Suy niệm Tin Mừng Lc 4:1-13
Đức Giê-su khởi đầu cuộc rao giảng Tin Mừng về tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa; rồi trong tư cách một người phàm, qua kinh nghiệm ‘cám dỗ’ nơi chính bản thân mình, Người cho thấy phải tiếp nhận Tin Mừng cứu độ đó như thế nào. Kinh nghiệm chiến đấu với cám đỗ này mang tính phổ quát, cách riêng có giá đối với Ki-tô mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh, không chỉ dưới khía cạnh luân lý nhưng nhất là trong thái độ tiếp nhận Tin Mừng. Càng là Ki-tô hữu, dầu là các linh mục - tu sĩ đã được tu luyện nhiều năm tháng, ai trong chúng ta cũng cần liên tục vượt thắng các cơn cám dỗ đánh trực tiếp vào niềm tin của mình.
Nói tới ‘cám dỗ’ thông thường ta nghĩ ngay tới điều gì đó cấm kỵ, thuộc lãnh vực luật lệ hay luân lý mà mọi người phải xa tránh; vì thế cho nên nhiều người cắt nghĩa trình thuật Đức Giê-su chịu cám dỗ như sau: Người bị ma quỉ cám đỗ về mê ăn uống, về tính khoe khoang hay tự tôn tự đại; nhất là sự hiện diện của ‘con quỷ’ lại càng làm cho vấn đề thêm vẻ ‘luân lý’. Đã sống trên đời thì phàm ai cũng bị ‘cám dỗ’ như thế thôi, chẳng cứ gì Đức Giê-su hay Ki-tô hữu; và như thế thì bài học của Đức Giê-su về chống trả cám đỗ càng ít giá trị khi mà ta muốn giới thiệu Người như ông thầy dạy luân lý (moralist). Điều này chắc chắn không đánh trúng trọng tâm, vì trước Người, đã có rất nhiều bậc thánh hiền thuộc nhiều tôn giáo và triết thuyết khác đã từng dạy và phổ biến những nền luân lý và đạo đức còn cao đẹp và cặn kẽ hơn, cũng như đưa ra các phương thế chế ngự hữu hiệu hơn nhiều. Họ không những giải thích bản chất của cám dỗ (tham, xâm, xi) mà còn dạy các phương pháp chế ngự vượt thắng (diệt dục, tự kỷ) rất căn cơ và bài bản. Nếu thế thì Ki-tô hữu chúng ta rút ra được điều gì qua bài học ‘chiến thắng cám đỗ’ của Đức Giê-su, khi mà Người không chỉ bị cám dỗ ‘luân lý’ về mê ăn uống, khoe khoang hay thống trị, mà sâu sắc hơn, Người đang cho thấy một kinh nghiệm chống trả thách thức đối với đức tin trong tư cách Ki-tô hữu?
Tôi thiết nghĩ mọi ‘tín hữu’ - bất luận thuộc tôn giáo nào (miễn là không thuộc hạng vô đạo) vẫn cho rằng đời mình được xây dựng trên niềm tin vào một đấng vô hình; có một điều họ cần làm, nhưng lại rất ít khi thực hiện, đó là duyệt xét xem mình thực sự mong đợi điều gì nơi đấng đó. Họ coi như chuyện đương nhiên, ‘niềm tin’ là chờ đợi Chúa (hoặc Trời, hoặc Phật, hoặc Thần Thánh) chu cấp cho cuộc sống mình được đầy no, sung túc; cao hơn thế nữa, để đời mình được thăng hoa trong thành đạt và danh vọng, được danh thơm tiếng tốt… và cao thượng hơn nữa là được đắc đạo, là đạt tới nhân đức thánh thiện, trọn lành. Niềm tin ‘kỳ vọng’ này hình như rất phổ biến nơi người ‘có đạo’ thuộc mọi tôn giáo, trong đó có cả Ki-tô hữu chúng ta nữa. Điều được coi như tất yếu, như lẽ thường tình này thì hôm nay lại bị Lời Chúa liệt vào loại ‘cám dỗ’, mà Đức Ki-tô trước nhất, rồi tới mọi Ki-tô hữu chúng ta, phải thắng vượt. Trong tư cách một con người đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha, Đức Giê-su đã nêu gương chiến đấu và chiến thắng cơn cám dỗ tinh vi này như thế nào? Thường tình ta sẽ nghĩ rằng, Thiên Chúa phải (truyền) biến những hòn đá thành lương thực để nuôi sống tôi… vì tôi đã tin vào Ngài, phải gìn giữ tôi “kẻo chân vấp phải đá”… vì tôi đã cậy trông nơi Ngài, phải ban cho tôi thành công, quyền lực, vinh quang, phúc lộc… vì tôi đã ”bái lạy, thờ phượng Ngài”.
Đối với Đức Giê-su, tin vào Thiên Chúa trước hết phải là lắng nghe, phó thác và qui về Thiên Chúa nhân ái cách trọn vẹn và vô điều kiện! Đặt bất cứ điều gì khác lên trên niềm tin phó thác tuyệt đối đó, cho dầu có là nhu cầu cuộc sống, là thăng tiến nhân bản, là trọn lành đạo đức…, thì đều bị coi là cám dỗ đối với đức tin. Trước lời cầu cứu khẩn thiết rất chính đáng của các môn đệ trong cơn bão táp: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi!” (Mc 4:38), hay của Phê-rô trong lúc bị chìm xuống nước: “Thầy ơi, cứu con” (Mt 14:30) thì Đức Giê-su vẫn luôn quở trách các ông là đã ‘sa ngã’ vào cơn cám đỗ đức tin: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Vì thế, vào đầu mùa chay thánh, thời gian mà Hội Thánh mời gọi con cái mình duyệt xét và củng cố niềm tin vào một Thiên Chúa đã tự hiến, đã chết và phục sinh để cứu độ, bài tường thuật về các cám đỗ Đức Giê-su đã trải qua khi khởi sự cuộc rao giảng Tin Mừng về Chúa Cha nhân ái cứu độ thật có ý nghĩa và đánh rất trúng trọng tâm; trong số các điều cần chấn chỉnh trong Mùa Chay thánh này, các Ki-tô hữu chúng ta (ngay cả các linh mục, tu sĩ) cần phải đặt việc chấn chỉnh đức tin lên hàng đầu:
-Phải chăng tương quan giữa tôi với Thiên Chúa (của Đức Ki-tô) vẫn chủ yếu là cầu xin cho được no đủ, được che chở, được thăng tiến trong nhân đức, trong tông đồ…?
- Niềm tin và phó thác tuyệt đối vào một Thiên Chúa từ nhân và hay thương xót, đã cho Con Một Người xuống thế để sống và chết cho tôi, đang ở mức độ nào?
- Trong cuộc sống Tin Mừng của tôi, giữa cầu xin các ơn huệ và phó thác tin tưởng cho tình yêu nhân ái, điều nào nổi trội hơn?
Mùa chay là thời gian để tôi suy nghĩ và trả lời các vấn nạn trên, nếu tôi thật sự muốn chân thành hoán cải!
Lạy Chúa! Mùa Chay là thời gian hồng phúc, là thời gian thuận tiện để con tiến xa hơn trong niềm tin vào lòng Chúa yêu thương. Xin cho con hằng biết chiêm ngưỡng Đức Ki-tô Cứu Chúa tự hiến trên Thập Giá, để không bao giờ con rơi vào cám dỗ đặt tin tưởng vào tình Chúa yêu thương chỉ thông qua các ân huệ mình nhận được. Qua Mùa Chay thánh này, xin cho con có được niềm xác tín vững chắc như Phao-lô: “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của đức Giê-su Ki-tô, cho dầu là…” A-men
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB