều lần cho các môn đệ và đặt biệt, được chính Tôma “kiểm chứng” bằng phương pháp thực nghiệm rõ ràng. Chính vì thế, chúng ta- những người thừa kế di sản Tin Mừng và tiếp nối niềm tin vào Chúa Phục sinh do các môn đệ truyền lại, nguyện sẽ không ngừng sống, loan báo và làm chứng niềm tin đó cho nhân loại.
Bài Phúc âm tường thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra giữa các tông đồ khi họ đang tụ họp trong phòng đóng kín. Tất cả đều sửng sốt và vui mừng. Họ không thể ngờ được một sự lạ phi thường như thế: Chúa Kitô đã sống lại. Họ đã tận mắt trông thấy Ngài. Không phải chỉ một người, nhưng là tất cả những người có mặt trong phòng ngày hôm ấy đều thấy Ngài. Ngài đã đưa tay và cạnh sườn của Ngài cho họ coi. Họ đã nghe thấy tiếng nói của Ngài. Họ đã thấy Ngài ăn uống và nói chuyện với họ. Ngài không phải là ma nhưng là Đấng Cứu Thế Phục Sinh. Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Họ đã thấy Ngài và họ đã tin.
Gặp Chúa Kitô Phục Sinh
Tôma vì vắng mặt nên đã không nhận được lời chúc bình an, sự vui mừng và niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Khi ông trở về và vẫn còn tâm trạng hoang mang, lo sợ và nghi nan thì được các môn đệ khác báo tin vui: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa.” Tôma đã không tin vào lời của họ. Không tin như thế không phải chỉ vì Tôma cứng lòng, nhưng cũng vì khi đó các môn đệ khác vẫn chưa có những dấu chứng tỏ họ là những người đáng tin.
Thực vậy, làm sao Tôma có thể dễ dàng tin vào lời nói của những người mà chẳng bao lâu trước đó, khi Chúa Kitô lâm nạn, không một ai trong họ dám lên tiếng bênh vực cho Ngài. Ai cũng sợ bị vạ lây nên tất cả đã lánh mặt hay bỏ chạy. Phêrô đã không ngượng ngùng ba lần chối không biết Đức Kitô là ai. Họ đã bỏ Đức Kitô, và Ngài đã chết một cái chết đau thương và công khai trên thập giá. Như vậy thì làm sao bây giờ Tôma có thể tin lời của những người yếu hèn nhát đảm đó? Trong khi còn đang nghi nan thì Chúa Giêsu hiện đến và tỏ cho Tôma xem thấy những vết thương của Ngài. Vừa trông thấy Chúa, Tôma đã kêu lên, “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”
Các tông đồ và Tôma đã tin vì họ đã gặp thấy Chúa Kitô Phục Sinh. Họ đã nhìn thấy Ngài và thấy những vết thương trên thân thể của Ngài. Nhưng nếu đức tin chỉ xảy ra qua việc đích thân đối diện với Chúa Kitô Phục Sinh, được tường tận mắt thấy, tai nghe như các tông đồ, thì có lẽ không biết cho đến bao giờ chúng ta mới là những người có đức tin. Tuy nhiên, việc Tôma tin hay không tin vào lời tường thuật của các tông đồ, không có ảnh hưởng gì đến sự thật của việc Chúa Giêsu sống lại. Tin hay không tin thì Ngài cũng đã sống lại. Do đó Chúa Kitô đã nói với Tôma, “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.” Giống như các tín hữu của những thế kỷ trước đây, chúng ta là những người đã không thấy mà tin.
Bài đọc thứ nhất trong sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay kể lại cho chúng ta về tinh thần tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh của cộng đoàn Giáo Hội thuở ban đầu:
– Họ đã bền bỉ tham dự buổi giáo lý của các Tông Đồ.
– Họ sống hiệp thông trong tình huynh đệ, bẻ bánh và cầu nguyện.
– Các tông đồ làm được những việc phi thường.
– Họ để mọi sự làm của chung.
– Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng.
Chính vì tinh thần hăng say trong cầu nguyện, ca tụng Thiên Chúa và sống hiệp nhất với nhau như thế mà Giáo Hội đã lớn mạnh. Số người tin càng ngày càng gia tăng vì người ta đã nhìn thấy những việc phi thường các tông đồ và các Kitô hữu thuở ban đầu làm được.
Dấu Chứng Củng Cố Đức Tin
Chúng ta đã không được nhìn thấy những vết đinh và vết thương trên thân thể của Đức Kitô Phục Sinh. Nhưng đức tin của chúng ta ngày nay cũng được củng cố mỗi khi chúng ta nhìn thấy những dấu đinh và những vết thương của Chúa Giêsu nơi các Kitô hữu khác trong Giáo Hội. Nhiều thanh niên nam nữ đã hăng say dấn thân trong đời sống tu trì và làm tông đồ vì họ đã nhìn thấy những dấu đinh, những vòng gai và những giòng máu hy sinh của các thánh tử đạo và nơi những nhà truyền giáo vì danh Chúa Kitô. Vì niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh mà nhiều cặp vợ chồng đang cố gắng sống trung tín với Chúa và trung thành với nhau trong tinh thần yêu thương của bí tích hôn phối cho dù phải đối diện với nhiều cám dỗ và thử thách của xã hội ngày nay. Sự dấn thân hy sinh phục vụ của nhiều vị thánh, nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân khắp nơi trên thế giới ở mọi thời đại trong lịsh sử Giáo Hội, tất cả đã là những dấu chứng của niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh.
Nếu chúng ta xưng mình là Kitô hữu, là người Công giáo tin vào Chúa Kitô Phụs Sinh, thì chúng ta cũng là những sứ giả được Chúa Kitô sai đi làm nhân chứng cho Ngài. Người ta sẽ nói với chúng ta, “Làm ơn cho tôi xem tay của bạn! Làm ơn cho tôi xem chân của bạn! Làm ơn cho tôi xem cạnh sườn của bạn! Nếu tôi không thấy những vết thương, những vết sẹo giống như của Chúa Kitô: yêu thương người nghèo, che chở người yếu thế, bênh đỡ người có tội, yêu thích điều công chính, làm những điều như Chúa Kitô đã làm, sống như Chúa Kitô đã sống; chết cho tha nhân như Chúa Kitô đã chết cho nhân loại, thì tôi không tin!” Các tông đồ và các Kitô hữu của Giáo hội thuở ban đầu đã làm được những việc phi thường và do đó nhiều người đã tin vào Chúa Kitô. Ngày nay chúng ta làm được những việc phi thường gì để người khác có thể nhận ra Chúa Kitô và đặt niềm tin vào Ngài?
Một Câu Truyện
Một người đi xa vượt biển băng rừng để tìm gặp một vị đạo sĩ nổi tiếng có nhiều môn sinh. Anh tìm đến để hy vọng cũng được theo làm môn sinh. Khi đến nơi người ấy hỏi một môn đệ của vị đạo sĩ:
– “Thầy của anh đã làm được những phép lạ gì ở xứ nầy?”
Người môn sinh đó trả lời, “Nhiều phép lạ lắm. Hết phép lạ này đến phép lạ khác. Ở xứ anh, người ta quan niệm phép lạ xảy ra khi Thiên Chúa thực hiện những điều người ta mong muốn. Còn ở xứ này, chúng tôi quan niệm phép lạ là khi một người dám thi hành những điều Thiên Chúa muốn.”
Là những Kitô hữu Công giáo, chúng ta không phải là những người ngồi đó hy vọng chờ để được chứng kiến thêm phép lạ Chúa làm hầu cho đức tin chúng ta được củng cố. Nhưng chúng ta cần phải là những người dấn thân ra đi làm phép lạ trong đời sống của chúng ta, trong gia đình chúng ta, và trong xứ đạo của chúng ta hầu cho những người khác có thể nhận ra Chúa Kitô phục sinh. Những phép lạ và những điều phi thường chúng ta có thể làm là can đảm sống và thi hành những điều Thiên Chúa muốn. Và giống như các tông đồ và các tín hữu thuở ban đầu, sống hiệp thông đoàn kết với nhau trong tinh thần cầu nguyện, bẻ bánh, ca khen Thiên Chúa, chia sẻ những gì mình có với người nghèo. Sống như thế tức là chúng ta đang làm được những việc phi thường. Và cuộc đời của chúng ta, những bàn tay, đôi chân của chúng ta sẽ mang những dấu đinh hy sinh vì tình yêu tha nhân giống như Chúa Kitô. Và như thế chúng ta sẽ trở nên những nhân chứng đáng tin cậy.
Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô làm cho Tôma thất vọng. Đức tin của ngài đã suy yếu đến độ mặc dầu với nhiều chứng tích, mọi người đã tin Chúa sống lại, nhưng ngài vẫn đòi cho bằng được những bằng chứng cụ thể rồi mới tin: “Nếu tôi không thấy các dấu tích nơi tay Ngài, và cho tay tôi vào lỗ đinh cùng cho bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài, tôi sẽ không tin!”
Đã có bằng chứng cụ thể như Tôma đòi thì cần gì phải tin. Bởi vậy tám ngày sau Chúa lại hiện ra với các tông đồ, mục đích để sửa lại lòng tin yếu kém của Tôma: “Bởi thấy Ta, ngươi đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin.”
Tuy nhiên, ta đừng quên rằng biến cố Phục sinh là một biết cố quá phi thường vượt trên sức tưởng tượng của loài người. Không riêng gì Tôma, các tông đồ khác cũng đã không tin khi vừa nghe Chúa sống lại. Chúa biết vậy nên đã đến cứu đức tin của Tôma, và cũng nhờ đó các thế hệ sau nầy có được một công thức tuyên xưng đức tin thật đầy đủ phát ra từ đáy lòng thống hối của thánh Tôma, làm mẫu mực cho chúng ta: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi.”
Trong lời nói đột xuất trên kia, thánh Tôma đã gọi Đức Kitô là Chúa, điều đó bao hàm rằng Chúa Kitô có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài có quyền lực để tự phục sinh từ cõi chết. Tôma đã xưng tụng Chúa Kitô là Thiên Chúa của ngài vì tin tưởng lòng Chúa bao dung, sẵn sàng tha thứ cho sự chậm tin của ngài.
Đó là một công thức đức tin đầy đủ và gọn gàng mà Phúc Âm ghi lại từ cửa miệng của một kẻ chậm tin như Tôma.
Và cũng để sửa lại sự chậm tin của mình, sau khi Chúa về trời, tông đồ Tôma đã mạnh mẽ tận hiến cả đời mình cho Tin Mừng Phục Sinh, ngài đã chết để làm chứng cho chân lý ngàn đời đó.
Đức Tin là một trong ba nhân đức Đối Thần, giúp ta chấp nhận mọi điều Chúa mặc khải về những mầu nhiệm vượt quá sự kiểm soát của trí khôn loài người, và thánh Phaolô đã cho ta một định nghĩa thực hành của Đức Tin như sau: ” Tin là chiếm hữu nhiều điều còn trong hy vọng, là phương thức nhận ra các thực tại người ta không thấy. Vì nhờ đó, tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám cho.” (Dt 11,1-2)
Mỗi ngày Chúa Nhật, đi tham dự thánh lễ là chúng ta có cơ hội diễn lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Ta phải sống niềm tin đó, đem Chúa Phục sinh vào đời, nghĩa là đem niềm tin cho những ai đã mất lòng tin, đem sự vui tươi, niềm hy vọng sống lại cho những người ưu sầu vì tang tóc. Và chính chúng ta hãy thể hiện trên nét mặt và môi miệng niềm vui đó.
Kính thưa quý OBACE, các tông đồ và các phụ nữ thời Giáo Hội sơ khai đã may mắn hơn chúng ta, vì họ đã là những người tận mắt chứng kiến ngôi mộ trống, đã từng chứng kiến việc Chúa Giêsu hiện ra sau khi Người từ cõi chết sống lại, nhiều người trong họ được đồng bàn với Người, được đụng chạm đến Người. Còn chúng ta là những thế hệ tín hữu sau các tông đồ chúng ta không được tận mắt thấy những lần Chúa hiện ra và cũng không thấy mồ trống, nhưng chúng ta vẫn tin Chúa đã sống lại thật. Vây thì dựa vào đâu để chúng ta tin Chúa đã sống lại? Đó cũng là điều bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta.
Đoạn Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giêsu phục sinh hiện ra, và lần thứ hai cuộc hiện ra như được dành riêng cho một tông đồ thiệt thòi hơn các tông đồ khác, đó là Tôma. Có lẽ vì quá thất vọng và hoảng sợ, trong khi các tông đồ khác dựa vào nhau để nâng đỡ nhau, thì Toma lại chọn một hướng khác, có lẽ ông bỏ về quê. Vì thế ngay buổi chiều ngày thứ nhất, Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, đã không có Toma ở đó. Với lần hiện ra này, Chúa Phục sinh đã ban cho các tông đồ một sức sống mới và một ơn thật đặc biệt, thật cần thiết cho các ông lúc này, đó là sự bình an. Vì cái chết của Chúa Giêsu quả thật còn đang đè nặng trên các tông đồ, những tiếng la hét giết đi, đóng đinh nó vào thập giá, của đám đông Do Thái như còn đang ám ảnh các ông, khiến các tông đồ sợ hãi, rút vào trong nhà và đóng kín cửa.
Biết được tâm trạng của các tông đồ, biết được nhu cầu của các ông, Chúa Giêsu đã hiện ra trước mặt các ông, và Ngài nói: Bình an cho các con. Không chỉ như thế, để củng cố đức tin cho các ông, Chúa Giêsu đã cho các ông xem tay và cạnh sườn Người, Người đã thổi hơi trên các ông và nói: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Thánh Thần chính là quà tặng sự sống mà Chúa Phục sinh trao ban, cùng với hình ảnh thổi hơi, nhắc cho chúng ta nhớ đến hơi thở đầu tiên Thiên Chúa thổi vào Ađam khi ông còn là tượng đất, Thiên Chúa đã thổi sinh khi vào lỗ mũi và cho con người có sự sống, thì hôm nay, hơi thở của Đấng Phục Sinh được thổi trên các tông đồ, để trao ban cho các ông một sức sống mới, biến các ông thành con người mới, thành tạo vật mới và sống trong một thế giới mới, thế giới của sự sống.
Cùng với hơi thở Thánh Thần, Chúa Phục Sinh còn trao cho các tông đồ một sứ vụ hết sức quan trọng, đó là sai các ông ra đi, cùng ban cho các ông quyền tha tội. Với năng quyền tha tội, các tông đồ thực hiện và trao ban tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa, hay cụ thể hơn, đó là các ông trở thành hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa trong thế giới, và để biến đổi thế giới nên một thế giới mới, thế giới của tình yêu thương và tha thứ.
Với những sự kiện và sứ vụ quan trọng được trao cho các tông đồ như thế, nhưng rất tiếc, tông đồ Tôma đã không có mặt. Chính vì tách lìa khỏi cộng đoàn các tông đồ, tức là Giáo Hội, nên khi các tông đồ khác làm chứng về việc Chúa sống lại, Tôma đã không thể đón nhận được tin mừng Phục sinh. Không chỉ như thế, ông còn đi đến một thái độ cực đoan khi ông tuyên bố: Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin.
Chúa Giêsu đã không nỡ để cho đức tin của Tôma bị khô héo, cũng không muốn để cho ông đứng bên ngoài cộng đoàn Giáo Hội, nên có thể nói tám ngày sau Chúa đã hiện ra cho riêng Tôma. Việc làm này thể hiện lòng thương xót của Chúa, vì Thiên Chúa không muốn để cho bất cứ một ai phải rơi vào tuyệt vọng. Tin Mừng nhấn mạnh: Tám ngày sau các môn đệ tụ họp trong nhà và có cả Tôma ở đó với các ông. Chi tiết này cho thấy dường như Tôma đã quay trở lai với cộng đoàn sau những ngày, vì lý do gì đó, ông đã chọn tách ra khỏi anh em tông đồ. Trong bầu khí xum họp và hiệp nhất này, Chúa Giêsu lại một lần nữa hiện ra với các tông đồ, và Người gọi đích danh Tôma: Hãy đặt ngón tay con vào đây và hãy xem tay Thầy, hãy đưa bàn tay con ra và thọc vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng nhưng hãy tin. Trước đặc ân to lớn này, Tôma đã tuyên xưng đức tin của mình: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con. Ông đã tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa, Đấng tổ tiên ông vẫn tôn thờ. Chúa Giêsu đã trả lời Tôma: Vì con đã thấy Thầy nên con tin, phúc cho những ai đã không thấy mà tin. Qua lời này, Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những thế hệ tín hữu sau này, họ không được chứng kiến những lần hiện ra của Chúa, cũng không được diễm phúc đụng chạm, ăn uống với Chúa như Tôma và các tông đồ, nhưng họ vẫn tin nhờ lời làm chứng của các tông đồ và của cộng đoàn Giáo Hội.
Từ mệnh lệnh của Chúa Phục sinh, các tông đồ đã miệt mài lên đường để loan truyền tin mừng phục sinh cho thế giới, các ngài đã hình thành nên nhiều các cộng đoàn Giáo Hội sơ khai. Sách Công Vụ cho thấy: Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Lời mô tả này cũng đủ để cho thấy có một sức sống đang tuôn chảy trong Giáo Hội và chi phối mọi hoạt động, và làm nên đời sống đức tin của các tín hữu.
Thưa quý OBACE, chúng ta sẽ không thể có được đức tin vững chắc vào mầu nhiệm Chúa Phục Sinh nếu chúng ta không gắn kết một cách chặt chẽ với Giáo Hội, vì Giáo Hội chính là người mẹ sinh ra chúng ta trong đức tin, đồng thời cũng là thầy dạy chúng ta trong đức tin, và cũng là điểm tựa đức tin của chúng ta. Vì thế, ngày nay muốn có được một đức tin vững chắc, chúng ta cũng phải gắn kết một cách chặt chẽ với Giáo Hội và chuyên tâm lắng nghe lời giảng dạy của Giáo Hội, đồng thời cũng như các tín hữu sơ khai, chúng ta còn cần phải sống tinh thần hiệp thông với nhau trong cầu nguyện, và nhất là tham dự Thánh lễ, đó là những phương thế giúp cho đức tin của chúng ta nên vững mạnh.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà nhiều người, nhiều nhóm, cùng với các phương tiện truyền thông, họ đang cố tình bôi xấu Giáo Hội bằng thổi phồng một số những sai phạm của các thành viên trong Giáo Hội, tạo sự nghi ngờ của chúng ta vào Giáo Hội, và thâm độc hơn, họ muốn tách chúng ta ra khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội, nếu chúng ta để mình rơi vào cái bẫy của thế gian, nó sẽ kéo chúng ta về phía nó, và biến chúng ta thành những kẻ thù nghịch, hoặc có thái độ bất mãn với Giáo Hội. Hãy hết sức cẩn thận với những cám dỗ và các khuynh hướnh đó, hãy tin tưởng, khiêm tốn lắng nghe sự hướng dẫn của Giáo Hội, vì chỉ khi gắn bó với Giáo Hội, chúng ta mới có được một đức tin tinh tuyền và chính thống mà thôi, mà Giáo Hội cụ thể là Giáo phận, là Giáo xứ, là nơi chúng ta được nuôi dưỡng đời sống đức tin và được sự săn sóc của Giáo Hội là mẹ chúng ta.
Không chỉ củng cố đức tin cho bản thân chúng ta, Đấng Phục Sinh còn mời gọi chúng ta trở thành những người loan truyền tin vui phục sinh và lòng thương xót của Chúa cho mọi người. Chúng ta không thể đem Tin Mừng Phục Sinh cho người khác khi chúng ta chưa được biến đổi, chúng ta không thể báo tin vui cho người khác nếu chúng ta sống buồn bã chán nản hay thất vọng. Vì thế để có thể trở thành người loan Tin Mừng, thì trước tiên chúng ta phải là những người thực sự cảm nghiệm được Chúa Phục Sinh thực sự là Tin Mừng cho bản thân, Người đang hiện diện và đang thúc đẩy chúng ta, qua lối sống, qua cách làm việc va qua cách cư xử của chúng ta. Có như thế thì Tin Mừng mới có thể ảnh hưởng đến người khác được.
Mỗi người hãy là những người loan truyền tin Mừng Phục Sinh cho những người chung quanh bằng một đời sống vui tươi, được thể hiện trên gương mặt, trong đời sống, và trong cách làm việc thường ngày. Hãy sống niềm tin phục sinh bằng việc tin tưởng nơi Chúa và gắn bó với Giáo Hội, hãy góp phần làm cho cuộc cá nhân, cuộc sống gia đình và xã hội thêm vui tươi. Hãy bước ra khỏi sự ngại ngần sợ hãi để nói về Chúa Giêsu cho mọi người, và sống giới răn của Chúa trong xã hội hôm nay, đồng thời góp phần làm cho cuộc sống xã hội mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn.
Xin lòng Chúa thương xót ban thêm đức tin cho chúng ta, và biến chúng ta trở thành những chứng nhân không mệt mỏi cho lòng thương xót và tình yêu thương của Chúa cho những người mà chúng ta thường gặp gỡ. Amen.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần lễ, để chứng minh Người đã từ cõi chết sống lại:
– Lần thứ nhất: Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ mà thiếu Tôma. Người đã cho các ông xem các vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Người rồi thổi hơi ban Thần Khí cho các ông (23).
– Lần thứ hai: sau tám ngày, Chúa Phục Sinh lại hiện ra thỏa mãn đòi hỏi của Tôma và khi gặp Chúa, Tôma đã tuyên xưng đức tin. Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những ai không thấy mà tin! (29)
CHÚ THÍCH:
– C 19-20: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức Giêsu đến: Người hiện đến khi cửa nhà đóng kín cho thấy thân xác của Người sau phục sinh có đặc tính siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi. + Bình an cho anh em ! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Cho thấy Chúa Phục Sinh chính là Đấng đã bị đóng đinh thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu (x. Ga 19,34). Qua đó ta thấy sự liên quan mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
– C 21-23: + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này từ Chúa Cha truyền cho Đức Giêsu, và giờ đây Người lại truyền cho các môn đệ và các tín hữu sau này. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giêsu Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ thông truyền sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giêsu được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (x Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích giải tội, ban quyền tha tội cho các tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Sau này các giám mục kế vị các tông đồ sẽ tiếp tục thông chia quyền tha tội cho các linh mục là những cộng tác viên của mình.
– C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Nhóm Mười Hai tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi” (Đi-đy-mô). Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông hay thắc mắc để được Thầy giải thích rõ hơn (x. Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người…: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một thứ đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “… thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng lòng tin như thế. Tin Mừng Nhất lãm nói tới sự cứng tin của các môn đệ: Matthêu viết: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); Mác-cô thuật lại: “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14); Lu-ca ghi lại lời Chúa trách các môn đệ: “Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38).
– C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giêsu đã thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giêsu tuy trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người cũng thông cảm và chỉ kêu gọi ông hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.
– C 28-31: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”: Tuy Tô-ma là người tin Chúa sống lại sau cùng, nhưng ông lại tuyên xưng đức tin đầy đủ nhất: Đức Giêsu vừa là Chúa (Đấng Cứu Thế), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Từ đây, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của các tín hữu sẽ không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần Chúa Phục Sinh hiện ra nữa, nhưng căn cứ trên lời chứng của các tông đồ (x. Ga 19,35). Về sau, các ông còn làm chứng bằng việc sẵn sàng chịu chết vì niềm tin vào mầu nhiệm ấy.
CÂU HỎI:
1) Tại sao Hội Thánh chọn ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật thay vì Thứ Bảy (Sa-bát) như trong đạo Do thái ? 2) Việc Đức Giêsu Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly khi cửa đóng kín cho thấy thân xác sống lại của Chúa có đặc tính gì ? 3) Qua lời chào, Chúa Phục Sinh đã ban cho các môn đệ điều gì ? 4) Khi cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông ? 5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và vào lúc nào ? 6) Đức Giêsu thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ để làm gì ? 7) Bằng chứng nào cho thấy Đức Giêsu có quyền tha tội và Người trao quyền ấy cho Hội Thánh khi nào ? 8) Tin Mừng cho biết gì về tông đồ Tô-ma ? 9) Các tông đồ có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm Phục Sinh không ? 10) Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa Giêsu đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi của ông Tô-ma ? 11) Cuối cùng Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng nào ? 12) Ngày nay các tín hữu chúng ta cần dựa vào bằng chứng nào để tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu ? 13) Sự cứng lòng của Tô-ma và của các tông đồ có giá trị thế nào đối với đức tin của các tín hữu hôm nay ?
Tờ báo ‘Tiếng Gọi’ (L’Appelle) đã thuật lại một câu chuyện thật cảm động như sau: Một bà góa nghèo có một cậu con trai 16 tuổi đang học làm thủy thủ trên một tàu buôn chở hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa Kỳ). Trên tàu có 40 thủy thủ thì chỉ có cậu bé này là còn có đức tin vào Chúa.
Cậu bé được bà mẹ đạo đức khuyên dạy con rằng: “Chúa đặt con trên con tàu này là để cho con có dịp làm chứng cho Người”. Do đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng thì giờ rảnh rỗi để uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc mỗi khi con tàu cặp bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để chơi bời sa đọa, thì cậu ta đều cố ngăn cản bằng cách này hay cách khác. Nhưng không những đám thủy thủ không chịu nghe cậu, mà nhiều khi họ còn chế diễu nhạo báng cậu: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện tạ ơn Chúa trước khi ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn của cậu giấu đi chỗ khác. Khi cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát tục tĩu để chế nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người cậu. Để đáp lại, cậu thiếu niên chỉ mỉm cười bỏ qua và âm thầm cầu xin Chúa cho họ.
Một lần kia khi đang làm việc trên boong tàu, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu liền đến giành lấy bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm lấy cậu và hè nhau quăng cậu xuống biển. Thấy cậu bơi lại gần con tàu thì họ lại dùng cây sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu đã bị yếu sức dần. Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối và hét to rằng: “Các bạn ơi, hãy tin vào Chúa Giêsu thì các bạn sẽ được cứu độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi rằng: tôi đã được chịu chết vì danh Chúa Giêsu!” Nghe vậy, năm thủy thủ liền nhảy xuống biển đưa cậu lên boong tàu làm hô hấp nhân tạo. Một hồi sau cậu mới tỉnh dậy. Thấy mình còn sống, cậu đã cám ơn các bạn và lại tiếp tục kêu gọi họ đừng phạm tội nữa, và hãy quay trở về với Chúa. Kết quả là sau đó toàn thể các thủy thủ trên tàu đều xúc động trước tấm gương can đảm trung kiên của cậu. Không ai bảo ai, họ đã quỳ gối xuống cầu nguyện và tuyên xưng đức tin, đồng thời ăn năn sám hối để xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi của mình.
Tin mừng Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay đề cập đến đức tin của cộng đoàn môn đệ, và sự cứng tin của Tô-ma, tiêu biểu đức tin thực nghiệm của con người ngày nay như sau:
1) Tiến trình đức tin của cộng đoàn môn đệ vào mầu nhiệm Chúa phục sinh:
Sau khi Đức Giêsu chết và được an táng trong mồ, các môn đệ của Người tập trung tại nhà Tiệc Ly và vào buổi chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, họ đã được Chúa Phục Sinh hiện đến đứng giữa họ đang khi cửa nhà vẫn đóng kín vì sợ người Do thái. Họ rất vui mừng được nhìn thấy Chúa. Sau lời chào chúc bình an, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Rồi Người sai các ông tiếp tục sứ mạng Thiên Sai và ban Thánh Thần để các ông thi hành sứ mạng tha tội cho mọi người (x. Ga 20,19-23). Sau đó các môn đệ đã báo tin cho Tô-ma, người duy nhất trong nhóm vắng mặt khi Chúa Phục Sinh hiện ra. Họ nói: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”. Nhưng ông Tô-ma không dễ dàng tin Thầy đã sống lại. Ông đòi phải được gặp Chúa và chỉ chấp nhận tin Chúa sống lại sau khi đã được “mắt thấy tay sờ” như sau: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25).
2) Lượng giá về đức tin thực nghiệm của ông Tôma:
Ngày nay con người đã bước vào kỷ nguyên mới của khoa học kỹ thuật và chịu ảnh hưởng của tinh thần khoa học thực nghiệm. Họ luôn đặt dấu hỏi và hoài nghi mọi sự: Họ chỉ tin nhận sau khi đã tìm hiểu qua các bước như sau: Một là quan sát sự kiện và nêu giả thuyết. Hai là làm thí nghiệm để kiểm chứng giá trị giả thuyết. Sau cùng đề ra quy luật phổ quát để giải thích mọi trường hợp khác tương tự. Sự cứng tin của Tô-ma hôm nay phù hợp với lối suy tư khoa học thực nghiệm của con người thời nay. Thực vậy: Nguyên việc một người tín hữu sống tốt và ăn nói trung thực, nhưng lại có vốn hiểu biết hạn hẹp và hay bị kẻ khác lường gạt… sẽ không đủ uy tín để rao giảng đức tin và mời gọi người khác tin theo Chúa. Để chu toàn được sứ vụ làm chứng cho Chúa trong xã hội hôm nay, noi gương đức tin sáng suốt của Tô-ma, chúng ta cần tin vào Chúa Phục Sinh dựa vào Lời Chúa, vào đức tin của Hội Thánh qua các nghi thức phụng vụ. Rồi còn phải đào sâu về giáo lý Thánh kinh, cần áp dụng các kiến thức khoa học cơ bản trong việc lý luận và trình bày các mầu nhiệm đức tin một cách có hệ thống và chặt chẽ dễ hiểu và dễ tin hơn.
3) Cần canh tân việc loan truyền đức tin cho con người thời nay:
Trước đây người giáo dân dễ tin vào các linh mục, tu sĩ, hoặc cha mẹ, thầy cô… Khi học giáo lý, trẻ em dễ dàng tin vào những chân lý đức tin của Hội Thánh dạy mà không thắc mắc gì nhiều. Nhưng ngày nay và cho đến các thế hệ sau này, con người sẽ có sự đòi hỏi nhiều hơn khi nghe giảng dạy các mầu nhiệm đức tin để tin. Cần phải “nói có sách, mách có chứng”. Nếu không chứng minh bằng những sự kiện trong thực tế thì ít nhất cũng phải chứng minh sự đáng tin của các điều chúng ta rao giảng. Phải trình bày đức tin cách khoa học hợp tình hợp lý, có bằng chứng trong Thánh Kinh. Cần chú trọng đến những bằng chứng xác thực, lý luận chặt chẽ để giúp người nghe dễ dàng đón nhận chân lý. Dù đức tin là do ơn Chúa ban, nhưng nếu muốn cho việc rao giảng đức tin đạt được hiệu quả cao là được nhiều người thời nay đón nhận, thì đòi người rao giảng phải sống đức tin trước, và phải canh tân phương cách rao giảng kết hiệp với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.
4) Cần rao giảng đức tin bằng việc làm đi đôi với lời nói:
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã để lại cho chúng ta một phương châm thực hành như sau: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp Evangelii nuntiandi số 41). Con người thời nay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể mới tin. Do đó, người rao giảng cần phải chứng tỏ điều mình rao giảng trước hết bằng chính cuộc sống của mình. Thật vậy, ai mà tin được là Tin Mừng thực sự cái tin mà chính người rao giảng lại mang nét mặt cau có buồn thảm ? Ai mà tin được là Tin Mừng giải phóng con người khi chính người rao giảng lại đang ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi và làm nô lệ cho các đam mê bất chính? Ai mà tin được là Tin Mừng cứu độ khi chính người rao giảng lại có lối sống ích kỷ vô cảm, khi các thành viên gia đình của họ luôn bất hòa dẫn đến nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình?
Đức tin không phải chỉ là tuyên xưng các tín điều Hội Thánh dạy khi đọc kinh tin kính… nhưng là xác tín Đức Giêsu chính là “Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa”, là “con đường, sự thật và sự sống”… để sẵn sàng tín thác, cậy trông và sống chết cho Người. Làm thế nào để Lời Chúa chiếu soi vào cách suy nghĩ, nói năng và ứng xử của chúng ta; Luôn sống kết hiệp với Chúa như cành nho tháp nhập và hút nhựa sống là ơn sủng qua việc dự lễ và rước lễ mỗi ngày… Nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ ngày một đổi mới nên tốt hơn, ứng xử công bình nhân ái hơn và sẽ sống trong bình an hạnh phúc hơn. Nhờ đó, việc loan báo Tin Mừng của chúng ta se được người khác lắng nghe và là bước đầu giúp họ đón nhận đức tin để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Cậu bé trong câu chuyện trên đã bất chấp nguy hiểm, can đảm trung thành với Chúa và luôn làm chứng về Chúa, nên sau nhiều gian nan thử thách cậu đã thành công. Vậy để chu toàn sứ mệnh được sai đi, bạn cần làm gì để giúp con người thời đại hôm nay dễ dàng tin có Chúa và đón nhận các chân lý đức tin ?
Lạy Chúa Cha từ bi nhân ái. Xin cho chúng con mau mắn đáp lại tình thương cứu độ của Cha bằng việc sống đức tin thể hiện qua cách suy nghĩ nói năng và hành động, noi theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giêsu Con Cha. Xin cho chúng con biết rao truyền đức tin cho con người thời nay bằng lời nói, bằng sự hy sinh quên mình và khiêm tốn phục vụ những người bệnh tật đau khổ, hầu giới thiệu lòng thương xót của Chúa và giúp nhiều người tin theo để được hưởng ơn cứu độ.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Có một điều xem ra rất kỳ diệu, ngộ nghĩnh, khó chịu một chút, nhưng cũng lại thật dễ thương nơi con người của thánh Tôma tông đồ. Bởi vì, các môn đệ đồng môn, các người phụ nữ loan tin rằng: ” Chúa đã sống lại rồi “. Tôma vẫn cứng đầu muốn kiểm chứng những lời bạn bè, đám đông đang ồn ào kháo láo và loan truyền về Thầy Giêsu đã sống lại có thật hay không, có đúng hay không và những điều các tông đồ khác nói chúng tôi đã thấy, chúng tôi đã gặp Chúa Phục Sinh đúng như thế nào?
Trước thái độ của Tôma, Chúa đã nói: ” Phúc cho những ai không thấy mà tin “. Do đó, đức tin đòi khiêm nhường. Chỉ có sự khiêm hạ thẩm sâu, lòng tín thác tuyệt vời nơi Thiên Chúa, người ta mới dễ dàng chấp nhận. Thánh Gioan đã thấy mồ trống, các băng vải, khăn liệm, Ngài đã tin. Thánh Gioan đã tin Chúa sống lại như lời chúa nói trước và Kinh Thánh đã dạy. Maria Mácđala và maria khác tuy chưa thấy rõ nhưng các bà đã nhận ra dấu chỉ Chúa sống lại, nhất là khi Chúa gọi tên Maria, bà đã thưa ” Rabboni ” ( lạy Thầy ). Tôma một cách nào đó muốn nhõng nhẽo với Chúa Phục Sinh, nên Ngài cứ khăng khăng phải gặp được Chúa sống lại và ngón tay của mình phải xỏ vào lỗ đinh nơi tay, nơi chân Chúa và bàn tay của mình phải thọc vào cạnh sườn Chúa thì Ngài mới tin. Thái độ của Toma hoàn toàn khác với những người Pharisêu và những người khác. Chúa khiển trách Toma cách dịu dàng, chỉ bảo. Toma không cố chấp để rồi chối từ tin, nhưng là để thấy rõ hơn và rồi tin mãnh liệt hơn.
Đức tin là tiếng kêu. Nó phát xuất từ cõi sâu thẳm của trái tim, của cõi lòng con người. Tôma đòi điều kiện nhưng khi đứng trước mặt Chúa Phục Sinh, Toma sợ run, đó chính là nét dễ thương của Tôma và Tôma kêu lên: ” Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con “. Tin Mừng cho chúng ta thấy khi Chúa hỏi các môn đệ nghĩ sao về Chúa? Phêrô đã thưa: ” Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống “. Chúa đã lập tức nói với Phêrô: ” Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha Ta ở trên trời “. Chúa xác định đó là tiếng nói của đức tin. Các môn đệ khi thấy đám đông bỏ đi vì Chúa Giêsu nói tới Bánh trường sinh, các Ngài vẫn một mực thưa với Chúa qua tiếng của Phêrô: ” Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời “. Mácta cũng một lần tuyên xưng nơi Chúa: ” Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian “.
Đức tin là tiếng phát xuất từ đáy lòng và rồi con người nhận biết Chúa và nhất quyết sống niềm tin ấy qua đời sống hằng ngày. Người Kitô chỉ có thể sống niềm tin ấy khi họ thể hiện đức tin qua những việc làm cụ thể hằng ngày. Tình thương, đức bác ái và những cử chỉ tốt đẹp sẽ là những ánh lửa thắp sáng niềm tin, minh chứng cho bộ mặt đầy yêu thương của Chúa Kitô.
Như một vận động viên cầm ngọn đuốc Olympic chuyền qua tay vận động này tới vận động viên khác cho tới lúc anh châm ngọn đuốc sáng vào nơi để lửa Olympic chính thức đốt cháy suốt thời gian tranh tài…Đức tin phục sinh của mỗi Kitô hữu cũng phải được chuyền đi như ngọn đuốc Olympic…
Chúa Nhật II Phục Sinh được Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn là Chúa Nhật kính nhớ lòng thương xót của Chúa. Chúa luôn yêu thương nhân loại, yêu thương mỗi người, Ngài đã đổ máu của mình trên Thập giá để cứu độ con người. Ngài đã nói: ” Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu ” ( Ga 15, 13 ) ” Khi nào Ta bị treo lên cao, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “. Tình thương của Chúa được thể hiện trọn hảo nơi chính cái chết tự nguyện của Chúa trên Thập giá. Nữ tu Faustina đã được Chúa hiện ra và mạc khải: ” Lòng Thương xót của Chúa “.
Cử hành thánh lễ Chúa nhật II Phục Sinh, chúng con luôn tín thác nơi Chúa và luôn tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn một lòng tin tưởng vào Chúa. Amen.
(Sr. Margareta Maria Hiền)
Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng: trước đây anh vẫn luôn quỳ gối đọc kinh, liệu bây giờ vào quân ngũ rồi còn có tiếp tục quỳ gối không?
Lúc đầu anh cảm thấy ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Tại sao chỉ vì sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại thay đổi cách sống? Bộ mình vừa khởi đầu cuộc sống xa nhà là để cho thiên hạ sai bảo phải nên làm và không nên làm điều này điều nọ sao?”
Nghĩ thế anh liền quyết định cứ tiếp tục thói quen quỳ gối xuống đọc kinh. Khi vừa đọc kinh xong, lập tức anh nhận ra mọi người đang để ý anh, và khi làm dấu thánh giá, anh chợt nhận ra lúc ấy họ mới biết anh là một người Công giáo. Và xẩy ra là trong toàn trại lính chỉ có một mình anh là người Công giáo. Tuy nhiên, hằng đêm, anh vẫn quỳ gối cầu nguyện. Anh nói rằng mười phút cầu nguyện ấy thường dẫn đến nhưng cuộc tranh cãi kéo dài hàng giờ với các bạn khác.
Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
– Anh là người kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh đáp lại:
– Có thể tôi là người Kitô hữu dám công khai biểu lộ đức tin của mình, nhưng tôi không cho rằng tôi là người Kitô hữu tốt nhất đâu. Dầu vậy tôi cũng cảm ơn bạn về điều bạn vừa nói. ( Tuyển tập chuyện hay- Phương Tây)
Trong cuộc sống đức tin hằng ngày chúng ta phải đương đầu, phải chiến đấu với bao nhiêu thử thách nơi chính bản thân cũng như nhưng ngoại cảnh. Chính vì thế có nhưng lúc chúng ta đi mò mẫm trong đường hầm tăm tối; chúng ta hoài nghi niềm tin của mình.
Sống trong một thế giới hưởng thụ, vật chất dồi dào, tiện nghi đầy đủ, khoa học đang trên đà tiến triển mạnh mẽ, con người đòi hỏi mọi cái phải được chứng minh rõ ràng như 2+2=1 rồi mới tin. Cũng như thánh Tôma trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với các môn đệ: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Cũng như người thời đại ngày nay ông muốn những gì các môn đệ nói với ông về sự sống lại của Chúa Kitô thì chính mắt ông phải nhìn thấy, tay ông phải sờ vào vết thương của Ngài thì ông mới tin. Có nghĩa là niềm tin phải được chứng minh. Sau đó Chúa đã hiện ra với ông để củng cố lòng tin của ông, ông đã được toại nguyện, lúc đó ông mới vội vã thưa: ” Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.” Nhưng Chúa đã bảo: “Vì anh đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Vậy chúng ta là những người được Chúa chúc phúc vì chúng ta phải làm sao đức tin đó luôn sống động nơi chúng ta sống, môi trường chúng ta hoạt động. Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta vẫn trung kiên; những khi phải tuyên xưng đức tin của mình chúng ta không e ngại nhưng phải can đảm và cương quyết như Arthur Jones trong truyện và cũng có lúc chúng ta kiên tâm cầu xin Chúa tỏ một tia sáng niềm tin đến trong đời sống để chúng ta nhận ra Ngài như Ngài đã đến với thánh Tôma xưa.??
(Suy niệm của Lm Phêrô Phạm Ngọc Lê)
Phụng vụ trong ngày Chúa Nhật Phục Sinh nhấn mạnh đến mầu nhiệm Phục Sinh, Chúa Nhật hôm nay lại trình bày cho ta đặc biệt lời đáp trả của con người đối với mầu nhiệm ấy: một niềm tin tràn đầy hân hoan. Ong Tôma đôi lúc là hình ảnh của con người: đi từ hoài nghi đến tin tưởng vào Chúa Phục Sinh, đi từ việc tìm chứng cứ cho đến việc tuyên tín cách thâm sâu (Tin Mừng).
Cộng đoàn Giêrusalem tuyên xưng niềm tin vào sự Phục sinh khi họ họp nhau vào các ngày Chúa Nhật để nghe các Tông đồ giảng và cử hành việc bẻ bánh trong tình hiệp thông huynh đệ, dấu chỉ của mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 1).
Những lời giảng của Thánh Phêrô như đang vang vọng bên tai chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.” (Bài đọc 2)
Sứ Điệp Niềm Tin
Tin vào Đức Giêsu Kitô phục sinh là nền tảng của lòng tin kitô giáo. “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy thì…cả đức tin của anh em cũng trống rỗng….và chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người,” thánh Phaolô đã viết trong thư gởi tín hữu Corintô (1 Cor 15,12-19). Hơn nữa, nếu Đức Kitô đã không sống lại, chúng tôi là những chứng nhân giả của thiên Chúa, bởi vì đã chống lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Người đã cho Đức Kitô chỗi dậy từ cõi chết. Tuy thế, Thánh Phaolô tiếp tục xác quyết: “Đức kitô đã thực sự trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu.” Nhờ sự sống lại của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã xác nhận sự thật về toàn bộ cuộc sống và sứ mạng của Đức Kitô, những lời rao giảng, những việc Ngài làm để mạc khải và cứu độ con người. Phục sinh chính lời xác quyết rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ nhân loại.
Khi giải thích đoạn thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Corintô, ta có thể nói rằng, bởi vì Đức Kitô đã sống lại, nên kitô hữu chúng ta là những người có phúc nhất trên đời. Việc cộng đoàn kitô hữu tiên khởi họp nhau quanh các Tông Đồ và Mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu Kitô, để cử hành việc bẻ bánh, chứng tỏ niềm hạnh phúc tràn đầy ấy của các tín hữu. Lý do rất rõ: Đức Kitô sống lại là hoa quả đầu mùa, mở đường cho việc sống lại của các kitô hữu: hơn nữa, người kitô hữu tuy còn lữ hành trần thế, nhưng đã thông phần sự sống mới với Đức Kitô phục sinh rồi. Làm sao lại không vui niềm vui vĩnh cữu đó được?
Đó chính là điều Thánh Phêrô nêu lên trong bài Thánh ca phép rửa: “Chúa tụng Thiên Chúa là thân phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. (Bài đọc 2)
Trở lại với Thánh Phaolô, ta có thể nói: Làm chứng về sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là chúng ta dâng lòng kính phục con thảo lên Chúa Cha, Đấng là Chân Lý và Trung tín. Thiên Chúa tín trung, và vì thế nên Ngài đã không bỏ Con của Ngài dưới quyền sự chết; Ngài cũng sẽ chẳng bỏ một ai trong chúng ta, là những nghĩa tử của Ngài. Thái độ của Đức Giêsu đối với Tôma, Vị Tông Đồ (được gọi là cứng tin) phản ánh sự trung tín của Thiên Chúa dành cho những kẻ hoài nghi để dẫn đưa họ đến niềm tin, một niềm tin vững mạnh loại trừ mọi nghi vấn: ” Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con.” (Tin Mừng). Hội Thánh không ngừng tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại của Đức Giêsu Kitô qua suốt hai mươi thế kỷ, và ngày ngày vẫn tiếp tục minh chứng lòng yêu thương và trung tín của Ngài.
Gợi Ý Mục Vụ
Lời đáp trả của con người cho mầu nhiệm phục sinh luôn bất ngờ, dù con người có đón nhận như một dấu chỉ của ân sủng hoặc khước từ do sự giới hạn của tri khôn của mình. Dù được đáp trả bằng bất cứ cách nào, mầu nhiệm phục sinh vẫn luôn ” như thế”, không chút phai mờ hoặc bóp nghẹt. Với tư cách là linh mục, mục tử, ta đừng ngạc nhiên rằng, một đàng có nhiều đáp trả khác nhau cho chính mầu nhiệm cao sâu này.
Đàng khác, ta phải không ngừng rao giảng, làm chứng và làm sáng tỏ mầu nhiệm ấy như là điều duy nhất thiết yếu cho nhân loại, cùng cảm nghiệm niềm vui với các anh chị em chúng ta đón nhận và sống mãnh liệt mầu nhiệm Đức Kitô phục sinh. Ta cần rao giảng rõ ràng niềm tin vào sự sống lại là quà tặng, là ” dấu lạ” của Thiên Chúa thương ban. Ta lãnh nhận món quà này qua bí tích thánh tẩy, nhưng ta cần nuôi dưỡng nó, bảo vệ nó, và đánh giá một cách đúng đắn, để không có gì và không ai có thể nhỗ bật rễ niềm tin ấy ra khỏi lòng các tín hữu được.
Anh chị em giáo dân chúng ta, những người mà ta nhằm đến khi thi hành công tác mục vụ, chăm sóc, bảo vệ, cần phải làm gì để nhận thức đúng món quà đức tin, nhất là niềm tin vào Chúa phục sinh?
Là linh mục tôi phải làm gì, để giúp cho các anh chị em của tôi nuôi dưỡng, bảo vệ và trân trọng niềm tin này?
Ta cần giải thích cho các tín hữu niềm tin vào sự phục sinh không phải là điều phi lý, là điều ngược lại với những nguyên tắc tri thức của con người hoặc là điều xa lạ với cuộc sống đời thường. Có biết bao thực tế trong đời sống nhân loại mà con người đâu có hiểu được, thế mà vẫn tin như sự thật trước mắt?
Chẳng có gì là phi lý khi tin vào một ai đó có ” hiểu biết”, từ đó ta cần tin tưởng Thiên Chúa, là Đấng khôn ngoan tuyệt đối. Nếu không thể đặt đời sống con vật ngang bằng với đời sống con người thì sự sống lại phải là điều hết sức quan trọng. Nhưng con người không cảm thấy trong lòng rằng mình không thể bị hủy diệt sao (chết)?
Chẳng phải là một người ngoại đạo như thi hào Horace cũng đã thốt lên (Tôi sẽ không phải hoàn toàn bị hủy hoại (chết) đó sao?) Sự sống lại của Đức Giêsu Kitô chẳng những không xa lạ với cuộc sống con người nhưng còn là nền tảng vững chắc mang lại ý nghĩa đích thực tròn đầy cho nó nữa. Đức Kitô đã chỗi dậy, và tử thần đã bị chôn vùi.
(Sr Rosemary Nhàn)
Sau khi chỗi dậy từ cõi chết, món quà đầu tiên mà Chúa Giêsu trao tặng cho các môn đệ không phải là những gì kiêu sa, huy hoàng hay lộng lẫy, mà là một câu nói đơn sơ chất chứa tấm lòng chân thành thương yêu và săn sóc: ” Chúc anh em được bình an”. (Jn 20,19)
Chính vì yêu thương mà Chúa đã đi bước trước và sớm nhận ra nhu cầu thiết yếu của các môn đệ trong hoàn cảnh lúc đó. Chúa Giêsu đã trấn an, củng cố niềm tin và ban Thánh Thần để gìn giữ các ông. Một trong những điểm nổi bật khiến cho mỗi người chúng ta nên dừng lại và cùng suy tư tại sao Chúa Giêsu đã lặp đi lặp rất nhiều lần lời chúc bình an trong đoạn Tin mừng hôm nay.
Phải chăng Ngài muốn nhấn mạnh cho chúng ta biết ý nghĩa thâm sâu của nguồn bình an đích thực? Không có bình an của Đức Kitô, cuộc đời các môn đệ khi xưa cũng như chính mỗi người chúng ta hôm nay sẽ dễ dàng bị lún sâu trong phiền muộn, chán nản thất vọng và dần dần sẽ đánh mất đi niềm tin của mình.
Chính vì thế mà biến cố hiện ra của Chúa Giêsu là một niềm vui bất ngờ đối với các môn đệ. Trong lúc các ngài đang hoang mang lo lắng, sợ hãi vì mất Thầy, Chúa Giêsu đã kịp thời đến với họ, an ủi và đồng thời ban cho một niềm vui mới, một nguồn sinh lực mới.
Tuy nhiên để được đón nhận bình an đích thực của Chúa, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải có một đức tin. Đức tin là điều kiện tiên quyết để chúng ta có thể nhận lãnh ơn lành của Chúa. Đức tin vượt trên sự hiểu biết của con người. Qua đức tin, chúng ta mới nhận ra ánh sáng, chân lý, sức sống và niềm hoan lạc vĩnh cửu.
Chính vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đã phán: ” Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Jn 20,29). Đức tin là một ân huệ Chúa ban cho chúng ta, nhưng tự nó sẽ không lớn lên được nếu không có sự cộng tác của mỗi người trong việc xây dựng một nền tảng của lòng tin vững chắc. Do đó, đức tin đòi hỏi nơi con người trong việc xây dựng và một sự chấp nhận hoàn toàn khi trí khôn loài người không thể giải thích được. Hình ảnh Tôma trong bài Tin mừng hôm nay đã diễn tả cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Với lối suy nghĩa và lý luận của con người, Tôma đã không thể tin, cũng như không thể chấp nhận những lời nói của đồng bạn: ” Chúng tôi đã thấy được Chúa” (Jn 20,25). Tôma cảm thấy thật phi lý và có vẻ hoang đường! Để củng cố niềm tin, Chúa Giêsu đã trách Tôma: “Con hãy xỏ ngón tay con vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay con ra và đặt vào cạnh sườn Thầy; đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin.” (Jn 20,27).
Trong cuộc sống, có khi chúng ta khó chấp nhận những lời nói hoặc hành động của những người là chứng nhân tình yêu của Chúa. Vì lòng cứng cỏi, vì kém lòng tin, vì hoàn cảnh khó khăn, đau khổ vì cuộc đời lắm lúc như trong ngõ cụt không lối thoát…, ta tưởng chừng như Chúa không hiện diện trong đời ta. Nhưng không phải, Chúa vẫn ở bên cạnh từng người chúng ta, chỉ có điều chúng ta không nhận ra Người mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương ban thêm niềm tin cho chúng con, xin thánh hóa và hướng dẫn cuộc đời chúng ta luôn biết bước đi trong ánh sáng đức tin, hầu chúng con không dừng lại ở trí hiểu biết và lý luận nông cạn của con người. Xin giúp chúng con biết trao tặng bình an cho những người chúng con gặp gỡ cũng như những người hiện diện trong cuộc đời chúng con. Amen.
(Gn 20, 19-31): Chúng tôi đã xem thấy Chúa…
Anh chị em thân mến,
Còn niềm vui nào lớn hơn khi tìm lại được người thân, nhất là khi ta tưởng rằng họ đã chết vĩnh viễn. Thử tưởng tượng: sau trận sập cầu Cần Thơ, ta may mắn vô cùng vì tìm lại được người thân mà họ vẫn còn sống… hay trong trận bão số 5 ngày 02 tháng 11 năm 1997, giữa bao nhiêu ghe tàu bị mất tích, bao nhiêu người mất chồng, mất con, còn ta, ta lại may mắn trong gang tấc tìm được người thân trở về. Những hoàn cảnh nêu trên vô cùng giống với câu chuyện Chúa phục sinh của các tông đồ; họ tưởng rằng đã mất Chúa vĩnh viễn, nhưng bất ngờ sau đó đúng ba ngày, sáng Chúa Nhật, mấy bà nói Chúa đã sống lại. Rồi trong câu chuyện bài Tin mừng hôm nay đây, vào chiều tối Chúa Nhật, chính họ được xem thấy Chúa…Niềm vui nào diễn tả được đây? Trên môi miệng họ chỉ có một câu duy nhất: Chúng tôi đã xem thấy Chúa…. Xin mời anh chị em cùng suy niệm….
a/. Có một vài điều chúng ta cần lưu ý:
Khung cảnh câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay: diễn ra ở ba khoảng thời gian rõ rệt.- Thứ 1. Vào chiều ngày Chúa nhật phục sinh; có nghĩa: buổi sáng các bà đi ra mộ và thấy mộ trống; cũng có mấy bà nói đã được xem thấy Chúa sống lại. Chiều tối lại, chính hôm đó, Chúa hiện ra trong nhà Tiệc ly với hết mọi người, không có Tôma.- Thứ 2. Vào một ngày trong tuần đó, Tôma, đi đâu đó và trở về, họ bèn thuật lại cho ông nghe. Ông không tin.- Thứ 3. vào Chúa Nhật sau Chúa Nhật Phục Sinh, có thể cũng vào ban đêm, Chúa lại hiện ra với họ, có cả Tôma nữa. Chính Chúa đã sửa lòng cứng tin của Tôma…
b/. Lời Chúa nói với chúng ta ngày hôm nay cũng chính là lời các tông đồ truyền lại bằng câu này: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa..”
Bây giờ chúng ta thử tưởng tượng, như đang ngồi trong căn phòng lớn của một hội đường do thái, và đang nghe một vị tông đồ giảng về câu chuyện Chúa Giêsu vừa phục sinh… Vị tông đồ có thể nói thế này: “Thật vậy, Chúa Kitô đã sống lại. Chúng tôi đã thấy Chúa. Chúng tôi xin làm chứng về điều này.Trong chúng tôi, cả những người bị coi là cứng tin nhất như Tôma , cũng đã thấy và đã tin, đã nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa, đã tin rằng người đã sống lại. Lời truyền này của chúng tôi cho các bạn hôm nay, không chỉ là lời truyền trên môi miệng, mà còn truyền bằng cả cuộc sống của chúng tôi nữa. Chính niềm vui phục sinh đã biến đổi chúng tôi, từ những con người tham sống, sợ chết, thành những chứng nhân trung kiên cho Chúa Kitô. Hiện nay, trong chính anh em chúng tôi, như Stêphanô, như Giacôbê, đã dám đổ máu đào mình ra, không hề sợ chết, sẵn sàng làm chứng Đức Kitô đã chết, và nay đã sống lại vì chúng ta….Các bạn cũng thế, hãy vui lên, đừng buồn rầu nữa, vì Đức Kitô đã sống lại. Người anh em chúng tôi là Phaolô, tông đồ dân ngoại, đã nói một câu rất chí lý: Nếu Đức Kitô đã chết mà không sống lại, thì niềm tin của anh em thật vô ích…
Dù sao, chúng tôi là các tông đồ, những người xưa kia khi Chúa còn sống, đã cùng ăn cùng ngủ với Chúa, chúng tôi trong vui mừng và hi vọng, xin hết lòng làm chứng cho anh em rằng, Đức Kitô đã sống lại. Anh em hãy vui lên. Anh em đã theo Chúa trên đường Khổ giá, đừng dừng lại ở đồi Golgôtha, mà hãy tiến thẳng lên núi Tabor, nơi Chúa phục sinh vinh hiển….
Câu chuyện trên đây được coi là bài giảng của các tông đồ sau khi Chúa phục sinh, hay sau ngày lễ Ngũ Tuần cũng được. Thực ra, đó không hẳn là bài giảng, mà phải nói đó là những lời chứng hùng hồn, đanh thép, đầy xác tín, đầy niềm vui và hi vọng, vì họ đã thấy Chúa sống lại. Rõ ràng họ muốn trao cho người nghe không phải là những lời nói mà thôi mà cả niềm tin, xác tín….. đúng hơn họ muốn trao niềm vui phục sinh cho hết mọi người….
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa; điều đó các ông gọi là niềm vui phục sinh. Còn chúng ta ngày hôm nay, khi mừng lễ Chúa phục sinh, có phải đó cũng là niềm vui của chúng ta không? Trong bài Phúc âm này ghi, khi Chúa hiện ra, đến với các môn đệ, Chúa đều chúc bình an, và thực sự đã mang lại bình an cho họ. chúng ta có luôn là niềm vui và bình an cho những người chúng ta gặp gở không?
Bài Tin mừng này thuật lại hai lần hiện ra của Đấng Phục Sinh với các tông đồ sau khi Ngài sống lại. Lần đầu tiên không có sự hiện diện của tông đồ Tôma. Rồi sau đó tám ngày, lúc “các tông đồ họp nhau lại trong nhà, và có Tôma ở với các ông”, thì Đấng Phục Sinh lại hiện ra với họ một lần nữa. Khi nghe đọc đoạn Tin mừng này, chắc có lẽ trong tâm trí mỗi người chúng ta đều nghĩ tới sự cứng tin của tông đồ Tôma. Mặt khác, kết thúc đoạn Tin mừng này, thánh sử Gioan cũng viết: “Những điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng: Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người”.
Như thế, đức tin chính là chủ đề quan trọng của phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Để thấy rõ hơn điều này, chúng ta cùng xem lại các bài đọc Kinh thánh mà chúng ta vừa nghe.
Khởi đầu bài Tin mừng, thánh Gioan thuật lại: ” Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kính, vì sợ người Do-thái”. “Ngày thứ nhất trong tuần”, nghĩa là ngày thứ ba kể từ khi Đức Giêsu chịu chết trên cây thập giá, ngày mà Đức Giêsu đã ba lần báo trước cho các môn đệ là Người sẽ Phục Sinh (x. Mt 16, 21-23; 17, 22-23; 20, 17-19). Vậy mà các ông vẫn ở trong nhà “cửa đóng kín vì sợ người Do-thái”. Điều đó cho thấy: mặc dù đã đi theo Đức Giêsu, cùng ăn, cùng ở với Ngài suốt ba năm, đã nghe Đức Giêsu giảng dạy chung với dân chúng, cũng như nhiều lần tâm sự riêng với Ngài. Thế nhưng, các tông đồ vẫn chưa thật sự xác tín vào Đức Giêsu. Họ còn nghi ngờ, không biết lời Ngài nói có thật không. Tâm hồn họ đang hoang mang, xao xuyến.
Thế rồi ngay giữa lúc họ đang bối rối, băn khoăn như thế, Đấng Phục Sinh đã đến với họ. Ngài đã đi ngang qua ” cửa nhà còn đóng kín” để đến với họ. Vừa gặp họ, Ngài liền nói: “Bình an cho các con”. Đức Giêsu Phục Sinh đã đến và ban cho các tông đồ sự bình an, nghĩa là Ngài đến để ban và củng cố niềm tin của các ông, giúp các hiểu thấu tất cả những gì Ngài đã nói, đã thực hiện. Thậm chí, Ngài còn chiều lòng để hiện ra lần nữa với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”.
Như thế, chúng ta có thể thấy được: đức tin trước hết là một ân ban của Thiên Chúa. Ngay sau khi Phục Sinh, vào ngày thứ nhất trong tuần, chính Đức Giêsu đã chủ động đến với các tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông. Rồi sau đó, Ngài còn hiện ra lần nữa để củng cố lòng tin cho tông đồ Tôma, và qua Tôma, Ngài cũng muốn ban ơn đức tin cho mỗi người chúng ta.
Các tông đồ là những người đã chứng kiến tận mắt, sờ tận tay, nghe tận tai lời của Đấng Phục Sinh (1 Ga 1, 1-2). Các ngài chính là những chứng nhân sống động cho sự Phục Sinh của Đức Giêsu. Mặt khác, nhận được ơn đức tin, các tông đồ cũng không giữ cho riêng mình, theo lệnh của Đấng Phục Sinh, các ngài đã ra đi khắp nơi, loan báo cho muôn dân về Tin mừng Phục Sinh của Đức Giêsu. Như thế, đức tin của mỗi người chúng ta hôm nay, trước hết là một ân ban của Thiên Chúa, kế đến đức tin đó còn được đặt nền tảng trên các tông đồ là những thị chứng nhân đầu tiên của Đấng Phục Sinh.
Tuy nhiên, để đức tin này dù sao, cũng chỉ là một khởi đầu, để đức tin đó thực sự sống động, mỗi người chúng ta cũng cần đóng góp phần mình để mầm đức tin đó ngày càng được phát triển một cách sung mãn hơn.
Sách Công vụ tông đồ thuật lại: ” Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các tông đồ, việc hiệp thông huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện…Họ bán tài sản tài sản gia nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳ nhu cầu từng người”. Nhờ đó, “Hằng ngày, Chúa cho gia tăng số người được cứu rỗi”.
Dựa vào đó, chúng ta có thể nói rằng: đức tin của của các tín hữu ban đầu đã được nuôi dưỡng, và phát triển nhờ việc họ thường xuyên kết hợp với Chúa và chia sẻ với anh chị em.
Trước hết là việc kết hợp với Đấng Phục Sinh. Đây là điều hết sức quan trọng và cần thiết, nếu chúng ta muốn đời sống đức tin của mỗi người chúng ta ngày càng lớn mạnh và vững chắc, chúng ta cần thường xuyên kết hợp với Đấng Phục Sinh, bởi lẽ Ngài chính là Đấng ban ơn đức tin cho chúng ta. Các tín hữu thuở ban đầu đã kết hợp với Chúa bằng cách “bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các tông đồ, việc bẻ bánh và cầu nguyện chung với nhau”. Lúc đó, chưa có Thánh Lễ như chúng ta hôm nay, nhưng họ vẫn thường xuyên tụ họp với nhau để nghe lời giáo huấn của các tông đồ, rồi sau đó, họ đã cùng tham dự việc “bẻ bánh”, nghĩa là các tín hữu đã cùng tham dự sốt sắng bàn tiệc Lời Chúa, lẫn bàn tiệc Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể chính là lương thực không thể thiếu trong đời sống đức tin của mỗi người tín hữu. Chính vì thế trong tông thư “Mane nobiscum Domine!” về Năm Thánh Thể, Đức Thánh Cha Gioan – Phaolô II đã mời gọi chúng ta: “Hãy cử hành Thánh Lễ Chúa Nhật một cách trọng thể, biến ngày đó thành ngày của Chúa và ngày của Giáo Hội” (Sđd, số 23).
Và rồi cũng giống như hai môn đệ trên đường Emmaus, sau khi đã đón nhận được lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh, các tín hữu thuở ban đầu đã nhiệt thành ” bán tài sản tài sản gia nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳ nhu cầu từng người. Hằng ngày, họ hợp nhất một lòng một ý cùng nhau”. Nhờ đó, “Hằng ngày, Chúa cho gia tăng số người được cứu rỗi”. Như thế, đời sống bác ái chia sẻ, cùng với sự hiệp nhất yêu thương của mỗi người chúng ta từ trong gia đình cho đến cộng đoàn giáo xứ trong cuộc sống thường ngày, sẽ là một dấu chứng sống động cho thấy mức độ kết hợp của chúng ta với Đấng Phục Sinh. Cũng trong Tông thư nói trên, lấy lại lời của thánh Phaolô, Đức Thánh Cha Gioan – Phaolô II đã nói tiếp: “Việc cử hành Thánh Thể sẽ thiếu sót nếu không thực thi việc chia cơm, sẻ áo cho những người túng nghèo” (Sđd, số 28).
Cuối cùng, theo cái nhìn của thánh Phêrô trong bài đọc hai, đức tin của chúng ta còn được phát triển nhờ chính những thử thách, gian truân trong cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Những khó khăn trong cuộc sống của chúng ta chính là ” ngọn lửa” Thiên Chúa gởi đến để tôi luyện đức tin của chúng ta, để nhờ đó chúng ta “được ngợi khen, vinh quang và danh dự”.
Từ ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được nhận lãnh hồng ân đức tin. Giờ đây, noi gương các tín hữu thuở ban đầu, chớ gì từng người trong giáo xứ chúng ta cũng nhiệt thành, sốt sắng hiệp dâng Thánh Lễ và hiệp lễ mỗi ngày, nhất là ngày Chúa Nhật, để nhờ đó, đức tin của chúng ta ngày càng vững chắc hơn. Đồng thời, khi rời ngôi Thánh Đường này trở về nhà, chúng ta hãy sống yêu thương, hiệp nhất với nhau, như là một cách thế cụ thể nhất để biểu lộ niềm tin của chúng ta. Amen.
Ngày nay, người ta muốn đặt lại tất cả các vấn đề, kể cả vấn đề niềm tin Chúa Kitô phục sinh. Bởi thế, chúng ta không cảm thấy khó chịu với tông đồ Tôma, là người đã không muốn chấp nhận những gì người ta nói, và chống lại những điều được chấp nhận theo sự lôi cuốn của đám đông. Tôma khăng khăng muốn chính mình kiểm chứng điều mà các tông đồ khác nói lại là chính họ đã được thấy, được gặp Chúa Kitô phục sinh. Đúng ra ông không có lý do chính đáng để nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút thì chắc hẳn ông đã dễ dàng chấp nhận rồi. Nhưng như thế thì lại thiệt cho chúng ta, mất một bằng chứng cụ thể, sống động về Chúa Kitô phục sinh, và nhất là câu nói bất hủ của Chúa: ” Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Đàng khác, khiển trách Tôma kém lòng tin thì Chúa đã khiển trách với thái độ êm dịu và trìu mến. ” Tôma, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúng ta thấy khác hẳn khi Chúa khiển trách những người Pharisêu hay các tông đồ khác. Như thế, Chúa còn thông cảm nhiều với Tôma. Tại sao? Vì Chúa thấy những thiếu sót của Tôma: ông không chống đối để đi đến việc từ chối đức tin, nhưng là khát vọng thấy rõ hơn để tin. Bởi thế, trong thời đại chúng ta, có phản chứng chăng nữa thì cũng đừng ngạc nhiên và lo lắng, ngược lại, phải hy vọng, vì đó là thái độ tìm kiếm sâu xa, nó là dấu hiệu của lòng tin hoạt động và tự do, của những người đang tìm kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá ra những giá trị chân thực. Do sự tìm kiếm này người ta nhận ra được điều chính yếu của Kitô giáo là đức tin. Điều chính yếu ở đây là tin vào Đức Kitô.
Vậy đức tin là gì? Đức tin là tiếng kêu. Thật vậy, Tin Mừng đã nói lên như thế. Khi Chúa Giêsu hiện ra đứng trước Tôma, thì ông run sợ và phát ra tiếng kêu này ” Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Phải chăng chính những lời bộc phát đó đã diễn tả điều sâu thẳm nhất nơi tâm hồn người ta? Phải chăng đó là tiếng nói của trái tim, của tâm hồn, khác hẳn với sự đắn đo so nghĩ của con người để tìm những lời lẽ hợp tình hợp lý, trước khi muốn nói lên?
Những nơi khác trong Tin Mừng cũng cho thấy cảnh tương tự, như lời tuyên xưng của Phêrô. Khi Chúa hỏi các môn đệ: ” Người ta bảo Thầy là ai?”, thì Phêrô đã trả lời mà kêu lên: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Và Chúa đã xác định ngay rằng đó là tiếng kêu đức tin: “Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha trên trời”.
Cũng vậy đám đông tụ họp bên Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh, lúc bấy giờ Chúa nói về bánh ban sự sống, Ngài làm cho họ chưng hửng khi Ngài quả quyết: ” Phải ăn thịt và uống máu Ngài mới được sự sống đời đời”, nghe Chúa nói thế họ bỏ đi, còn các môn đệ ở lại, Chúa hỏi: “Anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không?”. Một lần nữa, tiếng kêu lại vang lên và cũng là tiếng kêu của Phêrô: “Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Với Mác-ta, chị của Ladarô, Chúa đã hỏi bà: ” Thầy là sự sống lại và là sự sống, con có tin điều đó không?” Mác-ta trả lời: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Đó cũng là một tiếng kêu tuyên xưng đức tin.
Đức tin là một tiếng kêu, nhưng sau đó là gì? là nhận biết. Đối với một vật nào đó thì người tìm ra, khám phá được. Nhưng đối với một người thì người nhận biết. Đức Tin là nhận biết một Đấng. Đức tin giống như tia chớp nơi một người chồng đang chờ đợi một người vợ tương lai mà anh ta yêu thương. Và rồi, giữa đám đông, anh đã nhận ra người anh thương yêu, chỉ có mình nàng thôi. Đấng mà đức tin nhận biết là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài thôi.
Chúng ta tin Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi, chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống hằng ngày. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Bất cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều có thể rút ra một bài học. Dù muốn dù không, du khách nào cũng phải thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng của Người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính sách hay một phát minh mới như một đồ trang sức, mà ngược lại, họ tìm cách ứng dụng vào đời sống thực tế. Chẵng hạn Tê-lê-cân là một thành phố thuộc bang Ca-li-phoóc-ni-a, nổi tiếng vì cảnh đẹp, nhưng họ cũng nổi tiếng vì những phát minh và ứng dụng về điện tử và điện toán. Chỉ trong vòng 15 năm gần đây, thành phố đã trở thành kiểu mẫu của tinh thần thực tiễn của dân Mỹ. Chủ trương kinh tế và kỹ nghệ đi song song với nhau. Do đó, tất cả những ai có phát minh mới đều được các nhà kỹ nghệ đỡ đầu với tất cả mọi giúp đỡ để phát triển và tìm kiếm tiến bộ chung.
Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để làm bài học cho đức tin của mình. Chúng ta có ứng dụng đức tin vào đời sống hằng ngày không? Chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha nhân từ. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng một cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác, hân hoan, ngay cả khi gặp gian nan thử thách không? Chúng ta là tín hữu của Đấng đã sống và đã chết cho tha nhân, và là Đấng dạy chúng ta phải sống yêu thương, bác ái với mọi người. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của yêu thương, quảng đại, quên mình, tha thứ với mọi người không? Chúng ta tin có một cuộc sống mai hậu, vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh phấn đấu không?
Đức tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Giống như cái đèn được đốt lên, cần đặt ở chỗ cao để soi sáng cho mọi người, thì đức tin của chúng ta cũng cần phải được thắp lên chiếu sáng cho mọi người. Nó cần phải được đốt lên một cách liên tục trong cuộc sống hằng ngày.
Cuộc sống mỗi ngày với những độc điệu, phiền toái và thử thách của nó, chính là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của chúng ta. Những mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin của chúng ta. Xin Chúa cho cả cuộc sống của chúng ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Và xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn