CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN_A
Lời Chúa: Is 49,3.5-6; 1Cr 1,1-3; Ga 1,29-34
——-
DẪN NHẬP
Lời Chúa: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1, 29).
Nhập Lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 2 thường niên hôm nay cho chúng ta thấy, Thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Lời giới thiệu này mời gọi chúng ta hãy tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa để đón nhận ơn tha thứ:
Đây Chiên Thiên Chúa dịu hiền,
Dâng mình hiến tế để đền tội khiên.
Dầu chiên phản bội triền miên,
Chúa thương chăm sóc đoàn chiên hết mình.
Sống trong Hội thánh hữu hình,
Kính tôn Thiên Chúa, hết tình yêu nhau.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương Thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, bằng đời sống khiêm nhường và bằng hành động bác ái yêu thương. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa là ánh sáng đã đến trong thế gian. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa đã đến trần gian để thực thi thánh ý Chúa Cha. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Tăng Quốc Phiên từng nói: “Giữa trời và đất duy chỉ có khiêm nhường là đạo mang lại tài phúc, kiêu ngạo sẽ sinh ra tự mãn, tự mãn thì dễ bị thất bại”. Phụng vụ lời Chúa hôm nay gợi lên cho chúng ta hai hình ảnh sống khiêm nhường thật đẹp mang lại tài phúc. Ðó chính là lối sống khiêm nhường của thánh Gioan tẩy giả và của Chúa Giêsu. Thánh Gioan tẩy giả tượng trưng cho sự khiêm nhường, còn Chúa Giêsu là chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian.
Thưa anh chị em, giữa một rừng người bao quanh trong dòng sông Giođan tĩnh lặng, thánh Gioan tẩy giả đã long trọng giới thiệu Chúa Giêsu đang tiến về phía mình cho nhiều người đang ngưỡng mộ: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”. Thánh Gioan tẩy giả đã biết chỗ đứng của mình khi nói: “Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”, “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Trong sự khiêm nhường và với lời tuyên xưng này, thánh Gioan tẩy giả muốn giới thiệu Chúa Giêsu là người tôi trung hoàn hảo của Thiên Chúa. Chính Người sẽ mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Trong Thánh kinh, hình ảnh con chiên được Cựu ước sử dụng nhiều để nói lên hy tế chiên vượt qua, chiên được các Tư tế hiến dâng vào buổi sáng và buổi chiều trong đền thờ Giêrusalem. Chiên cũng nói lên tính cách hiền lành, điềm nhiên chấp nhận thợ xén lông hoặc bị đem đi giết. Thánh Gioan tẩy giả sử dụng hình ảnh chiên để giới thiệu Chúa Giêsu cho những người đương thời, như muốn cho thấy Chúa Giêsu là lễ vật xứng đáng đẹp lòng Thiên Chúa và chính Chúa Giêsu đã khiêm nhường, hiền lành, tự nguyện chấp nhận làm hy tế đền tội cho muôn người. Cũng trong ý nghĩa của lời tuyên xưng đó, thánh Gioan tẩy giả muốn giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng xoá tội trần gian. Do nguyên tổ loài người đã kêu ngạo, đòi ngang bằng với Thiên Chúa, nghe lời ma quỷ dụ dỗ mà sa ngã phạm tội và do đó đáng phải chết. Nhưng vì yêu thương, Chúa Giêsu đã đến trần gian để đền thay tội lỗi loài người: Chúa Giêsu đã trở nên người tôi trung đền tội để đem ơn cứu độ không chỉ cho dân Do thái nhưng còn cho tất cả mọi người. Người chính là chiên Thiên Chúa đã mang lấy thân phận con người để con người trở thành con cái Thiên Chúa.
Có câu chuyện kể rằng, bé Betty lên 4 tuổi, được mẹ dẫn đi nhà thờ. Sau khi giải thich cho con nghe ý nghĩa từng biểu tượng, bà chỉ tay lên nhà tạm và nói Betty: Đây là nơi Chúa ở. Betty ngạc nhiên nói: nhưng mẹ à, mẹ đã nói với con là Chúa lớn hơn hết mọi loài mà!. Bà mẹ trả lời: đúng vậycon ạ, Chúa lớn hơn hết mọi loài. Bé Betty nói: vậy thì mẹ nhỉ, Chúa phải hạ mình nhiều lắm mới vào được nhà tạm nhỏ kia.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Chúa phải hạ mình nhiều lắm mới vào được nhà tạm nhỏ kia. Hai hình ảnh sống khiêm nhường của thánh Gioan tẩy giả và của Chúa Giêsu quả là điều mà Giáo hội muốn mời gọi chúng ta noi gương bắt chước. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Kiêu căng làm hỏng mọi hành động tốt, khiến chúng ta xa cách với Thiên Chúa và với tha nhân. Trong khi khiêm nhường là điều kiện cần thiết để được Chúa nâng lên và sống kinh nghiệm lòng thương xót đổ đầy vào con tim chúng ta. Thiên Chúa hoàn toàn rộng mở con tim Ngài cho người khiêm nhường”. Vậy nên, chúng ta đừng bao giờ tự mãn, kiêu căng, cũng đừng bao giờ tự cho mình là bậc cao nhân số một. Hãy nuôi dưỡng cho mình một sự cao quý từ chính phẩm chất khiêm nhường và đẩy lùi sự hèn mọn. Vì, “Nước càng sâu càng tĩnh, người càng hiểu biết nhiều càng khiêm nhường”.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết sống khiêm nhường như chính Chúa mời gọi: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Xin cho chúng ta biết phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân trong sự khiêm nhường. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
Mục lục
1. Chứng nhân của ánh sáng (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Chiên Thiên Chúa. (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
3. Dạ, con đây (Lm. Vũ Đình Tường)
4. Chiên xóa tội trần gian (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
5. Biết Chúa hơn để yêu mến hơn (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Lời giới thiệu (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. .Chiên Thiên Chúa (Lm. Trần Việt Hùng)
8. Con chiên ngoan đạo (Lm. Jos.Tạ Duy Tuyền)
9. Chúa Giê-su là ai? (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
10. Lời giới thiệu ngắn gọn (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
11. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 2 TN_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
12. Đây Chiên Thiên Chúa. (Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
13. Con Chiên của Thiên Chúa (Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh)
14. Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại (Lm. Duy Khang)
15. Đây Chiên Thiên Chúa…(Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
16. Nhân chứng về Đức Kitô (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
17. Gánh tội tha nhân (Lm. Phạm Quốc Hưng)
18. Giới thiệu Chúa (Lm. Minh Vận, CRM)
19. Đây Con Chiên Thiên Chúa(Lm. Thu Băng, CRM)
20. Giới thiệu (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
21. Không thể làm thinh (Trầm Thiên Thu)
1. Đây Chiên Thiên Chúa! (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Đây Chiên Thiên Chúa (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Giới thiệu Chúa Kitô (Gm. Giuse Vũ Duy Thống)
4. Loan báo Lời Chúa bằng truyền thông (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Chính Ngài là Con Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
6. “Chiên Thiên Chúa” (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
7. Rửa bằng máu (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
8. Chiên Thiên Chúa- (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
9. Chân dung ngôn sứ (AM. Trần Bình An)
10. Tôi đã không biết Người (P. Trần Đình Phan Tiến)
11. Giới thiệu Chúa cho anh chị em (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
12. -Chiên Thiên Chúa (Trầm Thiên Thu)
13. Tôi đã không biết Người- (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
14. Đức Giêsu là Chiên Cứu độ của Thiên Chúa (Lm. Đan Vinh)
15. Trở thành ánh sáng (Lm. Giuse Nguyễn)
16. Cùng Chúa, ta vượt qua (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
17. Gánh tội tha nhân (Lm. Phạm Quốc Hưng)
18. Thấy và làm chứng (Dã Quỳ)
19. Chúa Nhật 2 Thường niên_A (Lm. Antôn)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Chúng ta vừa mừng lễ Giáng Sinh. Một trong những thông điệp chính mà Phụng vụ mùa Giáng Sinh muốn gửi đến chúng ta, đó là: Chúa Giêsu là Ánh Sáng thế gian. Sự kiện Chúa Giáng sinh được so sánh như một ánh sáng bừng lên trong đêm tối, để soi sáng những ai đang đi trong lầm lạc và tội lỗi, giúp họ nhận ra Chân Lý và nhờ đó họ được cứu rỗi. Phụng vụ lễ Hiển Linh cũng nhấn mạnh đến chủ đề ánh sáng, đồng thời tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng cứu độ muôn dân.
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai của Mùa Thường niên, một lần nữa, Lời Chúa lại nói với chúng ta về chủ đề này.
Bài trích sách ngôn sứ Isaia được gọi là “Bài ca về người Tôi Trung của Thiên Chúa”. Nhãn quan Kitô giáo nhận ra đây là những điều ngôn sứ diễn tả Đấng Thiên Sai, tức là Đức Giêsu. Qua Người Tôi Trung này, Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài. Thiên Chúa đã đặt Người làm ánh sáng muôn dân, để đem ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng trái đất. Sau này, Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là Ánh Sáng thế gian, ai theo Tôi không còn đi trong tối tăm”. Trong lời mở đầu của Tin Mừng thứ bốn, tác giả cũng khẳng định Ngôi Lời là Ánh Sáng đã đến chiếu soi nhân loại (x. Ga 1,5). Trong khi thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã chứng tỏ sứ mạng của Người là đem ánh sáng thiên linh đến cho nhân loại. Giáo huấn của Người đã soi sáng cho nhân loại nhận biết Thiên Chúa, đồng thời mở con mắt đức tin và đức ái để nhận ra mọi người đều là anh chị em với nhau trong cùng một gia đình có Thiên Chúa là Cha. Người đi đến đâu là xua trừ tội lỗi, đẩy lui quyền lực của bóng tối, tức là ma quỷ, để giải phóng con người. Câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng Thánh Gioan cũng hàm chứa giáo huấn: Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Người đến để mở mắt người mù, cho họ thấy Chân Lý. Không chỉ là con mắt thể lý, mà là con mắt trí tuệ để đón nhận và tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa Cha sai đến trần gian (x. Ga 9).
“Các con là ánh sáng thế gian”. Đó là lời mời gọi của Đức Giêsu. Tin vào Người là bước theo ánh sáng, đồng thời trở nên ánh sáng trong đời sống và trong cách ứng xử hằng ngày. Thánh Gioan tông đồ khẳng định với chúng ta: “Nếu chúng ta đi trong ánh sáng, cũng như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng, thì chúng ta được hiệp thông với nhau, và máu Đức Giêsu, Con của Người, thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi” (1 Ga1,7). Người tin Chúa vừa được mời gọi trở nên ánh sáng giữa đời, đồng thời phải làm chứng nhân cho Ánh Sáng. Hình ảnh ông Gioan Tẩy giả một lần nữa lại xuất hiện, được Phụng vụ giới thiệu như chứng nhân của Ánh Sáng. Lời chứng của ông không phải là lời chứng của loài người, mà được Chúa soi sáng. Ông khẳng định: Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian. Lời chứng của ông là những cảm nhận thực tế, được soi sáng bởi ơn trên. Ông là người đã bước theo Ánh Sáng và làm chứng nhân của Ánh Sáng cho dù phải hy sinh mạng sống của mình.
Sứ mạng của Giáo Hội và của các Kitô hữu là tiếp tục công cuộc loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu. Như vị Ngôn sứ thành Nagiarét năm xưa, Giáo Hội đem Chân Lý đến cho mọi dân tộc, mọi nền văn hoá và mọi quốc gia. “Ánh Sáng Muôn Dân”, đó là tựa đề của hiến chế tín lý quan trọng của Công đồng Vaticanô thứ hai, là kim chỉ nam cho Giáo Hội trong thời hiện đại này. Khi khẳng định: Giáo Hội là Ánh Sáng, cộng đoàn Kitô hữu trên toàn thế giới ý thức mỗi người phải thể hiện ánh sáng qua chính đời sống của mình, để rồi ánh sáng thánh thiện ấy có sức lan toả và chiếu soi mọi môi trường cuộc sống. Nói cách khác, đâu có người tín hữu Kitô, ở đó có ánh sáng của sự thánh thiện, bao dung, hài hoà, nhân ái và yêu thương.
Bài đọc II vừa là lời nhắn nhủ, vừa là lời cầu chúc mà thánh Phaolô dành cho các tín hữu ở Cô-rinh-tô. Thánh nhân nhắc các tín hữu đừng quên mình được kêu gọi làm thành một Dân thánh, trong sự hiệp thông với tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu ở bất cứ nơi nào.
Đức Giêsu Kitô là Ánh Sáng soi chiếu trần gian, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhận Ánh Sáng ấy, để rồi mỗi chúng ta trở nên chứng nhân của Ánh Sáng trong cuộc đời.
“Nếu bạn luôn hướng về phía ánh sáng Mặt Trời thì cái bóng của bạn sẽ bị đổ lại ở đằng sau. Mọi điều phiền muộn và đen tối cũng đều nên được chúng ta bỏ lại sau lưng, việc của ta là phải luôn hướng về phía trước với sự lạc quan, niềm tin vào một tương lai rực rỡ” (Sưu tầm).
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Chiên con đầu lòng mang một biểu tượng của mùa Xuân mới, sau Đông tàn. Con chiên con đầu lòng được sát tế để cầu ơn phúc cho dân và cũng là chính họ được phần cứu rỗi. Khi Thánh Gioan tẩy giả giới thiệu: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1, 29) mang đầy đủ trọn vẹn ý nghĩa chúc phúc và cứu rỗi như truyền thống lễ hiến sinh.
Mùa Xuân mới.
Chiên con đầu lòng trong truyền thống người du mục mang ý nghĩa đặc biệt của mùa sinh sản mới. Sự mạnh mẽ vươn lên sau những ngày tháng chờ đợi của suốt thời gian thơ ấu đế trưởng thành. Chiên con đầu lòng đánh dấu một thế hệ tiếp nối được bắt đầu khởi sắc, sánh ví như mùa Xuân.
Chiên con trắng tinh, chưa vướng bụi trần, màu trắng tinh khôi của ngày mới. Sự hân hoan chào đón như một bước đạt đến giác ngộ tuyệt diệu của cõi trời vinh quang. Ánh sáng trắng tựa như mặt trời chiếu sáng, xua tan những bóng tối. Phúc âm thánh Gioan trình thuật Chúa Giêsu là Ánh Sáng là Chiên Con làm tròn đầy ý nghĩa nền văn hóa và các truyền thống về chiên con đầu lòng.
Chiên sát tế
Thư Do Thái trình thuật về lễ đền tội chỉ nhắc đến ông Moisê lấy máu bê và dê sát tế hòa với nước rảy trên dân để nhắc lại Giao Ước Chúa đã ký kết với dân (Dt 9, 20 -21). Theo chú giải của cha Nguyễn Thế Thuấn, Chiên Thiên Chúa mà thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu là con chiên vượt qua. Chiên vượt qua chỉ về cuộc xuất hành mới, mọi người sẽ vượt qua cuộc xuất hành lớn lao sau cùng, vượt qua cái chết để đi đến sự sống.
Chiên vượt qua chỉ về Chúa Giêsu là Chiên đích thực trở nên của ăn dưỡng nuôi là lương thực đi đường cho chặng đường rất xa trong sa mạc. Nơi sa mạc ấy, con người đối diện với sự dữ mọi bề. Từ thiên nhiên, từ những con thú hoang, rắn sa mạc… Lương thực giúp con người mạnh sức đi đường và mạnh sức trong cuộc chiến với thú dữ. Ngày nay, lương thực đi đường Chúa ban chính là bí tích Thánh Thể, khi linh mục đưa Thánh thể lên và tuyên xưng: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.
Chiên sát tế chính là Chúa Giêsu, từ lời loan báo xưa kia của Isaia về người tôi trung của Chúa: “Bị tra tấn, ngài đã chịu đựng, và không mở miệng, như cừu bị dẫn đến lò sát sinh, như chiên mẹ ngậm câm, không hề mở miệng.” (Is 53, 7). Tâm điểm không dừng lại ở cuộc khổ nạn mà tiếp đến là sự Phục Sinh của Chúa. Đấng khải hoàn đã chiến thắng sự dữ cuối cùng là sự chết.
Chúa Giêsu là Chiên Con chịu sát tế, chính Người cũng là bàn thờ là chủ tế trên bàn thờ hiến dâng. Khi tham dự Bí Tích Thánh Thể, con người cũng được mời gọi đến cùng Chúa để được xót thương và tha thứ tội lỗi, được nuôi dưỡng bằng Thánh thể trên hành trình trần thế và sau cùng cũng được tham dự vào cuộc khải hoàn vinh quang của Chúa.
Lạy Chúa! Chúng con thờ lạy Chúa!
.
Lm Vũđình Tường
Nhìn thấy Đức Kitô đang tiến về hướng mình, Gioan Tẩy Giả nói với các môn đệ ông. Xem kìa, Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian…. c.29. Ngày nay chúng ta hiểu í nghĩa câu ‘Chiên Thiên Chúa’ là nói về Đức Kitô. Đấng tự nguyện vác thập giá, chịu đóng đanh, chết và sống lại vinh quang để cứu độ nhân loại. Đức Kitô trong thời gian rao giảng, nhiều lần công khai nói về phép thanh tẩy Ngài sẽ lãnh nhận. Ngày nay chúng ta biết là Đức Kitô ngụ í nói đến cuộc tử nạn và Phục Sinh vinh hiển của Ngài. Lúc đó các tông đồ không hiểu Thầy mình nói gì, phải đợi mãi đến sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết, ra khỏi mộ, lúc đó các ông mới vỡ lẽ điều Đức Kitô nói về phép rửa Ngài lãnh nhận là cuộc khổ nạn, thập giá, chết và sống lại. Khi bà mẹ Zebedee xin Đức Kitô cho hai con bà, một ngồi bên phải và một ngồi bên trái Ngài trong nước trời. Đức Kitô hỏi các ông có thể lãnh nhận ‘Chén Đắng’ Ngài lãnh nhận không và các ông chấp thuận. Mat 20:20-23. Có lẽ cả ba mẹ con đều không thể mường tượng ra chén đắng bao gồm những vị đắng nào. Đức Kitô ngụ í nói đến những đau khổ xảy đến trong đời các môn đệ trung tín.
Danh thánh ‘Đây Chiên Thiên Chúa’ trở thành câu tuyên xưng đức tin, chúc tụng Thiên Chúa trong thánh lễ. Linh mục chủ tế dâng cao Bánh Thánh và Rượu Thánh tung hô ‘Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa’. Cộng đoàn đáp chúng con không xứng đáng Chúa ngự vào nhà con nhưng chúng con dâng lời chúc tụng, tạ ơn Chúa chọn ngự đến tâm hồn con. Khi chúng ta tham dự bàn tiệc thánh, chúng ta nhớ lại món quà cứu độ từ trời cao ban tặng nhân loại. Món quà hiến tế, món quà thể hiện tình yêu không bến bờ, không điều kiện, Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Khi tham dự thánh thể, chúng ta hợp lời cùng thánh Gioan Tẩy Giả chúc tụng, tung hô Thiên Chúa. Chúng ta xin ơn giúp chúng ta sống thực hiện điều hứa khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy là yêu mến Chúa hết lòng, và thương tha nhân như chính mình. Bí tích thánh tẩy là món quà Chúa trao ban và qua đó chúng ta từ người xa lạ trở thành phần tử của cộng đoàn dân Chúa, trở thành anh chị em trong đại gia đình Chúa nơi trần gian, và hy vọng ngày sau gặp nhau trên Thiên Quốc. Bí tích thánh tẩy giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, tháo gỡ ràng buộc xiềng xích ma quỉ kiềm chế, mang lại ơn tự do làm con cái Chúa và làm chủ cuộc sống mình. Điều này được thực hiện, không phải do sức mạnh của chính ta, mà chính là qua sức mạnh Thánh Thần Chúa ban. Thánh Thần Chúa ban sức mạnh, giúp chúng ta chiến thắng tội lỗi. Mỗi lần chúng ta làm dấu chính là chúng ta nhắc lại công thức rửa tội ta lãnh nhận lần đầu trong đời khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy. Thánh Thần biến đổi chúng ta trở thành con cái Chúa, anh chị em trong đại gia đình Chúa. Làm dấu được hiểu là ngụ í tái xác nhận bí tích thanh tẩy, canh tân bí tích đó và giúp chúng ta tích cực hơn trong việc yêu Thiên Chúa, mến tha nhân. Tích cực tham gia cộng tác vào công việc nơi xứ đạo là một trong những cách làm chứng nhân sống động cho Đức Kitô nơi trần gian. Đời sống Thánh Thể không phải chỉ giới hạn nơi thánh đường mà còn cần phải lan toả ra nơi làm việc, phố chợ. Đời sống Thánh Thể cần phải khởi đầu từ gia đình, giúp thế hệ mai sau tiếp tục tin, tôn thờ Chúa. Biến gia đình bé nhỏ thành giáo đường tại gia, Thánh Thần Chúa sẽ ngự nơi tâm hồn và gia đình ta, giúp ta trở nên giống Đức Kitô hơn. Theo í nghĩa đó, Thiên Chúa không còn phải xa thẳm nơi trời cao mà chính là cùng đồng hành với ta trong cuộc sống.
.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật II thường niên năm A, chúng ta nghe thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu khi nói rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Khi nghe những lời giới thiệu này, những người Do Thái nghĩ gì? Và cả chúng ta nữa, những lời này có nghĩa là gì?
1- Chiên đối với người Do Thái
Chúng ta biết chiên là một loài động vật, tự bản chất, rất hiền lành, hơi nhút nhát nhưng lại dễ gần. Nó khác với con hổ và con chó vì con hổ thường dữ tợn, hay gây hấn, làm người ta sợ; còn con chó thường hay sủa, hay cắn. Con chiên thì hiền lành và yên tĩnh. Chiên chính là con cừu con. Ở Châu Đại Dương , người ta nuôi cừu rất nhiều để lấy lông và làm thịt. Lông cừu được dùng để sản xuất nhiều sản phẩm quý như áo quần. Còn thịt cừu là một món thịt rất béo và ngon. Chăn nuôi chiên và cừu mang lại những lợi nhuận kinh tế đáng kể.
Theo Kinh Thánh, con chiên là biểu tượng của sự vô tội, hay nói cách khác, con chiên tượng trưng cho của lễ và sự hy sinh. Vì thế, người Do Thái dùng chiên làm lễ tế để cử hành lễ Vượt Qua của họ. Trước khi lên đường, trong bữa ăn tối lễ Vượt Qua, Môsê đã truyền cho người Do Thái phải giết chiên để ăn lễ Vượt Qua. Chiên phải là chiên đực, dưới một tuổi, không tì vết, thịt thì ăn, còn máu thì bôi trên cửa nhà mình. Chiên là của lễ dâng lên Chúa. Hằng năm, người Do Thái cử hành lễ Vượt Qua để nhớ lại biến cố Thiên Chúa giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập trở về đất hứa (x. Xh 12,3-14).
2- Chiên xóa tội trần gian
Tân Ước áp dụng hình ảnh con chiên cho Chúa Kitô. Nên khi Đức Giêsu đi qua, thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu với dân chúng rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29).
Khi thánh Gioan Tẩy Giả dùng hình ảnh con chiên để giới thiệu về Chúa Giêsu, người Do Thái hiểu ngay ý nghĩa của nó vì họ rất quen thuộc với hình ảnh và ý nghĩa của con chiên. Họ hiểu rằng: Chiên là hình ảnh ám chỉ Đấng Mêsia mà các tiên tri trong Cựu Ước đã dùng, đặc biệt tiên tri Isaia. Trong bài ca về người Tôi Tớ đau khổ, tiên tri đã ví người tôi tớ đó như “con chiên hiền lành bị đem đi giết” (x. Is 53,7). Chiên được dùng để làm của lễ dâng lên Thiên Chúa và gánh lấy những lỗi lầm của con người.
Bởi thế, khi nghe nói về chiên, các Tông Đồ và các Giáo Phụ của Giáo Hội giải thích: Con chiên là biểu tượng của sự trong sạch, đơn sơ, hiền lành, ôn hòa, vô tội v.v… Những đặc tính này được áp dụng cho Chúa Giêsu, Người là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha sai xuống trần gian, như Con Chiên trong sạch, hiền lành và vô tội. Người chính là Chiên Thiên Chúa đến để xóa bỏ tội trần gian và mang lại ơn cứu độ cho chúng ta nhờ cái chết và phục sinh của Người. Bởi thế, thánh Phêrô quả quyết rằng: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô” (1 Pr 1,18-19). Và thánh Gioan trong sách Khải Huyền ba lần dùng từ “con chiên” để nói về Chúa Kitô và mô tả bữa tiệc cánh chung của Thiên Chúa với loài người như là tiệc cưới Con Chiên. Đó là ngày vui vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại được thành toàn (x. Kh 19,8-9).
3- Chúa Giêsu xóa tội qua các bí tích
Qua các bí tích, Chúa Giêsu tiếp tục tha thứ và xóa bỏ tội lỗi của chúng ta khi chúng ta đón nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Rửa Tội và bí tích Hòa Giải. Bí tích Rửa Tội xóa bỏ tội nguyên tổ và các tội riêng chúng ta phạm. Phép Rửa là “cửa dẫn vào các bí tích.” Chúa Giêsu xóa bỏ tội lỗi của chúng ta trong bí tích Hòa Giải khi chúng ta đến xưng thú tội lỗi với các linh mục.
Đó là lý do tại sao Giáo Hội lấy lại những lời tuyên xưng của Gioan làm lời cầu nguyện trong thánh lễ. Trong Kinh Vinh Danh, khi thưa với Chúa Con, chúng ta cầu xin rằng: “Lạy Con Một Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô. Lạy Chúa là Thiên Chúa, là Chiên Thiên Chúa, là Con Ðức Chúa Cha, Chúa xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con, Chúa xóa tội trần gian, xin nhậm lời chúng con cầu khẩn.” Đặc biệt, trước khi rước lễ, linh mục công bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.”
Như thế, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng tội lỗi là một thế lực thống trị chúng ta. Tự sức mình, chúng ta không thể tự giải thoát khỏi tội lỗi. Chỉ nhờ Chúa Kitô, là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, mới có thể giúp chúng ta chiến thắng tội lỗi, trở thành con cái của Nước Trời, và sống sự công chính của Người trên trần gian.
Bởi vậy, chúng ta hãy siêng năng lãnh nhận bí tích Hòa Giải, tham dự thánh lễ và năng rước Chúa Giêsu Thánh Thể, để nhờ Người, chúng ta có sức mạnh chống trả các chước cám dỗ và sống thánh thiện trước nhan Thiên Chúa. Amen!
.
Bông hồng nhỏ
Cuộc sống luôn có những tương quan. Ta có thể quen nhiều người, giao tiếp với họ vì công việc hay vui chơi, nhưng những người mà ta biết và hiểu họ thì không nhiều. Tuy là họ hàng với Đức Giêsu, ông Gioan cũng đã phải trải qua những kinh nghiệm rất riêng tư với Ngài và nhờ Thiên Chúa mặc khải, ông mới biết được Ngài ai. Còn ta thì sao?
Quả thật, Thầy Giêsu đã chủ động tìm đến để xin ông Gioan làm phép rửa. Nhờ sự gặp gỡ này, ông nhận ra Người là Đấng Thiên Chúa đã tuyển chọn. Ông bày tỏ: “Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ítraen, tôi đến làm phép rửa trong nước (Ga 1,31). Chính Thầy Giêsu đã khiêm tốn đến xin ông Gioan làm phép rửa cho mình để “giữ trọn đức công chính”, để qua đó, Thiên Chúa giới thiệu Đấng Ngài đã tuyển chọn cho dân. Ông Gioan đã sẵn sàng để làm trung gian cho Thiên Chúa, để qua việc ông làm, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân. Ta có sẵn sàng trở nên cánh tay hữu hình của Chúa không?
Thầy Giêsu đã khiêm nhường để vâng phục thánh ý Thiên Chúa và dạy ta biết tìm đến với những ngôn sứ của Chúa, để tìm biết Thiên Chúa, hiểu biết Chúa hơn để yêu mến Chúa hơn. Khi sống giữa những anh chị em mình, ta có nhận thấy chân dung của Chúa nơi họ không? Làm sao ta có thể nhận ra Chúa nơi những người ta gặp gỡ và yêu họ như yêu mến Chúa? Chỉ khi ta tìm biết Thiên Chúa là ai, ta mới có thể yêu mến Chúa hết lòng. Cũng vậy, khi ta muốn hiểu người anh chị em mình, ta phải đến và gặp gỡ họ đã và sau đó ta tương quan với họ bằng chính con người thật của ta, một con tim chân thành và yêu mến. Ông Gioan đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người, ông đã thấy và chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (x.Ga 1,32-34). Chỉ khi đọc lại kinh nghiệm ở với Chúa, lắng nghe lời mời gọi và sự hướng dẫn của Chúa, ta mới có thể làm chứng cách mạnh mẽ về sự hiểu biết và tình yêu của Chúa nơi tâm hồn và trái tim ta. Thái độ bày tỏ qua hành vi và hành vi bộc lộ thái độ và tâm tình của ta, nếu ta yêu mến Chúa thật lòng, ta sẽ dùng cả cuộc đời của mình để bày tỏ và làm chứng về Đấng đã yêu ta và hiến mạng vì ta.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã không ngừng đi bước trước để bày tỏ tình yêu của Ngài cho con. Xin giúp con mỗi ngày biết ra khỏi con người con để tìm đến với Chúa, đến với anh chị em bằng một con tim chân thành và yêu mến. Con tin Chúa sẽ tỏ mình cho con và hướng dẫn con đáp trả lại tình yêu của Chúa bằng một cuộc sống chứng tá cụ thể và một mối tình trầm lắng bên Chúa. Amen.
.
Anna Cỏ May
Con người thời này thường thích đi “shopping”. Và để thu hút nhiều khách hàng, các nhà sản xuất, các nhà buôn bán kinh doanh giới thiệu các sản phẩm về nguồn gốc, xuất xứ và chất liệu làm sao cho hợp với thị hiếu của khách hàng. Trong các cuộc gặp gỡ làm ăn, chúng ta cũng thường chào hỏi nhau và giới thiệu về nghề nghiệp, tuổi tác, chức vụ. Những người Kitô hữu cũng luôn có nhiệm vụ giới thiệu Chúa cho mọi người, trở thành người loan báo Tin Mừng cho mọi người. Vậy, chúng ta giới thiệu Chúa như thế nào?
Ông Gioan đang làm phép rửa tại sông Giođan, trông thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,39). Ông đã tận dụng thời điểm thích hợp, lúc mọi người đang kéo nhau tới và cũng vừa lúc Chúa Giêsu tiến đến để giới thiệu Chúa. Ông giới thiệu Chúa bằng những gì ông đã lãnh nhận từ Chúa Cha và những điều ông đã trông thấy. Ông bày tỏ sự thật rằng “Tôi đã không biết người” (Ga 1,33). Tuy nhiên, chính Đấng đã chọn ông và trao ban sứ mạng cho ông đã hướng dẫn ông, giúp ông nhận ra Đấng Người sai đến. Khi đã được mặc khải, ông khẳng định rằng: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,34). Ông có một thái độ khiêm tốn, luôn tìm kiếm và vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Ông là người được Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng cho ánh sáng, ông tự nguyện trở nên nhỏ đi để Chúa Giêsu lớn lên trong tâm hồn ông và tâm hồn người khác. Ông đã ẩn mình đi để mọi người nhìn thấy và theo Chúa Giêsu. Ông nói: “Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1,30). Khi mọi người nhìn thấy và theo Chúa Giêsu, ông Gioan đã dần dần rút lui. Mọi người đã nghe lời giới thiệu của ông, vì ông là người được Thiên Chúa sai đến và là người được Thiên Chúa chúc phúc. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta được trở nên con Thiên Chúa và được Thiên Chúa trao sứ mạng loan báo Tin Mừng, chúng ta đã làm gì để giới thiệu Thiên Chúa?
Chúng ta sẽ giới thiệu Chúa bằng cách nào đang khi chúng ta còn mang trong mình lỗi lầm? Làm sao chúng có thể giới thiệu Chúa cho người khác khi sống trong một xã hội quá ồn ào? Quả thật, để giới thiệu Chúa cho mọi người, điều đó không hề dễ. Tuy nhiên, Chúa không đòi hỏi những gì vượt quá tầm tay của chúng ta. Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa bằng những nén bạc, bằng khả năng và bằng chính cuộc sống của mình. Nếu chúng ta đang sống trong cảnh nghèo thì hãy sống mối phúc nghèo khó và sống bác ái. Nếu là một người tội lỗi thì hãy quay về với Chúa, biến đổi đời sống bằng những việc làm bác ái. Khi chúng ta đón nhận anh chị em của mình và giới thiệu Chúa bằng cách khước từ những gì làm ta xa rời mái ấm gia đình của mình, chu toàn các nhiệm vụ của mình. Khi có lòng khao khát muốn giới thiệu Chúa cho mọi người, chính lúc đó, Chúa sẽ ban cho chúng ta có cách để thực hiện.
Lạy Chúa Giêsu! Xin giúp con mỗi ngày nên gắn chặt với Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, can đảm giới thiệu Chúa, biết nhường chỗ cho Chúa, để Người lớn lên trong tâm hồn những người con gặp gỡ. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” Có nhiều người thắc mắc hỏi rằng tại sao Gioan giới thiệu Chúa là Chiên Thiên Chúa, sao không giới thiệu đây là Con Thiên Chúa, đây là Đấng Cứu Thế. Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả mang một ý nghĩa thần học và sự kiện của lịch sử cứu độ.
Thánh Gioan là con của một thầy tư tế, quá quen thuộc với công việc sát tế chiên dâng cúng trong đền thờ mỗi ngày. Trong lịch sử dân Do-Thái xưa, vào ngày Lễ Đền Tội, người ta bắt một con chiên không tì vết và đem đến cho vị tư tế. Vị tư tế đọc danh sách các thứ tội của dân chúng. Kêu gọi mọi người hãy sám hối. Sau đó, tư tế đặt tay trên đầu con chiên, ngụ ý trút hết các thứ tội trên đầu nó, rồi đánh đuổi nó vào sa mạc. Con chiên ấy được gọi là con chiên gánh tội.
Trong sách Xuất Hành ghi rằng tại đền thờ, các tư tế mỗi ngày sát tế hai con chiên làm của lễ toàn thiêu dâng Thiên Chúa để đền tội. Tiên tri Isaia trong bài ca về người tôi tớ đã nhắc đến con chiên hy sinh. Con chiên hiền lành bị đem đi xén lông và bị giết làm của lễ để gánh tội cho mọi người.
Khi dân Do-Thái đã định cư và có đền thờ, hằng năm vào dịp Lễ Vượt Qua, để tưởng nhớ Thiên Chúa cứu dân khỏi nô lệ người Ai-cập. Họ đã giết chiên tế lễ và dự tiệc ăn thịt chiên cùng rau đắng để tưởng nhớ những khổ đau mà dân chúng phải lao lực và làm nô lệ cho người Ai-cập.
Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Ngài đã hy sinh chết thay cho đoàn chiên. Ngài chết để gánh tội gian trần. Ngài hy sinh dâng mình làm của lễ đền tội và hiến dâng thịt máu mình làm của ăn dưỡng nuôi hồn xác chúng ta.
Trong thánh lễ, chúng ta lập lại ba lần, lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con. Lập lại lần thứ tư lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa. Chúa Kitô đã hiến thân trên khổ giá để cứu độ chúng ta. Thánh Gioan là người đầu tiên làm chứng và ngài đã hy sinh cho sự thật này. Các tông đồ đã chứng kiến cảnh Chúa Chiên bị khổ hình, bị chết treo nhục nhã và đã sống lại vinh quang. Các ngài cũng đã xả thân làm nhân chứng cho Chúa đến giọt máu cuối cùng.
Mỗi người chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta là nhân chứng. Chúng ta có bổn phận giới thiệu Chúa cho những ai còn ngồi trong bóng tối u mê sự chết. Xin Chúa cho chúng ta là những con chiên bổn đạo tốt lành và hăng hái trong việc sống và truyền đạo.
.
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Mỗi một dân tộc đều dùng những linh vật tượng trưng cho dân tộc mình. Người Việt đó là “con Rồng cháu tiên”, người Pháp là hình ảnh “Con Gà”, người Úc là con Kangaroo, người Singapor là sư tử, Người Do Thái là con chiên .. .
Đạo Công giáo xuất phát từ Do Thái giáo nên cũng được gọi là con chiên của Chúa. Đây chỉ là hình ảnh tượng trưng nhưng có một số DLV thiếu hiểu biết hay đưa ra luận điệu đầy ác ý khi nói những ai theo đạo Công giáo đều bị hạ thấp thành con chiên . . .
Thực ra người Công giáo rất tự hào vì mình là con chiên của Chúa. Khi được hỏi người Công giáo bạn ở xứ nào thì sẽ được nghe rằng: mình là con chiên xứ A . ..hay mình là con chiên của cha B . . . Con chiên trong Kinh Thánh được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức. Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê. Chiên ở bên phải, dê ở bên trái.
Chúa Giêsu đã chịu hiến tế vào dịp Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ. Hình ảnh con chiến chịu sát tế trong ngày lễ vượt qua là hình ảnh tiên báo về Đức Ky-tô là Chiên Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.
Chúa Giêsu là Con Chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông. Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại. Thế nên, những ai là môn đệ của Chúa cũng được ví như con chiên hiền lành, vì người môn đệ luôn được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su phải trở nên hiền lành và khiêm nhường, đồng thời biết sẵn lòng hy sinh bản thân vì hạnh phúc tha nhân.
Vì vậy, danh từ “Con chiên” không chỉ dùng cho các tín hữu Công giáo mà còn cho mọi thành phần của Giáo Hội. Ngay Đức Ky-tô cũng là Con Chiên chịu sát tế. Đức Giáo Hoàng , các Đức Giám mục, và các linh mục đang cố gắng hoàn thiện mình theo như khuôn mẫu Thầy Chí Thánh Giê-su qua sự hiền lành và khiêm nhường thì đều là hình ảnh con chiên và là “con chiên ngoan đạo” như lời bài hát “Giọt lệ ăn năn” đã diễn tả:
“Con van xin yêu Ngài làm con chiên ngoan đạo,
Con van xin yêu Ngài dù năm tháng phôi pha,
Con van xin yêu Ngài dù đời bao giông tố,
Thương tin yêu nguyện cầu, nguyện dâng Cha đời con.”
Ước mơ được trở thành“con chiên ngoan đạo.” Một con chiên biết yêu thương, một con chiên biết vâng lời, một con chiên biết dâng hiến đời mình để phục vụ là ước mơ trở nên giống như Đức Ky-tô là Chiên Thiên Chúa Đấng gánh tội trần gian.
Lời Chúa hôm nay, thánh Gioan đã xác định Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa. Vì cuộc đời Chúa Giê-su luôn hiền lành và khiêm nhường như những con chiên vùng Palestina. Cuộc đời Chúa Giê-su còn chịu sát tế trong đêm Vượt qua để cứu chuộc nhân loại như con chiên được người Do Thái ăn trong đêm vượt qua.
Cuộc đời Chúa Giêsu là cuộc đời đẹp vì ngài đã dám mang lấy tội nhân gian. Ngài đi vào kiếp người để chia sẻ những đắng cay ngọt bùi cũng chỉ vì yêu thương nên muốn nên một với chúng ta.
Đó cũng là cách sống mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy sống cho thế giới hôm nay. Một thế giới có quá nhiều kẻ ham danh, ham lợi mà lại quá ít kẻ dám gánh lấy trách nhiệm. Một thế giới có quá nhiều kẻ kiêu hãnh, thích ăn trên ngồi chốc thiên hạ nhưng lại quá ít người khiêm tốn để phục vụ tận tụy và hy sinh. Một thế giới có quá nhiều kẻ tham lam ích kỷ, chỉ lo vun quén cho bản thân mà lại quá ít người rộng lượng đế cứu nhân độ thế.
Ước gì là người kytô hữu chúng ta dám sống như một Giêsu, dám hy sinh cả mạng sống mình vì hạnh phúc của anh em. Ước gì lời mời gọi của Thầy Giêsu “hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” luôn là kim chỉ nam cho đời kytô hữu sẵn lòng hiến dâng để phục vụ tha nhân. Amen
.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Is 49:3, 5-6; 1 Cr 1:1-3; Ga 1:29-34)
Chúng ta đã bước vào mùa Thường niên của năm phụng vụ từ tuần trước với lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa. Mùa Thường niên là thời gian chúng ta suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ki-tô, thể hiện qua sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Trời và các phép lạ Người làm. Trước khi chiêm ngưỡng mầu nhiệm ấy mỗi ngày trong mùa Thường niên (34 tuần lễ), chúng ta phải biết Chúa Giê-su là ai. Mặc dù Chúa Cha đã giới thiệu Con Yêu Dấu của Người với chúng ta, nhưng đó cũng là lời mời gọi chúng ta hãy biết Chúa Giê-su rõ hơn, để yêu mến Người nồng nàn hơn và phụng sự Người tích cực hơn. Với ba bài đọc, chúng ta có ba bức chân dung về Chúa Giê-su.
1– Chúa Giê-su là người Tôi Trung được Thiên Chúa đặt làm ánh sáng muôn dân, để đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất (bài đọc 1). Có một điều thật thích thú là hình ảnh người Tôi Trung của Thiên Chúa được lập đi lập lại nhiều lần, không chỉ trong mấy Chúa Nhật mùa Chay trước cuộc Thương khó của Chúa Giê-su, mà ngay trong mùa Vọng, hình ảnh ấy cũng được ám chỉ về Người nữa. Vậy nhắc lại như thế, Phụng vụ Lời Chúa muốn nhấn mạnh đến điều gì nơi Chúa Giê-su? Đức tính nổi bật của người Tôi Trung là nhân từ và trung thành. Đúng vậy, Chúa Giê-su vốn dĩ đồng hàng với Thiên Chúa, nhưng đã vâng lời xuống thế làm người phàm để thực hiện kế hoạch cứu độ như Thiên Chúa muốn. Người đã biểu lộ lòng nhân từ của Thiên Chúa khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Người đã hằng trung thành với sứ mệnh, không làm theo ý riêng, nhưng luôn theo ý Chúa Cha, “vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá”. Chính sự khiêm nhường, vâng lời và trung thành của Chúa Giê-su đã trở thành “ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng cõi đất”. Sự khiêm nhường và vâng lời của Chúa Giê-su đã chuộc lại sự kiêu căng và bất tuân của A-dong và E-va. Sự trung thành làm theo ý Chúa Cha của Chúa Giê-su đã chuộc lại việc A-đam không nghiêm túc tuân giữ điều Thiên Chúa đã giao ước với ông. Đó là cách Chúa Giê-su đem ơn cứu độ đến mọi người mọi nơi và mọi thời, vì Người không chỉ cứu độ dân riêng là Do-thái, mà còn cứu độ “muôn dân đến tận cùng cõi đất” nữa.
2– Bức chân dung thứ hai của Chúa Giê-su được thánh Phao-lô trình bày dưới hình thức suy tư thần học: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa (bài đọc 2). Vậy đâu là điểm cốt lõi bức chân dung này muốn nói lên? Phao-lô trả lời: trong Đức Ki-tô là Chúa, hết mọi người được kêu gọi làm dân thánh. Nói khác đi, Chúa Ki-tô là điều kiện để Thiên Chúa đón nhận tất cả những ai kêu cầu danh Chúa Ki-tô thì sẽ được làm con cái Người. Mà “kêu cầu danh Chúa” là gì, nếu không phải là đón nhận Tin Mừng Người rao giảng và sống những giá trị Tin Mừng của Người? Cho nên Chúa Ki-tô là chính ơn cứu độ, hoặc theo cách hiểu của thánh Phao-lô, Người là “ân sủng và bình an” Thiên Chúa ban cho ta: Ân sủng là được Người cứu độ và bình an là được hòa giải với Người.
3– Tuy nhiên bức chân dung sống động nhất về Chúa Giê-su là bức chân dung được thánh Gio-an Tẩy Giả giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Trong lịch sử dân Chúa, chiên là con vật dân Do-thái đem giết xế chiều trước ngày Vượt qua và theo lệnh Thiên Chúa họ phải lấy máu bôi trên cửa nhà, để đêm ấy thấy máu chiên Người sẽ vượt qua và không sát hại các con đầu lòng người Do-thái. Máu ấy không những cứu mạng dân Do-thái, mà còn giúp họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai-cập. Giờ đây, giới thiệu Chúa Giê-su là “Chiên Thiên Chúa”, thánh Gio-an ám chỉ đến cuộc Vượt qua vĩ đại Chúa Giê-su thực hiện để giải thoát toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Sứ mệnh của Chiên Thiên Chúa là “xóa bỏ tội trần gian” trước hết bằng cách kêu gọi người ta sám hối và tin vào Tin Mừng khi Người thi hành sứ vụ. Cuối cùng là Người bằng lòng chịu chết trên thập giá để đền bù tội lỗi nhân loại và giải hòa nhân loại với Thiên Chúa. Có nhiều người vẫn chưa tin lời giới thiệu của ông Gio-an và muốn coi ông mới là người giúp họ xóa bỏ tội lỗi mình. Nhưng ông Gio-an đã khiêm nhường nhìn nhận địa vị của Chúa Giê-su. Hơn thế nữa, ông còn làm chứng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người”. Thực ra Thánh Thần làm chứng cho con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su, còn Gio-an chỉ có thể làm chứng rằng chính mắt ông “đã thấy” Chúa Thánh Thần ngự trên Chúa Giê-su, để ông có thể xác tín “Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta đã biết được Chúa Giê-su là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì. Tuy nhiên chúng ta không nên dừng lại ở cái biết nông cạn qua những thông tin trí óc, mà phải đi vào cái biết của trái tim. Nói khác đi, chúng ta cần phải “kêu cầu danh Chúa”, nghĩa là phải tin vào Người, đón nhận lời giảng Tin Mừng của Người và phát huy một mối tương quan mật thiết với Người. Sống trong mối tương quan ấy, chúng ta sẽ để cho mọi sự thuộc về Chúa Giê-su ảnh hưởng trên đời sống chúng ta. Chúng ta sẽ suy nghĩ theo lối suy nghĩ của Người, sẽ hành động theo cách Người hành động. Đặc biệt chúng ta sẽ trả lời câu hỏi của Chúa: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ước gì chúng ta cùng thánh Phê-rô thưa với Chúa rằng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16)!
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Người ta giới thiệu sản phẩm, cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền. Thông tin quảng cáo đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh. Từ đó trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy. Quảng cáo là giới thiệu những gì là độc đáo nhất.
Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giơí thiệu một người thì phải biết về người đó, tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy.
Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu. Có ba lời giới thiệu tiêu biểu:
– Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là con Ta yêu dấu, làm đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt 4,17).
– Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).
– Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xoá tội trần gian… Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có trươc tôi… Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần” (x. Ga 1,29–34).
Trong khi toàn miền Giêrusalem và Giuđê đang coi Gioan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Gioan đã từ giã sự nổi danh của mình lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình, nhưng nhìn thẳng vào Chúa. Đây là cách giới thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên Chúa.
Khi Đức Giêsu đang đến, Gioan Tẩy Giả đã chỉ vào Đức Giêsu và nói : “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Giới thiệu như thế, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Đức Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là Đấng xóa tội trần gian.
Khi gọi Đức Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận Đức Giêsu là Đấng vô tội và thánh thiện. Khi nói Đức Giêsu là “Đấng xóa tội trần gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia đã từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Đức Giêsu. Chính vì là con chiên vô tội của Thiên Chúa nên Đức Giêsu mới có thể xóa tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Đức Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân loại. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự xóa tội cho con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ cho hân loại.Chỉ có Con Chiên thanh sạch và hiền lành, Con Chiên bị sát tế mà không một lời thở than, mới đền thay được tội lỗi. Chỉ có Đấng vô tội, mới có thể chết thay cho các tội nhân.
Đức Giêsu xóa tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Ngài tội lỗi của tất cả nhân lọai, từ tội của nguyên tổ Ađam cho đến tội của người sau hết của nhân lọai. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Ngài đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại. Từ nay nhân loại đã được giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong ân tình của Ngài và cửa thiên đàng đã được mở lại cho tất cả mọi người.
Mặc dù chúng ta là người tội lỗi, nhưng đã được rửa bằng Máu của Con Chiên Thiên Chúa, và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể.
Trong mỗi Thánh lễ, trước khi hiệp lễ, chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu bằng lời nguyện “Lạy Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con“. Liền sau lời nguyện đó, linh mục chủ tế cũng giới thiệu Chúa Giêsu Thánh Thể cho cộng đoàn bằng những lời như Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng năm xưa : “Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian…”. Chúng ta cầu xin cùng Ðức Kitô, Chiên Thiên Chúa, giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, nhất là “tội trần gian”.
Người tín hữu thường được gọi là “con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại “chiên” trong ngày phán xét. Ðược đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Ðược vào hưởng vinh quang trong nước Chúa. Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Uớc mong những chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô rất ngắn. Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa, chưa chắc đã cần nói nhiều. Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là tình yêu thương “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và tình yêu thương ấy là: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 2 TN_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay đều xoay quanh một chủ đề: Người Tôi Trung của Thiên Chúa có sứ mạng cứu độ muôn người.
Is 49: 3, 5-6
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo rằng Người Tôi Trung mà Thiên Chúa ủy thác sứ mạng không chỉ dẫn đưa dân Ngài trở về với Ngài, nhưng còn là ánh sáng cho muôn dân.
1Cr 1: 1-3
Thánh Phao-lô tự giới thiệu mình với các tín hữu Cô-rin-tô rằng Thiên Chúa đã gọi thánh nhân làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô.
Ga 1: 29-34
Sau cùng, Gioan Tẩy Giả là người tôi tớ tự xóa mình trước Đấng mà ông có sứ mạng chuẩn bị và làm chứng cho Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 49: 3, 5-6)
Trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), có bốn bài thơ về “Người Tôi Trung”. Chân dung “Người Tôi Trung” được phác họa trong bốn bài thơ xem ra liên quan đến lúc thì toàn thể dân Ít-ra-en, lúc thì một nhân vật biệt phân lãnh nhận một sứ mạng đặc thù. Vào Chúa Nhật II Thường Niên này, chúng ta sẽ đọc bài thơ thứ hai trong bốn bài thơ này. Khía cạnh tập thể và khía cạnh cá nhân đan quyện vào nhau rất rõ nét ở nơi bài thơ thứ hai này.
Trước hết, điểm nhấn được đặt trên khía cạnh tập thể, vì trong bài thơ này cốt là ơn gọi của dân Ít-ra-en: là vinh quang của Đức Chúa, quy tụ cho Thiên Chúa một dân tín trung, và là ánh sáng muôn dân.
Như ở bài ca thứ nhất, hoàn cảnh lịch sử của bài thơ thứ hai là cảnh giam cầm ở Ba-by-lon. Dân Ít-ra-en mà vị ngôn sứ ngỏ lời, qua giọng nói của Người Tôi Trung mầu nhiệm, là cộng đoàn của những người lưu đày, cộng đoàn trong cơn thử thách, bị thương tổn và ê chề nhục nhã. Nhưng Thiên Chúa sẽ can thiệp (tất cả mạch văn của chương này đều theo chiều hướng này); Ngài sẽ giải thoát dân Ngài. Các quốc gia ngoại giáo nghĩ rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en không còn nhớ đến dân Ngài, nhưng rồi họ sẽ thấy rằng bằng quyền năng, Thiên Chúa này sẽ tiêu diệt những kẻ áp bức. Dân Ít-ra-en sẽ là vinh quang của Ngài.
Sau một thời gian dài Thiên Chúa thinh lặng, nay Thiên Chúa lại lên tiếng; Thiên Chúa quan tâm đến dân Ngài, dân mà Ngài để ý đến ngay từ khi còn trong trứng nước:
“Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ
lúc tôi chào đời, Người đã nhắc tên tôi” (49: 1)
Diễn ngữ “từ khi tôi còn trong lòng mẹ” trở thành kinh điển để nhấn mạnh tính tiền định của ơn gọi. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là vị ngôn sứ đầu tiên đã sử dụng diễn ngữ này (Gr 1: 5) và thánh Phao-lô lấy lại diễn ngữ này mà áp dụng vào ơn gọi của mình: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1: 15-16). Chính ở đây vấn đề được đặt ra: phải chăng Người Tôi Trung biểu thị cộng đoàn của những người lưu đày hay một nhân vật được tác riêng ra để trở thành vị lãnh đạo hay người hướng dẫn của dân?
Dù Người Tôi Trung này là cộng đoàn của những người lưu đày – quả thật, trong lịch sử cứu độ, cộng đoàn này đóng vai trò của “một nhóm nhỏ còn sót lại” – hay đây là một nhân vật biệt phân đi nữa, thì sứ mạng hàng đầu của Người Tôi Trung này là:
“Đem nhà Gia-cóp về cho Người
và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người” (49: 5)
Chắc chắn phải hiểu “đem về” theo nghĩa kép, vừa địa lý vừa luân lý: đem những người lưu đày về quê cha đất tổ của họ và đem một dân bất trung và bị trừng phạt về với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn làm cho dân này thành hạt nhân vững chắc, qua đó Ngài sẽ tái lập dân tộc thánh.
Một trong những bận lòng lớn lao của những người lưu đày, đó là quy tụ tất cả các chi tộc bị tản mác khắp nơi. Vai trò của Người Tôi Trung sẽ là tái lập sự hiệp nhất. Đây là sứ mạng tràn đầy niềm tin tưởng, công việc đầy phấn khởi. Người Tôi Trung thẩm định vinh dự được dành cho mình: “Thế nên tôi được Thiên Chúa trân trọng”. Nhưng công việc này thật khó khăn, phải nương tựa vào ơn trên: “Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi”.
Đức Chúa cho rằng công việc tái lập dân Ngài này là chưa đủ:
“Người phán: ‘Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta
để tái lập các chi tộc Gia-cóp,
để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít.
Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (49: 6).
Bài thơ này nối kết và làm sáng tỏ bài thơ thứ nhất qua diễn ngữ: “ánh sáng muôn dân”. Rõ ràng sứ mạng của dân Ít-ra-en – hay ở đây có thể sứ mạng của “nhóm nhỏ còn sót lại”, tức là những người lưu đày được cứu thoát – chính là làm cho ánh sáng cứu độ được bừng sáng, đó không gì khác hơn chính là công việc của Đức Chúa.
Thánh Phao-lô đã cảm thấy một cách sống động những điểm tương đồng của ơn gọi Người Tôi Trung, được tuyển chọn cách đặc biệt để là “ánh sáng muôn dân”, với ơn gọi của chính mình. Thánh nhân áp dụng vào chính mình những lời của vị ngôn sứ, với cung giọng thống thiết, trong hội đường An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a khi mạnh dạn nói với những người Do thái cứng lòng tin rằng, từ nay, thánh nhân quay về phía dân ngoại, vì họ mở rộng lòng mình đón tiếp lời Chúa hơn (Cv 13: 46-47).
Trong viễn cảnh xa, ẩn hiện dung mạo Người Tôi Trung thập toàn, tức Chúa Ki-tô, ở nơi Ngài Chúa Cha sẽ được tôn vinh. Chính Ngài sẽ quy tụ dân Do thái và lương dân thành một dân duy nhất, Ngài sẽ là “ánh sáng thế gian” và nguồn ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Đó cũng là những ngôn từ của bài ca “An Bình Ra Đi” của cụ già Si-mê-on:
“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
và vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài” (Lc 2: 29-32).
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 1-3)
Thánh Phao-lô đã thiết lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Đây là thành phố thương mại, có một vị thế địa lý đặc biệt với hai hải cảng. Thành phố này đang trên đà phát triển, với những tương phản xã hội: những nhà tài chính và thương mại giàu có bên cạnh những phu khuân vác và nô lệ. Thủ phủ xa hoa tráng lệ với đền thờ tôn kính nữ thần Aphrodite được hàng ngàn nữ tư tế phụng thờ, tức là những cô điếm thánh. Sau cùng, với tư cách là cái nôi văn hóa, thành phố Cô-rin-tô được mệnh danh là nơi có nhiều trường phái triết học trăm hoa đua nở.
Thánh Phao-lô đã trải qua mười tám tháng ở Cô-rin-tô và đã để lại ở đây một Giáo Đoàn sống động. Nhưng ngay sau khi thánh nhân ra đi, Giáo Đoàn đã gặp phải biết bao những khó khăn nghiêm trọng khiến thánh nhân phải bận lòng: buông thả luân lý, bất đồng nội bộ, ngờ vực đạo lý, lạm dụng phụng vụ. Thánh nhân viết thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô để can thiệp, nhưng thư này bị thất lạc không được lưu truyền đến chúng ta.
Cuộc khủng hoảng càng trở nên trầm trọng, thánh nhân sai cộng tác viên của mình viếng thăm cộng đoàn này. Khi trở về, ông Ti-mô-thê đem theo một loạt câu hỏi mà thánh Phao-lô trả lời trong thư được gọi là “thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô” này, nhưng thực ra đây là thư thứ hai. Quả thật, thánh Phao-lô đã viết bốn bức thư gửi cho các tín hữu Cô-rin-tô, trong số đó, bức thư thứ nhất và bức thư thứ ba bị thất lạc. Bức thư mà chúng ta gọi thư thứ nhất, thực ra là thư thứ hai; và bức thư mà chúng ta gọi thư thứ hai, thực ra là thư thứ tư.
Thánh nhân viết thư thứ nhất này từ Ê-phê-xô vào mùa xuân năm 55. Những chia rẽ xé nát cộng đoàn non trẻ này và sẽ là đối tượng phần thứ nhất của bức thư này. Đây là những lời khuyên bảo phải nên “một lòng một ý” với nhau mà chúng ta khởi sự đọc vào Chúa Nhật hôm nay và tiếp tục đọc vào những Chúa Nhật kế tiếp.
Chúng ta không thể đọc thư này mà không xúc động, và đồng thời thán phục những lập luận thần học của thánh Phao-lô hay phương pháp huấn giáo của thánh nhân. Đối với thánh nhân, cuộc khủng hoảng xảy ra ở Giáo Đoàn Cô-rin-tô là một sự thử thách nghiêm trọng, vì thánh nhân không chỉ thấy công trình của mình bị đe dọa, nhưng ngài còn phải chịu những lời lăng mạ liên quan đến cá nhân mình. Thánh nhân quyết định viết một bức thư nghiêm khắc “Thật thế, tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hòa khi viết cho anh em” (2Cr 2: 4).
Tấn thảm kịch này giúp cho chúng ta nhận ra biết bao khó khăn trong việc cấy Ki-tô giáo vào môi trường ngoại giáo, môi trường này vốn đã được đào luyện bởi một nền văn hóa hoàn toàn khác với Do thái giáo và Giáo Hội vào lúc đó chỉ vừa mới hình thành nên chưa có đủ những quy định chặc chẽ.
Đoạn trích thư hôm nay là lời mào đầu, phù hợp với tập quán thư tín của thời ấy, bao gồm: tên và phẩm chất của người gửi, cũng như tên và phẩm chất của người nhận.
Ngay từ đầu thư, thánh Phao-lô giới thiệu mình: “Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô”. Thánh Phao-lô tự ý kể ra rằng thánh nhân đã lãnh nhận ơn gọi của mình trực tiếp từ Thiên Chúa: thánh nhân là Tông Đồ với cùng tước hiệu như nhóm Mười Hai. Tiếp liền sau đó, thánh Phao-lô nêu tên “ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi”: “người anh em” là danh xưng mà những người Ki-tô hữu xưng hô với nhau.
Người nhận là những Ki-tô hữu, họ hình thành nên “Hội Thánh của Thiên Chúa” ở Cô-rin-tô (đây là diễn ngữ ưa chuộng của thánh Phao-lô). Họ cũng đã được kêu gọi làm “dân thánh”, nhưng ngay tức khắc, thánh nhân mời gọi họ hãy khiêm tốn khi đặt mình trên cùng một bình diện với anh chị em của họ trong đức tin: thánh nhân cho họ thấy rằng phẩm chất đích thật của các Ki-tô hữu là hiệp nhất với nhau, vì thế mọi sự chia rẽ đều biểu lộ tình trạng kém phẩm chất của Ki-tô giáo.
Trong lời nguyện chúc sau cùng: “Xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an”, thánh Phao-lô hiệp nhất lời chào Hy lạp “ân sủng” và lời chào Do thái “bình an”, ngầm ủy thác cho họ những nguồn phong phú mới trong Đức Giê-su Ki-tô.
TIN MỪNG (Ga 1: 29-34)
Đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật II Thường Niên Năm A này được trích dẫn từ Tin Mừng Gioan chứ không Tin Mừng Mát-thêu như theo lẽ thường của Phụng Vụ năm A. Một cách nào đó, đoạn Tin Mừng này tiếp nối với đoạn Tin Mừng của ngày lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa. Tuy nhiên, đây không là đọc lại câu chuyện Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng là lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả. Quả thật, tất cả phần mở đầu của Tin Mừng Gioan được xoay chung quanh vai trò quan trọng của Gioan Tẩy Giả với tư cách nhân chứng.
Tựa Ngôn bị gián đoạn hai lần để đưa nhân vật Gioan Tẩy Giả vào nhằm nhấn mạnh vai trò chứng nhân của thánh nhân: lần thứ nhất, Gioan Tẩy Giả làm chứng Đức Giê-su là ánh sáng (1: 6-8); và lần thứ hai, Gioan Tẩy Giả làm chứng Đức Giê-su cao trọng hơn ông (1: 15). Đoạn Tin Mừng hôm nay lập lại cùng những ngôn từ với lời chứng của Gioan Tẩy Giả về sự cao trọng của Chúa Giê-su. Đây là điểm nhấn của Tin Mừng Gioan.
Tình tiết xảy ra vào những ngày Chúa Giê-su, sau khi trở về từ hoang địa, sắp bắt tay vào sứ mạng công khai của Ngài. Thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra sự cao trọng của Đấng mà ông đã làm phép rửa; vì thế, thánh nhân lên tiếng làm chứng cho Ngài:
-Thánh nhân đồng hóa Đức Giê-su với Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian,
-Thánh nhân khẳng định cuộc sống tiền hữu của Đức Giê-su và tính ưu việt của Ngài,
-Thánh nhân chứng thực điều mà thánh nhân đã thấy và đã nghe: Đức Giê-su, được Chúa Thánh Thần tấn phong, đích thật là Con Thiên Chúa.
Lời chứng thứ nhất của Gioan Tẩy Giả về Đức Giê-su: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Đây là tước hiệu mầu nhiệm, nhưng được đặt trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả, chắc chắn đây là tước hiệu Mê-si-a. Đối với những người Ki-tô hữu mà Tin Mừng Gioan ngỏ lời, tước hiệu này gợi lên việc Chúa Ki-tô bị sát tế, Ngài sẽ nhận án tử thập giá vào giờ mà các con chiên lễ Vượt Qua bị sát tế. Một quan điểm như thế không thể nào là quan điểm của vị Tiền Hô được.
Quả thật, Cựu Ước đã mô tả Người Tôi Trung “bị ngược đãi, cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53: 7). Đối với Gioan Tẩy Giả, xem ra còn hơn thế nữa, chiên là hình ảnh của sự vô tội và tinh tuyền. Đấng mà vị Tiền Hô đã không muốn làm phép rửa vì ông nhận ra Ngài là một con người vô tội, chính Đức Giê-su này hiện có mặt ở đó và đang tiến về phía mình: Ngài như con chiên không tì vết mà Lề Luật truyền lệnh dâng hiến thành hy lễ.
Mặt khác, văn chương khải huyền, vẫn còn nở rộ vào thời Chúa Giê-su, hình dung Đấng Mê-si-a đến dưới hình dạng của một con chiên yếu ớt, nhưng Thiên Chúa ban cho Ngài sức mạnh và quyền năng, và làm cho Ngài thành một con chiên khải hoàn. Chính xác, tác giả Tin Mừng Gioan sẽ lấy lại trong sách Khải Huyền của mình hình ảnh Con Chiên khải hoàn mà thánh nhân sẽ đồng hóa với hình ảnh Con Chiên bị sát tế.
Đây là kiểu nói độc nhất trong toàn bộ Tân Ước và được lập lại mỗi lần cử hành Thánh Thể: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến tham dự bàn tiệc Thiên Chúa”. Tin Mừng Gioan nói về tội lỗi ở số ít. Khi đặt tội lỗi ở số ít, thánh sử hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh tội lỗi của người Do thái và tội lỗi của lương dân, vì diễn ngữ “trần gian” chỉ tất cả nhân loại.
Lời chứng thứ hai của thánh Gioan Tẩy Giả: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì có trước tôi”, đã được đưa vào trong Tựa Ngôn rồi, được lập lại ở đây vừa khẳng định cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su vừa tính ưu việt của Ngài.
Quả thật, trong khi các Tin Mừng Nhất Lãm đưa gia phả của Chúa Ki-tô lên đến tổ phụ Áp-ra-ham (Tin Mừng Mát-thêu) hoặc lên đến nguyên tổ A-đam (Tin Mừng Lu-ca), thì Tin Mừng Gioan lại đưa gia phả của Đức Giê-su lên cho đến lúc khởi đầu tuyệt đối:
“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (1: 1).
Như vậy, ở nơi lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả, cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su được nêu bật rất rõ nét bởi một sự đối lập rất mạnh giữa “có người đến sau tôi” ở phần đầu và “có trước tôi” ở phần sau cùng: về phương diện con người, Đức Giê-su chào đời sau Gioan Tẩy Giả, nhưng về phương diện Thiên Chúa, Ngài có trước Gioan Tẩy Giả.
Lời chứng thứ ba của Gioan Tẩy Giả nhắm đến tước vị làm Con Thiên Chúa của Đức Giê-su được công bố vào lúc Ngài chịu phép rửa. Trong khi ba Tin Mừng Nhất Lãm gán lời khẳng định này cho tiếng phán từ trời, thì Tin Mừng Gioan đặt tiếng phán này trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả. Chính thánh nhân là người công bố: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Con Thiên Chúa”.
Đồng thời thánh Gioan Tẩy Giả xác định sứ mạng tiền hô của mình: sứ mạng của thánh nhân chính là bày tỏ Đức Giê-su cho dân Ít-ra-en. Tự bản thân mình, thánh nhân đã không biết chân tính của Đức Giê-su: “Tôi đã không biết Người” (động từ “biết” có một nghĩa rất sâu xa trong Tin Mừng Gioan); nhưng nhờ cuộc Thần Hiển vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa mà thánh nhân xác nhận tính siêu việt của Đấng mà thánh nhân loan báo. Hơn nữa, Thánh Thần đã báo trước cho thánh nhân rồi.
Mặt khác, Tin Mừng Gioan là Tin Mừng duy nhất nhấn mạnh Chúa Giê-su được Chúa Thánh Thần tấn phong khi nói rằng Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su. Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ở trong Chúa Giê-su, chiếm đoạt lấy Ngài. Quả thật, Chúa Giê-su, sinh hạ bởi quyền năng của Thánh Thần, được Thánh Thần hằng ở cùng ngay từ khi thụ thai.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giê-su ở đây loan báo ngày lễ Ngũ Tuần: các Tông Đồ cũng được Chúa Thánh Thần tấn phong trước khi các ngài bắt tay vào việc loan báo Tin Mừng. Cũng vậy, người Ki-tô hữu vào lúc chịu phép Rửa lãnh nhận sức sống của Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong họ.
Cuối cùng, chúng ta không thể loại trừ rằng Tin Mừng Gioan đã có một hậu ý biện giáo, hay đúng hơn truyền giáo, khi nhấn rất mạnh tính trổi vượt của Chúa Giê-su trên Gioan Tẩy Giả. Quả thật, một thời gian dài sau khi vị Tiền Hô qua đời, vẫn còn có những cộng đoàn xem thánh nhân là Đấng Mê-si-a và họ tiếp tục thực hành phép rửa sám hối. Sách Công Vụ nói cho chúng ta biết có một nhóm như thế ở Ê-phê-xô (Cv 19: 1-7). Vì thế, Tin Mừng Gioan muốn xóa tan mọi ngộ nhận như vậy bằng cách khẳng định rằng Gioan Tẩy Giả không phải là Đấng Mê-si-a.
.
Lm Giuse Nguyễn Minh Chánh
Khi Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “ Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1.29). Qua lời giới thiệu trên, Thánh Gioan Tẩy Giả muốn giúp chúng ta khám phá hình ảnh con chiên trong Cựu ước. Và từ hình ảnh đó, mỗi người chúng ta sẽ dễ nhận ra Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa như lời Thánh Gioan Tẩy Giả đã khẳng định. Nhờ đó chúng ta sẽ được khơi lên niềm hy vọng vào Đức Giêsu Kitô, Nguồn hạnh phúc của chúng ta.
1/ Chiên Vượt Qua:
Khi Thiên Chúa quyết định giải thoát dân Israel ra khỏi Ai Cập, Ngài truyền cho mỗi gia đình trong dân Do thái phải sát tế một con chiên đực. Con Chiên sát tế phải toàn ven, không quá một tuổi. Hơn nữa phải lấy máu chiên bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Trong đêm ấy, Đức Chúa sẽ rảo khắp đất Ai Cập, sẽ sát hại các con đầu lòng Ai Cập. Còn vết máu chiên được bôi lên khung cửa nhà của dân Do thái, đó là dấu hiệu dân Chúa đang ở đó, Đức Chúa sẽ vượt qua và con cái dân Do Thái sẽ không bi tiêu diệt (x Xh 12,1-4). Như vậy nhờ máu chiên trong tiệc vượt qua, dân Do Thái đã không bị tiệu diệt, nhưng nhờ đó mà họ đã được giải thoát khỏi đất nô lệ Ai Cập, được trở nên dân tộc được Chúa thánh hiến, được Chúa nhận làm dân sở hữu, được phụng thờ Thiên Chúa.
Từ hình ảnh con chiên vượt qua trong Cựu ước, sau này các vị chứng nhân trong Tân ước đã nhận thấy nơi Đức Giêsu Kitô chính là Con Chiên Vượt Qua đích thực.
2/ Đức Giêsu Là Chiên Vượt Qua:
Không phải vô tình hay do cảm hứng mà Thánh Gioan Tẩy Giả đã khẳng định với mọi người Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Chắc hẳn những lời từ miệng Gioan Tẩy Giả thốt ra, đó là kết quả của chuỗi ngày ngài đã cảm nghiệm về sứ mạng mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trong trần gian. Theo Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu sẽ hoàn tất sứ mạng của Ngài bằng việc phải đổ máu, phải chịu sát tế như chiên con. Và kết quả công trình cứu độ của Đức Giêsu là nhờ Máu Ngài mà nhân loại được cứu độ.
Về điểm này, chính Thánh Phêrô đã khẳng định cho chúng ta ơn cứu độ mà nhân loại được đón nhận là nhờ Máu của Đức Giêsu Kitô đổ ra, Ngài chính là Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã nói: “ Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích là Đức Kitô” (1 Pr 1,19). Hơn nữa bằng tất cả lòng xác tín ơn cứu độ được thực hiên nhờ Máu Đức Giêsu đổ ra, Tác giả thư Do thái đã tuyên xưng cho chúng ta biết: “ Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa Hằng Sống” (Dt 9,14). Như vậy, qua những dòng cảm nhận của các chứng nhân về Đức Giêsu là Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Tất cả như muốn mở ra cho chúng ta niềm hy vọng vào Đức Giêsu Kitô. Nơi Ngài ơn cứu độ sẽ tuôn chảy đến mọi tâm hồn. Và những ai tin tưởng cũng như đón nhận Máu sự sống của Ngài, chắc chắn sẽ được tẩy xoá mọi vết nhơ, được giao hoà với Thiên Chúa, được đón nhận sự sống muôn đời. Vì trong khi lập Bí Tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về hiệu lực của việc Ngài tự đổ máu cho nhân loại, khi Chúa nói: “ Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là Máu Thầy, Máu giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28). Và nơi khác Chúa lại khẳng định dứt khoát bằng những lời rõ ràng này như sau: “ Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”(Ga 6,54). Đây cũng là lời hứa cứu độ mà Đức Giêsu đã khơi nên niềm hy vọng cho chúng ta.
3/ Niềm Hy Vọng Nơi Đức Giêsu Là Chiên Thiên Chúa:
Từ hình ảnh Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, giờ phút này đã khơi lên trong tâm hồn chúng ta niềm hy vọng vững chắc nơi Ngài. Nếu như dân Do thái bên đất Ai Cập khi xưa đã được cứu sống nhờ máu con chiên, thì Đức Kitô nhờ Máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã đem lại sự sống toàn vẹn cho chúng ta. Kể từ giây phút tuyệt vời ấy, sự sống con người phải được bắt nguồn từ Đức Kitô. Con người sống là nhờ Đức Kitô, bởi Đức Kitô. Hay nói cách khác, Đức Kitô Chiên Thiên Chúa chính là sự sống của con người.
Khi nhìn ơn cứu độ khởi sự từ Đức Kitô, chúng ta rất an lòng và vững tâm. Vì thế chúng ta hãy tìm đến Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa đển đón nhận Máu cứu độ của Ngài. Chắc chắn khi khao khát được hiệp thông trọn ven với Máu Đức Kitô là Nguồn suối mang lai sự đổi mới cho sự sống nhân loại, chúng ta bắt đầu một nguồn sống mới với niềm hy vọng tốt đẹp cho tương lai. Đời sống mới này sẽ do chính Chúa ban tặng cho chúng ta, nghĩa là: Từ con người trước đây là nạn nhân của những bất công, chúng ta sẽ tìm gặp công lý và sự thật. Từ con người bị nô lệ cho tội lỗi, chúng ta sẽ được giao hoà với Thiên Chúa và được tự do hoàn toàn trong Chúa. Từ con người mất tình nghĩa với Thiên Chúa, chúng ta sẽ được trở nên người thân tình với Thiên Chúa. Đặc biệt từ một con người thiếu vắng sự sống của Thiên Chúa, chúng ta sẽ được đón nhận tràn đầy sự sống từ Thiên Chúa, sự sống bất diệt và hạnh phúc muôn thuở.
Với những cảm nghiệm cùng với niềm hy vọng vững chắc vào Đức Giêsu Kitô Chiên Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ rất vững tâm và an lòng. Thế nhưng chúng ta cũng phải biết khiêm tốn xin Me Maria luôn nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta mỗi ngày, luôn biết gắn bó với Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian. Amen.
.
Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh
Trong thường nhật cuộc sống có khi chúng ta nhìn mà không thấy, biết mà không hiểu. Chúa Nhật thứ 2 mùa Thường Niên nêu cho chúng ta chứng cứ nầy, đây là kinh nghiệm của ông Gioan Tẩy Giả khi nói về Đức Giêsu, là người họ hàng của ông. Chắc hẳn cả hai đã có thời kỳ niên thiếu bên nhau, biết nhau trong sinh hoạt, thế mà ông Gioan đã hai lần phát biểu trong bài Tin mừng, làm chúng ta sửng sốt: “Tôi đã không biết Người” (Bài Tin Mừng Ga 1, 29-34). Nhất thiết phải có biến cố nào đó khiến ông Gioan Tẩy Giả thay đổi cái nhìn và sự phỏng đoán của ông về đấng Mêsia. Lời khẳng định: “Tôi đã không biết Người” khác hẳn với nội dung trước đây ông nói về đấng Mêsia, như Người cầm nia để sàng trấu lép bỏ vào lửa, như rìu đã đặt ở gốc sẵn sàng đốn ngã cây không sinh trái … Ông loan báo Đấng Mêsia như một quan toà nghiêm khắc, không khoan nhượng, quét sạch sân lúa là dân tộc mình!
Một thời gian sau, ông Gioan tỏ ra cẩn trọng hơn, nhất là khi ông ở trong tù, ông nghe ngóng những lời đồn thổi về đấng Mêsia cư xử nhân từ mà ông đã mường tượng là nghiêm khắc từ ban đầu. Để cân bằng chênh lệch giữa quan niệm và thực tế về đấng Mêsia, ông đã sai môn đệ tới phỏng vấn Đức Giêsu: “Ngài là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng khác?” Đức Giêsu đã dùng lời sấm của tiên tri Isaia để trả lời cuộc phỏng vấn: “Hãy về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ điếc nghe được, người què đi được, bệnh nhân được chữa lành và người chết sống lại”. Những việc làm nầy chứng tỏ Người là đấng Mêsia phải đến, như Sách Thánh đã tiên báo, bởi vì việc làm định nghĩa con người.
Biến cố nơi sông Giođan, khi Đức Giêsu hoà mình vào dòng người sám hối xin chịu thanh tẩy, phản ứng của Gioan là nhận thấy mình bất xứng để ban phép rửa thống hối cho Đức Giêsu, ngay cả việc cởi quai dép cho Người, ông cũng không xứng đáng. Chính Đức Giêsu dấn tới, ông Gioan mới xối nước trên Người. Xảy ra khi Đức Giêsu lên khỏi nước, ông Gioan xác nhận: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’” (câu 32-33). Cách sống của Đức Giêsu và sự việc xảy ra ở Giođan làm cho Gioan thay đổi định nghĩa về đấng Mêsia.
Từ đó, ông Gioan đã thay đổi quan niệm về đấng Mêsia, ông thoáng thấy Đức Giêsu là con chiên bị đem đi giết, là Người Tôi Tớ của Giavê, là đấng Mêsia mang thân phận con Chiên của Thiên Chúa gánh lấy tội trần gian để xoá bỏ tội lỗi. Những cảm nhận nầy nhắc nhớ con chiên vượt qua bị sát tế trong đêm Xuất Ai cập, máu chiên đổ ra, ghi trên cửa nhà đã cứu người con đầu lòng của mỗi gia đình Do thái. Ông Gioan Tẩy Giả đã không biết đến Đấng Mêsia nhân từ đó! “Tôi đã không biết Người”. Ông nhầm lẫn về sứ mệnh của Đấng Mêsia, ông cứ tưởng sẽ có một đấng Mêsia đầy quyền lực, để trừng phạt theo kiểu quan tòa nghiêm khắc bất bao dung không biết khoan nhượng, luôn có bộ mặt hình sự cáo tội hơn là bào chữa cho bị can.
Cho đến ngày hôm nay, người ta cũng còn nhầm lẫn về Thiên Chúa, người ta muốn biến Thiên Chúa thành thế lực chính trị, kéo lôi Người về phe mình để trị tội kẻ khác. Thiên Chúa không liên minh quân sự với phe nhóm nào cả, Người liên đới với con người cần được cứu độ khỏi vòng nô lệ tội lỗi. Thật ra trong cuộc sống, có lần Người đồng bàn với hạng tội lỗi cần được yêu thương và tha thứ, Người mang lấy tội lỗi nhân loại. Trong nhãn quan đó chúng ta hiểu được lời giới thiệu của Gioan: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (câu 29).
Gương mặt hiền hậu và nhân từ nầy phản ánh phần nào trong các diễn văn, trong các bài huấn đức, trong cử chỉ cúi xuống ôm hôn người khuyết tật, những hành động đầy cảm thông và yêu thương của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đương nhiệm đối với người bất hạnh như muốn xóa đi một quan niệm Giáo Hội quyền bính, triều đại xa cách dân đen, như muốn xích lại gần với giới nghèo theo truyền thống tốt đẹp của Giáo Hội từ ban đầu, như muốn mặc lấy tâm tình của Đức Giêsu trong cách cứu thế.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hiến thân làm Con Chiên cứu chuộc trần gian. Nhờ đó chúng con đã được rửa sạch tội lỗi và được làm hoà với Thiên Chúa. Chúng con xin cảm tạ Chúa và cố gắng bắt chước sống thân phận của Con Chiên Thiên Chúa biết cảm thông và liên đới với tha nhân. Amen.
.
ĐỨC GIÊSU LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ NHÂN LOẠI
Lm. Duy Khang
Thánh Gioan tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, và ông rất vinh dự được làm người dọn đường cho Đấng Cứu Thế sắp đến. Hôm nay, khi thấy Đức Giêsu đến với ông, ông đã mạnh mẽ công bố với mọi người Do Thái rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
Ông Gioan tẩy giả làm chứng về Đức Giêsu đích thực là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha tuyển chọn, thánh hiến bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần để thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại, trong tư cách là Đấng Messia.
Ông Gioan tẩy giả đã sử dụng đến hai biểu tượng tuyệt đẹp, đó là con chiên: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Con chiên là một con vật quen thuộc đối với dân Do Thái ngày xưa, được nhắc nhiều lần trong Kinh Thánh. Hình ảnh con chiên rất có ý nghĩa, nhằm mô tả Đức Giêsu là con chiên chiến thắng, con chiên như người tôi trung, và con chiên như con chiên trong Lễ Vượt Qua.
Đức Giêsu là con chiên chiến thắng. Theo sách Khải Huyền thánh Gioan tông đồ, con chiên đã chiến thắng quyền lực sự dữ trên trái đất (x. Kh 17,14). Thánh Gioan còn khẳng định: “Bây giờ anh em biết Đức Giêsu đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi” (1Ga 3,5); và “Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỷ đã làm” (1Ga 3,8). Như vậy, quả không sai khi ông Gioan tẩy giả mô tả Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa là Đấng phá bỏ tội lỗi của thế gian.
Đức Giêsu là con chiên như người tôi trung, như sách ngôn sứ Isaia mô tả trong chương 42 và 53. Người Tôi Trung đã gánh hoặc chuộc những tội lỗi của nhiều người (x.Is 53,4-12). Cũng vậy, bằng cái chết của Người, Chúa Giêsu đã xóa tội hoặc đã gánh tội cho thế gian. Nhờ những vết thương của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và sự chết của Người, đã chữa lành tội lỗi của chúng ta (1Pr 2,25; Is 53,5).
Đức Giêsu là con chiên như con chiên trong Lễ Vượt Qua. Đức Giêsu bị kết án tử vào ngày lễ Vượt Qua (Ga 19,14). Người là con chiên mà dân Do Thái bôi lên cửa, làm dấu để được cứu thoát, nói đến trong sách Xuất Hành (12,46), con chiên đã hy sinh (Kh 5,9), con Chiên đổ máu mình trên thập giá tẩy rửa tội lỗi nhân loại và giải thoát khỏi sự chết.
Tóm lại, con chiên được ông Gioan tẩy giả mô tả, như một lời giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại. Mặc dầu Người vô tội, nhưng lại chấp nhận gánh lấy tội lỗi của nhân loại vào thân thể của Người, đến độ, Người đã dùng chính cái chết của mình để giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết. Hôm nay, Gioan tẩy giả đã làm chứng và lời chứng của ông đã thành hiện thực trong công trình cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô.
Hôm nay, trong mỗi Thánh lễ, chủ tế đều nhắc lại lời của thánh Gioan tẩy giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”, và mời gọi người Kitô hữu đón nhận Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta có Chúa Kitô ngự trong lòng, và sự sống của Người ở trong chúng ta.
Chúng ta hãy chiêm ngắm tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã dành cho chúng ta đến độ chết vì chúng ta. Chúng ta hãy làm chứng về tình yêu cứu độ của Người cho nhân loại. Chúng ta hãy sẵn sàng cộng tác với Giáo Hội bằng cách giúp đỡ cho người ta được thoát khỏi sự dữ và tội lỗi đang lan tràn trong gia đình, trong xã hội. Chúng ta hãy giúp cho những người xung quanh chúng ta sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Giêsu là Đấng giải thoát và cứu chuộc của mọi người.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Trong những ngày này, ngang qua Lời Chúa trong các bài Tin Mừng, Giáo Hội tiếp tục trình bày cho chúng ta chân dung của thánh Gioan Tẩy Giả, như là chứng nhân của Đức Kitô, Đấng là Sự Sống và Ánh Sáng.
Xin Chúa cũng khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao trở thành chứng nhân của Đức Kitô, bằng cách đón nhận sự sống mỗi ngày của chúng ta từ Ngôi Lời, và sống sự sống của chúng ta như là ánh sáng, thay vì như là bóng tối. Bởi vì Ngôi Lời là Sự Sống và ở nơi Người Sự Sống là Ánh Sáng.
* * *
Trả lời cho câu hỏi về căn tính “ông là ai?”, thánh Gioan tuyên bố thẳng thắn, mình không phải là Đấng Kitô. Nhưng điều phải làm cho chúng ta ngạc nhiên, đó là ông cũng không tự cho mình là Elia hay là một ngôn sứ:
Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không? ” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng? ” Ông đáp: “Không”.
Trong khi đó, Đức Giêsu sẽ nói về ông như là vị ngôn sứ lớn nhất và như chính ngôn sứ Elia trở lại: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả… Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gioan chính là Êlia, người phải đến (Mt 11, 11-15 và 17, 10-13). Nhưng về phần thánh Gioan, ngài chỉ tự nhận mình như là tiếng hô hoàn toàn hướng về Đức Chúa: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói”. Xin cho chúng ta có lòng ước ao có được tâm tình khiêm tốn này của thánh Gioan:
Như thánh Gioan đã trở thành điều mà lời ngôn sứ Isaia đã loan báo. Cũng vậy, chúng ta được mời gọi để cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi cuộc đời của mình. Xin cho Lời Chúa mà chúng ta đọc, lời nguyện Thánh Vịnh mà chúng ta hát dâng lên Chúa hàng ngày cũng được ứng nghiệm, được thực hiện nơi cuộc đời và trong mỗi ngày sống của chúng ta.
Như thánh Gioan, chúng ta được mời gọi sống sự sống của mình, sống thời gian Chúa ban, sống đời mình và ơn gọi của mình như một lời mời gọi, không phải mời gọi qui về mình, nhưng là qui về Đức Kitô.
Như thánh Gioan, chúng ta cũng tự mình không thể biết Đức Kitô, nhưng đó là ơn huệ của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, thánh nhân nhấn mạnh:
Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước”,“Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”.
Như thế, sự hiểu biết Đức Kitô của thánh Gioan hoàn toàn là ơn huệ: của chính Thiên Chúa Chúa Cha, vì Người đã thúc đẩy thánh Gioan đi tìm kiếm Đức Kitô; của Chúa Thánh Thần, vì dấu chỉ để nhận biết Đức Kitô, là sự hiện diện của Thần Khí; và cuối cùng là của chính Đức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa đến tỏ mình ra cho thánh Gioan:
Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Cũng vậy, lời chứng của chúng ta về Đức Kitô, cũng hoàn toàn đến từ kinh nghiệm được đích thân gặp gỡ Đức Kitô và giới thiệu Người cho mọi người, như thánh Gioan sẽ giới thiệu Đức Kitô cho hai môn đệ của mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
* * *
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Lời tuyên xưng này chất chứa cả một mầu nhiệm cứu độ và vì thế, trở thành bất hủ, vì được tuyên xưng tới bốn lần trong mỗi Thánh Lễ: sau khi chúng bình an, cộng đoàn phụng vụ đọc hay hát: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian…” (3 lần); tiếp đến, linh mục chủ tế dâng cao Mình Thánh trên chén (hoặc dĩa) thánh, long trọng công bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội, nhưng lại mang vào mình mọi tội lỗi của từng người và loài người chúng ta, như Người Tôi Tớ Đau Khổ, để ban cho chúng ta sự vô tội của Ngài.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội bị sát tế, để bày tỏ sự tín thác tuyệt đối vào đức công chính và sự sống mạnh hơn sự chết nơi Thiên Chúa, và để trở thành đường đi và sự sống cho chúng ta.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên hiền lành, diễn tả khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa là tình yêu và chỉ là tình yêu mà thôi.
Như thánh Gioan, xin cho chúng ta cũng khao khát gặp gỡ, hiểu biết và yêu mến Đức Kitô, để có thể nói cho mọi người, ngang qua chính đời sống hằng ngày của chúng ta: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Khi thấy ông Gioan làm phép rửa và kêu gọi ăn năn sám hối, người Do thái từ Giêrusalem đã cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại hỏi: “Vậy ông có phải là Êlia hay là một vị ngôn sứ nào chăng?” Ông cũng từ chối. Và họ hỏi tiếp: “Thế ông là ai?” Ông trả lời: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi.” Họ lại hỏi: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay một vị ngôn sứ?” Ông Gioan trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.
Hôm sau, thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian…Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ” Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.(xem Ga. 1: 19-34)
Trước khi bước vào cuộc sống công khai, Đức Giêsu không muốn tự mình giới thiệu về mình, nhưng Ngài muốn nhờ một người khác làm thay công việc ấy.Người ấy chính là ông Gioan.Ông có đủ uy tín, thánh thiện để làm việc ấy. Việc Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan trước khi đi vào cuộc sống công khai là để qua ông, Thiên Chúa mặc khải cho con người biết Thiên Chúa là Đấng nào và Đấng Mêsia là ai. Ông là người được tiên báo cho biết dấu hiệu nào để nhận ra Đấng Thiên Chúa tuyển chọn, và ông đã giới thiệu với dân chúng Đấng ấy là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian. Đấng ấy đến sau ông, nhưng có trước ông và cao trọng hơn ông; phần ông, ông tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa.Dù ông được nhiều người biết đến và ca tụng, nhưng ông một mực từ chối tất cả những danh hiệu nào người ta gán cho ông.Ông chỉ có một mục đích là làm chứng và giới thiệu Đấng Thiên Chúa tuyển chọn, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, dọn đường cho Đấng ấy đến.
Trong cuộc sống công khai, Đức Giêsu đã tự giới thiệu mình với dân chúng.Và sau khi chịu chết, phục sinh và lên trời, Ngài lại muốn chúng ta, những người Kitô hữu, những môn đệ của Ngài tiếp tục công việc làm chứng và giới thiệu Ngài với muôn dân để tất cả cũng được đón nhận ơn cứu độ.Nhưng chúng ta đã làm chứng và giới thiệu Ngài với người khác như thế nào qua hai câu chuyện sau đây?
Có một câu chuyện kể rằng:
Một Rabbi già nằm trên giường bệnh. Bên giường ông, các môn đệ đang xầm xì với nhau.
Một người trong họ nói:
– Từ thời Salomon đến giờ, chưa có ai khôn ngoan như thầy.
Một người khác nói:
– Và cả đức tin của thầy nữa, nó mạnh mẽ không kém đức tin của tổ phụ chúng ta là Abraham.
Người thứ ba nói:
– Sự kiên nhẫn của thầy cũng không thua gì của ông Gióp.
Người thứ tư tiếp lời:
– Chỉ có ông Môisê mới có thể so sánh với thầy về mức độ hoán cải sâu xa với Chúa như vậy.
Vị Rabbi có vẻ trằn trọc. Khi những môn đệ đi rồi, vợ ông hỏi:
Anh có nghe họ ca tụng anh không?
Rabbi trả lời:
– Có chứ!
Người vợ thắc mắc:
– Vậy sao trông anh có vẻ khó chịu thế?
Người chồng trả lời:
– Vì chẳng ai đề cập đến tính khiêm nhường của anh cả!
Lại một cậu chuyện khác:
Một người nọ sống đạo đức đến nỗi các thiên thần phải nhảy mừng khi trông thấy anh.Nhưng anh thì lại chẳng bao giờ nghĩ mình là người thánh thiện.Anh sống vô tư, làm những công việc thường ngày, tỏa hương đạo đức cách tự nhiên.Anh không bao giờ nghĩ đến quá khứ của người khác.Anh nhìn người khác bằng chính thực tại của họ.Anh nhìn vào tận vẻ đẹp thâm sâu của người khác như hồn nhiên, đơn sơ, chất phát không biết gì về điều họ đang làm.Vì thế, anh yêu thương tha thứ cho tất cả những ai anh gặp, và anh chẳng cảm thấy gì là phi thường trong những chuyện ấy. Đó là cách anh nhìn con người.
Ngày nọ, một thiên thần đến nói với anh:
– Tôi được Thiên Chúa sai đến với anh. Anh hãy xin bất cứ điều gì anh muốn, anh sẽ được toại nguyện.Anh có muốn xin được ơn chữa bệnh không?
Anh trả lời:
– Không. Việc ấy để Thiên Chúa làm.
Thiên thần lại hỏi:
– Thế anh có muốn được ơn đưa các tội nhân trở về đường ngay chính không?
Anh trả lời:
– Không. Đánh động con tim của người ta không phải là việc của tôi. Đó là việc của các thiên thần.
– Có phải anh muốn trở thành một tấm gương nhân đức để mọi người bắt chước anh không?
– Không. Làm như thế, tôi sẽ trở thành tiêu điểm chú ý của người khác.
-Vậy anh muốn gì? Thiên thần hỏi.
– Tôi muốn ân sủng của Thiên Chúa. Có ân sủng là tôi có tất cả.
Thiên Thần bảo anh:
– Không được. Anh phải xin một phép lạ nào đó cơ! Nếu anh không xin, anh sẽ bị ép phải nhận đấy.
– Vậy thì tôi xin điều này: Xin cho tất cả những điều tốt lành được thực hiện qua tôi sao cho tôi không hề biết về những điều ấy.
Thế là Thiên Chúa quyết định rằng chiếc bóng thánh thiện của con người này sẽ có năng lực chữa bệnh bất cứ khi nào nó đổ về phía sau lưng anh. Từ đó, bất cứ nơi nào bóng anh đổ xuống, miễn là lưng anh quay về phía đó, thì những bệnh nhân được chữa lành, đất trở nên màu mỡ, các dòng suối làm nảy sinh sự sống, và vẻ sinh động trở về với những nét mặt vốn rầu rĩ do những gánh nặng cuộc đời.
Nhưng con người thánh thiện ấy không hề biết gì về điều này, bởi vì người ta quá tập trung chú ý đến chiếc bóng của anh đến nỗi họ không chú ý gì đến anh.
Thế là ước mơ của anh đã trở thành hiện thực: những điều tốt lành được làm qua anh, còn chính anh thì được lãng quên.
Mang danh Kitô hữu, chúng ta được đồng hóa với Đức Kitô trong cùng một thân thể, cùng đồng hành với Ngài trong suốt cuộc sống. Chúng ta được kêu gọi trở thành ánh sáng và muối ướp thế gian, được kêu gọi trở thành môn đệ của Ngài, được giao nhiệm vụ đi rao giảng tin vui cứu độ cho hết mọi người trong yêu thương và phục vụ.Thế nhưng trong thực tế, đôi khi chúng ta lại quên nhiệm vụ làm chứng và giới thiệu Đấng đang đồng hành với chúng ta. Chúng ta tự mãn mang danh Kitô hữu so với người khác, tìm vinh danh mình hơn là làm chứng và giới thiệu Đấng đang đồng hành với chúng ta.Sống kép kín và tự mãn với ơn cứu độ đã được đón nhận là sống thiếu yêu thương và phục vụ.Chúng ta làm cho mình lớn lên bằng tự phụ tự mãn với chính mình hơn là làm cho Đức Kitô vượt lên trên chúng ta.Chúng ta giới thiệu cái tôi của mình, cái nhãn Kitô hữu của mình thay vì giới thiệu, làm chứng cho Đức Giêsu Kitô. Bài học khiêm nhu của thánh Gioan: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” cũng là tinh thần, thái độ chúng ta phải có khi giới thiệu và làm chứng về Đức Kitô vậy!
.
Lm. Phạm Quốc Hưng
“Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội của thế gian”.
Trong Tin mừng hôm nay, Gioan Tiền Hô đã công khai giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: “Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khử trử tội của thế gian” (Ga 1:29). Với câu nói này, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Chúa Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa và Ngài là Đấng khử trừ tội của thế gian.
Khi gọi Chúa Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận sự vô tội và tinh tuyền thánh thiện của Chúa Giêsu.
Khi nói Chúa Giêsu là “Đấng khử trừ tội của thế gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Chính vì là Con Chiên vô tội của Thiên Chúa Chúa Giêsu mới có thể khử trừ tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Chúa Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân loại. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự khử trừ tội của con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ, nghĩa là sự tha thứ tội lỗi.
Chúa Giêsu khử trừ tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Người tội lỗi của tất cả nhân loại, từ tội của nguyên tổ Adong cho đến tội của người sau hết trong nhân loại. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Người đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại.
Nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa đã chỉ cho ta thấy ác quả kinh hoàng của tội lỗi vì nó dẫn đến sự đau khổ tột cùng và cái chết đau thương của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, và tình yêu vô biên của Thiên Chúa khi chính Người đã chấp nhận chịu đau khổ để giải thoát ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và khỏi chết đời đời.
Câu chuyện sau sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu xa hơn về sự đau khổ kinh hoàng mà Chúa Giêsu phải chịu để chuộc tội cho chúng ta. Từ đó, chúng ta cảm nhận cách thấm thía hơn tình yêu vô biên của Người dành cho ta.
Một cô gái đang có người yêu bị một kẻ lạ mặt hãm hiếp và đã có thai. Cô khổ tâm vô cùng vì bị người yêu khước từ và gia đình ngờ vực. Cô đã đến gặp Đức Cha Fulton Sheen than thở với ngài và hỏi ngài: “Tại sao con phải ra nông nỗi này?” Sau khi lắng nghe với tất cả sự cảm thông, Đức Cha ôn tồn trả lời cô gái: “Vì chị đã phải gánh tội của một người”.
Rồi Đức Cha Sheen kết luận: Nếu chỉ vì phải gánh tội của một người mà cô giái kia phải đau khổ buồn sầu như thế, thì khi phải gánh chịu tội của cả nhân loại Chúa Giêsu đã phải chịu đau khổ buồn sầu biết chừng nào!
Là những người Kitô hữu, chúng ta chẳng những được mời gọi để hưởng ơn cứu độ của Chúa Cứu thế nhưng còn được kêu mời để trở nên những “Chúa Cứu thế khác”. Đức Cha Fulton Sheen nói rằng chúng ta được cứu chuộc bằng cách trở nên những con người cứu chuộc. Điều này như một sự lập lại lời Chúa Giêsu khi Người dạy chúng ta đọc kinh Lạy Cha “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Thế giới hôm nay phải đau khổ trăm chiều vì con người càng sa đoạ, càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi. Làm thế nào để khử trừ hay ít ra là làm giảm bớt tội lỗi trên thế giới hôm nay?
Chắc chắn không có cách nào tốt hơn, hoàn hảo hơn đường lối Chúa Giêsu đã thực hiện để trở nên “Đấng khử trừ tội của thế gian.”
Để đi theo đường lối của Chúa Giêsu, trước hết chúng ta phải noi gương Chúa Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa” qua việc cố gắng sống thánh thiện và xa lánh mọi tội lỗi. Kế đến, chúng ta phải nổ lực trở nên giống Ngài là “Đấng khữ trừ tội lỗi của thế gian” bằng cách vui nhận những khó khăn, đau khổ, thử thách trong cuộc sống để kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu và cầu nguyện xin Chúa tha thứ tội lỗi cho tha nhân, nhất là những người đang làm ta đau khổ cách này hay cách khác.
Bao lâu chúng ta chưa biết xa lánh tội lỗi, chưa biết nhìn nhận trách nhiệm về tội lỗi của chính mình, chưa biết noi gương Chúa Giêsu quảng đại tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, chưa dấn thân lãnh lấy trách nhiệm đền tội thay cho tha nhân, bấy lâu chúng ta chưa phải là những người tín hữu đích thực của Chúa Kitô.
Trong mỗi Thánh lễ, trước khi hiệp lễ, chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu bằng lời nguyện “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con.” Liền sau lời nguyện đó, linh mục chủ tế cũng giới thiệu Chúa Giêsu Thánh thể cho chúng ta bằng những lời như Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng năm xưa: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…” Lúc ấy, chúng ta hãy sốt sắng hiệp cùng Mẹ Maria nài xin Chúa Giêsu Thánh Thể mà ta sẽ rước vào lòng cho ta biết kết hợp mật thiết với Người, để nhờ Người và trong Người ta sẽ sống như những con chiên đích thực của Chúa, những con người biết sống yêu thương tha thứ và hiệp nhất trọn vẹn với tha nhân.
.
Lm. Minh Vận
Giới thiệu là một nghệ thuật đã được các nhà thương mại tận dụng tối đa, qua các phương tiện truyền thông như báo chương, truyền thanh, truyền hình, các bảng quảng cáo khắp đó đây. Nghệ thuật giới thiệu trình bày đó đã trở thành một phân khoa dạy trong các trường đại học, giúp cho các nhà chuyên môn biết cách giới thiệu trình bày thế nào cho hấp dẫn, để dễ lôi kéo thu hút được sự chú ý và hâm mộ của khách mộ điệu và giới tiêu thụ.
Do đó, phải giới thiệu thế nào cho đúng với tư cách xã hội, tùy theo cách thế, hoặc thông thường hoặc trang trọng, sao cho hợp tình hợp cảnh, đúng nơi đúng lúc, đúng với địa vị chức vụ của mỗi người, lại phải hợp với phong tục tập quán của mỗi miền, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, và nếu cần còn phải theo đúng nghi lễ xã giao quốc tế… Hội đủ các điều kiện đó, việc giới thiệu mới đạt được thành quả tốt đẹp.
SỨ MẠNG CỦA THÁNH GIOAN TIỀN HÔ
Thánh Gioan là một tiên tri đã được Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hóa ngay từ khi còn trong lòng mẹ, được ủy thác một sứ mạng cao cả và quan trong vô cùng là làm vị Tiền Hô giới thiệu Chúa Kitô, là Đấng Thiên Chúa sai đến trần gian, cứu độ nhân loại, bằng việc rao giảng phép rửa sám hối, kêu gọi mọi người bỏ đàng tội lỗi bất chính, giúp nhân loại đón nhận Chúa Cứu Thế, hầu xứng đáng lãnh nhận Ơn Cứu Độ của Người.
Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Sử Gioan tường thuật: Khi ông Gioan thấy Chúa Giêsu đang tiến lại với mình, liền giới thiệu với mọi người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Jn 1:29).
Để thực thi sứ mạng cao cả này, Thánh Linh đã mạc khải cho Gioan nhận biết Đấng mà thánh nhân được chọn làm sứ giả giới thiệu Ngài, như lời thánh nhân đã tuyên xưng: “Một Đấng đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Người cao trọng hơn tôi. Và tôi vốn không biết Người”. Thánh nhân còn xác quyết: “Tôi đã thấy Thánh Thần Chúa như chiên bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Người. Về phần tôi, tôi vốn chưa biết Người, nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần Chúa ngự trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Tôi đã thấy, đã nhận biết và tôi xin làm chứng: Chính Người là Con Thiên Chúa” (Jn 1:29-34).
Thánh Gioan đã chu toàn sứ mạng làm Tiền Hô giới thiệu Chúa Kitô cho nhân loại, với tất cả sự hiểu biết, niềm xác tín vững mạnh và thâm sâu, mà ngài đã công khai tuyên xưng như một chân lý bất hủ. Hơn nữa, ngài còn sống niềm tin, tận tình phụng sự, và hết tình yêu mến Đấng mà ngài có sứ mạng giới thiệu. Thánh nhân đã tự thú nhận mình: “Không đáng quỳ xuống cởi giây giầy cho Người” và cố gắng tìm mọi cách tự xóa nhòa mình đi, để Chúa được tôn vinh như lời ngài quả quyết: “Người cần phải trổi lên, còn tôi cần phải hạ xuống”. Sau cùng, Thánh nhân còn lấy làm sung sướng được hy hiến chính mạng sống mình, để làm chứng cho Đấng ngài giới thiệu và rao giảng.
SỨ MẠNG CỦA TẤT CẢ CON CÁI CHÚA
Là con cái Chúa, như Thánh Gioan tất cả chúng ta đều được Chúa tuyển chọn, tùy theo ơn gọi, chức phận và địa vị của mỗi người, Chúa cũng ủy thác cho chúng ta sứ mạng làm chứng nhân, làm sứ giả giới thiệu Chúa Cứu Thế cho nhân loại, cho những người chúng ta có nhiệm vụ, cho hết mọi người chúng ta có liên hệ và giao tiếp trong đời sống hằng ngày. Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia cần được áp dụng cho mỗi người chúng ta, cũng như cho toàn thể Giáo Hội, Dân Riêng của Chúa: “Đây Ta đặt con như ánh sáng các dân tộc, để con đem Ơn Cứu Độ của Ta tràn lan khắp địa cầu” (Is 49:6).
Để được giới thiệu trong phương diện trần thế đạt được hiệu quả tốt, còn cần phải được áp dụng đúng nghệ thuật, đúng khoa học, hợp tình hợp cảnh, hợp thời hợp lúc; thì để thi hành sứ mạng cao cả giới thiệu Chúa Kitô cho tha nhân, còn cần phải hội đủ các điều kiện, các tư cách và đức tính khẩn thiết hơn muôn phần.
Do đó, vị sứ giả giới thiệu Chúa Kitô cho người khác, đòi buộc phải hiểu biết thâm sâu về Chúa, phải đồng hóa nên một với Chúa, phải sống bằng sự sống của Chúa; và hơn nữa, phải chiếm hữu được Chúa. Có như thế, tha nhân mới dễ dàng chấp nhận được chân lý chúng ta rao giảng; cảm nhận được sức sống thần linh và sự hiện diện đích thực và sống động của Chúa nơi chính bản thân của vị sứ giả, khiến người ta khát mong chiếm hữu Chúa là hạnh phúc, là cùng đích của họ.
Chính Chúa đã phán với chúng ta: “Các con là ánh sáng trần gian”, và Chúa truyền dạy: “Ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mọi người, để mọi người nhận biết Cha các con trên trời”, Đấng các con có nhiệm vụ giới thiệu Người, làm chứng nhân cho Người.
Kết Luận
Mẹ Maria là Vị Tôn Sư, là Nhà Giáo Dục huấn luyện đào tạo nên các vị Tông Đồ, thừa sai, sứ giả giới thiệu Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ.
Tại hang Belem xưa, Mẹ đã giới thiệu Chúa Hài Nhi cho các mục tử là những tâm hồn đơn sơ chất phác; Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa Hài Nhi cho các nhà đạo sĩ thông thái từ Đông Phương đến triều bái Chúa; Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa cho cụ già tiên tri Simêon và bà tiên tri Anna trong Đền Thờ, và Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa cho toàn thể nhân loại.
Hiền Mẫu Maria là Mẹ các Tông Đồ, Mẹ là mẫu gương phản chiếu chân dung đích thực của Chúa Giêsu Con Mẹ; Mẹ đã chiếm hữu được Chúa cách sung mãn tràn đầy, để chính Mẹ trở nên nguồn thác thông ban Chúa cho các tâm hồn.
Xin Mẹ dạy cho chúng con học biết khoa học cao cả này, để chúng được xứng đáng cùng với Mẹ giới thiệu Chúa, rao giảng Chúa, trao ban Chúa cho nhân loại và cho mỗi tâm hồn.
.
Lm. Thu Băng
Đấng xóa tội trần gian (Ga.1:29-34)
Đã hơn một tháng nay Giáo Hội cũng như thế giới đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Hôm nay (những ngày đã qua) thánh Gioan lại có dịp tuyên xưng “Đức Giêsu ngôi Lời Nhập Thể la Đấng xoá tội trần gian”. Gioan nghĩ gì khi tuyên bố lời đó? Khi tuyên xưng Chúa Kitô đã xóa tội trần gian?
Nhìn lại lịch sử các dân tộc, vào thời tiền sử đều nhận có những vị thần hộ thủ quốc gia. Để nguôi cơn giận của thần, vua phải hiến tế cho thần những lễ vật thật cao giá như: Cổ Hy Lạp đã dùng người trinh nữ để tế thần. Việt Nam đã dùng súc vật như bò để tế ở đàn Nam Giao. Các tổ phụ lại dùng con chiên một năm như tổ phụ Abraham….
Dùng của lễ là trút hết lòng thành vào đó để dâng, để mọi bất chính, mọi tắc loạn vào con vật để đốt cho con vật chết.
Trên nóc nhà thờ Verden nước Đức còn thấy một tảng đá khắc hình con chiên do chuyện: anh thợ đá đang làm việc trên mái, bị đứt sợi dây an toàn, anh té nhào xuống đất. May thay anh rớt trúng một con chiên, con chiên bị chết, còn anh không hề bị thương. Để nhớ ơn con chiên đã cứu mạng, anh khắc hình con chiên và gắn lên nóc nhà thờ.
Con chiên Thiên Chúa cũng đã chết để cứu độ chúng ta và làm cho chúng ta được sống trong ân sủng của Chúa. “Ngài đã thí mạng để cứu chuộc chúng ta”.
Sách Khải Huyền đã có tới 27 lần nhắc đến con chiên Thiên Chúa. Ngài gọi là chiên đã chết cho mọi người, mọi thời, mọi nơi.
Hình ảnh con chiên Thiên Chúa còn thấy nơi hang Toại Đạo, nơi thánh địa, đại thánh đường Rôma….
Bài sách thánh thứ hai có nói đến đặc ân Thiên Chúa vô cùng thương loài người là Ngài lấy máu chính mình và cái chết trên thập giá để đền tội và cho chúng ta khỏi chết.
Nhiều người đã quên ơn Thiên Chúa, cố tình quên ơn Chúa, chạy theo sự vật ở đời, cố tình gạt bỏ lương tâm mình, để sống theo lạc thú.
Lời Thánh Kinh: ”Người mẹ có bao giờ quên con mình được. Nếu họ có quên nữa thì ta cũng không quên được”.
Anh chị em chính là con chiên, xin đừng lãng quên Chúa, đừng khước từ Chúa, nhưng hãy luôn thưa: “Lạy Chúa, này con xin đến đẻ thực thi ý Chúa”.
.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Trong đời sống tương quan với xã hội, mỗi khi gặp người mới lạ, người ta thường giới thiệu nhau, để biết người đó là ai.
Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy kể lại một số trường hợp giới thiệu. Chẳng hạn như: Khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, và khi vừa bước lên khỏi nước thì có tiếng từ trời vọng xuống: “Đây là con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta”. Đó là lời giới thiệu của Thiên Chúa Cha.
Thánh Anrê tông đồ, sau khi gặp gỡ Đức Giêsu, thì lại giới thiệu cho anh em mình rằng:”Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia…” rồi ông đưa Phêrô đến gặp Đức Giêsu.
Tin Mừng hôm nay kể lại Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho các môn đệ của mình: “Đây là chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
Thật vậy, Đức Giêsu được Thiên Chúa Cha sai đến để gánh lấy tội lỗi nhân loại. Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Ngài hòa mình vào dòng người tội lỗi nơi bờ sông Giođan, để xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa. Vì gánh lấy tội trần gian mà Ngài đồng bàn với những người tội lỗi. Vì gánh lấy tội trần nên Đức Giêsu hiến thân mình chịu chết để tái sinh chúng ta trong ơn làm con Chúa.
Nhưng thưa anh chị em, muốn giới thiệu ai thì phải biết rõ thân thế sự nghiệp người đó. Càng biết rõ người đó bao nhiêu thì việc giới thiệu càng chính xác bấy nhiêu.
Như vậy, để giới thiệu chính xác về Đức Giêsu, Gioan tẩy giả đã phải dành rất nhiều thời gian sống trong hoang địa thanh vắng. Chính nơi đây Gioan đã lớn lên trong đời sống gắn bó mật thiết với Chúa, nhờ đó đã giúp ông biết rõ về Đức Giêsu, để rồi khi đến thời đến buổi, ông ra đi rao giảng và giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng, cách riêng những môn sinh của mình, để rồi những người này sau này họ đi theo Chúa và trở thành những tông đồ của Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, khi lãnh nhận Bí tích rửa tội được gắn liền với việc sai đi. Cho nên Chúa sai chúng ta đi là để giới thiệu Chúa cho người khác bằng đời sống cầu nguyện, bằng đời sống bác ái yêu thương phục vụ, đó là bổn phận của mọi người Kitô hữu chúng ta.
Thế nhưng, để giới thiệu Chúa cho hiệu có hiệu quả, thì việc đầu tiên chúng ta phải nói với Chúa trước khi nói về Chúa cho người khác. Có nghĩa là chúng ta phải có kinh nghiệm sống gắn bó với Chúa như Gioan Tẩy, hay như các môn đệ đầu tiên, thì mới có khả năng giới thiệu Chúa cho người khác được.
Thế thì, khi giới thiệu là chúng ta giới thiệu về Chúa những gì?
Thưa có nhiều cách thế, nhưng có thể chúng ta giới thiệu về một Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình. Một Thiên Chúa Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót yêu thương con cái mình. Và tất cả mọi người đều là anh em với nhau con cùng một Cha trên trời. Thế nhưng mà trong thực tế, mỗi người chúng ta phải đấm ngực và nhìn nhận rằng: nhiều khi chúng ta chưa sống đúng với vai trò giới thiệu của mình.
Bởi vì, tất cả chúng ta là con cùng một Cha trên trời, ấy thế mà lòng vẫn còn đố kỵ chia rẽ, vẫn còn sống không chân thành với nhau, có khi ngay trong mái ấm gia đình, trong làng xóm ngõ, họ hàng ruột thịt của mình. Đời sống đạo của chúng ta nhiều khi chẳng tốt lành hơn những người ngoại giáo. Thì lúc đó thay vì giới thiệu Chúa, thì lại làm méo mó, làm lem luốc gương mặt của Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương và đạo yêu thương của mình.
Anh chị em thân mến,
Lời giới thiệu của Gioan tẩy giả năm xưa, nay vẫn còn nhắc lại trong phụng vụ trước khi chúng ta rước lễ “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…”. Qua đó mẹ Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta hãy ý thức rằng: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài. Và Đức Giêsu cũng vì yêu thương mà xuống thế làm người để rồi gánh lấy tội lỗi chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức trong đời sống người Kitô hữu, là có nhiệm vụ giới thiệu Chúa cho người khác như Gioan tẩy giả, sống gắn bó với Chúa và sống yêu thương nhau. Vì như lời Chúa nói: “Sự sáng của các con cũng phải chiếu giải ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc làm của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Mọi nơi và mọi lúc, ở đâu cũng có những điều CẤM làm, có những điều NÊN làm, có những điều PHẢI làm. Các mức độ hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn, nói một điều gì đó – có thể nên hoặc không nên nói, cấm nói hoặc phải nói. Theo truyền thống hội đường Do Thái, luật gồm 613 điều – 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Điều CẤM LÀM nhiều hơn điều PHẢI LÀM. Nếu chia đều một năm, mỗi ngày có một điều cấm. Kinh khủng thật!
Trong cuộc sống, người ta có câu tục ngữ: “Im lặng là vàng.” Kinh Thánh xác định: “Người năng nói năng lỗi, ai dè giữ lời nói mới là người khôn.” (Cn 10:19) Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng nên im lặng, có những lúc không thể không nói, không thể im lặng, nghĩa là không chỉ NÊN nói mà còn PHẢI nói – thậm chí là cần nói nhiều. Và lúc đó, “lời nói còn quý hơn quà tặng.” (Hc 18:16)
Lời nói thực sự quan trọng, tại sao vậy? Kinh Thánh cho biết: “Nhờ lời nói mà người ta biết được ai khôn ngoan, do phát biểu mà biết được trình độ học vấn.” (Hc 4:24) Và còn hơn thế nữa: “Vinh hay nhục đều ở lời nói cả, và cái lưỡi chính là mối họa cho con người.” (Hc 5:13) Vì lý do đặc biệt là “ai cũng lầm lỗi trong lời nói của mình.” (Hc 19:16) Thật đáng quan ngại!
Lời liên quan Lưỡi (2 L), và Lưỡi liên quan Lời. Nếu không có lưỡi, người ta không thể nói, có lưỡi mà chỉ ngắn một chút thôi cũng không thể phát âm rõ, nghĩa là nói không chuẩn lời. Và lời nói liên quan các hệ lụy khác nữa.
Lời nói liên quan việc làm chứng. Chứng nhân là người kiên trì và trung tín làm chứng về một điều gì đó để bảo vệ Chân Lý và Công Lý, đặc biệt là làm chứng về Đức Kitô, Đấng-nhập-thể-và-nhập-thế. Chúa Giêsu ra lệnh: “KHÔNG ĐƯỢC LÀM CHỨNG GIAN.” (Mt 19:18) Chính Ngài đã xác định với chúng ta: “Việc Thiên Chúa muốn quý vị làm là tin vào Đấng mà Người đã sai đến.” (Ga 6:29) Tin nhận Chúa Giêsu là tin nhận và tôn vinh Chúa Cha.
Lời nói liên quan hành động, việc làm. Làm chứng là công việc cần thiết, nhưng hành động đó dễ khiến người ta đề cao cái tôi của mình, thế nên cần lưu ý: Cứ cố gắng làm theo khả năng Chúa ban, (1 Cr 3:5) đừng quá chú trọng kết quả, vì kết quả thế nào là tùy vào Chúa. Thánh Phaolô chia sẻ kinh nghiệm: “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.” (1 Cr 3:6) Và ông xác định: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:10) Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người.
Ngôn sứ Isaia cho biết Thiên Chúa tiếp tục nói về Đức Kitô qua “Bài Ca Thứ Nhì” của Người Tôi Trung: “Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang.” (Is 49:3) Là Kitô hữu, mỗi chúng ta cũng phải luôn cố gắng trở thành người tôi trung của Thiên Chúa, noi gương Đức Kitô. Ngôn sứ Isaia nói thêm: “Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.” (Is 49:5)
Để nhấn mạnh và nhắc nhở, Thiên Chúa tiếp tục lên tiếng: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất.” (Is 49:6)
Ai cũng phải trở thành nhân chứng – nhân chứng của Tin Mừng, của Tình Yêu Thương, của Lòng Chúa Thương Xót, của Chân Lý, của Công Lý, của Ơn Cứu Độ, của Ngôi-Hai-Làm-Người. Thật vậy, Chúa Giêsu đã trao nhiệm vụ cho mọi người: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15) Mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi người mỗi cách, mức độ khác nhau, nhưng ai cũng phải thực hiện tích cực theo khả năng riêng, không thể đùn đẩy theo kiểu “không mợ thì chợ cũng đông.” Chúa Giêsu đã nói thêm cho rõ ràng: “Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết.” (Mt 24:14)
Về mọi thứ, cách riêng đối với việc làm, chắc chắn rằng nếu không có ơn Chúa thì chúng ta chẳng làm được gì. (x. Ga 15:5) Đó là sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Vì thế, luôn phải tin tưởng và trông cậy nơi Chúa, như Thánh Vịnh gia đã tâm sự: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu. Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa.” (Tv 40:2 & 4) Đó là cách sống tín thác và khôn ngoan.
Thiên Chúa tạo nên mọi sự, nghĩa là Ngài có tất cả, Ngài không cần gì nữa. Thánh Vịnh gia xác định: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi.” (Tv 40:7) Những gì chúng ta làm, gọi là làm cho Chúa nhưng thực ra cũng chẳng thêm gì cho Ngài, mà lại chỉ thêm ích lợi cho chính chúng ta. Mặc dù Ngài không đòi hỏi, nhưng Thánh Vịnh gia vẫn thân thưa: “Này con xin đến! Trong sách có lời chép về con rằng: Con thích làm theo Thánh Ý, và ấp ủ Luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con.” (Tv 40:8-9) Tự nguyện (tình nguyện) luôn đáng giá hơn miễn cưỡng. Thiên Chúa cũng quý trọng động thái đó. Tinh thần tự nguyện liên quan sự tự do, chọn lựa và quyết định.
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, không ai giấu được bất cứ điều gì đối với Ngài. Nếu chúng ta yêu sự thật thì cũng dám chân thật và thẳng thắn với chính mình. Nếu như vậy, chúng ta sẽ không xấu hổ mà thân thưa với Chúa: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh.” (Tv 40:10) Không ngậm miệng làm thinh trước bất kỳ ai để bảo vệ chân lý và công lý, không luồn cúi kẻ khác, như vậy mới can đảm và xứng đáng, nếu không thì chỉ là yêu mình, là hèn nhát, bợ đỡ, tâng bốc kẻ “vai vế” hơn mình. Hèn nhát liên quan nhục nhã. Chắc chắn như vậy.
Đã là Kitô hữu thì ai cũng là chứng nhân, phải làm chứng về Đức Kitô – Đấng là con đường, là sự thật và sự sống. (Ga 14:6) Thánh Phaolô nhận thức và xác nhận: “Tôi là Phaolô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Kitô Giêsu, và ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giêsu Kitô, là Chúa của họ và của chúng ta.” (1 Cr 1:1-2) Chúng ta là những người kêu cầu danh thánh Giêsu Kitô, nghĩa là chúng ta cũng thuộc về dân thánh của Ngài.
Trở nên chứng nhân là một ơn gọi. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã có ơn gọi đó, nhưng Thiên Chúa không ép buộc ai, mà hoàn toàn cho tự do hành động theo ý riêng. Muốn làm chứng thì không chỉ cần tự nguyện mà còn phải có lòng can đảm. Nghe chừng đơn giản và dễ dàng, nhưng lại phức tạp và khó khăn. Có lẽ vì vậy mà Thánh Phaolô chân thành cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.” (1 Cr 1:3) Có Ân Sủng và Bình An thì chúng ta hoàn toàn an tâm, có thể đủ can đảm làm chứng về Thiên Chúa – mọi nơi và mọi lúc.
Ngay ngày hôm sau khi ông Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu, có một số người đã đến chất vấn ông, và ông trả lời thẳng thắn: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1:26-27) Kinh Thánh cho biết rõ ràng rằng sự kiện đó xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi chính ông Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu.
Ông Gioan rất thẳng thắn nhưng luôn khiêm nhường. Ông sống giản dị tới mức như “dân bụi đời”, thế nhưng ông rất nghiêm túc. Bề ngoài của ông xem chừng rất “thô”, nhưng tâm hồn ông lại rất mạnh mẽ, cứng rắn, không sợ bất cứ một thế lực nào trên thế gian này. Nói như chơi mà làm thật, chứ không lẻo mép, bép xép, ba hoa, lắm chuyện. Thế mới thực sự có thể gọi là “chịu chơi” đấy. Chắc gì mấy ai dám hành động như ông? Bọn “giá áo túi cơm” chỉ ưa tâng bốc và hèn nhát, hằng ngày chúng ta vẫn thấy họ ở mọi ngõ ngách cuộc đời này. Rất cần nỗ lực tránh “phong cách” của bọn giả hình di truyền “máu” Pha-ri-sêu, vì ở gần loại người đó thì chỉ nguy hiểm mà thôi. Yếu sức thì không nên hóng gió!
Khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (Ga 1:29-30) Một lời chứng giản dị nhưng tuyệt vời lắm. Đó là sự thật, ông Gioan không thể không giới thiệu cho người khác biết.
Thật thâm thúy với câu tục ngữ Việt Nam: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe.” Nghĩa là đừng khoe khoang, đừng khoác lác, đừng háo danh, đừng mạo nhận, và đừng tưởng mình là bách khoa tự điển. Ông Gioan thật tuyệt vời vì ông đã không ngần ngại thú thật: “Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước.” (Ga 1:31) Và rồi ông còn chứng minh: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” (Ga 1:32-33) Chính ông thấy rõ ràng, nhãn tiền chứ không nghe đồn hoặc nghe người khác kể lại. Không thể sai được!
Ông Gioan là một con người đầy bản lĩnh, một chứng nhân bất khuất, đồng thời cũng chân thật, thẳng thắn và dứt khoát, ông xác nhận: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.” (Ga 1:34) Sự thật minh nhiên, ai tin thì diễm phúc, ai không tin thì vô phúc. Đó là lẽ tất nhiên.
Đức tin là một hồng ân, và cũng là dạng thông minh tâm linh cần thiết để có thể được hưởng phúc trường sinh. Đức tin thực sự rất quan trọng, đến nỗi Thánh LM Gioan Eudes đã so sánh: “Không khí chúng ta thở, cơm bánh chúng ta ăn, trái tim đập trong lồng ngực chúng ta cũng không cần thiết để giúp chúng ta có thể sống đúng là một con người cho bằng lời cầu nguyện giúp cho chúng ta có thể sống đúng là một tín hữu.”
Lạy Thiên Chúa, chúng con chỉ là hư vô, nhưng lại diễm phúc được Ngài tạo nên giống hình ảnh Ngài, và dù chỉ là cát bụi bất xứng mà vẫn được gọi Ngài là Cha, xin sức mạnh và trí tuệ để chúng con chứng tỏ cho thế gian biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, và Người Con Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Xin thêm tin yêu để chúng con sẵn sàng bảo vệ chân lý, công lý, và kiến tạo hòa bình đích thực. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
.
Tgm. Ngô Quang Kiệt
Trong Thánh Lễ, ta đọc Chiên Thiên Chúa nhiều lần. Có lẽ ít người hiểu được ý nghĩa của cụm từ “Chiên Thiên Chúa”. Nhưng khi Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái: “Đây là Chiên Thiên Chúa” thì người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ.
Trong Kinh Thánh, chiên được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức. Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê. Chiên ở bên phải, dê ở bên trái.
Thế nhưng chiên còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Hằng năm, vào Lễ Vượt Qua của người Do Thái, mỗi gia đình có tục lệ ăn thịt một con chiên. Phải lựa con chiên non dưới một năm tuổi, tốt đẹp, không tì vết. Người Do Thái ăn thịt Chiên Vượt Qua, không phải để mừng mùa đông đã qua và mùa xuân vừa mới khởi đầu. Nhưng là để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Lễ Vượt Qua được cử hành vào đầu mùa xuân. Người Do Thái nhớ đến con chiên. Con chiên đã chết cho họ được sống. Máu chiên đã đưa họ ra khỏi mùa đông tăm tối, tiến vào mùa xuân tươi sáng. Máu chiên đã giúp giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, đưa họ về miền Đất Hứa, sống trong tự do.
Chúa Giêsu đã chịu tử hình vào dịp Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ. Chịu chết vào dịp Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu chính là con chiên của Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.
Chúa Giêsu là con chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông. Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại.
Bản tiếng Việt dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Từ ngữ “xóa” là một cách nói văn hoa nhẹ nhàng, nhưng không lột hết ý nghĩa của nguyên ngữ. Tiếng Hy Lạp dùng từ ‘airein’, tiếng La tinh dùng từ ‘tollit’ có nghĩa là nhận lấy vào mình, gánh lấy, vác lấy. Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng ‘gánh’ lấy tội nhân loại thì đúng hơn. Xóa là đứng ngoài cuộc. Đức Giêsu không đứng ngoài cuộc. Người đã nhập cuộc, gánh lấy thân phận con người, và nhất là gánh lấy tội lỗi của con người. Chính vì gánh lấy tội lỗi mà Người, Đấng hoàn toàn trong sạch, vô tội đã chịu hạ mình xếp hàng giữa những người tội lỗi xin Gioan rửa tội. Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Người lui tới với những người tội lỗi, chuyện trò với họ, ăn uống đồng bàn với họ. Nhưng nhất là chính vì gánh lấy tội nhân loại mà Người phải chịu chết giữa hai tội phạm, đồng số phận với họ, đồng bản án với họ, như những người trộm cướp.
Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ. Người hạ mình xuống để ta được nâng lên. Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có. Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa. Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ. Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang. Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do. Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.
Người tín hữu thường được gọi là “Con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại ‘chiên’ trong ngày phán xét. Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa.
Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Ước mong những con chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội con, xin thương xót con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) “Chiên Thiên Chúa” gợi lên những ý tưởng nào nơi bạn?
2) Là ‘con chiên của Chúa’ bạn phải sống thế nào cho xứng đáng danh hiệu ấy?
3) Thánh Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với tất cả ý nghĩa sâu xa của danh hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Hôm nay, nếu phải giới thiệu Chúa Giêsu cho người chung quanh, bạn sẽ dùng danh hiệu nào?
.
Gm. Vũ Duy Thống
Nếu khởi đầu Mùa Quanh Năm là sự nhận diện thiên tính của Chúa Giêsu khi Người chịu phép Rửa nơi sông Giođan và cũng là nhận diện phẩm giá Kitô hữu khởi đi từ ngày họ lãnh phép Rửa Tội, thì Chúa Nhật thứ hai Thường Niên được xem như một khai triển phẩm giá ấy về mặt sứ vụ. Thật vậy, đảm nhận cuộc sống làm người và đón nhận cuộc đời làm con Chúa, tín hữu không chỉ sống đơn lẻ mà còn sống giữa những người khác, thế nên nét tươi tắn nhất trong sứ vụ của họ là giới thiệu Chúa Kitô cho những kẻ xung quanh mình. Nhưng vấn đề là phải làm sao để giới thiệu Chúa Kitô cho có hiệu quả.
Dựa trên trang Tin Mừng hôm nay về việc Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô cho những kẻ đương thời, ta gặp thấy những tiêu chuẩn xác định hiệu quả cho việc giới thiệu ấy.
1) Giới thiệu Chúa Kitô bằng kinh nghiệm bản thân
Đây là tiêu chuẩn quan trọng có khả năng đi vào lòng người, bởi lẽ “con người hôm nay ít thích nghe những lời dạy cho bằng nghe những chứng tá” (Gioan Phaolô II). Nếu chỉ giới thiệu Đức Kitô như một học thuyết, thì dẫu chủ quan mình có nắm vững và say mê, Đức Kitô ấy vẫn chỉ là một lý tưởng còn xa lạ chưa đụng chạm thiết thực với đời người. Nếu chỉ giới thiệu Đức Kitô như một hệ thống tín điều, thì dù cho có xác tín đến đâu, Đức Kitô ấy vẫn còn xa vời, chưa phải là điểm quy chiếu thiết thân cho cuộc sống.
Thế nên, tiêu chuẩn hàng đầu là cần giới thiệu Đức Kitô như một Đấng mà mình đã tiếp cận, gặp gỡ và kết thân. Hiện nay mình đang sống trong Người như kiểu nói của thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”, và do thúc bách bởi sự sống ấy mà mình giới thiệu Người cho người khác. Người là khởi điểm đồng thời cũng là đích điểm cho việc giới thiệu này.
Với kinh nghiệm bản thân, ta giới thiệu sự xác tín của ta vào Đức Kitô và đó cũng chính là sự khả tín của điều ta giới thiệu.
Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã không làm điều gì khác ngoài việc giới thiệu qua chứng từ về một kinh nghiệm ở ngôi thứ nhất số ít: “Tôi đã thấy và tôi xin làm chứng”.
2) Giới thiệu Đức Kitô là Đấng Cứu Độ
Có một thực tế không thể phủ nhận là khi giới thiệu Đức Kitô, thường ta hay rơi vào một trong hai thái cực:
Hoặc quá chủ quan: giới thiệu một Chúa Kitô không như Người là mà như mình tưởng, mình nghĩ. Coi chừng! Thiên Chúa tạo dựng con người “giống hình ảnh Thiên Chúa”, nhưng xem ra con người lại có khuynh hướng nắn đúc một Thiên Chúa theo như mình nghĩ, “giống hình ảnh con người”. Có lẽ chuyện dân Do Thái ở Ai Cập năm xưa lấy hình ảnh bò vàng làm tượng thờ phải được xem như một kinh nghiệm đau lòng.
Hoặc quá chung chung: giới thiệu một Chúa Kitô không minh bạch xác đáng, có nguy cơ giản lược đánh đồng coi Kitô giáo cũng chỉ là một trong nhiều tôn giáo ngang hàng và Đức Kitô không còn là Đấng Cứu Độ duy nhất nữa. Có lần đến thăm nhà một tân tòng, tôi gặp thấy cảnh tổng hợp nhiêu khê: truyền thống gia đình ông bà cha mẹ theo Phật Giáo, con trai theo Tin Lành, cô gái vào Công Giáo, còn cậu em là đối tượng một đảng nên không theo tôn giáo nào. Bà mẹ gia đình nói trổng như muốn phân bua về việc tự do chọn lựa niềm tin của con cái: “Ôi! Đạo nào cũng tốt, đều dạy ăn ngay ở lành cả ấy mà”. Trong suy nghĩ của người mẹ này, Đức Kitô cũng ngồi chung chiếu với những vị cổ võ đạo đức nhân sinh. Thế thôi.
Thiết nghĩ, giới thiệu Đức Kitô là phải trình bày cho thấy Người là Thiên Chúa cứu rỗi nhân loại, là Đấng Cứu Độ trần gian, là Đấng từ trời xuống để đem ơn giải thoát đến tất cả mọi người và đạt tới từng người. Nét độc sáng của Kitô giáo chính là đây. Và Đức Kitô sở dĩ thiết thân đối với người đời bởi Người chính là Đấng Cứu Thế.
Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã dứt khoát giới thiệu Đức Kitô cho dân chúng bằng một hình ảnh đặc biệt cho thấy Người là Đấng Cứu Độ: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
3) Giới thiệu Đức Kitô nhờ Thánh Thần
Giới thiệu Đức Kitô là công cuộc dài hơi, thậm chí là công việc một đời, vì thế đòi hỏi người giới thiệu không chỉ như kẻ chào hàng tiếp thị, mà phải đầu tư để học biết và học hiểu, học tập và học hành, học ngang và học dọc, học tới và học lui; nghĩa là phải nỗ lực hợp tác với ơn thánh bằng vận dụng hết công suất những khả năng Chúa ban mà chu toàn nghĩa vụ cũng là ý nghĩa cuộc đời mình. Ngày nào còn là Kitô hữu, ngày đó còn phải gắn bó và giới thiệu Đức Kitô cho người khác. Đó là yếu tố thuộc về căn tính.
Giới thiệu Đức Kitô cũng là một công trình thuộc về sứ vụ truyền giáo của mọi thành viên trong Giáo Hội, nghĩa là thuộc về lẽ công bình. Ai đã nhận được lẽ sống Đức Kitô thì cũng canh cánh bên lòng một đòi buộc phải tiếp nối sứ mạng giới thiệu sự sống ấy cho những người mình gặp gỡ trong mọi cảnh ngộ cuộc đời. Chả thế mà sứ vụ cũng đồng nghĩa với sự lên đường. Đồng quà tấm bánh có thể giữ lại chứ sự sống mà giữ lại thì cũng đồng nghĩa với sự thui chột ngột ngạt ngay trong vòng tay ôm chặt của người sở hữu.
Giới thiệu Đức Kitô như thế cũng là cuộc hiến thân làm chứng, đón nhận hy sinh, chấp nhận thiệt thòi, quên mình xóa mình, thao thức miệt mài, “làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm”. Không dễ dàng, không dễ dãi và không dễ chịu. Thế nên đó là một công trình sức người tự mình không làm nổi ngoài ơn của Thánh Thần. Vả chăng chính Thánh Thần mới giữ vai trò chủ động trong công trình lớn lao này, còn con người dẫu hết lòng hết sức cũng chỉ là dụng cụ góp phần.
Nếu hôm qua Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã dựa vào dấu chỉ Thánh Thần để nhận biết Đấng Cứu Thế: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép Rửa trong Thánh Thần”, thì hôm nay tín hữu cũng dựa vào Thánh Thần để chu toàn sứ mạng giới thiệu Đức Kitô cho người đồng thời với mình.
Tóm lại, giới thiệu Chúa Kitô bằng kinh nghiệm bản thân, giới thiệu Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế và giới thiệu Chúa Kitô nhờ Thánh Thần. Đó là những tiêu chuẩn giúp cho việc giới thiệu này mang lại hiệu quả mong muốn.
Vì thế, Kitô hữu không chỉ là người mang Chúa Kitô trong mình, không chỉ thuộc về Chúa Kitô mà còn là người phải giới thiệu Chúa Kitô cũng như biết cách giới thiệu Chúa Kitô làm sao cho có hiệu quả nữa. Như một người chào hàng không mệt mỏi, như một chứng nhân luôn trung thành, và như một lẽ sống hạnh phúc, ta quyết chí lên đường.
Trong buổi chia sẻ của những tân tòng lớp trước dành cho lớp sau, một cô gái mười sáu tuổi đã chân thành cho biết lý do mình gia nhập đạo Công Giáo: “Tôi theo đạo vì lúc nhỏ học chung với một người bạn Công Giáo. Bạn ấy rủ tôi đi lễ, tôi đi theo dẫu chẳng hiểu gì. Nhưng vì bạn ấy đối xử tốt với tôi, nhất là trong những lúc ngặt nghèo, nên qua gương sống đức tin của bạn ấy, dần dà tôi hiểu ra lẽ đạo và cuối cùng tôi tìm đến với lớp giáo lý khai tâm, và hôm nay được nhận Bí tích Thanh Tẩy”.
Mong rằng đây không chỉ là chuyện cá biệt mà là chuyện điển hình đã được nhân lên trong mọi cộng đoàn tín hữu.
.
LOAN BÁO LỜI CHÚA BẰNG TRUYỀN THÔNG
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Gần đây một trào lưu tự làm livestream gây sốc như tố cáo bố mẹ vì không cho cưới nhau, hay tố cáo mẹ ruột vì cờ bạc mà mình phải trả nợ. Và còn rất rất nhiều bạn trẻ giải bầu tâm sự qua livestream vì giận bố, chán mẹ, hận bạn đời . . .
Người xưa có câu: “Tốt khoe xấu che”, quan niệm truyền thống này đã khiến cho những câu chuyện bêu xấu bố mẹ trên mạng trở thành đề tài bàn tán không chỉ ở thế giới ảo mà lan cả ra đời thực. Có người đồng cảm, xót xa; có người phản bác vì “vạch áo cho người xem lưng”. Chuyện vợ chồng còn phải đóng cửa dạy nhau thì việc “tố” chính đấng sinh thành lại càng là điều cấm kỵ.
Điểm chung mà chúng ta thấy qua các scandal này người đăng và người bị kết án đều nổi tiếng. Họ tưởng rằng qua livestream này sẽ có người thương, người ủng hộ. Nhưng thực ra tất cả sẽ là một nạn nhân của truyền thông. Thương người này là kết án người kia. Chê người này là ủng hộ người kia sẽ mãi mãi là cuộc khẩu chiến gây đau lòng cho nhau. Chắc chắc người trong cuộc sẽ không tìm được bình an hạnh phúc khi bêu xấu, nói xấu, kết án người khác. Chắc chắc người bị đưa ra bêu xấu sẽ mãi mãi bị vết thương lòng không bao giờ chữa lành, vì lời đã ra đi như xưa chỉ là “tứ mã nan truy”, còn ngày hôm nay facebook đã lan ra thì chẳng bao giờ lấy lại được.
Xem ra nổi tiếng kiểu này là giết nhau, là gây tai tiếng cho nhau. Cả hai đều bị người đời cười chê. Xem ra chọn phương án nổi tiếng này sẽ đánh mất đi rất nhiều thứ: tình gia đình, tình người với người và mất cả nhân cách con người biết kính trên nhường dưới!
Ở đời sự nổi tiếng không do mình đánh bóng mà được, điều quan yếu là qua việc mình làm có ích cho cộng đồng sẽ được mọi người nhìn nhận trong yêu mến.
Hôm nay, tìn mừng kể về một con người được Chúa tán dương là “trong số những người con do người phụ nữ sinh ra không ai trọng hơn ông”. Đó là Gioan B. Ông không gây ồn ào bởi kết án, tẩy chay hay loại trừ người khác. Ông sống một đời giản dị, khiêm nhường. Ông không sống xa hoa ở đô hội. Ông vào hoang địa sống nghèo khó ăn trâu trấu và mật ong. Ông dành thời giờ sống cho Chúa và với Chúa để nhờ đó mà ông có thể giới thiệu Chúa cho thế gian. Ông dọn lòng cho nhân loại đón nhận Đấng Cứu Thế . Việc mà ông Gioan mời gọi mọi người cùng tham gia chính là “hãy sám hối để dọn đường Chúa đến”.
Ông nổi tiếng và được nhiều người yêu mến. Nhưng ông chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa. Ông khiêm tốn đến độ mong muốn mình nhỏ đi để Đấng đến sau ông nổi trội hơn ông. Ông càng không lợi dụng sự nổi tiếng của mình để gây chú ý cho bản thân mà lôi kéo sự chú ý đến Đấng Cứu Thế mà ông là người dọn đường.
Người ky-tô hữu cũng được mời gọi trở thành người dọn đường cho Thiên Chúa. Chúng ta cũng cần tận dụng mọi phương tiện hiện đại như Facebook hay livestream để nói về Chúa cho anh em. Phương tiện chúng ta dùng để mang lại bình an hạnh phúc cho anh em. Đừng vì ích kỷ cá nhân mà lợi dụng truyền thông để đánh bóng mình hay làm hại người khác. Hãy dùng nó như phương tiện thời đại để chuyển tải Tin mừng đến cho mọi người. Người ky-tô hữu không theo phe nhóm nào mà chỉ đi theo chân lý, theo Đức Ky-tô. Trong mọi lời nói, trong mọi hành động đều lấy Đức Ky-tô làm khuân mẫu để sống khiêm nhường và hiền lành như Chúa.
Cuộc sống tốt đẹp biết bao nếu có những con người biết dùng mọi phương tiện hiện đại để làm chứng nhân cho Tin mừng. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao nếu có những người biết dẫn người khác cùng sống lời Chúa, cùng thực thi Lời Chúa. Xin cho chúng ta biết sống lời Chúa trong chính cuộc sống của mình, dám làm chứng cho Tin mừng bằng cả cuộc sống là những trang tin mừng được mở ra. Ước gì chúng ta biết tận dụng khoa học hiện đại để dẫn người khác đến với niềm vui của Phúc âm, của Nước Trời. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật II thường niên A, thánh sử Gioan thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ sinh động và đầy ấn tượng mà ông chứng kiến tận mắt giữa thầy mình là Gioan Tẩy Giả với Chúa Giêsu, ông viết : “Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình” (Ga 1, 29). “Thấy Chúa Giêsu tiến về mình“, đây là một hành động tương lai, tiếng Hy bá còn diễn tả ‘ngày mai’. Nhưng tương lai này có sự liên tục với Giao Ước cũ, vì Gioan Tẩy Giả đã không nói về chính mình, lời của ông được rút ra từ Cựu Ước đan vào nhau để làm sáng tỏ các mầu nhiềm. Bằng từ ‘ngày mai’, chúng ta bắt đầu một ngày mới, Năm Phụng vụ mới khai mào. Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Giao Ước mới tiến lên thì nói : “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” (Ga 1, 29)
Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa
Gioan Tẩy Giả khẳng định, Chúa Giêsu đến trần gian với một sứ vụ đặc biệt là giải thoát con người khỏi tội lỗi. Nhưng người ta tự hỏi : Người giải thoát con người bằng cách nào ? Thưa, bằng tình yêu. Bởi tình yêu là khí cụ duy nhất để chiến thắng sự dữ và sự tội. Chúa Giêsu yêu chúng ta bằng một tình yêu thế mạng. Người là Chiên duy nhất chết thay cho đoàn chiên là chúng ta. Không những thế, Người còn phục hồi tất cả những ai sống trên trần gian này và cứu chuộc mang về cho Thiên Chúa Cha. Một người chết thay cho toàn dân, để tất cả vâng phục Thiên Chúa ; chỉ một mình Người đã chịu chết để cứu chuộc muôn người… Thật thế, con người đã trở nên hư hỏng, sống trong tội lỗi là lý do tại sao Chúa Cha đã cho Con mình tới làm giá chuộc muôn người (x. Ga 3,16; Mc 10, 45), Chúa Giêsu đã trở nên Con Chiên thật xóa bỏ tội trần gian.
Là Đấng xóa tội trần gian
Tội lỗi là nguồn gốc và là căn nguyên của sự chết, làm thế nào thoát khỏi cái chết đời đời ? Chắc chắn phải hủy diệt sự chết. Chúa Giêsu là Đấng vô tội đã gánh chịu những đau khổ và mang lấy tật nguyền của chúng ta (x. Is 53,4) Người đã vui lòng chịu chết trên thập giá và hiến tế vì chúng ta, đúng thật Người là Con Chiên đã chịu chết và sống lại để tiêu diệt sự chết và tẩy xóa tội khiên. Khi cử hành lễ hy sinh của Con Chiên trong niềm vui, thánh Phaolô nói rằng: “Hỡi sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu ? Hỡi sự chết, nọc đâu của người ở đâu ? “(1 Cr 15,55 ; Os 13,14…) ” Ðức Kitô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật ” (Gal 3, 13), để chúng ta có thể thoát khỏi lời nguyền của tội lỗi. Người đích thực là Con Chiên vượt qua, bị nhấn chìm trong dòng sống tội lỗi để thánh tẩy chúng ta.
Sống đời nhân chứng
Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho Chúa Giêsu không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả đời sống mình. Ngài đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian“. Ngài bước đi trên con đường khổ giá và làm chứng cho Chúa Giêsu, Đấng hiến mình chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Ngày hôm nay chúng ta là những môn đệ của Chúa, chúng ta cũng cần phải noi gương thánh Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Chúa để qua đời sống thánh thiện của mình khiến nhiều người nhận biết Chúa.
Có người đặt vấn nạn : Giữa một xã hội gian dối lọc lừa, ích kỷ, hưởng thụ, ghen ghét, hận thù và coi nhẹ sự thủy chung, chúng ta làm chứng cho Chúa thế nào được ?
Ðức Thánh Cha Phanxicô gợi lên cho chúng ta câu trả lời : làm chứng cho Chúa có nghĩa là gì nếu không phải là lấy hiền từ đối lại cái ác, lấy tình yêu thay thế sức mạnh, lấy khiêm nhường bù lại kiêu hãnh, lấy phục vụ đối lại cao danh. Là những người môn đệ của Con Chiên có nghĩa là không sống như một “thành trì bị vây hãm”, nhưng như một thành phố đặt trên núi cao, mở ra, đón nhận và liên đới. Nó có nghĩa là không được có thái độ đóng lại, nhưng mang Tin Mừng đến cho tất cả, làm chứng bằng cuộc sống của chúng ta rằng bước theo Ðức Giêsu giúp chúng ta tự do hơn và hoan lạc hơn” (Kinh truyền tin Chúa nhật 19/01/2014).
Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con.
Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin giúp chúng con biết dùng lời nói và việc làm để loan báo Tin Mừng của Chúa cho anh chị em chúng con. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong mỗi Thánh lễ, vị chủ tế nâng cao Mình Máu Thánh Chúa Giêsu và giới thiệu với cộng đoàn: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”, ngài lặp lại lời Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu với môn đệ : Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng mà thầy vẫn nói với các con đó (x.Ga 1,29-34).
Tại sao gọi Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”?
Người Do Thái có tục sát tế chiên trên bàn thờ để thờ phượng, cảm tạ Thiên Chúa, để xin ơn và để đền tội. Tục lệ này bắt nguồn từ thời Abel, con trai thứ của Ađam. “Aben làm nghề chăn chiên” (St 4,2) nên để thờ phượng và tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa, “Aben dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng” lên Ngài (St 4,4).
Đến thời dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ, Môsê ra lệnh cho mỗi nhà người Do Thái phải sát tế một con chiên, bôi máu lên khung cửa (x.Xh 12,2-7). Đêm ấy, tất cả những nhà trên đất nước Ai cập không có máu chiên nơi khung cửa đều bị chết đứa con trai đầu lòng (x.Xh 12,29-30). Chỉ có người Do Thái nhờ máu chiên trên khung cửa mà không bị như thế. Từ đó, việc sát tế chiên mang thêm ý nghĩa: chiên chết thay người.
Về sau, tại đền thờ, các tư tế Do Thái đều sát tế mỗi ngày hai con chiên làm của lễ toàn thiêu: sáng sớm một con, chập tối một con, để dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội cho dân (Xh 29,38-46). Đúng ra, ai phạm tội thì chính người ấy bị phạt, mà phạm đến Thiên Chúa thì chỉ có hình phạt chết mới xứng đáng. Nhưng Thiên Chúa nhân lành không muốn con người phải chết: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18,23). Luật công bằng đòi hỏi tội phải đền; nên để con người còn được sống mà ăn năn hối cải, Thiên Chúa chấp nhận cho con người lấy chiên đền mạng. Như vậy chiên bị sát tế là để chết thay cho con người lẽ ra phải chết vì tội lỗi mình.
Các tiên tri trước Gioan đã nói về người tôi tớ kỳ diệu của Thiên Chúa một ngày kia sẽ chịu đau khổ và chết như một con chiên. Isaia mô tả : “Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta”(Is 53,7-8); “Người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi”(Is 53,6-7.12). Những lời của tiên tri Giêrêmia cũng rất phù hợp với con người Chúa Giêsu : “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi”(Gr 11,19).
Theo lẽ thường, gọi Đức Giêsu là chiên thì quả là xúc phạm. Nhưng để cứu chuộc nhân loại, theo kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu phải bị giết chết để đền tội thay cho con người, tương tự như những con chiên bị sát tế trong đền thờ để chết thay cho người tội lỗi. Gioan đã thấy trước số phận tương lai của Đức Giêsu như thế nên giới thiệu cho mọi người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian”. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta”(1Cr 5,7). Sách Khải Huyền cũng dùng đến 27 lần từ “Con Chiên” để chỉ về Đức Giêsu, thánh Gioan còn xác quyết: Đức Kitô đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta.
Thánh Phaolô viết: “Nếu máu các con dê, con bò còn thánh hóa được con người, làm cho họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy” (Dt 9,13-14). Hiệu lực đến nỗi Ngài chỉ cần chết một lần là đủ xóa được tội lỗi toàn nhân loại: “Chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ’ (Dt 10,10), vì Ngài là “Con Chiên vẹn toàn, không tỳ vết” (1Pr 1,19), nhất là vì Ngài cũng chính là Thiên Chúa, nên giá trị cứu chuộc của Ngài là vô cùng. “Máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu Aben” (Dt 12,24). “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20). Đặc tính của con chiên là sự ngây thơ, hiền lành, nhẫn nhục, trong sạch. Đó là những đức tính quý báu của Đức Giêsu Kitô, con chiên không tì vết.
Khi Đức Giêsu đang đến, Gioan Tẩy Giả đã chỉ vào Đức Giêsu và nói : “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Giới thiệu như thế, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Đức Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là Đấng xóa tội trần gian.
Khi gọi Đức Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận Đức Giêsu là Đấng vô tội và thánh thiện. Khi nói Đức Giêsu là “Đấng xóa tội trần gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia đã từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Đức Giêsu. Chính vì là con chiên vô tội của Thiên Chúa nên Đức Giêsu mới có thể xóa tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Đức Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân lọai. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự xóa tội cho con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ cho hân loại.Chỉ có Con Chiên thanh sạch và hiền lành, Con Chiên bị sát tế mà không một lời thở than, mới đền thay được tội lỗi. Chỉ có Đấng vô tội, mới có thể chết thay cho các tội nhân.
Đức Giêsu xóa tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Ngài tội lỗi của tất cả nhân lọai, từ tội của nguyên tổ Ađam cho đến tội của người sau hết của nhân lọai. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Ngài đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại. Từ nay nhân loại đã được giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong ân tình của Ngài và cửa thiên đàng đã được mở lại cho tất cả mọi người.
Mặc dù chúng ta là người tội lỗi, nhưng đã được rửa bằng Máu của Con Chiên Thiên Chúa, và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể.
Người tín hữu thường được gọi là “con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại “chiên” trong ngày phán xét. Ðược đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Ðược vào hưởng vinh quang trong nước Chúa. Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Uớc mong những chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Vào mùa hè, Vua Duy Tân thường ra nghỉ mát ở Cửa Tùng, một cửa biển đẹp ở Quảng Trị.
Một hôm nhà vua từ bãi tắm lên, hai tay dính đầy cát, viên thị vệ bưng lại một thau nước ngọt mời vua rửa tay. Nhà vua vừa rửa tay vừa hỏi đùa:
– “Tay bẩn lấy thì lấy nước mà rửa, còn ‘nước’ bẩn lấy gì mà rửa?”
Viên thị vệ lúng túng chưa biết trả lời sao thì vua hỏi tiếp:
– “Nước bẩn thì rửa bằng gì?”
Người thị vệ vẫn không trả lời được. Vua Duy Tân bèn nói:
– “Nước bẩn thì phải lấy máu mà rửa!”
Viên thị vệ đâu có ngờ nhà vua chơi chữ, chuyển từ nước rửa tay sang một thứ nước khác đáng quý trọng là đất nước, là quê hương.
Đúng vậy, khi đất nước bị dơ bẩn vì sự chà đạp của quân thù thì không thể rửa sạch bằng nước mà phải rửa bằng máu. Về sau, vua Duy Tân đã đứng lên hô hào toàn dân khởi nghĩa, lấy máu đào rửa cho sạch cái nhục vong quốc.
Xưa kia, vua Duy Tân cho rằng “Nước bẩn thì phải lấy máu mà rửa,” thế thì khi linh hồn ta bị tội lỗi làm cho ô uế và gây ra hậu quả tai hại khôn lường, thì lấy gì mà rửa?
Không có bất kỳ chất tẩy nào trên thế gian có thể tẩy xoá được vết nhơ và hậu quả của tội lỗi. Tội lỗi loài người chỉ có thể được rửa sạch bằng máu của Ngôi Hai Thiên Chúa mà thôi.
Nhờ máu chiên, bò
Trong thời cựu ước, người có tội cần đến máu bò, máu chiên để làm lễ xoá tội cho mình. Sách Lê-vi chép: “Nếu một người đã phạm tội, làm điều Đức Chúa cấm… thì nó sẽ đưa đến một con bò, dê hoặc chiên làm lễ tiến. Nó sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế lễ vật tạ tội… Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu con vật và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ…. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy và người ấy sẽ được tha. (Lê-vi 4, 27-32)
Nhờ máu Con Thiên Chúa
Tuy nhiên, qua thư Do-thái (Dt 10,4), Thiên Chúa cho biết rằng: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi.” Vì thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đành hoá thân làm người, trở thành Con Chiên mới, thay thế cho những con chiên chịu sát tế trong thời Cựu ước để rửa sạch tội lỗi thế gian.
Ngay từ đầu, ông Gioan tẩy giả đã nhận ra vai trò làm Chiên đền tội của Chúa Giê-su nên “khi thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Gioan 1, 29-30).
Thế là Chúa Giê-su cam phận làm Chiên mới để hiến thân chịu chết và đổ máu mình xoá bỏ tội lỗi thế gian, vì chỉ có máu châu báu của Thiên Chúa mới có thể rửa sạch tội lỗi loài người.
Hôm nay, tội lỗi của chúng ta cũng như của nhân loại còn đang chất ngất. Thế nên, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sứ mạng làm con Chiên Thiên Chúa, hiến tế chính mình để xoá tội trần gian. Ngài đã dâng hiến thân mình trên thập giá trên đồi Can-vê năm xưa, đổ máu thánh mình ra rửa sạch tội lỗi muôn người. Và hôm nay, Ngài tiếp tục hy tế cao trọng ấy trong các Thánh lễ hằng ngày, tiếp tục dâng mình làm Chiên, hiến tế cho Thiên Chúa Cha để đền tội cho nhân loại. Thế nên, trước khi cho các tín hữu rước lễ, linh mục nâng cao Mình thánh Chúa và giới thiệu Chúa Giê-su là Chiên mới đang tiếp tục dâng mình, hiến máu để cứu độ thế gian: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã dùng bí tích Thánh tẩy để biến chúng con thành chi thể của Chúa và cho chúng con được thông dự vào vai trò Tư tế của Ngài và từ đó, chúng con được mời gọi làm chiên đền tội với Chúa.
Xin cho chúng con hiệp thông với Chúa trong từng phút sống, cùng vác thập giá với Chúa bằng cách làm tốt các việc bổn phận hằng ngày, cùng dâng trọn vẹn cuộc sống chúng con làm hiến lễ cho Thiên Chúa Cha, để xin Ngài ban ơn cứu độ cho bao người tội lỗi.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Phụng vụ hôm nay giới thiệu cho chúng ta Đức Giêsu Đấng Cứu Thế. Ngài là Chiên Thiên Chúa, Đấng đã bị sát tế trên Thập giá, và cũng là đối tượng đức tin của mọi Kitô hữu. Cái chết của ‘Chiên Con khải hoàn’ đã khai mở cho chúng ta kỷ nguyên ơn cứu độ.
Hình ảnh Con Chiên trong Thánh kinh
Thánh Kinh nói khá nhiều về con chiên. Bên bờ sông Giordan, Thánh Gioan tiền hô đã giới thiệu Đức Giêsu cho đám đông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, vị chủ tế cũng nhân danh Giáo hội đọc lại văn thức này trước lúc mọi người tiến lên hiệp lễ. Khi chúng ta rước Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta được ngồi vào bàn tiệc cưới Con Chiên, Đấng đã bị hiến tế, và máu của Ngài thanh tẩy mọi tội lỗi nơi chúng ta.
Trong xã hội Do Thái ngày xưa, hình ảnh con chiên đã trở nên rất quen thuộc trong sinh hoạt thường ngày của người dân, vốn sống đời du mục. Trong đêm xuất hành khỏi đất Ai Cập, người Do Thái cũng ăn bữa tiệc vượt qua với thịt chiên. Máu chiên được bôi lên cửa như dấu chỉ sự can thiệp nhiệm mầu của Thiên Chúa, Đấng cứu dân Ngài khỏi ách nô lệ. Bữa ăn vượt qua năm xưa là hình ảnh tiên báo bàn tiệc cánh chung mà sách Khải Hoàn gọi là ‘Tiệc Cưới Chiên Con’. Những ai tham dự bàn tiệc này, đều mặc áo trắng tinh, tấm áo đã được giặt trong máu con chiên vô tội, dấu chỉ của sự trinh trong và vinh thắng khải hoàn. Sách khải hoàn đã lập đi lập lại tất cả 27 lần hình ảnh con chiên sát tế này.
Bài học của Thánh Gioan Tiền Hô.
Gioan đã giới thiệu và làm chứng về Đức Giêsu cho mọi người. Ngài là một ngôn sứ lỗi lạc, nhưng đã ẩn mình để Đức Giêsu được lớn lên. Thánh Gioan công bố : “Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài”. Được Thần Khí thúc đẩy, vừa thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, Gioan đã giới thiệu Đấng Messia cho mọi người.”
Cũng như Gioan, chúng ta đã biết về Đức Giêsu và trở nên môn đệ Ngài. Nhưng sự hiểu biết về Đức Giêsu không phải chỉ dừng lại trên bình diện tri thức, song còn phải biến trở thành hành động, bằng một lối sống cụ thể. Mỗi lần chúng ta đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, chúng ta có thực sự đến để tiếp cận Đức Giêsu – Chiên Thiên Chúa, hay chúng ta đi tham dự Thánh lễ chỉ vì bổn phận hoặc theo thói quen. Khi lên rước lễ, chúng ta có thực sự ý thức ‘đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian’, hay chúng ta chỉ tiến lên một cách máy móc như một cái xác vô hồn. Chúng ta cần phải đi sâu vào cảm thức đức tin để trong cuộc sống, chúng ta luôn sống xứng đáng là những môn đệ của Đức Giêsu một cách đích thực.
Thánh Gioan đã cảm nhận ra Đấng Cứu Thế nơi nhân vật đang tiến về phía mình. Ngài liền lên tiếng giới thiệu Chúa cho mọi người. Giáo hội mời gọi chúng ta cũng hãy học lấy thái độ của Thánh Gioan, không chỉ đào sâu niềm tin vào Đấng Cứu Thế, song còn phải giới thiệu Chúa cho những người khác, qua chính cuộc sống của chúng ta mỗi ngày.
Sứ điệp của Đức Giêsu, Chiên Thiên Chúa.
Trong bài đọc một, tiên tri Isaia cũng phác vẽ hình ảnh Đấng Messia, như một người tôi tớ của Giavê. Người tôi tớ đó đã được Đức Chúa đặt làm ‘Ánh sáng muôn dân’ để đem ơn cứu độ đến tận cùng thế giới. Cũng vậy, khi Gioan giới thiệu Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Ngài cũng gợi nhắc về hình ảnh con chiên bị sát tế rất hiền lành và khiêm tốn, một con chiên bị đem đi xén lông mà không kêu ca mở miệng. Chúa Giêsu cũng đã từng mời gọi các học trò : “Các con hãy học với Ta, vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đây là bài học căn bản nơi Đức Giêsu, con chiên bị sát tế trên Thập giá, mà chúng ta phải học hỏi, phải học mãi, và học cho đến suốt đời.”
Đức Cha Roncali, khi còn làm Sứ thần Tòa thánh ở Bungari đã nhận được một bức thư mà một linh mục nọ đã viết để bêu xấu Ngài. Vị linh mục chỉ trích Ngài một cách thậm tệ, nhưng Đức Cha không hề buồn giận chút nào. Ngài vẫn cầu nguyện cho người anh em linh mục đó. Hai mươi năm sau, Ngài được bầu chọn làm Giáo hoàng với tước hiệu Gioan 23. Trong một lần về Rôma để yết kiến Đức Thánh Cha, vị linh mục kia cũng ghi danh vào trong phái đoàn để gặp gỡ vị chủ chăn đáng kính. Vị linh mục này hy vọng rằng thời gian đã lâu, vả lại với bao công việc bề bộn, có lẽ Đức Thánh Cha chẳng còn nhớđến bức thư năm xưa. Nhưng khi vào triều yết, vị linh mục này rất ngạc nhiên khi được Đức Thánh Cha chào đón niềm nở và hỏi thăm công việc mục vụ của Ngài rất chân tình. Sau đó vị chủ chăn tiến đến bàn làm việc lấy ra cuốn sách nguyện, trong đó có kẹp lá thư mà vị linh mục kia đã gửi cho Ngài trước đây. Đức Thánh Cha nói: “Con yên tâm, Cha cảm ơn con nhiều lắm. Cha vẫn giữ món quà quý giá này và để nó trong sách nguyện của Cha. Cha vẫn thường đọc lại bức thư đó để xét mình hằng ngày”. Sau đó, Đức Thánh Cha ôm hôn vị linh mục một cách thắm thiết”. Đây là hình ảnh rõ nét về một vị mục tử chân chính, luôn diễn bày sự khiêm tốn và hiền lành đối với hết mọi người, nhất là đối với các anh em linh mục.
Kết luận
Trên nóc nhà thờ Werden ở một ngôi làng nhỏ bên Đức, thay vì đặt một cây Thánh gía, người ta cho đúc tượng một con chiên. Truyền thuyết kể lại rằng khi xây dựng nhà thờ, một anh công nhân từ trên tháp chuông đã bị rơi xuống đất, ở dưới có mấy con chiên đang gặm cỏ. Người công nhân rơi trúng một con chiênở dưới. Con chiên đã chết, còn anh công nhân vẫn không hề hấn gì. Truyền thuyết đó gợi nhắc về Đức Giêsu, là Con Chiên vượt qua, Đấng đã chết để cho chúng ta được sống và sống dồi dào.
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta giặt chiếc áo linh hồn mình trắng tinh trong máu Con Chiên vô tội và được tham phần vào bàn tiệc Nước Trời. Đây là món quà lớn nhất mà Thiên Chúa ban trao. Chúng ta hãy tham đự Thánh lễ với cảm thức đức tin sâu xa này, để đến lượt mình, chúng ta cũng biết quảng diễn tình yêu cứu thế của Chúa Giêsu cho mọi người.
.
AM Trần Bình An
Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi các tín hữu Công Giáo và Tin Lành Luther làm chứng tá chung và ngài khích lệ giới trẻ trở thành chứng nhân về lòng thương xót của Chúa.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 13-10-2016, dành cho đoàn 1 ngàn người gồm các tín hữu Công Giáo và Tin Lành Luther từ miền Đông Đức, quê hương của Luther về Roma hành hương trong 1 tuần lễ nhân dịp kỷ niệm 500 năm cuộc cải cách của Luther.
Cuộc hành hương mang tựa đề ”Với Luther đến gặp ĐGH”. Đây là một dự án đại kết lớn nhất trong khuôn khổ năm kỷ niệm 500 năm cuộc cải cách của Tin Lành. 50% những người trẻ tham dự đoàn hành hương này dưới 30 tuổi.
Đồng hành với họ về phía Công Giáo có Đức Cha Gerhard Feige, GM giáo phận Magdeburg, và về phía Tin Lành Luther có nữ GM Ilse Junkermann.
Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC ”dâng lời cảm tạ Chúa vì ngày nay các tín hữu Luther và Công Giáo đang tiến bước trên con đường từ xung đột đến hiệp thông. Chúng ta đã cùng nhau đi qua một đoạn đường quan trọng. Dọc đường chúng ta cảm thấy những tâm tình trái ngược: đau khổ vì còn chia rẽ giữa chúng ta, nhưng vui mừng vì tình huynh đệ đã tìm lại được.”
ĐTC nhắc đến Giáo huấn của Thánh Phaolô Tông đồ, theo đó ”do bí tích rửa tội, tất cả chúng ta họp thành Thân Mình duy nhất của Chúa Kitô. Các chi thể khác nhau họp thành một thân mình duy nhất, vì thế chúng ta thuôc về nhau và khi một chi thể đau khổ, thì tất cả cùng đau khổ, khi một chi thể vui mừng thì tất cả đều vui mừng (1Cr 12, 12-26).
Chúng ta có thể tiến bước trong tin tưởng trên con đường đại kết, vì chúng ta biết rằng ngoài những vấn đề còn bỏ ngỏ chia rẽ chúng ta, chúng ta đã hiệp nhất với nhau. Điều liên kết chúng ta thì nhiều hơn là những điều chia rẽ chúng ta.” (G. Trần Đức Anh. ĐTC kêu gọi Công Giáo & Luther làm chứng tá chung, Radio Vatican)
Trong tinh thần đại kết, Đức Giáo Hoàng Phanxicô tha thiết kêu gọi tất cả tín hữu Kitô giáo trên hoàn cầu, nhất là giới trẻ, hăng hái làm chứng nhân Lòng Thương Xót. Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, thánh sử Gioan đã phác hoạ thật sắc sảo chân dung ngôn sứ Gioan Tiền Hô qua ba nét chính: Khiêm hạ, phục vụ và chứng tá.
Khiêm hạ
“Một người đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Ngài cao trọng hơn tôi.” Ngôn sứ Gioan khiêm tốn công khai vai trò “tiền hô,” sẵn sàng dọn đường Chúa ngự đến. Ngài minh định rõ ràng vị thế thấp kém trước Đấng Cứu Thế cao sang, uy lực. Thậm chí ngài còn tự nhận “không xứng đáng cởi dây giày cho Người.” (Ga 1, 27)
Không chỉ ý thức thân phận hèn mọn, ngôn sứ Gioan còn quyết tâm dồn tất cả khả năng, nỗ lực làm sáng danh Đức Giêsu với danh ngôn tuyệt diệu, xứng đáng muôn đời làm kim chỉ nam cho tất cả Kitô hữu:“Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3, 30). Không lợi dụng chức vụ được trao phó, không kiêu hãnh, không quan trọng hoá chức năng, địa vị, cũng chẳng tơ tưởng cậy quyền, ỷ thế gần gũi Đức Giêsu, hầu vụ lợi tinh thần hay vật chất.
Khi Đức Giêsu từ Galilê đến sông Jordan, xin ông Gioan làm phép rửa. Nhưng ngài một mực can Người: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.” Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Người. (Mt 3, 13-15) Vâng lời trọng hơn của lễ là như thế.
Phục vụ
“Và tôi, tôi đã không biết Ngài,”ngôn sứ Gioan thực sự chẳng hề giấu diếm trình độ kém cỏi, hiểu biết hạn hẹp, nhận thức khiếm khuyết về Con Người vĩ đại đến sau. Đơn giản, Ngài chỉ được mạc khải một dấu chỉ duy nhất, để nhận ra Đấng Cứu Thế và giới thiệu rộng rãi cho muôn dân. “Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.”
Hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Chúa, Ngôn sứ Gioan đã chẳng hề ngần ngại công khai hoá ý nghĩa công việc, mà ngài đang phục vụ đắc lực cho công cuộc cứu độ của Đức Giêsu.“Nhưng để Ngài được tỏ mình ra với Israel, nên tôi đã đến làm phép rửa trong nước.”
Ngôn sứ Gioan không chỉ chuyên làm phép rửa thống hối, mà còn đanh thép lớn tiếng cảnh báo thói giả hình với nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.”(Mt 3, 7- 8)
Chứng tá
Một khi đã được soi sáng để nhận diện Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai là ai, ngôn sứ Gioan hoan hỉ, sốt sắng, trân trọng giới thiệu Người cho các môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” (Ga 1, 29)
“Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa.” Ngôn sứ không những làm chứng nhân cho Đấng Cứu Thế bằng lời nói, giảng dạy, khuyên nhủ, mà còn bằng chính mạng sống của mình. Cuộc đời của ngôn sứ Gioan kết thúc bằng hình phạt xử trảm trong chốn lao tù, vì ngài can đảm bênh vực cho công lý, đạo lý và sự thật, dám lên tiếng can ngăn vua Hêrôđê không được loạn luân, lấy bà chị dâu Hêrôđiađê làm vợ. (Mt 14, 3-12)
“Khó nghèo, vâng phục, hãm mình, nhịn nhục, bác ái, tha thứ, khiêm tốn đều là dại trước mặt người đời, nhưng cao trọng trước mặt Chúa. Thế gian cho là xui, Chúa cho là phúc thật.” (Đường Hy Vọng, số 110)
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con noi gương ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, trở nên muối men, ánh sáng, sống khiêm hạ, vâng phục, dấn thân phục vụ và làm chứng tá cho người đời nhận biết Chúa.
Khấn xin Mẹ Maria, an ủi che chở chúng con đang chịu đau khổ, gian nan, thử thách, trên cuộc lữ hành theo Chúa. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con trung kiên bền đỗ đến cùng, như thánh Gioan Tiền Hô. Amen.
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Vâng , thưa quý vị thưa các bạn, câu khẳng định , mang nghĩa “phủ định”, của thánh Gioan Tiền Hô nói lên tính chân lý thuộc về Thiên Chúa. Bởi vì, không ai có thể nhận biết Thiên Chúa, nếu Ngài không mạc khải cho. Vâng, hàng các thánh cũng không miễn trừ chân lý ấy, nhưng trái lại, các thánh là những người làm chứng về chân lý đó.
Hôm nay Lời Chúa trong ( Ga 1, 29 – 34 ) thánh Gioan Tiền Hô cho chúng ta biết điều ấy. Trong câu 31 Gioan Tiền Hô đã nói : “Tôi đã không biết Người … ), hoàn toàn , nếu nói về mối “quan hệ ” thân hữu , thì, thánh Gioan Tiền Hô không hề biết Chúa Giêsu, dù là họ hàng, phương chi là siêu nhiên. Sứ mạng Tiền Hô là “rao truyền “ Đấng Cứu Thế. Nhưng, Đấng Cứu thế “xuát hiện “ quá âm thầm, lặng lẽ, vì vậy, chính nhận vật “ dọn đường” cho Người cũng quá ngỡ ngàng. Thực hư như thế nào, không biết được.
Nhưng , nhờ dấu chỉ nào, mà Gioan Tiền Hô nhận ra “Đấng Cứu Thế “, vâng, thưa đó là : “THẦN KHÍ “ của Thiên Chúa. Vì : ” Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì Người đó chính là làm phép rửa trong Thánh Thần .” ( c 33)
Vâng, nhân vật “Hữu Hình” GIÊSU ấy là sự “mạc khải ” trọn vẹn bởi Thiên Chúa. Bởi vì, Gioan Tiền Hô là vị ngôn sứ được tràn đầy Thánh Thần, sự thần bí của Gioan không được nói đến, không ai biết được. Nhưng, Thần Khí đã mạc khải cho người biết về Đấng Cứu Thế. Sứ mạng ngôn sứ trong Cựu Ứơc rất là quan trọng, bởi vì, tiếng nói của Thiên Chúa được thể hiện qua vị ngôn sứ. Tiếng nói ngôn sứ của Gioan Tiền Hô là “tiếng nói ngôn sứ ” cuối cùng của Cựu Ứơc. Vì thế, sự làm chứng về Đấng Cứu Thế là sự làm chứng cuối cùng vềTân Ứơc đối với Cựu Ứơc. Thiên Chúa không dùng ngôn sứ “gián tiếp” nữa , mà chính Ngài phán truyền qua Người Con Một là Đức Giêsu- Kitô.
Theo đó , phép “Rửa” bởi Tân Ứơc là phép rửa bởi Thần Khí, phát xuất từ phép rửa được Gioan Tiền Hô thực hiện từ ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa.
Vì chính Gioan Tiền Hô đã nói : “Tôi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người “ ( c 32 ). Vâng, một dấu chỉ rõ ràng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế mà muôn dân mong đợi, và việc Người chịu phép rửa bởi TAY Gioan là để tỏ ra cho dân tộc Israel.
Một ngôn sứ Israel chính hiệu là Gioan Tiền Hô, nhưng vẫn bị” thế lực “ Israel loại trừ. Chúng ta thấy , dường như sự vô biên thua sự hiện hữu, sự vô hình thua sự hữu hình, Thiên Chúa thua trần gian. Bởi vì, chính Gioan là chứng nhân cho Đấng Cứu Thế cũng sẽ bị “ chém đầu ”, còn Đấng Cứu Thế thì “ bị “ đóng đinh vào Thập giá.
Theo đó, Lời Chúa hôm nay ( Ga 1, 29 – 34) có hai ý chính :
Như vậy, “ Chiên Thiên Chúa” là Đấng Cứu chuộc trần gian, mặc nhiên, Người phải gánh lấy “tội “ trần gian, là phái “ trở nên “ Hy Lể đền tội, là cái chết “ bất công”.
Vâng, bản án bất công của Đấng Cứu Thế, dường như ngay cả những người bước theo Chúa Giêsu , cũng không muốn đồng tình, ngay cả thời của Người và sau nầy cũng vậy. Chúa Giêsu là hiện thân bởi một tình yêu vô biên tuyệt đối từ Thiên Chúa là Cha. Chính bản án mà Người chịu càng bất công, mà nhân loại thấy được, cảm nếm được, thì tình yêu nơi Thiên Chúa càng lớn. Tại sao vậy , thưa quý vị ? Thưa , vì không ai hy sinh cho “ người lành”, cho kẻ vô tội, mà phải hy sinh cho kẻ có tội. Vì, dưới trần gian không một ai là vô tội cả, vì thế gian đã nhuốm màu satan, chỉ có một kẻ “duy nhất” cho mình vô tội, đó là satan. Vâng, satan , nó cho là nó vô tội. Vì vậy, bán án bất công mà Chúa Giêsu chịu mới có thế giá cứu chuộc nhân loại.
Nếu ai chưa nếm trải tình yêu của Thiên Chúa , chưa cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương nhân loại, chưa bước vào tình yêu Thập giá, thì họ nghĩ rằng Gía Thánh mà Chúa Giêsu chịu thật chẳng có ý nghĩa gì với họ. Nhưng, Gía Thánh, chính là Thánh Gía mà Chiên Thiên Chúa đã gánh để xóa tội trần gian. Như vậy, satan phải nghen tức và điều gì ghen tức với Thiên Chúa thì điều đó là satan. Về từ ngữ thì : satan là kẻ phản nghịch Thiên Chúa, là thần dữ. Về, bản chất thì, satan là một thiên thần ngỗ nghịch.
Nhưng, khi xuất hiện hữu hình, thì nhân loại quá vô cảm đối với một mầu nhiệm Nhập Thể, vì Thiên Chúa toàn năng , uy quyền phép tắc , mà quá đỗi khiêm tốn, quá đỗi từ nhân, vì vậy, ngôn sứ Gioan Tiền Hô đã làm chứng theo mặc khải của Thần Khí, chứ không phải theo loài người.
Theo đó, khi bước vào trần gian, mở đầu cho sứ vụ Cứu Thế, Người đã hạ mình để cho một nhân thế, một thụ tao là Gioan Tiền Hô làm phép rửa. phép rửa là một hình thức sám hối, tự nhận mình là tội nhân trước mặt Thiên Chúa. Nhưng, phép rửa có Thần Khí là phép rửa được Đấng Tạo Thành chuẩn nhận. Vì vậy, Chúa Giêsu vừa lãnh nhận phép rửa, vừa thiết lập phép rửa hầu ban chính Thánh Thần cho kẻ lãnh nhận.
Như vậy, Chúa Giêu lãnh nhận phép rửa nói lên sự khiêm tốn của Người. đồng thời tiên báo ơn tha thứ, sự cứu độ bởi Thiên Chúa khi “ TIN “ vào Người.
Khởi đi từ bài đọc I ( Is 49 , 3 . 5 – 6) : “… Đây Ta khiến ngươi nên ánh sáng của lương dân, ngõ hầu ngươi làm việc cứu độ của Ta cho tới tận cùng thế giới “ ( c 6 b ).
Như vậy, mầu nhiệm hữu hình của Chúa Giêsu là một phương diện tỏ bày “LỜI” của Thiên Chúa trong Cựu Ứơc.
Bài đọc II thánh Phaolo ( 1 Cr 1 , 1- 3), cho chúng ta biết “thánh” là những người được lãnh nhận cùng phép rửa Thánh Thần và kêu cầu cùng Thánh Danh GIÊSU. Như vậy, từ đó phát sinh ra Hội Thánh.
Như vậy, định nghĩa được : “ Hội thánh công giáo là một cộng đoàn lãnh nhận được ân sủng và ơn cứu độ của Đức Giêsu – Kitô trong Thần Khí của Thiên Chúa, chứ không phải là một tổ chức phi Thiên Chúa tại trần thế “.
“ Vậy, kẻ nào chống lại Giáo Hội công giáo thì không bao giờ thành công , dù là satan, vì được Thánh Thần xây dựng và thiết lập.”
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng , vì lòng ái tuất, Cha đã ban ơn cứu độ muôn đời qua Đức Giêsu – Kitô cho tất cả những ai khao khát, kiếm tìm. Xin ban cho mọi người thiện tâm tìm kiếm Cha, được no thỏa trong ơn cứu độ của Đức Kitô, vì chỉ nơi đó họ mới nhận được Thần Khí của Cha. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con ./. Amen.
.
GIỚI THIỆU CHÚA CHO ANH CHỊ EM
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Công nghệ quảng cáo ngày nay đã đạt đến một mức độ cao và có tầm ảnh hưởng rất rộng. Nhiều lần lặp đi lặp lại một đoạn quảng cáo, sẽ làm cho người nghe nhớ đến sản phẩm nào đó. Cũng vậy, công nghệ báo chí truyền thông đang có một ảnh hưởng rất lớn trong sinh hoạt xã hội, và có thể thay đổi xã hội. Thời Chúa Giêsu chưa có báo chí cũng như phương tiện truyền thông hiện đại, để giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người, Thiên Chúa đã dùng đến một nhân vật nổi tiếng đó là Gioan.
Lời Chúa hôm nay cho thấy, khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, mọi người chưa biết Ngài là ai, từ đâu đến, nhưng Gioan Tiền hô đã biết và đã công khai giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ và mọi người: Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian. Chính Người là Đấng mà tôi đã nói tới: Có người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì Ngài có trước tôi.
Lời giới thiệu ngắn gọn nhưng bao hàm một niềm tin sâu xa của Gioan vào Đức Giêsu, Đấng mà ông có nhiệm vụ dọn đường cho Ngài. Gioan Tiền Hô đã ý thức rất rõ về sứ mạng của mình là kẻ dọn đường và chuẩn bị cho mọi người đón nhận Đấng Cứu Thế. Ông cũng biết điểm dừng của mình, ông khiêm tôn đứng lại nhường bước cho Đấng đến sau ông. Khi chỉ cho mọi người : Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian, Gioan đã gợi lại cho môn đệ và những người nghe hình ảnh của con chiên trong mùa Lễ Xá tội của người Do Thái. Hàng năm vào dịp lễ Xá tội, toàn dân Ít-ra-en xưng thú tội lỗi mình, cầu xin Thiên Chúa tha thứ và xoá hết tội lỗi cho toàn dân. Ngày này là ngày duy nhất trong năm, thầy thượng tế bước vào nơi cực thánh trong đền thờ. Tại đây, ông lấy máu từ hy lễ rẩy trên mình và trên dân. Ông lấy một con chiên hoặc con dê, sau khi đặt tay lên đầu nó, xưng thú tất cả tội lỗi của dân lên đầu nó, ông đuổi nó vào sa mạc như dấu chỉ tội của dân đã được xua đi.
Gioan Tiên Hô còn thấy sự trổi vượt của Chúa Giêsu, Ngài không chỉ như con chiên gánh tội của dân, mà Ngài chính là Đấng xóa bỏ mọi tội lỗi cho toàn dân. Ông còn nói thêm: Ngài đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì có trước tôi. Khi nói: Ngài có trước tôi, Gioan muốn nói đến sự hiện hữu quyền năng của Đấng Cứu Thế. Ngài hiện hữu từ muôn đời và trổi vượt không chỉ trên Gioan, mà trổi vượt trên tất cả mọi vật mọi loài. Gioan đã giải thích sự trổi vượt của Đấng Cứu Thế khi nói: Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu đậu xuống trên Người. Gioan còn so sánh: Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn Ngài là Đấng rửa anh em trong Thánh Thần. Tôi đã thấy, nên xin làm chứng rằng : Người là Đấng mà Thiên Chúa tuyển chọn.
Với những lời này, Gioan đã tin nhận và làm chứng cho mọi người về Đức Giêsu Nazaret, Ngài không phải là một con người thường, nhưng là Thiên Chúa trong hình dạng của một con người. Vì thế, nơi Ngài có đầy đủ quyền năng của một vị Thiên Chúa và Ngài đã dùng quyền năng Thiên Chúa để cứu chuộc và tẩy rửa tội lỗi cho nhân loại. Tuy nhiên, Ngài không thi hành quyền năng bằng bạo lực hoặc vũ khí hay quân đội, nhưng Ngài dùng tình yêu, lòng trắc ẩn để chinh phục thế giới, để quy tụ muôn dân trong sự săn sóc yêu thương của Ngài.
Tiên tri Isaia trong bài đọc một đã dùng hình ảnh của một Người Tôi Trung khiêm hạ để nói về Đấng Cứu Thế và sứ mạng của Ngài: Ta sẽ dùng Người để biểu lộ vinh quang, Người sẽ quy tụ Israel chung quanh Người, để tái lập nhà Giacop và đem Israel sống sót trở về. Hơn thế nữa, Thiên Chúa còn biến Người Tôi Trung của Ngài thành ánh sáng cho muôn dân, để đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất. Người Tôi Trung khiêm hạ được Isaia mô tả đã ứng nghiệm nơi con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu quả là một người Con và cũng là một tôi tớ trung thành, vâng phục, của Thiên Chúa. Vì yêu mến và vâng phục hoàn toàn ý muốn của Thiên Chúa Cha, Ngài đã chấp nhận từ bỏ địa vị của một Thiên Chúa để mang lấy thân phận giới hạn của con người. Chúa Giêsu bước vào trần gian, Ngài trở nên ánh sáng dẫn đường cho muôn dân tìm về cùng Thiên Chúa. Ngài trở nên Đấng Cứu Độ và cũng là nguồn ơn cứu độ cho nhân loại, cho đến tận cùng trái đất. Kể từ đây, ngoài Chúa Giêsu sẽ không có một con đường cứu độ nào khác, cũng không có một Đấng cứu độ nào khác.
Chúa Giêsu chính là Con Chiên Thiên Chúa đã mang lấy tội của cả nhân loại từ trước đến nay, Ngài đã đem nó lên thập giá cùng với cuộc tử nạn thập giá của Ngài. Từ cây thập Giá, Chúa Giêsu đã dùng dòng máu và nước từ cạnh sườn đổ ra để tẩy rửa tội lỗi cho nhân loại và quy tụ muôn dân muôn nước trở về thành dân của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã khẳng định chân lý này với cộng đoàn Corintô và còn nói thêm: Bất cứ ai kêu cầu danh thánh Chúa Giêsu thì được Thiên Chúa ban ân sủng và bình an.
Ngày nay chung quanh ta, trong xóm chúng ta còn nhiều người chưa biết và chưa tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng xóa bỏ tội trần gian. Chúng ta sẽ phải là người giới thiệu Chúa Giêsu cho họ. Chúng ta sẽ không thể nói về Chúa Giêsu một cách xác tín khi chúng ta chưa gặp Ngài, chưa tiếp xúc cá nhân với Ngài. Vì thế, để có thể tự tin giới thiệu cho mọi người như Gioan, chúng ta cần học biết về Chúa Giêsu nhiều hơn qua việc học hỏi giáo lý của Chúa, qua việc đọc và suy gẫm Kinh Thánh, vì không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Giêsu. Kế đến, chúng ta còn phải gặp được Chúa Giêsu qua việc cầu nguyện, qua các giờ kinh sớm tối trong gia đình, nhất là gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Bí tích Giải tội và tiếp xúc đụng chạm tới Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Thể. Khi đó, chúng ta mới có thể xác tín và tự tin, không ngại ngần giới thiệu Chúa cho mọi người.
Hãy bắt đầu từ nơi các gia đình. Các bậc cha mẹ hãy đưa con đến với Chúa mỗi ngày trong thánh lễ để chỉ cho con biết Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xóa tội trần gian. Kế đến, cha mẹ hãy học nơi Chúa Giêsu để biến mình trở thành người “gánh tội, xóa tội” cho gia đình bằng sự hy sinh âm thầm tận tụy trong nhiệm vụ làm cha mẹ để vun đắp cho đời sống thể xác và nhất là đời sống đạo đức của con cháu và của gia đình. Vì tương lai, vì hạnh phúc của gia đình, mỗi người cần dẹp bỏ cái tôi ích kỷ, sự tự ái vụn vặt để vun đắp cho cái chung của gia đình. Chính cha mẹ cũng cần học nơi Chúa Giêsu để biết cảm thông tha thứ cho nhau, cùng nhau vun đắp cho tình yêu và hạnh phúc của gia đình, làm cho gia đình thêm ấm cúng thuận hòa.
Sự tự tin giới thiệu về Chiên Thiên Chúa cho mọi người của Gioan là tấm gương cho mọi người và cách riêng cho các bạn trẻ. Hầu hết các bạn trẻ hôm nay đều sử dụng internet và các trang mạng xã hội, các bạn hãy tận dụng sự lan tỏa của nó để nói về Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài cho người khác. Đừng chỉ vào mạng để thỏa mãn sự tò mò hoặc tự sướng, nhưng cần biết sử dụng chúng một cách cẩn trọng, khôn ngoan và có ích cho sự phát triển tốt của mình và đem đến an vui cho người khác. Quan trọng hơn, qua cuộc sống thường ngày, mỗi người được mời gọi giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế cho bạn hữu nơi công ty, chỗ làm việc, nơi buôn bán, để qua đời sống tốt lành hiền hòa, nhân ái của mỗi chúng ta, mọi người sẽ nhận ra Chúa Giêsu nơi chúng ta và nhận ra chúng ta là những chứng nhân đáng tin của Ngài.
Xin Chúa Thánh Thần thúc đẩy và đốt nóng lòng yêu mến Chúa Giêsu trong lòng chúng ta và biến chúng ta trở thành những chứng nhân không mệt mỏi nói về Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Thiên Chúa giàu lòng thương xót cho bạn hữu và cho xã hội hôm nay. Amen.
.
Trầm Thên Thu
Có nhiều Tôn Danh được dùng để nói về Đức Giêsu Kitô, nhưng có thể nói chắc chắn rằng “nickname” được sử dụng nhiều nhất là Tôn Danh “Chiên Thiên Chúa” (Con Chiên của Thiên Chúa). Thật vậy, Tôn Danh “Chiên Thiên Chúa” được Kinh Thánh Tân Ước đề cập 31 lần – sách Khải Huyền đề cập 29 lần, và Tin Mừng theo Thánh Gioan đề cập 2 lần (với cách nói “Con Chiên”).
Thông thường, “con chiên” cũng là “con cừu” (có khi gọi là “con trừu”), loài động vật có vú. Thế nhưng tại sao người ta lại gọi là “Chiên Thiên Chúa” mà không gọi là “Cừu Thiên Chúa”? Có gì khác nhau chăng? Thưa ngay rằng “có”. Vì thế, chúng ta cần phân biệt sự khác nhau giữa “con chiên” và “con cừu”, nhất là đối với người Việt Nam, vì loài động vật này không phổ biến ở đất nước chúng ta.
Chúng ta biết rằng danh từ “cừu” dùng để chỉ chung về loài động vật này, nhưng “cừu” thường dùng để nói về những con lớn hơn một năm. Còn danh từ “chiên” dùng để nói về những con nhỏ hơn một năm. Nghĩa là người ta nói “thịt chiên” để chỉ loại thịt của những con “cừu non”, nhưng người ta nói “thịt cừu” để chỉ loại thịt của những con “cừu già”.
Người Anh dùng vài từ ngữ khác nhau để nói về giống cừu: danh từ “sheep” nói chung về loài cừu, danh từ “lamb” chỉ cừu non (dưới một năm), danh từ “ram” chỉ cừu đực, danh từ “ewes” (hoặc “yoe”) chỉ cừu cái. Do đó, chúng ta gọi là Chiên Thiên Chúa, Anh ngữ là Lamb of God (dùng chữ “lamb” chứ không dùng các chữ khác).
Chiên Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Cựu Ước đã đề cập bằng danh xưng Người Tôi Trung. Qua ngôn sứ Isaia, trong bài ca Người Tôi Trung II, Thiên Chúa đã phán: “Hỡi Israel, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang” (Is 49:3). Thiên Chúa đã tiền định và có kế hoạch riêng cho mỗi người, không ai giống ai. Đó là điều quá đỗi kỳ diệu mà chúng ta không thể nào hiểu nổi.
Thật vậy, ngôn sứ Isaia cho biết sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa: “Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Israel chung quanh Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi” (Is 49:5). Thật hạnh phúc cho ai vâng theo Ý Chúa. Mỗi chúng ta đều được Thiên Chúa tuyển chọn và đặt vào một vị trí nhất định theo Ý Ngài, vấn đề là chúng ta có làm theo Ý Ngài hay không.
Nếu chúng ta làm tốt công việc Ngài giao phó, Ngài sẽ giao thêm vì thấy chúng ta có khả năng. Có rồi sẽ được cho thêm là thế (x. Mt 13:12; Mt 25:29; Mc 4:25; Lc 8:18; Lc 19:26). Quả thật, Người Tôi Trung làm tốt nên Ngài muốn họ làm thêm nữa: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49:6).
Người tôi trung là người vâng lời tuyệt đối, không phải vì miễn cưỡng mà vì tôn trọng và yêu mến. Yêu là muốn làm vừa lòng người mình yêu (vị tha), chứ không vì mình (vị kỷ). Tình yêu đôi lứa thế gian thường là vị kỷ nhiều hơn vị tha. Mọi nơi và mọi lúc, trong bất cứ hoàn cảnh nào, người tôi trung luôn một lòng vì Chúa: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2).
Yêu và được yêu là hạnh phúc nhất. Vì thế, người ta không thể không im hơi lặng tiếng, sẵn sàng làm chứng về Đấng Tình Yêu để người khác cũng nhận biết Ngài: “Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa” (Tv 40:4).
Thiên Chúa có mọi sự, Ngài không cần gì ở chúng ta, mà Ngài chỉ muốn chúng ta chân thành yêu kính Ngài hết linh hồn và hết trí khôn. Cảm nghiệm được như vậy, tác giả Thánh Vịnh thân thưa: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: ‘Này con xin đến!’. Trong sách có lời chép về con rằng: con THÍCH LÀM theo thánh ý, và ẤP Ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Đó cũng chính là điều nói về Chiên Thiên Chúa – Đức Giêsu Kitô.
Con chiên là con vật hiền lành, dù bị xén lông rất đau đớn cũng không kêu than hoặc giãy giụa phản đối. Con Chiên của Thiên Chúa cũng vậy. Một lòng trung tín và tuân phục, Người Tôi Trung chân thành bày tỏ khúc nhôi: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10). Thật đẹp thay sự quyết tâm và lòng can đảm dành riêng cho Thiên Chúa, và phúc thay cho ai hành động như vậy!
Xưa nay chúng ta đã quen với một câu nói ngắn gọn và phổ biến trong cộng đồng dân Chúa: “Vâng lời quý [trọng] hơn của lễ” (x. 1 Sm 15:22; Tv 50:8-9). Một cách nói giản dị và dễ hiểu. Và đó cũng chính là chân lý muôn đời đối với những ai tin vào Thiên Chúa.
Từ một Saolê [Saolô hoặc Saun] hung dữ trở thành một Phaolô nhiệt thành, ông bộc bạch với dân Côrintô: “Tôi là Phaolô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Kitô Giêsu, và ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Côrintô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giêsu Kitô, là Chúa của họ và của chúng ta. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (1 Cr 1:1-3).
Thánh Phaolô xác định rằng dân Côrintô là những người “được thánh hiến” và là “dân thánh” của Thiên Chúa, và chúng ta ngày nay cũng vậy, cũng là những “thánh nhân” trong Giáo Hội của Đức Giêsu Kitô. Như vậy, bổn phận của chúng ta là phải chân thành mến Chúa, yêu người, cùng với trách nhiệm là phải sống sao cho xứng với Đức Kitô, Đấng đã yêu thương và tin tưởng chúng ta, thế nên Ngài đã muốn chúng ta là những chứng nhân của Ngài giữa thế gian này.
Chứng nhân “gạch nối” giữa Cựu Ước và Tân Ước là ột “dị nhân” nổi tiếng đặc biệt: ông Gioan Tẩy Giả (Tiền Hô). Sau ngày ông làm phép rửa cho Đức Giêsu, lúc thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói với những người có mặt ở đó: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Israel, tôi đến làm phép rửa trong nước” (Ga 1:29-31).
Ông Gioan đã mục sở thị sự việc lạ lùng tại sông Gio-đan, ông hùng hồn làm chứng về Đức Giêsu Kitô: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần’. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:32-34).
Lời chứng của ông Gioan là sự thật, và thật hạnh phúc cho chúng ta vì chúng ta đã và đang tin vào chính Đấng mà ông Gioan đã làm chứng từ 20 thế kỷ trước.
Chiên Thiên Chúa vô cùng quan trọng và cao cả, nhưng Ngài lại tự hóa ra “không” chỉ vì yêu thương chúng ta. Người ta đã từng thấy cách sống lạ của Gioan Tẩy Giả, đến nỗi người ta đã tưởng ông là Đấng Mêsia. Nhưng Đức Giêsu còn có cách sống kỳ lạ hơn Gioan Tẩy Giả, và tất nhiên cách sống đó cũng khó áp dụng hơn. Nhưng khó không có nghĩa là không làm được. Cố gắng thì sẽ được, bởi vì chúng ta không nỗ lực một mình, mà có Thiên Chúa trợ lực.
Cách sống của Đức Giêsu khác người từ Belem tới Canvê, chính Ngài đã xác định: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Còn hơn thế nữa, vì một chỗ tựa đầu mà Ngài cũng không có (x. Mt 8:20; Lc 9:58). Còn chúng ta thì sao?
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết làm chứng về Chiên Thiên Chúa theo khả năng và hoàn cảnh sống của con, xin giúp con hành động mọi sự vì vinh danh Ngài chứ không vì một thứ gì khác. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Về mặt họ hàng máu mủ thì Gio-an phải biết rất rõ về người em họ Giê-su của mình, thậm chí có thể ngay từ khi còn trong bụng mẹ (Lc 1:44); còn nếu xét về vai trò tiền hô giới thiệu đấng Thiên Sai cho mọi người thì hơn ai hết ông lại càng phải biết rõ người ông giới thiệu là ai. Thế mà trong đoạn Phúc âm ngắn hôm nay, đã có tới hai lần Gio-an bộc bạch: “Tôi đã không biết Người” (Ga 1:31.33). Ông còn xác minh thêm rằng: ông tới kêu gọi dân chúng sám hối và nhận lãnh phép rửa trong nước là để “Người được tỏ cho dân Ít-ra-en”, chứ không chỉ nhằm mục đích muốn họ cải thiện đời sống; tại sao vậy?
Khi giới thiệu cho dân chúng và các môn đệ mình về Thầy Giê-su – vị Thiên Sai phải đến, Gio-an đã sử dụng một điển ngữ khá phổ thông của Cựu Ước, ‘Chiên Thiên Chúa’. Đối với người Do Thái, hầu như ai cũng hiểu nó ám chỉ ‘người tôi tớ Gia-vê’, mang nội dung tự hiến và phục vụ, đấng sẽ giải thoát hay cứu chuộc dân theo hình ảnh Chiên Vượt Qua (xem Xh 12:1-14 và Mc 14:12). Điển ngữ này rất phổ thông trong thời các ngôn sứ, nhưng dần bị lu mờ vào thời điểm La Mã thống trị do các khuynh hướng chính trị. Chắc hẳn Gio-an đã muốn khơi lại truyền thống ngôn sứ, thay vì ngả theo quan điểm của giới lãnh đạo đương thời. Thế nhưng cái diện mạo Thiên Sai mà Gio-an mới phát hiện ra nơi nhân vật Giê-su thì lại chưa có gì là rõ ràng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người”. Ông đã chứng kiến quang cảnh Thần Khí ngự xuống trên Giê-su sau khi lãnh phép rửa của ông, và vì đã được báo trước cho biết đó là dấu hiệu của đấng Thiên Sai, ông nhận ra Ngài. Thế nhưng bản chất thực của Thần Khí đó là gì thì ngay cả ông cũng chưa nắm bắt vững; quan niệm Cựu Ước về một thần khí như uy quyền thông trị của Đức Chúa vẫn chi phối ông cho tới giờ phút này, và ông không hề tìm thấy những nét đó nơi nhân vật Giê-su. Về điều này Gio-an sẽ còn tiếp tục khắc khoải tìm hiểu một thời gian dài: “Thầy có phải là đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Lc 7:19) Trong nội dung này ông hiểu ra rằng, giữa việc hối nhân dìm mình xuống dòng sông ông thực hiện và việc thanh rửa trong Thánh Thần do Đấng Thiên Chúa tuyển chọn sẽ thực hiện có khác biệt một trời một vực. Rửa trong nước do ông thực hiện để sám hội và hướng thiện (cụ thể hơn là để giữ trọn lề luật) thì đã rõ… nhưng còn rửa trong Thánh Thần để có sức mạnh thần khí thì chưa có gì là rõ ràng. Hiểu được điều này cũng có nghĩa là tiến từ Cựu ước qua Tân ước, hiểu được Đức Ki-tô và đã nắm được mấu chốt của niềm tin Ki-tô hữu.
Đức Giê-su, khi gặp lại các đồng hương Na-da-rét đã quá quen biết nhau, đã dùng lời ngôn sứ I-sai-a để tự giới thiệu mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi” (Lc 4:18), tuy nhiên, diện mạo của ‘Thần Khí’ Người áp dụng cho mình lại rất khác lạ với hình ảnh ‘thần khí’ đang phổ biến. Ngôn sứ I-sai-a đã phác họa một đấng Mê-si-a không quyền lực, không khổ hạnh nhưng chuyên phục vụ; hình ảnh này đã bị các Biệt Phái luật sĩ lãng quên từ lâu. Sau này cuộc sống và lời rao giảng của Người sẽ không nặng mùi luân lý khổ hạnh, nhưng hiện rõ nét tự do trong yêu thương, khác xa đời sống và lời giảng dạy của Gio-an – vị ngôn sứ tiền hô luôn đậm nét luân lý nghiêm khắc và cương trực (xem Mt 3,1-12). Nhưng cũng chính Gio-an tiền hô đã đưa ra những lời chứng quan trọng, đó là ‘Đấng Thiên Chủa tuyển chọn’ phải là con người của Thần Khí, và phép rửa do đấng ấy thực hiện phải là phép rửa trong Thánh Thần.
Vì đã lãnh nhận bí tích rửa tội của Đức Ki-tô chứ không phải của Gio-an (xem Cv 19:1-7), Ki-tô hữu chúng ta không thể tự cho phép mình xây dựng một cuộc sống đức tin nặng về luân lý đạo đức, nhưng phải triển khai sức sống mãnh liệt của Thần Khí yêu thương và phục vụ. Luân lý đạo đức là điều tốt và cần thiết chung cho hết mọi người, có đạo hay không có đạo, nhưng nó không bộc lộ được cái sức Tin Mừng của Thần Khí. Để cho cuộc sống đức tin được phong phú, ăn ngay ở lành hoặc sống lương thiện tự bản chất là chưa đủ. Bao lâu những người sống quanh ta còn chưa nhận ra ‘Thần Khí Chúa xuống trên tôi’ như đã xuống trên Đức Ki-tô, thì họ chưa thể nhận biết Ki-tô hữu là những ‘người được Thiên Chúa tuyển chọn’. Và họ vẫn có thể nói về niềm tin Ki-tô hữu của chúng ta: ‘chúng tôi không hề biết các người’. Vì hoặc là Ki-tô hữu sống mãnh liệt Thần Khí, hoặc tôi sẽ chẳng khác chi người thường, dầu có sống ngay chính và lương thiện tới mấy đi nữa!
Lạy Chúa, trong tư cách linh mục của Đức Ki-tô Giê-su, con có bổn phận giúp cho các tín hữu sống ơn bí tích rửa tội mà họ đã lãnh nhận. Xin cho con biết nhận thức rõ rằng, họ đã được rửa trong Thánh Thần của Đức Ki-tô, chứ không phải trong nước của Gio-an. Chỉ như thế việc mục vụ của con mới không chỉ giới hạn trong việc giữ họ sống lương thiện, nhưng là nỗ lực giúp họ triển khai sức sống phong phú của Thánh Thần tình yêu, nhờ thế họ được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô. A-men.
.
ĐỨC GIÊSU LÀ CHIÊN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
Lm Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
(29) Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian. (30) Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, vì có trước tôi. (31) Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước”. (32) Ông Gio-an còn làm chứng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. (33) Tôi không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. (34) Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.
Đây là lời chứng thứ hai của Gio-an Tẩy Giả về Đức Giê-su. Ông xác nhận Đức Giê-su là Con Chiên của Thiên Chúa, có sứ mệnh xóa bỏ tội trần gian. Người là Đấng mà Gioan được sai đến trước để dọn đường qua dấu chỉ Thánh Thần ngự xuống. Gio-an đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su khi làm phép rửa cho Người tại sông Gio-đan, nên ông đã làm chứng: “Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.
– C 29-30: + Đây là Chiên Thiên Chúa: Chiên Thiên Chúa hay Chiên Vượt Qua thời Xuất Hành (x. Xh 12,3-46). Tin Mừng Gio-an cho thấy Đức Giê-su chính là Con Chiên lễ Vượt Qua qua ba sự kiện: Một là thời gian quan Phi-la-tô xét xử Đức Giê-su vào Giờ Thứ Sáu (tức 12 giờ trưa) trong ngày lễ áp lễ Vượt Qua (x. Ga 9,14), trùng với giờ các tư tế giết chiên trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để mừng đại lễ Vượt Qua. Hai là cành hương thảo: Người Do thái lấy một bó hương thảo, nhúng vào chậu đựng máu chiên và quét lên khung cửa nhà. Điều này giống như một tên lính đã lấy miếng bọt biển thấm giấm, buộc vào cành hương thảo đưa lên miệng Đức Giê-su nếm (x. Ga 19,29). Ba là chỉ thị của Mô-sê cấm đánh gãy xương của con Chiên bị giết trong biến cố Vượt Qua: quân lính không đánh dập ống chân của Người trên cây thập giá (x. Ga 19,34). + Về con chiên gánh tội : Trong lễ Xá Tội, người Do Thái bắt một con chiên đem đến cho Tư tế. Vị Tư Tế sẽ đọc một danh sách các thứ tội của dân và kêu gọi mọi người sám hối. Sau đó, Tư Tế đặt tay trên đầu con chiên, ngụ ý trút hết danh sách tội ấy lên đầu nó, rồi đuổi nó vào sa mạc. Người ta cử hành nghi lễ sám hối này để xin Đức Chúa xóa hết tội cho mình (x. Lv 1,4). Con chiên Vượt qua là hình bóng Đấng Cứu thế như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm: “Chính các bệnh tật của chúng tôi. Ngài đã vác. Ngài đã bị đâm vì những phản nghịch của chúng tôi. Vì tội vạ của chúng tôi, Ngài đã bị nghiền tán… Ngài đã chịu đựng, không mở miệng, như chiên con dẫn đến lò sát sinh… Thiên Chúa đã ái mộ Ngài, đã phục sinh Đấng đã làm lễ hy sinh tạ tội. Ngài đã được trường sinh bất tử” (Is 53, 4-5.7.10). + Đấng xóa bỏ tội trần gian: Thay vì dùng chữ gánh tội, Tin Mừng Gio-an đã dùng chữ “xóa” theo nghĩa “làm mất đi” (x. 1 Ga 3,5). Và như vậy “xóa tội” nghĩa là giải thoát khỏi tội lỗi. Trong cuộc Vượt Qua, nhờ máu chiên được sát tế và quét lên khung cửa nhà mà các con trai đầu lòng của người Do thái khỏi bị tiêu diệt (x. Xh 12,23). Cũng vậy, nhân loại nhờ việc Đức Giê-su chịu chết sẽ được xóa bỏ tội lỗi, giống như bỏ đi gánh nặng đè trên mình họ. + Có người đến sau tôi, vì có trước tôi: Tuy về thời gian, Đức Giê-su được sinh ra sau Gio-an 6 tháng (x. Lc 1,24.26), nhưng về bản tính Thiên Chúa thì Người luôn hiện hữu cả trước khi Gio-an ra đời.
– C 31-32: + Tôi đã không biết Người: Kiểu nói “không biết” có nghĩa là Gio-an đã không nhận ra Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Cái “không biết” của Gio-an cũng giống như “không biết” của người Do thái trong câu “Ở giữa các ông có Đấng mà các ông không biết” (Ga 1,26). + Nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en: Việc Gio-an làm phép rửa cho Đức Giê-su chính là cơ hội để Người tỏ mình là Đấng Thiên Sai cho dân Do thái. + Ông Gio-an còn làm chứng: Do những dấu chỉ “Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người”, mà Gio-an đã nhận ra thân phận của Đức Giê-su: Người thực là “Con Thiên Chúa”, là “Đấng Thiên Chúa đã tuyển chọn”. + Thánh Thần như chim bồ câu: Kiểu nói này không khẳng định Thánh Thần hiện ra dưới hình của chim bồ câu, nhưng đáp xuống trên Đức Giê-su giống như tiếng rung nhè nhẹ của loài chim ấy. + Và ngự trên Người: Việc “Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và lưu lại trên Đức Giê-su” tượng trưng cho hiệu quả của việc tuôn đổ ơn Thánh Thần, là ban sự sống để thiếp lập một dân Ít-ra-en mới. Cũng vậy, trong ngày lễ Hiện Xuống, “Lưỡi Lửa” không trực tiếp tượng trưng cho Chúa Thánh Thần, nhưng tượng trưng cho việc các Tông Đồ được Thánh Thần ban cho “nói tiếng lạ” để công bố Tin Mừng khắp thế gian.
– C 33-34: + Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Câu này được lặp lại để nhấn mạnh việc Gio-an không tự nhận biết Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa nhưng là do chính Thiên Chúa, Đấng sai Gio-an làm phép rửa đã dạy cho ông biết. + Đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần: Làm phép rửa trong Thánh Thần là một thành ngữ ám chỉ công việc chính của Đức Giê-su là “xóa bỏ tội lỗi” bằng cách tuôn đổ ơn Thánh Thần xuống trên kẻ tin và lãnh nhận phép rửa để được tha tội (x. Ga 3,5-8). + Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn: Gio-an xác định việc ông làm chứng “Đức Giê-su là Đấng Thiên Chúa đã tuyển chọn” là do Thiên Chúa soi sáng. “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” đồng nghĩa với “Con Thiên Chúa”, như lời sấm của I-sai-a: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn…” (Is 42,1). Việc Đức Giê-su được Thiên Chúa tuyển chọn gắn liền với việc Người được ban Thần Khí để chu toàn sứ mạng Thiên Sai.
1) Nội dung lời chứng thứ hai của Gio-an Tẩy Giả về Đức Giê-su thế nào ? 2) Ba điều Tin Mừng Gio-an nêu ra chứng minh Đức Giê-su chính là con chiên cứu độ là gì ? 3) Gio-an muốn nói điều gì khi giới thiệu Đức Giê-su là “Đấng xóa bỏ tội trần gian” ? 4) Tại sao Gio-an lớn hơn Đức Giê-su 6 tháng, mà ông lại nói Người đã có trước ông ? 5) Từ “Không biết” trong câu “Tôi đã không biết Người” nghĩa là gì ? 6) “làm phép rửa trong Thánh Thần” là gì ? 7) “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” đồng nghĩa với “Con Thiên Chúa” trong lời sấm nào của Ngôn sứ I-sai-a ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1) ĐƯỢC CỨU SỐNG NHỜ CÁI CHẾT CỦA CON CHIÊN:
Một anh thợ nề kia đang làm việc chống dột trên mái nhà thờ GUƠ-ĐEN (Werden) nước Đức. Khi anh đang đu mình trên tường để sửa lại phần mái của Nhà thờ thì sợi dây an toàn anh mang trên mình lâu ngày bị mục, không chịu nổi sức nặng của anh nên bị đứt và anh bị rơi từ độ cao 20 mét xuống sàn nhà thờ. Nhưng rất may là bấy giờ có một con chiên đang ăn cỏ trong thửa vườn ở phía sau nhà thờ, tự nhiên lại chạy tới chỗ anh thợ đang làm việc trên cao, và anh đã ngã đè lên con chiên đáng thương kia. Anh thợ may mắn thoát chết và chỉ bị gãy xương chân, nhưng con chiên bị anh té đè lên thì lại bị chết bẹp. Về sau, để tỏ lòng biết ơn con chiên đã cứu mình, anh đã nhờ người chạm trổ một bức tượng chiên bằng đá quí. Được Cha Sở cho phép, anh làm một tượng đài mang tên “Con Chiên Cứu Độ” ngay tại nơi anh bị té để tưởng niệm con chiên đã chết cho anh được sống. Nhưng thực ra Chúa Giê-su mới là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Người đã hy sinh chịu chết để tấy xóa tội lỗi nhân loại. Nhờ cuộc tử nạn và sự phục sinh vinh quang của Người mà mọi người chúng ta được tham phần vào cuộc chiến thắng sự chết và bước vào vinh quang phục sinh với Người.
Chúa Giêsu khử trừ tội của thế gian bằng cách gánh mọi tội lỗi của nhân loại, từ tội nguyên tổ Ađam cho đến tội của hết mọi người. Với cuộc khổ nạn và sự chết đau thương tủi nhục trên cây thập giá, Người đã đền thay tội lỗi của mọi người chúng ta.
2) CHỊU ĐAU KHỔ CÁCH OAN ỨC LÀ ĐỂ ĐỀN TỘI THAY CHO KẺ GIAN ÁC:
Một cô gái đang có người yêu, nhưng một hôm chẳng may đã bị kẻ cướp hãm hiếp có thai ngoài ý muốn. Sau đó cô còn đau khổ hơn nữa khi bị người yêu ruồng bỏ và mọi người khi dể xa lánh. Một hôm cô đến xưng tội với đức cha Fulton Sheen. Sau khi trình bày hoàn cảnh oan ức đang gặp phải, cô đã hỏi đức cha: “Tại sao con vô tội mà lại phải chịu nỗi đau khổ oan ức như thế?” Với thái độ cảm thông, đức cha Sheen đã an ủi cô gái như sau: “Con vô tội mà phải chịu nỗi đau khổ bất công như vậy là do con chịu đền tội thay cho tên cướp đã làm hại con”.
Rồi Đức Cha Sheen nói với mọi người đang nghe ngài giảng: «Nếu chỉ vì phải gánh tội cho một người mà cô gái kia đã phải chịu đau khổ như thế, thì Chúa Giê-su khi phải gánh tội của nhân loại bằng cái chết tủi nhục trên cây thập tự, còn phải chịu đau khổ biết chừng nào! »
1) ĐỨC GIÊ-SU LÀ CON CHIÊN LỄ VƯỢT QUA:
Câu chuyện về đại lễ Vượt Qua kể lại rằng: Khi Mô-sê được Đức Chúa sai đến gặp Pha-ra-ô nước Ai-cập để thuyết phục nhà vua trả tự do cho dân Ít-ra-en, để họ được giải thoát khỏi kiếp sống nô lệ cho người Ai-cập, vào trong sa mạc để thờ phượng Đức Chúa tại núi Si-nai nơi Mô-sê đã gặp Chúa. Lúc đầu Pha-ra-ô cương quyết từ chối. Mô-sê đã phải sử dụng cây gậy Chúa ban để lần lượt thi thố 10 phép lạ chứng minh quyền năng Đức Chúa của con cháu Gia-cóp mạnh hơn các tà thần của dân Ai-cập. Nhưng chỉ đến phép lạ thứ mười là tiêu diệt các con trai đầu lòng của người Ai-cập, thì Pha-ra-ô mới chịu khuất phục và đồng ý cho con cháu Gia-cóp ra đi. Hôm ấy, Mô-sê vâng lệnh Đức Chúa truyền cho dân Ít-ra-en mỗi nhà phải giết một con chiên đực một tuổi để ăn thịt chiên với bánh không men và rau diếp đắng. Họ phải lấy máu chiên bôi trên thành cửa nhà của họ. Đêm hôm ấy, thần sứ hủy diệt của Đức Chúa đánh phạt Ai cập bằng việc giết chết các con trai đầu lòng của dân Ai-cập, còn những nhà có bôi máu chiên trên thành cửa, thì các con trai đầu lòng của họ khỏi phải chết (x. Xh 12,3-13). Thánh Phao-lô đã nói về con chiên cứu độ đó chính là Đức Giê-su như sau: “Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế chúng ta đừng lấy men cũ là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng Đại lễ” (1 Cr 5,7-8).
2) ĐỨC GIÊ-SU LÀ CON CHIÊN HIẾN TẾ ĐỀN TỘI:
Trong Đền Thờ hai lần sáng và chiều mỗi ngày, người ta đều giết chiên dâng lên Đức Chúa làm của lễ dâng tiến để đền tội thay cho dân (x. Xh 29,31). Khi giới thiệu Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Gio-an Tẩy Giả đã làm chứng Đức Giê-su là lễ vật mới của thời Tân Ước, được dâng tiến cho Thiên Chúa trên bàn thờ thập giá, thay thế cho lễ vật là con chiên được dâng theo Luật Mô-sê của thời Cựu Ước. Về việc thay lễ vật chiên cừu cũ bằng lễ vật mới là chiên Thiên Chúa, tác giả thư Do thái đã viết như sau: “Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10,8-10). Ngôn sứ I-sai-a đã nói tiên tri về người Tôi Tớ của Chúa, một ngày kia sẽ chịu đau khổ và chết như một con chiên như sau: “Bị ngược đãi người cam nhịn nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp, buộc tội rồi bị thủ tiêu… Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, Tôi Trung của Ta, sẽ làm cho môn đệ người nên công chính, và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53,7.11b;x Gr 11,19).
3) ĐỨC GIÊ-SU, CON CHIÊN KHẢI HOÀN:
Trong sách Khải Huyền, Tác giả đã áp dụng tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” cho Đức Giê-su 28 lần. Trong đó, nhấn mạnh Con Chiên ngự trên ngai vương quyền. Là Đấng chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh vinh quang. Con Chiên được ca ngợi như sau: “Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước mọi dân. Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta” (Kh 5,9-10). “Tôi thấy và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai lớn tiếng hô: Con Chiên đã bị giết, nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang và muôn lời cung chúc. Amen” (Kh 5,12).
Tóm lại, tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” gợi lên ba hình ảnh sống động về ơn cứu độ của các con chiên thời Cựu Ước như sau:
– Chúa Giê-su là Con Chiên Cứu Độ: Máu Người đổ ra trên thập tự trở thành giá chuộc muôn người, giống như máu con chiên được bôi trên thành cửa đã cứu các con trai đầu lòng của dân Do thái khỏi bị hủy diệt trong ngày Vượt Qua.
– Chúa Giê-su chính là Con Chiên Gánh tội và xóa tội trần gian, khi chịu hiến tế trên bàn thờ Thập Giá để đền thay cho tội lỗi chúng ta, giống như con chiên thanh sạch phải gánh tội và xóa tội cho toàn dân trong lễ Xá Tội của đạo Do Thái.
– Chúa Giê-su là Con Chiên Thiên Chúa đã chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh vinh quang để ban ơn cứu độ cho nhân loại như sách Khải Huyền đã ghi nhận (x Kh 5,9-10).
Do đó, dù Đức Giê-su có nhiều tước hiệu như : “Ánh Sáng trần gian”, “Mục Tử nhân lành”, “Bánh Hằng Sống”… nhưng trong thánh lễ Giáo Hội đã dùng tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” trong phần hiệp lễ: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian…”.
4) PHẢI LÀM CHỨNG CHO CHÚA THẾ NÀO NOI GƯƠNG THÁNH GIO-AN?
– Làm chứng là giới thiệu Chúa cho tha nhân: Gio-an Tẩy Giả đã tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và giới thiệu Người cho môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa bỏ tội trần gian… Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. (Ga 1,29.34).
– Làm chứng là nói về Chúa và đề cao vai trò của Người: Gio-an luôn nói về Chúa cho mọi người và làm mọi việc để giới thiệu Chúa: “Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước” (Ga 1,30-31).
– Làm chứng bằng lối sống khiêm hạ để Chúa được lớn lên còn mình nhỏ bé đi: Gio-an không buồn khi thấy dân chúng bỏ mình và lũ lượt kéo đến xin Đức Giê-su làm phép rửa cho (x. Ga 3,26). Ông đã trấn an các môn đệ đang bất bình về điều này và nói cho họ hiểu về vai trò tiền hô của mình như sau: «Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói : Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi » (Ga 3,28.30).
1) Tước hiệu Chiên Thiên Chúa gợi lên tình yêu, sự hy sinh và sự khải hoàn. Mỗi người chúng ta sẽ làm gì để xứng đáng nhận được ơn cứu độ mà Đức Giê-su Con Chiên Thiên Chúa đã chịu chết để xóa tội chúng ta? 2) Khi bị hiểu lầm, bị vu khống cách oan uổng, chúng ta nên làm gì để kết hiệp với sự đau khổ của Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa Đấng gánh tội trần gian ?
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con thật cảm động khi thấy Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa, mà vì yêu thương con đã tình nguyện trở thành của lễ hiến tế để đền tội thay cho loài người và giao hòa nhân loại với Thiên Chúa, hầu chúng con được tham phần vào vinh quang phục sinh của Chúa. Mỗi lần dự lễ, xin cho chúng con biết dâng lên Chúa Cha những lời cầu nguyện, dâng các việc bác ái, sự hãm mình và những điều rủi ro trái ý… để biến chúng nên lễ vật kết hiệp với lễ vật cao trọng trên bàn thờ là Chiên Thiên Chúa tiến dâng lên Thiên Chúa. Nhờ đó chúng con sẽ được tham phần vào vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.
– LẠY CHÚA. Xin cho chúng con noi gương thánh Gio-an để giới thiệu Chúa là Đấng Cứu Thế bằng lời nói và việc làm trước mặt mọi người chung quanh. Mỗi lần dự lễ, xin giúp chúng con dâng những lời cầu nguyện, các hy sinh vất vả, các nỗi đau khổ phải chịu cách bất công và những việc tông đồ bác ái, để kết hiệp với lễ vật là Con Chiên Thiên Chúa. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa thương xóa bỏ tội lỗi và được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Ánh sáng là nhu cầu thiết yếu của con người. Ánh sáng đó không chỉ là các bức xạ điện từ được nhìn thấy bằng ánh nắng, ánh trăng, ánh đèn hay ánh sáng sinh học… mà hơn bao giờ hết nhân loại đang rất cần thứ ánh sáng dẫn đưa họ đến với một thế giới hòa bình công lý đích thực, một thế giới được kiến tạo bằng tình yêu thương. Thế giới đó chính là Nước Trời mà Đức Giêsu đã loan báo.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Trong bài đọc thứ nhất, Isaia loan báo một con người sẽ được Thiên Chúa dùng để “biểu lộ vinh quang” của Ngài, người đó là vị tôi trung của Thiên Chúa. Tôi trung là một thuộc hạ luôn trung thành và làm theo những hướng dẫn của ông chủ. Tuy nhiên, Thiên Chúa không dừng lại ở sự trung thành, nghĩa là chỉ quy hướng về Ngài, mà Ngài còn muốn làm cho người tôi trung đó trở thành căn nguyên ơn cứu độ, nghĩa là qua Ngài, mọi người sẽ đón nhận được ơn cứu độ: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất”.
Gioan chỉ cho dân chúng thấy Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Như vậy Gioan chính là ánh sáng soi cho người khác thấy Ánh Sáng. Gioan không quy chiếu về mình, nhưng dùng uy tín của mình để dẫn người khác đến cùng Ánh Sáng thật. Ông đã nại đến Thánh Thần bảo đảm cho lời nói của mình là sự thật: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.
Như vậy lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy rõ việc chỉ đường để người khác nhận ra sự thật là vô cùng quan trọng. Vai trò đó chính là việc trở thành ánh sáng để dẫn đường cho người khác đến cùng chân lý.
II. ÁNH SÁNG PHÁ TAN BÓNG TỐI
Thư Chung gửi cộng đồng dân Chúa ngày 7/10/2016 của Hội đồng Giám mục Việt Nam có nêu lên những điều Hội đồng Giám mục Việt Nam đang băn khoăn lo lắng như: đạo đức xuống dốc nghiêm trọng, tội ác gia tăng về số lượng lẫn về mức độ dã man, phá thai và nghiện ngập tràn lan, tệ nạn tham nhũng vẫn không suy giảm, xâm mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long, hạn hán tại Tây Nguyên, thảm họa môi trường tại miền Trung, thực phẩm bẩn và độc hại là mối đe dọa hằng ngày… Những vấn đề này không chỉ là mối băn khoăn lo lắng của Hội đồng Giám mục Việt Nam, mà dường như của tất cả người dân Việt. Và như thế năm 2016 khép lại trong những băn khoăn lo lắng đó, như vườn hoa của người dân hoang tàn không kịp đón xuân vì thời tiết xấu trong những tháng vừa qua.
Tuy nhiên, dù hoang tàn nhưng vẫn có những cánh hoa vươn lên, nở rộ để góp thêm hương sắc cho ngày xuân sắp tới. Ví dụ như trường hợp của chị Đậu Thị Huyền Trâm ở Hà Tĩnh dù bị ung thư giai đoạn cuối nhưng đã từ chối điều trị để cứu lấy đứa con trong bụng mình, thậm chí khi mổ lấy thai, vì không thể gây mê, chị cũng sẵn sàng chịu đau đớn. Một trường hợp khác chính tôi mắt thấy tai nghe tại bến xe miền Tây trong những ngày cuối năm. Một người đàn ông mặc đồ công nhân ngồi co ro trong góc phòng chờ chuyến xe cuối ngày. Dường như có điện thoại từ người thân, ông cho biết đã đợi ở đây từ chiều mà không xe nào cho đi nhờ, ông nói biết ai đâu mà mượn, nghĩa là ông không còn tiền về quê, và ông đưa tay lau vội dòng nước mắt. Ngồi cách ông vài hàng ghế, tôi nhìn xuống chưa kịp làm gì thì có một thanh niên ngồi hàng phía trước lấy từ trong túi quần đưa cho ông 120.000 đồng để ông mua vé xe. Ông vội vã chạy ra quầy vé để mua cho kịp chuyến xe cuối cùng.
Những câu chuyện về quầy đồ miễn phí cho người nghèo trong địa bàn Họ đạo Lộ 20, Thành phố Cần Thơ với khẩu hiệu: “Ai thiếu cứ nhận, ai thừa cứ cho”; chương trình “Tiếng hát vì người nghèo” của Linh mục Nguyễn Sang; hay những “Chuyến xe mùa xuân – Tết xum vầy” cho sinh viên về quê trong dịp Tết…
Và thế là: “Mùa xuân đã đến bên em, và mùa xuân đã đến bên anh thì thầm”. Thì thầm vì những việc hết sức âm thầm nhưng đã làm làm nên một mùa xuân ấm áp. Những việc làm “thì thầm” đó cũng được ví như một thứ ánh sáng dù không rực rỡ như ánh đèn cao áp, nhưng chỉ là của ánh đèn dầu leo lét, nhưng cũng đủ phá tan đêm tối và góp phần sưởi ấm giá lạnh của cuộc đời. Đó là thứ ánh sáng được phụng vụ lời Chúa nói đến trong ngày hôm nay.
III. ĐỂ GIA ĐÌNH TRỞ THÀNH ÁNH SÁNG
Ơn gọi cách chung của tất cả mọi người, đi tu, sống độc thân hay có gia đình đều là “…Này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất”. Cách riêng trong năm mục vụ gia đình này, lời Chúa càng thôi thúc những ai sống trong đời sống Hôn nhân Gia đình phải ý thức việc trở thành ánh sáng để đem ơn cứu độ không phải đến tận cùng trái đất, nhưng đến chính những người thân trong gia đình của mình.
Thực ra khi ý thức việc trở thành ánh sáng là lúc đem đến cho chính bản thân mỗi người chúng ta được ơn cứu độ. Một trong những vấn đề cấp bách của các gia đình hôm nay là người ta xem thường Bí tích Hôn nhân. Có những gia đình xem việc đến nhà thờ cử hành hôn lễ chỉ như một uy tín, một danh dự cho gia đình, để cũng cố gắng sắp xếp đến nhà thờ “làm phép” cho có với người ta, nhưng sau đó rồi thôi, không đi lễ, không thờ phượng Chúa nữa. Có những bậc phụ huynh khi xin thủ tục Hôn phối cho con mình thì nói rất ngon, hứa rất ngọt: “Con hứa với cha con lo cho con cái con xong, con sẽ đi lễ đàng hoàng tử tế”. Đó thường là những lời có cánh, vì nếu người ta có ý thức sống đạo, người ta không cần phải hứa. Vì vậy không lạ gì con cái của họ sau khi lãnh Bí tích Hôn phối cũng chẳng đến nhà thờ.
Đáng thương hơn nữa là trường hợp của những người tân tòng, lẽ ra những người “đạo gốc” phải làm gương sáng cho họ, vì chính những người có đạo đã ra điều kiện để người bạn đời của mình phải theo, nhưng khi theo rồi, họ đã bỏ mặc những người đó. Vì thế, nếu những người vợ, những người chồng theo đạo mà không được hướng dẫn để sống đạo tốt, thì mọi hậu quả là chính những người chồng, những người vợ đạo gốc phải gánh.
Đây là cơ hội để mọi người trong gia đình hãy ý thức việc sống đạo cho chính mình để còn làm gương sáng cho người khác.
Nhiều gia đình, kể cả những gia đình Công giáo trong xã hội hôm nay không biết dõi theo Ánh Sáng thật, mà lại đi trong bóng tối. Bóng tối của những giá trị thuộc về thế gian này. Những giá trị này Giáo hội thường xuyên nhắc đến trong các giáo huấn cũng như các bài giảng dạy. Đó là quá bận rộn để lo kiếm tiền, quá đam mê trong cờ bạc, rượu chè, hút sách và sắc dục… Từ đó người ta bất chấp tất cả. Có những người quá lo làm ăn, đến khi giật mình, bệnh tật không hay. Có những người quá mê bài bạc, bán cả nhà cửa, ruộng nương. Có những người đam mê sắc dục bỏ cả vợ, hoặc chồng, nhất là bỏ cả con thơ nhỏ dại… Suy nghĩ cho kỹ lại, cuối cùng những người đó sẽ được gì?
Đó là câu hỏi để mỗi người chúng ta phải suy tư và suy tư thật nhiều để nó ăn sâu vào trong tâm trí của chúng ta. Nhờ ăn sâu như vậy nó mới có thể giúp những ai sống trong đời sống gia đình dám mạnh dạn khước từ mọi đam mê để trung thành với lời hứa ngày thành hôn. Khi họ nhớ những lời cam kết trung thành và yêu thương, nâng đỡ nhau trong suốt cuộc đời, thì họ cũng sẽ cố gắng để sống một đời sống đức tin tốt đẹp. Lúc đó họ trở thành ánh sáng, vì biết hướng đến Ánh Sáng thật.
Xin ơn Chúa giúp để mỗi người chúng ta, nhất là những ai sống trong đời sống Hôn nhân Gia đình luôn ý thức sứ mạng cao cả của mình để quyết tâm trở thành ánh sáng cho những người còn lại trong gia đình của mình noi theo. Khi cha mẹ trở thành ánh sáng trong việc sống đạo tốt, trong việc yêu thương nhau thì cũng là lúc họ góp phần với Giáo hội trang bị cho người trẻ những điều cần thiết để khi bước vào đời sống Hôn nhân Gia đình, họ sẽ dễ dàng bước theo, vì chính cha mẹ của họ đã làm gương sáng cho họ.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Thánh Gioan Tông đồ ghi lại lời thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu Chúa Giêsu: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Đấng được gọi là “Chiên Thiên Chúa”, cũng được thánh Gioan giới thiệu hết sức long trọng: “Ngài có trước tôi, Ngài cao trọng hơn tôi. Tôi đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Ngài”.
Cuối bài Tin Mừng, thánh Gioan còn giới thiệu Chúa cách quả quyết hơn, long trọng trọng hơn nữa: “Ngài là Con Thiên Chúa”. Lời giới thiệu mà thánh Gioan dâng lên Chúa Giêsu là những lời hết sức cao trọng, một sự cao trọng trên mức bình thường.
Chiên là vật người Dothái nuôi nhiều. Nó hiền từ, dễ yêu. Trong đêm Vượt qua xưa của người Dothái, đêm mà Chúa cứu họ thoát cảnh lầm than nô lệ người Aicập, qua ông Môisen, Chúa truyền phải cử hành lễ Vượt qua bằng cách mỗi gia đình giết một con chiên không tì vết, không thương tật, tế lễ cho Thiên Chúa, cảm tạ lòng thương xót Chúa dành cho dân khi giải phóng họ.
Đêm lễ Vượt qua, trước khi lên đường rời khỏi đất nô lệ, toàn dân cử hành nghi thức ăn lễ Vượt qua gồm bánh không men, rau diếp đắng và thịt chiên. Họ phải ăn thật vội vả. Sau đó, ngay trong đêm, tất cả lên đường rời bỏ Aicập, vượt qua tình trạng nô lệ để sống tự do.
Hành động giết chiên mừng lễ Vượt qua phải được cử hành hàng năm để muôn đời toàn dân phải nhắc đi, nhắc lại cho con cháu, không phân biệt bất cứ thế hệ nào. Đó cũng là hành động ghi nhớ khởi đầu cuộc thanh luyện dài 40 năm trong sa mạc trước khi tiến chiếm Đất hứa mà Thiên Chúa hứa ban cho dân tộc Người tuyển chọn.
Bằng việc nhắc nhớ hàng năm, hành động ăn thịt chiên để cử hành Vượt qua, người Dothái còn giúp nhau ý thức rằng: Chính Chúa đã ban cho họ vùng đất mà họ đang sống để làm gia nghiệp, làm quê hương xứ sở. Họ phải tận trung với tình yêu bền vững, một tình yêu cuồn cuộn mà muôn đời Người đã dành cho cha ông họ và vẫn tiếp tục tuôn đổ trên họ.
Khi giới thiệu Chúa Giêsu là “chiên Thiên Chúa”, thánh Gioan như muốn nói, từ nay, không còn thể thức mừng lễ với thịt chiên của Cựu ước nữa. Đúng hơn, chiên vượt qua của giao ước cũ là hình bóng báo trước, là sự chuẩn bị cho việc mừngVượt qua của giao ước mới.
Và Chúa Giêsu, chiên vượt qua của giao ước mới, là chính Con Thiên Chúa làm người hiến dâng mạng sống mình để tha thứ, cứu chuộc ta. Chúa Giêsu vượt qua sự chết, tiến vào sự sống, để ta cùng với Người, nhờ Người, vượt qua tình trạng nô lệ của tội, tiến vào tự do được làm con Chúa.
Là Thiên Chúa, Chúa Giêsu mang nơi mình hình ảnh con chiên hiền lành bị đem đi giết. Bởi đó, thánh Gioan Tẩy giả không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu cho chúng ta: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
Cho đến hôm nay, và mãi về sau, lời giới thiệu này được Hội Thánh lặp đi lặp lại trong từng thánh lễ. Cùng với lời đọc này, linh mục chủ tế dâng cao Mình Thánh Chúa đã được bẻ ra để mọi người tôn thờ.
Hành động bẻ đôi Mình Thánh Chúa có ý cho thấy sự tự hiến của Chúa Giêsu. Người đã bẻ chính sự sống mình, bẻ cuộc đời mình dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội ta. Hành động bẻ đôi Mình Thánh Chúa cũng nói lên sự xóa mình của Chúa Giêsu.
Ngày nay, mỗi lần dâng thánh lễ, ta cử hành lễ Vượt qua, được ăn tiệc Vượt qua, và thịt chiên Vuợt qua chính là Mình Máu Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu tự hiến mình để chia sẻ kiếp sống của ta. Người đã chịu đau khổ để thông cảm và đồng cảm cùng mọi khổ đau trong đời ta. Chỉ cần ta có lòng tin, ta sẽ nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện bên mình.
Chuyện kể rằng: Danh họa Raphael, người Ý, muốn họa chân dung Chúa Giêsu. Ông đi khắp nơi để tìm mẫu người thích hợp khuôn mặt Chúa. Nhưng càng tìm, Raphael càng khám phá: Trên trần gian không một ai hoàn hảo như Chúa Giêsu. Và ông cũng không tài đến nỗi có thể góp nhặt tất cả mọi vẻ đẹp của mọi người để tạc vào khuôn mặt của Chúa.
Nhưng vẫn quyết tâm vẽ bằng được. Vì thế, ông bỏ thời gian dài trong nhiều năm để nghiền ngẫm về tác phẩm mà ông sẽ thực hiện. Cuối cùng, Raphael bắt tay vào thực hiện bức họa. Ông vẽ Chúa Giêsu có khuôn mặt hiền từ, khả ái.
Không ngờ, trong thời gian ông đang hoàn thành bức họa Chúa Giêsu, thì liên tiếp những bất hạnh xảy ra cho ông: Nhà ông bị cháy hết một phần. Bức tranh mà ông đang vẽ tưởng chừng như bị thiêu rụi cùng với một phần của căn nhà. May mà ông cứu nó kịp thời.
Nhưng đứa con trai đầu lòng của ông bị bỏng nặng. Vợ ông, vì chứng kiến cảnh tượng hãi hùng của đám cháy, và chứng kiến cảnh tượng thương tâm của đứa con, đã trở nên ngớ ngẩn, điên dại. Còn bản thân danh họa Raphael, vì quá đau buồn nên bị kiệt lực và bệnh nặng.
Nhưng ông vẫn gượng lấy lại bình tĩnh, lấy lại nghị lực để tiếp tục sống. Ông cũng tiếp tục dành nhiều thời gian để hoàn thành bức chân dung Chúa Giêsu. Không ai ngờ, chính trong đau khổ cùng cực của mình, nhà họa sĩ đã vẽ nên một tuyệt tác.
Khuôn mặt của Chúa Giêsu vốn đã hiền từ, khả ái, bây giờ lại càng độ lượng, đáng yêu đến mức, ai nhìn vào đó, đều nhận ra khuôn mặt của Chúa toát lên một vẽ đẹp bình an và thông cảm đến kỳ diệu. Bức chân dung Chúa Giêsu của Raphael, vì thế, trở nên nổi tiếng.
Họa sĩ Raphael, trong đau khổ tột cùng, đã phác họa chính nội tâm của mình. Ông đã trút tất cả tâm tư đầy khát vọng của tâm hồn ông lên khuôn mặt rạng ngời của Chúa Giêsu.
Bởi không phải phác họa chân dung, không đi tìm bất kỳ khuôn mặt của bất kỳ ai, mà là chính khuôn mặt của tâm hồn mình, nhà họa sĩ tài ba đã để lại cho đời tuyệt phẩm bất hủ.
Bên trong bức họa chân dung Chúa, điều mà người ta nhận thấy mạnh mẽ nhất, lớn lao nhất chính là đức tin của Raphael. Chính đức tin đã làm cho ông, trong đau khổ, không oán giận Thiên Chúa. Ngược lại, càng đau khổ, ông càng nhận ra Thiên Chúa hiền lành, nhân từ, độ lượng. Ông nhìn thấy một Thiên Chúa khả ái, yêu thương và thông cảm. Người như đang sớt chia cùng ông mọi hoàn cảnh mà ông phải trải qua.
Đức tin đã cho ông thấy Thiên Chúa. Nhờ nhận ra Chúa, tâm hồn ông đầy khát vọng sống trong Chúa, vươn lên tới Chúa và trung thành với thánh ý Người xếp đặt trong đời ông.
Như bao nhiêu anh chị em tín hữu: Họ tin mãnh liệt. Ta hãy mang lấy lòng tin bất khuất như thế, để suốt đời và hết mọi ngày trong đời, dù bi thương hay hạnh phúc, dù mạnh mẽ hay yếu đuối, ta cảm nhận sâu xa: Có Thiên Chúa ở cùng. Có Chúa Giêsu cùng ta song hành.
Nhận ra tình thương, sự hiện diện của Chúa, để cùng Chúa, ta sống lễ Vượt qua kiên trì, bền bỉ, để nhờ Chúa, ta vượt qua tội lỗi, vượt qua mọi cám dỗ, vượt qua mọi bất trắc…, mà tiến đến thánh giá, can đảm vác thánh giá hướng về ơn phục sinh của đời mình trong Chúa.
Chỉ có lòng tin như thế, cuộc đời ta mới thực là lễ Vượt qua khải hoàn, vinh thắng.
.
Lm. Phạm Quốc Hưng
“Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội của thế gian”.
Trong Tin mừng hôm nay, Gioan Tiền Hô đã công khai giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: “Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khử trử tội của thế gian” (Ga 1:29). Với câu nói này, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Chúa Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa và Ngài là Đấng khử trừ tội của thế gian.
Ù Khi gọi Chúa Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận sự vô tội và tinh tuyền thánh thiện của Chúa Giêsu.
Ù Khi nói Chúa Giêsu là “Đấng khử trừ tội của thế gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Chính vì là Con Chiên vô tội của Thiên Chúa Chúa Giêsu mới có thể khử trừ tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Chúa Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân loại. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự khử trừ tội của con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ, nghĩa là sự tha thứ tội lỗi.
Chúa Giêsu khử trừ tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Người tội lỗi của tất cả nhân loại, từ tội của nguyên tổ Adong cho đến tội của người sau hết trong nhân loại. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Người đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại. Nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa đã chỉ cho ta thấy ác quả kinh hoàng của tội lỗi vì nó dẫn đến sự đau khổ tột cùng và cái chết đau thương của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, và tình yêu vô biên của Thiên Chúa khi chính Người đã chấp nhận chịu đau khổ để giải thoát ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và khỏi chết đời đời.
Câu chuyện sau sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu xa hơn về sự đau khổ kinh hoàng mà Chúa Giêsu phải chịu để chuộc tội cho chúng ta. Từ đó, chúng ta cảm nhận cách thấm thía hơn tình yêu vô biên của Người dành cho ta.
Một cô gái đang có người yêu bị một kẻ lạ mặt hãm hiếp và đã có thai. Cô khổ tâm vô cùng vì bị người yêu khước từ và gia đình ngờ vực. Cô đã đến gặp Đức Cha Fulton Sheen than thở với ngài và hỏi ngài: “Tại sao con phải ra nông nỗi này?” Sau khi lắng nghe với tất cả sự cảm thông, Đức Cha ôn tồn trả lời cô gái: “Vì chị đã phải gánh tội của một người”.
Rồi Đức Cha Sheen kết luận: Nếu chỉ vì phải gánh tội của một người mà cô giái kia phải đau khổ buồn sầu như thế, thì khi phải gánh chịu tội của cả nhân loại Chúa Giêsu đã phải chịu đau khổ buồn sầu biết chừng nào!
Là những người Kitô hữu, chúng ta chẳng những được mời gọi để hưởng ơn cứu độ của Chúa Cứu thế nhưng còn được kêu mời để trở nên những “Chúa Cứu thế khác”. Đức Cha Fulton Sheen nói rằng chúng ta được cứu chuộc bằng cách trở nên những con người cứu chuộc. Điều này như một sự lập lại lời Chúa Giêsu khi Người dạy chúng ta đọc kinh Lạy Cha “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Thế giới hôm nay phải đau khổ trăm chiều vì con người càng sa đoạ, càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi. Làm thế nào để khử trừ hay ít ra là làm giảm bớt tội lỗi trên thế giới hôm nay? Chắc chắn không có cách nào tốt hơn, hoàn hảo hơn đường lối Chúa Giêsu đã thực hiện để trở nên “Đấng khử trừ tội của thế gian.”
Để đi theo đường lối của Chúa Giêsu, trước hết chúng ta phải noi gương Chúa Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa” qua việc cố gắng sống thánh thiện và xa lánh mọi tội lỗi. Kế đến, chúng ta phải nổ lực trở nên giống Ngài là “Đấng khữ trừ tội lỗi của thế gian” bằng cách vui nhận những khó khăn, đau khổ, thử thách trong cuộc sống để kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu và cầu nguyện xin Chúa tha thứ tội lỗi cho tha nhân, nhất là những người đang làm ta đau khổ cách này hay cách khác.
Bao lâu chúng ta chưa biết xa lánh tội lỗi, chưa biết nhìn nhận trách nhiệm về tội lỗi của chính mình, chưa biết noi gương Chúa Giêsu quảng đại tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, chưa dấn thân lãnh lấy trách nhiệm đền tội thay cho tha nhân, bấy lâu chúng ta chưa phải là những người tín hữu đích thực của Chúa Kitô.
Trong mỗi Thánh lễ, trước khi hiệp lễ, chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu bằng lời nguyện “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con.” Liền sau lời nguyện đó, linh mục chủ tế cũng giới thiệu Chúa Giêsu Thánh thể cho chúng ta bằng những lời như Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng năm xưa: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…” Lúc ấy, chúng ta hãy sốt sắng hiệp cùng Mẹ Maria nài xin Chúa Giêsu Thánh Thể mà ta sẽ rước vào lòng cho ta biết kết hợp mật thiết với Người, để nhờ Người và trong Người ta sẽ sống như những con chiên đích thực của Chúa, những con người biết sống yêu thương tha thứ và hiệp nhất trọn vẹn với tha nhân.
.
Dã Quỳ
Giữa một xã hội đang phát triển về mọi mặt, con người như bị cuốn hút vào vòng xoáy của cuộc sống. Thật khó để dừng lại, suy nghĩ và nhận định chính xác về một người hay một sự vật, mà lại dễ chỉ thấy, biết và mê những vẻ hào nhoáng bên ngoài. Vì vậy, ngành quảng cáo ngày càng thịnh hành cho tất cả mọi ngành nghề, đồ vật hay cả con người. Thế nhưng với đời sống tâm linh, vẻ bên ngoài lại chẳng có giá trị. Người ta có thể giả hình hoặc tô điểm cho dáng dấp bên ngoài, nhưng cái thâm sâu và giá trị của một người sẽ là bản chất bên trong trái tim và tâm hồn. Chính vì thế, Gioan Tiền Hô đã là mẫu gương cho hành trình đời người Kitô hữu của chúng ta khi ông Thấy Chúa, Biết Chúa và Làm Chứng cho Chúa bằng cả cuộc sống và mạng sống mình.
Thấy...”Khi Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, ông liền nói:” Trong cuộc sống, rất nhiều lần chúng ta đã không biết nhìn những anh chị em đang sống cùng và sống xung quanh ta. Chúng ta thường hay dừng lại ở những gì ta nhìn thấy bên ngoài như chị ấy không đẹp, chẳng giỏi cũng không giàu. Anh kia nói năng không lưu loát, tướng tá chẳng sang… mà quên đi hoặc chẳng nhìn thấu được vẻ đẹp và giá trị bên trong của anh chị em. Những người cùng thời Chúa Giêsu cũng thế, họ đã không thể nhìn thấy và biết Chúa Giêsu là ai! Chúng ta cần xin Chúa dạy chúng ta biết nhìn, biết vượt qua những dáng vẻ bề ngoài nơi con người và trong mọi sự việc. Để như Gioan, ta có thể thấy được giá trị thật nơi một con người mà ta gặp gỡ.
” Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” Với những người Do thái, khi nghe từ Chiên Thiên Chúa, chắc chắn họ biết rõ và hiểu vì họ thường dâng hiến lễ lên Thiên Chúa bằng những con chiên theo luật Môisen, để tẩy xóa tội lỗi. Vì ngày lễ Vượt qua, họ thường sát tế nhiều chiên con để dâng hy lễ. Còn đối với chúng ta, có lẽ ta không cảm nhận và hiểu nhiều. Ở đây, Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu như một Đấng Cứu Độ, Đấng gánh mọi tội lỗi của nhân loại trên mình. Người đã hiến thân, đã đổ đến giọt máu cuối cùng để mang tất cả tội lỗi cho nhân loại và làm cho nhân loại được xóa khỏi trọn vẹn mọi tội lỗi.
Chắc hẳn Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta cộng tác với Chúa và giúp Người trong công trình lớn lao này. Người mong ta biết chiến đấu chống lại những điều xấu và tội lỗi ngay trong chính chúng ta, và ta cũng biết chống lại, diệt trừ những điều dữ khắp nơi chúng ta hiện diện. Dù cho ta vẫn cảm nhận sự yếu đuối và nghèo hèn, nhưng “Ơn Chúa đủ cho ta” nếu ta biết ý thức trách nhiệm cùng Chúa lo cho ơn cứu độ của anh chị em, của những người thân trong gia đình ta và của chính ta. Để rồi ta biết Chúa luôn đồng hành với ta, biết Người là Đấng Cứu Độ ta.
Biết…”Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người…” Gioan được thụ thai và sinh ra trước Chúa Giêsu. Ngay từ trong lòng mẹ, Gioan đã nhảy lên vui sướng vì được thân mẫu Chúa và chính Chúa viếng thăm. Thế nên chắc chắn Gioan biết Chúa Giêsu là em họ của mình. Nhưng ông không ngờ em họ ông lại cũng là Chúa của ông, bởi”Người cao trọng hơn tôi, vì vốn có trước tôi“. Cái biết của ông cũng vẫn còn bị hạn hẹp vì dáng vẻ bề ngoài và gia thế của Chúa. Thế nên, cần có sự mạc khải của Đấng đã sai ông đi làm phép rửa, ông mới nhận ra gốc gác và căn tính thần linh nơi Chúa Giêsu.
Sự sinh hạ của Chúa nơi máng cỏ Bêlem đã công bố cho chúng ta về Đấng Mêsia mà Kinh Thánh đã tiên báo và chúng ta tuyên xưng “Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời.” Như những mục đồng, ba nhà chiêm tinh và Gioan tiền hô, chúng ta hãy chiêm ngắm Con Người Chúa Giêsu, để biết Người là Thiên Chúa thật, có từ trước đời đời, là Ngôi Lời của Thiên Chúa, được sinh ra mà không phải được tạo thành.
Chúa Giêsu- Đấng Vĩnh Cửu từ nay đã nhập thể, nhập thế, ở cùng chúng ta. Bước chân Người rảo khắp nẻo đường Palestin để rao giảng, chữa lành. Người đã thiết lập Hội Thánh, để trong mọi thời đại và mọi nơi, Hội Thánh tiếp nối cuộc Nhập Thể của Người và giới thiệu về Người cho nhân loại. Chúng ta, mỗi Kitô hữu hãy làm mới lại tương quan của ta với Chúa. Chúng ta không chỉ Biết Người qua kiến thức, những gì là bên ngoài, nhưng cần sống thân mật với Chúa, gặp gỡ Chúa trong kinh nguyện, qua Lời Chúa và hiệp thông với Người nơi các Bí Tích, nhất là Bí tích Thánh Thể. Để rồi ta có thể sống trong Chúa và Chúa sống trong ta, chia sẻ chính cuộc sống và sứ mệnh với Chúa. Có như thế, chúng ta mới có thể làm chứng cho Chúa như Gioan.
Làm Chứng…”Tôi thấy Thần Khí từ trời xuống và ngự trên Người.” Gioan đã công bố cho dân chúng biết về Đấng mà họ đang mong đợi. Đấng được Thần Khí ngự xuống, bao phủ và đầy tràn ân sủng. Thế nhưng, đàng sau cái lý lịch bình thường của Chúa Giêsu là một người làng quê Nadarét, là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria, có một mầu nhiệm được ẩn giấu. Nhân tính của Người chìm sâu trong Thiên Chúa “Có một Đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết.”(Ga 1, 26b) Thế nên, để làm chứng cho Chúa, ta không chỉ nói về Chúa bằng những gì ta thấy và biết qua dáng vẻ bề ngoài, nhưng cần cảm nghiệm bằng chính cuộc sống của ta đã gặp gỡ, đụng chạm đến Chúa. Như thế, chân dung của Chúa Giêsu, Đấng xóa tội trần gian mà ta trình bày và sống mới có thể đáp ứng được những khát vọng sâu thẳm của anh chị em trong thế giới hôm nay.
Nhân vật chính trong Hội Thánh là Chúa Thánh Thần. Mọi sứ mệnh và tất cả những hoạt động của Hội Thánh cần phải được dìm sâu trong Thần Khí và được Người hướng dẫn. Vậy mỗi Kitô hữu qua Phép Rửa, ta cũng được chính “Đấng làm Phép Rửa trong Thánh Thần” dìm chúng ta vào trong Thần Khí của Người. Thế nên, ta đừng quên sứ mạng làm chứng về Chúa Kitô của chúng ta. Như Gioan, nhờ ân sủng, ta cũng nỗ lực để Thấy Chúa bằng cái nhìn chân thành, qua con mắt đức tin, để ta có thể Biết Chúa là Thiên Chúa của ta; là Đấng Cứu Độ Mình bị nộp, Máu đổ ra xóa tội cho ta và để giao hòa ta với Chúa Cha. Và rồi ta có thể nhiệt thành làm chứng cho Chúa bằng trọn cả đời sống Kitô hữu của ta. Hãy là chứng nhân của Tình Yêu Chúa qua đời sống yêu thương cụ thể, bác ái sẻ chia tình thương và cơm áo với anh em nghèo đói, thiên tai lũ lụt; an ủi anh chị em đau khổ bệnh tật, giúp đỡ những anh em nhỏ bé yếu đuối bị gạt ra lề xã hội; can đảm lên tiếng bảo vệ phẩm giá con người và chống lại những bất công. Như vậy, ta mới có thể thực thi sứ mệnh mà Người Tôi Trung của Đức Chúa đã làm là ” Ánh sáng muôn dân, đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.“(x. Is 49,6)
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy dìm chúng con vào trong Ngài và hãy biến đổi chúng con trở nên Khí cụ của Chúa cho Hội Thánh và Thế Giới hôm nay. Amen.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Cơ quan Liên hiệp Truyền thông Hoa kỳ đã đưa ra một kết quả đáng lo ngại của cuộc thăm dò mà họ đã thực hiện. Cơ quan truyền thông này đã phỏng vấn gần 2,000 học sinh trung học sơ cấp. 65 phần trăm học sinh nam và 50 phần trăm học sinh nữ đồng ý chấp nhận người nam có thể tình dục với người đàn bà nếu họ đã quen nhau 6 tháng. Một cuộc thăm dò khác cho biết: 1 phần 3 của sự mang thai trong quốc gia Hoa kỳ đưa đến sự phá hủy những thai nhi chưa sinh ra, còn trong bụng mẹ. Có nghĩa là vào khoảng 1 triệu rưỡi cuộc phá thai mỗi năm, hay 23 giây một vụ. Kết quả của 2 cuộc thăm dò khác do một trường đại học cho biết: trung bình một thiếu niên, khoảng 10 tuổi trở lên, không có ý thức về tội, và có thái độ “không lên án” hay “không có tội” về gian dối. Một cuộc thăm dò khác do báo Chicago thực hiện và được máy dò nói dối xác nhận cho biết: 7 trong số 10 nhân công lấy cắp của công ty, và vui đùa cho rằng đó là “lợi tức bên lề.” Chúng ta còn chứng kiến nhiều vấn đề trái lương tâm và luân lý trong xã hội này.
Ông bà anh chị em thân mến. Khi chúng nghe những kết quả này có lẽ chúng ta cảm thấy bực mình khó chịu, và muốn tránh xa những điều đó. Hay chúng ta có thể cảm thấy như một người đã tuyên bố: “Giả xử nếu tôi là Chúa thì trái tim tôi sẽ vỡ tung ra vì tất cả những sự dữ, tàn ác và tội lỗi của thế gian này.” Một điều đáng lo ngại hơn: những sự dữ và tàn ác của nhân loại ngày nay là sự gia tăng khuynh hướng xem nhẹ tội lỗi hay phủ nhận tội lỗi. Thí dụ như ngày nay người ta có khuynh hướng chuyển đổi sự nói dối là “mánh khóe.” Người ta không còn ăn cắp nữa chỉ “mượn đỡ” thôi. Cuối cùng, ngày nay người ta không còn cho rằng phá thái không phải là giết những thai nhi chưa sinh ra trong bụng mẹ, mà cho rằng không muốn mang thai, hay tẩy não bào thai không muốn mà thôi. / Tất cả những sự kiện trên chỉ đơn giản là xem nhẹ hay phủ nhận tội lỗi và sự dữ. Và sự xem nhẹ và phủ nhận tội lỗi đưa đến sự xem nhẹ hay phủ nhận sự cần đến Chúa Giê-su Ki-tô. Vì nếu chúng ta không có tội, thì chúng ta không cần đến Chúa nữa. Và chúng ta thấy trong xã hội ngày nay, nhiều người không tin nhận Chúa vì họ không nhận mình là người có tội. Nếu tôi là người không có tội, thì tôi không cần đến hay tin vào Chúa. Và có tin thì cũng chỉ là bề ngoa2ii, không chân thành sống lời Chúa. Thực sự nếu chúng ta không thú nhận mình là người tội lỗi và cần đến Đấng Cứu Độ, thì chúng ta sẽ không có niềm vui mừng và hân hoan cử hành mầu nhiệm Chúa Ki-tô,
Ông bà anh chị em thân mến. Điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý và ý thức là trọng tâm không phải là tội mà là chính Chúa Giê-su Ki-tô. Đó cũng là chủ đích của Gioan Tiền hô được diễn ta trong bài Tin mừng hôm nay. Trọng tâm, chủ đích của Gioan Tiền hô là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.”
Chúng ta biết sự dữ và điều xấu nhất không phải là phạm tội, vì chúng ta biết chúng ta là những con người yếu đuối, nhưng điều xấu xa nhất là phạm tội mà phủ nhận tội của mình. Thánh Gioan nói rằng “Nếu chúng ta nói rằng mình không có tội, thì chúng ta tự lừa dối mình. Nếu chúng ta nói rằng chúng ta không phạm tội thì chúng ta coi Chúa là kẻ nói dối, và lời Người không ở trong chúng ta.” (1Ga. 1, 8-10) Chúng ta nhận biết chúng ta là những con người yếu đuối, mỏng dòn và sẽ bị cám dỗ phạm tội trong suốt cuộc đời, và cần đến lòng thương xót của Chúa. Chúng ta cần đến ơn tha thứ và sự cứu rỗi của Chúa. Vì vậy, chúng ta không xem thường hay phủ nhận tội lỗi của mình, nhưng nhận biết tội lỗi và tìm đến Chúa Giê-su, “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” trong Bí tích Hòa giải như ý định của Chúa, khi Ngài tự dâng mình đền tội cho chúng ta trên đồi Can-vê.
Ông bà anh chị em thân mến. Đó là sứ điệp của Gioan Tiền hô kêu gọi mọi người đến với ngài thời đó, và đó cũng là sứ điệp của Giáo hội kêu gọi chúng ta hôm nay. Khi Gioan Tiền hô nói Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian, ngài đã gợi lên trong tâm trí mọi người thời đó hình ảnh con vật chịu đổ máu và chịu chết chuộc tội cho dân Do thái, để họ được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Ai cập, và vào thời ông Mô-sê dẫn họ vào đất Hứa. Chúng ta hiểu tại sao Gioan Tiền hô gọi Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, vì chính Chúa là con chiên vô tội, đáng thương và không có gì tự vệ, nhưng đã chịu chết trên thập giá để gánh chịu mọi tội trần gian. Con chiên đó chính là Chúa Giê-su bằng xương bằng thịt, Ngài chính là Đấng Cứu Thế mà mọi người trông đợi.
Ngày nay, Con Chiên Thiên Chúa, là Chúa Giê-su, vẫn tiếp tục hiến tế trên bàn thờ mọi ngày để cứu chuộc những ai thật lòng muốn tha tội và khỏi chết đời đời. Vì vậy, trong Thánh lễ, khi linh mục bẻ bánh, chúng ta đọc ba lần: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con, xin ban bình an cho chúng con.” Rồi trước khi chúng ta rước lễ, linh mục giơ Mình Thánh Chúa lên trước mặt chúng ta và đọc: “Đây Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho ai được mời tới dự tiệc Chiên Thiên Chúa.” Hạnh phúc ở đây là gì? Là nhờ sự rước lễ, chúng ta rước Chúa vào trong tâm hồn và được kết hợp mật thiết với Chúa. Mỗi khi chúng ta rước lễ là chúng ta được dự tiệc Chiên Thiên Chúa, được ăn Chúa, được Chúa ngự vào tâm hồn, được kết hợp với Chúa, và được bảo đảm sự sống đời đời nếu chúng ta sống lời Chúa dạy, như Chúa đã tuyên bố: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời.”
Xin Chúa giúp chúng ta biết ý thức sự yếu đuối, mỏng dòn và tội lỗi của chúng ta, và nhất là có niềm xác tín, thành tâm và can đảm đến với Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, để xin ơn tha tội. Xin Chúa cũng giúp chúng ta biết quí trọng Bí tích Hòa giải và Thánh Thể là ơn sủng của Chúa ban để chúng ta được sống trong an bình và ơn sủng của Chúa.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn