CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_C
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Lời Chúa: Cv 13,14.43-52; Kh 7,9.14b-17; Ga 10,27-30
DẪN NHẬP
Lời Chúa: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời” (Ga 10, 27-28).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 4 Phục sinh hôm nay cho chúng ta thấy mối dây liên kết mật thiết giữa Chúa Kitô, Đấng chăn chiên lành và cộng đoàn tín hữu là đoàn chiên của Chúa. Chúa Kitô là Mục Tử nhân lành của Hội Thánh, Đấng mẫu mực cho mọi vị chủ chiên:
Chủ chiên sống chết với đoàn,
Hy sinh tất cả chu toàn lệnh trao.
Chúa là người chủ tối cao,
Hiến thân chịu chết ai nào còn nghi.
Chiên ngoan phải biết khắc ghi,
Mến yêu gắn bó đừng khi nào rời.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta trở nên những con chiên ngoan ngoãn bước theo sự dẫn dắt của chủ chiên. Và xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn các bạn trẻ biết đáp lại tiếng Chúa cách quảng đại, dâng mình cho Chúa trong đời sống tu sĩ và linh mục, để phục vụ trong vườn nho của Chúa. Trong tâm tình, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa đến để chiên được sống và sống dồi dào. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa đã hy sinh mạng sống mình để cứu độ chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa là Mục Tử nhân lành dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ xanh tươi. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Cuộc xuất hành ra khỏi Ai cập vào miền Đất hứa của dân tộc Do thái đều nằm trong chương trình quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Họ như một đoàn chiên, Thiên Chúa không để họ bơ vơ tất tưởi một mình nhưng chính Ngài đã định liệu cho họ một chủ chiên để thay mặt Ngài hướng dẫn và dẫn dắt họ đến vùng Đất chảy sửa và mật. Qua dòng lịch sử, từ thời Môisen cho đến tổ phụ Apraham, và qua các thời đại của vua Đavít đều là mục tử. Vì thế, hình ảnh người chăn chiên và đoàn chiên trong Cựu ước đã được mô tả về Thiên Chúa như là Đấng chăn dắt dân Ngài mà ngôn sứ Êzêkiel đã dùng hình ảnh này để báo trước rằng: chính Chúa sẽ đến chăn dắt dân Israel như mục tử chăn dắt đoàn chiên.
Thưa anh chị em, lời tiên báo của ngôn sứ Êzêkiel về hình ảnh Đấng chăn chiên lành và đoàn chiên trong Cựu ước đã được minh chứng qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến để thay quyền Cha mà chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ đoàn chiên đã được trao cho Người. Người là mục tử nhân lành, còn ta là đoàn chiên của Người. Chính Người đã dùng hình ảnh người mục tử và đoàn chiên để nói lên mối liên hệ của chúng ta với Người: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời”. Chúa Kitô là Mục tử tốt lành. Người mục tử tốt lành biết chiên của mình và các chiên cũng biết người ấy. Sự hiểu biết chính là đời sống yêu mến, chăm sóc, gần gũi, thân mật, tin tưởng và phó thác trọn vẹn. Sự hiểu biết phát xuất từ tình yêu và sẽ dẫn đến tình yêu biểu lộ qua hành động như lời Người đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Chúa Giêsu hơn bất cứ một mục tử nào, đã biết từng người chúng ta với tất cả yêu mến, liên đới, chăm sóc, chia sẻ và luôn hết tình yêu thương đàn chiên. Người còn đặt chúng ta vào mối liên hệ giữa Người với Chúa Cha: “Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một”.
Có câu chuyện kể rằng, một nông phu nghèo bên Thụy sỹ, sinh được một người con trai ngộ nghĩnh. Vì là mùa gặt và muốn phụ giúp chồng, bà đã đem con ra đồng, đặt con ở một nơi trên bờ ruộng. Đang khi bà say mê với công việc, một con phượng hoàng to sà xuống cắp lấy đứa trẻ và bay đi. Sau khi nghe tiếng kêu ghê gớm của một người thợ gặt cùng, bà mẹ chạy theo chim phượng hoàng mặc cho gai đâm chân tay. Bà bò lên cả dốc núi, lên đến tận nơi bà vật lộn với chim phượng hoàng và giật lại đứa con vẫn ngủ yên trong khăn bọc.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hình ảnh của người nông phu trong câu chuyện trên đây, đã họa lại chân dung của người mục tử tốt lành là Chúa Kitô. Người đã chăm sóc các nhu cầu của từng người và nhất là Người đã hy sinh mạng sống để cứu nhân loại khỏi chết. Hôm nay, cùng với Hội thánh chúng ta mừng lễ Chúa Chiên Lành. Chúng ta hãy xin Chúa ban thêm nhiều vị mục tử tốt lành để chăm sóc đoàn chiên của Chúa. Những mục tử có trái tim biết yêu thương, sống hết mình vì đoàn chiên, luôn tận tuỵ chăm sóc, đi tìm và nuôi dưỡng đoàn chiên Chúa ủy thác như cha sở họ Art ngày đầu tiên tìm đường về Họ Art khi nói với một em bé: con hãy chỉ cho cha đường về Họ Art, cha sẽ chỉ cho con đường về thiên đàng. Chúng ta được diễm phúc sống trong đoàn chiên của Chúa. Được Chúa mời gọi trở nên những mục tử trong gia đình, thôn xóm và cộng đoàn. Chúng ta hãy biết vâng nghe và thực hiện các hướng dẫn của Chúa Kitô mục tử là Hội thánh Người. Chúng ta cũng có bổn phận cổ võ ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ không những bằng lời cầu nguyện mà còn bằng cả của cải vật chất nữa để Hội thánh có điều kiện huấn luyện và đào tạo. Đó là những nghĩa cử tốt lành của những con chiên trong cùng một đoàn chiên của Chúa Kitô.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta trở nên những mục tử tốt lành trong môi trường chúng ta đang sống, biết khám phá kế hoạch tình yêu của Chúa cho cuộc sống của chúng ta, can đảm bước đi trên con đường mà ngay từ đầu Người đã chọn cho mỗi chúng ta, và xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn các trẻ biết đáp lại tiếng Chúa cách quảng đại để phục vụ trong vườn nho của Chúa. Amen.
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Quang.
———
1. Đấng quy tụ muôn dân (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
1. Thiên Chúa ở bên ai đau khổ (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
2. Chúa Chiên Lành- (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
3. Để khỏi bị diệt vong (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
4. Mục tử nhân lành (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
5. Chúa đã gọi con (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Ơn gọi trong lòng Giáo hội (Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
7. Mục tử nhân lành. (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
8. Xem quả biết cây (Trầm Thiên Thu)
9. Vị mục tử nhân lành (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
10. Suy niệm Chúa Nhật 4 Phục sinh_C (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
11. Chúa Chiên Lành. (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
12. Chọn mà nghe (Lm. Vũ Đình Tường)
13. Các mục tử hãy nên giống Chúa Kitô (Lm. Vũ Xuân Hạnh)
14. Mục tử tốt lành với 3 chữ D (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
15. Tận hiến cho đoàn chiên (JM. Lam Thy, ĐVD)
16. Nhận diện mục tử và người chăn thuê (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
17. Chúa là mục tử nhân lành (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
18. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 4 Phục sinh_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
1. Ánh sáng muôn dân (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Chúa Chiên Lành (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Chiên tôi thì nghe tiếng tôi (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Mục tử xót thương (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
5. Chân dung vị Mục tử nhân lành (Lm. Văn Hào, SDB)
6. Tình yêu Mục tử (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
7. Mục tử tốt lành hiến mạng vì chiên (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
8. Ảnh hưởng (Trầm Thiên Thu)
9. Đức Giêsu – Mục tử đầy lòng thương xót (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
10. Ơn gọi (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
11. Nên một tình yêu (Lm. Jos. DĐh. Gp. Xuân Lộc)
12. Chủ chăn đượm mùi chiên (AM. Trần Bình An)
13. Chúa Nhật 4 Phục sinh_C (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
14. Vị mục tử của lòng thương xót (Lm. Giuse Trực)
15. Mục tử và chiên phải như thế nào? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
16. Trở nên mục tử của lòng Chúa thương xót (Lm. Đan Vinh)
17. Kim chỉ nam của mục tử và chiên (Dã Quỳ)
18. Người mục tử (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
19. Chúng theo tôi (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
20. Giêsu – Mục tử nhân lành (Huệ Minh)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Kinh Thánh Cựu ước thường trình bày Thiên Chúa như Đấng quy tụ muôn dân, vì Ngài là Đấng Sáng tạo muôn loài muôn vật. Ngài dựng nên con người và không ngừng chăm sóc như một người Cha. Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại, một gia đình bao gồm nhiều sắc tộc và ngôn ngữ, nhiều sắc thái văn hóa khác nhau, nhưng tất cả đều là anh em một nhà.
Thiên Chúa vừa là Cha, vừa là Mẹ đối với con người. Là Cha, Ngài hướng dẫn nhân loại với cánh tay mạnh mẽ uy quyền. Là Mẹ, Ngài bao bọc chở che với tình thương yêu dịu dàng. Chúa đã nói qua ngôn sứ Isaia: “Israel nói: ‘Chúa quên tôi rồi! Nào người mẹ có thể quên con mình được chăng? Nếu như có người mẹ nào quên con đi nữa, thì Ta cũng sẽ không quên ngươi!”. Tình thương yêu bao bọc của Chúa cũng giống như gà mẹ ấp ủ gà con, che chở con trước cuộc tấn công của sự dữ.
Giáo lý Công giáo dạy: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo. Hôm nay, Ngài vẫn đang tiếp nối công trình sáng tạo đó bằng sự quan phòng yêu thương dìu dắt che chở giữ gìn. Nếu Ngài không chăm sóc và giữ gìn, vũ trụ này sẽ trở về thời hỗn mang, giống như tình trạng trước khi Chúa thực hiện công trình sáng tạo. Người tín hữu luôn nhận ra sự quan phòng yêu thương đó, để tôn vinh, cảm tạ và cầu xin Chúa ban cho mọi ơn lành, đồng thời họ cố gắng để tuân giữ những gì Chúa dạy.
Thiên Chúa là Đấng quy tụ muôn dân, điều đó được diễn tả qua hình ảnh một mục tử. Các ngôn sứ, đặc biệt là ngôn sứ Edêkien và Giêrêmia, nhấn mạnh tới hình ảnh này. Mục tử và đoàn chiên, sói dữ và người chăn thuê, đồng cỏ và suối mát… đó là những điều rất quen thuộc đối với bất kỳ người Do Thái nào. Qua giáo huấn của các ngôn sứ, chính Thiên Chúa nhận mình là một mục tử. Ngài săn sóc đoàn chiên, nhất là đối với các con chiên ốm đau hoạn nạn.
Sau khi đã long trọng mừng lễ Phục Sinh, Phụng vụ Chúa nhật thứ bốn diễn tả Đấng Phục sinh như một mục tử. Vị mục tử ấy đã quên mình vì chiên, đã hy sinh mạng sống mình để đàn chiên được cứu rỗi. Tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, Chúa Giêsu sử dụng hình ảnh mục tử và đàn chiên, khi Người khẳng định: “Tôi là Mục tử nhân lành”. Trong tiếng Hy Lạp, “Mục tử nhân lành” cũng có nghĩa “Mục tử đích thực”. Nơi Đức Giêsu, có đủ những đức tính tốt của một mục tử, nhất là sự hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Khi Chúa Giêsu bị bắt trong vườn Cây Dầu, trước một đám đông lính tráng hằm hằm sát khí, Người nói với họ: “Vậy nếu các anh tìm tôi, thì hãy để cho những người này đi”. Tác giả Tin mừng còn thêm lời chú giải: ‘Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói: ‘Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai’ (Ga 18, 8-9). Đây chính là nét đẹp của một mục tử đích thực.
Cái chết của Chúa Giêsu đã quy tụ muôn dân. Đó cũng là điều Thượng tế Caipha đã nói. Dưới cái nhìn của tác giả Gioan, câu nói của thày Thượng tế mang tính tiên tri (x.Ga 11,51). Qua cái chết của Người, Thiên Chúa sẽ quy tụ mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối. Điều ấy đã được thực hiện ngày hôm nay, khi Tin Mừng Phục sinh được loan báo cho toàn thế giới. Cây thập giá như cánh tay dang rộng ôm lấy vũ trụ, nơi đó con mọi người thuộc mọi sắc tộc khác nhau.
Chúa Giêsu là Mục tử. Những ai tin Chúa sẽ trở nên con chiên trong đàn chiên của Người. Ngay từ thuở ban đầu, các tông đồ nghĩ rằng chỉ có người Do Thái mới có thể trở lại làm Kitô hữu. Với thời gian, các ông hiểu rằng Tin Mừng Phục sinh không chỉ dành cho dân tuyển lựa, vì Đức Giêsu là ánh sáng muôn dân, và ơn cứu độ nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Người được ban cho mọi dân tộc. Mặc dù các tông đồ gặp nhiều chống đối từ phía người Do Thái, các ông vẫn vững một niềm tin, mạnh dạn can đảm rao giảng Đức Giêsu Phục sinh, nhờ vậy mà cộng đoàn những người tin Chúa phát triển nhanh chóng. Chính sự ngăn cản của người Do Thái đã gợi hứng cho các Tông đồ vượt ra ngoài ranh giới Do Thái và đến với dân ngoại. Hai ông Phêrô và Barnaba khẳng định: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại”.
Khi so sánh cộng đoàn Giáo Hội với đàn chiên, Chúa Giêsu mong muốn quy tụ chúng ta trong tình hiệp nhất. Người cũng muốn chúng ta lắng nghe giáo huấn của Người. Giáo huấn của Người đem cho chúng ta hạnh phúc, như mục tử dẫn đưa đàn chiên tới đồng cỏ xanh, suốt mát lành. Người cũng là Đường, là Sự thật và là Sự sống đem lại hạnh phúc đời này và đời sau cho những ai tin vào Người.
.
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Ngài đã đến và ở giữa những mảnh đời cùng khổ. Suốt cuộc đời dương gian Ngài luôn sống với người nghèo và thi ân giáng phúc cho những người khổ đau. Đâylà mầu nhiệm Thiên Chúa ẩn mình. Ngài ẩn mình ngay trong đêm tối của cuộc đời, nhất là những cuộc đời bịlãng quên, bịcoi rẻ, bịđánh giá thấp, bịvùi dập và có khi bịloại trừ. R. Tagore đã cảm nhận điều đó nhưsau:
“Chỗ này là thảm hoa, nhưng Người không bước vào.
Người lại đứng nơi kia, bên những người nghèo khó.
Nơi này là chỗ cao, muôn người nghiêng kính chào.
Nhưng Người đứng nơi kia, bên hàng hạ nhân khốn cùng.
Người ở với người nông dân đang cày bừa.
Người ở với người công nhân đang đập đá.
Người đang đổ mồi hôi dưới nắng mưa từng ngày.
Và chân bùn tay lấm trong tấm áo tả tơi.”[1]
Hôm nay Chúa Giê-su ví tình thương của Ngài như tình thương của người mục tử. Người mục tử biết từng con chiên, lo lắng cho từng con chiên, chăm sóc cho từng con chiên, sẵn sàng chết cho đàn chiên. Chính Chúa đã từng nói: “Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong”. Thật là hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta, vì Chúa biết từng người chúng ta. Chúa lưu tâm đến từng hoàn cảnh của chúng ta. Chúa còn bao bọc chở che chúng ta bằng biết bao ơn lành hồn xác. Sống dưới sự chăm sóc của Chúa, chúng ta không chỉ hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh phúc cả đời sau, miễn là chúng ta biết nghe tiếng Chúa và bước đi trong đường lối của Chúa.
Tình thương của người mục tử không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc dưỡng nuôi chúng ta, mà con dám thí mạng sống mình vì chúng ta. Cái chết trên thập tự giá là bằng chứng hùng hồn cho một tình yêu lớn lao đến nỗi dám chết để đổi lại sự sống cho chúng ta. Ngài còn đi đến đỉnh cao của sự dâng hiến trọn vẹn là trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta. Với tấm bánh đơn sơ nhỏ bé, Chúa muốn hoà tan trong chúng ta để chúng ta được ở lại trong Chúa, và nên một trong Chúa. Qua đó, Chúa cũng muốn mượn lấy bản tính nhân loại của chúng ta, để Ngài lại có thể tiếp tục yêu thương và phục vụ cho đàn chiên được sống ấm no và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay rất cần những tấm lòng dám hy sinh cho nhau, dám vì lợi ích của tha nhân mà quên mình phục vụ, mà quảng đại trao ban. Thếgiới hôm nay rất cần những nhà lãnh đạo biết đứng về phía người nghèo để lắng nghe nhu cầu của họ hơn là với những tầm nhìn vĩ mô mà xa rời thực tế. Phần đông con người hôm nay cần cái ăn cái mặc hơn là trung tâm tráng lệ phồn vinh. Phần đông con người ngày nay cần được chăm học học hành, y tế chất lượng nhưng xem ra người nghèo vẫn bị bỏ rơi, vẫn thiếu thốn mọi nhu cầu cuộc sống.
Giađình hôm nay cũng rất cần những người cha, người mẹ biết quên đi niềm vui của bản thân để quan tâm lo lắng cho con cái. Nếu cha mẹ biết lưu tâm tới từng đứa con, biết canh chừng cho con khỏi sự dữ đang bủa vây thì chắc chắn con cái sẽ sống khoẻ mạnh và an vui.
Cámơn Chúacuộc đời hômnay vẫn còn đó, những con người đã từ khước niềm vui trong bậc sống vợ chồng, để dâng hiến phục vụ cho tin mừng Nước Trời trong bậc sống linh mục, tu sĩ. Cámơn Chúa, vìcuộc đời hôm nay vẫn tươi đẹp vì biết bao người cha, người mẹ, chấp nhận một nắng hai sương, lặn lội nơi ruộng vườn và ngược xuôi nơi bến chợ để lo cho từng cuộc đời những người con. Và còn đó biết bao người, tuy không danh phận giữa đời, nhưng sẵn lòng làm bất cứ điều gì, miễn là đem lại niềm vui cho anh em. Và còn rất nhiều những cuộc đời rất âm thầm đang vẽ lại hình ảnh người mục tử nhân lành, khiêm tốn cúi mình băng bó những vết thương đau của đồng loại bằng tình thương và phục vụ một cách quảng đầy hy sinh.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm nhiều vị mục tử tốt lành để chăm sóc đàn chiên của Chúa. Những mục tử biết hoạ lại khuôn mẫu của vị mục tử nhân lành luôn sống hết mình vì đàn chiên, luôn tận tuỵ chăm sóc đàn chiên của Chúa. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Ta là mục tử tốt lành,
Dẫn chiên tới suối, trong xanh ngọt ngào.
Đồng tươi cỏ mọc non cao,
Bên dòng suối mát, tuôn trào ước mong.
No đầy chan chứa phỉ lòng,
Đàn chiên theo bước, vào trong cánh đồng.
Lắng tai nghe ngóng ngắm trông,
Mắt nhìn hướng tới, chủ ông dẫn về.
Thỏa tình no đủ ê chề,
Tuân theo ý chủ, mọi bề đẹp thay.
Đàn chiên mục tử hôm nay,
Giê-su chăm sóc, đôi tay chữa lành.
Con nào yếu bệnh hoành hành,
Dù chiên hung dữ, cũng dành trông nom.
Chiên nào mập béo gầy còm,
Yêu thương chữa trị, ngó dòm xót xa.
Không ai cướp khỏi tay Ta,
Cũng không hư mất, rời xa khỏi đàn.
Chúa Chiên đi trước dẫn đàng,
Quy về một mối, thiên đàng ngày sau.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh người chăn chiên để diễn tả sự quan tâm và lòng yêu thương chăm sóc của Chúa đối với con dân của Ngài. Chúa Giêsu tự giới thiệu Ngài là Mục tử tốt lành. Mục tử yêu thương và chăm nom từng con chiên. Chúa Giêsu phán: Chiên Tôi, thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Chúa đặc biệt yêu thương những con chiên bệnh hoạn, ghẻ lở và xa lạc. Chúa qui tụ chúng thành đoàn chiên và chăm dẵm chúng. Ngài đi trước, chúng theo sau, dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi.
Chúa Giêsu biết tên từng con chiên và những nhu cầu riêng của nó. Ở Phi Châu, có một bộ lạc, người ta không bao giờ đếm. Họ không biết tí gì về toán học. Có người hỏi người dân bản xứ: Nhà ông có bao nhiêu con chiên. Ông đáp: Tôi không biết. Vậy nếu lỡ mất một hay hai con, làm sao ông biết. Câu trả lời thật ý nghĩa. Ông nói: Không phải tôi mất một con số mà là mất một hình dáng, một bộ mặt. Mất một khuôn mặt dễ thương.
Mỗi người có một nét riêng tư. Trong Giáo Xứ hay Cộng đoàn, khi chúng ta thấy vắng bóng người nào, chúng ta không mất một hay hai người bỏ nhà thờ. Chúng ta mất chính khuôn mặt hiện diện hàng tuần nơi hàng ghế này. Là mục tử tốt lành, Chúa biết tính tình và sở thích của từng con chiên. Nếu một người mục tử tìm hiểu được nhu cầu cuộc sống của từng tâm hồn và sẵn sàng giúp đỡ. Người mục tử tốt lành dám xả thân mình vì đoàn chiên.
Người mục tử tốt là người dám tiến thân đi trước làm gương mẫu cho mọi người. Truyện kể: Một người mục tử dẫn bày chiên đến bờ suối, nhìn dòng nước chảy, tự nhiên cả bày sợ hãi. Người mục tử không làm sao thôi thúc chúng qua suối được. Cuối cùng, ông bế một con cừu non, cùng đi với nó xuống dòng nước và dẫn qua bờ bên kia. Khi cừu mẹ thấy con mình ra đi, nó quên cả sợ hãi và phóng theo. Thế là cả đàn cừu nối đuôi nhau theo sự hướng dẫn của người mục tử.
Chúa Giêsu chọn một hình ảnh tuyệt đẹp để diễn tả cộng đoàn dân Chúa. Hình ảnh người mục tử tốt lành đi trước, đàn chiên theo sau. Ơn gọi làm tông đồ nơi mỗi người như Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ Nam Nữ, các Gia trưởng, các Hiền mẫu, các Phụ huynh và các Thầy Cô là những người có trách nhiệm hướng dẫn, dậy dỗ, coi sóc và nuôi dưỡng đàn chiên. Chúng ta phải là những người mẫu mực, tốt lành và yêu thương con cái trong mọi hoàn cảnh dù xấu, dù tốt. Đó chính là hình ảnh người mục tử tốt lành.
.
Lm Ignatio Trần Ngà
Trong các loài thú thì chiên cừu là con vật hiền lành nhất và cũng yếu đuối nhất. Những loài mãnh thú như sư tử, hổ báo… là những con thú hung tợn, có nanh, có vuốt lại có sức mạnh và sự lanh lẹ phi thường nên có thể dễ dàng quật ngã những loài thú yếu đuối hơn và biến những con thú nầy thành mồi ngon cho chúng.
Có những loài thú khác tuy không mạnh mẽ, hùng dũng bằng sư tử, hổ báo… nhưng ít ra cũng có nanh, có vuốt, có sừng, có quai hàm mạnh mẽ… để săn bắt, vồ xé những con thú khác, hay ít ra cũng để tự bảo vệ mình, như con trâu có sừng để báng; con ngựa, con bò có chân để đá, con dê có đầu cứng như đá để húc, để tự bảo vệ mình khỏi bị địch thủ tấn công.
Chỉ riêng có loài cừu, loài chiên là hiền lành yếu đuối, chẳng có sừng để báng, chẳng có móng vuốt để tấn công, chẳng có răng nanh để cắn xé, chẳng có sức mạnh hay sự lanh lẹ để đối lại địch thù. Đã vậy, khi bị tấn công, nó cũng không có cánh để bay lên ngọn cây cao thoát thân như loài chim, không thể chui xuống hang ẩn trú như loài chuột, cũng chẳng có thể cao chạy xa bay lánh thoát địch thù như loài hươu nai…
Ngoài ra, nó cũng không thể cậy dựa vào những bạn cừu khác, vì những con cừu kia cũng yếu đuối, cũng hiền lành, cũng vô phương tự bảo vệ mình như nó. Cả hàng trăm con cừu không hơn một con chó sói! Thế là nó dành đứng chịu trận cho kẻ thù vồ xé, giết hại, tàn sát… Thật tội nghiệp, thật đáng thương! May ra chỉ có người chăn chiên mới là người duy nhất có thể bảo vệ và cứu nguy cho nó, giúp nó sống còn.
* * *
Xét về một số phương diện, con người chúng ta tuy cao cả nhưng cũng rất yếu đuối, lại phải thường xuyên đương đầu với thù trong giặc ngoài rất độc hại, chẳng khác gì con chiên hiền lành đối mặt với cả bầy ác thú.
Kẻ thù bên trong chúng ta chính là những xu hướng xấu nằm trong huyết mạch mỗi người. Đó là óc kiêu căng, là lòng tham vô đáy, là tính ích kỷ, là những ham muốn xấu xa, những khao khát tội lỗi… vẫn luôn nằm vùng, luôn ẩn trú trong ruột gan, trong tim óc con người và có thể chỗi dậy bất cứ lúc nào để xui khiến, thúc đẩy người ta làm điều xằng bậy, xô đẩy con người vào con đường gian ác tội lỗi. Mấy ai dám bảo rằng mình đủ sức chiến thắng những kẻ nội thù nầy. Napoléon là một vị tướng lừng danh trong lịch sử nhân loại, đã lập nên nhiều chiến công oanh liệt vang dội châu Âu… vẫn phải thú nhận rằng: “chiến thắng cả châu Âu không khó bằng chiến thắng chính bản thân mình”.
Còn kẻ thù bên ngoài chúng ta thì không kể xiết. Có vô vàn cạm bẫy rải rác khắp nơi có thể làm cho con người sa đoạ bất cứ lúc nào. Vô số phim ảnh khiêu dâm và bạo lực đang xô đẩy thanh thiếu niên vào con đường sa đoạ. Đếm không xuể sách báo, văn hoá đồi truỵ dưới đủ mọi hình thức… đang huỷ diệt tâm hồn cao đẹp của con người. Các tụ điểm ăn chơi đồi bại mọc lên như nấm khắp mọi nơi. Rượu bia, ma tuý và rất nhiều hình thức kinh doanh xác thịt con người rộ lên khắp chốn… Đó là những chiêu thức rất hiểm độc được tung ra để huỷ diệt phẩm chất con người, nô dịch con người.
Đối mặt với thù trong giặc ngoài rất nguy hại như thế, chúng ta là những con người vốn mang xác thịt hư hèn yếu đuối, khác nào những chiên non… làm sao chống cự nổi?
Trong mặt trận nầy, chúng ta không thể hoàn toàn trông cậy người khác, vì họ cũng yếu đuối như chúng ta, họ cũng là chiên hiền như chúng ta. Cả trăm con chiên cũng không thắng được một con sói. Người duy nhất có thể bảo vệ chiên là người chăn chiên. Còn Đấng duy nhất có thể bảo vệ chúng ta chính là Đấng chăn chiên lành, là Chúa Giêsu.
Hạnh phúc cho chúng ta vì có Chủ Chiên nhân lành bảo vệ.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cam kết bảo vệ chúng ta là chiên của Ngài: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.”
Để được sống đời đời, để khỏi bị diệt vong, chúng ta phải tuân theo hai điều kiện do Ngài đưa ra:
Một là vâng nghe Chúa Giêsu: “chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi”.
Nghe tiếng Chúa Giêsu tức là để cho lời của Ngài soi dẫn, để khỏi sai đường lạc lối.
Hai là bước theo Chúa Giêsu: “Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”.
Bước theo Chúa Giêsu là đi theo con đường mà Ngài đã đi, chủ yếu là vâng theo thánh ý Chúa Cha như Ngài đã nêu gương.
Nguyện xin Chúa Giêsu giúp chúng ta ý thức thân phận chiên non yếu đuối của mình để chúng ta đặt trọn vẹn niềm cậy trông nơi Ngài, vâng nghe tiếng Ngài và bước theo vết chân Ngài để khỏi bị diệt vong ở đời nầy và được hưởng sự sống đời đời do Ngài tặng ban.
.
Anna Cỏ May
Ngày nay, chúng ta đang sống một cuộc sống hưởng thụ. Cuộc sống đó làm cho chúng ta dần mất đi sự tin tưởng vào tình yêu thương của người khác dành cho mình. Nơi Chúa Giêsu, người Thầy tuyệt vời và là vị mục tử nhân lành hằng trung tín yêu thương đoàn chiên của mình. Ngài sẽ không bỏ rơi một con chiên nào dù nó có ra sao.
Chúa Giêsu vị mục tử nhân lành, Ngài biết rõ từng con chiên, gọi tên từng con và âu yếm chăm sóc nó. Con chiên ấy là mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu nói với người Do thái rằng: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,27-28). Có vị mục tử nào yêu đoàn chiên đến nỗi trao ban tất cả và làm mọi cách để bảo vệ đoàn chiên của mình? Đến cả mạng sống mình, Ngài cũng chẳng hối tiếc. Ngài không giữ lại cho riêng mình điều gì. Ngài dùng chính tình yêu thập giá để yêu thương chăm sóc bao bọc từng con chiên. Tình yêu đó đem lại cho từng con chiên sự sống đời đời. Để được sự sống của Chúa Phục Sinh, con chiên phải làm gì?.
Mỗi người chúng ta cần nhận biết rằng, chúng ta thật hạnh phúc khi thuộc về đoàn chiên của Chúa. Chúng ta đã được Chúa ban đức tin để nghe Lời Chúa, nhận ra Ngài là vị mục tử nhân lành. Ngài biết rõ mỗi người chúng ta cần gì và sẵn sàng trao ban mọi sự. Có lúc nào chúng ta nghe tiếng Ngài và đi theo Ngài trong sự thật không? Ngài biết chúng ta và yêu chúng ta, chúng ta có thật sự biết và yêu Ngài không? Chúng ta có đang thuộc về đoàn chiên của Ngài không? Ngài hằng tìm kiếm, hy vọng và chờ đợi các con chiên lạc trở về. Ngài là vị mục tử đích thực, đầy bao dung với đoàn chiên của mình. Đứng trước tình yêu của Ngài, mỗi người chúng ta hãy mau mắn đáp trả bằng cách lắng nghe Lời Chúa, đón nhận tình yêu Ngài qua việc siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày và bước theo Ngài là dấn thân phục vụ mọi người xung quanh. Để tình yêu của Ngài nơi chúng ta được lan tỏa không ngừng.
Lạy Chúa, Chúa là vị mục tử nhân lành, xin cho mỗi người chúng con luôn thuộc về đoàn chiên của Chúa, biết từ bỏ những gì không thích hợp với con chiên của Chúa. Nhờ đó, chúng con mới xứng đáng được hưởng sự sống đời đời. Amen.
.
Bông Hồng Nhỏ
Cuộc sống dường như vẫn luôn mang trong mình cái dáng vẻ ồn ào và vội vã của nó. Thời gian trôi nhanh hơn hay nhịp sống của con người vội vã hơn? Trong bầu khí đó, làm sao ta nghe được tiếng Chúa?.
Chúa Giêsu đã nói với người Do thái rằng: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi…” (Ga 10,27). Là người Kitô hữu, hạnh phúc của ta là được thuộc về đoàn chiên của Chúa. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, chính Người sẽ chăn dắt và giữ gìn ta, cho ta được sống và sống dồi dào. Qua Giáo hội, ta được đón nhận đức tin, nhờ đó ta được nhận biết Chúa là cha giàu lòng thương xót. Ta được mời gọi sống yêu thương. Chính Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Điều Thầy truyền dậy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17). Tiếng Chúa đã nhiều lần vang lên trong lòng ta, thúc bách ta sống đức tin và đức ái cách cụ thể. Tiếng Chúa cũng mời gọi ta cách tha thiết rằng: “Hãy theo Thầy” Chẳng phải ta đã quảng đại dâng mình cho Chúa nhưng chính hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa đã thương chọn ta từ trước. Chính Chúa đã chọn ta trước và mỗi ngày ta cũng lập lại lời này: “Con cũng xin chọn Ngài, lạy Chúa.” Chúa đã yêu ta trước và ta cũng thưa lên cùng Chúa như một người con thơ: “Con cũng yêu Ngài, lạy Chúa”. Tình yêu là dấu để tỏ cho thế gian biết ta thuộc về đoàn chiên của Chúa. Không phải lời ta nói nhưng chính sức sống tràn đầy yêu thương nơi ta mới là một thông điệp rõ ràng hơn cả.
Thế giới hôm nay còn có nhiều người chưa nhận biết Chúa. Nhiều người đang trải qua nhiều đau khổ và thất vọng. Họ cần một bàn tay xoa dịu mọi vết thương, cần được dẫn đến con đường của hy vọng. Thiên Chúalà Đấng trung tín, ai tin cậy nơi Chúa sẽ không bao giờ phải thất vọng. Thiên Chúa đã muốn cho con người được hạnh phúc. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao phó đoàn chiên của Chúa cho tông đồ Phêrô. Qua bao thế kỷ, Giáo hội vẫn không ngừng nhận lãnh sứ mạng Thiên Chúa trao phó và luôn mời gọi con cái mình quảng đại đáp trả tiếng của Chúa. Để lắng nghe được lời mời gọi của Chúa, ta phải giữ được sự thinh lặng cần thiết trong tâm hồn. Chúa thường thì thầm trong tâm hồn ta, Chúa cũng nói qua người này, người kia, giữa biến cố trong đời. Có khi, Chúa lại dùng ta làm một dấu chỉ của tình thương Chúa cho người khác.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa là mục tử nhân lành. Chúa chăm sóc con và chọn con bước đi trên con đường ơn gọi, con đường ngược dòng. Có Chúa dẫn lối, giữ gìn con không còn lo gì. Xin giúp con biết liên tục đáp trả lời mời gọi của Chúa bằng một trái tim mở rộng và luôn lắng tai để vâng phục Chúa. Amen.
.
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Xưa nay chúng ta thường hiểu những người đi tu làm linh mục hay Tu Sĩ Nam Nữ trong các Hội Dòng là những người có ơn Kêu Gọi hay được Chúa kêu gọi tuyển chọn.
Vậy Ơn kêu gọi là gì?
Bây giờ nếu có ai hỏi, phải cắt nghĩa ơn kêu gọi như thế nào cho những người Trẻ hiểu rõ, có lẽ không có một định nghĩa giống như một công thức trắng đen rõ ràng nào.
Vì ơn kêu gọi không phải là một đơn từ, một bài viết ra cho người đọc, người xem chấp nhận hay không chấp nhận. Nhưng Ơn kêu gọi là tiếng mời gọi âm thầm hầu như linh thiêng vang lên từ trong tâm hồn mỗi người.
Nếu có ai hỏi, thế tiếng mời gọi đó vang vọng phát ra âm thanh trong tâm hồn con người như thế nào và vào lúc nào?
Điều này cũng không có thể nói diễn tả ra đơn giản bằng ngôn ngữ hay chữ viết con số được. Vì tiếng mời gọi vang vọng trong tâm hồn không thành tiếng nghe được bằng thính gíac của đôi tai. Nhưng cảm nghiệm nhận ra được trong trái tim tâm hồn.
Phải, tiếng mời gọi truyền đi qua cảm nhận trong làn rung động của trái tim, hay từ tầng thần kinh cảm gíac. Và tiếng mời gọi đó xảy đến bất chợt không theo một thời gian nhất định nào.
Như thế, có thể hiểu là ơn kêu gọi vang lên rồi cứ thế triển nở khắc ghi trong tâm hồn người đó mãi mãi sao?
Không hẳn là như thế đâu. Vì như hạt giống gieo vãi xuống đất, có hạt gặp nền đất tốt, có nước, có ánh sáng mặt trời chiếu xuống cùng được chăm sóc vun xới, sẽ mọc lên thành cây sinh hoa kết trái tươi tốt. Trái lại, nếu thiếu những điều kiện căn bản đó, hạt giống sẽ mai một chết lịm dần đi.
Với tiếng mời gọi cũng tương tự như thế. Những điều kiện ngoại cảnh về môi trường giáo dục đào tạo, môi trường đời sống gia đình, nếp sống văn hóa lành mạnh, cùng nếp sống đạo đức giúp tiếng mời gọi phát triển lớn lên thành ơn kêu gọi phát triển đứng vững giữa dòng đời sống.
Trong dân gian có suy tư: Ánh sáng mặt trời chiếu tỏa hơi nóng nồng ấm. Còn gío thổi thì mang đến hơi lạnh. Vì thế bầu khí sinh sống, sự vun xới chăm sóc nếp sống đạo đức nơi gia đình, nơi xứ đạo tựa như ánh sáng mặt trời chiếu tỏa hơi nóng cần thiết cho mầm ơn kêu Gọi nảy sinh phát triển.
Ơn kêu gọi cần phải được vun trồng chăm sóc theo hướng tinh thần cùng đào tạo vươn tới Thiên Chúa, là Đấng kêu gọi, và hướng tới căn bản đời sống tình người, không chỉ cho hôm qua hôm nay mà còn phải liên tục mãi cho ngày mai.
Ngày xưa trong thời Cựu ước, Thiên Chúa kêu gọi cá nhân từng người, như Thánh Tiên tri Maisen, Thánh tiên tri Isaia, Edechiel làm sứ gỉa loan báo ý muốn của Ngài cho mọi con người.
Chúa Giêsu đến, Ngài kêu gọi hoặc từng người, như các Thánh Tông đồ Phero, Phaolo, Andre, Toma, Giacobe…là những người tin đi theo làm chứng nhân sứ gỉa cho phúc âm Chúa giữa dòng đời sống xã hội. Trải qua dòng thời gian luôn có những người, những Bạn Trẻ lớn lên đã cảm thấy có tiếng thôi thúc trong tận tâm hồn về một đời sống trong nhà Dòng, trong Chủng viện ở các Giáo phận về đời sống dấn thân cho việc làm chứng rao truyền tình yêu Nước Chúa ở trần gian trong lòng Giáo Hội. Đó là tiếng Chúa kêu gọi thôi thúc trái tim tâm hồn họ.
Hằng năm vào ngày Chúa Nhật 4. mùa phục sinh, còn gọi là Chúa Nhật Chúa chiên lành, năm nay vào ngày 17.04.2016, là ngày cầu nguyện cho ơn kêu Gọi Linh mục, Tu sỹ Nam Nữ trong các Hội Dòng trong lòng Giáo Hội Công Giáo.
Hãng xưởng, nhà máy sản xuất cần những thợ nhân công làm việc, nhưng họ cần hơn những vị kỹ sư hoạch định thiết kế công việc chế tạo. Cũng tương tự như vậy trong đời sống Giáo Hội. Lẽ dĩ nhiên, không dám cùng không được phép nói hay nghĩ cho rằng người tín hữu Chúa Kitô là những người thợ làm việc còn các Linh mục tu sỹ là những kỹ sư…
Không, không, không đâu. Mọi người trong Giáo Hội Chúa đều là những tín hữu Chúa Kitô như nhau. Nhưng mỗi người có bổn phận trách vụ khác nhau trong cánh đồng vườn nho của Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Vì thế trong lòng Giáo Hội có những ơn Gọi khác nhau. Và Ơn kêu gọi cũng như đời sống của con người là con đường sống trải dài từ hôm qua sang ngày mai.
„ Ơn gọi được nảy sinh ngay trong lòng Giáo Hội. Từ khoảnh khắc một ơn gọi bắt đầu trở nên rõ ràng, ơn gọi ấy cần phải có “cảm thức” về Giáo Hội. Không ai được kêu gọi để dành riêng cho một vùng riêng biệt, hay cho một nhóm hoặc một phong trào nhưng là dành cho Giáo Hội và thế giới…
Ơn gọi lớn lên trong lòng Giáo Hội. Trong quá trình đào tạo, cáo ứng viên với những ơn gọi khác nhau cần học hỏi kiến thức về cộng đoàn Giáo Hội, vượt qua những giới hạn lúc đầu. Để khi kết thúc, họ nên cùng nhau thực hiện những trải nghiệm tông đồ với những thành viên khác của cộng đoàn, chẳng hạn như: cùng theo một khóa giáo lý, trao đổi các thông điệp Giáo Hội, gặp gỡ liên hội dòng, chia sẻ trải nghiệm việc truyền giáo tại các vùng ngoại vi, chia sẻ đời sống tu viện, khám phá nguy cơ đưa đến cám dỗ; liên hệ với các vị thừa sai để đào sâu hơn về sứ vụ đến với muôn dân; và trong cộng đoàn các linh mục giáo phận, để đi sâu vào kinh nghiệm đời sống mục vụ giáo xứ và giáo phận. Đối với những ai đã sẵn sàng cho việc đào tạo, cộng đoàn Giáo Hội luôn là môi trường đào tạo cơ bản.“ Đức Giáo Hoàng Phanxico, Sứ điệp ngày Thế Giới Ơn Gọi 2016: “Ơn gọi được sinh ra trong lòng Giáo Hội“
.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Dân tộc Do thái thời Cựu ước phần đông là dân du mục, cuộc đời họ gắn liền với đàn vật và đồng cỏ. Cho nên khi Đức Giêsu rao giảng Tin mừng, Ngài dùng những hình ảnh trong đời thường, để minh họa cho dân chúng dễ hiểu những chân lý Tin mừng.
Tin mừng hôm nay gợi lên hình ảnh người mục tử và đàn chiên, để nói lên mối tương quan cao đẹp giữa mục tử Giêsu nhân lành và chúng ta là đàn chiên của Ngài. Người mục tử nhân lành cần hiểu biết chiên của mình.
Đức Giêsu nói: “Ta biết các chiên Ta…” (Ga 10, 27). Nhưng để hiểu biết, trước hết mục tử Giêsu phải từ bỏ trời cao xuống đất thấp để ở cùng, ở với chiên của mình.
Ngài hoà mình với dòng người tội lỗi nơi bờ sông Gio-đan, để xin Gioan cử hành phép rửa (Mt 3, 13-16). Ngài đồng bàn ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi (Lc 19,7). Ngài nâng ly rượu chúc mừng đôi tân hôn trong tiệc cưới Cana (Ga 2, 1-11). Ngài khóc thương Ladarô bạc mệnh (Ga 11,35). Ngài cứu chữa những kẻ bệnh tật, vui đùa với các trẻ thơ… Nói tóm lại, tất cả mọi người đều có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim Mục tử Giêsu.
Do đó, Ngài thấu rõ tâm tư, tình cảm của chúng ta nữa. Ngài biết những thành công thất bại, những lo lắng buồn phiền của chúng ta. Ngài biết những bệnh tật mà chúng ta đang chịu. Ngài biết những ưu tư chúng ta đang mang trong tâm hồn.
Người mục tử nhân lành còn chăm sóc từng con chiên của mình.
Thánh vịnh 23 phác họa chân dung Mục tử Giêsu nhân lành tận tình nuôi dưỡng đàn chiên cách chu đáo, chẳng để chiên phải thiếu thốn điều gì.
“Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.
Trên đồng cỏ xanh rì, Ngài cho tôi nằm nghỉ.
Tới nguồn nước chỗ nghỉ ngơi, Ngài hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Ngài lo bồi dưỡng” (Tv 23, 1-3).
Lời tiên báo của ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã ứng nghiệm từng chữ nơi Mục tử Giêsu: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào lạc mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ chữa cho lành” (Edekien 34, 15-16).
Người mục tử nhân lành có ánh mắt quan tâm. Quan là nhìn, tâm là tim: là nhìn bằng con tim. Đức Giêsu nhìn chúng ta bằng trái tim mục tử. “Ngài chạnh lòng thương khi thấy dân chúng đi theo Ngài vất vưởng như đàn chiên không người chăn dắt” (Mc 6, 34).
Ngài chạnh lòng thương khi thấy dân chúng đói lã, nên hoá bánh ra nhiều cho họ ăn uống thoả thuê” (Mt 15, 32). “Ngài chạnh lòng thương trước bệnh tật của con người, nên ra tay chữa lành nhiều người” (Mt 14,14). Ngài chạnh lòng thương trước nỗi mất mát đau buồn của bà goá thành Na-im, vì con trai của bà đã chết, Ngài đến chạm quan tài để hồi sinh cho đứa con của bà” (Lc 7, 13-15).
Cuối cùng, người mục tử nhân lành hi sinh tính mạng vì đàn chiên. Chúa nói: “Tôi là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hi sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). Thật vậy, “Ngài tự hiến mạng sống vì chúng ta”(Ga 10,18).
Các mục tử trên đời này nuôi chiên để làm kinh tế. Người ta xén lông, xẻ thịt hoặc bán chiên lấy tiền; còn Mục tử Giêsu thì lại hiến mình chịu chết để chiên được sống: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào” (Ga. 10, 10).
Ngài chấp nhận trao ban chính mình làm lương thực nuôi sống đàn chiên đang lầm than đói khát: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, sẽ không phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga. 6, 35).
Anh chị em thân mến,
Tại Đền thờ Thánh Phêrô, sáng thứ Năm Tuần Thánh năm 2013, ĐTC Phanxicô, nhắn nhủ các Linh mục như sau: “Tôi xin anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi chiên của mình”.
Đức Thánh Cha gợi lên một hình ảnh thật ấn tượng: mục tử phải lấm mùi chiên. Nghĩa là người chăn chiên sống gần gũi, gắn bó với đàn chiên, lo lắng chăm sóc, bảo vệ đàn chiên của mình đến nỗi mùi chiên đã ngấm vào, không những áo quần mà cả da thịt nữa.
Thế thì, không chỉ Đức thánh cha, các giám mục, linh mục mới là những mục tử, mà là tất cả chúng ta đều được mời gọi theo gương Mục tử Giêsu.
Vì thế, trong giáo xứ, cha xứ phải là người mục tử sẵn sàng xả thân phục vụ giáo dân trong xứ đạo của mình.
Trong gia đình, cha mẹ cần có tấm lòng mục tử biết dành thời giờ, yêu thương chăm sóc, tận tình lo lắng cho con cái.
Nơi trường học, thầy cô giáo cần có tấm lòng mục tử, biết tận tâm, tận tình giáo dục học trò, trở thành những con người tốt cho xã hội và Giáo hội.
Ở bệnh viện, những y tá, bác sĩ cần có tấm lòng mục tử, “lương y như từ mẫu”, hết lòng chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân.
Đồng thời, hôm nay thường gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành, Giáo hội dành cầu nguyện cho ơn thiên triệu.
Xin Chúa thương ban cho Giáo hội có nhiều thanh niên nam nữ, biết quảng đại đáp lại tiếng Chúa, để trở thành những mục tử nhân lành, theo gương vị Mục Tử Tối Cao, là hiểu biết tâm tư nguyện vọng của chiên mình, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hi sinh bản thân vì lợi ích cho đàn chiên. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống
Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên
Đó là điều minh định của Mục Tử Nhân Lành Giêsu được Thánh sử Gioan cho biết trong Ga 10:11-12.
Người ta có nhiều cách ví von để kết luận về một hệ lụy tất yếu nào đó: cha nào con nấy, thầy nào trò nấy, rau nào sâu nấy. Còn Chúa Giêsu xác định: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai” (x. Mt 7:16; Mt 12:33; Lc 6:44). Xem quả có thể biết cây. Nhận định của Chúa Giêsu có thể áp dụng vào mọi trường hợp trong cuộc sống.
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, là Chúa Chiên Lành. Đã từng có những người noi gương Thầy Chí Thánh – như Thánh Gioan Maria Vianney (sinh ngày 8-5-1786, qua đời ngày 4-8-1859), cha sở xứ Ars (Pháp), đúng là một mục tử đích thực, là linh mục như Chúa muốn, sống khắc khổ vì lợi ích của các linh hồn. Ngay tại Việt Nam cũng đã có các gương sáng “nặng mùi chiên” như ĐGM Jean Cassaigne (gọi thân thương là “Cha Sanh”, người Pháp, 1895-1973) chấp nhận chết với các bệnh nhân phong Di Linh (Dalat), LM F.X. Trương Bửu Diệp (1897-1946) không ngại chết thay cho đoàn chiên (Gx Khúc Tréo, ngày nay có trung tâm hành hương Tắc Sậy). Chúa Giêsu muốn các linh mục phải thực sự sống PHỤC VỤ chứ KHÔNG HƯỞNG THỤ (Mt 20:26-28; Mt 23:11; Mc 10:43-45). Cả Thiên Chúa và Giáo Hội đều mong ước có những linh mục thánh như vậy. Lòng dân tỏ lộ ý trời.
Hình ảnh con chiên rất quen thuộc với người Do Thái – kiểu như với người Việt là con trâu, con bò, con heo. Đàn chiên nào cũng phải có chủ, và bất kỳ đàn súc vật nào cũng vậy, huống chi là một tổ chức, do đó mà một tổ chức hoặc một nhóm người nào thì cũng có người “chống mũi chịu sào”, thậm chí dù đó chỉ là nhóm ba người: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên”(Trong ba người cùng đi, chắc chắn có một người là thầy; nghĩa bóng là người hướng dẫn, ý nói về tầm quan trọng của tập thể). Thật vậy, dù là tam giác hay đa giác, các cạnh và các góc đều có mối liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời – dù là cạnh hay góc.
Kinh Thánh cho biết vào một ngày Sabát, hai ông Phaolô và Banaba vào hội đường ngồi tham dự. Tan buổi họp, có nhiều người Do Thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ân sủng của Thiên Chúa.
Theo sách Công Vụ cho biết, ngày Sabát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. Một sự kiện rất lạ lùng. Thế nên khi thấy đám đông như vậy, người Do Thái SINH LÒNG GHEN TỨC, họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Nhưng ông Phaolô và ông Banaba vẫn mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em KHƯỚC TỪ lời ấy, và TỰ COI MÌNH KHÔNG XỨNG ĐÁNG hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv 13:46-47). Thiên Chúa ban cho mỗi người được quyền tự do chọn lựa chứ không ép buộc. Tự nguyện có giá trị hơn miễn cưỡng.
Hai ông nói lời rất giản dị nhưng rõ ràng và chính xác, lời đó đã đủ sức “chạm” vào tận đáy lòng họ. Dân ngoại nghe lời đó và họ vui mừng tôn vinh Lời Chúa, rồi tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời cũng đều tin theo. Thế là Lời Chúa đã lan tràn khắp miền ấy. Sự thật mãi là sự thật, chân lý là vĩnh cửu, không ai có thể thay đổi chân lý hoặc xuyên tạc sự thật.
Tuy nhiên, những người Do Thái đã sách động nhóm phụ nữ thượng lưu theo đạo Do Thái, cùng với các thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và ông Banaba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Chuyện đời là thế, sự đời thường là vậy. Thấy họ cứng lòng, hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần. Sự thật minh nhiên về những gì Chúa đã hứa.
Niềm vui không thể che giấu, thế nên Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ, vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo. Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế, chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt” (Tv 100:1-3). Nhận ơn thì phải biết ơn, trong cuộc sống đời thường cũng vậy. Chúng ta phải biết tạ ơn vì “Chúa nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín” (Tv 100:5). Hoàn toàn hợp lý!
Chắc chắn bất kỳ ai cũng không thể xuyên tạc sự thật, có cố ý bóp méo sự thật thì cuối cùng cũng bị người ta phát hiện. Thánh Gioan Tông Đồ kể lại thị kiến có thật chứ không bịa đặt: Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế (Kh 7:9). Thánh nhân trả lời: “Thưa Ngài, Ngài biết đó”. Vị ấy bảo: “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7:14). Một cách giặt kỳ lạ: Giặt bằng máu – chứ không giặt bằng nước.
Có những điều bình thường mà kỳ diệu – và cũng có những điều tưởng lạ mà lại rất bình thường. Thánh Inhaxio Loyola cho biết: “Nếu Thiên Chúa gởi cho bạn nhiều đau khổ, đó là dấu Ngài có kế hoạch lớn dành cho bạn, và chắc chắn Ngài muốn làm cho bạn nên thánh”. Như vậy, gian truân và đau khổ là “điểm son” chứ không là nỗi bất hạnh như phàm nhân lầm tưởng. Thật vậy, đại văn hào Victor Hugo có cách nhận định chí lý: “Đau khổ như hoa quả, Chúa không khiến nó sinh ra trên những cành quá yếu ớt mà không chịu nổi”. Chắc chắn KHÔNG TRẢI QUA ĐAU KHỔ thì người ta KHÔNG CÓ KINH NGHIỆM và KHÓ TRỞ THÀNH NHÂN TÀI. Còn Albert Hubbard nói: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời! Đó là DẤU HIỆU chắc chắn cho thấy bạn ĐANG SỐNG”. Có đau khổ thì mới đáng sống, thật kỳ lạ quá chừng!
Chúa Giêsu trải qua đau khổ mới tới vinh quang, và Ngài mệnh danh là Người Tôi Tớ Đau Khổ. Chính sự đau khổ tôi luyện người ta thêm vững mạnh và can đảm. Một dạng “mềm” hơn nhưng cần thiết: Thất bại là mẹ thành công. Vì thế, chính những người đã trải qua gian truân thử thách kia mới “được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh, và chính Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ” (Kh 7:15-17). Đó là quy trình hợp lý của công bình và công lý, vì Thiên Chúa là Đấng chí minh, chí công, chí thiện, và chí thánh!
Chắc hẳn ai cũng biết rằng trong các mối quan hệ, dù là mối quan hệ nào, cũng có hệ lụy đặc trưng. Riêng về hệ lụy chủ và chiên, chính Chúa Giêsu đã minh định: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10:27-28). Mục Tử Giêsu sống vì, sống cho, và sống với đàn chiên. Ngài không thể an tâm khi lạc mất một con chiên.
Thật thú vị với cách nói của công ty bảo hiểm Prudential: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”. Trong châm ngôn của công ty này là “sự lắng nghe” (có chú ý) chứ không đơn thuần là “sự nghe” (không chú ý hoặc tình cờ). Hai động thái “lắng nghe” và “thấu hiểu” cũng có phần khác nhau, phải cố gắng mà “nối kết” chúng với nhau thành một động thái. Bởi vì nếu chỉ “lắng nghe” mà không “thấu hiểu” thì cũng vô ích. Người ta cũng không thể cố gắng “thấu hiểu” mà không chịu “lắng nghe”. Hai động thái liên quan lẫn nhau, hầu như không thể tách rời – tuy hai mà một.
Tương tự, nếu chủ và chiên không chịu nghe nhau, chủ tự nói tự nghe, và chiên cũng vậy, thì đó chỉ là các hoạt động một chiều, như hai đường thẳng song song không thể gặp nhau hoặc không thể đồng quy, tất nhiên không thể nào hiểu nhau được. Cũng vậy, chủ cứ độc đoán, chỉ muốn dùng “quyền” mà “hành” người khác thì thật nguy hiểm, đó chỉ là “thợ chiên” chứ không phải “chủ chiên”. Thật chí lý khi Việt ngữ có danh từ kép: Quyền hành. Thế thì thật thâm thúy!
Chỉ có chủ chiên thật mới dám xả thân vì đoàn chiên, chắc chắn chủ chiên giả hoặc thợ chiên thì chẳng bao giờ dám làm vậy – mà họ cũng chẳng muốn thế đâu. Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành nên Ngài mạnh mẽ xác định: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha LÀ MỘT” (Ga 10:29-30). Gương Mục Tử Giêsu sáng chói, nhưng vấn đề là chúng ta có thật lòng soi và có thấy gì hay không.
Lạy Mục Tử Giêsu Nhân Lành, xin ban cho nhiều người dấn thân mở Nước Chúa, xin giúp chúng con luôn biết lắng nghe và thấu hiểu nhau, xin tẩy rửa chúng con trong Máu và Nước từ Thánh Tâm Ngài, xin hoàn thiện chúng con trong từng khoảnh khắc của cuộc sống, qua từng nhịp thở, nhờ tác động của Thánh Linh. Chúng con tin kính Ngài là Thánh Tử Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Chúa nhật thứ tư mùa Phục sinh của ba chu kỳ niên lịch phụng vụ được mệnh danh là Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Nghệ thuật Kitô giáo thuở xưa thường phác họa Đức Giêsu như Đấng Chăn Chiên Lành. Hình ảnh người chăn chiên đã được mô tả trong Cựu ước về Thiên Chúa như là Đấng chăn dắt dân Người (Tv 22). Người Do thái cổ xưa là dân du mục, vì thế văn chương của họ là những sách Cựu ước cũng thường đề cập đến đời sống chăn nuôi, du mục. Chính Đức Giêsu cũng dùng những hình ảnh về chăn nuôi quen thuộc để dạy ta những chân lý thiêng liêng về đạo giáo.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã xưng mình là Chủ Chăn. Ngài có đàn chiên để chăn dắt. Đàn chiên của Ngài có những đặc tính như Ngài đã tuyên bố :”Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”(Ga 10,27). Đàn chiên của Ngài có những đặc tính khác với đàn chiên của những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái lúc bấy giờ. Những đặc tính đàn chiên của Ngài là : biết lắng nghe chủ chăn, nhận biết chủ chăn và bước theo chủ chăn.
Đức Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành, không trực tiếp điều khiển đoàn chiên dưới thế này, Ngài dùng các vị đại diện trong Giáo hội là Đức Giáo hoàng, các giám mục và các Linh mục mà hướng dẫn thay cho Ngài. Chính Ngài đã khẳng định với các Tông đồ :”Ai nghe các con là nghe Thầy, ai khước từ các con là khước từ Thầy”(Lc 10,16). Vì thế, nếu chúng ta đã gọi các vị lãnh đạo trong Giáo hội là chủ chăn, chúng ta có trách nhiệm phải yêu mến, thành tâm lắng nghe sự hướng dẫn của các ngài để đến với Chúa, và nhờ đó, sẽ được dẫn tới cuộc sống đời đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 13,14.43-52.
Một khúc quanh quyết định cuộc đời Tông đồ của thánh Phaolô. Trước tiên Phaolô và Barnabê loan báo Tin mừng cho người Do thái tại Antiochia miền Pysidia, nhưng rồi các ngài đã phải sớm chấm dứt việc rao giảng vì người Do thái tỏ ra “ghen tức” khi thấy một số đông dân ngoại cũng quan tâm đến Tin mừng (Cv 13,45).
Hai vị Tông đồ quyết định rời hội đường và dứt khoát đến với dân ngoại, không quên nhắc lại lời tiên tri về sứ mạng toàn cầu của Người Tôi Tớ đau khổ (Cv 13,47)
Do vậy, dân ngoại đã hân hoan đón nhận Tin mừng và tôn vinh Thiên Chúa. Lời Chúa được lan tràn ra khắp miền ấy.
+ Bài đọc 2 : Kh 7,9.14b-17.
Trong một cuộc thị kiến, thánh Gioan tông đồ đã thấy một đoàn người thật đông đảo. Họ là dân Thiên Chúa đã khải hoàn. Đoàn người đông đảo này :
– Họ rất đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ.
– Họ đứng trước ngai Con Chiên, Đấng đã cứu độ muôn dân qua cái chết của Ngài.
– Con Chiên sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.
+ Bài Tin mừng : Ga 10, 27-30.
Đức Giêsu tự giới thiệu mình là một vị Mục tử, một vị Mục tử tuyệt vời. Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài bảo vệ và sẽ đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Vấn đề là : chúng ta có tin tưởng bước theo Ngài không ?
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
I. ĐỨC GIÊSU LÀ MỤC TỬ.
Bài Tin mừng hôm nay rất ngắn, được trích ra từ cuộc tranh luận với người Do thái trong dịp Lễ Lều, nhân dịp kỷ niệm ngày thanh tẩy Đền thờ thời Maccabêô.
Đức Giêsu đang ở Giêrusalem trong dịp lễ này. Tại đây xẩy ra cuộc tranh luận với người Do thái về vấn đề Người có phải là Đấng Thiên Sai không, và cuối cùng Người đã xưng mình là Con Thiên Chúa bằng cách tuyên bố rằng : Cha Người ở trong Người và Người ở trong Cha trong sự hiệp thông trọn vẹn đồi sống và việc làm (Lc 10,22-41).
Bài Tin mừng hôm nay là một phần trích trong cuộc tranh luận và ghi lại lời Đức Giêsu quả quyết Người đồng bản tính với Chúa Cha.
Trước khi trả lời dứt khoát Người đồng bản tính với Chúa Cha, Đức Giêsu tuyên bố sự khác biệt nhau giữa người Do thái và “chiên của Người”, tức là những kẻ tin theo Người.
Đối với người Do thái, những lời Người nói và những việc Người làm là các phép lạ, không đủ thuyết phục họ, vì xét cho cùng họ có dã tâm và không muốn tin. Ngược lại, chiên của Người là những người biết ngoan ngoãn đón nhận, vì họ không cần đến nhiều dấu lạ bên ngoài để làm điều kiện cho việc đi theo Người.
Như vậy, Đức Giêsu khẳng định Người là Mục tử và Người có đàn chiên để chăn dắt và Người đưa họ đến cuộc sống đời đời mà không ai có thể cướp khỏi tay Người được.
Hình ảnh người chăn chiên không chỉ là một hình ảnh đẹp ở vùng thôn quê mà nó còn có ở trong Thánh Kinh. Trong khắp vùng Đông phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử chăn dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó khi giải thoát dân riêng khỏi Ai cập :”Người lùa dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng như đàn cừu ngang qua sa mạc” (Tv 78,52).
Đavít, một trong những nhà lãnh đạo chính trị đầu tiên của Israel, là một cậu chăn chiên tại Belem (1S 17,34-35). Ôâng Vua lý tưởng của tương lai, Đức Messia, Đavít mới, cũng được loan báo như một “Mục tử” : “Ta sẽ chỗi dậy một mục tử duy nhất, Người sẽ chăn dắt chúng. Đó là Đavít, tôi tớ của Ta” (Ed 34,23).
Chăn nuôi súc vật từng bầy là nghề chính của dân Do thái. Các tổ phụ vĩ đại của họ từ Abraham, Isaác, Giacob, Maisen, Đavít… đều là mục tử.
Do đó, người Do thái đã diễn tả về Thiên Chúa như là một mục tử nhân hậu, luôn hết tình yêu thương đàn chiên (Tv 22; Gr 31,10; Ed 24,11-16). Và Đức Giêsu đã tự mạc khải như là một Mục tử tuyệt với (Ga 10,11-14). Rồi đi xa hơn nữa, Người đã bầy tỏ cho nhân loại biết chính Người là Thiên Chúa (Ga 10,27-30).
II. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA MỤC TỬ.
Những đặc tính của vị Mục tử được tóm gọn trong câu nói của Đức Giêsu :”Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”(Ga 10,27). Ở đây, ba động từ được Đức Giêsu nói lên, là những động từ tác động rất phù hợp với con người : nghe, biết và theo.
Ngày nay, tại Palestine, cũng còn có thể chứng kiến được cảnh chăn chiên mà Chúa Giêsu đã từng chứng kiến 2000 năm qua. Cảnh những người mục tử Bedouin mang những đàn chiên của họ trở về nhà từ những cánh đồng cỏ khác nhau sau một ngày đi ăn cỏ. Thường vào lúc hoàng hôn, các đàn chiên khác nhau cùng kéo về qui tụ ở một chỗ uống nước. Chúng trà trộn lẫn lộn với nhau tù 8 hay 9 đàn nhỏ trở thành một bầy chiên lớn. Mặc dù lẫn lộn chung với nhau nhưng những chủ chăn không hề lo sợ chiên bị lạc. Đến giờ ra về, mỗi chủ chiên thổi lên một tiếng gọi riêng biệt – một tiếng còi, tiếng tiêu, tiếng sáo, hay tù và – thì những con chiên trong đàn sẽ tự động rời khỏi đám đông theo đàn của mình mà về chuồng. Chúng tự biết chúng thuộc về đàn nào, chúng nghe tiếng gọi của người chủ chăn và đi theo. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”(Ga 10,27) (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 171).
Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh, nơi giáo huấn của Giáo hội, và những ơn soi sáng nơi tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người. Thánh Phaolô viết :”Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,17) hay “Đức tin nhờ nghe : Fides ex auditu (Ga 3,2).
Chiên rất thân thiện với chủ chăn. Khi đàn chiên đang nằm ngủ êm đềm, người chủ chiên có thể bước đi ngay giữa đàn chiên mà không gây rối loạn hay gây mất ngủ cho con nào cả. Trong khi đó chỉ một bước chân của người lạ mặt xâm nhập vào chuồng chiên đang lúc chiên nằm ngủ cũng đủ gây kinh hoàng và hoảng hốt cho cả đàn chiên. Dường như chiên đã coi người chủ chăn như một thành phần rất thân thuộc của chúng. Và sự liên hệ mật thiết phát triển dần dần đến độ chủ chăn có thể phân biệt và hiểu tiếng kêu của từng con chiên, tiếng kêu đau thương hay tiếng kêu hoan lạc. Chiên nghe lệnh của người chủ chăn để biết khi nào đi kiếm ăn hay lúc nào lên đường trở về nhà. Ngoài ra, người chủ chăn còn biết cả tên gọi và đặc tính của từng con chiên nữa.
“Biết” trong Kinh Thánh, từ ngữ này trước hết không mang một ý nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết người nào đó một cách đích thực, đến nỗi đoán được cả tâm tính họ. Sự thân mật, sự hiểu biết lẫn nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thể xác… là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng (St 4,1).
Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri thức, mà là hiểu biết sâu xa, yêu thân tình đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách đích thực, đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
Sự biết chí tình chí thiết này thực sự đã được thể hiện với hai thánh nữ Catarina và Têrêsa Hài đồng Giêsu. Catarina là người mù chữ chỉ học nơi Thánh tâm Chúa Giêsu và trở thành tiến sĩ Hội thánh. Têrêsa cũng chẳng học trường nào, chỉ học nơi tình yêu Chúa Giêsu Hài đồng, đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong làm tiến sĩ Hội thánh tháng 08/1997 trong đại hội giới trẻ tại Paris.
Những người chăn bò thường đi sau đàn bò dùng roi quất lên mình bò để lùa chúng đi thành đàn với nhau. Đối với chiên thì hoàn toàn khác hẳn. Người mục tử luôn đi trước để hướng dẫn đàn chiên theo sau. Nếu người chăn chiên đi đàng sau đàn chiên giống như chăn bò, chiên sẽ chạy tán loạn vì không biết đường đi. Chúng muốân được hướng dẫn, được bảo vệ và che chở.
“Theo” đó là một hành động không có gì là thụ động cả, nhưng diễn tả một thái độ tự do : đính kết toàn thân một người nào đó vào thân phận một kẻ khác. Theo nghĩa là gắn bó với Đức Giêsu mời gọi :”Hãy theo Ta”(Ga 1,42).
Đi đâu cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng tiếp cam.
Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng là từ bỏ như Phêrô bỏ chài lưới, vợ con, cha mẹ và mọi sự để theo Thầy; như Matthêu bỏ địa vị, tiền của để theo Chúa; như Mađalena bỏ đường tội lỗi bước vào đời sống mới. Đó là đổi đời, từ bỏ nếp sống cũ, một cuộc tái sinh vào đời sống mới.
III. TÂM TÌNH VỊ CHỦ CHĂN.
Người chủ chăn rất tha thiết với đàn chiên, họ coi đàn chiên như một phần trong thân thể mình. Họ không yên tâm khi một con chiên đi lạc. Họ không đành lòng bỏ con chiên bị thương mà không băng bó. Họ đã sẵn sàng vác cho chiên trên vai khi không đi được hoặc khi bị đi lạc.
Khi kẻ làm thuê trông coi con chiên, thì lũ cho sói không gặp rắc rối nào trong việc rình bắt đàn chiên. Ngay khi kẻ làm thuê nhìn thấy một con chó sói đang tiến lại gần, thì hắn ta liền bỏ rơi đàn chiên. Hắn chỉ nghĩ đến một điều duy nhất là cứu thoát bản thân mình mà thôi. Người chủ tốt của đàn chiên không làm như vậy. Họ bảo vệ đàn chiên chống lại sự tấn công của chó sói, thậm chí họ còn sẵn sàng liều mất mạng sống của mình nữa.
Đức Giêsu, Chúa chiên nhân lành, Đấng đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Mạng sống của Người không bị lấy đi, cũng không phải theo lệnh Chúa Cha. Chính Người đã tự ý trao ban, và trao ban một cách vui lòng. Người tự hiến cho đoàn chiên để mang chúng về đồng cỏ của sự sống đời đời. Hình ảnh cha thánh Đamien, tông đồ người hủi, đã nói lên tình thần tận hiến cho đàn chiên, những con người phong cùi xấu số bị bỏ rơi.
Người mục tử Đông phương là một người du mục đáng gờm, một thứ lính chiến, có khả năng bảo vệ đàn vật mình khỏi thú dữ… gấu hay sư tử đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (1S 17,34-35).
Đavít kể lại cho vua Saulê trước khi giết được tướng Goliat của quân Philitinh :”Hồi tôi tớ bệ hạ chăân chiên cho thân phụ, hễ sư tử hay gấu đực tha con chiên nào, tôi liền rượt bắt, đánh nó và cướp con chiên khỏi miệng nó. Nếu nó cự lại, tôi liền nắm lấy râu đánh và giết nó tức khắc. Tôi tớ bệ hạ đã giết sư tử cũng như gấu đực thì cũng sẽ thanh toán tên Philitinh không cắt bì này như vậy vì nó đã dám nhục mạ đạo quân của Thiên Chúa hằng sống”( 1Sm 17tt).
Đavít đã nêu gương hy sinh, vật nhau với sư tử, với gấu đực, để cướp lại một con chiên bị đem đi. Đavít vì tha thiết với bầy chiên, nên không ngần ngại đánh nhau với sư tử và gấu đen để cướp lại chiên. Đức Giêsu khi nói :”Không ai cướp được chúng” đã nghĩ đến cuộc giao chiến khốc liệt mà Người phải đương đầu trong cuộc khổ nạn, để đối phương “không cướp được” một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ chăn thuê, thường chạy trốn trước sói sữ, Đức Giêsu sẽ phó nộp và đành mất mang sống mình vì chiên của Người (Ga 10,12-15).
Người chăn chiên rất tha thiết với đàn chiên, lo lắng cho đàn chiên hết mình, không bao giờ để một con chiên nào bị bỏ rơi. Dụ ngôn con chiên lạc đã chứng tỏ điều đó :”Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chíùn con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất”(Lc 15,4-7).
Chung quanh chúng ta hay ngay trong đời sống chúng ta có những hiện tượng rời bỏ hàng ngũ, bất trung thường xẩy ra, thì chúng ta nghĩ thế nào ? Thưa đó là những hiện tượng tự nhiên vì đó là mầu nhiệm của tự do. Nhưng một điều chúng ta cần biết đó là không khi nào Chúa ruồng bỏ ! Chỉ có con người rời bỏ bàn tay Chua. Và ngay khi con người rời bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại : dụ ngôn đứa con hoang đàng đã chứng tỏ điều đó (x. Lc 15).
Con chiên đi theo chủ chăn thì sẽ được dẫn đến đồng cỏ xanh tươi đảm bảo sự sống. Cũng vậy, nhưng ai thực sự đi theo Chúa, tức là để Chúa dẫn dắt, thì sẽ được bảo đảm đưa đến sự sống đời đời.
Sự sống này, một đàng không thể mất được, vì đã được chính Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sựï Sống bảo đảm. Đàng khác, cũng không bị ai cướp đi được, vì một khi đã được Chúa dẫn dắt thì không còn sợ vấn đề Người không đủ khả năng chăm sóc và bảo vệ sự sống của đàn chiên nữa.
Trong một bài giảng, thánh Cyrillô thành Alexandria đã giải nghĩa câu “Ta ban cho chúng sự sống đời đời” như sau :”Đừng hiểu sự sống này chỉ là chuỗi ngày nối tiếp nhau mà chúng ta dù là người tốt hay xấu cũng đều sở hữu sau khi sống lại, nhưng phải hiểu đây là sống trong niềm vui. Ta cũng có thể hiểu “sự sống” này theo nghĩa bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô tháp nhập chúng ta vào chính sự sống của Người, các tín hữu được thông phần vào chính xác thịt Người, như lời Người phán :”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời”(Ga 6,54).
IV. NHIỆM VỤ CỦA ĐOÀN CHIÊN
Chúa Giêsu không thể trực tiếp hướng dẫn mọi Kitô hữu, nhưng Người đã dùng các vị đại diên là hàng giáo phẩm và giáo sĩ để thay quyền Chúa mà hướng dẫn. Vì Chúa đã nói với các tông đồ :”Ai nghe các con là nghe Ta”(Lc 10,16).
Chúng ta hãy đọc một đoạn mà công đồng Vatican II nói về các Linh mục :”Thi hành chức vụ của Chúa Kitô là Đầu và là Chủ chăn theo phận vụ mình, các Linh mục nhân danh Giám mục tụ họp gia đình Thiên Chua ùnhư một cộng đoàn huynh đệ duy nhất, và nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần các ngài dẫn đưa họ đến cùng Chúa Cha. Để thi hành thừa tác vụ này cũng như các thừa tác vụ khác, các Linh mục được trao ban quyền thiêng liêng để kiến thiết Giáo hội. Trong việc kiến thiết này, các Linh mục phải theo gương Chúa Kitô mà đối xử rất nhân đạo với hết mọi người…(Sắc lệnh về Linh mục, số 4)
Chúng ta thường gọi những người lãnh đạo trong Giáo hội là mục tử hay chủ chăn. Chúng ta đang sống dưới sự hướng dẫn của các ngài, chúng ta hãy tin tưởng các ngài, vì đức tin bảo cho chúng ta biết : Chính Chúa Giêsu, Mục tử tốt lành đích thực, đang trực tiếp chăn dắt chúng ta qua những người lãnh đạo trong Giáo hội, là Đức Giáo hoàng, các Giám mục, Linh mục. Vì thế, chúng ta có bổn phận nghe theo sự hướng dẫn của các ngài, công tác với các ngài, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta, để duy trì và xây dựng đoàn chiên nhỏ bé là gia đình mình, tập thể mình đang sống, đang làm việc và đoàn chiên rộng lớn hơn là Giáo hội.
Một lần nữa chúng ta hãy lặp lại lời Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ :”Ai nghe các con là nghe Thầy, ai khước từ các con là khước từ Thầy”(Lc 10,16). Qua câu Kinh Thánh này, chúng ta có thể khẳng định rằng vâng nghe các vị lãnh đạo trong Giáo hội là vâng nghe Chúa, và như vậy, đây là một nhiệm vụ không tthể thiếu được, vì như người ta nói :
Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
(Ca dao)
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_C
Lm Giuse Đinh tất Quý
Bài Tin Mừng hôm nay rất vắn, chỉ gồm có 3 câu, thế nhưng chỉ với ba câu đó chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đã đủ để phác họa nên một bức chân dung thật sống động về mối tương quan giữa Chúa và những kẻ tin vào Người. Chúa Giêsu tự coi mình như một mục tử và những kẻ tin vào Người như những con chiên cùng sống trong một ràn chiên của Chúa.
1. Người mục tử Chúa muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay là người như thế nào?
Chúa cũng chỉ sử dụng có hai từ: biết và cho và cũng chỉ với hai từ đó Chúa đã cho chúng ta thấy chân dung một người mục tử tốt là người như thế nào.
* Tôi biết chiên của tôi.
Người chăn chiên tốt lành biết rõ từng con chiên. Ông biết tên từng con. Ông biết tình trạng sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta.
Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư ? Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội.
Ta cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư ? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà, sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá.
Ta tuyệt vọng vì cuộc đời không lối thoát ư ? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen tối trong vườn Giết-si-ma-ni và trên thánh giá.
Ta cô đơn vì bị mọi người xa lánh ư ? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người.
Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư ? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ tội đồ nô lệ.
Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người, nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.
* Tôi cho chúng được sống đời đời.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả đoàn chiên món quà quí giá nhất là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của chính bản thân Người. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn chiên sẽ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ chiên trở thành một cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp với nhau trong một tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.
Đó là chân dung người mục tử theo ý của Chúa.
2. Còn đâu là hình ảnh con chiên trong ràn của Chúa là hình ảnh như thế nào?.
Chúa cũng chỉ sử dụng có hai từ để diễn tả: “nghe” và “theo”
* Trước hết “Chiên cuả tôi nghe tiếng Tôi.”
Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người.
Nhưng nghe được Lời của Thiên Chúa không phải dễ.
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như một hơi thở. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỉ lại ồn ào như một ngày hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của sự từ bỏ chính mình, dẫn ta lên ngọn đồi gai góc của thập giá hi sinh và thách thức ta phục vụ đến hi sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỉ mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến chỗ dìm mình trong đại dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quí trên đời.
Vì thế, để nghe được Lời Chúa, ta phải có một đôi tai thật thính, thật bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.
* Ta biết chúng và chúng theo Ta”.
Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với người khác.
Chiên thì phải theo Chủ.
Có một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syrie, thấy ba người chăn chiên dẫn bầy của mình đi ăn chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:
– Men ah! Men ah ! (Theo tiếng Ả rập có nghĩa là “Hãy theo ta! Hãy theo ta !”)
Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy chung và đi theo người ấy lên đồi.
Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.
Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:
– Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để tôi kêu như mấy người kia kêu, xem các con chiên của anh có theo tôi hay không.
Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu :”Men ah ! Men ah !”, nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi :
– Thế chiên của anh không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh thôi sao?
Người chăn Syrie trả lời :
– Ồ! có chứ! Nhưng đó là vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai.
Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ.
Mức độ thứ nhất : Thích nhìn, nghe người mình yêu.
Mức độ thứ hai : Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình đều có bóng dáng của người yêu.
Mức độ cuối cùng : Chia sẻ tất cả những gì mình có, kể cả cuộc sống của mình vì người mình yêu.
Như thế, theo tức là yêu thương ở mức độ cao. Con chiên đi theo Chúa phải hoàn toàn chủ động và nhất là phải thiết lập một quan hệ mật thiết với Chúa là Chủ của mình.
Vâng! Kính thưa anh chị em
Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống đang mở ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời sống tâm linh chúng ta. Nhiều giá trị đang bị đảo lộn. Nhiều con chiên đang bị lôi kéo rời xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống đang xô đẩy chúng ta ra khỏi cộng đoàn khiến nhiều người trở thành những con chiên bơ vơ không người chăn dắt. Trong một hoàn cảnh mới mẻ như thế, chúng ta rất cần có những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của đoàn chiên và thực sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều người trẻ biết đáp lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để phục vụ mọi người trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục của chúng ta trở thành những mục tử tốt lành noi gương Vị Mục Tử duy nhất là Chúa Giê su Kitô, Chúa chúng ta. Amen.
.
Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga 10:27).
Bao biến cố quan trọng đã liên tiếp diễn ra trong lòng Giáo hội suốt cả Năm Đại Thánh 2000. Từ việc phong chân phước cho Thầy giảng Anrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi của Việt Nam, đến phong hiển thánh cho 120 anh hùng tử đạo Trung hoa; từ sự kiện Đức Thánh Cha công khai sám hối những lỗi lầm của Giáo hội trong quá khứ đến việc hành hương thánh địa Palestine; từ đại hội Giới trẻ, qui tụ trên 2 triệu thanh niên thiếu nữ từ khắp nơi đổ về Rôma, đến việc tiết lộ bí mật thứ ba Fatima… Nhưng biến cố đáng ghi nhận hơn hết phải là việc Đức Thánh Cha chuẩn y bản tuyên ngôn Dominus Iesus (Chúa Giêsu) vào ngày 16.06.2000, và sau đó được Toà Thánh công bố ngày 05.09.2000.
Bản Tuyên ngôn Dominus Iesus là lời xác tín “Không có ơn cứu độ ngoài Chúa Giêsu”. Đây cũng là lời khẳng định tầm mức quan trọng của Giáo hội Công giáo trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Bản tuyên ngôn cảnh giác người tín hữu trước những tư tưởng muốn tương đối hoá các tôn giáo, cho rằng mọi tôn giáo đều có giá trị ngang nhau, đều chứa đựng một số yếu tố cứu độ nào đó dù không tôn giáo nào mạc khải trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa cho con người.
Bản tuyên ngôn phủ nhận có sự đối kháng giữa “não trạng thiên về luận lý của phương tây” và “não trạng thiên về biểu tượng của phương đông”. Bởi vì hệ luận tất yếu của nó là sự khước từ Công giáo như con đường cứu độ tốt nhất cho dân tộc châu Á.
Đang khi đó, Giáo hội tự khẳng định là “cần thiết cho ơn cứu rỗi của nhân loại.” Điều này không có hàm ý “người không có đạo sẽ không được cứu độ”. Đúng hơn, ơn cứu độ của Chúa Giêsu, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã liên kết cách nhiệm mầu những người ngoài Công giáo với Giáo hội của Ngài.
Sau khi bản Tuyên ngôn được chính thức công bố, một số phản ứng tiêu cực đã xuất hiện. Có người cho rằng lời lẽ của Dominus Iesus quá trịch thượng với câu “Chỉ nơi Đức Giêsu mới có ơn cứu độ”. Có người nhận xét: bản Tuyên ngôn như thế sẽ làm cản trở con đường đại kết. Thậm chí, có người dám nghĩ Đức Thánh Cha đã không sáng suốt nhận định tình hình trước khi công bố Dominus Iesus. Đây chẳng khác chi thái độ của một số người Do thái sau khi Chúa Giêsu nói về vai trò chủ chiên của mình. Họ tuyên bố: “Hắn bị quỉ ám, và ra điên sảng. Tại sao các ngươi cứ nghe hắn?” (Gn 10:20)
Nhưng rồi, trong ngày tôn phong hiển thánh các anh hùng tử đạo Trung Hoa, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định tính chất độc nhất và ơn cứu độ phổ quát của Chúa Giêsu và Giáo hội qua bài giảng như sau:
“Bằng việc công bố Tuyên ngôn “Chúa Giêsu” mà Ta đã đặc biệt chuẩn y vào thời cao điểm của Năm Thánh, Ta muốn mời gọi tất cả các Kitô hữu hãy cùng canh tân sự tín trung của mình vào Chúa Giêsu trong niềm hân hoan của lòng tin, đồng thời cùng nhau làm nhân chứng cho Đấng, hôm nay cũng như hôm qua, ‘là đường, là sự thật, và là sự sống’ (Ga 14:6).”
“Lời tuyên xưng Đức Kitô là Con duy nhất của Thiên Chúa, Đấng đã tỏ cho chúng ta thấy nhan Cha (x. Gn 14:8) không phải là một sự trịch thượng đối với các tôn giáo khác, nhưng là niềm cảm mến tri ân vì Đức Kitô đã tỏ mình cho chúng ta, dù không phải vì công trạng của chúng ta. Nhưng đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta tiếp tục trao tặng những gì đã nhận lãnh và thông truyền cho người khác những gì được tặng ban. Trong ý nghĩa đó, Chân Lý và Tình Yêu chính là Thiên Chúa đã được ban tặng cho mọi người và thuộc về mọi người.”
“Cùng với Thánh Tông đồ Phêrô, chúng ta tuyên xưng “Không có ơn cứu độ nơi một người nào khác” (Cv 4:12). Bản Tuyên ngôn Chúa Giêsu, dưới sự hướng dẫn của Công đồng Vaticanô II, nhận định rằng sự tuyên xưng này không có ý loại trừ ơn cứu độ khỏi những ai không phải Kitô hữu, nhưng là chỉ ra cội nguồn ơn ấy nơi Đức Kitô, trong Ngài, con người và Thiên Chúa được hiệp nhất. Thiên Chúa soi sáng cho người ta theo cách thế phù hợp với tình trạng tâm linh và thể chất của họ, giải cứu họ bằng những đường lối mà chỉ có Ngài biết.”
“Bản tuyên ngôn phân định rõ ràng những điểm quan yếu của Kitô giáo. Điều này không cản trở sự đối thoại [đại kết] nhưng chỉ ra nền tảng của nó. Bởi vì đối thoại mà không có nền tảng căn bản thì sẽ thoái hoá thành những ngôn từ trống rỗng…”
“Nguyện xin Mẹ Maria, Đấng mà Chúa Giêsu trên Thánh giá đã ký thác làm Mẹ nhân loại, trở giúp chúng ta cùng nhau lớn lên trong niềm tin vào Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, trong niềm hy vọng tất cả sẽ nhận được ơn cứu độ nơi Ngài, và trong tình yêu thương như dấu chỉ của con cái Thiên Chúa.”
Hôm nay xem lại một vài văn kiện và những biến cố sảy ra trong Năm Thánh, tôi cảm thấy thấm thía lời nói của Đức Giêsu: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Và Ta ban cho chúng sự sống đời đời” (Ga 10:27-28).
Có những con chiên không quen nghe tiếng chủ mình. Không tha thiết tìm hiểu, học hỏi và suy tư. Nó khó chịu khi phải theo chủ. Thích phóng khoáng và tương đối hoá mọi sự. Cứ tưởng không cần theo Chúa, chỉ “ăn ngay ở lành” là tự giải thoát mình. Nhưng có ăn ngay ở lành nào mà không do tình yêu và lẽ phải tác động. Thế nên, nói cho cùng thì cũng chính nhờ Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu và Chân Lý soi chiếu, mà người ta tìm thấy được “sự sống đời đời.”
Hiệp cùng với Đức Thánh Cha, vị mục tử đại diện Chúa Giêsu ở trần gian, xin dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin tha thiết cho bao con chiên đang lầm đường lạc lối, không biết lắng nghe và không chịu bước theo tiếng nói của Giáo hội. Xin cầu cho bao con chiên khác chưa thuộc cùng một ràn, được nên chung một đàn, với một chủ chiên duy nhất là Đức Kitô (Ga 10:16). Xin cho Tin mừng Tình yêu Cứu độ của Ngài được mọi dân nước tin nhận. Để nhờ đó hoa quả hạnh phúc thiên đàng sẽ nở tươi ngay trên trần gian.
.
Lm. Vũ Đình Tường
Tuần trước Phúc Âm thuật lại, ba lần Phêrô công khai tuyên xưng ông mến Đức Kitô hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn. Sau mỗi lần tuyên xưng như thế, Đức Kitô trao cho ông trọng trách, chăm sóc và bảo vệ đàn chiên Chúa. Tuần này Phúc âm chú trọng đến sự liên hệ mật thiết giữa chủ chiên và đàn chiên. ‘Chiên ta thì nghe tiếng ta, ta biết chúng và chúng theo ta Gn 10,27. Chiên nghe được tiếng chủ gọi nói lên sự liên hệ mật thiết giữa chủ chiên và đàn chiên. Nghe và biết, diễn tả sự liên hệ thường xuyên, và tiếng gọi kia, không phải là tiếng ai xa lạ, mà là tiếng gọi quen thuộc. Tiếng quen thuộc chủ chiên kêu gọi, không phải gọi chơi, mà gọi với mục đích. Qua bí tích rửa tội, Kitô hữu đáp trả tiếng chủ chiên mời gọi, và chủ chiên còn tiếp tục mời gọi. Chúng ta cầu nguyện để luôn trung thành với lời đáp trả, ta lãnh nhận khi chịu phép rửa, và tiếp tục tuyên xưng đức tin mỗi khi chúng ta cùng nhau đọc kinh Tin Kính, tuyên xưng trung thành với đức tin Chúa ban.
Chương đầu sách Sáng Thế Kí tường thuật sau mỗi ngày sáng tạo, Thiên Chúa thấy mọi sự tốt đẹp. Điều này cho thấy những gì Chúa tạo dựng đều tốt đẹp (STK 1,10). Chúng ta chọn nghe tiếng Chúa bằng cách chọn những gì tốt đẹp, đáng yêu, đáng quí và hỗ trợ, bảo vệ cũng như ban sự sống. Chọn như thế là chọn sống theo í Chúa. Khi Lời Chúa bám rễ, ăn sâu vào trong tim ta, ta sẽ chọn điều tốt lành, tránh điều xấu, và ngay cả phấn đấu để sự xấu không thể ảnh hưởng đến quyết định liên quan đến cuộc sống của chính mình, và cuộc sống của anh em. Sóng cả và giòng nước xoáy có thể làm lung lay mỏ neo con thuyền. Giữ cho ‘con thuyền’ đức tin không bị trôi theo giòng nước, Kitô hữu cần lắng nghe và đáp trả tiếng kêu gọi của chủ chiên. Đức Kitô lắng nghe tiếng Chúa Cha và kết hợp với Chúa Cha. Tông đồ lắng nghe tiếng Đức Kitô và kết hợp mật thiết với Đức Kitô. Kitô hữu lắng nghe và kết hợp với Đức Kitô qua lắng nghe tiếng kêu gọi của các tông đồ, và những vị các ngài tuyển chọn và sai đi. Qua đó Kitô hữu kết hợp với Chúa Cha, bởi chính Đức Kitô trao quyền cho thánh Phêrô coi sóc Giáo Hội, do Ngài sáng lập nơi trần thế. Giáo Hội do chính Đức Kitô sáng lập, đặt căn bản trên đức tin của các tông đồ mà Đức Kitô là đá tảng. Ngày nay đáp trả theo tiếng kêu gọi của Giáo Hội chính là tự chọn thuộc vào thành phần thiểu số, nhất là khi tiếng gọi đó không được đám đông hưởng ứng, và thường bị truyền thông phê bình, phân tích tỉ mỉ, chỉ trích theo quan điểm của đa số. Chỉ những Kitô hữu thường xuyên lắng nghe tiếng chủ chiên mời gọi mới đủ can đảm chấp nhận, và đáp trả tiếng mời gọi trên. Đáp trả lời mời gọi trên là dấu chỉ người đó thuộc về Đức Kitô; lắng nghe các tiếng khác chính là từ chối, hoặc tự tách mình khỏi dân riêng Chúa. Tuỳ theo mức độ đáp trả mà người ta nhận ra bạn là người tin theo Đức Kitô đến mức nào? Tin theo Đức Kitô, Kitô hữu nhận được sự sống trường sinh, nhận ân sủng và tình thương Chúa, và bảo đảm nơi ở nơi Thiên quốc Gn 10,27. Đáp trả lại tiếng chủ chiên chính là từ chối lời mời gọi khác nơi xã hội. Tiếng Đức Kitô mời gọi không phải là tiếng nói thường, mà là lời mời gọi của Đức Kitô Phục Sinh, Đấng sống lại từ cõi chết, đánh tan thần chết và ban sự sống đó cho những ai bước theo con đường Ngài mời gọi Gn 11,25-26.
Sự sống trường sinh là quà tặng miễn phí cho những ai tuyên xưng Đức Kitô Phục Sinh. Người đó thuộc về Đức Kitô, nhận được ân sủng và bình an Phục Sinh. Sự sống trường sinh là hiện thực, và có được bởi không thế lực nào có thể thắng được tình yêu của Đức Kitô. Đức Kitô ban ơn trường sinh, và đồng thời cũng ban cho ta quyền tự do lựa chọn: Hoặc tin và bước đi theo Ngài, hoặc tin và bước theo í nguyện riêng mình. Kitô hữu đi theo Đức Kitô nhận được Thánh Thần Chúa, hướng dẫn chỉ đường. Đi theo í riêng, một mình, cô đơn, trên trường đời, bởi từ chối ơn lành Chúa ban.
.
CÁC MỤC TỬ HÃY NÊN GIỐNG CHÚA KITÔ
Lm. Vũ Xuân Hạnh
Chúng ta, những người dấn thân trong ơn gọi tu trì của Hội Thánh Chúa Kitô. Vì thế, tất cả chúng ta hãy luôn để lòng mình thấm thía lời Chúa Giêsu: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. Nhất là những ai đang mang trọng trách lãnh đạo đoàn chiên của Chúa trong vai trò của một mục tử, chúng ta càng phải cầu nguyện để các chính mình luôn luôn ý thức như Chúa Giêsu đã ý thức: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”.
Đó chính là những lời tâm sự của Chúa Giêsu. Một khi các mục tử nơi trần thế, được Chúa Giêsu ủy quyền để lãnh đạo đoàn chiên của Người, các mục tử phải là những người trước tiên cưu mang, uống lấy, luôn tâm niệm, luôn say trong lời của Chúa Giêsu. Nhờ đó, khi các ngài hành động trong vai trò một người lãnh đạo nơi đoàn chiên của Chúa, các ngài sẽ thực sự hành động trong tư thế của Chúa Giêsu. Để chính khi thừa lệnh Chúa, theo ý Hội Thánh, cử hành bí tích, cử hành thánh lễ, cử hành quyền giảng dạy, các mục tử cử hành cách hết sức sốt sắng, đầy tinh thần trách nhiệm, nhằm mang lại nhiều hiệu quả nhất cho đời sống tâm linh cũng như đời sống vật chất, linh hồn cũng như thể xác của tất cả nhưng ai mà các ngài dấn thân phục vụ.
Chúng ta luôn ý thức và xin Chúa cho mình được trở thành những nhà lãnh đạo kiên trung trong đức tin, bền bỉ trong đức cậy, mạnh mẽ trong đức mến. Nêu cao tấm gương tận tụy hy sinh, phục vụ quên mình, sống thánh thiện, thực hành đức bác ái mục tử…
Các mục tử của Chúa hãy là những người rập khuôn cuộc đời Chúa Giêsu. Các ngài hoàn toàn đi theo dấu chân Chúa Giêsu không bao giờ ngơi nghỉ. Các ngài ý thức từng giây phút rằng, chính các ngài chứ không phải ai khác, là họa ảnh của Chúa Giêsu hôm nay, nơi trần thế này, để làm sao, mọi người khi nhìn thấy mục tử của họ là chính lúc họ an tâm rằng, Chúa Giêsu đang hiện diện nơi vị mục tử ấy. Tắt một lời, các mục tử hãy sống suốt đời của mình như Chúa Giêsu đã sống.
Phải sống như Chúa Giêsu, các mục tử của Chúa mới có thể tự hào mà nói rằng, đàn chiên Chúa trao cho tôi đã lắng nghe tiếng tôi, đã theo tôi.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử mới có thể biết chiên của mình, biết từng nỗi ưu tư, khắc khoải của họ; biết họ đang là người bị loại trừ hay đón nhận mà nâng đỡ họ; biết họ lâm cơn thử thách hay bình an mà trao cho họ lời động viên khích lệ; biết từng cách sống nguội lạnh hay sốt sắng mà hướng dẫn họ…
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử là người đưa tay chỉ đường về trời cho đàn chiên không lạc lối. Khi đó, các mục tử mới thật sự là những người ban cho đàn chiên sự sống đời đời.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử ra sức bảo vệ đàn chiên và bảo vệ tới cùng, để đàn chiên không bao giờ phải diệt vong, để không ai, không quyền lực tội lỗi, quyền lực sự xấu nào có thể cướp được đàn chiên khỏi tay mình.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử sẽ phải ghi khắc không bao giờ quên rằng, tôi có làm gì, có lãnh đạo như thế nào, thì sự thật vẫn là: đàn chiên không phải của riêng tôi. Tôi không sở hữu theo ý mình để rồi muốn làm gì thì làm, nhưng là “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi”. Người “lớn hơn tất cả”. Tôi chỉ là đầy tớ của Người, chỉ làm theo ý Người mà thôi. “Cha tôi” mới là Đấng có quyền. Người thi hành quyền của Người trong tình yêu tuyệt đối.
Sống như Chúa Giêsu, các mục tử sẽ hết sức khiêm nhường phó thác trọng trách của mình, phó thác đàn chiên Chúa trao cho mình trong sự cầu nguyện chìm đắm không bao giờ được phép quên sót. Các mục tử phải luôn luôn thi hành quyền mục tử trong niềm tin tưởng lớn lao rằng, đàn chiên ấy là của “Cha tôi”. Các ngài phải thi hành quyền làm mục tử đến cùng, dù có phải mỏi mòn, bạc nhược, bị hiểu lầm, đuối sức… Phải thi hành đến lúc không còn có thể thi hành được nữa mới thôi. Các mục tử hãy biết rằng, mình chỉ là con người. “Cha tôi” mới là Đấng làm nên tất cả, điều khiển tất cả. Các mục tử hãy tin vững vàng rằng, “Cha tôi” sẽ ban ơn cho tôi, sẽ ban ơn cho đàn chiên mà tôi nhận trách nhiệm coi sóc để không bao giờ có ai có thể cướp được đàn chiên khỏi tay Cha tôi.
Ngoài tâm tình cầu nguyện dành cho các mục tử đang đại diện Chúa nơi trần thế, ta không quên cầu nguyện cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng Chúa gọi, nhất là có đủ can đảm để theo tiếng gọi đó bằng một đời dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân, phụ vụ người nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật, cô đơn, già yếu… Chúng ta cầu nguyện cho các bạn trẻ khắc ghi lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mà nung đốt lòng mình niềm mơ ước sống đời tận hiến: “Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời” (Sứ điệp ngày Quốc tế Ơn gọi năm 2000).
Lạy Chúa, xin gìn giữ các linh mục, các tu sĩ là những người Chúa đã gọi và tuyển chọn, để họ luôn yêu mến Chúa và yêu mến con người, nhờ đó hành động, suy nghĩ, đời sống của họ ngày càng nên giống Chúa Giêsu Con Chúa, là Mục Tử Nhân Lành của chúng con.
Xin Chúa sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ, để các bạn quản đại đáp lại tiếng gọi của Chúa, yêu mến đời sống của Chúa Giêsu và hiến thân như Người. Nhờ đó, họ có thể tiếp tục làm tất cả những gì Người đã làm nơi trần gian. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài.
Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành với những nét đặc trưng sau đây:
Chúa Giêsu còn cho thấy tính tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
Đức Hồng Y Yvan Dias, Tổng trưởng Thánh bộ Phúc âm hóa các Dân tộc, đại diện Đức Thánh Cha đã chủ toạ bế mạc Năm Thánh 2010 tại Thánh địa Lavang.
Sau đại lễ, ĐHY Ivan Dias đã gặp gỡ các Giám Mục Việt Nam trong một tiếng đồng hồ để chia sẻ về tình hình cũng như gởi gắm sứ điệp. Về sứ điệp, ngài mời gọi tất cả Giám mục chia sẻ lại cho các linh mục, chủng sinh của mình về 3 chữ D rất cần thiết trong đời sống của người thuộc về Giáo Hội. 3 Chữ D là: Doctrine, Discipline, Dévotion.
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
Trong Sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho các ơn gọi năm 2012, ĐTC Bênêđictô xác định: Lời Chúa, cầu nguyện và Thánh Thể là kho tàng quý giá giúp cho các ơn gọi hiểu vẻ đẹp của một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Nước Thiên Chúa.Ngài mời gọi mời gọi các mục tử : Khi kín múc ở nguồn mạch tình yêu Thiên Chúa trong đời sống cầu nguyện, cùng với việc năng lui tới với Lời Chúa và các Bí tích, cách riêng Bí tích Thánh Thể, mà ta có thể sống tình yêu đối với tha nhân trong đó ta học biết khám phá khuôn mặt của Chúa Kitô (x. Mt 25, 31-46).
Trở nên mục tử tốt lành nhờ biết trau dồi giáo thuyết Kinh Thánh (Doctrine), sốt sắng trong lời cầu nguyện gắn bó với Chúa Giêsu (Dévotion) và có tinh thần kỷ luật trong đời sống tu trì (Discipline).
Mục tử tốt lành là phải luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên,yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Ơn gọi Linh mục Tu sĩ chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi”(Mc 3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Chúa trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.
Giáo dân cần Linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ, như học sinh cần thầy cô giáo, như một người bạn sẵn sàng cảm thông chia sẻ vui buồn trong đời sống và như người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục được trở nên những mục tử như Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tốt Lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đàn chiên. Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục có những đức tính tốt của những Mục Tử tốt Lành mà Thánh Kinh đã mô tả :
– Yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn: “Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40, 11).
– Yêu quý từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc” (Mt 18, 12-13).
– Lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ” (Ed 34, 14).
– Làm cho chiên được sống no ấm, hạnh phúc: “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23,1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: “Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm”(23, 4).
– Tinh thần trách nhiệm đối với đàn chiên rất cao: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng” (Ed 34,16).
– Cứu thoát, giải phóng đàn chiên: “Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên” (Dc 9,16).
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử Tốt Lành, xin cho chúng con luôn theo gương vị thánh bổn mạng các Linh mục, đó là Cha sở Gioan Vianney “là mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”, hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.
.
JM. Lam Thy
Trong Sứ điệp Ngày Thế Giới Ơn Gọi 2015, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô viết: “Chúa nhật thứ 4 mùa Phục Sinh trình bày cho chúng ta hình ảnh vị Mục Tử nhân lành biết rõ các chiên của mình, kêu gọi, nuôi dưỡng và dẫn dắt chúng. Trong Chúa Nhật này, từ hơn 50 năm nay, chúng ta cử hành Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi. Mỗi lần Ngày này đều nhắc nhớ chúng ta về tầm quan trọng của việc cầu nguyện, để, – như Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ, – “xin chủ mùa gặt sai nhiều thợ đến làm việc trong mùa gặt của Người” (Lc 10, 2)… Như thế, lắng nghe và theo tiếng Chúa Ki-tô Vị Mục Tử nhân lành, để cho mình được Chúa thu hút và dẫn dắt, dâng hiến chính cuộc sống của mình cho Chúa, có nghĩa là để cho Chúa Thánh Linh dẫn đưa chúng ta vào trong năng động truyền giáo, khơi dậy nơi chúng ta ước muốn và lòng can đảm vui mừng hiến dâng cuộc sống chúng ta, dành cuộc sống để phục vụ chính nghĩa Nước Thiên Chúa.”
Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/PS-C – Ga 10, 27-30) trình thuật câu chuyện một đám người Do Thái cố tình dồn Đức Giê-su vào một thế kẹt để họ dễ dàng lên án Người. Lúc đầu chỉ là câu hỏi như kiểu nêu thắc mắc đòi được giải đáp (“Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin ông nói công khai cho chúng tôi biết.” – Ga 10, 24). Trước đó, khi nghe Đức Ki-tô nói: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 14-15), thì đám người Do Thái này đã nói: “Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm gì?” (Ga 10, 20). Đức Giê-su quá hiểu mục đích của đám người này không phải muốn được giải tỏa thắc mắc, để họ có thể tin vào Đức Giê-su chính thực là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật; mà thực sự họ chỉ muốn nhân cơ hội kết án Người là phạm thượng, rồi ném đá Người (Ga 10, 31-33).
Vì thế, khi trả lời họ, Đức Ki-tô đã nhấn mạnh: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.” (Ga 10, 25-26). Sau khi xác định đám người Do Thái không thuộc đoàn chiên của mình, Đức Giê-su lại tiếp tục nói về đoàn chiên mà Người thương mến: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chua Cha là một.” (Ga 10, 27-30). Người đã lấy hình ảnh rất dễ thương của đàn chiên để chỉ những môn đệ và những kẻ tin theo Lời Người; đồng thời Người cũng xác định chính Người là Đấng chăm lo chăn dắt đàn chiên đó – Người chính là vị Chúa Chiên nhân lành.
Hiểu sâu vào vấn đề, thì vị Mục Tử nhân lành ấy được Chúa Cha sai đi chăn dắt đoàn chiên về đường linh thiêng, nên còn gọi là linh mục, và chính Đức Ki-tô là Linh Mục Thượng Phẩm, Linh Mục Duy Nhất như Tông huấn Ki-tô Hữu Giáo Dân (Ch. I, số 14) đã viết: “Thánh Au-gus-ti-nô viết: ‘Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục Duy Nhất’ (De Civitate Dei – XX, 10).” Về lý thuyết thì tất cả mọi Ki-tô hữu đều là linh mục (tư tế cộng đồng), nhưng thực tế để có thể điều hành hoạt động của Giáo hội, thì lại rất cần có hàng ngũ những người trực tiếp thừa kế (tư tế thừa tác) sứ vụ của Linh Mục Duy Nhất Giê-su Ki-tô, thông qua Bí tích Truyền Chức (“Danh từ “hàng Linh Mục” đươc chọn với mục đích để chỉ định toàn thể hàng ngũ Linh Mục. Chúa Giê-su đã cho toàn thể Dân Chúa tham dự vào chức linh mục của Người nhưng Người còn muốn thiết lập những “thừa tác viên” của Người, những người này nhờ bí tích Truyền Chức được quyền dâng thánh lễ, quyền tha tội và thực hành chức vụ linh mục nhân danh Chúa Ki-tô.” – Sắc lệnh “Chức vụ và đời sống các linh mục”, số 2).
Hai chức vụ “tư tế thừa tác” và “tư tế cộng đồng” quan hệ khăng khít với nhau, chức vụ này vừa là tiền đề vừa là kết quả của chức vụ kia và ngược lại. Lý do cũng dễ hiểu: không thể có những phần tử lãnh nhận chức vụ tư tế thừa tác nếu không có hàng ngũ tư tế cộng đồng, ngược lai hàng ngũ tư tế cộng đồng muốn không bị khủng hoảng để đi đến tan rã, cũng rất cần thiết phải có người trông coi, chăm sóc, đó là những tư tế thừa tác. Nói cụ thể hơn, không có Giáo dân (đoàn chiên của Chúa) thì không thể có Linh mục, mà không có Linh mục thì đoàn chiên sẽ bị tan vỡ ngay. Tư tế cộng đồng (Giáo dân) hay tư tế thừa tác (Linh mục) thì cũng đều là con người, mà nói về con người thì “nhân vô thập toàn”, không một cá nhân nào được thập phần hoàn hảo, có ưu điểm thì cũng có khuyết điểm, đó cũng là lẽ tất nhiên.
Trong đoàn chiên của Chúa có rất nhiều những con chiên ngoan hiền dễ thương, biết vâng nghe lời chủ, thì cũng không thiếu những con chiên lạc đàn, chạy theo bầy sói dữ, thậm chí còn quay lại chống trả và giết hại cả chủ chăn (mục tử). Cũng vậy, trong hàng ngũ mục tử – những thừa tác viên kế nghịêp Mục tử nhân lành Giê-su Ki-tô – có rất nhiều những mục tử xứng đáng với vai trò và trách vụ của mình đã được chính Đức Ki-tô trao phó trong bữa Tiệc Ly (“Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en.” – Lc 22, 29-30); nhưng cũng vẫn còn những mục tử bất trung, phạm những lỗi lầm nghiêm trọng, như “Thư của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đic-tô XVI gởi các linh mục nhằm thiết lập năm linh mục” ngày 16/6/2009, viết : “Bất hạnh thay, cũng tồn tại những hoàn cảnh, không bao giờ lấy làm tiếc đủ, mà chính Giáo Hội phải chịu vì sự bất trung của một số thừa tác viên của mình. Và đối với thế giới, đó là một cái cớ gương mù và khước từ.” (xin coi thêm “Thư đề ngày 20/3/2010 của ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI gửi Giáo Hội Ai-len” v/v một số linh mục xâm phạm tình dục trẻ em).
Nói chung, hàng ngũ mục tử cũng như hàng ngũ con chiên đều không thoát khỏi cảnh có những mục tử xấu, những con chiên ghẻ làm gương mù và khước từ ân sủng của Thiên Chúa. Người tín hữu không quá lạc quan để cho rằng đoàn chiên của Chúa cũng như những vị mục tử thừa kế sứ vụ của Đức Giê-su Ki-tô, tất cả đều tốt lành, hoàn hảo; nhưng đồng thời cũng không quá bi quan để cho rằng tất cả đều xấu. Vâng, “Trong Giáo Hội luôn có một ý thức mới mẻ và phấn khởi về sự cao cả của ân huệ của Thiên Chúa, được cụ thể hóa nơi những hình ảnh sáng ngời của những mục tử quảng đại, những tu sĩ rực cháy tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn, những vị linh hướng sáng suốt và kiên nhẫn.” (xc. “Thư thiết lập Năm Linh Muc 2009”).
Bài Tin Mừng CN tuần trước (CN.III/PS-C) trình thuật về phép lạ “Mẻ cá lớn” có một chi tiết rất đáng lưu ý, đó là: Sau phép lạ, Đức Giê-su hỏi thánh Phê-rô ba lần liền “Simon, con ông Gio-an, con có yêu mến Thầy không?” Ba lần chỉ với một câu hỏi, khi nghe Phê-rô trả lời câu đầu tiên thì Đức Giê-su nói “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy” (Ga 21, 15). Điều này cho thấy Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô với tư cách mục tử hãy chăm sóc đàn chiên con. Nếu đã có “chiên con” (giáo dân). thì tất nhiên phải có “chiên mẹ” (linh mục), nên hai lần sau, Đức Giê-su chỉ nói ngắn gọn: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21, 17). Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô trông coi cả đoàn chiên (trong đó có chiên mẹ và chiên con), tức là trông coi cả Giáo hội như Người Mục Tử Nhân Lành đã làm (“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.” – Is 40, 11).
Có lẽ vì trong ràn chiên Giáo hội có cả chiên mẹ (linh mục) và chiên con (giáo dân) nên giáo dân Việt Nam thường dùng tiếng “cha” để gọi các linh mục; mặc dù Chúa dạy không được gọi ai bằng cha hay bằng thầy, vì chỉ có một người Cha duy nhất ở trên trời, và chỉ có một người Thầy duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô (Mt 23, 8-10). Với tiếng cha thân thương dành cho các linh mục như vậy, giáo dân VN luôn mong mỏi các linh mục hãy coi đoàn chiên như con cái, đồng thời hãy coi mình có bổn phận và trách nhiệm của bậc cha mẹ, mà chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên. Tuy nhiên, từ cái ưu điểm ấy, cũng nảy sinh những hạn chế. Đó là giáo dân vì gọi linh mục là cha, nên mang một mặc cảm tự ti, luôn e dè – thậm chí sợ hãi – mà không dám gần gũi, cộng tác, sẻ chia trong sứ vụ chung; đồng thời về phía linh mục, cũng có một số tự cao, tự đại coi mình là “cha thiên hạ”, không thèm lắng nghe ý kiến từ giáo dân, thậm chí còn coi mình là nhân vật “bất khả xâm phạm, bất khả thay thế” nữa. Số người ấy (từ cả hai phía giáo dân và linh mục) tuy không nhiều, nhưng không phải là không có.
Tóm lại, “Lắng nghe và đón nhận tiếng gọi Chúa không phải là một vấn đề riêng tư và duy nội tâm, có thể bị lẫn lộn với cảm xúc nhất thời; trái lại đó là một dấn thân cụ thể, thực tế và trọn vẹn, bao trùm trọn cuộc sống của chúng ta, đặt cuộc sống ấy phục vụ cho việc xây dựng Nước Chúa trên trái đất này. Vì thế, ơn gọi Ki-tô, được ăn rễ sâu nơi sự chiêm ngắm trái tim của Chúa Cha, đồng thời thúc đẩy dấn thân liên đới giải thoát những người anh chị em, nhất là những người nghèo khổ nhất. Người môn đệ của Chúa Giê-su có con tim rộng mở đối với chân trời vô tận của Chúa và sống thân mật với Chúa, không bao giờ họ trốn chạy cuộc sống và thế giới, nhưng trái lại, “họ sống theo tình hiệp thông truyền giáo” (E.G. 23).” (Sứ điệp của ĐTC Phan-xi-cô nhân ngày Thế giới cầu cho Ơn Gọi – 26/4/2015).
Ý thức được vấn đề, người Ki-tô hữu hãy cầu xin cho mọi thành phần của Giáo hội sống đúng và sống trọn vẹn vai trò của mình: Ai được chọn làm mục tử thì luôn luôn phải là người mục tử tốt lành theo gương Mục Tử Nhân Lành Giê-su Ki-tô; còn đoàn chiên con phải luôn biết đoàn kết thương yêu nhau, cùng nghe theo tiếng nói đích thực của vị Mục Tử Nhân Lành Giê-su thông qua các mục tử trong ràn chiên Giáo hội, để ai nấy đều được sống và sống dồi dào Tình Yêu của Chúa Chiên Lành Giêsu-Kitô. Chỉ có như thế mới đổi mới được cuộc đời, “giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ” như lời dạy của ĐTC Phan-xi-cô trong bài Giáo Lý thứ hai về Năm Đức Tin (ngày 10/4/2013): “Là một Ki-tô hữu không chỉ là tuân giữ các giới răn, nhưng có nghĩa là sống trong Đức Ki-tô, suy nghĩ như Người, hành động như Người, yêu như Người; có nghĩa là để Người làm chủ cuộc đời chúng ta và thay đổi nó, biến đổi nó, để giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ và tội lỗi.” Ước được như vậy. Amen.
.
NHẬN DIỆN MỤC TỬ VÀ NGƯỜI CHĂN THUÊ
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Hằng năm cứ đến ngày Lễ Chúa Chiên Lành (Chúa Nhật IV Phục Sinh), cả Giáo Hội hướng đến việc cổ võ ơn thiên triệu trong bậc tu trì nói chung và cách riêng ơn gọi làm linh mục. Có thể luận suy rằng khi người ta yêu sách phẩm hạnh cần có của một bậc sống thì mặc nhiên người ta khẳng định sự cao quý và cần thiết của bậc sống ấy.
Một sự thật dễ thấy, đó là khi đề cập đến mặt tích cực và khi đó là một trong những nhân đức hay lý tưởng thì người ta dễ đón nhận và cũng dễ tự bằng lòng khi thấy mình chưa đạt đến. Một trong những luận lý để tự châm chước đó là phận người còn nhiều hạn chế, thiếu sót vì như lời người xưa: “nhân vô thập toàn”. Trái lại khi nói đến điều tiêu cực, hay mặt trái của vấn đề thì người ta khó đón nhận, vì ai ai cũng vấn vương chút sĩ diện, chút tự ái nào đó. Dù vậy, qua những lời của chính Chúa Kitô, chúng ta cũng cần xem xét đôi điều để phân biệt mục tử với người chăn thuê.
Đã nói là phân biệt hai thực thể nào đó thì chắc chắn giữa chúng phải có nét tương đồng khiến người ta dễ lầm lẫn. Vì thế, trước hết chúng ta cùng xem xét một vài nét xem ra tương đồng giữa người chăn thuê và vị mục tử:
1.Qua cửa ràn chiên: Cả hai, vị mục tử và kẻ chăn thuê đều đường đường chính chính qua cửa ràn chiên mà vào và ra chứ không leo tường hay chui rào. Có thể nói rằng dù được tấn phong giám mục thành sự, được truyền chức linh mục thành sự, dù có sắc phong, có văn thư bổ nhiệm hợp pháp…thì cũng chưa hẳn đã là mục tử chính hiệu.
2.Biết chiên: Dù rằng khó có thể có cái “biết” theo nghĩa Kinh Thánh đó là đồng thân, chung phận, nhưng người chăn thuê cũng biết con chiên một cách nào đó khả dĩ đáng gọi là biết theo nhãn quan nhân loại.
3.Chiên nghe tiếng và đi theo mục tử cũng như kẻ chăn thuê: Ít ai phản đối sự thật này, vì người chăn thuê không phải là người lạ hay là kẻ trộm (x.Ga 10,5;8). Ngoại trừ một số ít chiên “cá biệt” hoặc bị gán nhãn mác là “chống giáo sĩ”, thì có thể nói là đại đa số giáo dân Công Giáo, cách riêng giáo dân Công Giáo Việt Nam đều ngoan, theo nghĩa là biết vâng nghe lời các đấng bậc.
4.Người chăn thuê và mục tử đều dẫn chiên đến đồng cỏ và nguồn nước: Rất có thể chiên không được hưởng dùng các loại cỏ xanh tươi hay dòng nước mát trong cách tốt nhất, nhưng người chăn thuê vẫn không quên bổn phận cung cấp thức ăn và nước uống cho đàn chiên. Phải chăng đã và đang có đó nhiều vị giảng dạy, cử hành các Bí tích, làm mục vụ… mà còn thiếu tấm lòng mục tử?
Tiếp đến chúng ta cùng nhận diện những điểm khác biệt giữa người chăn thuê và vị mục tử. Đây là nội dung muốn chia sẻ. Hy vọng rằng khi trực kiến với hình ảnh mang tính phản diện thì chúng ta dễ giật mình hơn, không chỉ với những người đang trong phận vụ mục tử mà còn với cả những người trong danh phận con chiên.
1.Làm chỉ vì tiền: Mục đích nhắm của bất cứ người làm thuê nào, nếu thực sự là làm thuê, thì đều vì tiền công. Người chăn thuê cũng có thể có tấm lòng với đàn chiên, nhưng ưu tiên số một vẫn là tiền công, dù là công nhật, công tháng, công năm hoặc hưởng lương theo sản phẩm.
2.Làm hết giờ hơn là làm hết việc: Trong thân phận người làm thuê thì người ta rất mong đến giờ tan sở. Giả như người làm thuê nếu có làm hết việc thì ít khi hết lòng. Nếu người làm thuê làm ăn lương theo sản phẩm thì có đó chuyện làm hết sức, nhưng làm cách công tâm và hết tình thì chưa hẳn có. Trái lại, nếu đúng là mục tử thì có thể nhiều khi làm không hết việc, thậm chí có khi không được việc trước mắt, nhưng luôn thực thi hết lòng.
3.Không quan tâm đến chiên ngoài đàn: Đây là một điều tất yếu đương nhiên. Đã là làm thuê thì ít có ai thích dài tay với những việc xem ra không quá đòi buộc phải làm hoặc có xao nhãng hay không làm cũng chẳng bị trừ lương. Đã là mục tử thì không thể quên lời của Thầy chí thánh, Giêsu: “Ta còn nhiều chiên ở ngoài đàn…”
4.Không bao giờ sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì chiên: Cần thú nhận rằng chẳng có ai dại gì tự nguyện bị thiệt thân vì những gì không thuộc về mình. Khi thấy sói đến người chăn thuê sẵn sàng bỏ chiên để giữ lấy mạng sống mình (x.Ga 10,12). Chuyện hiến dâng mạng sống vì chiên xem ra chẳng hề có trong tâm trí của người chăn thuê. Trái lại, đây là điểm không thể thiếu để thẩm định ai mới là mục tử.
Đọc lịch sử Giáo Hội và với chút luận suy thì chúng ta có thể khẳng định rằng đã và có thể đang có đó “kẻ trộm, kẻ cướp” trong vai mục tử. Thế nhưng đó chỉ là số rất nhỏ và rồi đoàn tín hữu cũng có thể dễ dàng phát hiện hạng người đến chỉ nhằm giết hại đàn chiên, hoặc nếu họ có ngụy trang cách khéo léo thì “cây kim lâu ngày trong bọc cũng sẽ lộ ra”. Trái lại sự nhập nhằng đen trắng giữa mục tử với kẻ chăn thuê thì hầu như rất khó nhận diện cả với đàn chiên và có thể với cả các đấng bậc trong vai vị mục tử.
Với bốn điểm đồng và bốn điểm dị, thầm mong khi phân biệt mục tử với người chăn thuê, chúng ta thêm xác tín rằng ngoài việc cần thiết cầu nguyện liên lỉ cho các mục tử trong Giáo Hội, thì đang còn đó nhiều việc đáng làm và nên làm. Cũng hy vọng rằng một số mục tử nào đó trong Giáo Hội, dù chưa hẳn xứng danh mục tử tốt lành nhưng không phải là những người chăn thuê. Và mong sao không hề có những kẻ chăn thuê đang mang danh mục tử.
Dù rằng ngay cả bậc thánh nhân được liệt vào hàng các Thánh mục tử thì không một ai thực sự là mục tử chính danh chính phận. Chỉ một mình Chúa Giêsu mới đích thực là mục tử. Dù là bậc cao trọng và đạo hạnh trong Hội Thánh thì vẫn tồn tại hai tính phần mục tử và chăn thuê nơi các đấng bậc. Mong sao phần tính chăn thuê chỉ là phần chiếm tỷ lệ rất nhỏ nơi con người và đời sống các ngài. Nếu phần tính chăn thuê đang là 30-50% hay quá bán thì quả là đáng quan ngại. Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn đoàn chiên của Người sống và hành xử như “đoàn cừu của Panurge”, mà là như đoàn dân Thiên Chúa trưởng thành, đầy ý thức và tinh thần trách nhiệm, luôn tích cực cộng tác với ơn Chúa để dệt xây những mục tử tốt lành như lòng Chúa ước mong.
.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong cả ba năm Phụng vụ, vào Chúa Nhật IV Phục Sinh chúng ta được nghe bài Tin Mừng Gioan về người mục tử nhân lành. Ở Chúa Nhật vừa rồi, Lời Chúa giúp chúng ta suy niệm về người đánh cá; Tin Mừng Chúa Nhật giới thiệu với chúng ta về người mục tử. Đây là hai hình ảnh quan trọng như nhau để diễn tả về sứ vụ cứu độ trong Tin Mừng. Hình ảnh thứ nhất có tước hiệu “những kẻ chài lưới người,” và hình ảnh thứ hai có tước hiệu là “mục tử của các linh hồn.” Cả hai danh hiệu đều được áp dụng cho các Tông Đồ.
1- Chân dung người mục tử
Phần lớn miền Giuđêa là vùng cao nguyên với đất cằn cỗi và sỏi đá, chỉ phù hợp cho việc chăn nuôi hơn là trồng trọt. Những cánh đồng cỏ xanh thì rất khan hiếm nên đoàn chiên phải luôn di chuyển từ nơi này tới nơi khác; không có những thành lũy bảo vệ và vì thế, người mục tử phải luôn hiện diện với đàn chiên. Một du khách của thế kỷ trước đã để lại cho chúng ta một bức chân dung về người mục tử ở Palestina như sau: “Khi bạn thấy người mục tử xuất hiện trên một đồng cỏ, ông không ngủ, nhưng quan sát từ xa, với dáng phong trần sương gió, tựa mình trên chiếc gậy, chăm chú theo dõi đoàn chiên di chuyển, bạn hiểu tại sao người mục tử có tầm quan trọng như thế trong lịch sử của Ítraen. Vì thế, họ dành tước hiệu này cho vị vua của họ và chính Đức Kitô đã dùng tước hiệu này như biểu tượng để diễn tả về hy sinh chính mình.”
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được trình bày như là Mục tử của dân Người: “Chúa là mục tử của tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv 23,1). “Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95,7). Trong sách tiên tri Isaia, Đấng Mêsia tương lai cũng được miêu tả với hình ảnh của người mục tử: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11).
Trong Tân Ước, hình ảnh lý tưởng về người mục tử này được ứng nghiệm một cách đầy đủ nơi Chúa Kitô. Người là Mục Tử nhân lành, đã dong duổi đi tìm những con chiên lạc; Người động lòng thương xót con người bởi vì Người thấy họ như “đàn chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36); Người gọi các môn đệ của Người là “đàn chiên bé nhỏ” (Lc 12,32). Thánh Phêrô gọi Chúa Giêsu là “Mục Tử của linh hồn chúng ta” (1 Pr 2,25) và Thư gửi Tín hữu Do Thái nói về Người như là “Mục Tử cao cả của đoàn chiên” (Dt 13,20).
2- Nét tiêu biểu của vị Mục Tử nhân lành
Tin Mừng Chúa Nhật này làm nổi bật những nét tiêu biểu của Chúa Giêsu, Mục Tử nhân lành. Nét tiêu biểu thứ nhất đó là sự hiểu biết lẫn nhau giữa người mục tử và đoàn chiên: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Trong một số nước ở Châu Âu, chiên được nuôi và phát triển một cách chính yếu vì để cung cấp thịt; ở Ítraen, trước hết chúng được nuôi để lấy lông và sữa. Vì lý do này, chúng được nuôi giữ nhiều năm trong đoàn chiên của người mục tử. Nên ông biết rõ đặc điểm mỗi con và đặt cho chúng những danh xưng rất thân tình.
Điều mà Chúa Giêsu muốn nói qua hình ảnh này là rất rõ. Người biết các môn đệ của Người (như Thiên Chúa biết hết mọi người). Người biết rõ tên của họ. Đối với Kinh Thánh, biết tên gọi cũng có nghĩa là biết rõ bản chất sâu xa nhất của họ. Người yêu thương họ với một tình yêu cá vị và với tình yêu đó, Người đối xử mỗi người như họ là duy nhất, hiện hữu, không ai thay thế đối với Người. Chỉ có Chúa Kitô mới biết rõ mỗi người môn đệ Chúa thế nào và mỗi người môn đệ đó chính là chúng ta.
Đoạn Tin Mừng còn nói với chúng ta điều gì đó nữa về người Mục Tử tốt lành. Người hiến mình cho và vì đoàn chiên, không ai có thể cướp chúng khỏi tay Người. Những con vật hoang dã – những con sói và loài báo – và những tên cướp là cơn ác mộng đối với những mục tử ở Ítraen. Trong những nơi hoang liêu như thế, chúng luôn là mối đe dọa thường xuyên. Đó là những khoảnh khắc cho thấy sự khác biệt giữa mục tử đích thực và người chăn thuê. Người mục tử đích thực là người chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên khỏi sự tấn công của lũ sói, dẫu phải đối diện với nguy cơ phải bỏ mạng; còn người chăn thuê là người chỉ làm việc vì tiền công, không phải vì lòng yêu mến đoàn chiên, và thường họ chẳng có yêu mến gì đoàn chiên.
Khi đối diện với những nguy hiểm, người chăn thuê đào tẩu và bỏ đoàn chiên ở lại với lũ sói hoặc lũ cướp; còn người mục tử đích thực thì dám can đảm đối diện với nguy hiểm để bảo vệ và cứu vớt đoàn chiên. Điều này diễn tả lý do tại sao Phụng vụ đề nghị chúng ta chọn đọc đoạn Tin Mừng về người Mục Tử nhân lành trong Mùa Phục Sinh, thời điểm mà Chúa Kitô minh chứng Người là Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đoàn chiên qua cuộc Tử nạn trên Thập giá và Phục sinh vinh hiển.
3- Chúng ta là đoàn chiên của Người
Khi suy ngắm hình ảnh Chúa là Mục tử tốt lành, một câu hỏi đặt ra trong tâm trí chúng ta: Tại sao Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến thế? Đây cũng là câu hỏi mà tác giả Thánh Vịnh đã từng thắc mắc: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8,4-5). Con người chỉ là cát bụi mong manh: “Thật con người chỉ như hơi thở, thấp thoáng trên đường tựa bóng câu” (Tv 39,6-7). Nhưng con người được Thiên Chúa tạo dựng rất cao cả: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,6-7).
Triết gia Blaise Pascal đã diễn tả sự tương phản giữa sự khốn cùng và vĩ đại của con người: “Con người chỉ là một cây sậy, một cây yếu ớt nhất trong thiên nhiên, nhưng là một cây sậy biết suy tư” (Tư Tưởng 347). Con người trổi vượt hơn mọi loài vì con người giống hình ảnh Thiên Chúa và được Người yêu thương một cách đặc biệt.
Như thế, Đấng Phục Sinh chính là vị Mục Tử nhân lành, Người yêu thương, chăm sóc và lo lắng cho chúng ta như Mục tử chăm sóc đoàn chiên của mình.
Để kết thúc, chúng ta tâm nguyện với lời ca của Thánh Vịnh:
“Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23). Amen!
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_C
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành”.
Cv 13: 14, 43-52
Khi thi hành công việc truyền giáo ở An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba, như những mục tử nhân lành, công bố ơn cứu độ phổ quát cho muôn người.
Kh 7: 9, 14-17
Thị kiến mà sách Khải Huyền mô tả chính xác là thị kiến về đoàn người được tuyển chọn đông đảo khôn kể xiết đứng chầu quanh ngai Thiên Chúa. Con Chiên đang ngự ở giữa họ “sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh”.
Ga 10: 27-30
Đức Giê-su khẳng định Ngài là vị Mục Tử Thiên Chúa, liên đới với đoàn chiên của Ngài. Chính Ngài cho họ được sống và sống dồi dào trong sự hiệp nhất mật thiết với Chúa Cha.
BÀI ĐỌC I (Cv 13: 14, 43-52)
Phần thứ nhất sách Công Vụ Tông đồ (ch. 1-12), mà chúng ta đã đọc nhiều đoạn trích dẫn trong nhiều Chúa Nhật trước, nêu bật dung mạo Tông Đồ Phê-rô. Trong phần này, thánh Phê-rô loan báo Tin Mừng chủ yếu cho dân Ít-ra-en, ngoại trừ viên đại đội trưởng Rô-ma, ông Co-nê-li-ô và gia quyến của ông, những người Ki-tô hữu đầu tiên được chấp nhận vào Giáo Hội qua phép Rửa chứ không qua phép cắt bì.
Phần thứ hai sách Công Vụ Tông Đồ (ch. 13-28) nêu bật dung mạo thánh Phao-lô, thánh nhân thực hiện sự đột phá lớn lao trong công việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới lương dân. Bản văn chúng ta đọc hôm nay được trích dẫn từ bài trình thuật về cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất của thánh Phao-lô. Bản văn này chứa đựng lời tuyên ngôn nổi tiếng của thánh Phao-lô: trước việc dân Ít-ra-en từ khước, thánh nhân quyết định quay về lương dân (13: 46-47).
Trong những năm tháng khó khăn sau cuộc hoán cải của mình, thánh Phao-lô may mắn gặp được thánh Ba-na-ba. Thánh Ba-na-ba xuất thân từ đảo Síp, nhưng đã đến định cư lập nghiệp ở Giê-ru-sa-lem. Khi trở thành Ki-tô hữu, thánh nhân đã bán hết sản nghiệp của mình và đặt dưới chân các Tông Đồ. Tên thật của thánh nhân là Giô-xếp, nhưng người ta đặt cho thánh nhân biệt danh Ba-na-ba, nghĩa là “con của sự an ủi”. Quả thật, thánh nhân xứng đáng với biệt danh này trong cách hành xử của thánh nhân đối với thánh Phao-lô. Khi thánh Phao-lô lần đầu tiên đến Giê-ru-sa-lem sau biến cố trên đường Đa-mát, kẻ bách hại đạo trước đây được tiếp đón với thái độ dè dặt. Thánh Ba-na-ba biết nhận ra cuộc hoán cải chân thành của thánh Phao-lô và đứng ra bảo lãnh cho thánh nhân trước các Tông Đồ.
Nhiều năm sau đó, thánh Ba-na-ba được cử đến An-ti-ô-khi-a, thành phố lớn chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp, ở đó nhiều người Do thái cũng như lương dân theo đạo càng lúc càng đông (An-ti-ô-khi-a là thành phố đầu tiên có cộng đoàn Ki-tô hữu gốc lương dân). Trước công việc lớn lao, thánh Ba-na-ba nảy sinh sáng kiến đi tìm thánh Phao-lô lúc này ở Tác-xô. Cả hai cùng làm việc ở An-ti-ô-khi-a trong vòng một năm, chắc chắn vào năm 43-44. Đoạn, được Thánh Thần đề xuất, cộng đoàn An-ti-ô-khi-a cử thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô đi truyền giáo (Cv 13: 1-3).
Thánh Ba-na-ba dẫn thánh Phao-lô đến đảo Síp, quê quán của mình. Nhưng chẳng bao lâu sau vai trò của hai người đảo ngược. Thật là có ý nghĩa biết bao, sau cuộc truyền giáo ở đảo Síp, thánh Lu-ca không còn viết Sao-lô nhưng Phao-lô, và không còn đặt ngài ở hàng thứ hai; từ đây thánh Lu-ca viết “ông Phao-lô và ông Ba-na-ba”.
Từ đảo Síp, hai ông đáp tàu đến miền duyên hải phía nam thuộc miền Tiểu Á. Đoạn hai ông vượt đèo leo núi đến thành phố An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a ở độ cao 1200 mét. Để đến đó, hai ông phải băng qua đoạn đường 160 cây số, bằng cách vượt qua dảy núi Taurus, do bởi những con đường quanh co hiểm trở có nhiều khe suối, trong một miền đầy sào huyệt của quân trộm cướp. Chắc chắn thánh Phao-lô ám chỉ đến cuộc hành trình gian khổ này trong thư thứ hai gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, trong đó thánh nhân gợi lên mọi nỗi gian truân mà ngài đã kinh qua (2Cr 11: 26).
Thành phố An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a là một trong những thủ phủ Rô-ma thuộc Á Châu và được hưởng quy chế thành phố tự do với những kiến trúc đô thị theo kiểu Rô-ma. Nằm trên trục giao thông, thành phố An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a đã có một nền thương mại phát triển thịnh vượng. Ở đây có một cộng đồng Do thái định cư lập nghiệp và có ảnh hưởng tôn giáo trên cư dân ở đây: có nhiều lương dân nhận ra Thiên Chúa Ít-ra-en là Thiên Chúa độc nhất, tôn kính Ngài, cầu nguyện với Ngài và tham dự vào những công việc từ thiện của cộng đồng; những người này được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Những lương dân này sẽ là đám thính giả đông đảo của thánh Phao-lô ở hội đường An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a này.
Vào một ngày sa-bát, trong hội đường, lời rao giảng đầu tiên của thánh Phao-lô gây nên lòng mộ mến của nhiều người Do thái cũng như nhiều lương dân kính sợ Thiên Chúa. Vào ngày sa-bát sau đó, những lương dân kính sợ Thiên Chúa này kéo theo một phần lớn dân thành vào trong hội đường để nghe thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba thuyết giáo. Thấy thế, những người Do thái “sinh lòng ghen tức, họ nhục mạ và phản đối những lời của thánh Phao-lô”. Đây là lần đầu tiên người Do thái chống đối thánh Phao-lô. Sẽ có những chống đối khác nữa. Từ lúc này, thánh Phao-lô nhận ra dấu hiệu nghiêm trọng này. Đây là lần đầu tiên thánh nhân nói đến sự từ khước của dân Do thái, mà hệ luận tất yếu là lương dân gia nhập Ki-tô giáo.
Thánh Phao-lô công bố chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng khi nhắc nhớ giáo huấn của các ngôn sứ và áp dụng cho chính mình ơn gọi của Người Tôi Trung: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất”. Khi nghe sứ điệp của thánh Phao-lô, “lương dân vui mừng suy tôn Lời Thiên Chúa và tất cả những ai đã được Thiên Chúa tiền định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo”. Thánh Lu-ca sử dụng diễn ngữ xuất xứ từ văn chương kinh sư, theo đó người ta thường hay nói “được tiền định cho hưởng cuộc sống mai sau”. Diễn ngữ này không muốn nói đến số phận được tiền định, nhưng nhấn mạnh cuộc sống mai hậu này là ân ban của Thiên Chúa dành cho những ai tin vào Chúa Giê-su.
Chắc chắn, thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba lưu lại ở An-ti-ô-khi-a nhiều tháng. Trong thuộc địa Rô-ma này, những người Do thái không có quyền điều hành; họ phải vận động những nhân vật trung gian: sách động những phụ nữ thượng lưu đã theo Do thái giáo, và những người có quyền thế trong thành, xúi dục họ trục xuất hai vị truyền giáo ra khỏi lãnh thổ của họ. Sau khi bị trục xuất, hai ông “liền giũ bụi chân”, cử chỉ nói lên đoạn tuyệt và quy trách nhiệm cho các đối thủ này. Thánh Lu-ca nhấn mạnh một lần nữa mối phúc của những người bị bách hại: “Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và ơn Thánh Thần”.
BÀI ĐỌC II (Kh 7: 9, 14-17)
Chúng ta tiếp tục đọc sách Khải Huyền của thánh Gioan. Đoạn trích dẫn hôm nay rất phù hợp với Tin Mừng, trong đó Đức Giê-su công bố Ngài là Mục Tử đích thật. Thị kiến mô tả Con Chiên là Đức Ki-tô ở giữa những người được tuyển chọn như Người Mục Tử ân cần trao ban sự sống đời đời cho đoàn chiên của mình.
Chương 7 sách Khải Huyền chứa đựng hai thị kiến liên tiếp nhau: thị kiến thứ nhất về Giáo Hội chiến đấu, trong đó các Ki-tô hữu được đóng ấn ơn cứu độ trước khi đương đầu với những nỗi gian truân; thị kiến thứ hai là đối tượng của bản văn chúng ta.
Trong khi xuất thần, thánh Gioan được đưa lên trời ở đó diễn ra một phụng vụ vĩ đại tôn vinh Thiên Chúa và Con Chiên. Đoàn người được tuyển chọn thật đông không tài nào đếm được như dòng dõi mà Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham. Ơn cứu độ phổ quát được các ngôn sứ loan báo, được Con Chiên đạt được nhờ hiến dâng mạng sống mình “cho muôn người”, được đám đông “thuộc mọi nước, mọi dân, mọi chi tộc và mọi ngôn ngữ” chứng thực. “Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế”: “Họ đứng”: dấu chỉ của sự sống và sự sống lại, “mình mặc áo trắng”: dấu chỉ của sự vô tội, và “tay cầm nhành lá thiên tuế”: dấu chỉ của sự khải hoàn.
Một trong các Kỳ Mục giải thích: “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao”. Theo từ ngữ của các sách khải huyền, “cuộc thử thách lớn lao”chỉ những nỗi gian truân của thời cánh chung. Trước đây, Đức Giê-su đã gợi lên điều này khi Ngài nói với các môn đệ: “khi ấy sẽ có cơn gian nan khốn khổ đến mức từ thuở khai thiên lập địa cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra như vậy nữa” (Mt 24: 21).
Viễn cảnh của các sách khải huyền chủ yếu là cánh chung, nhưng được “lồng vào nhau” giữa hiện tại và tương lai. Các ngôn sứ nói về kỷ nguyên thiên sai theo cùng những từ ngữ như thế nào thì họ mô tả kỷ nguyên cánh chung theo cùng một cách thức như vậy. Sách Khải Huyền của thánh Gioan ngỏ lời với những người Ki-tô hữu bị bách hại đang đối mặt với cái chết vì đạo. Như chúng ta đã nói, sách này là một tác phẩm “được mã hóa”, theo đó ngôn từ hàm chứa hai cách đọc. Cuộc thử thách lớn lao ám chỉ đến cái chết khủng khiếp đang chờ đợi họ và những nhành lá thiên tuế mà họ đang cầm trong tay muốn nói cuộc khải hoàn của họ sắp đến gần: họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên vì họ đã dự phần vào cuộc Tử Nạn của Ngài bằng cách chấp nhận đổ máu mình để làm chứng cho Ngài.
“Họ đứng chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người”. Chương 7 sách Khải Huyền tham dự trước các chương 20-22, các chương này mô tả thành đô Giê-ru-sa-lem trên trời. Thế nên, trong thành đô Giê-ru-sa-lem mới, không còn có Đền Thờ “vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành” (Kh 21: 22). Đây là một trong những phương thức của tác giả là dùng những biểu tượng Cựu Ước để diễn tả những thực tại mới: Đền Thờ là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, dấu chỉ bất toàn này rồi sẽ biến mất. Từ đó, Thiên Chúa đích thân vĩnh viễn hiện diện giữa dân Ngài và họ chúc tụng Ngài luôn mãi.
Kinh Thánh được ứng nghiệm theo từng lời: con người được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa, Người chấm dứt mọi nỗi truân chuyên của họ: “Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh”. Câu này rõ ràng trích dẫn gần như nguyên văn của Is 49: 10, nhưng thật đáng cho chúng ta lưu ý, tác giả sách Khải Huyền đã thay thế “Đấng” quy chiếu đến Đức Chúa trong bản văn Is 49: 10 bằng “Con Chiên” chỉ Đức Ki-tô. Con Chiên là nguồn gốc niềm hoan lạc của họ và Con Chiên này “sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh”.
Bản văn Khải Huyền này cũng được đọc lại vào ngày lễ Chư Thánh để nhắc nhớ niềm hy vọng lớn lao của người Ki-tô hữu.
TIN MỪNG (Ga 10: 27-30)
Vào Phụng Vụ Năm C này, chúng ta đọc phần thứ ba và phần sau cùng của dụ ngôn “Người Mục Tử Nhân Lành” theo Tin Mừng Gioan.
Phần sau cùng này rõ ràng được tách riêng ra khỏi những khai triển trước đó: hoàn cảnh, thời gian, nơi chốn không như trước nữa. Quả thật, những câu 22-24 định vị dụ ngôn này vào trong bối cảnh của cuộc tranh luận giữa Đức Giê-su và những người Pha-ri-sêu: “Khi ấy, ở Giê-ru-sa-lem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. Đức Giê-su đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Sa-lô-mon. Người Do thái vây quanh Đức Giê-su và nói: ‘Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết’”.
Ấy vậy, vào lúc cử hành lễ Cung Hiến Đền Thờ, trong phụng vụ người ta đọc chương 34 của ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Trong chương 34 này, Thiên Chúa truyền lệnh cho vị ngôn sứ tuyên sấm hạch tội những mục tử chăn dắt Ít-ra-en, vì họ chỉ biết lo cho lợi ích của mình mà không quan tâm gì đến cảnh sống cùng khổ của đoàn chiên Người: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đoàn chiên còn lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên bị lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc”(Ed 34: 1-6). Vì thế, vị ngôn sứ loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đích thân chăm sóc đoàn chiên của Người: “Đức Chúa phán thế này: ‘Đây chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta…Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi…Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó…” (Ed 34: 11-16).
Những người đối thoại với Đức Giê-su đã nghe nhắc lại sứ điệp của vị ngôn sứ. Để trả lời câu hỏi của họ: “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết”, Đức Giê-su tự đồng hóa mình với vị Mục Tử Thiên Chúa này mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã hứa. Lời công bố này khiến họ phẩn uất đến mức muốn ném đá Ngài như đoạn tiếp theo cho thấy.
“Chiên Tôi thì nghe tiếng tôi”: Đây là thái độ của các môn đệ Ngài. Đức Giê-su đối lập thái độ này với thái độ của những đối thủ Ngài. Trước đây, Ngài đã nói cho họ: “Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa” (8: 47). Qua lời này, Đức Giê-su công bố một cách rõ ràng rằng Ngài chính là Lời Thiên Chúa hiện thân.
Trước đây, Đức Giê-su đã khai triển sâu xa về sự hiểu biết hổ tương giữa người chăn chiên và đoàn chiên; động từ “biết” theo Kinh Thánh hàm chứa chuyển động của cả trí tuệ lẫn con tim; sự hiểu biết này dẫn đến niềm tin tưởng phó thác: “Tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Xuyên suốt Tin Mừng, động từ “theo” định nghĩa thái độ căn bản của người môn đệ, gắn bó với con người Đức Ki-tô.
Ở đây chúng ta chạm đến cao điểm của dụ ngôn, vang dội biến cố Phục Sinh. Đức Giê-su có thể thông truyền cho con người sự sống thần linh của Ngài vì Ngài sắp hiến dâng mạng sống mình cho đoàn chiên của Ngài: “Không bao giờ chúng phải diệt vong”. Không quyền lực nào có thể phân ly mối quan hệ hiệp nhất giữa người chăn chiên và đoàn chiên, vì mối giây liên kết này được thiết lập trên sự hiệp nhất của Đức Giê-su với Cha Ngài: “Tôi và Chúa Cha là một”. Trong Tin Mừng Gioan, nhiều lần Đức Giê-su khẳng định một lòng một dạ giữa Ngài và Cha Ngài. Đây là mặc khải quan trọng và rõ ràng nhất về Thần Tính của Chúa Giê-su và mầu nhiệm sâu xa của Thiên Chúa. Đây cũng là câu trả lời cho bè A-ri-ô về việc chối bỏ Thần Tính của Đức Giê-su. Cũng dựa trên lời này, Công Đồng Ni-xê-a năm 325 tuyên tín: Chúa Cha và Chúa Con đồng bản tính.
Chiều kích Giáo Hội của dụ ngôn thì rõ ràng. Những người Ki-tô hữu là đoàn chiên, họ gặp thấy ở nơi Đức Ki-tô ơn cứu độ của mình và sự sống thần linh phong phú. Qua Ngài, họ hiệp nhất dứt khoát vĩnh viễn với Chúa Cha. Phải đọc lại chầm chậm dụ ngôn và để cho lòng mình thấm đẩm tâm tình trìu mến yêu thương của Thiên Chúa mà dụ ngôn này làm chứng.
.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Các Bài đọc Lời Chúa hôm nay đều nhấn mạnh đến sự đông đảo của cộng đoàn Giáo Hội, tức là những người tin vào Chúa Giêsu và được thanh tẩy nhân danh Người. Chúa Giêsu Phục sinh hiện diện trong Giáo Hội. Người là sức sống của Giáo Hội và nhờ Người, cộng đoàn tin Chúa càng ngày càng gia tăng nhanh chóng. Khởi đi từ mười hai người dân chài ở bờ biển hồ Galilêa, Tin Mừng đã được rao giảng ở Giêrusalem, rồi toàn đế quốc Rôma và đến hôm nay, Tin Mừng được loan báo đến mọi quốc gia và mọi nền văn hóa. Tác giả sách Công vụ Tông đồ (Bài đọc I) ghi lại thời đầu của công cuộc truyền giáo với sự gia tăng nhanh chóng những người tin Chúa, mặc dù có sự ngăn cản từ phía một số người Do Thái. Chính sự ngăn cản này đã gợi hứng cho các Tông đồ vượt ra ngoài ranh giới Do Thái và đến với dân ngoại. Các ông được soi sáng bởi lời ngôn sứ Isaia: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ đến tận cùng trái đất”. Ánh sáng trần gian là Chúa Giêsu, như chính Người đã tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không còn đi trong tối tăm”. Phụng vụ đêm vọng Phục sinh đã long trọng tôn vinh Đức Giêsu là ánh sáng qua nghi thức làm phép lửa. Ánh sáng ấy bừng lên giữa cõi thâm u của sự chết, để mở tung nấm mồ và đem niềm hy vọng cho trần gian.
“Ánh sáng muôn dân – Lumen Gentium”, đó cũng là tựa đề của Hiến chế tín lý về Giáo Hội của Công đồng Vaticanô II. Qua hiến chế này, Giáo Hội nguyện tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu, hiện diện giữa thế giới như ánh sáng để dẫn đưa con người nhận biết chân lý, dẫn đưa những người lầm lạc trở về chính lộ. Giáo Hội là hiện thân của Đức Giêsu. Ngay từ buổi sơ khai, cộng đoàn tín hữu đã ý thức được sứ mạng loan báo Đức Giêsu là Ánh Sáng trần gian. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, Giáo Hội vẫn trung thành với sứ mạng đó, mặc dầu phải hy sinh biết bao mạng sống, như trường hợp các thánh tử đạo. Các ngài đã trải qua đau khổ lớn lao, và làm nên sức mạnh của Giáo Hội (Bài đọc II). Ngày hôm nay, Giáo Hội vẫn tiếp tục tỏa lan ánh sáng chân lý trong mọi nền văn hóa và mọi môi trường mà Giáo Hội hiện diện.
Khi chiêm ngưỡng sức sống và sự phát triển kỳ diệu của đàn chiên, tức là cộng đoàn những người tin Chúa, chúng ta tôn vinh Đức Giêsu là Mục Tử, là người dẫn dắt và chăm sóc các tín hữu. Chính Chúa đã khẳng định: “Ta là Mục tử tốt lành” (Ga 10,14). Hình ảnh người mục tử và đàn chiên rất thân thuộc và phổ biến trong đời sống của người Do Thái. Đàn chiên nói lên sự hợp nhất, tuân phục, liên kết với chủ chiên và nghe theo tiếng của mục tử. Mặc dù đàn chiên đông đảo như thế, vị mục tử vẫn biết rõ từng con chiên, biết cá tính, nhu cầu sở thích để chăm sóc và điều khiển. Không con chiên nào bị mục tử bỏ rơi, vì mỗi con đều đáng qúy, đáng trân trọng.
Khi so sánh cộng đoàn Giáo Hội với đàn chiên, Chúa Giêsu mong muốn quy tụ chúng ta trong tình hiệp nhất. Người cũng muốn chúng ta lắng nghe giáo huấn của Người. Giáo huấn của Người đem cho chúng ta hạnh phúc, như mục tử dẫn đưa đàn chiên tới đồng cỏ xanh, suối mát lành. Người cũng là Đường, là Sự thật và là Sự sống đem lại hạnh phúc đời này và đời sau cho những ai tin vào Người.
Để thực sự là con chiên trong đàn chiên Giáo Hội, mỗi tín hữu cần lắng nghe tiếng Chúa và hiệp thông với anh chị em mình. Những con chiên tách ra khỏi đàn sẽ bị lạc lối. Những tín hữu không hiệp thông với anh chị em mình sẽ bị lẻ loi như những ốc đảo khép kín xa lạ. Gắn bó với Giáo Hội sẽ tạo sức mạnh thiêng liêng và sẽ làm tỏa lan ánh sáng của Đấng đã phục sinh từ những kẻ chết. Chính Người đang hiện diện giữa chúng ta để ban cho chúng ta sức sống dồi dào.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hình ảnh chiên cừu dễ gây ngộ nhận vì người ta cho rằng chiên cừu chẳng biết làm gì hơn là ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng con chiên trong bài Tin Mừng ta vừa nghe hoàn toàn không có tính cách thụ động như thế. Trái lại phải tích cực, chủ động. Sự tích cực chủ động của đoàn chiên được Chúa Giêsu diễn tả bằng những từ “nghe” và “theo”: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”.
Nghe. Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người. Nhưng nghe được Lời của Thiên Chúa không phải dễ.
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như tiếng vỗ của một bàn tay. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ lại ồn ào như một ngày hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của từ bỏ mình, dẫn ta lên một ngọn đồi gai góc của thập giá hy sinh và thách thức ta phục vụ đến hy sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến dìm mình trong đại dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quý trên đời.
Vì thế, để nghe được Lời Chúa, ta phải có một đôi tai thật bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.
Theo. Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với người khác.
Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ. Mức độ thứ nhất: Thích nhìn, nghe người mình yêu. Mức độ thứ hai: Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình đều có bóng dáng của người yêu. Mức độ cuối cùng: Chia sẻ tất cả những gì mình có, kể cả cuộc sống vì người yêu.
Như thế, theo tức là yêu thương ở cao độ. Con chiên đi theo Chúa như thế phải hoàn toàn chủ động và nhất là thiết lập một quan hệ mật thiết với Chúa là Chủ đoàn chiên. Hành động của Chúa chiên tốt lành được Chúa Giêsu tóm gọn trong hai động từ: “biết” và “cho”.
Biết. Người chăn chiên tốt lành biết rõ từng con chiên. Ông biết tên từng con. Ông biết tình trạng sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư? Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta cay đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà, sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá. Ta tuyệt vọng vì cuộc đời không lối thoát ư? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen tối trong vườn Giếtsimani và trên thập giá. Ta cô đơn vì bị mọi người xa lánh ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết uy tín ư? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ tội đồ nô lệ.
Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người, nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.
Cho. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả đoàn chiên món quà quý giá nhất là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của chính bản thân Ngài. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn chiên sẽ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ chiên trở thành một cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp với nhau trong một tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.
Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống đang mở ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời sống tâm linh chúng ta. Những giá trị bị đảo lộn. Những con chiên đang bị lôi kéo rời xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống xô đẩy chúng ta ra khỏi cộng đoàn khiến nhiều người trở thành những con chiên bơ vơ không người chăn dắt. Trong một hoàn cảnh mới mẻ như thế, chúng ta rất cần có những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của đoàn chiên và thực sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều người trẻ biết đáp lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để phục vụ anh chị em trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục của chúng ta trở thành những mục tử tốt lành noi guơn Vị Mục Tử duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Lạy Chúa là là Mục Tử chăn giữ đời con, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
.
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Ai cũng biết điếc là khổ. Người điếc bị người ta coi khinh và còn xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Điều đáng buồn là người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc.
Có một lần tôi đi xức dầu bệnh nhân, sau khi nói chuyện, tôi hỏi bà cụ có muốn xức dầu không? Bà liền nói: con đâu có đau đầu đâu! Hóa ra bà bị điếc tưởng tôi nói bà có đau đầu không?
Điều đáng buồn là người điếc lại cho không biết mình bị điếc nên vẫn vô tư sống.
Có một người đàn ông đi gặp bác sĩ để kể về người vợ của mình. “Tôi cho rằng vợ tôi bị điếc, cô ấy chả nghe thấy tôi nói gì mà toàn khiến tôi phải nhắc lại”.
Người bác sĩ trả lời: “Được rồi, bây giờ anh cứ về nhà. Tối nay đứng cách vợ 6 m và nói một điều gì đó. Nếu bà nhà không trả lời, đứng lại gần 2 m nữa và nhắc lại. Cứ tiếp tục như thế để xem mức độ ngễnh ngãng của bà ấy nặng đến mức nào”.
Người chồng trở về nhà và thực hiện đúng theo chỉ dẫn. Ông đứng cách vợ 6 m khi bà đang thái thịt trong bếp và hỏi: “Cưng à, tối nay mình ăn gì vậy?”. Ông không nghe thấy câu trả lời. Ông đứng gần lại 2 m nữa và hỏi lại. Vẫn không có câu trả lời. Ông đứng gần thêm 2 m. Vẫn chẳng thấy gì. Cuối cùng, ông tiến sát lại sau vợ và hỏi: “Em yêu, tối nay mình ăn gì?”. Cô vợ bực mình quát: “Đây là lần thứ 4 rồi nhá – thịt bò hầm!”.
Ai cũng biết điếc là khổ. Điếc là cách ly với thế giới bên ngoài. Điếc là khổ mình và phiền toái với người bên cạnh. Thế mà, cuộc đời vẫn còn đó những kẻ giả điếc làm ngơ. Họ cố tình bịt tai để khỏi nghe tiếng đồng loại kể cả tiếng Thiên Chúa. Họ giả điếc để sống theo ý mình. Họ cố tình gạt ra ngoài tiếng nói của lương tâm, của sự thật và chân lý. Họ bất chấp lề luật. Họ bỏ ngoài tai lời khuyên dạy của Thiên Chúa và tha nhân. Con người của kẻ giả điếc là tự tách mình ra khỏi cộng đồng xã hội để sống theo ý riêng.
Hôm nay, Chúa bảo “chiên Ta thì nghe tiếng Ta”. Chúa mời gọi chúng ta là con Chúa hãy sống theo giáo huấn của Chúa. Hãy bước đi theo đường lối của Ngài. Bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài để được bảo vệ, chở che. Ngài sẽ bảo vệ chúng ta như mục tử bảo vệ đàn chiên khỏi sự tấn công của sói dữ. Ngài sẽ dẫn chúng ta đến đồng cỏ xanh tươi bên dòng suối mát là ân sủng của Ngài luôn đong đầy trên cuộc đời chúng ta. Bước đi theo Ngài thì sẽ không đói, không khát bao giờ.
Lời mời gọi: “chiên Ta thì nghe tiếng Ta” còn là tiếng mời gọi con người làm điều lành tránh điều dữ. Ngài tha thiết kêu mời con người sống trong tình bác ái yêu thương. Sự bác ái không chỉ dừng lại ở việc yêu người yêu mình mà còn yêu cả kẻ thù. Tình yêu thương không dừng lại việc không làm tổn thương đến ai mà còn biết giúp đỡ, chia sẻ với nhau trong vui buồn cuộc đời.
Hôm nay, ngày dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi làm linh mục và tu sĩ, chúng ta hãy xin cho giới trẻ hôm nay nghe được tiếng Chúa kêu mời giữa biết bao ồn ào của cuộc đời. Xin cho họ không chỉ lắng nghe được tiếng nói của sự thật, của chân lý giữa xã hội đầy lừa đảo bon chen mà còn dấn thân bước đi theo tiếng Chúa kêu mời. Chúng ta cũng xin Chúa cho những bậc làm cha, làm mẹ biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần tin mừng để cống hiến cho Giáo hội những mần giống ơn gọi tốt lành.
Nguyện xin Chúa Giêsu, mục tử nhân lành chúc lành cho hết thảy những ai đang khao khát dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân và Nước Trời. Amen.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày nay, người ta có nhiều vật nuôi, thú cưng trong nhà và người ta mất rất nhiều thời gian để chăm sóc cho chúng. Tuy nhiên, họ chăm sóc những vật nuôi, thú cưng vì người ta thích nó, hay vì nó đẹp, hoặc khôn, hoặc nó trung thành với chủ. Ngày xưa theo văn hóa Do Thái, người mục tử chăn chiên yêu mến con chiên như yêu chính đứa con của mình. Con chiên không chỉ là vật nuôi gắn liền với cuộc sống du mục, mà còn là tài sản, là bạn, là thành viên trong các gia đình, được yêu mến và chăm sóc như cha mẹ chăm sóc cho con. Con chiên là giống vật hiền lành, mến chủ, nó cũng là con vật dễ bị tấn công và bị tổn thương, vì thế, người chăn chiên luôn là người bảo vệ chiên của mình.
Một vài nét về văn hóa Do Thái như thế để chúng ta có thể dễ hiểu ý nghĩa của ngày lễ hôm nay, Thiên Chúa được so sánh là Mục Tử Xót Thương. Mục tử là hình ảnh rất gần gũi đối với người Do Thái. Tuy nhiên, khi so sánh : Ta là mục tử tốt lành, Chúa Giêsu muốn cho thấy Ngài thực sự là người dẫn dắt đoàn chiên và Ngài trổi vượt hơn hẳn các người chăn chiên khác.
Ngay từ xa xưa, các tiên tri, đặc biệt là Isaia, đã dùng hình ảnh mục tử và đàn chiên để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và Israel. Israel là đàn chiên và Thiên Chúa là mục tử của họ. Thiên Chúa đã tuyển chọn Israel từ giữa muôn dân, Ngài quy tụ họ thành một dân, được thánh hiến dành riêng cho Thiên Chúa. Thiên Chúa như người mục tử vô cùng vất vả vì đàn chiên là Israel : Khi Israel tản lạc bởi chiến tranh, Thiên Chúa đã quy tụ họ về, khi họ bị đau khổ, đàn áp bởi cuộc sống làm nô lệ, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát. Khi họ sai đường lạc lối, Thiên Chúa đã uốn nắn, dạy dỗ và chỉ cho họ cách sống đẹp lòng Chúa. Trong hành trình sa mạc, Thiên Chúa như người mục tử lo từng miếng ăn giấc ngủ, nguồn nước cho Israel để nuôi sống họ. Khi họ xa đàn, lạc lối, Thiên Chúa sửa dạy, nhưng rồi lại xót thương tha thứ.
Đến thời đã định, Thiên Chúa đã cho Con của Ngài là Chúa Giêsu đến để cùng sống với đàn chiên là Israel. Chúa Giêsu đã thể hiện vai trò là một mục tử hết lòng xót thương chăm sóc cho đoàn chiên và sẵn sàng hiến thân để bảo vệ đoàn chiên của Chúa. Chúa Giêsu đã mang trong mình một trái tim chạnh thương : Ngài chạnh lòng khi thấy đám đông dân chúng đói khổ, bơ vơ như những con chiên không có người chăn ; Ngài đã quên ăn quên nghỉ để tiếp tục giảng dạy cho họ, chỉ cho họ biết phải sống sao cho xứng đáng ; Ngài làm phép lạ hóa bánh để nuôi sống họ vì sợ họ đói lả dọc đường.
Chúa Giêsu cho thấy, những thượng tế là những người thiếu trách nhiệm chăm lo đời sống đức tin cho dân Chúa. Chúa Giêsu là một mục tử có lương tâm và trách nhiệm với đoàn chiên mà Thiên Chúa Cha đã trao cho Người. Ngài nghiêm khắc không chấp nhận tội lỗi, nhưng lại hết sức nhân từ yêu thương, thông cảm và tha thứ cho tội nhân. Ngài sẵn sàng cúi xuống để phục vụ, để nâng những con người yếu đuối hèn kém lên. Ngài đem đến cho chiên của Ngài sự an ủi vổ về, cũng như hướng dẫn họ sống theo đúng giời răn lề luật của Thiên Chúa. Ngài thương yêu đoàn chiên của Ngài đến nỗi hiến trao chính con người và mạng sống cho nhân loại.
Trước cuộc thương khó, Vị Mục tử Giêsu đã hiến ban thịt máu mình làm của ăn, của uống nuôi dưỡng đoàn chiên. Trong cuộc khổ hình thập giá, Ngài đã hiến ban đến giọt máu và nước cuối cùng để cứu thoát con người khỏi tay ma quỷ và thần chết. Ngài đã trải qua một cuộc chiến cam go với sự chết và đã chiến thắng bằng cuộc phục sinh vinh quang, đã đem lại sự sống đời đời cho đoàn chiên. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn quả quyết : Không bao giờ Ngài để cho chiên của Ngài phải bị diệt vong và không một sức mạnh nào có thể cướp được chúng khỏi tay Ngài, khỏi tình yêu thương của Ngài.
Chúa Giêsu đã chấp nhận hy sinh cả mạng sống để giành lấy đoàn chiên khỏi tay ma quỷ và sự chết, bởi vì đoàn chiên nhân loại là “tài sản, là gia nghiệp” của Thiên Chúa và còn là quà tặng mà Thiên Chúa Cha đã ban cho Ngài. Vì thế, bằng mọi cách, Chúa Giêsu đã yêu thương và bảo vệ đoàn chiên khỏi mọi sự tấn công của ma quỷ và thế gian : Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Chúa Giêsu còn khẳng đình : Tôi và Chúa Cha là một. Điều này không chỉ là mạc khải về bản tính Thiên Chúa nơi Ngài, mà còn cho thấy sức mạnh vô song của Thiên Chúa đã dùng để bảo vệ đoàn chiên nhân loại của Ngài.
Không chỉ nói về vai trò và tình yêu thương của mục tử, Chúa Giêsu cũng nói đến trách nhiệm và bổn phận của mỗi con chiên : Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Như vậy, để xứng đáng trở thành con chiên của Chúa, chúng ta phải nghe được tiếng nói của vị Mục Tử Giêsu. Chúng ta chỉ thực sự là chiên của Chúa Giêsu khi chúng ta nghe được tiếng của Ngài. Nghe không chỉ là đón nhận âm thanh, mà là đón nhận lời dạy và giáo huấn của Ngài, là bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài. Chỉ khi bước theo sự dẫn dắt của Mục Tử Giêsu, chúng ta mới không bị lạc đường, không gặp nguy hiểm và mới có thể bước vào đồng cỏ Nước Trời.
Tiêu chuẩn để làm chiên của Chúa Giêsu là Tôi biết chúng và chúng theo tôi, tức là phải để cho Chúa biết mình và mình biết Chúa. Để Chúa biết mình là để Ngài thấu tỏ tâm hồn, cuộc sống và mọi hành động của mình. Nói cách khác, tức là sống, làm việc và hành động đưới cái nhìn của Chúa, trong sự hiện diện của Chúa. Chúa nhìn thấu tâm hồn, ý nghĩ và hành động mỗi người, không có gì có thể che được mắt Ngài. Vì thế, muốn làm chiên của Chúa, cần phải sống và cư xử với nhau một cách ngay thẳng, không gian dối, đúng với tư cách là con của Chúa, là những người đã được Chúa cứu chuộc. Đồng thời, chính mình cũng phải biết Chúa, tức là biết Chúa là ai, Chúa muốn tôi làm gì, Chúa có vị trí nào trong đời tôi và tôi có vị trí nào trong bàn tay Chúa ?
Sau cùng, để thực sự là chiên của Chúa thì phải bước theo Chúa. Chiên phải bước theo người chăn, học trò phải theo thầy, con cái phải theo lời chỉ dạy của cha mẹ. Mục tử Giêsu cũng muốn chúng ta có thái độ như thế. Bước theo Chúa là bước đi trong sự bảo vệ, theo sự dẫn dắt của Chúa, và bước đi cùng với các anh chị em khác. Bước theo Chúa là theo sát con đường Chúa đi, là con đường yêu thương phục vụ, dám hy sinh, cho dù phải đánh đổi mạng sống, không thể rẽ ngang, cũng đừng tách đàn, đừng nấn ná cũng đừng la cà. Theo Chúa còn là tuân theo lời chỉ dạy của Chúa, qua việc sống các mối phúc của Tin Mừng, là dám sống yêu thương đến tận cùng và dám bước vào con đường thập giá với Chúa vì yêu thương anh em.
Các tông đồ là những con chiên đầu tiên của Chúa đã sống những tiêu chuẩn của Mục Tử Giêsu. Một khi các ông đã đón nhận được đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh, được cùng sống với Ngài, học nơi Ngài, biết về Ngài, giờ đây, các ông trở thành những người nói về Mục Tử Giêsu cho mọi người. Chúa Giêsu không mãi hiện diện bằng thể xác với đoàn chiên nhân loại của Ngài, ngài đã muốn có nhiều các cộng tác viên để tiếp tục chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên nhân loại. Các tông đồ đã ý thức và đã lãnh nhận sứ mạng này từ nơi Chúa Giêsu, để đến lượt các ông, theo gương mục tử Giêsu, các ông hết mình chăm lo cho đoàn chiên của Chúa.
Với ơn của Bí tích rửa tội, chúng ta vừa là chiên của Mục tử Giêsu, đồng thời cũng được tham dự vào vai trò là mục tử của Ngài. Là chiên của Chúa, xin cho chúng ta luôn nhận ra tình yêu thương của Mục tử Giêsu để ta sống gắn bó với Ngài, tin tưởng vào Ngài dù khi vui hay khi gặp thử thách. Xin cho chúng ta luôn để tâm lắng nghe và làm theo tiếng Chúa nói với mình. Chúa nói với mỗi người qua Lời của Chúa và qua việc cử hành phụng vụ mỗi ngày. Xin cho chúng ta biết chăm chỉ học hỏi để biết Chúa nhiều hơn và cũng dám mở lòng, sống khiêm tốn để cho Chúa biết cuộc sống và con người chúng ta. Chúa biết chúng ta yếu đuối cần đến lòng thương xót của Ngài. Xin cho chúng ta luôn để cho Chúa yêu thương và trung thành theo Chúa dù có phải trải qua những lúc đen tối và thử thách nhất. Amen.
.
Lm. Văn Hào
Trong Giáo Hội có rất nhiều vị mục tử thánh thiện và gương mẫu, đáng để chúng ta học hỏi và noi theo. Nhưng, mẫu gương tuyệt hảo nhất chính là nơi Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành, Đấng mà Giáo hội hôm nay mời gọi chúng ta quy chiếu vào. Giáo hội dành riêng ngày Chúa nhật tuần 4 mùa Phục sinh với các bài đọc Lời Chúa để chúng ta học hỏi nơi Đức Giêsu, nguyên mẫu mục tử của tất cả mọi người.
Tình yêu mục tử nơi Chúa Giêsu được hiển thị rõ nét qua ba chiều kích : Vị mục tử biết chiên của mình, vị mục tử lặn lội đi kiếm tìm con chiên lạc, và vị mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.
Mục tử nhân lành ‘biết’ các chiên của mình
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói về đặc nét này. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Đây không phải là cái biết của tri thức, nhưng đó là thái độ biết chiên được biểu tỏ bằng sự hiệp thông sâu xa. Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về việc Ngài biết Chúa Cha và thi hành những công việc mà Chúa Cha trao phó (Ga7,29; Ga 8,19; Ga 9,55,…). Cũng tương tự như thế, Ngài mời gọi các học trò của mình bắt chước Ngài, hãy ‘biết’ các con chiên, giống như Ngài, vị Mục tử nhân lành luôn luôn biết các con chiên thuộc đàn mình.
Để diễn bày thái độ ‘biết’ chiên, Đức Giêsu đã đi vào trần gian, chia thân sẻ phận với chúng ta. Ngài vui với người vui, khóc với người khóc. Ngài đi dự tiệc cưới tại Cana để chung chia niềm vui đối với đôi uyên ương trẻ. Ngài thổn thức trước cái chết của đứa con trai bà góa thành Naim. Ngài rơi lệ khi đứng trước ngôi mộ của Lazarô, người bạn thân thiết. Đức Giêsu là Thiên Chúa rất Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là một con người rất con người, gần gũi với cuộc sống đời thường, sống giống hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Trong một bài giảng mùa chay vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khuyến mời các vị mục tử đừng bao giờ ‘mỏi mệt’ để biết các con chiên của mình. Ngài vẫn hay đến thăm các nhà tù, đã từng cúi xuống rửa chân cho các thiếu niên phạm pháp, đã ngồi ăn uống với những người vô gia cư… Điều Đức Thánh Cha thực hiện, không phải là một học thuyết mới lạ mang tính cách mạng, nhưng Ngài chỉ muốn sao chép lại cách sống của Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành, biết các con chiên của mình.
Mục tử nhân lành đi kiếm tìm con chiên bị lạc
Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Ba dụ ngôn mà Thánh Luca viết lại trong chương 15 diễn bày chân dung cứu thế và lòng thương xót của một vị mục tử đích thực. Đó là dụ ngôn về người đàn bà đi tiềm kiếm đồng bạc bị mất, dụ ngôn người chăn chiên lặn lội tìm kiếm con chiên đi lạc, và nhất là dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về trong sự vui mừng tột độ của người Cha. Chúa đã chọn cái chết bi thương trên Thập giá để diễn bày lòng thương xót và sự tha thứ vô điều kiện cho các tội nhân. Phán quyết của Đức Giêsu, một vị quan tòa đầy lòng thương xót khi Ngài nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình, cũng là phán quyết Chúa ngỏ trao tới từng người chúng ta, là những tội nhân đáng phải chết : “Tôi không kết án chị đâu. Hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Trong một bài giảng tại Missouri bên Hoa kỳ, Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã dí dỏm nói rằng Đức Giêsu là một học sinh rất dốt toán. Ngài coi con số 1 lớn hơn con số 10. Ngài cũng là một kinh tế gia khá tồi, vì dám liều bỏ lại 99 con chiên để vất vả đi tìm kiếm một con đang bị lạc. Ngài cũng là một kẻ đãng trí, chẳng nhớ gì hết. Ngài không nhớ cô gái đang ngồi khóc bên chân Ngài là một cô gái điếm khét tiếng, cũng quên mất tên tử tù bị treo thân bên cạnh Ngài là một tay gian phi nguy hiểm với một quá khứ đặc kín tội ác… Bởi vì, Chúa Giêsu luôn mãi là một Mục tử nhân lành, và Ngài mắc phải một căn bệnh kinh niên, đó là bệnh hay quên. Căn bệnh lú lẫn và dễ quên của Ngài thật đáng yêu biết bao.
Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên
Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến để chúng được sống và sống dồi dào.” Thánh giáo phụ Irênê cũng đã viết : “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”. Để chúng ta được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết khủng khiếp giống như một tên tử tội đốn mạt nhất. Ngài đã nói: “Cha tôi đã làm việc, và tôi cũng luôn làm việc”. Công việc của Ngài là hy sinh mạng sống để đem lại sự sống cho con người, phục hồi cho ta phẩm giá cao quý được làm con Thiên Chúa. Thánh Phanxicô Salê đã nói: “Điều linh thánh nhất trong tất cả mọi điều linh thánh là làm việc cho thiện ích các linh hồn (divinissimum divinorum est opere ad lucrum animorum)”. Điều linh thánh ấy, Đức Giêsu đã thực hiện trong 3 năm rao giảng và cao điểm cuối cùng là Ngài chấp nhận cái chết oan ức trên Thập giá để cho chúng ta được sống. Ngài trở nên nguyên mẫu cho tất cả chúng ta, vì Ngài là Mục tử hoàn hảo, đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.
Kết luận
Một vị linh mục trẻ đã chia sẻ tâm sự của mình trên mạng như sau: “Tôi có một người bạn và cũng là một người anh rất thân thương. Ngài là một linh mục, lớn tuổi hơn tôi, và hình ảnh của vị linh mục đó luôn in đậm dấu ấn trong cuộc đời tôi. Ngài được bề trên sai về coi sóc một giáo xứ mới thành lập, và Ngài cũng là Cha xứ đầu tiên của giáo xứ đó. Giáo dân rất quý mến Ngài, vì Ngài hiền lành, luôn sống yêu thương và chan hòa với mọi người. Ngài đặc biệt quan tâm tới những người nghèo, những người bệnh tật, những cụ già neo đơn và đặc biệt Ngài quý mến các trẻ em. Nhưng có một số vị trong ban hành giáo lại không thích Ngài. Lúc đầu họ ngấm ngầm chống đối, rồi dần dần ra mặt phản kháng công khai. Có điều kỳ lạ, là giáo dân trong giáo xứ cho dầu kính phục Ngài, nhưng đã bị ban trùm lôi kéo và dần dần quay lại chống Ngài. Một kết cục rất đau buồn đã xảy ra, là đến một ngày đã sắp xếp, cả xứ kéo vào nhà thờ đập chết Cha xứ mà trước đây họ rất nể phục. Người ta báo cho chính quyền, họ cũng làm ngơ và ra vẻ như họ cũng đồng thuận. Bà cố của Cha nghe tin rất đau khổ, tâm hồn tan nát như chết lặng. Nhưng bà cố vẫn không bao giờ than trách và chẳng tỏ dấu buồn bực hay trách cứ một ai. Dần dần, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Từ khắp nơi, người ta kéo đến giáo xứ để tưởng nhớ đến Ngài và cầu nguyện trước di ảnh của Ngài như một đấng Thánh.
Người ta mới thắc mắc và hỏi: “Thế Cha xứ đó tên là gì, và ở đâu. Chúng tôi cũng muốn đến viếng và học hỏi nơi cuộc sống của Ngài”. Vị linh mục trẻ kia mới trả lời: “Ngài ở rất gần đây và cũng chẳng xa xôi gì. Tên Ngài quen thuộc lắm. Vị Cha xứ đáng kính đó tên là Giêsu”.
Giêsu chính là vị Mục tử khả ái, người Mục tử nhân lành. Ngài trở nên khuôn mẫu tuyệt hảo nhất cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu dùng hình ảnh mục tử và chiên, vốn quen thuộc trong môi trường dân tộc Do thái để diễn tả mối tương quan khắng khít giữa Thiên Chúa và nhân loại, giữa linh mục và tín hữu. Mục tử yêu thương chiên, nhất là những chiên đau, chiên gầy, săn sóc chúng; chiên lạc, mục tử không bỏ thí, nhưng đi tìm cho bằng được, thậm chí bỏ 99 con trong hoang địa để đi tìm cho bằng được, tìm được rồi thì vác lên vai đưa về đàn; Mục tử dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến giòng suối mát để chiên ăn uống thỏa thuê, nằm nghỉ; Mục tử thức đêm canh chừng chiên khỏi sói dữ lẻn vào bắt mất, thậm chí chống cự lại sói dữ, và hy sinh tính mạng cho chiên. Mục tử biết tên từng con chiên, và chiên cũng biết mục tử, nghe tiếng gọi và đi theo; Mục tử có khi đi đầu dẫn đường cho chiên, có khi đi sau để bảo vệ chiên, có khi đi giữa để qui tụ chiên. Thật là một hình ảnh đẹp, thi vị, làm đề tài cho bao nhiêu ca khúc, thi phú, họa phẩm, điêu khắc.
Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử, chúng ta đọc : “Đây là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó : Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu – Mục Tử Nhân Lành đã nêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội.
Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ… Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng : cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết mà còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm : “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18).
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm giáo hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng đức Phanxicô đã can đảm chấp nhận. Ba năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội !
Với chủ trương “Giáo hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si’ kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình. Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi ! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của ĐTC Phanxicô đã khiến nhiều giám mục và linh mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.
“Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” (Đức Phaolô VI). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.
Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài : tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình. Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3 T (tình, tiền, tửu), 3 Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa. Những người nói trên đây là đối tượng của đức ái mục tử, được chính Chúa Giêsu công bố tại hội đường Nadarét năm xưa, khi khởi đầu sứ vụ : “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, và ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta, an ủi mọi kẻ ưu phiền, đem cho các kẻ buồn phiền ở Sion triều thiên thay tro bụi, dầu vui mừng thay tang chế, áo hân hoan thay tâm hồn sầu muộn” (Is 61,1-3).(x. “Đức ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan Thiết 2016, Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).
Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.
Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21). Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17). Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42). Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28 ; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13 ; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc 18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)… Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4 ; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.
Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. ĐTC nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng giáo dân, trên vai và trong trái tim mình” (Vũ văn An : Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013). Linh mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Trong Sứ điệp ơn gọi năm nay, ĐTC Phanxicô nói về các “Ơn gọi được sinh ra từ Dân Chúa và là quà tặng của Lòng Thương Xót Chúa. Giáo Hội là đền thờ của lòng thương xót, và là “mảnh đất” cho mọi ơn gọi được nuôi trồng, trưởng thành và sinh hoa kết trái…Các ơn gọi được trổ sinh từ Giáo Hội…Ơn gọi lớn lên trong Giáo Hội…Ơn gọi được nuôi dưỡng bởi Giáo Hội…Trong số những người tham dự vào các hoạt động mục vụ, các linh mục là những người đặc biệt quan trọng. Trong sứ vụ của họ, họ hoàn hiện những lời của Chúa Giêsu đã nói: “Ta là cửa chuồng chiên;Tôi là mục tử tốt lành”. Việc chăm sóc mục vụ ơn gọi là một phần cơ bản của sứ vụ của các linh mục. Các linh mục đồng hành với những ai đang biện phận về ơn gọi của họ, cũng như những ai đã tận hiến cuộc đời của mình để phục vụ Thiên Chúa và của cộng đoàn.
Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.
Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.
.
MỤC TỬ TỐT LÀNH HIẾN MẠNG VÌ CHIÊN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ IV Phục Sinh, chúng ta có dịp đọc lại dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành”. Phụng vụ mỗi năm trình bày cho chúng ta một khía cạnh. Năm nay, với vỏn vẹn 4 câu (Ga 10, 27-30), cũng đủ làm nổi bật Chúa Giêsu là Mục Tử tốt lành, thí mạng sống mình vì đàn chiên, Người đến để cho chiên được sống dồi dào (c.28), qui tụ tất cả về một đàn chiên duy nhất, Người là Con Thiên Chúa, và cũng chính là Thiên Chúa (c.30).
Chúa là Mục Tử
“Mục tử” là hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của dân du mục vùng Trung Đông, được Chúa Giêsu dùng để diễn tả tương quan “dễ thương” giữa Người và chúng ta. Dân Cựu Ước thường gọi Chúa là mục tử của mình (St 49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v …), vì khởi đầu lịch sử thánh, dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước tiên là Abraham từ Ur đến Canđê, thứ đến là Môsê, kẻ chăn cừu, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.
Chúa là mục tử đích thực của dân Israel kể từ khi Chúa chọn họ làm dân riêng và hứa không để dân bị phân tán như đàn chiên không người chăn dắt. Chính Chúa chăn dắt dân Chúa: “Này đây Ta chăm sóc chiên Ta” (x. Ed 34). Trách nhiệm mục tử này được trao cho các vị lãnh đạo dân Chúa.
Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
Chúa Giêsu tự xưng “là mục tử tốt lành” (Ga 10, 11). Trong hang toại đạo, người ta tìm thấy hình ảnh Chúa Giêsu với vẻ dịu dàng, trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đàn của chúng để cùng chia sẻ một đồng cỏ xanh tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử và tự ví mình như thế, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn sẵn sàng, “thí mạng sống vì chiên” (Ga 10, 11). Chúa biết chiên, nên hy sinh mạng sống :“Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta” (Ga 10, 27 – 28).
Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu nguyện rằng : “Vì chúng, Con xin hiến thánh mình Con, ngõ hầu chúng được tác thánh cách chân thật” (Ga 17, 19). Khi tự do vâng phục ý muốn Chúa Cha, tự hiến tế mình trên Thập Giá, Người trở thành “Mục tử nhân lành hiến mạng sống vì đoàn chiên” (Ga 10,11). Đúng là Chiên con cứu chuộc đàn chiên mẹ (x. Ca tiếp liên lễ PS). Bằng tình yêu trao ban, hy sinh và tận hiến, Người hiến tế chính mình làm của ăn của uống cho chúng ta. Đó là lý do hôm nay chúng ta mừng kính Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành vào Chúa nhật thứ IV sau Đại lễ Phục Sinh, nên Chúa nhật này được gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành.
Mục tử tốt lành vác chiên trên vai, ôm chúng vào lòng như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa Giêsu cũng làm như thế : hàng ngày, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống và các bí tích của Hội Thánh, giang cánh ta trên thập giá để thâu họp “con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11,52), đón nhận chúng ta vào lòng nhân ái của Người. Thật là hình ảnh tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài.
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi : tôi có phải là chiên của Chúa không? Nếu phải thì tôi có nghe tiếng Chúa không ? Chúa nói : “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta” (Ga 10, 27). Tiếng ở đây chính là Lời Chúa. Tiếng để chúng ta nhận biết Chúa, như Maria Mađalêna đã nhận ra Chúa khi đi viếng mộ Chúa.
Chúng ta có biết Chúa không và nếu biết thì biết thế nào ? “Biết” ở đây, không có nghĩa là “biết” nhờ đức tin, nhưng là “biết” nhờ đức mến. “Biết” được diễn tả qua việc làm, như thánh Gioan viết : “Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2, 4).
Vậy ai nghe, biết và chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với các công dân Nước Trời.
Cầu cho các mục tử
Trong Sứ điệp ngày thế giới cầu cho ơn gọi 2016, Đức Phanxicô viết : “Vào ngày được dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi này, tôi kêu gọi tất cả anh chị em Kitô Hữu hãy ý thức trách nhiệm của mình đối với việc chăm sóc và biện phân các ơn gọi”.
Đức Phanxicô khẳng định, người chăn chiên phải có “mùi chiên”, thì đoàn chiên mới nhận ra. Ngài muốn các mục tử trong Năm Thánh này không được để cho mình thất vọng : “Điều con người ngày nay cần nhất là những chứng từ của chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa, để sưởi ấm con tim, đánh thức niềm hy vọng, và lôi kéo người ta đến với điều thiện” (Trích bài giảng 07/07/2013).
Bằng hình ảnh đó, ngài khuyên các bề trên đừng nhằm đào tạo chỉ dựa trên kỷ luật và giáo thuyết: “Đào tạo là công việc của người thợ thủ công, chứ không phải của người cảnh sát. Chúng ta phải đào tạo những tâm hồn, bằng không, chúng ta đang sản xuất ra những quái vật nho nhỏ. Rồi những quái vật nho nhỏ này lại đào tạo dân Thiên Chúa. Điều đó làm tôi rợn tóc gáy” (Adnkronos, 03/01/2013).
Ngài chỉ trích những cơ cấu Giáo hội ít có khả năng đón tiếp, và những giáo xứ co mình lại trong việc ban phát các bí tích. Theo ngài: “Tòa giải tội không phải là một phòng tra tấn nhưng là nơi của lòng Chúa thương xót…”( Trích Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, 47). Linh mục không phải là một công chức, cũng không phải là người sở hữu những gì của Thiên Chúa, họ chỉ là những máng chuyển mà thôi.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử thân yêu : nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài ! Chúng ta cũng cầu nguyện cho Giáo hội có thêm nhiều linh mục lành thánh.
Lạy Mẹ Maria, mẫu gương ơn gọi của chúng con, Mẹ đã không sợ hãi khi thưa tiếng “xin vâng” trước lời mời gọi của Thiên Chúa, xin đồng hành và dẫn dắt chúng con bước theo con Mẹ. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Ảnh hưởng là sự tác động được/bị thay đổi bởi người khác đối với cách suy nghĩ, hành động, lối sống, văn phong,… Ảnh hưởng là áp lực có thể tốt hoặc xấu. Áp lực đồng đẳng là động thái của chúng ta đang được/bị thay đổi bởi bạn bè. Người ta ảnh hưởng bởi nhiều thứ: Văn hóa, xã hội, chính trị, tôn giáo, môi trường, kiến thức,…
Người Việt có cách nói ám chỉ sự ảnh hưởng: “Rau nào sâu nấy” hoặc “thầy nào trò đó”. Tầm ảnh hưởng có thể do ý thức hoặc vô thức, thậm chí nó có thể dần dần hình thành tính cách của một con người.
Về sự ảnh hưởng, thần học gia và triết gia Albert Schweitzer (1875-1965, người Đức gốc Pháp) nhận định: “Gương mẫu không phải là điều chính yếu gây ảnh hưởng lên người khác, mà nó là điều duy nhất”. Còn tâm lý gia kiêm triết gia William James (1842-1910, người Mỹ) nhận xét: “Chính thái độ của chúng ta khi bắt đầu một việc khó khăn sẽ ảnh hưởng kết quả thành công nhiều hơn bất cứ điều gìkhác”. Quả thật, sự ảnh hưởng rất quan trọng!
Trình thuật Cv 13:14. 43-52 cho biết rằng…
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ông vào hội đường. Tan buổi họp, có nhiều người Do Thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.
Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. Thấy những đám đông như vậy, người Do Thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Bấy giờ ông Phaolô và Barnaba mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vìanh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thếnày: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất”.
Lý do rất rõ ràng. Được nhận mà không muốn nhận. Tất nhiên hậu quả khôn lường, nhưng đó là quyền tự chọn của mỗi người mà thôi. Thiên Chúa không bao giồ ép buộc ai. Và đúng như Chúa Giêsu đã từng cảnh báo: “Ai ĐÃ CÓ thì ĐƯỢC CHO THÊM và sẽ CÓ DƯ THỪA; còn ai KHÔNG CÓ thì ngay CÁI ĐANG CÓ cũng sẽ BỊLẤY ĐI” (Mt 25:29).
Sau khi nghe hai ông Phaolô và Barnaba nói rạch ròi như vậy, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời đều tin theo. Và Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
Lòng ghen tức thật đáng sợ! Tại sao người ta ghen tức? Cũng như con gà tức nhau tiếng gáy, người ta ghen tức với người khác vì thấy mình lép vế, bất tài, vô dụng,… Giàu sang thì bị đía, nghèo khó thì bị khinh; ngu si thì bị khinh, thông mình thì bị ghét. Chỉ có người giỏi mới chấp nhận cái giỏi của người khác. Chúa Giêsu cũng đã có những bỏ đi nơi khác vì người ta không chấp nhận sự hiện diện của Ngài.
Và rồi chính người Do Thái đã sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do Thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và Barnaba, rồi còn trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Thật là nhỏ nhen và nham hiểm! Thấy không ổn, hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Icôniô.
Người Việt cũng có câu: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Người ta không thích mình thì tránh cho xa kẻo họ “ngứa mắt”, chứ thật ra họ chẳng có gì mà chúng ta phải sợ. Cũng là cách tránh dịp tội cho đôi bên. Họ đáng khinh và đáng trách, nhưng đó là quyền tự chọn của họ. William Makepeace Thackeray (1811-1863, tiểu thuyết gia người Anh) phân tích: “Gieo hành vi thì gặt thói quen, gieo thói quen thì gặt tính cách, gieo tính cách thì gặt số phận”. Một chuỗi hệ lụy rất lô-gích. Chính sự tự do có thể tạo số phận của chúng ta, có thể tốt hoặc xấu – cả đời sống xã hội và đời sống tâm linh.
Cuộc sống con người là những chuỗi hồng ân, liên kết qua từng nhịp thở. Ngay cả đau khổ cũng là hồng ân. Vâng, hồng ân Chúa không ngừng ảnh hưởng tới sự sống của mọi thụ tạo. Vì thế, chúng ta không thể không biết dâng lời tạ ơn. Thật vậy, với cảm nghiệm sâu sắc, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ, vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo. Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế, chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt” (Tv 100:2-3).
Lý do vừa mặc nhiên vừa mình nhiên: “Bởi vì Chúa nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín” (Tv 100:5). Điều này cũng được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh (1 Sbn 16:34; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4; Tv 118:29), nhiều nhất là Tv 136 (các câu 1-3 và 26). Đó là mầu nhiệm về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chính Đức Maria cũng đã thốt lên qua bài thánh ca Magnificat: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợNgười” (Lc 1:50). Ai trong chúng ta cũng luôn chịu ảnh hưởng bởi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Cuộc sống của Kitô hữu không mơ hồ, mà có mục đích rõ ràng: Sống lại và về Nhà Cha trên trời. Đó là điều kỳ diệu của cuộc vượt qua khải hoàn mà hiện nay chúng ta không thể tưởng tượng như thế nào. Tuy nhiên, trình thuật Kh 7:9. 14b-17 “hé mở” cho chúng ta biết về cuộc khải hoàn trên Thiên Quốc.
Thị nhân Gioan kể lại: “Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế”. Những người này rất đẹp và hạnh phúc. Nhưng họ là ai? Họ là những người mà chúng ta gọi là các thánh.
Thánh Gioan cho biết thêm: “Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họsẽ KHÔNG CÒN phải đói, phải khát, KHÔNG CÒN bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt vàkhí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ LAU SẠCH nước mắt họ”. Cả “cách giặt” và “chất tẩy” đều kỳ diệu, không hề có trên thế gian vật chất hữu hình này, nhưng lại thực sự có trong thế giới tâm linh và vô hình. Và hàng ngày, mỗi chúng ta cũng vẫn phải “giặt” chính mình trong Bửu Huyết của Đức Kitô Giêsu.
Nói đến chiên thì cũng phải nói tới chủ chiên. Chúa Giêsu là Đệ Nhất Con Chiên và cũng là Đệ Nhất Chủ Chiên – Vị Mục Tử Nhân Lành (Ga 10:11), đồng thời Ngài cũng là Cửa Chuồng Chiên (Ga 10:7-9). Trình thuật Ga 10:27-33 cho chúng ta biết về mối quan tâm của Mục Tử Nhân Lành dành cho Đoàn Chiên.
Chúa Giêsu là Người Chăn Chiên đích thực nên nặng “mùi chiên”. Đó là sự ảnh hưởng tất yếu giửa chủ và chiên. Thật vậy, mấy bà bán cá làm sao tránh được mùi cá? Hoặc mấy người chăn heo lẽ nào không ám mùi heo? Một sự ảnh hưởng rất tự nhiên, không thể không có. Mùi chiên ở đây mang nghĩa bóng. Trong khi đại đa số chiên là dân nghèo – nhất là tại Việt Nam, thế thì tại sao chủ chiên không có “mùi nghèo” của chiên? Chủ chiên có “mùi” của chiên béo thì chủ chiên đó là thật hay giả, quen hay lạ? Câu hỏi dễ ẹc mà lại rất khó (hoặc ngại) trả lời!
Nhưng chính Chúa Giêsu đã trả lời qua câu nói xác định: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” Ga 10:27-30). Vâng, MỘT chứ không HAI hoặc MỘT RƯỠI. Quá rõ ràng, chắc chắn không cần nói gì thêm nữa!
Thuận ngôn nghịch nhĩ. Lời thật mất lòng. Nghe Chúa Giêsu nói vậy, người Do Thái lại lấy đá để ném Ngài. Nhưng Ngài vẫn thẳng thắn bảo họ: “Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi?”. Người Do Thái đáp: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” Ga 10:33). Đúng là những con người có tâm địa xấu xa, dốt mà chảnh, ngu mà ra vẻ ta đây giỏi, dại mà tưởng là khôn. Người ta còn nói đến mình là còn thương mình, người ta không thèm nói tới mình thì “hết nước nói” rồi. Nguy hiểm quá!
Về “mùi chiên”, đó phải là mùi thật, mùi tự nhiên, không thể là mùi nhân tạo. Ngày nay, người ta có thể chế biến đủ loại hương liệu để tạo mùi giả, liệu mùi chiên có bị “chế biến” hay không?
Chiên cũng đa dạng, lắm kiểu, nhiều loại: mập – ốm, cao – thấp, trắng – đen, sang – hèn, giàu – nghèo,… Nhiều người luôn tâng bốc, nịnh hót, luồn cúi,… “ra cái vẻ” đạo đức và ngoan ngoãn. Nên cảnh giác!
Khi nói đến danh từ “con chiên”, người ta có ý nói là “ngoan đạo”, nhưng cũng có nghĩa tiêu cực là “vâng lời mù quáng”. Anh ngữ có danh từ SHEEPLE /SHēpəl/ – được ghép bởi chữ Sheep (chiên, cừu) và People (người), ý nói về người dễ tin lời người khác, dễ bị dụ. Danh từ này được sử dụng từ năm 1945. Theo Thánh Tiến Sĩ Thomas Aquinas, đức tin cần có cả trí tuệ lẫn ý chí. Tin như vậy là sáng suốt chứ không mù quáng, ảnh hưởng đúng đắn.
Lạy Thiên Chúa, xin soi sáng và giúp con nhận thức đúng đắn, từ chuyện nhỏtới chuyện lớn, trong cuộc sống đời thường và tâm linh. Xin thương xót vàbảo vệ hệ miễn nhiễm tâm linh để con không bị ảnh hưởng bởi những sự xấu, nhưng chỉ chịu sự ảnh hưởng của Ngài mà thôi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
ĐỨC GIÊSU – MỤC TỬ ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Nói đến mục tử và đàn chiên, hẳn người Công Giáo không còn cảm thấy xa lạ về khái niệm và cách gọi. Tuy nhiên, để hiểu và biết cách thấu đáo, có lẽ chưa được chính xác, thiết thực cả về vai trò mục tử lẫn bổn phận của con chiên! Vì thế, Giáo Hội mỗi năm một lần, dành riêng Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh, để mời gọi mọi thành phần ý thức về sứ vụ của mình trong vai trò và nhiệm vụ riêng biệt, ngõ hầu làm toát lên những nét tiêu biểu của vai trò mục tử và đàn chiên.
Để làm sáng tỏ bản chất thiêng thánh, chúng ta cần khởi đi và bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, vị Mục Tử Tối Cao, nhất là vai trò, sứ vụ Mục Tử nơi Thầy Giêsu.
Hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành, đầy lòng thương xót được khởi đi từ thời Cựu Ước, qua việc Thiên Chúa luôn chăm sóc, giữ gìn và bảo vệ dân của Người. Thánh Vịnh 23 đã thốt lên niền vinh dự và an tâm khi được Thiên Chúa bảo vệ: “Đức Giavê là Mục Tử tôi. Tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đem. Tôi cũng không hề lo sợ” (x. Tv 23,1-6). Qua sự cảm nghiệm trên, tác giả Thánh Vịnh cho thấy: Giavê Thiên Chúa trở thành Mục Tử của dân Israel, Người yêu thương và chăn dắt dân của Người.
Hình ảnh và sứ mạng của người mục tử cũng được trao phó cho các vị lãnh đạo thời bấy giờ, để họ thay quền Thiên Chúa, lo quản trị, nhắc nhở và nêu gương sáng cho dân.
Tuy nhiên, thật đáng buồn vì các mục tử thời đó đã làm cho dân phải đau đớn vì họ không sống đúng vai trò của mình! Điều này đã được Tiên tri Ezekiel quở trách thật nặng nề: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên… Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng” (x. Ez 34,2-4.9-10.23).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu đã trở thành hiện thân Mục Tử mà Cựu Ước đã tiên báo. Nhưng về cung cách thì hoàn toàn khác. Vì thế, chính Ngài đã tuyên bố: “Tôi là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (x. Ga 10, 27); “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10, 10), chứ không như những mục tử chỉ biết lo cho mình mà không đoái hoài đến đàn chiên đã được trao phó.
Quả thật, suốt cuộc đời, Đức Giêsu luôn chú tâm đến việc dạy dỗ, chữa lành, băng bó những con chiên đau ốm, ghẻ lở; dẫn về những con chiên đi lạc; phục hồi những con mất nhân cách; và cuối cùng, hiến tế chính mình cho chiên, để chúng được sống trong niềm vui và hạnh phúc viên mãn. Qua sự hiến dâng như thế, Đức Giêsu đã trao ban chính sự sống thần linh, tức là sự sống đời đời cho chiên của mình (x. Ga 10,28).
Như vậy, nơi cuộc đời và sứ vụ, Đức Giêsu đã phản ánh rõ nét Lòng Thương Xót của chính Thiên Chúa ngang qua lòng dạ nhân từ, bao dung và tha thứ của Ngài.
Kết thúc cuộc đời tại thế, Đức Giêsu đã trao phó vai trò mục tử cho các Tông đồ và những người kế vị. Để hành vi thương xót của Thiên Chúa ngang qua đời sống và cung cách của các vị trung gian được tiếp tục tiếp diễn cho đến ngày mọi người đều có một Chủ Chiên duy nhất là chính Thiên Chúa và tất cả đều là anh em trong một đàn chiên.
Khi nói đến vai trò mục tử trong Giáo Hội, chúng ta nghĩ ngay đến các giám mục, linh mục, phó tế… Các ngài được lãnh nhận sứ vụ này ngang qua Giáo Hội, để ra đi thi hành bổn phận mà Thầy Giêsu đã làm khi xưa.
Sứ mạng ấy chính là quyền lãnh đạo, giáo huấn và thánh hóa. Tuy nhiên, gương sáng và sự dấn thân sống hết mình vì đàn chiên là điều được đề cao đến nỗi nếu không có chiều kích này, thì việc lãnh đạo, giáo huấn và thánh hóa trở nên một thể chế thuần tục không hơn không kém!
Khi đề cập đến sứ vụ mục tử, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh: các mục tử ngày nay không chỉ lo lắng thuần túy về cơ cấu, nhưng còn phải “ngửi thấy mùi chiên”; và “phải mang mùi chiên đó vào mình”. Thật vậy, nếu không “ngửi” và mang “mùi” của chiên nơi mình, có lẽ ranh giới giữa mục tử và kẻ chăn thuê hay cướp bóc chỉ cách nhau gang tấc! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó những vị mục tử luôn nóng nảy, dọa nạt vô cớ; cư xử phân loại; sống theo hiệu ứng đám đông; hay chỉ biết chăm chút mũ mão cân đai cho chính bản thân, lo củng cố địa vị và uy tín ngang qua những công trình sang trọng hay những buổi lễ hội… Khi lựa chọn như thế, ấy là lúc những mục tử đang có xu hướng “ngoại tình” với những “mục đích rẻ tiền” mà quên đi sứ vụ cao trọng!
Nguyên nhân dẫn đến thảm trạng đau buồn này chính là không tin phục và chẳng sống theo mẫu gương Thầy Giêsu; luôn để cho lòng tự nãm, kiêu căng, vụ lợi, ích kỷ, hèn nhát, thiếu tình thương chỉ đạo, nên chỉ biết lo cho bản thân mà không màng chi đến sứ vụ!
Nếu là mục tử thuộc về Thầy Giêsu, noi gương Đấng Giàu Lòng Thương Xót, thì lòng dạ các ngài sẽ không yên khi còn đó biết bao con người khắc khoải, đói khát, bần cùng, tỗi lỗi… đang ngày đêm kêu van thống, để chỉ mong sao những bước chân của những mục tử dám đi ra “bên lề”, tiến vào những vùng “ngoại biên” để cứu giúp họ, ngõ hầu những con chiên đen đủi, bất hạnh này được bàn tay nhân ái của những mục tử nhân lành chạm vào tâm hồn họ, để tâm hồn chiên lạc và khổ đau được nóng và sáng lên nhờ cảm nghiệm được sự an bình thư thái…
Làm được điều đó, các vị mục tử mới thực sự là người thay mặt Chúa để trả lời và mang lại cho con người hôm nay niềm hy vọng mà xã hội trần thế không làm được.
Còn với chúng ta, trong ngày lễ hôm nay, mỗi người hãy thực sự nhìn lại tư cách chiên của mình, để thấy được tình trạng tâm hồn trong tương quan với Vị Mục Tử Giêsu, Đấng mà chúng ta thật vinh dự khi được trở thành con chiên của Ngài ngày lãnh Bí tích Rửa Tội.
Vì thế, với tư cách là thành phần trong đàn chiên của Chúa, điều kiện tiên quyết, đó là phải tin tưởng và phó thác cuộc đời, vận mệnh, hiện tại và tương lai cho Vị Mục Tử Tối Cao, để được núp dưới cây gậy mục tử nhân lành của Ngài.
Thứ đến là: lắng nghe Lời của Ngài, để: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta” (Ga 10,27), ngõ hầu Lời Chúa trở thành nguồn suối mát, đồng cỏ xanh nuôi sống tâm hồn chúng ta.
Tiếp theo là đi theo, gắn bó mật thiết như hình với bóng, để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong tâm tư, hành động, lời nói.
Cuối cùng, sống chứng nhân lòng thương xót của Thiên Chúa cho anh chị em, nhất là ngang qua nghĩa cử, lòng nhân ái của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, xin cho các chủ chăn trong Giáo Hội hôm nay biết phản chiếu lòng thương xót của Chúa cách trung thực. Xin cho chúng con trở thành con chiên ngoan hiền để tận hưởng nguồn hoan lạc của đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mắt dưới bóng cánh và cây gậy mục tử của Chúa. Amen.
.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Xin cho nhiều người trẻ quảng đại đáp trả lời kêu mời của Thiên Chúa, để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người thời đại.
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời
“Con chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, và chúng sẽ không hư mất”.
Ơn gọi tu sĩ linh mục chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi”(Mc.3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Ngài trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.
Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài muốn tất cả được cứu độ (1Tm.2, 4). Ngài muốn ban sự sống đời đời cho tất cả mọi người. Sự sống đời đời khởi đầu ngay ở đời này. Nếu con người sống theo tiếng Chúa, theo lương tâm, thì người ấy được bình an. Bình an là điều kiện nền tảng để hạnh phúc.
Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi
“Không ai có thể giựt chúng khỏi tay tôi, vì Cha tôi đã ban chúng cho tôi, và Ngài lớn hơn tất cả, và không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Cha tôi và tôi là một”.
Ơn gọi rất mong manh, và tưởng chừng ai cũng có thể phá huỷ được; nhưng thực sự không như vậy. Không ai có thể huỷ ơn gọi của một người, nếu không phải chính người đó cố tình phá huỷ. Thiên Chúa luôn trung thành, Ngài gọi ai thì Ngài mãi mãi trung thành. Ngài không thay đổi, Ngài không chỉ gọi ai một thời gian rồi thôi không gọi nữa. Nếu Ngài gọi ai, Ngài mãi mãi trung thành. Ơn gọi cũng như tình yêu, như được nối kết ràng buộc bởi “tơ trời” có vẻ rất mong manh nhưng vô cùng chắc chắn.
Ơn gọi không khởi đầu do con người, nên cũng không thể tiếp tục nếu chỉ tự sức con người. Thiên Chúa luôn ở với người Ngài chọn và gọi, để nâng đỡ và bảo vệ người Ngài tuyển chọn. Cụ thể, Thiên Chúa vẫn hay dùng những phương tiện con người, để gọi và bảo vệ những người được Ngài kêu gọi.
Dụng cụ ban ơn cứu độ
Thánh Phao-lô và Barnabas được tuyển chọn để sai đi. Hai ngài đã trở thành phương tiện Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sẵn sàng mở lòng đón nhận Tin Mừng. Cuộc đời của Phaolô rất gian nan, nhưng Phaolô vẫn vui và hạnh phúc. Phaolô đã từng bị ném đá, bị đắm tàu tưởng chết, nhưng Phaolô vẫn kiên vững trong sứ mạng được trao.
Ơn cứu độ của con người, là chính Thiên Chúa. Được Thiên Chúa, nghĩa là, được Thiên Chúa ở cùng, được chia sẻ sự sống với Thiên Chúa, là được ơn cứu độ.
Mỗi người có thể là dụng cụ Thiên Chúa dùng để mang ơn cứu độ cho những người sống xung quanh mình. Xin cho mỗi người nhận ra ơn gọi của mình, để hạnh phúc và trở thành dụng cụ Thiên Chúa dùng để đến với con người hôm nay.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
.
Lm. Jos. DĐH.
Có rất nhiều con đường để đi tới thành công, có không ít người gặt hái thành quả từ mồ hôi nước mắt, nhưng công sức tiền của, hoặc ý chí quyết tâm cũng chỉ là mờ nhạt, nếu chúng ta chưa đặt để tình yêu vào trong mơ ước hạnh phúc đó. Tình yêu có phải là viên thuốc bổ, là vi-ta-min, tăng cường sức đề kháng trước những khó khăn trên bước đường đời ? Có chăng, biết chăm chỉ làm ăn thì không nghèo, có chương trình kế hoạch thì không rối rắm, có tình yêu và sự chuẩn bị trước công việc sẽ không thấy bận rộn ?
Nên một trong tình yêu vợ chồng, người ta có thể đọc được qua câu thành ngữ : thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn. Nên một trong tương quan yêu thương, chúng ta cũng có câu tục ngữ : dao năng liếc thì sáng, người năng chào thì thân. Nên một tình yêu được Chúa Giêsu nói tới hôm nay, phảng phất hương vị của đoàn chiên mà vị mục tử chăm sóc thật chu đáo: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. Hình ảnh mục tử và chiên phản ánh một tình yêu không giới hạn, người chăn chiên sẽ ra sức bảo vệ, không để sói tấn công, không để con nào lạc lối. Chiên theo chủ, nhận ra tiếng chủ, và yêu thương không nghi ngờ là dấu hiệu để chiên không bao giờ hư mất.
Chúa Giêsu cho chúng ta một cảm nhận “nghe và theo”, chính là đặc tính nên một giữa tình yêu của chủ chăn và đàn chiên. Nghe bằng trái tim, theo trọn vẹn cả xác hồn, dù hình ảnh chủ chiên có mờ nhạt so với khoảng không tự do của thói xấu đang thu vén danh vọng vật chất. Nghe mục tử Giêsu và theo mục tử Giêsu, thời nào cũng là vấn nạn khó hiểu, bởi tiếng ồn “thụ hưởng” làm cản trở bộ lọc của trí lòng con người. Nếu thiếu tình yêu, ai có thể phân biệt được thật giả, tốt xấu, ai có thể nghe và theo chủ chiên, cũng không thể đủ tin chắc chắn vào người mục tử sẽ đưa đến bến bờ hạnh phúc.
Để nói lên tình nghĩa huynh đệ rất cần nơi cuộc sống này, người xưa bằng nhiều suy tư rất chí lý nhằm chia sẻ cho các thế hệ : anh em như thể tay chân; rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần. Tình yêu thương cũng không thể dừng lại ở phạm vi gia đình, cần phải được sẻ chia xa hơn nữa : nhiễu điều phủ lấy giá gương; người trong một nước phải thương nhau cùng. Lập trường yêu thương của Chúa Giêsu hôm nay hẳn vẫn đang làm nên sự tự tin : “…Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời”. Mục tử Giêsu còn gợi lên “Lời và hành động” làm nên một tình yêu với đàn chiên mà không ai có thể cướp phá được. Sức mạnh của tình yêu ấy, vẫn đang vang lên : “Tôi và Cha Tôi là Một”.
Nên một tình yêu không phải để tận hưởng đặc quyền đặc lợi, mà còn nhằm phản ánh được tính hiệp thông chặt chẽ giữa chiên và chủ chiên. Có nghe có hiểu, có theo chủ, chiên mới đến được đồng cỏ xanh tươi, và đàn chiên không bao giờ phải hư mất. Được ở trong gia đình giáo hội, ở trong gia đình giáo xứ, là một ơn gọi nên thánh. Kinh nghiệm của đấng bậc sinh thành của bản thân, vẫn là một chuỗi dài những giới hạn, bất xứng, trước tình yêu Giêsu vị mục tử nhân lành. Mục tử Giêsu biết chúng ta không như người kỹ sư biết về cấu trúc của chiếc máy, Ngài hiểu đàn chiên của Ngài không phải như kẻ trên người dưới, nhưng là thân tình gắn bó trong tình bạn bè, huynh đệ.
Sống trên đời, tất cả mọi người đều phải ý thức mình là ai mới tồn tại được, chẳng ai sống được mà không có tình người, đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết. Chiên lạc lối thì sói ăn, người theo Chúa hời hợt, hẳn sẽ rơi vào hố sâu của sự dữ và chết chóc. Cha ông chúng ta cho thấy sự nguy hiểm khi sống xa sự thật về tình yêu : cái vòng danh lợi cong cong; kẻ hòng ra khỏi người mong bước vào. (ca dao). Có những vấp ngã tự ta đứng dậy được, nhưng có những thứ sai lạc cần đến sức mạnh của cộng đoàn yêu thương trợ giúp, ta mới đứng lên được.
Đời cha cho chí đời con, có muốn so tròn thì phải so vuông. Vâng, tiền nhân luôn để lại nhiều lời răn dạy bổ ích cho hạnh phúc tương lai của con cháu. Người chăn chiên có thể biết con chiên ốm yếu, đau bệnh, và Ngài có thể vác chúng lên vai, nhưng chủ chiên không thể ép buộc chúng nghe, hiểu, thế nào là tình yêu của người mục tử dám thí mạng để bảo vệ chiên. Nên một tình yêu không phải chỉ hiểu theo nghĩa tình vợ chồng, mà chính là nhận ra Vị Mục tử Giêsu đang dẫn dắt, chở che. Mỗi con chiên đều là đối tượng của tình yêu, là môn đệ, là người bạn thân tình trong Đấng phục sinh. Amen.
.
Trần Bình An
Sau năm 1954, noi theo gương vị Mục Tử Nhân Lành, cha già Phêrô Doãn Quang Ngọc (1902–1995) đã thốt lên: “Vì yêu giáo dân mà tôi ở lại miền Bắc.” Sau hiệp định Genève, các linh mục ở lại miền Bắc lúc đó, phải chấp nhận cảnh đấu tố, giam cầm. Cha bị giam mấy tháng ở chuồng trâu của một người lương dân xóm Hồng Sơn, xã Sơn Cương, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Rồi bị đấu tố ở Chiêu Ứng, sau đó còn bị điệu đi Đồng Xa, Đại An, Trù Mật để cho chính những người đã được cha già cưu mang, vu oan cáo vạ! Thế nhưng sau vụ đấu tố đó, những giáo dân này vẫn được cha già yêu thương, tin dùng và nâng đỡ. Có người hỏi: “Sao cha vẫn dùng họ?” Ngài trả lời: “Họ nhẹ dạ, họ mắc mưu, chấp làm gì!”
Một số cha trẻ di cư vào Nam, một số cha già được Chúa gọi về dần, các chủng viện bị đóng cửa, các giáo xứ dần dần vắng bóng chủ chăn. Cha già Phêrô Doãn Quang Ngọc là cha xứ Chiêu Ứng, nhưng đồng thời phải coi sóc giáo dân tận Lào Cai, Sapa, cách xa ba bốn trăm cây số, trong khi phương tiện đi lại chỉ là một chiếc xe đạp Super Globe. Vào những năm cuối đời, dù đã tám chín mươi tuổi, cha Phêrô vẫn còn phải coi sóc thêm những giáo xứ như Phi Đình, Trù Mật, Vân Thê,… trên mười ngàn giáo dân.
Coi sóc nhiều như vậy, cha già không những đến dâng lễ, ban các bí tích, mà còn lo xây dựng đức tin và cơ sở vật chất nữa. Tất cả những nơi cha già coi sóc đều được chính ngài đứng lớp, ôn thi kinh bổn, giáo lý, mỗi năm hai kỳ vào dịp Lễ Phục sinh và Lễ Các Thánh.
Các hội đoàn như Hội Nghĩa Binh Thánh Thể, Hội Mân Côi, Hội Thánh Phêrô, Hội Thánh Antôn,… do ngài thành lập vẫn sinh hoạt đều đặn. Riêng nơi cha già trông coi, các cuộc rước hoa, rước Thánh Thể vẫn tổ chức rất long trọng. Các nơi thờ tự trong địa bàn cha già coi sóc vẫn được sửa chữa, nâng cấp hoặc xây mới, trong khi tại các xứ khác bị phá hủy, hoặc không được tu sửa.
Với tinh thần quảng đại, tha thứ và yêu thương phục vụ, cha già Phêrô còn tích cực hỗ trợ nhiều nơi xây dựng trường sở rộng rãi cho con em học văn hóa, như trường phổ thông cơ sở Sơn Cương, trường Ninh Dân thuộc huyện Thanh Ba, trường Văn Lung thuộc thị xã Phú Thọ. Những gia đình nghèo khổ luôn được cha quan tâm: cha giúp họ tiền đong gạo, cha không nhận bổng lễ khi họ đến xin lễ. Suốt đời cha không sắm cho mình một vật gì sang trọng; cha thường nói: “Chúa Giêsu sống nghèo, tôi cũng sống nghèo; Chúa Giêsu bênh vực người nghèo, tôi cũng đi với người nghèo.”
Nói đến tinh thần kỷ luật của cha già là phải nói đến việc giữ giờ giấc: giờ ăn, giờ nghỉ, giờ làm việc trí óc, giờ lao động chân tay, giờ dâng lễ, giờ cầu nguyện; sáng, trưa, tối, mùa hè oi bức cũng như mùa đông giá lạnh, không khi nào cha sai giờ. Điều đáng khâm phục là khi ngài báo giờ lễ ở một nơi nào, dù xa xôi (như Đồng Xa, Trù Mật) mà không thể đi xe được vì thời tiết quá xấu, ngài quàng áo mưa, chống gậy đi bộ cho kịp giờ đã định. Và cũng có thể nói, trừ những tháng bị giam giữ năm 1954, ngài đã không bỏ một thánh lễ nào. Sáng ngày 28 tháng 11 năm 1995, ngài dâng thánh lễ cuối cùng, sau đó thấy mệt, tuy được các y bác sĩ điều trị, nhưng tối hôm đó ngài đã an nghỉ trong Chúa. (Gp Hưng Hoá)
Linh mục Phêrô Doãn Quang Ngọc thấm nhuần thiên chức, đã can đảm sống cho, sống vì và sống với đoàn chiên, để tận tuỵ chăn dắt và chăm lo các bổn đạo. Chúng ta thành tâm biết ơn và cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng một chủ chăn tốt lành. Đồng thời ca ngợi, tôn vinh Lòng Chúa Thương Xót, đã ưu ái dân Người.
Trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh hôm nay, Chúa Chiên Lành tha thiết mời gọi tất cả con chiên khắp nơi trung kiên đi theo. Người biết rõ từng khuôn mặt, tên tuổi, cũng như tính tốt lẫn thói hư tật xấu của từng con chiên. Dầu bạc nhược, bệnh hoạn, yếu đuối, tất cả cũng đều được Người ân cần an ủi, băng bó, vỗ về, phục hồi và ban sự sống, nếu biết nghe và theo Người.
Chiên nghe và theo
“Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta.” Nghe Lời Chúa là môt diễm phúc, một ơn phước, không phải ai cũng được hân hạnh được lãnh nhận, dẫu quyền cao chức trọng mấy đi nữa cũng chẳng được biệt đãi, như thói đời. “Vì chưng Ta bảo các ngươi, nhiều tiên tri và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều các ngươi thấy, nghe điều các ngươi nghe, mà đã không được nghe.” (Lc 10, 24)
Hơn nữa, nghe lời Chúa còn là một đặc ân cứu rỗi.“Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Ðấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.” (Ga 5, 24) Bởi vì Lời Đức Giêsu bắt nguồn từ chính Thiên Chúa Cha. “Tôi còn có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Ðấng đã sai tôi là Ðấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói.” (Ga 8, 26)
Nghe Lời Chúa và theo Chúa chính là thực hành những điều Người dạy, mới thuộc về Thiên Chúa, về đàn chiên Người chăn dắt và chăm sóc. “Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa.” (Ga 8, 47) Đức Giêsu còn tái khẳng định một vĩnh phúc, một niềm hy vọng vĩ đại cho con người. “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết.” (Ga 8, 51)
Chủ Chăn nói và biết
“Chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.” Lời Chúa luôn mời gọi từng người, từng ngày, từng phút giây trong đời. Phúc thay cho ai luôn biết tỉnh thức, lắng nghe và đáp lại Lời Chúa.
Không bao giờ cạnh tranh, chen lấn, đua đòi, kèn cựa, trong cơn bão truyền thông hiện đại, Lời Chúa thường chỉ âm thầm, lặng lẽ văng vẳng trong thinh lặng, trong cõi cô tịch hiu quạnh, trong hoang mạc vắng vẻ, trong đêm thâu trầm lắng canh thức. Như thầm thì qua lương tâm, khuyên nhủ qua những vị chủ chăn nhân lành, nhắc bảo qua các đấng sinh thành đạo đức, tâm tình chia sẻ qua những thân bằng quyến thuộc khôn ngoan theo Chúa. Nhưng công khai, tỏ tường và trường cửu hơn cả, Lời Chúa rất minh bạch, rõ ràng, rạng ngời, sáng chói trong Kinh Thánh, Tông truyền và giáo huấn Hội Thánh. Lời Chúa vốn là sự thật, là chân lý bất biến, bất diệt, mãi hợp lý, hợp thời mọi lúc mọi nơi.“Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói sẽ không bao giờ qua đi!” (Mc 13, 31)
Qua suốt ba mươi ba năm nhập thể, Đức Giêsu đã trải qua hầu hết gian nan, khốn khổ, cực nhọc của kiếp người. Nhất là qua cuộc khổ nạn và chịu chết tức tưởi trên thập giá, Người đã cảm thông, thấu hiểu được tất cả nỗi khổ đau của nhân loại, nỗi cùng cực của người công chính, đạo đức, nhân ái, tử tế. Người chẳng còn lạ gì thói giả hình, thói điêu ngoa, ngậm máu phun người, thói kiêu căng, hãnh tiến, háo danh, hống hách, thói tráo trở, háo lợi, bất nghĩa, bất tín, bất trung, vì chính Người từng là nạn nhân. Nên Người luôn mời gọi những tâm hồn gian khổ, đày đoạ, hãy đến với người an ủi, che chở và cứu rỗi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gồng gánh nặng nề. Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các con sẽ được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.”(Mt 11, 28-30)
Hơn nữa, Chủ Chăn Nhân Lành còn quan tâm, chăm sóc, còn hiểu thấu đáo đến từng con chiên. Dù lạc mất một con chiên, Người cũng đành bỏ lại chín mươi chín con ngoài đồng hoang, mà ráo riết, vội vã, đi tìm về cho bằng được. Tìm được rồi, Chủ Chăn hoan hỷ, mừng rỡ mời láng giềng đến chung vui.“Cũng vậy, trên trời sẽ có vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải ăn năn!”(Lc 15, 5-7)
Chủ Chăn bảo vệ và ban sự sống
“Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” Chủ Chăn còn là cửa chính, nẻo ngay, đường duy nhất dẫn đến ơn cứu độ. Con chiên vâng lời, nghe theo sẽ no thoả trong đồng cỏ xanh tươi. Người luôn chăm sóc, bảo vệ khỏi mãnh thú hung ác, bạo tàn, vì “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.” Người đã thực hiện đúng như lời đã hứa: Chịu khổ nạn và chịu chết để chuộc tội nhân loại, cho con người khỏi bị án phạt, mà được sống viên mãn.
“Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy.” Những người chăn thuê, mạo danh chủ chiên, hay sói đội lốt chiên, lòng dạ ác độc, chẳng khác kẻ trộm cướp, chỉ vì lợi danh, đến lạm dụng, xén lông, làm thịt, chia rẽ, nghi kỵ, phân hoá, làm tan tác cả đàn chiên. “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên.”
“Lãnh đạo phải trở nên mọi sự cho mọi người, trong bất cứ trường hợp nào, chấp nhận mọi thứ công việc, nhọc mệt, chống đối và khi cần phải hy sinh cả mạng sống con để mưu ích cho đoàn thể, nhưng đừng bao giờ làm giảm sút sự lo lắng cho chính linh hồn con.” (Đường Hy Vọng, số 881)
Lạy Chúa Giêsu, Vị Chủ Chăn Nhân Lành, xin luôn mãi gọi tên chúng con, luôn thức tỉnh chúng con khỏi sa chước cám dỗ hoang đàng, khỏi những phù phiếm lợi danh thế gian, khỏi thói vị kỷ, chiều chuộng, dễ dãi, o bế thân xác yếu đuối. Xin dẫn dắt, giúp đỡ, khích lệ chúng con dấn thân, vác thập giá hằng ngày, kiên trung theo Chúa trên đường hy vọng đầy chông gai thách thức.
Xin Mẹ Maria rất thánh thương ban cho chúng con những vị Chủ Chăn Nhân Lành, đến yêu thương dạy dỗ, hướng dẫn, chăm sóc, che chở chúng con được bình an và được sống viên mãn. Amen.
.
Hồng y Tổng giám mục Dolan của giáo phận New York đã kể lại một câu chuyện sau đây. Khi ngài còn là một chủng sinh học ở Rô-ma đã gặp Giám mục Sheen, một người rất nổi danh về giảng dạy qua phương tiện truyền hình và ra-di-ô vào những thập niên từ 1930 đến 50, vừa đi ra cửa sau buổi tiếp kiến với Đức thánh cha Phao-lô Đệ lục. Đám đông dân chúng bao quanh ngài và hỏi Đức thánh cha đã nói gì với ngài. Mặt ngài hơi bừng đỏ và trả lời Đức thánh cha nói với tôi: “Thưa Giám mục Sheen, ngài có một chỗ rất cao trên Thiên đàng.” Một người trong đám đông đã hỏi ngài trả lời với Đức thánh cha như thế nào. Ngài mỉm cười trả lời tôi nói với Đức thánh cha “Kính thưa Đức thánh cha, nếu Đức thánh cha không ngại thì xin Đức thánh cha tuyên bố câu nói này với tính cách “không thể sai lầm!” (Infallible statement)
Ông bà anh chị em thân mến. Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người Ki-tô chúng ta, đặc biệt là những người hiện diện trong Thánh lễ hôm nay, muốn có một “sự bảo đảm không sai lầm” có đời sống vĩnh cửu, được lên Thiên đàng. Nhưng nếu đó là một niềm tin vững chắc và là một ao ước chân thành, thì chúng ta có cố gắng hết sức mình để đạt được mục đích đó không? Chúng ta tìm đâu ra phương cách, đường lối hay chúng ta phải sống như thế nào để được thành công? Ít nhất ra, chúng ta có một sự bảo đảm vững chắc, là nếu chúng ta trung thành đi theo đường lối của Người Mục Tử Tốt Lành là Chúa Giê-su dẫn dắt và chỉ bảo, chúng ta sẽ không lo lắng về điều đó.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su nói cho chúng ta biết Người là Mục Tử của chúng ta, và chúng ta là đàn chiên của Người. Chúa nói: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta.” Trong một đoạn Tin mừng khác, Chúa Giêsu đã khẳng định với chúng ta “Ý của Thiên Chúa Cha là tất cả những ai thấy và tin vào Con Thiên Chúa, thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” Trong Tin mừng của thánh Gioan, khi dạy về Bánh Trường sinh, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Ta là bánh hằng sống, là bánh ban xuống bởi trời, ai ăn bánh này sẽ được sự sống đời đời.”
Ông bà anh chị em thân mến. Điều này nêu lên một câu hỏi hết sức quan trọng như tôi đã nêu ở trên là nếu cuộc sống đời đời và Thiên đàng là điều chúng ta tin và luôn cầu xin, cũng như đó là dự định của Thiên Chúa cho chúng ta, thì điều đó ảnh hưởng gì và như thế nào vào cuộc sống hiện tại của chúng ta hôm nay? Hay nói một cách khác, chúng ta phải sống như thế nào để được “bảo đảm không thể sai lầm” được phục sinh, có cuộc sống vĩnh cửu trên Thiên đàng? Câu hỏi này làm cho tôi liên tưởng đến lời thánh Phaolô nói trong thư Cô-lô-sê: “Chúng ta phải sống như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta sống, đó là sống như Người đã sống.” Để diễn tả một cách thực tế, Thánh Phaolô dạy chúng ta: “Anh chị em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh chị em, những điều xấu xa, tham lam và gian dối. Hãy từ bỏ giận dữ, độc ác, thóa mạ, ăn nói thô tục.” Và ngài khuyên chúng ta “Anh chị em hãy mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đấng tạo hóa, biết thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và tha thứ. Hãy có đức bác ái là mối dây nối kết tuyệt hảo.” Đây là những điều khuyên dạy và phải có những ảnh hưởng trong đời sống hiện tại của tất cả mọi người chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta phải cố gắng sống như Chúa Giêsu và phải trở nên đồng dạng với Người Mục Tử Tốt Lành để được phục sinh vinh hiển, để chiếm được đời sống vĩnh cửu mà Người đã hứa với chúng ta. Và đó cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong Tin mừng hôm nay “Chiên Ta thì nghe tiếng ta, Ta biết chúng, và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất.” Chúng ta phải có một sự liên hệ mật thiết với Chúa bằng đời sống cầu nguyện, bác ái yêu thương, quảng đại, bằng đời sống chứng nhân và Tin mừng của Người.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa nhật Chúa Chiên Lành luôn gợi lại cho tôi về một người đến gặp tôi mấy năm về trước. Người đó rất âu lo và buồn sầu về cuộc sống cá nhân và gia đình của mình. Bà đã thố lộ cho biết hình ảnh Người Mục Tử Tốt Lành của Chúa Giê-su là hình ảnh bà rất mến chuộng, và là nguồn an ủi của bà. Hình ảnh đó luôn giúp đỡ bà cảm thấy an toàn và an tâm mỗi khi bà nghĩ tới. Thật vậy, Chúa Giê-su yêu thương mỗi người chúng ta và khẳng định rằng mỗi người chúng ta rất đặc biệt và cao trọng đối với Người. Người Mục Tử Tốt Lành xác định cho chúng ta biết Người sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đàn chiên của mình, và Người đã sống lại để chia sẻ với chúng ta vinh quang phục sinh với Người. Đó cũng là hình ảnh cho chúng ta biết trong bài đọc 2 hôm nay, về “một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên. Và Con Chiên sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống.” Chúng ta cảm nghiệm được câu cuối cùng của bài đọc 2 cho chúng ta niềm hân hoan vui mừng “Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ.”
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa nhật Chúa Chiên Lành hôm nay cũng là Chúa nhật cầu nguyện cho Ơn Thiên Triệu. Chúng ta nhìn ngắm lại hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tốt Lành, để cảm tạ lòng yêu thương, hy sinh và nhân từ của Người. Đồng thời cầu nguyện cho Giáo hội luôn có nhiều bạn trẻ nhận ra tiếng gọi của Chúa, biết hy sinh trở thành linh mục và tu sĩ tốt lành như Chúa Giêsu, để chăn dắt đoàn chiên của Chúa nơi trần gian. Khi nói đến Ơn Thiên Triệu, người ta thường nghĩ ngay đến ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ nam nữ, đó là ý cầu nguyện trong tuần này. Nhưng hai chữ “thiên triệu” nói chung có nghĩa là Chúa kêu gọi. Vì vậy Chúa kêu gọi tất cả mọi người nhận biết, tin và yêu mến Chúa, trở nên những nhân chứng đích thực cho Chúa, bằng lời nói, hành động và cuộc sống. Chúa ban cho tất cả chúng ta nhiều ơn lành hồn xác để chúng ta luôn trung thành, và làm chứng cho tình yêu của Người, dẫn dắt người khác đến, tin và yêu mến Chúa.
.
Lm. Giuse Trực
Một gia đình, một cộng đoàn, một tập thể, một quốc gia… đều muốn có những người lãnh đạo có thể làm cho đời sống của gia đình, cộng đoàn, tập thể và quốc gia đó được tốt hơn. Tuy nhiên trên thực tế có những người lãnh đạo làm cho người khác thất vọng, hoặc nếu có tốt thì cũng vẫn còn nhiều hạn chế.
Đứng trước bối cảnh đó, lời Chúa hôm nay như ánh sáng được thắp lên giữa đêm tối, như làn gió mát xua tan cái oi nồng giữa trưa hè, như tiếng nói vang lên trong sự thinh lặng của sợ hãi: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27). Đức Giêsu khẳng định Ngài là “mục tử”, còn những người tin nhận và bước theo Ngài là “đoàn chiên”. Đây là hình ảnh rất quen thuộc trong văn hóa của người Do Thái. Công việc của người mục tử ở đây là: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28). Vị Mục Tử này sẽ dẫn chúng ta đến sự sống đời đời, sự sống không còn đau khổ và chết chóc. Đó là điều mà không có vị lãnh đạo nào trên thế gian này có thể đem đến cho con người chúng ta.
Những nét nổi bật trong cung cách lãnh đạo của Mục Tử Giêsu là luôn đi trước đoàn chiên để chỉ cho chúng thấy những nguy hiểm, để đánh dẹp kẻ thù; là sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đoàn chiên; là không muốn một con chiên nào phải hư mất và sẵn sàng bỏ 99 con chiên lại trên núi để đi tìm con chiên lạc… Nghĩa là bằng tất cả tình yêu thương Ngài quan tâm đến từng con chiên một và Ngài chăm sóc nó trong chính hoàn cảnh của nó…
I. THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT
Câu đầu tiên trong Tông Sắc Misericordiae Vultus của Đức Thánh Cha Phanxicô là: “Đức Giêsu Kitô là hình ảnh Lòng Thương xót của Thiên Chúa Cha”. Như vậy sự yêu thương, chăm sóc cho đoàn chiên của Đức Giêsu chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại chúng ta. Vì vậy Ngài là vị Mục Tử của Lòng Thương Xót. Lòng Thương Xót đó sẽ đưa đoàn chiên đến đồng cỏ xanh và suối nước trong chính là hình ảnh của hạnh phúc vô biên.
II. ĐỂ SỐNG TRONG ĐOÀN CHIÊN
Về phần đoàn chiên, để có thể đến được đồng cỏ xanh tươi, suối nước trong lành, đến sự sống không bao giờ hư mất… thì họ phải “nghe… biết … và đi theo” mục tử Giêsu.
Đức Giêsu nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”. Có một câu chuyện kể rằng:
“Nhận được tin báo vị Thống soái sẽ ghé thăm đơn vị, người chỉ huy đội vệ binh tức tốc triệu tập thuộc cấp chuẩn bị nghênh đón. Một trong những việc chuẩn bị là mở đường. Thật không may cho đội vệ binh, khi xe của Thống soái gần tới, bỗng dưng một đàn cừu độ khoảng vài trăm con đổ xô lên đường. Con đường độc đạo giờ đây bị đàn cừu chiếm lĩnh. Người chỉ huy ra lệnh cho thuộc cấp:Bằng mọi giá anh em hãy lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường.
Đội vệ binh dùng đủ mọi cách, kể cả việc dùng súng bắn chỉ thiên để lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường, nhưng vô vọng!
Xe của Thống soái ngày càng tiến gần, người chỉ huy đội vệ binh càng hối thúc thuộc cấp của mình, nhưng dường như đàn cừu không màng chi tới những lo lắng của người chỉ huy và đội vệ binh, chúng vẫn nhởn nhơ vui đùa! Xe của Thống soái dừng lại trước đàn cừu. Người đội trưởng đội vệ binh lúng túng chưa biết xử sự ra sao.
Bỗng từ xa tiếng sáo du dương trầm bổng cất lên. Không cần đuổi, chẳng nhọc công, đàn cừu hướng tầm nhìn và ùa chạy về phía tiếng sáo. Hân hoan và vui mừng, chúng quây quần bên người mục đồng nhỏ bé đang đứng trên gò đất cao.
Đội trưởng đội vệ binh và thuộc cấp thở phào nhẹ nhõm, họ ngỡ ngàng, thán phục người mục đồng. Vị Thống soái mỉm cười và đoàn xe của ông ta từ từ tiến”.
Đàn cừu chỉ nghe tiếng của chủ nó chứ không nghe theo tiếng lạ.
Đức Giêsu là vị mục tử biết từng con chiên một. Con nào mập, ốm; con nào khỏe mạnh, bệnh tật; con nào lành lặn, ghẻ chốc… để Ngài chăm sóc chúng theo từng hoàn cảnh của chúng, chứ không phải theo tính bầy đàn.
Ngược lại những con chiên cũng phải biết ai là chủ đích thực của mình. Nếu nó không biết thì nó sẽ bị các mục tử giả xông vào để dụ dỗ và bắt đi làm thịt. Chỉ có vị Mục Tử duy nhất yêu thương đàn chiên bằng một tình yêu chân chính và vô vị lợi. Đó là Mục Tử Giêsu.
Để được ăn uống no nê và an toàn, thì con chiên ngoài việc nghe, biết, còn phải theo người mục tử. Nếu nó không theo thì chắc chắn nó phải đói hoặc ăn uống những thứ dơ dáy, bẩn thỉu; nó sẽ gặp nguy hiểm và sẽ phải chết vì thú dữ luôn rình mò.
III. ĐỂ HƯỞNG LÒNG THƯƠNG XÓT
Từ hình ảnh Mục tử yêu thương, chăm sóc cho đoàn chiên, chúng ta thấy được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa muốn đưa con người đến sự hiệp thông trọn vẹn với Ngài. Muốn như vậy, họ cũng phải giống như đoàn chiên:
Là môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta phải nghe lời Ngài. Tiếng của Chúa không rõ ràng như giọng nói của một con người. Hơn thế nữa, trong xã hội hôm nay nhiều thứ tiếng đang réo gọi khiến chúng ta không thể phân biệt được đâu là tiếng Chúa, đâu là tiếng của “thú dữ”. Vì vậy chúng ta phải tập để nhạy bén với tiếng gọi của Chúa.
Một trong những việc để nhạy bén với tiếng Chúa là tiếp cận nhiều với Lời Chúa. Giáo phận Cần Thơ đã và đang có những lớp Thánh Kinh để mọi người có thể cùng nhau đọc, tìm hiểu Lời Chúa. Những câu lộc xuân được treo trang trọng trong gia đình, mỗi ngày hãy nhìn lên và đọc nó ít là một lần, cũng là dịp để tiếp cận với Lời Chúa.
Một kinh nghiệm khác để nhạy bén với tiếng Chúa là tiếng Chúa thường đòi hỏi chúng ta một sự hy sinh từ bỏ, còn tiếng của “thú dữ” thường là những lời mời gọi để hưởng thụ. Vì vậy tự nhiên có một số tiền quá lớn hoặc quá dễ dàng, thì chúng ta phải cảnh tỉnh đó là lời mời gọi của “thú dữ”. Đi ngang một người ăn xin, muốn cho họ chút gì đó, nhưng thấy tiếc quá, thì đó là lời mời gọi của Chúa. Hãy cho ngay lập tức!…
Cái “biết” trong đời sống đức tin không phải là cảm xúc của giác quan, nhưng là đi vào mối hiệp thông sâu xa với Chúa. Cái “biết” quan trọng nhất của Kitô hữu là biết rằng không ai yêu chúng ta bằng Thiên Chúa, không ai lo lắng cho chúng ta bằng Ngài, không ai có thể đưa chúng ta đến hạnh phúc đích thực ngoài một mình Ngài. Từ đó đi vào trong ước muốn của Ngài và thực hành những ước muốn đó.
Để có thể “biết” Chúa một cách sâu xa như vậy, chúng ta phải tập gần gũi Ngài. Dĩ nhiên Chúa luôn ở bên ta, nhưng vấn đề là ta ít nhận ra. Vì vậy phải có những giây phút dành riêng cho Ngài. Đó là những giờ cầu nguyện sớm tối, những lúc buồn chán, cô đơn, thất vọng… Hãy nói cho Chúa biết mọi cảnh huống cuộc đời chúng ta.
Đặc biệt hơn trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, Giáo hội cho chúng ta có nhiều dịp để gần gũi với Chúa qua những giờ đọc kinh Lòng Thương Xót, những giờ Chầu Thành Thể, những buổi cử hành sám hối và thánh lễ Kính Lòng Thương Xót… Tất cả đều là cơ hội để chúng ta gần gũi với Chúa để tăng thêm tình yêu thương và nhận biết Thiên Chúa.
Theo Chúa nghĩa là Chúa đi đâu, ta đi đó; Chúa làm gì, ta làm nấy; Chúa sống làm sao, ta sống làm vậy… Theo Chúa là tập mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn.
Khởi đầu của việc trở nên giống Chúa là biết chấp nhận thánh ý của Ngài. Ngài sẽ đưa ta đến những nơi Ngài muốn chứ không phải ta muốn; Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta làm những công việc của Ngài chứ không phải công việc của ta… Thế cho nên theo Chúa là không phàn nàn, trách trút bất cứ hoàn cảnh nào; không ngán ngại bất cứ một công việc và một trách nhiệm nào…
Đời sống đức tin của chúng ta là nghe, biết và bước theo Đức Giêsu như những con chiên biết nghe và bước theo mục tử của mình vì nó biết mục tử sẽ đưa nó đến đồng cỏ xanh và suối nước trong.
Khi Mục Tử cất tiếng gọi là Ngài đang bày tỏ lòng thương xót của Ngài. Khi con chiên nghe tiếng gọi đó và bước theo là lúc nó được hưởng lòng thương xót.
Xin ánh sáng của Đấng Phục Sinh giúp mỗi người chúng con vượt qua những tiếng gọi hưởng thụ của thế gian để nghe được tiếng gọi yêu thương của Thầy Giêsu. Xin cho chúng con biết mạnh dạn từ khước những quyến rũ của trần thế để có thể bước theo Thầy Giêsu trên con đường dấn thân phục vụ mọi người trong mọi hoàn cảnh.
Xin cầu nguyện đặc biệt cho các bạn trẻ biết đáp trả lại lời mời gọi của vị Mục tử nhân lành để bước theo Thầy Giêsu và trở nên giống Ngài trong đời sống dâng hiến trọn vẹn. Amen.
.
MỤC TỬ VÀ CHIÊN PHẢI NHƯ THẾ NÀO?
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Phúc âm Gio-an triển khai đề tài Mục Tử nhân lành trong bầu khí căng thẳng của cuộc tranh luận giữa Đức Giê-su và những người lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, đặc biệt các người thuộc nhóm Pha-ri-sêu. Sau những khảng định về khác biệt căn bản giữa mục tử làm thuê và mục tử chân chính (Ga 10:1-18), Đức Giê-su long trọng công bố các yếu tố chính yếu trong tương quan giữa Người với các kẻ tin vào Người, giữa vị Mục Tử tốt lành với các chiên được trao cho Người chăn dắt. Chúng ta cùng suy niệm từng điểm một:
Về người Mục Tử:
– “Tôi biết chúng”. Rất ít ai đề cập sâu rộng tới cái ‘biết’ của Người Mục Tử nhân lành đối với chiên của mình. Người không chỉ biết số lượng (100 con), 99 con ở lại trong dàn và 01 con đi lạc. Người biết từng con chiên của mình trong tất cả tốt xấu, mạnh yếu, những thiện chí và ác ý, những nỗ lực và sa ngã… Người rành về chiên, có lẽ, còn hơn cả chính chiên biết về mình. Nhưng sự ‘biết’ này khác xa một giám thị soi mói, một cảnh sát rình rập, một quan tòa xét xử. Nó giống như cái biết của một bà mẹ âu yếm đối với đứa con dại khờ của mình, cái biết của người cha trước các thất bại của đứa trẻ ngây ngô. Đó chính là cái ‘biết’ của người Mục Tử nhân lành chăm sóc và tự hiến cho từng con chiên của mình.
– “Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi… Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Lời khảng định của Mục Tử thật tuyệt đối; nó có nghĩa là, ‘tôi sẽ dùng hết sức mình để giữ chiên lại, để bảo vệ chiên’. Và Người không làm điều này chỉ vì mình mà thôi, mà còn làm nhân danh Chúa Cha, với tất cả uy quyền của Cha. Người không dùng thừng chắc để cột chiên lại, không xây chuồng, gài then để canh phòng, không rào cao, dậu dày để ngăn chặn. Người dùng chính tình yêu thương tha thứ và nhân ái để bao bọc. Dây cột, rào dậu duy nhất của Người là hiến mình trên Thập Giá. Và đó cũng chính là uy quyền của Chúa Cha, vì “Tôi và Chúa Cha là một”.
– “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời… không bao giờ chúng phải diệt vong”. Công việc và kết quả hoàn toàn nằm trong tay Mục Tử. Người chủ động và quyết đoán tất cả. Người đảm bảo và tuyệt đối quyết tâm chu toàn như một ủy thác tối hậu từ Cha: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả…”
Về phía chiên:
– Hình như không đòi một điều kiện tương xứng nào, ngoại trừ “ Chiên nghe tiếng… chiên theo tôi”.
Người ta vẫn thường giải thích, ‘nghe và theo’ chính là chấp nhận và thi hành những điều Chúa và Hội Thánh dạy bảo. Nói như thế vì người ta hay hình dung Mục Tử như một nhà thuyết giảng luân lý, đạo đức, đứng trên bục dạy dỗ…, và chiên là những tín hữu ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe. Không, dứt khoát không phải vậy! Mục tử nhân lành không coi dạy dỗ là nhiệm vụ chính: Giê-su là (Ngôi) Lời trước hết trong chính bản thể của mình, trong đời sống và cái chết của mỉnh. Chiên chỉ thật sự nghe tiếng Người khi chiêm ngắm Người trên thập giá và sống lại! lúc đó chiên nghe thấy và nhận ra Lời tình yêu nhân ái của một Thiên Chúa cứu độ giầu lòng xót thương. Qua việc lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chiên quyết bước đi trong niềm tin vào Lời tình yêu giáng thế. Và cứ thế suốt đời tiến bước theo vị Mục Tử nhân hậu đã tự hiến trên Thập Giá. Rồi chỉ cần có thế, là chiên được bảo đảm sự sống đời đời và không bao giờ phải diệt vong; dẫu có tội lỗi và bất toàn tới đâu; nhưng nếu đã tin nghe Lời nhân lành và quyết tâm bước theo Mục Tử tự hiến nhân hậu, chiên sẽ được Người vác lên vai và đưa về ràn (thậm chí không cần bước đi). Phải chăng Ki-tô hữu trước nhất phải là những chiên như thế?
Cách nói này của Đức Giê-su quả đã gây sốc cho các Pha-ri-sêu, những đôi tai và con tim chỉ biết có mẫu mục tử do Mô-sê phác họa (rất ngay chính và cương trực của Cựu ước, nhưng chẳng có nét gì là từ nhân như diện mạo đấng Mê-si-a được các ngôn sứ loan báo sau này). Thế nhưng xem ra cách nói này vẫn còn tiếp tục gây sốc cho cả nhiều mục tử (linh mục) của Giáo Hội hôm nay, đặc biệt trong chính cái công việc mà các ngài vẫn thường gọi với cái tên rất cao đẹp ‘mục vụ’, là chăm sóc các linh hồn như người Mục Tử nhân lành.
Lạy Chúa Giê-su, Mục Tử duy nhất nhân lành của tự hiến Thập Giá và Phục Sinh, xin cho con – Alter Christus của Chúa – có được một chút nét nhân lành và tự hiến quá độc đáo của Mục Tử chí thánh. Xin cho con giảm bớt tính mô phạm trong đời mục vụ, và biết gia tăng nơi mình sự tự hiến và lòng xót thương, để các chiên có thể nhận ra nơi con đôi chút hình bóng của Mục Tử Giê-su nhân lành và tự hiến. A-men.
.
TRỞ NÊN MỤC TỬ CỦA LÒNG CHÚA THƯONG XÓT
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
(27) “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. (28) Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. (29) “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. (30) Tôi với Chúa Cha là một !”.
Tin mừng của Gioan hôm nay ghi lại những lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ. Người đã tự ví mình là Mục Tử nhân lành, được Chúa Cha sai đến để thay quyền Cha mà chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ đoàn chiên đã được trao cho Người. Người và Chúa Cha chỉ là Một”.
– C 27-28: + Con chiên và Mục Tử: Trong Thánh kinh, hình ảnh con chiên mang một ý nghĩa tốt đẹp: Đức Chúa đã trao đàn chiên Ítraen cho một số mục tử chăn dắt (Tv 100,3) như: Môsê, Aharon (x. Tv 77,21), Giôsuê (x. Ds 27,18-21), Đavít (x.Tv 78,70-72)… Đến thời Tân ước, Chúa Giêsu đã tự xưng mình là Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11) và duy nhất của Thiên Chúa (x.Ga 10,16). Người lại trao quyền mục tử ấy cho các Tông đồ, Giám mục, Linh mục… để các vị này thay Người tiếp tục chăn dắt dân Ítraen Mới là Hội thánh. + Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi: Vào mỗi buổi tối, các mục tử thường đưa chiên về một cái chuồng lớn để nhốt chung với các bầy chiên khác. Sáng đến, mục tử đứng ở cửa chuồng gọi chiên của mình ra. Chiên sẽ nhận ra tiếng của mục tử và đi theo ông ra đồng ăn cỏ. Các mục tử thực sự là chủ của đoàn chiên thì sẽ chăm sóc cho chiên của mình, biết rõ tính của mỗi con để săn sóc và bảo vệ chúng cách hữu hiệu.
Ba thái độ mà các tín hữu cần phải thực hành để trở thành chiên ngoan của Mục Tử Giêsu là Nghe, Biết và Theo Người như sau:
* NGHE: Lắng nghe là khởi đầu của đức tin như Chúa Cha đã nhắn nhủ các môn đệ của Đức Giêsu: “Các ngươi hãy vâng nghe Lời Người” (Mt 17,5) và thánh Phaolô đã khẳng định: “Đức tin là bởi nghe” (Rm 10,17).
* BIẾT: Biết ở đây không phải là biết về tri thức, nhưng là về đời sống. Biết điều gì tức là có kinh nghiệm cụ thể về điều ấy. Biết một người nào là có liên hệ thân tình với người đó, như liên hệ giữa hai vợ chồng (x. Lc 1,34). Cũng vậy, Đức Giêsu biết rõ từng con chiên của Người.
* THEO: Chiên của Đức Giêsu có nhiệm vụ phải đáp trả lời mời gọi của Người bằng việc dứt khóat đi theo, quyết tâm vâng nghe lời dạy và sống theo gương lành của Người.
+ Tôi ban cho chúng sự sống đời đời: Đức Giêsu dẫn các tín hữu đi từ việc được nuôi sống (x. Ga 10,9) đến chỗ được sống dồi dào (x. Ga 10,10) và sống muôn đời (x. Ga 10,28). + Không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi: Là mục tử có trách nhiệm và đầy quyền năng, không bao giờ Đức Giêsu để chiên của Người bị giết hại hay bị cướp đoạt. Chỉ có chiên tự bỏ đàn để đi hoang. Còn Chúa thì không bao giờ bỏ mặc họ. Người là Mục Tử tốt lành, sẵn sàng đi tìm các chiên lạc để đưa về đoàn tụ trong một đoàn chiên duy nhất (x. Lc 15,4-7).
– C 29-30: + Tôi với Chúa Cha là một !: Lời tuyên bố này nói đến sự hiệp thông thân mật giữa Chúa Cha và Chúa con. Công đồng Nixêa năm 325 đã dựa trên lời này để tuyên tín: “Chúa Cha và Chúa con đồng một Bản tính Thiên Chúa, nhưng là hai Ngôi vị khác nhau”, để chống lại lạc thuyết Ariô (thế kỷ thứ IV) không công nhận Thần tính của Chúa Giêsu. Chính nhờ mang Bản tính Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho các tín hữu được sự sống đời đời. Người cũng nhiều lần tự xưng: “Ta là” giống như Đức Chúa khi xưa. Sau cùng Người đã bị tử hình thập giá và ngày thứ ba đã từ cõi chết sống lại để phục hồi sự sống cho lòai người chúng ta.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1) MỤC TỬ TỐT LÀNH SẴN SÀNG THÍ MẠNG SỐNG VÌ ĐOÀN CHIÊN:
Vào cuối thế chiến thứ II, xảy ra vụ năm người lính Đức bị phục kích và bị sát hại gần thành phố Chani, miền bắc nước Ý năm 1943. Thế là viên tướng chỉ huy Đức Quốc Xã liền bắt 50 người có địa vị nhất của thành phố mang ra xử bắn để răn đe.
Hai đức giám mục chánh và phó của thành phố cố gắng can thiệp nhưng không có hiệu quả. Tất cả 50 người đều bị trói, bị bịt mắt và xếp thành hàng dài. Rồi sau thời gian chờ đợi căng thẳng, viên sĩ quan ra lệnh cho quân lính chuẩn bị nhắm bắn. Bấy giờ hai vị giám mục đã yêu cầu viên chỉ huy cho phép ôm hôn từ biệt từng người và được chấp thuận. Các ngài đã lợi dụng giây phút quý báu để ban phép giải tội cho họ. Sau đó hai vị giám mục đã không về chỗ mà lại tình nguyện đứng vào hàng ngũ những người bị xử bắn. Đức giám mục chính tòa đã nói với viên chỉ huy: “Không phải 50 người, nhưng là 52 người trong đó có chúng tôi. Ông vẫn quyết định bắn chúng tôi, thì hãy ra lệnh. Xin Thiên Chúa tha thứ cho ông.”
Khi ngài vừa dứt lời, thì bầu khí đang nặng nề sự chết chóc đột nhiên biến mất và thay vào bằng những tiếng reo hò vang dậy, vì quân lính Đức đang nhắm bắn tử tội đã được viên sĩ quan ra lệnh hạ vũ khí. Hôm đó trên đường từ pháp trường về, cả hai vị mục tử cũng như đoàn chiên đều sung sướng dâng Chúa lời Thánh vịnh: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126,1-2).
2) “GIAI ĐIỆU HẠNH PHÚC”:
Trong một cuốn phim tựa đề là “Giai điệu hạnh phúc” (La mélodie du bonheur), cô Meri là một người đang đi tìm hiểu ơn gọi tại một tu viện nữ. Một hôm bà bề trên sai cô đi làm gia sư trong một gia đình quí tộc. Ông đại uý chủ nhà là người giàu có, góa vợ và luôn tỏ ra nghiêm khắc trong cách giáo dục con cái. Ông muốn chúng có tinh thần kỷ luật giống như người lính trong quân đội. Khi mới đến nhận việc, cô Meri đã bị bọn trẻ cố tình trêu chọc. Nhưng nhờ tình thương của một thầy giáo, kèm theo sự hiểu biết tâm lý và cách ứng xử mềm dẻo nhưng cương quyết, cùng những bài hát vui tươi và vũ điệu lôi cuốn của cô…
Cuối cùng cô đã chinh phục được tình cảm của lũ trẻ, biến chúng trở nên những trẻ em ngoan ngoãn dễ dạy. Chúng luôn vâng lời cô giáo, không cần cô phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc theo kiểu người cha của chúng. Cuối cùng cô còn chinh phục được tình cảm của chính ông đại uý chủ nhà. Câu chuyện kết thúc bằng việc cả gia đình ông đại úy đã khôn ngoan thoát khỏi sự ruồng bắt của chính quyền phát xít Đức lúc đó. Họ cùng nhau vượt qua biên giới an toàn để bước vào một cuộc sống mới đầy yêu thương và hạnh phúc.
3) MỘT BÀ MẸ SẴN SÀNG HY SINH CHẾT CHO CON ĐƯỢC SỐNG:
Trong thiệp báo tin Maria Cristina qua đời không mang màu đen tang chế nhưng được viền một màu xanh hy vọng. Chính giữa thiệp nổi lên hình một bông hoa hồng, có đọng những giọt sương mai óng ánh. Giữa bông hoa là ảnh chân dung của Cristina đang tươi cười duyên dáng trong chiếc áo cưới rất đẹp. Bên dưới bức ảnh là lời nguyện rút ra từ nhật ký của Cristina: “Lạy Cha, xin dâng Cha niềm vui của con như ca khúc chúc tụng Cha, trái tim con như căn nhà tiếp đón Cha và cuộc đời con để Cha thực hiện điều Cha muốn.”
Cuộc đời của Cristina đã kết thúc vào năm 26 tuổi. Bệnh ung bướu ác tính tại tử cung đã mắc vào năm 18 tuổi, tưởng đã được chữa lành, giờ lại xuất hiện. Nàng đã có hai con một trai một gái. Cristina đang chờ sinh con thứ ba. Khi nghe bác sĩ thông báo hung tin: “Cristina, tôi rất tiếc phải cho bà biết chứng ung thư ác tính đã tái xuất hiện”. Sau khi im lặng một giây, Cristina đã nhìn thẳng vào mắt vị bác sĩ và nói: “Tôi đang mang thai, bác sĩ ạ!”. Viên bác sĩ đã hiểu và không dám đề ra lối trị liệu hóa chất sẽ giết chết bào thai! Mà chỉ kê toa thuốc dưỡng thai.
Sau đó đến tháng 8 năm 1994 thì Maria Cristina đã sinh hạ bé Riccardo. Ngay sau khi sinh, chị mới bắt đầu dùng phương pháp trị liệu bằng hóa chất, nhưng đã quá trễ, bướu ung thư đã ăn sâu vào các cơ quan nội tạng. Người mẹ trẻ đã êm ái trút hơi thở cuối cùng vào ngày 22-10-1995, để lại 3 con thơ dại. Cái chết anh dũng của Cristina để bảo vệ thai nhi đã cho thấy một tình thương vô bờ của một bà mẹ trẻ đối với đứa con thân yêu của mình. Chị đã thực hành lời Chúa: “Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên”.
4) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG CỦA MỤC TỬ GIÊSU:
Một ngày kia, Chúa Giêsu đã hiện ra cho thánh Hiêrônimô và hỏi: “Này Hiêrônimô, hôm nay con có gì để dâng cho Thầy không?”
Hiêrônimô đáp: “Con dâng cho Chúa tất cả những bộ sách con đã viết và nhất là bộ Kinh Thánh con mới dịch xong.”
Chúa Giêsu mỉm cười chấp nhận nhưng vẫn chưa thỏa mãn, Người hỏi tiếp: “Con còn có gì khác để dâng cho Ta nữa không?”
Hiêrônimô không chút do dự trả lời: “Con xin dâng cho Chúa tất cả những hy sinh, khổ cực con gặp thường ngày từ trước cho tới bây giờ. Con dâng cho Chúa trọn cả cuộc đời tu trì của con đây.”
Chúa Giêsu chấp nhận nhưng vẫn chưa hoàn toàn mãn nguyện, Người lại hỏi lần thứ ba: “Con cố nghĩ xem còn có gì thêm để dâng cho Ta nữa không?”
Lần này, Hiêrônimô suy nghĩ và đã thưa cùng Chúa: “Con nghĩ con đã dâng cho Chúa tất cả mọi sự của con rồi, Không còn gì khác xứng đáng để dâng cho Chúa.”
Bấy giờ Chúa Giêsu đã âu yếm nhìn Hiêrônimô và nhỏ nhẹ phán: “Hiêrônimô, tại sao con không dâng cho Ta những tội lỗi cùng những thói hư của con? Con giữ chúng lại làm gì? Ta đã xuống thế, chịu chết trên cây thập tự chính là để đền mọi tội lỗi của con đó”.
Bấy giờ Hiêrônimô đã thành kính dâng lên Chúa tất cả, kể cả mọi tội lỗi của mình.
1) Hãy cho biết Chúa Giêsu trong Tin Mừng đã tự xưng là mục tử tốt lành , phân biệt với các đầu mục dân Do thái là các kinh sư, Biệt phái và Tư tế đền thờ như thế nào? 2) Mỗi người chúng ta có thể làm gì để tích cực cộng tác với các vị chủ chăn trong giáo xứ trong việc phục vụ cộng đoàn? 3) Mỗi người chúng ta cần làm gì để thêm nhiều bạn trẻ tình nguyện hiến thân phụng sự Chúa trong các chủng viện hay dòng tu nam nữ?
Trong Cựu Ước, hình ảnh Mục Tử Nhân Lành đã được các ngôn sứ dùng để ám chỉ Đức Chúa như sau: “Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính, vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23,1-4). Hình ảnh người mục tử cũng được dùng để ám chỉ các vị lãnh đạo thời bấy giờ. Nhưng thật đáng buồn khi các vua chúa đã không sống đúng vai trò mục tử của mình như ngôn sứ Êdêkien đã tuyên sấm Lời Đức Chúa quở trách họ: “Khốn cho các mục tử Ítraen, những kẻ chỉ biết lo cho mình! … Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng chạy tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất… thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,2-6).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu cũng khẳng định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Kẻ làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh ta, nên khi thấy sói đến, anh ta liền bỏ chiên mà chạy trốn. Sói vồ lấy chiên và làm cho đoàn chiên tan tác, vì anh ta chỉ là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến đoàn chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi. Như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.” (Ga 10,11-16).
1) Mục tử là ai và được phân thành mấy loại?:
Mục tử là người lãnh đạo và chăn dắt đoàn chiên. Đức Giêsu phân biệt ra hai loại mục tử: Một là mục tử đích thực hay là chủ chiên nhân lành, và hai là mục tử giả hiệu hay là kẻ chăn thuê như sau:
– Mục tử nhân lành: Đức Giêsu đã nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Đức Giêsu đã thể hiện sứ vụ mục tử của loài người: Trong thời gian giảng đạo, Người đã đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, dạy cho người ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu và đòi chúng ta phải biết đáp lại tình yêu của Thiên Chúa bằng việc yêu thương tha nhân bên cạnh, nhất là yêu thương những người nghèo hèn bệnh tật và bị bỏ rơi (x Mt 13,1-9). Người đến để cho «chiên được sống và sống dồi dào» (10,10). Đây cũng là sứ vụ mà các mục tử hôm nay cần quan tâm thực hiện, là lo cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào qua việc chuyên tâm dạy giáo lý và rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Dồi dào qua việc tích cực góp phần chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền của dân (x. Mt 8,16-17), xua trừ ma quỷ (x. Mt 9,32-34), chia sẻ cơm bánh (x. Mt 14,15-21), phục sinh kẻ chết (x. Ga 11,43-44).
– Mục tử giả hiệu: hay người chăn thuê, ám chỉ các đầu mục dân Do Thái đương thời gồm các kinh sư, người Pharisêu và các tư tế phục vụ Đền thờ. Những người này không phải là chủ chiên thực sự nên «không thiết gì đến chiên» (10,13). Họ tỏ ra vô trách nhiệm trước sự an nguy của đoàn chiên: «khi thấy sói đến, họ bỏ chiên mà chạy», để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với hạng mục tử này, đoàn chiên chỉ có giá trị lợi dụng để phục vụ cho họ như ngôn sứ Êdêkien đã tuyên sấm lời Đức Chúa trách các mục tử Ítraen như sau: «Khốn cho các mục tử Ítraen, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đoàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).
2) Hai loại mục tử trong Hội Thánh hôm nay:
Ngày nay trong Hội thánh cũng luôn có hai loại mục tử như thời Đức Giêsu:
– Các mục tử tốt lành: Hầu hết các mục tử trong Hội Thánh hôm nay đều là những người thành tâm đáp lại ơn Chúa kêu gọi để gia nhập chủng viện, được huấn luyện, được giám mục tuyển chọn đặt tay trao tác vụ linh mục và được sai đi chăm sóc đoàn chiên. Đặc điểm của mục tử tốt lành này là nhiệt tình yêu mến Chúa và khiêm tốn phục vụ đàn chiên vô vụ lợi noi gương Đức Giêsu. Họ luôn vui vẻ đón tiếp mọi người không phân biệt giàu nghèo sang hèn khi làm việc mục vụ, như dạy giáo lý và rao giảng Lời Chúa, thăm viếng an ủi những người bệnh tật đau khổ, chia sẻ cơm bánh và khiêm tốn phục vụ người nghèo với tình thương noi gương mục tử Giêsu.
– Bên cạnh những mục tử tốt lành nói trên, vẫn còn một số ít mục tử chưa tốt được Đức Giêsu ví như kẻ chăn thuê. Những người này coi việc mục vụ như một nghề kiếm sống. Họ cũng rao giảng Tin mừng, cũng dạy giáo lý, cũng khuyên bảo mọi người… nhưng chính họ lại không thực hành, nghĩa là “họ nói mà không làm” như lời Đức Giêsu trách các đầu mục dân Do thái: «Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng làm theo, vì họ nói mà không làm» (Mt 23,3). Hạng mục tử chăn thuê này thường biểu lộ qua các hành vi như: Chỉ kính nể săn đón người giàu và khinh thường bạc đãi người nghèo, có lối sống xa hoa ích kỷ hưởng thụ như: ở nhà sang trọng, mặc quần áo thời trang, chọn đi loại xe đời mới đắt tiền… mà không quan tâm đến những nhu cầu của người nghèo và các bệnh nhân đang cần được trợ giúp. Họ có thái độ kiêu căng tự ái cao thể hiện qua việc tìm cách trả thù những ai dám phê phán các việc làm sai trái của họ. Họ quá quan tâm đến những công việc đời thường hơn là những việc thuộc chức năng mục tử của mình, và làm mọi việc chỉ vì lý do lợi nhuận…
3) Mục tử hôm nay cần phải năng tự kiểm về lòng thương xót:
Hiện nay có hiện tượng ngày càng có nhiều tín hữu chủ trương “Tin Chúa chứ không tin Giáo Hội”. Thực tế tại các nước Nam Mỹ, một số không ít tín hữu đã rời bỏ Hội Thánh công giáo để gia nhập các giáo phái lạc đạo nhưng các người đứng đầu của họ lại có lối ứng xử có tình người hơn và có nếp sống khó nghèo phù hợp với lời Chúa hơn. Ngày lễ Chúa Chiên nhân lành hằng năm chính là dịp để các tín hữu chúng ta, nhất là các người đang có trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên kiểm điểm đời sống, năng xét mình về cung cách phục vụ như sau:
Có thể chúng ta đã “nói mà không làm” như các kinh sư và người Pharisêu giả hình xưa đã bị Đức Giêsu phê phán: “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,2-4).
Có thể một số mục tử trong chúng ta đã lối hành xử thiếu lòng thương xót khi giải quyết giấy tờ hôn phối theo ý riêng mà không theo Giáo Hội, đã bày đặt thêm những điều kiện không có trong giáo luật, gây trở ngại không ít cho công việc làm ăn của các tín hữu, gây bức súc cho các di dân từ các nơi xa đến.
Một số các mục tử trong chúng ta đã có lối hành xử “vụ lề luật”, thiếu lòng thương xót, hoặc ứng xử thiếu nhân bản thân thiện khi tiếp xúc với anh em lương dân, gây cho họ sự bất mãn và tạo thành kiến bất lợi cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh. Chính lối hành xử thiếu lòng thương xót này là nguyên nhân khiến nhiều bạn trẻ phải kết hôn không phép đạo, hoặc khiến một số người lương mới theo đạo có ác cảm và đã bỏ lễ nhà thờ sau khi kết hôn…
4) Thế nào là một mục tử lý tưởng theo Đức Thánh Cha Phanxicô ?:
Đức Thánh Cha Phanxicô quan niệm mục tử lý tưởng phải là “người gần gũi với dân chúng, là người cha, người anh em, với sự hiền dịu, kiên nhẫn và thương xót.Là những người yêu sự khó nghèo, sự khó nghèo nội tâm trước mặt Chúa, cũng như khó nghèo bên ngoài như sự đơn sơ và khắc khổ trong cuộc sống. Là những người không có “tâm lý của các ông hoàng”. Là những người không tham vọng và là các phu quân của Giáo Hội. Là những người có khả năng thức tỉnh đoàn chiênđược giao phó, và quan tâm duy trì sự hiệp nhất, canh giữ đoàn chiên, chú ý tới các hiểm nguy có thể đe dọa đoàn chiên. Nhất là, làm cho niềm hy vọng được lớn lên. Ước gì các Mục Tử luôn có mặt trời và ánh sáng trong trái tim. Là những người có khả năng hỗ trợ Thiên Chúa nơi dân Người, với tình yêu thương và lòng kiên nhẫn.
Cuối cùng vị mục tử có ba vị trí trong đoàn chiên khi thi hành sứ vụ chăn dắt đoàn chiên như sau:
-Một là ở đàng trước để dẫn đường.
-Hai là ở giữa để duy trì sự hiệp nhất và động viên tinh thần của đoàn chiên.
-Ba là ở đàng sau để tránh cho chiên khỏi đi tụt hậu, và tạo điều kiện để đoàn chiên đánh hơi hầu tìm ra một hướng đi mới cho đoàn.
Trong kinh Năm Thánh “Lòng Chúa thương xót” có đoạn cầu cho các thừa tác viên là các mục tử trong Hội Thánh như sau: “Xin cho Hội Thánh được nên gương mặt hữu hình của Chúa nơi trần gian, gương mặt của Chúa sống lại hiển vinh. Chúa đã muốn các thừa tác viên của Chúa cũng phải khoác lên người sự yếu đuối để biết đồng cảm với những người đang sống trong u mê và lầm lạc: xin cho mọi người đến với các thừa tác viên đều thấy mình được Thiên Chúa tìm kiếm, yêu thương và tha thứ.”
5) Ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu:
Hiện nay trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ đang thiếu ơn gọi linh mục tu sĩ cách trầm trọng. Nhiều nhà thờ không có linh mục coi sóc, nhiều tu viện to lớn bị bỏ hoang vì không còn tu sĩ trẻ. Nguyên nhân của tình trạng này rất nhiều. Nhưng có lẽ nguyên nhân chính là do lỗi của mỗi tín hữu chúng ta: Vì chưa ý thức được tầm quan trọng của sứ vụ truyền giáo nên chúng ta chưa thiết tha nài xin Thiên Chúa sai thêm thợ gặt đến, chưa canh tân đời sống để làm chứng nhân tình thương của Chúa Giêsu trước mặt người đời; Các bậc cha mẹ công giáo chưa quảng đại dâng con cho Chúa và không khuyến khích chúng đi tu làm linh mục và làm tu sĩ để phục vụ Chúa và Hội Thánh cách hữu hiệu hơn.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong sứ điệp về ơn gọi năm 1996 cũng nhắc đến vai trò của giáo xứ trong việc vun trồng ơn thiên triệu như sau: “Phải làm sao để mỗi giáo xứ trở thành một cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa, cộng đoàn cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ và luôn quan tâm phục vụ những người nghèo khổ. Giới trẻ hôm nay vẫn không thiếu những tâm hồn quảng đại, không thiếu những người trẻ muốn sống cuộc đời lý tưởng và có ý nghĩa. Họ cần được hướng dẫn để gặp được Đức Giêsu, để nghe lời Người và đi theo làm môn đệ của Người, sẵn sàng chia sẻ sứ mạng cứu độ của Người”.
– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin ban cho chúng con những linh mục biết quảng đại, hy sinh phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng để sẵn sàng đón nhận hết mọi người, nhất là những người đau khổ và bị bỏ rơi. Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được chính Chúa qua các ngài. Xin ban cho chúng con những linh mục biết nhiệt tình rao giảng Lời Chúa, có sức làm bùng cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm đức tin để nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong mọi người. Cuối cùng xin Chúa ban cho chúng con những linh mục là những vị chủ chăn tốt lành, giàu lòng từ bi thương xót noi gương Chúa xưa, Đấng đến để cho chiên “được sống và sống dồi dào”.
– LẠY CHÚA. Xin cho các gia đình Công giáo trở thành một môi trường tốt ươm trồng ơn thiên triệu, bằng việc tạo bầu khí đạo đức và yêu thương giữa các thành viên với nhau. Xin cho chúng con luôn kính trọng yêu mến các linh mục coi sóc chúng con, thành tâm cộng tác với các ngài, sẵn sàng giúp đỡ các ngài chu toàn nhiệm vụ. Ước gì giáo xứ chúng con trở thành một cộng đoàn luôn hiệp thông giữa chủ chăn và đàn chiên, là điều kiện để giáo xứ phát triển cả về vật chất cũng như tinh thần. Nhờ đó chúng con sẽ chu toàn được sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
KIM CHỈ NAM CỦA MỤC TỬ VÀ CHIÊN
Dã Quỳ
Chúa Giêsu đã khẳng định Người là Mục Tử và tất cả chúng ta, những người theo Chúa là đoàn chiên của Chúa. Đây không chỉ như một hình ảnh mà là một thực tại mà chúng ta cần sống và tôn kính. Chúa Giêsu Kitô mãi mãi là mục tử chăn dắt chúng ta. Người hiện diện cách thiết thực trong thế giới và cụ thể ở trong Giáo hội. Cũng có thể nói Giáo hội là sự hiện diện của Chúa Kitô mục tử, bởi vì Giáo hội là thân thể của Chúa. Chính vì thế, ở trong Giáo hội và qua Giáo hội mà Chúa Kitô mục tử trở nên hiện diện sống động. Với bài Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta nghe, những động từ mà Chúa nhấn mạnh ” Nghe, Biết, Theo” sẽ là kim chỉ nam của mục tử và chiên mà chính Chúa Giêsu đã thực hiện và Người muốn nhắn nhủ với chúng ta hôm nay.
– Nghe: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta.” Chúa Giêsu là Lời đã trở nên người phàm. Người là Lời của Thiên Chúa, Lời Hằng Sống đem lại bình an và hạnh phúc cho con người. Chúa luôn mời gọi chúng ta lắng nghe tiếng của Người được bày tỏ trong Tin Mừng, qua những giáo huấn của Giáo hội, nơi tâm hồn chúng ta và trong những biến cố của cuộc đời ta. Cách cụ thể ta được nghe Lời Chúa trong mỗi Thánh Lễ, nghe tiếng Chúa nói với ta trong kinh nguyện và trong cầu nguyện riêng. Chúa Giêsu, mục tử tốt lành luôn lên đường tìm kiếm chiên. Tiếng của Người hướng dẫn chúng ta và Lời của Người nuôi dưỡng chúng ta. Chúng ta không thể sống thiếu Lời Chúa, bởi vì “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.”(Mt 4,4)
Là chiên của Chúa, chúng ta hãy luôn biết khát Lời của Chúa và biết để Lời Chúa trở thành lương thực hằng ngày của ta. Muốn nghe được Lời của Chúa, chúng ta cần có một tâm hồn mở rộng sẵn sàng đón nhận, có một đôi tai nhạy bén và một con tim tha thiết mến yêu Lời Chúa. Có thể nói ta cần lắng nghe tiếng Chúa bằng con tim, vì chỉ khi nối kết với trái tim của Chúa, ta mới có thể thấu hiểu được Lời Chúa dạy bảo và đem ra thực hành trong cuộc sống cụ thể của ta. Như thế, Lời Chúa mới trở thành ánh sáng, là sức sống của ta, ta mới biết sống theo ý Chúa, sống đẹp lòng Chúa và Lời Chúa mới sinh hoa kết trái dồi dào trong đời ta.
– Biết: “Ta biết chúng.” Người ta nói “Vô tri bất mộ.” – không biết thì sẽ không thể yêu. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Người biết rõ chúng ta từng người một. Biết không chỉ dáng vẻ bên ngoài mà là biết tận thâm sâu cõi lòng chúng ta. Người biết ta cách cá nhân bởi Người dựng nên chúng ta. Người đã mang vào mình mọi khốn cùng đau đớn của kiếp người chúng ta. Vì thế, Người biết rõ thân phận của ta và hiểu thấu từng nỗi khó cảnh khổ của chúng ta. Từ cái biết, Người gắn kết chúng ta trong tình yêu của Người và như vậy, Chúa biết chúng ta cũng là Chúa yêu thương chúng ta. Hơn thế nữa, Mục tử Giêsu còn ban cho chiên sự sống đời đời và sự sống ấy là sự sống của chính Người, vì Người đã hy sinh mạng sống cho chiên khi khẳng định “Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên.” (Ga 10,11) Điều ngạc nhiên là bình thường mục tử chết thì không thể bảo vệ chiên được nữa. Nhưng với Mục Tử Giêsu Phục Sinh thì qua cái chết của Người, Người đã cứu sống chiên của Người.
Chính vì thế, chúng ta hãy đặt trọn niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu, Mục Tử yêu thương luôn chăm sóc và hướng dẫn chúng ta trong mọi nơi chốn và hoàn cảnh. Dù ta có gặp bao sóng gió truân chuyên hay ngàn khó nguy gian khổ thì Chúa vẫn ở bên ta, ủi an nâng đỡ và ban sức sống trợ giúp chúng ta “Dù qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.”(Tv 22, 4)
– Theo: “và chúng theo Ta.” Một khi đã lắng nghe tiếng Chúa, ta sẽ hiểu được ý muốn của Chúa. Như những môn đệ đầu tiên khi nghe Chúa cất lời “Các anh hãy theo tôi”(Mt 4,19), chắc chắn các ông đã hiểu rõ điều Người muốn các ông là “Theo Người”. Theo là rời bỏ nơi chốn cũ của mình, lối sống riêng của mình để chia sẻ cuộc sống mới với Đấng gọi ta; là gắn bó, ràng buộc đời mình với đời của Đấng mà ta theo, yêu mến và thuộc trọn về Người cả hồn xác. Chúa Giêsu, Mục Tử đầy xót thương đã gọi chúng ta, yêu thương che chở từng người chúng ta. Chúa mong mỗi Kitô hữu theo Chúa cũng biết gắn kết đời mình với Chúa, thiết lập một tương giao mật thiết với Chúa và sống trong Chúa để cuộc sống của chúng ta thực sự thuộc về Người.
Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành và là Chúa của chúng ta đã mời gọi ta theo Người và sống trong tình yêu của Người. Chúa ban cho ta Lời Chúa và Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn, ban sức mạnh thể xác và ban cho ta sự sống đời đời vì Người khẳng định “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”(Ga 6,51) Chúng ta không phải hư mất và không ai có thể cướp ta ra khỏi tay Người. Đó là một bảo đảm của Chúa cho chúng ta. Liệu chúng ta có can trường theo Chúa và kiên trì thưa với Chúa như thánh Phêrô “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.”(Ga 6,68)
Hôm nay, ngày cầu cho Ơn Thiên Triệu Linh mục và Tu sĩ. Mỗi Kitô hữu chúng ta là chiên, nhưng ta cũng được gọi trở nên mục tử trong chức vụ thừa tác hay trong bậc sống của mỗi người. Chúng ta hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Và ta hãy tha thiết cầu nguyện cho các bạn trẻ quảng đại lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa gọi. Đồng thời xin Chúa Chiên Lành ban cho Giáo hội thêm nhiều mục tử, nhất là có những mục tử sáng suốt để giúp cho đoàn chiên lắng nghe tiếng Chúa và hiểu Tin Mừng của Chúa. Cầu cho có những mục tử “Biết mang mùi chiên, mang lấy vào mình những khốn khổ của chiên”, can đảm thấy và dám nói, dám hiến thân cho đoàn chiên và cho Giáo Hội. Như thế, Giáo hội sẽ mãi là hiện thân của Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, biết chiên, yêu chiên và hiến mình vì chiên. Để rồi còn nhiều chiên lạc, chiên chưa thuộc đàn được lôi cuốn trở về sống hạnh phúc trong cùng một đoàn chiên của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin thương xót chúng con! Amen.
.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Người chăn dắt Israel, là một thuật ngữ quen dùng trong văn hoá người Do Thái, biểu tượng là người gìn giữ hoà bình, người của cõi thiêng mà đến.
Trong ngôn ngữ biểu tượng người chăn dắt là người đã từng trải bằng những kinh nghiệm của mình, người trực giác nhìn thấy phía trước, dự đoán được tương lai gần những điều sắp đến. Người chăn dẫn cũng là người biết canh chừng, theo chức năng đó người chăn dắt luôn trau dồi thêm những tình huống cảnh giác. Người chăn dắt có nhiệm vụ bảo đảm an toàn cho đoàn chiên của mình, anh ta là người biết nhìn trời, dự đoán qua trăng sao, tai lắng nghe và phân biệt được tiếng thú dữ và tiếng chiên lạc đàn thuộc bầy của minh. Chính anh ta là người không có chỗ dừng chân, không có một nơi gối đầu định cư, số phận anh ta tuỳ thuộc vào số phận của đoàn chiên. Đối với đoàn chiên, anh ta là đôi mắt là sự am hiểu thay cho đàn chiên, biết từng con chiên và bảo vệ từng con chiên trong đàn.
Sứ vụ của người chăn chiên đòi hỏi phải là người khôn ngoan, hiền hậu, có trái tim nhân từ thương cảm. Con chiên nào đau bệnh, anh chữa trị, con nào lạc lối, anh tìm đưa về, con nào bước đi yếu ớt, anh cõng trên vai. Những con chiên khoẻ mạnh anh ta vỗ về… Từ những hình ảnh nhân hậu đó, người chăn chiên còn là biểu tượng của sự bình an cho đàn chiên. Người ta muốn bắt chiên, trước hết phải giết hại người chủ chiên.
Theo truyền thống Do Thái Cain đại diện cho người theo văn hoá du mục, Abel đại diện cho nền văn hoá định cư. Người định cư rất quý mến người du mục, và thường ân cần tiếp đón họ. Theo khía cạnh nhìn của người định cư, người chăn chiên là người không thuộc về đất, người chăn chiên có một giá trị thiêng liêng và cao quý.
Nền văn minh Assyrie và Babylone, biểu tượng người chăn chiên gắn liền với ý nghĩa vũ trụ. Danh hiệu người chăn chiên được gán cho thần mặt trăng Tammuz, là người chăn dắt các tinh tú, vị thần của thực vật, chết đi và sống lại. Theo chu kỳ mặt trăng tuần tự sinh ra và rồi mất đi, cũng một chu kỳ liên tiếp được làm đi lập lại mỗi khi chiều về, buổi tối ập đến, người chăn cừu lại lùa đàn chiên vào nơi gìn giữ và sáng mai lại thả ra. Người chăn dắt trong đêm ngủ mê của đoàn chiên vẫn là người lắng nghe, người cầu nguyện cho sự an toàn của đàn chiên. Với hình ảnh đó, người chăn chiên là người trung gian giữa Đấng Tối Cao và thọ tạo.
Người mục tử hôm nay là những nhà lãnh đạo, những nhà doanh nghiệp, những vị lãnh đạo công ty, xí nghiệp. Với đôi mắt tinh tường nhìn về phía trước, dự báo được những gì trong tương lai, chuẩn bị cho những con người dưới quyền đủ khả năng chống đỡ vượt qua thử thách. Những nhà lãnh đạo biết lo cho những người thuộc quyền cũng như cho dân được ấm no hạnh phúc. Bình an của đàn chiên là niềm vui cho người mục tử. Nhà lãnh đạo không những chỉ sáng suốt mà còn là người chăm lo hạnh phúc cho đàn chiên, là người quy tụ chứ không phải để gây chia rẽ chống đối, là người vì đàn chiên của mình mà hy sinh hạnh phúc cá nhân chứ không phải là người chỉ biết xen lông, giết thịt những con chiên béo, thu lợi nhuận từ đàn chiên để làm giàu cho cá nhân người mục tử. Người mục tử có những đức tính cần thiết và cần có cả đời sống cầu nguyện, vì người mục tử là người nối trời với đất, người lãnh trách nhiệm tinh thần cho đàn chiên của mình, vừa thăng hoa đời sống bằng vật chất vừa làm no thoả đời sống tinh thần cho đoàn chiên, bảo đảm cho đoàn chiên một tương lai chắc chắn. Người mục tử nếu là người không tín ngưỡng, không niềm tin tôn giáo là nhưng nhà lãnh đạo thiếu sót trong bổn phận của mình và có thể làm thiệt hại cho đoàn chiên.
Người mục tử cũng là các gia trưởng trong gia đình, người quy tụ đoàn con của mình chứ không là người gây chia rẽ. Người đảm bảo cho mọi thành viên trong gia đình có những nhu cầu thiết yếu để ăn học và trưởng thành về các đức tính cũng như niềm tin. Nhiệm vụ người gia trưởng xem ra khá nặng nề, chính vì vậy, họ cũng cần có đời sống cấu nguyện để được thêm sức mạnh gánh vác việc đời và gia đình. Các thành viên trong gia đình là những gì Thiên Chúa trao cho để thi hành sứ mạng hướng dẫn của người mục tử.
Người mục tử là những người cai quản các cộng đoàn cần gắn bó với vị mục tử nhân lành là Chúa Giêsu, bởi vì sứ vụ lãnh nhận từ nơi Chúa Giêsu. Cộng đoàn được trao phó để người mục tử hướng cộng đoàn đó thực thi ý định yêu thương của Thiên Chúa. Người mục tử này đóng vai trò quan trọng để xây dựng cộng đoàn mình lãnh nhận được hiệp nhất, nơi chia sẻ tình thương, sống trong bác ái và làm chứng về Tin Mừng Phục Sinh.
Xin ban cho chúng con những người mục tử như Ý Chúa.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
“Hỡi các thiên thần trên trời, các thiên thần của Chúa,
các thiên thần của bình an và hoan lạc,
xin hãy ném cho nhau những bông hồng, bông súng,
những bài hát du dương và những nốt nhạc ngát hương;
và xin hãy đổ tràn nhân đức, can đảm và hạnh phúc
trên những nữ tì của Chúa.”
Ðó là câu kết của một bài văn viết bằng tiếng Pháp,
thấy nằm trong túi áo của Hàn Mạc Tử lúc ông qua đời.
Ông đã viết bài này gần ba tuần trước khi mất
để ca ngợi lòng tận tụy của các nữ tu Phan sinh
đã chăm sóc ông trong những ngày cuối đời ở Quy Hòa.
Màu áo dòng trắng, sự tươi tắn và những lời ca êm dịu
đã làm nhẹ nỗi đau của chàng thi sĩ mắc bệnh phong.
Thế giới hôm nay vẫn cần ai đem đến cho nó
chút hương thơm của Tuyệt Ðối, chút ngọt ngào của Vô Cùng,
để thiên đàng chẳng phải là chuyện xa xôi, huyễn hoặc,
Thiên Chúa chẳng phải là huyền thoại vu vơ.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần đến những người của Chúa:
cần bóng linh mục cho những họ lẻ, bị lãng quên,
cần bước chân mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng,
cần sự trầm mặc của người đắm mình trong chiêm niệm
cần bàn tay nhẹ nhàng xoa dịu mọi vết thương,
và trên hết cần những trái tim không san sẻ,
dám yêu hết mình, dám sống hết tình,
hết mình cho Thiên Chúa, hết tình cho mọi người,
đặc biệt cho những ai đã đánh mất mọi hy vọng.
Cả nước ta có gần 2,000 linh mục và khoảng 7,000 tu sĩ,
một con số khiêm tốn trong đất nước gần 80 triệu dân.
Trong Chúa Nhật đặc biệt cầu cho ơn thiên triệu,
chúng ta nài xin Chúa hãy gọi nhiều tâm hồn
và hãy giúp cho họ nghe được tiếng gọi ấy.
Chiên trong bài Tin Mừng hôm nay để chỉ các Kitô hữu,
nhưng cũng có thể hiểu về những người sống đời thánh hiến.
Họ là người được Chúa biết từ trong lòng mẹ,
và họ cảm nhận được cái biết đầy yêu thương đó.
Họ là người nghe tiếng của Chúa Giêsu,
một giọng nói với tất cả nét đặc trưng quen thuộc.
Tiếng ấy đã nhiều lần vang lên, thân thương và cuốn hút.
Tiếng ấy mời gọi họ lên đường
để theo sát Ngài hết sức có thể,
một Chúa Giêsu nghèo khó, vâng phục và khiết tịnh.
Họ vui lòng bỏ lại những gì họ quý yêu.
Nhờ bỏ lại mà họ được tự do thanh thoát.
Nhờ sống nghèo, họ được giải thoát khỏi cái tôi ưa chiếm đoạt.
Nhờ vâng phục, họ được ra khỏi cái tôi muốn bành trướng.
Nhờ khiết tịnh, họ có thể yêu mọi người đến vô cùng.
Như thế ràng buộc của đời tu lại đem đến tự do.
Họ có thể được Chúa âu yếm gọi là chiên của tôi,
bởi lẽ họ thuộc về Ngài cách đặc biệt.
Ước gì không ai cướp được họ khỏi tay Chúa!
Cầu Nguyện
Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành,
đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.
Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy
đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.
Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay
những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.
Xin cho họ biết quên hạnh phúc và tương lai của mình
để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở.
Ước gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức,
cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương,
thấy được những mất mát của bao người đau khổ,
và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.
Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ
để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu,
sống như Ngài đã sống
và tiếp tục làm những gì Ngài đã làm trên trần gian.
Cũng xin Cha gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con,
thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội,
để tất cả trở thành những môi trường tốt
giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha. Amen.
.
Huệ Minh
Hôm nay, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, ta dâng Thánh Lễ này để cầu nguyện cho ơn gọi. Ta thành khẩn nguyện xin Thiên Chúa sai thêm thợ đến đồng lúa và vườn nho của Người. Thật vậy, rất nhiều nơi thiếu linh mục tu sĩ và thiếu một cách trầm trọng.
Đứng trước nạn thiếu hụt này có hại cho ta chứ không riêng gì người ở nơi ấy, vì toàn thể Giáo Hội chỉ là một thân thể mầu nhiệm và một bộ phận đau yếu phải được mọi bộ phận khác thông cảm và giúp đỡ vì lợi ích chung của toàn thể. Ta phải xin Chúa ban thêm ơn cho giới trẻ ở những nơi đang thiếu linh mục, tu sĩ được nghe biết tiếng gọi của Chúa và của các linh hồn để dấn thân tận hiến đời mình cho sứ mạng cứu thế.
Để được như vậy, ta còn cần phải cầu nguyện sốt sắng hơn nữa để các linh mục, tu sĩ nhiệt thành sống đúng với ơn gọi của mình và làm tốt mọi phận sự Chúa trao phó. Trong thực tế cuộc sống, ta không hiểu được những phấn đấu gay go và khó khăn mà linh mục tu sĩ luôn phải cố gắng trong ơn gọi. Tu sĩ linh mục cần được trợ lực bằng lời cầu nguyện và giúp đỡ cụ thể để vững vàng và nhiệt tình chu toàn sứ mạng. Những thành công của họ sẽ làm vẻ vang cho Hội Thánh và chúng ta, nên chúng ta phải hợp ý với Chúa Giêsu mà cầu nguyện để họ ra đi và mang lại nhiều hoa quả và những hoa quả tồn tại muôn đời.
Là cha là mẹ, ta có nghĩa vụ soi sáng, hướng dẫn con cái ta ngay từ nhỏ đã biết nghĩ đến ơn gọi Phục vụ. Và cùng với những ý nghĩ cũng như lời nguyện trên, ta lắng đọc tâm hồn nghe Lời Chúa hôm nay để hiểu rõ tương quan giữa mục tử và chiên, để giúp mục tử làm tốt ơn gọi của mình và để chiên biết phải cư xử thế nào cho tốt.
Ta đang sống trong tuần lễ mừng kính Chúa Chiên lành. Trình thuật Tin mừng hôm nay từ câu 27 – 30 là trình thuật Tin mừng của Chúa nhật Chúa Chiên lành.
Trong bài Tin mừng, chúng ta thấy người Do Thái đang mong mỏi một Đấng Messia – Đấng sẽ giải phóng họ khỏi ách nô lệ của Đế quốc La Mã; Đấng sẽ mang quyền lực và vinh quang cho dân tộc họ, sẽ làm cho danh họ được rạng rỡ khắp hoàn cầu. Và ông Giê-su kia làm họ thắc mắc: Ông ta giảng dạy như Đấng có uy quyền; Ông ta làm được nhiều điều lạ lùng chữa bệnh, trừ quỷ, thậm chí cho cả người chết sống lại….
Thế nhưng ông ta không có vẻ gì là một chính trị gia, một nhà cách mạng cầm đầu giải phóng dân tộc cả! Vì thế cho nên họ thắc mắc “Ông có phải là Đấng Kitô chăng?” hay ‘Ông làm gì đi chứ!’ Vì thế mà họ trở thành không tin và cứng tin, vì Đức Giêsu không là Messia theo như ý nghĩ mong chờ của họ; Ngài có vẻ là người hòa hoãn, thậm chí lại hay lỗi luật lệ của họ, đặc biệt luật ngày sabát, làm bạn cùng phường thu thuế cùng quân tội lỗi.
Chúa Giêsu biết rõ lòng họ, nhưng câu trả lời của Ngài là: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi ; tôi biết chúng và chúng theo tôi.”
Thật vậy, Chúa Giêsu đích thực là một Messia, nhưng không phải một Messia dùng quyền để thống trị, đàn áp, loại trừ, vì nếu như thế thì Ngài cũng chỉ là một bạo Chúa như những bạo Chúa khác mà thôi; trái lại Ngài là một Đấng chăn chiên nhân lành – một ‘Messia nhân lành’ chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên; những việc làm của Ngài nhân danh Chúa Cha tỏ lộ cho con người biết một Thiên Chúa ‘bao dung, huệ ái, trọn bề nhân nghĩa và giàu lòng thương xót’.
Trong đời sống đức tin, cũng như người Do Thái, nhiều khi chúng ta mong muốn điều này điều kia theo ý mình hơn là ý Chúa; chúng ta lấy lòng ích kỷ của mình để đo lòng Thiên Chúa, nên chúng ta chưa nhận ra được tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho chúng ta cũng như tất cả mọi người “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”(Mt 5, 45b) và có biết bao nhiêu việc lạ lùng, kỳ diệu Chúa làm trong vũ trụ, trong cuộc đời mình mà mình vẫn cứng tin.
Điều này cho thấy rằng có lẽ chúng ta chưa là con chiên của Chúa. Bởi vì chiên của Chúa thì biết “nghe tiếng Chúa”; chúng ta chưa ở trong tương quan tình yêu với Thiên Chúa để có thể nhận ra tiếng nói của Ngài qua Lời Chúa, qua những lời dạy dỗ nhắc bảo của những người có trách nhiệm, qua hoàn cảnh và các sự kiện, biến cố trong cuộc đời – chúng ta chưa ‘biết’ Chúa, (cái ‘biết’ theo nghĩa kinh thánh diễn tả tình yêu thân mật vợ chồng), và chưa theo Chúa.
Và thật sự, nếu chúng ta thuộc đàn chiên của Chúa, nghĩa là chúng ta biết tín thác cuộc đời trong tay Chúa, thì chúng ta sẽ được thừa hưởng lời hứa của Ngài: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời ; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.”
Và thật sự, đây là một lời hứa đầy an ủi.
Nếu ta biết sống phó thác cuộc đời cho Chúa như con chiên hoàn toàn lệ thuộc vào chủ chiên, chúng ta sẽ không lo sợ phải hư mất và “không ai cướp được”chúng ta khỏi tay Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha. Được lời hứa bảo vệ từ Thiên Chúa, chúng ta còn sợ gì?
Nhưng rồi nhìn lại thực tế cuộc đời chúng ta rất kém tin, yếu tin, và cứng tin vào Thiên Chúa. Chúng ta tin vào những thế lực của tiền bạc, của cải, danh vọng, địa vị những cái vốn dĩ rất mong manh và chóng qua nên cuộc đời cứ mãi còn băn khoăn, lo lắng và bất an, thiếu hạnh phúc. Không có tiền thì ta lo làm sao cho có được tiền; có được tiền rồi thì lo làm sao để giữ được tiền và có được nhiều hơn…. Làm tôi tiền bạc, chúng ta quên Thiên Chúa; vì Chúa Giê-su đã xác định: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6, 24)
Ta lại xin Chúa cho ta luôn thích và hăng say lắng nghe Lời Chúa, lãnh nhận bí tích và tham gia vào đời sống Hội Thánh để mọi dân mọi nước làm thành một đoàn chiên với một Chúa chiên là Ðức Giêsu Kitô ta.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn