GIÁO PHẬN PHAN THIẾT

http://gpphanthiet.net


CHÚA NHẬT PHỤC SINH Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9

CHÚA NHẬT PHỤC SINH Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
72591a5e f6de 4077 94cf 5f0e066cd334

CHÚA NHẬT PHỤC SINH

Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gioan
1Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2Bà liền về gặp ông Si-mon Phê-rô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?" 3Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4Cả hai ông cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 5Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 6Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, 7và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
8Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 9Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết.

SUY NIỆM 1: CHÚA KITÔ SỐNG LẠI THẬT
Lời Chúa: Chúa đã sống lại thật rồi, Alleluia! (Lc 24,34)
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Hôm nay Chúa Nhật Phục Sinh, chúng ta hân hoan mừng Chúa sống lại ra khỏi mồ, với niềm hy vọng sẽ được sống lại với Chúa, mặc dầu chúng ta còn phải trải qua nhiều gian lao thử thách ở đời, để thanh luyện tâm hồn chúng ta:
Giê-su Chúa đã phục sinh !
Thánh đô chấn động, tình hình đổi thay.
Tông đồ phấn khởi mừng Thầy,
Còn người biệt phái lo âu hoảng hồn.
Tin Mừng mãi mãi trường tồn,
Đổi thay cuộc sống và tôn vinh Ngài.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin cho chúng ta hết lòng tin Chúa sống lại và làm chứng cho Chúa, để được sống lại hưởng phúc với Chúa muốn đời.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đã sống lại vinh quang và đã ra khỏi mồ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã đánh bại thần chết và giải thoát chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa trao cho chúng con sứ mạng loan Tin mừng Phục sinh của Chúa cho hết mọi người. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen
Suy niệm:
“Người phải sống lại từ cõi chết”. Alleluia!
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Đây là lời hoan hô mà Giáo hội đã tuyên xưng từ thời các Tông đồ và hằng lặp lại từ đêm vọng Phục sinh đến lễ Ngũ tuần. Cái chết đau thương của Chúa Giêsu đã bao trùm bầu trời Giêrusalem, đặc biệt từ chiều thứ Sáu, nhất là trên tâm hồn của các Tông đồ, môn đệ tin theo Chúa Kitô, nay nổ tung và vỡ oà thành một tin vui: Chúa đã sống lại rồi. Alleluia!
Thưa anh chị em, Chúa đã sống lại rồi. Alleluia!. Tin mừng Phục sinh hôm nay vẫn mãi vang lên, vang lên mãi mãi như lời thánh Phêrô diễn tả trong bài đọc I hôm nay: “Chúa Kitô, Đấng mang Tin mừng đến cho nhân loại, và chữa mọi người bị quỉ ám, đã bị giết treo trên cây thập giá, nhưng ngày thứ ba Người từ trong kẻ chết sống lại”. Sự sống lại của Chúa Giêsu phá tan không gian buồn chán và thất vọng. Sự sống lại của Chúa Giêsu đã chiếu dọi vào đêm tối tội lỗi và thất vọng một luồng sáng mới: Ánh sáng Chúa Kitô. Nhưng với cấp lãnh đạo Do thái và ngay cả các tông đồ, sự sống lại của Chúa Giêsu không phải là một sự kiện hiển nhiên có thể được chấp nhận dễ dàng. Các bản văn tường thuật về biến cố này mang đầy những từ ngữ, những câu chuyện chứa đựng sự lo lắng, sự nghi ngờ không chắc chắn, kể cả tâm trạng hoài nghi của tông đồ Tôma: “Nếu tôi không thấy những dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin”. Nhưng Thiên Chúa đã kiên nhẫn giúp họ dần dần tiến sâu vào mầu nhiệm Phục sinh. Trước tiên là Maria Mađalêna, người đã phát hiện ngôi mộ trống, tuy có vai trò phụ thuộc trong Tin mừng nhưng bà đã được Thiên Chúa chọn để loan báo Tin mừng Phục sinh. Chính bà cũng phải từng bước dò dẫm trước khi đạt đến niềm tin vững mạnh, không những tin vào biến cố, nhưng tin vào con người của Thiên Chúa Phục sinh. Kế đến là các tông đồ, mặc dù đã được thông báo về ngôi mộ trống, và lời chứng của các phụ nữ đã gặp Chúa Phục sinh, các ông vẫn không tin. Nhưng Thầy Giêsu đầy kiên nhẫn đã vận dụng mọi cơ hội thuận tiện để dẫn đưa họ từng bước đến niềm tin Phục sinh. Hai tông đồ Phêrô và Gioan chứng thực bằng giác quan tỏ tường, và rồi những lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục sinh với những chứng tích trên thân xác Người, những phép lạ và Giáo huấn của Người đã giúp các tông đồ dần dần trở thành nhân chứng cho mầu nhiệm Phục sinh. Và sau cùng, hai môn đệ trên đường Emmaus đã đồng hành với Chúa Giêsu Phục sinh trong suốt một ngày đường mà các ông vẫn chưa nhận ra Người. Tới khi Chúa cầm lấy bánh, trao cho các ông, các ông mới nhận ra Người.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hôm nay mừng Chúa Phục sinh, chúng ta được mời gọi vang lên: Chúa đã sống lại rồi. Alleluia!. Điều đó giúp chúng ta xác tín rằng, Chúa Giêsu đã tử nạn và đã Phục sinh. Niềm tin ấy phải được biểu lộ trong từng chi tiết của cuộc sống đời thường. Niềm tin ấy phải được minh họa trong từng ánh mắt, nụ cười, trong từng nghĩa cử yêu thương. Niềm tin ấy phải chiếu tỏa bằng những tấm gương sáng ngời. Sống niềm vui Phục sinh là bằng lòng chết đi cho những đam mê của xác thịt; mai tang tính ích kỷ, tham lam, háo danh trong mộ đá, là trỗi dậy sau những lần thất bại đắng cay, những mất mát đớn đau trong cuộc đời như lời thánh Phaolô nhắc nhở: Chúng ta là những người đã được trỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải hướng lòng trí về Người và tìm kiếm những gì trên cao nơi Thiên Chúa ngự trị để được hưởng vinh quang phục sinh với Người.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta can đảm vượt qua những khổ đau và thử thách, vì Chúa đã Phục sinh. Xin cho chúng ta biết chọn Chúa trong cuộc đời này là cùng đích để mai sau chúng ta cũng được sống lại với Người. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
SUY NIỆM 2: NIỀM VUI NGÀY CHÚA SỐNG LẠI
Các bài đọc lời Chúa trong ngày đại lễ hôm nay, đều tập trung diễn tả cho chúng ta thấy niềm vui của ngày Chúa sống lại.
Bài Tin mừng cho biết, khi nhìn thấy tảng đá lăn ra khỏi mồ, mặc dầu lúc ấy Maria Mađalêna chưa hiểu chuyện gì, nhưng bà đã vội vã chạy về báo tin cho các tông đồ được biết. Phêrô và Gioan cũng thế, khi hay tin, các ông đã cấp tốc và hối hả chạy đến để xem sự việc đã xảy ra. Các ông đã thấy và đã tin vào những gì mà Chúa Giêsu đã nói.
Anh chị em hãy nhớ lại cái khung cảnh ngày Chúa chịu chết: đen tối và ảm đạm như thế nào! Phêrô thì run rẩy ẩn khuất sau một góc tối của đoàn người ồ ạt, và 3 lần dõng dạc nói với mọi người rằng: “Tôi không hề biết Ông ấy”. Các tông đồ khác thì nhốt mình trong một căn nhà đóng kín cửa vì sợ hãi. Còn các môn đệ thì sầu não và mặt mũi ủ dột quay về làng quê Enmau trong buồn bã và tuyệt vọng.
Thế nhưng trong bài đọc I, tác giả sách Công vụ tông đồ cho biết, sau khi hay tin Chúa đã phục sinh, các tông đồ đã vỡ òa niềm hạnh phúc. Nếu như trước đây các ông u sầu và sợ hãi, thì bây giờ các ông lại vui mừng và hân hoan ra đi rao giảng về Chúa Giêsu đã chết và nay đã sống lại khải hoàn, như những gì mà Ngài đã từng tiên báo.
Quả thật, việc Chúa Giêsu sống lại đúng là niềm vui cho toàn thể nhân loại thưa anh chị em. Ngày hôm nay, mỗi khi cử hành lại biến cố trọng đại này, Giáo Hội muốn cất cao lời tụng ca “Alleluia, Chúa nay thực đã phục sinh”, để 1 lần nữa diễn tả niềm hân hoan vui mừng ấy.
Nhưng vấn đề là: Làm sao để mỗi người chúng ta có thể hưởng trọn vẹn niềm vui của ngày hồng phúc này? Có 2 việc làm cụ thể sau đây:
Thứ nhất, trong bài đọc II, Thánh Paul mời gọi mỗi người hãy biến đổi con người mình, hãy loại bỏ men cũ và mặc lấy men mới là lòng tinh tuyền và chân thật mà ăn mừng đại lễ; hãy hướng về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng ràng buộc mình vào hạ giới là những điều tạm bợ ở trần gian này.
Điều này cần lắm thưa anh chị em. Bởi có những người năm nào cũng sốt sắng đi lễ mừng Chúa phục sinh, về nhà còn ăn mừng lễ tưng bừng; nhưng rồi cứ mãi ù lì trong tội, ù lì trong các thói hư tật xấu. Có những người tuy tin Chúa Phục Sinh, nhưng chẳng thấy tha thiết gì với các thánh lễ hằng ngày, và các việc đạo đức khác. Lại có những người hát thật to “Alleluia – Chúa đã sống lại”, nhưng về tới nhà, vợ mình - chồng mình – con cái mình – hay ngay cả hàng xóm láng giềng cũng không sao sống nổi với mình.
Con người cũ là vậy đó thưa anh chị em. Mỗi người cần phải loại bỏ những việc làm đen tối ấy. Hãy mặc lấy con người mới – con người đã được tái sinh, để niềm vui phục sinh có thể ngập tràn trên chính đời sống đức tin của mỗi chúng ta.
Và thứ hai, niềm vui được chia sẻ vốn là niềm vui được nhân đôi.
Chắc anh chị em cũng nhận thấy điều này, con người hôm nay đang đối diện với rất nhiều lo âu, trăn trở và sợ hãi. Hãy mang niềm vui phục sinh đặt vào trung tâm cuộc đời của những anh chị em ấy thưa cộng đoàn. Hãy nói cho họ biết rằng, Chúa chúng ta cũng đã từng trải qua đường thương đau khổ ải nhân gian như thế, nhưng Ngài đã phục sinh và mở ra cho chúng ta một nguồn sống mới là sự sống đời đời; để những anh chị ấy cũng giống như chúng ta đây, nhìn thấy ánh sáng của niềm hy vọng hầu có thể vượt những khó khăn, lo âu và trăn trở đang gặp phải trong cuộc sống này.
Tóm lại, lời Chúa và khung cảnh của ngày đại lễ hôm nay muốn nói với chúng ta rằng: “Chúa nay thực đã phục sinh”. Mỗi người hãy hân hoan vui mừng về điều ấy, và hãy làm cho niềm vui đó được nên trọn vẹn, bằng cách: biến đổi bản thân mình trở nên một con người mới trong Đức Kitô, và mang tin vui phục sinh đến cho muôn người. Amen.
Lm. Antôn
SUY NIỆM 3: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN
Trong Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay, Giáo hội như muốn mời gọi chúng ta đi lại hành trình đức tin của các chứng nhân niềm tin Phục sinh đầu tiên, qua việc khám phá ngôi mộ trống để rồi cùng nhau tuyên xưng niềm tin CHÚA KITÔ PHỤC SINH và ra đi loan báo niềm tin đó cho muôn dân.
Điều đáng nói, ngôi mộ trống chỉ là dấu chỉ để nói lên Chúa Giêsu đã sống lại chứ không phải là bằng chứng đến chứng minh cho việc Chúa sống lại ấy. Cho nên, trước sự kiện ngôi mộ trống, chúng ta nhận ra những thái độ khác nhau. Có người cho rằng các môn đệ đã trộm xác và phao đồn trong dân rằng Chúa đã sống lại. Trong bài Tin mừng Gioan, chúng ta nhận ra có ba thái độ khác nhau. Bà Maria Mađalêna chạy về báo tin trong nỗi chua xót: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Phêrô thì Tin mừng chỉ dừng lại ở việc ông thấy những tấm băng vải và khăn che đầu Đức Giêsu được xếp gọn gàng, nghĩa là diễn tả sự “kinh ngạc” của Phêrô. Mãi sau này, khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh và đã nhận tràn đầy Thánh Thần, Phêrô mới hiểu tại sao ngôi mộ lại trống và tâm hồn ông mới mở ra để hiểu lời Thánh Kinh, như lời ông đã rao giảng trong bài đọc I: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường”.
Còn Gioan thì đã thấy và đã tin. Cũng như Phêrô, ông cũng thấy những tấm băng vải và khăn che đầu Đức Giêsu được xếp gọn gàng, nhưng đi xa hơn Phêrô, ông còn thấy hiện lên trong đầu mình những lời Kinh thánh (Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết), những kỷ niệm về Thầy, đặc biệt lời tiên báo của Thầy mình: Thầy sẽ bị nộp vào tay người đời, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại và ông tin rằng Thầy đã Phục sinh. Từ thấy đến tin, đó là một bước nhảy. Chính tình yêu, sự gần gũi, gắn bó với Thầy mình, ông đã thấy những điều mà người khác không thấy và tin rằng Thầy mình đã sống lại. Niềm tin của ông sẽ dần dần được chính Đấng Phục sinh và Chúa Thánh Thần củng cố và hoàn thiện.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ
Đức kitô đã chết và đã sống lại – đó là lời rao giảng trung tâm của các Tông đồ, là trọng tâm, nền tảng của niềm tin kitô Giáo, bởi như lời Thánh Phaolô:Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả của Thiên Chúa, bởi vì đã chống lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Người đã cho Đức Kitô trỗi dậy”. Đó còn là Tin Mừng mang lại ơn cứu độ cho chúng ta, đưa chúng ta vào trong đời sống mới – đời sống trong Đức Kitô Phục sinh.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta bước đi trên hành trình đức tin của các tông đồ (là những chứng nhân đầu tiên), để khám phá Chúa Giêsu đã sống lại qua “ngôi mộ trống”, hay nói cách khác, qua “ngôi mộ trống”, chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại và đang hiện diện với chúng ta theo cách thế của Thiên Chúa. Hôm nay, giữa ngôi mộ trống của cuộc đời với những đau khổ, bệnh tật, với những thất bại hay đắng cay, liệu rằng chúng ta có nhận ra được Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện với ta như người môn đệ Chúa yêu nhận ra hay không? Hay là chúng ta trách móc Chúa: Chúa ở đâu trong những đau khổ của con?
Xin Chúa Phục Sinh mở đôi mắt tâm hồn chúng ta, để giữa khó khăn, đau khổ, chúng ta luôn nhận ra Chúa đang hiện diện với ta; nhờ đó, ta tiến bước về quê hương Nước Trời trong niềm vui, bình an và hy vọng; cũng như hân hoan (“chạy” như các môn đệ) loan báo về Tin mừng Chúa đã sống lại. ALL
 JB. Linh Ân

SUY NIỆM 4: NIỀM VUI PHỤC SINH  
Trước khi rời nghĩa trang các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị.
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đức Giêsu.
Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn.
Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…
Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.
Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu”.
Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.
Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”. diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh. Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.
Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.
Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.
Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.
Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn “tin tối đa”. Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.
Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.
Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.
Xin cho mỗi người Kitô hữu chúng ta biết sống niềm vui Phục Sinh một cách mạnh mẽ, để có thể làm chứng cho Chúa bằng một đời sống tốt đẹp chan hòa bình an và sức sống. 
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
SUY NIỆM 5: CHÚA KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI, ALLÊLUIA!
Khi Chúa Giêsu chết, các môn đệ đều buồn bã, sợ hãi và tuyệt vọng. Bây giờ không còn niềm vui được ở với Thầy, với Chúa. Không còn được nhìn thấy đám đông được ăn no nê trong sa mạc, người bệnh được chữa lành, tội nhân được tha thứ, người chết được sống lại... Và cả niềm hy vọng được cùng Thầy hiển trị trong “Nước của Thầy” cũng đã bị dập tắt.
Mọi chuyện dường như đã kết thúc, vì cái ác và sự chết đang thống trị.
Nhưng bóng tối đã bị đẩy lui. Sự thống trị của cái ác và sự chết đã kết thúc. Vì Chúa đã Phục Sinh. Sự Phục Sinh sáng ngời, và nhân loại đón mừng sự sống. Trong đêm Phục sinh, một niềm vui “điên rồ” đã sáng bừng lên ở khắp mọi nơi trên thế giới. Điên rồ, vì nó vượt qua mọi trí hiểu và mọi lẽ thường của nhân loại: Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, chịu đóng đinh trên thập giá, chịu táng xác trong mồ, nhưng sau ba ngày, Người đã sống lại. Người đã chiến thắng sự chết để từ đây nhân loại không còn nô lệ cho tội lỗi và sự chết nữa.
Chúa Kitô sống! Người không chỉ sống trong ký ức những người thân quen của Người, như khi người ta nói về một người đã khuất để lại một kỷ niệm sống. Chúa Kitô sống, không phải như người vừa được hồi sinh. Không! Chúa đã Phục Sinh ! Người đang sống bằng một sự sống dẫn đến một sự sống hoàn toàn khác, sự sống vĩnh cu, bao trùm toàn bộ hữu thể, thân xác và linh hồn.
Chúa Giêsu đã thực sự phục sinh. Tâm trí chúng ta tràn ngập niềm xác tín này; đây là lý do tại sao chúng ta tràn ngập niềm vui mà không ai có thể lấy khỏi chúng ta được.
Phục Sinh là chiến thắng của sự sống trên cái chết, là chiến thắng của tình yêu trên hận thù, là chiến thắng của ân sủng trên tội lỗi.
Lễ Phục Sinh định hướng lại cái nhìn của chúng ta. Dù sự ác và đau khổ không biến mất khỏi thế giới, khỏi cuộc sống và tâm hồn của chúng ta, nhưng Tin Mừng Phục Sinh mời gọi chúng ta đừng để bị ám ảnh bởi tất cả những điều tiêu cực này. Chúng ta không được quên điều này, là trên hết mọi sự, chúng ta có sự sống. Và chúng ta phải để mình biết ngạc nhiên trước sự sống, như chúng ta đã ngạc nhiên khi thấy sự sống quay trở lại cách mạnh mẽ vào mùa xuân vậy.
Bài đọc I trong đêm Vọng Phục sinh trình bày cho chúng ta cách Thiên Chúa tạo dựng thế giới. Người tạo dựng bằng cách kéo nó ra từ hư vô; từ hỗn loạn Người sắp xếp nó, và bằng cách đưa nó ra ánh sáng. Hôm nay, thế giới chúng ta đang sống vẫn còn sự hỗn loạn và bóng tối, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn tiếp tục công việc sáng tạo của Người để đưa thế giới và mỗi người chúng ta ra khỏi sự tối tăm và hỗn độn đó.
Đúng vậy, cái ác vẫn còn đó, nhưng Thiên Chúa vẫn đang làm việc để đánh bại nó. Và Người đã chiến thắng. Đây là sứ điệp Phục Sinh: không có gì cản trở hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa. Tội lỗi, sự ngu xuẩn, gian ác, hèn nhát trong tâm hồn con người,… không ngăn cản được sự sống của Thiên Chúa ngự trị. Những đau khổ của thế giới chúng ta, những khủng hoảng của xã hội chúng ta, những bi kịch của cuộc đời chúng ta không phải là dấu chấm hết cho mọi thứ. Bởi vì Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện nên sự sống luôn được sinh ra. Người Kitô hữu là môn đệ của Chúa Kitô, không phải là người tuyên bố rằng mọi thứ đều ổn, mà là người không để mình bị giam cầm bởi những điều xấu và tiêu cực, và là người kiên trì vun trồng những mầm mống của sự sống, là người xây dựng thế giới công bình và bác ái.
Đó không phải là những gì thế giới của chúng ta đang cần sao? Thế giới không cần những người bi quan tự nhốt mình trong nỗi buồn và sợ hãi. Thế giới cũng không cần những người vô tư ngây ngô, coi nhẹ những khó khăn trong cuộc sống. Thế giới cần những người thực tế, những người không rời mắt khỏi cái ác và chiến thắng nó bằng điều thiện, thế giới cần những người biết giữ niềm hy vọng, xây dựng công lý và là những người bạn đồng hành thân thiện.
Đó là tất cả những gì sự Phục Sinh của Chúa Kitô làm sống lại nơi chúng ta.
Chúa Kitô đã phục sinh để niềm hy vọng của chúng ta không phải là vô ích.
Chúa Kitô đã phục sinh để việc đấu tranh chống lại điều ác không phải là vô ích.
Chúa Kitô đã phục sinh để việc con người yêu thương nhau không phải là vô ích.
Trong đêm tối, ánh sáng phục sinh đã được thắp lên, và ánh sáng đó có thể chiếu soi vào chỗ sâu nhất, tối nhất của thế giới, của tâm hồn mỗi người.
Chúa Kitô đã sống lại! Allêluia!
Vâng, Người đã sống lại thật! Allêluia!
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

SUY NIỆM 6: ĐỨC GIÊSU VẪN SỐNG  
Sáng ngày thứ nhất trong tuần, khi đến thăm mồ Đức Giêsu, chị Maria Magdala phát hiện không có xác Đức Giêsu trong đó. Chị cho rằng có ai đã lấy xác Đức Giêsu và quăng đi đâu đó, vì có lẽ chị không biết mồ nơi chôn táng Đức Giêsu là tài sản của ông Giuse Arimathia. Chị chạy về báo tin cho các tông đồ, cụ thể là cho Phêrô và Gioan. Hai môn đệ này tới, và cũng nhận thấy xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Tin mừng Gioan cho thấy “người môn đệ đến trước”, đã thấy và đã tin (Ga.20, 8); tuy nhiên tin mừng lại không cho thấy ông tin điều gì. Theo tin mừng Maccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu Phục Sinh khi các chị phụ nữ báo tin Đức Giêsu đã phục sinh (Mc.16, 9-14).
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, khi các ông gặp gỡ Ngài. Trong lần hiện ra đầu tiên cho các tông đồ, Thomas không ở đó nên không thấy, nên ông đã không tin Đức Giêsu phục sinh cho dù các tông đồ khác và các chị phụ nữ loan tin cho ông. Tám ngày sau, khi Chúa Phục Sinh hiện ra với ông, ông mới tin. Phục Sinh, là điều vượt trên kinh nghiệm bình thường của con người, nên các tông đồ không tin Đức Giêsu Phục Sinh, cũng là điều dễ hiểu. Đã đành các tông đồ có kinh nghiệm người chết sống lại như trường hợp con trai bà góa thành Naim, con gái ông Giairô, Lazarô em của Matta và Maria, nhưng Đức Giêsu Phục Sinh khác với những người khác sống lại. Ngài vẫn sống nhưng người ta không giữ Ngài lại được. Ngài hiện ra và biến đi, không gì ngăn cản được Ngài.
Những người được Đức Giêsu phục sinh như Lazarô, con trai bà góa thành Naim, ai muốn gặp có thể tới để gặp họ. Đức Giêsu Phục Sinh thì không như vậy. Chỉ người nào Ngài muốn, người đó mới được gặp Ngài mà thôi. Trong khoảng 40 ngày, các tông đồ còn có thể gặp Ngài (Cv.1, 3); nhưng sau thời điểm này, không ai được diễm phúc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh nữa. Ai tin Ngài, là ngang qua những chứng nhân để tin vào Ngài. Đức Giêsu phục sinh là một biến cố mà người ta phải tin để biết. “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đều là những người được ơn đức tin. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân lớn lao. “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không nhờ Thần Khí” (1Cor.12, 3).
Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một hành vi tự do. Những lý chứng cho thấy Đức Giêsu phục sinh, không đạt được tính buộc người ta phải chấp nhận như luận chứng toán học 2+2=4. Người ta vẫn tự do để tin Đức Giêsu phục sinh hay không. Tin cũng là biết. Hai anh chị yêu nhau, người này nói yêu người kia, và người kia cần tin. Tin vào người khác, là một cách biết người đó. Tin ai đó, cho rằng những điều người đó nói hay làm chứng là đúng, và nếu không tin thì không thể biết được vậy.
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, sau khi các ngài đã được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Sau đó những ai tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đều phải tin qua lời chứng của các tông đồ. Các tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng rằng những gì các ngài nói là sự thật. Từ ngữ tử đạo (martureô) có nghĩa là làm chứng. Lời chứng đáng tin nhất, là lời chứng của người dám dùng chính mạng sống mình để bảo đảm rằng điều mình khẳng quyết là sự thật. Tất cả các tông đồ đều tử đạo trừ tông đồ Gioan.
Không tin Đức Giêsu Phục Sinh, đây là điều bình thường. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một ơn vô cùng lớn. Kitô hữu không ngạc nhiên khi người ta không tin Đức Giêsu Phục Sinh. Kitô hữu cũng biết rằng họ muốn người khác chia sẻ niềm tin với họ, là để người đó hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, đức tin là một hồng ân, là điều vượt khả năng của Kitô hữu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban hồng ân ấy cho người ta. Muốn ai Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu phải cầu xin Chúa ban ơn ấy cho người đó. Không phải vì người Kitô hữu giảng hay, dạy tốt mà người đó tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, không phải là chuyện con người có thể làm được. Đó là hồng ân của Thánh Thần.
Để có thể đón nhận đức tin, để có thể biết như người của Thiên Chúa, người đó phải có đời sống có thể đón nhận đức tin. Nếu một người có đời sống bất lương, nếu người đó chỉ tin vào mình, thì cũng khó có thể tin Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, đòi người đó phải đổi đời, phải có đời sống mới, phải sống lương thiện. Không sẵn sàng đổi đời để thành người lương thiện, người đó sẽ tìm mọi cách để biện luận từ khước tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
Kitô hữu không là những người mê tín, nhưng là những người ý thức mình được ơn đặc biệt. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân vô cùng lớn. Niềm tin này làm Kitô hữu có cái nhìn mới về thế giới, về Thiên Chúa, và về con người. Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương vô cùng. Và một khi biết Thiên Chúa yêu thương mình, mình có thể phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình vô cùng, Ngài sẵn sàng làm tất cả mọi sự để được mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
  1. Tại sao có những người trẻ hổ thẹn khi người khác biết họ là Kitô hữu?
  2. Đâu là lý do chính nhất làm bạn tin Đức Giêsu Phục Sinh?
Cố Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

SUY NIỆM 7: ÁNH LỬA PHỤC SINH 
Nếu cuộc đời của Đức Kitô bị chấm hết bằng cái chết thì quả đó là một thất bại ê chề, không hơn không kém. Thất bại vì không cứu được nhân loại. Thất bại vì phải chết nhục nhã dưới bàn tay con người. Chắc hẳn, sau khi đóng đinh Đức Giêsu lên thập giá, các trưởng tế và biệt phái đang dương dương nắm chắc phần thắng khi niêm phong cửa mồ với thân xác vô hồn của Ngài trong đó. Bao niềm mong đợi, tin tưởng của các môn đệ dường như cũng bị chôn sâu vào huyệt đá.
Thế nhưng, ngày thứ ba, sau hôm các tử tội bị xử tử, lúc trời vừa chớm sáng, Maria Magđalêna, kẻ được Đức Giêsu cải hoá cuộc đời, đã vội đi thăm mộ người ân nhân vĩ đại nhưng vắn số của mình. Nỗi xót xa thương tiếc thúc đẩy nàng ra bãi tha ma, khóc than cho niềm hạnh phúc quá ngắn ngủi. Ước mong của nàng là làm sao lăn được tảng đá lấp mồ, ướp chút hương trầm trên thân xác Giêsu, Đấng đã cứu mình khỏi vũng lầy tội lỗi.
Nhưng kìa, quân canh đâu rồi? Mồ trống. Xác Thầy biến mất. Chỉ còn các tấm khăn liệm được xếp lại để đó. Sững sờ. Hoảng hốt. Maria chạy ào về báo tin cho Phêrô và Gioan. Lập tức hai ông chạy bay ra mồ. Nét âu lo lộ trên khuôn mặt hai ông. Chuyện gì đã xảy ra? Phải chăng người Do thái không thoả mãn với cái chết tàn khốc trên thập giá của Đức Giêsu nên đã đánh cắp luôn xác Ngài để thủ tiêu? Hay có môn đệ nào đã lấy trộm xác lúc các lính canh đang ngủ? Nếu thế thì vô lý quá. Người ta đã cẩn thận niêm ấn cửa mồ và cho quân canh gác xung quanh cơ mà. Với lại, nếu ngủ thì làm sao biết được những kẻ trộm xác là các môn đệ? Nếu biết tại sao lại không ra tay ngăn lại?
Nhưng rõ ràng là chẳng có dấu hiệu nào của trộm xác. Các giây vải, khăn che mặt đều được sắp xếp gọn gàng. Tấm khăn liệm bó mình Đức Giêsu vẫn còn đó. Vị trí không có gì thay đổi như lúc táng xác. Nhìn vào thì trông như thân thể Đức Giêsu đã bị bốc hơi khỏi tấm khăn. Không có dấu hiệu gỡ ra.
Phêrô bước vào mộ và thấy như vậy. Gioan, người đến mộ trước nhưng vào sau, cũng thấy như thế. Nhưng Thánh kinh ghi nhận phản ứng của Gioan: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20:8).
Gioan đã tin gì? Phải chăng ông tin các lời tiên báo phục sinh của Đức Giêsu đã thành sự?
Chắc hẳn ngay giây phút “ông thấy” cũng là lúc ông nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19). Ông cũng còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12:40). Rồi sau lúc biến hình trên núi Tabo, Đức Giêsu cũng đã căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9:9).
Chưa hết, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Ngài cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18:31-33). Và mới đây nhất là lời tâm sự của Chúa Giêsu trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26:31-32).
Thế ra điều Gioan xác tín ngay khi bước chân vào mồ chính là: Đức Giêsu đã phục sinh. Niềm tin này không dừng chân nơi ngôi mộ trống, với các dải vải còn nguyên, nhưng tiếp tục được củng cố qua bao lần tiếp xúc ăn uống với Đấng Phục sinh của các môn đệ. Niềm tin ấy kiên cường đến độ các nhân chứng dám loan truyền với tất cả nhiệt tình, thậm chí dám hy sinh đến tính mạng cho niềm xác tín đó.
Thử hỏi có ai ngây dại khi lấy sự sống mình vun bón cho một sự chết. Nhưng nếu chỉ nói đến Chúa Giêsu phục sinh như một sự kiện của ngày hôm qua, và nếu sự kiện đó không gây một tác động chân thực nào trên cuộc sống hôm nay của tôi, thì đó cũng chỉ là một thứ ngây dại không kém.
Thế nên, âm vang của tin mừng Phục sinh phải trở nên động lực chi phối làm bừng dậy nếp sống đức tin của tôi, để rồi nó tiếp tục lan tới tất cả mọi người xung quanh. Điều đáng ghi nhận ở đây: tình yêu phải là động lực làm nên âm hưởng phục sinh.
Nhờ tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giêsu mà Maria Magđalêna đã thắng được nữ tính nhút nhát, dám đi ra mồ mả lúc trời còn tranh sáng tranh tối để trở thành người nữ đầu tiên loan báo tin mừng Phục sinh.
Nhờ tình yêu chân thành dành cho Thầy mình mà Gioan đã trở nên người nam đầu tiên, bằng niềm tin, khám phá ra tính chất bất diệt của tình yêu. Tình yêu không thể bị chôn vùi trong huyệt mả của khổ đau, u sầu, thất vọng, nhưng sẽ chảy tràn niềm vui, vinh quang, và sự sống. Tình yêu không thể chết với cái chết mục nát. Trái lại sẽ làm sống lại những gì tan vỡ.
Chính Tình yêu Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu Kitô tử nạn. Và chính Đức Giêsu Phục sinh đã mang lại niềm hy vọng chiến thắng trên mọi khổ đau, chết chóc, thất vọng của con người. Nên khi, mừng Chúa Phục sinh, một lần nữa tôi cầu xin Tình yêu của Ngài tác động và dẫn lối con người trong mọi quan hệ hàng ngày, từ vợ chồng con cái đến bạn bè thân nghĩa, từ gia đình làng xóm đến cộng đoàn xứ đạo. Để rồi như ánh lửa được đốt lên và chuyền thắp đến mọi ngọn nến trong đêm vọng Phục sinh thế nào, người tin vào Chúa Kitô cũng sẽ là ánh sáng do tình yêu Thiên Chúa đốt cháy và thắp lên nơi tâm hồn mọi người như vậy.
 
Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

SUY NIỆM 8: CÁC NHÂN CHỨNG PHỤC SINH
Có ba nhân chứng về Tin Mừng Phục Sinh được nhắc tới trong bài trình thật phục sinh của cuốn Phúc Âm thứ tư, đó là Maria Mácđala, Phêrô và Gioan. Họ được coi như các nhân chứng diện F1 duy nhất của cái biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: một tử tội đã chết treo trên cây thập tự, đã được mai tang trong mồ, thì nay đã sống lại. Thế nhưng chứng cứ lịch sử khách quan, hay tất cả những gì họ có thể chưng ra làm bằng chứng cho cái biến cố trọng đại ấy thì lại quá giản dị: ‘lúc trời còn tối, bà Maria Mácdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ’, Gio-an ‘tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó’, Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi, ‘ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi’… Chi tiết thật đấy, nhưng chỉ có thế; hầu như những chứng cứ họ đưa ra chẳng thuyết phục nổi ai! dầu vậy thì Gioan, một người trong số họ, vẫn đưa ra lời xác quyết hùng hồn; “Ông đã thấy và đã tin”. Chỉ với các tang chứng mơ hồ trên đã đủ để ông minh định, không phải chỉ một sự kiện mà còn cả một niềm tin có khả năng thay đổi cuộc sống của chính ông và của toàn nhân loại. Sau này ông còn dành trọn cuộc đời còn lại để loan truyền biến cố này, và sẵn sàng chết để minh chứng nó.
Tại sao lại như vậy?; chúng ta hãy cùng nhau đi vào tâm tình của các nhân chứng này, mong hiểu ra rằng: niềm tin Phục Sinh luôn gắn liền với các cảm nghiệm riêng tư sâu lắng nhất.
Phêrô: Khi chạy ra ngôi mộ, ông đang trải nghiệm một điều có thể coi là đáng xấu hổ nhất trong đời: phản bội Thầy mình. Qua kinh nghiệm sống, ông đã từng trải sự mỏng dòn của con người với bao tội lỗi và khiếm khuyết; vì thế mà ông rất chân thành khẩn khoản: “Lạy Thầy, xin xa con ra, vì con là người tội lỗi!” (Lc 5:8) Thế nhưng ông chưa bao giờ hình dung nổi sự yếu hèn của mình lại có thể rơi xuống tới mức hạ đẳng đến thế. Được chọn làm môn đệ tiêu biểu, ông đã từng quả quyết cách chắc nịch: “Cho dầu mọi người có bỏ Thầy, con quyết không bao giờ!” (Mt 26:33) giờ thì… ông đâu có ngờ mình lại như thế! Chính với cái trải nghiệm đáng xấu hổ này mà ông tiến vào ngôi mộ trống, quan sát đống vải liệm… để rồi tin. Niềm tin cho phép ông thoáng nhận biết, với các tang chứng vật chứng này, có một điều gì còn mạnh hơn cả cái chết, mạnh hơn cả sự đốn hèn của con người, mạnh hơn cả ‘chối bỏ Thầy’ mà ông đã phạm. Ngôi mộ trống đối với ông là cả một khám phá mới, một sức mạnh mới, một hy vọng mới: lòng nhân ái của Thiên Chúa (tỏ hiện nơi Đức Kitô) vượt trên tất cả, vượt xa hơn tất cả.
Gioan: là môn đệ được Đức Giêsu thương mến, ông đã cảm nhận được tình yêu đó trong bữa tiệc ly khi tựa đầu vào ngực Người, đã chứng kiến tình yêu đó khi nhìn thấy giọt máu hòa với nước cuối cùng vọt ra từ con tim bị đâm thủng của Người. Tuy nhiên, yêu bao nhiêu thì lại đau buồn thất vọng bấy nhiêu, nhất là khi ông phải chứng kiến: tình yêu nồng ấm đó đi tới hồi kết thúc, bị chôn vùi trong nấm mồ hoang lạnh. Khi tiến vào ngôi mộ mở toang, với các băng vải còn ở đó, Gioan lần đầu tiên nghiệm ra: tình yêu đó, không chỉ mãnh liệt, trọn vẹn, mà còn vĩnh cửu trường tồn. Tình yêu đó không những mạnh hơn cái chết hiểu theo nghĩa thông thường (đám chết vì yêu), mà còn chứa đựng một nội dung cho tới nay chưa từng được minh chứng: tình yêu đó vĩnh viễn toàn thắng sự chết, cả về thể lý cũng như trong diện tinh thần thiêng liêng, tới độ không gì ngăn cản nổi nó; bất cứ ai tin và chấp nhận tình yêu này sẽ không bao giờ phải thất vọng. Quả thật, ông được thuyết phục: Thầy Giêsu đích thực là sự sống lại, như chính Người đã từng tuyên bố, Người là sự sống vĩnh cửu trong tình yêu.
Maria Mácđala: nhân chứng số một của biến cố Phục Sinh trọng đại. Được đặc ân này có lẽ vì bà đã gộp được cả hai trải nghiệm của Phê-rô lẫn của Gio-an lại thành một. Trải nghiệm tội lỗi, đối với bà, là trải nghiệm của thân phận cả một kiếp người bị đầy đọa tới đáy vực thẳm, còn trải nghiệm yêu thương, là trải nghiệm gắn liền với việc gặp được lòng nhân lành thứ tha, đã nâng bà lên tới trởi. Cái cảm nghiệm được giải phóng đó do Thầy Giêsu mang lại đang thăng hoa thì đột nhiên rơi vào bế tắc cùng với cái chết Thập Giá của Người, đã bị chặn đứng sau hòn đá che lấp phần mộ. Chính vì thế mà bà khắc khoải muốn tìm lại Thầy cho bằng được: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”, đồng thời cũng nhận ra ngay cái chi tiết nhỏ, nhưng rất quan trọng đối với bà: ‘hòn đá đã lăn khỏi mồ’. Thầy Giêsu đã sống lại và ra mồ…, hòn đá đã được lăn ra, có nghĩa là giải phóng sẽ là vĩnh viễn, và thăng hoa sẽ là bất tận.
Là Kitô hữu, tôi không chỉ mừng lễ Chúa Phục Sinh, mà còn phải làm chứng nhân việc Chúa đã sống lại, hay đúng hơn làm chứng về một tình yêu tha thứ trở nên bền vững. Vậy thì hãy để tâm lắng nghe cảm nghiệm sâu lắng nhất trong tôi vào lúc này:  phải chăng đó có thể là cảm nghiệm của Phêrô, hay của Gioan, hay của Maria Mácđala, hay của cả ba gộp lại?
Lạy Chúa Phục Sinh, con vui mừng vì Chúa đã sống lại! Đời con đã không thiếu những trải nghiệm đớn hèn của Phêrô hay Macđala; con cũng không phải là không có chút ít trải nghiệm của Gioan, nhất là trong ơn gọi Kitô hữu, tu sĩ Sa-lê-diêng và linh mục của mình. Xin cho con hưởng trọn niềm vui Phục Sinh vĩ đại xuất phát từ chính những kinh nghiệm bản thân, để con có thể chân thành ca ngợi việc Chúa Sống Lại và loan truyền Tin Mừng Phục Sinh vẻ vang cho mọi người cách thâm tín và phấn khởi nhất. Amen.
 Cố Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB

 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây