CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY A
Lời Chúa: St 12, 1-4a; 2Tm 1, 8b-10; Mt 17,1-9
——-
DẪN NHẬP
Lời Chúa:“Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta. Các ngươi hãy nghe Lời Người” (Mt 17,5).
Nhập lễ:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Phụng vụ Lời Chúa chúa nhật 2 mùa chay hôm nay cho chúng ta thấy, sau khi các môn đệ đã chứng kiến tỏ tường vinh quang của Thiên Chúa trên núi Taborê, các môn đệ xuống núi được mời gọi dấn thân bước đi trên con đường khổ giá của Chúa Giêsu để đến vinh quang Nước Trời:
Vững tâm chiến đấu theo Ngài,
Vượt qua khốn khó, đôi vai thập hình.
Con đường khổ giá hi sinh,
Con đường đưa đến hiển vinh muôn đời.
Phaolô lên tiếng kêu mời,
Tin Mừng thập giá muôn người sánh vai.
Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa giúp chúng ta dấn thân bước đi trên con đường khổ giá của Chúa, bằng việc biến đổi đời sống mình trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Trong tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Sám hối:
X. Lạy Chúa, Chúa là Đấng phù trợ và che chở chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa Kitô, Chúa mời gọi chúng con qua đau khổ đến vinh quang của Chúa. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
X. Lạy Chúa, Chúa là con yêu dấu của Chúa Cha. Xin Chúa thương xót chúng con.
Đ. Xin Chúa thương xót chúng con.
Kết: Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.
CĐ: Amen.
Suy niệm:
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Trong Chúa nhật thứ nhất mùa chay, chúng ta được dẫn vào sa mạc chứng kiến cuộc chiến đấu và chiến thắng của Chúa Giêsu trước những cám dỗ, thử thách. Trong Chúa nhật hôm nay, cùng với ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan chúng ta được dẫn lên núi để chứng kiến vinh quang của Chúa Kitô: “Đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng”. Tột đỉnh của biến cố này là tiếng nói từ trời cao: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Thưa anh chị em, với biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, giúp loài người nhớ lại công cuộc Thiên Chúa dựng nên con người và đã yêu thương cho con người vui hưởng hạnh phúc trong vườn Eden, thế nhưng con người đã dùng sự tự do Chúa ban mà chọn lối đi riêng nên phải chịu những hậu quả của tội. Sau khi tổ tông lòai người sa ngã phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại, hạnh phúc tan biến mất. Nhưng theo dòng thời gian Thiên Chúa không quên lòai người đang phải sống lầm than dưới ách tội lỗi, chịu đau khổ và phải chết. Thiên Chúa đã truyền Abraham hãy rời bỏ tất cả mà ra đi, phải làm một cuộc hành trình đầy phiêu lưu để thực hiện chương trình đưa lòai người trở về hạnh phúc ban đầu: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Abraham không thắc mắc, không phản đối, không kêu nài mà đặt hết niềm tin tưởng vào Chúa, ông đã lên đường và phó thác hòan tòan vào sự quan phòng của Thiên Chúa và ông đã thực hiện theo Lời Thiên Chúa truyền dạy.
Bằng một cách khác, Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho các môn đệ, đặc biệt ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đón nhận mầu nhiệm thập giá. Chúa Giêsu đưa các ông lên núi cao. Và “đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng”. Đây là hình ảnh báo trước về cuộc phục sinh siêu tôn của Chúa. Thế nhưng, để đi đến con đường vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải trải qua con đường đau khổ, con đường thập giá và cuối cùng là cái chết. Đó là con đường Người phải gánh chịu: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Lời tiên báo này đã được thực hiện, Chúa Giêsu đã bị bắt và bị giết chết. Như thế, đường phục sinh vinh hiển mà Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ đến đó không phải là con đường rộng dễ đi, nhưng là con đường phiêu lưu với nhiều khó khăn và đau khổ. Thế nhưng, các môn đệ chưa hiểu gì về mầu nhiệm thập giá. Các ông cần được huấn luyện, cần được chuẩn bị hơn nữa để sau này chính Chúa Giêsu phục sinh các ông mới hiểu và cảm nhận được phần nào mầu nhiệm qua đau khổ đến vinh quang.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Chúng ta được mời gọi đi vào con đường sám hối của mùa chay. Từ cuộc biến hình của Chúa Giêsu đến cuộc khổ nạn và sống lại của Người, chúng ta được mời gọi tin phục hoàn toàn vào Thiên Chúa như Abraham. Biết noi gương Abraham hy sinh những gì sâu thẳm nhất, cao quý nhất cho tình yêu Thiên Chúa, chấp nhận con đường khổ giá hằng ngày trong niềm tin yêu Chúa, vì đường đau khổ dẫn đến vinh quang.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết tín thác đón nhận thập giá trong đời sống hằng ngày của mình mà theo Chúa và vâng nghe lời Chúa dạy: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”, để mai sau chúng ta cùng được chia sẻ vinh phúc trên trời. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
1. Đấng đang biến hình giữa chúng ta (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Được đi vào vinh quang của Thiên Chúa (Jorathe Nắng Tím)
3. Tín thác giữa đau khổ (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Vinh quang sẽ được bày tỏ (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
5. Tâm hồn đẹp (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Lời trong tâm hồn (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Dấu ấn tình yêu (Maria Nguyễn Huệ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
8. Chắc chắn (Lm. Vũ Đình Tường)
9. Hiển dung thánh giá (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
10. Căn tính người Kitô hữu (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
11. Lên Núi Thánh (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
12. Khổ nạn và Phục sinh (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
13. Trở nên bạn thân và nên con Thiên Chúa (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
14. Biến hình (Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
15. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 2 Mùa Chay_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
16. Cái trước rước cái sau (Trầm Thiên Thu)
1. Lên đường (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Mắt đức tin, mắt của trái tim (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Núi Tabor hôm nay (Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt, Gp. Bắc Ninh)
4. Nghe Lời Chúa – đến với tha nhân (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Chúa hiển dung bộ mặt nào? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
6. Tính phản diện trong phận người (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
7. Cái nhìn của đức tin (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
8. Nghe Lời Người (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9. Đau khổ và hạnh phúc (Trầm Thiên Thu)
10. Biểu lộ vinh quang trước khi bước vào cuộc tử nạn(P. Trần Đình Phan Tiến)
11. Từ bỏ mình (Lm. Anthony Trung Thành)
12. Chúa biến hình (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)
13. Chúa Nhật 2 Mùa Chay_A (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
14. Thói đời (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
15. Hiển dung (Lm. Trần Việt Hùng)
16. Bày tỏ phẩm chất người con Thiên Chúa (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
17. Hướng về tương lai (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
18. Lên núi (AM. Trần Bình An)
19. Hiển dung hay biến hình? (JM. Lam Thy, ĐVD)
20. Đường đến vinh quang (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
21. Trỗi dậy đi, đừng sợ ! (Fx. Đỗ Công Minh)
22. Đức Kitô hiển dung (Lm. Uyên Nguyễn)
23. Lên cao – Hướng thượng (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
24. Thời kỳ thuận lợi để biến đổi tâm hồn (Lm. Đan Vinh)
25. -Chúa Nhật 2 Mùa Chay_A (Lm. Antôn)
ĐẤNG ĐANG BIẾN HÌNH GIỮA CHÚNG TA
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Chúa nhật trước, Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ dẫn chúng ta vào sa mạc để chứng kiến Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Chúa nhật hôm nay, chúng ta được mời gọi cùng lên núi để chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình. Hai sự kiện diễn tả hai khía cạnh cuộc đời Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể: trong sa mạc, Chúa thể hiện nhân tính của Người: yếu đuối, mỏng giòn, đói khát; trên núi cao, Chúa tỏ ra thiên tính của Người: cao cả, sáng láng, thánh thiện. Hai nhân vật quan trọng của Cựu ước cũng xuất hiện để đàm đạo với Chúa, kèm theo lời chứng của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”.
Khi tường thuật sự kiện Chúa biến hình trên núi, thánh Matthêu mở đầu bằng chi tiết “sáu ngày sau”. Vậy, sáu ngày trước đó là sự kiện gì? Đó là lời loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất. Đối với các môn đệ, việc Đức Giêsu chịu thương khó là điều không thể chấp nhận được. Vì vậy, Phêrô đã can gián và thậm chí còn trách Người. Sự can gián của Phêrô bị Chúa quở trách là Satan (x. Mt 16 21- 23). Cùng với việc loan báo cuộc thương khó, Đức Giêsu cũng đưa ra những điều kiện cần phải có để trở nên môn đệ của Người, đó là vác thập giá theo Chúa. Như thế, việc Chúa Giêsu biến hình trên núi nhằm mục đích khai trí các môn đệ, để các ông hiểu hơn về thân phận và sứ mạng của Người. Qua sự kiện này, Chúa muốn khẳng định với các ông: dù Người có phải trải qua cuộc thương khó, nhưng Người sẽ chiến thắng sự chết và sẽ trỗi dậy. Ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê ngỡ ngàng trước việc Chúa Giêsu thay hình đổi dạng, vì lúc đó, các ông được thấy Chúa với một hình dạng hoàn toàn khác so với từ trước tới nay. Sự kiện này làm các ông bàng hoàng và sợ hãi.
Hai nhân vật của Cựu ước hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu, đó là Môisen và Êlia. Môisen là người dẫn đưa Dân tuyển chọn ra khỏi Ai Cập. Ông cũng là người được Chúa trao bia Giao ước và được người Do Thái tôn kính như tác giả của sách Luật. Êlia là vị ngôn sứ đã luôn “đứng hầu cận trước nhan Chúa hằng sống (x. 1 V 17). Trên núi Carmel, ông đã giúp dân Do Thái từ bỏ việc tôn thờ ngẫu tượng để chỉ một lòng tin vào Thiên Chúa. Ông là biểu tượng cho những người được Thần Khí của Thiên Chúa hướng dẫn và là những người phát ngôn nhân danh Thần Khí. Giống như Chúa Giêsu, cả hai vị này đã ăn chay 40 đêm ngày (x. Xh 24,18; 1 V 19,8). Cả hai vị đều được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa (x. Xh 33,18-23; 1 V 19,12-13). Qua sự kiện biến hình, Môisen và Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu. Họ được chiêm ngắm Con Thiên Chúa, Đấng liên kết hai nhân vật này nơi nhân tính của Người, tức là Người vừa là người ban lề luật, vừa là ngôn sứ. Thánh Máthêu trình bày Chúa Giêsu như Môisen mới. Một số bản văn của Tân ước cũng trình bày Chúa Giêsu như Êlia mới. Người đã liên kết truyền thống lề luật và truyền thống ngôn sứ nơi chính bản thân Người. Bởi lẽ hai truyền thống “lề luật” và “ngôn sứ” là tóm lược toàn bộ Kinh Thánh Cựu ước.
Cùng với chứng từ của Môisen và Êlia, còn có chứng từ khác quan trọng hơn nhiều, đó là lời phán từ trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Đức tin Kitô giáo khẳng định: đó là lời của Chúa Cha. Qua lời này, Chúa Cha nói lên tình thương mến của Ngài với Chúa Con, đồng thời nhắc bảo chúng ta: hãy nghe lời Người. Theo Thánh Gioan Thánh giá, Chúa Cha chỉ nói một lời và một lần nơi Chúa Con. Chúa Con là Lời của Chúa Cha. Nơi Chúa Con, có đầy đủ tất cả những gì Chúa Cha muốn ngỏ với nhân loại. Vì thế, “hãy nghe lời Người” tức là đón nhận những gì Chúa Cha muốn mạc khải qua Chúa Con, nhờ đó, loài người được cứu thoát. “Hãy nghe lời Người”, đó cũng là đón nhận và thực hành giáo huấn của Đức Giêsu.
Phụng vụ hôm nay còn cho chúng ta nghe tường thuật về ơn gọi của Áp-ram, tổ phụ của dân Do Thái. Một lời gọi đơn sơ: “hãy đi đến đất Ta sẽ chỉ cho”. Áp-ram đã vâng lời, đã lên đường. Ông không tính toán, không vặn hỏi, nhưng hoàn toàn phó thác. Ông Áp-ram đã nghe lời Chúa và đã thực thi lời Ngài. Ông đã trở nên mẫu mực cho tất cả những kẻ tin ở mọi thời đại (Bài đọc I).
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Người trở nên hoàn toàn giống chúng ta – ngoại trừ tội lỗi. Qua mầu nhiệm nhập thể, Người “biến hình” để trở nên giống như người trần thế. Trên núi cao, khi Chúa “biến hình” lại là lúc Chúa trở về tình trạng thiêng thánh nguyên thuỷ. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đang “biến hình” giữa chúng ta. Quả vậy, chúng ta đâu có nhìn thấy Người bằng con mắt thể lý. Chúa hiện diện qua Lời Chúa, qua cộng đoàn cầu nguyện, qua người nghèo khổ và nhất là trong Bí tích Thánh Thể. Chúa đang biến hình trong đời sống của chúng ta. Mùa Chay là thời điểm giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện, để chúng ta gặp gỡ Người. Thánh Phaolô nhắc chúng ta hãy nhận ra Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Người là Đấng tiêu diệt thần chết và đang hiện diện giữa chúng ta (Bài đọc II).
Sau khi chứng kiến Chúa Giêsu biến hình, ba môn đệ xuống núi, có Chúa cùng đi. Các ông trở về với đời thường, với tâm trạng được biến đổi và với quan niệm mới mẻ về Đấng Thiên Sai. Sự kiện Chúa biến hình trên núi cũng nhắc chúng ta cần phải biến đổi đời sống, biến đổi hình ảnh của Chúa trong đời và biến đổi nhận định về tha nhân. Hãy nghe lại lời của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Lời đầu tiên Chúa Giêsu nói với các môn đệ liền tiếp sau đó là: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!”. Hôm nay Chúa vẫn đang nói với chúng ta những điều ấy. Đừng sợ trước thân phận yếu hèn và tội lỗi, hãy trở về với Chúa vì Chúa bao dung nhân từ. Đừng sợ khi giúp đỡ anh chị em bất hạnh cô thế, cô thân, vì Chúa sẽ thưởng cho lòng quảng đại rộng rãi của chúng ta. Đừng sợ trước những bất ổn của cuộc ống do bạo lực, cạnh tranh và chia rẽ, vì Chúa hiện diện giữa cuộc đời. Người là Đấng đang biến hình giữa chúng ta.
ĐƯỢC ĐI VÀO VINH QUANG CỦA THIÊN CHÚA
Jorathe Nắng Tím
Được yêu thương, chiều chuộng hơn các tông đồ khác, “các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê” đã được Đức Giêsu cho theo mình, “đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 1-2).
Cuộc biến hình của Đức Giêsu đã xẩy ra sau khi Ngài “bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết : Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Và tất nhiên, phản ứng chung của các môn đệ là buồn rầu, lo âu, thất vọng, ngoại trừ Phêrô đã kéo riêng Người ra và trách Người : “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !” (Mt 16,22), nhưng tức khắc ông đã bị Đức Giêsu nặng lời khiển trách : “Satan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23).
Thực vậy, dù đã gần tròn ba năm ở với Thầy, nhưng các tông đồ vẫn chưa hiểu hết đường lối của Thầy mình, nên các vị vẫn “bán tín bán nghi” sứ mệnh Cứu Thế của Đức Giêsu.
Sở dĩ các vị chưa thể hiểu hết, vì cho đến lúc này, các vị vẫn ở trong đời thường, nhìn Đức Giêsu với đôi mắt bình thường, chấp nhận đi theo Đức Giêsu như một môn sinh bình thường, và đánh giá Thầy mình cũng bình thường như các sư phụ khác trong đời thường.
Chính vì thế, Đức Giêsu đã biến hình, và cuộc biến hình của Ngài trước mặt ba tông đồ là một biến cố rất quan trọng thay đổi tư duy và củng cố chọn lựa đi theo Ngài của cả Nhóm Mười Hai :
Tin Mừng ghi lại rất rõ : “Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt 17,1).
“Đi riêng ra một chỗ” nói lên một cách biệt, một không gian đặc biệt, một nơi chốn sinh hoạt không bình thường như những ngày thường, vì vị trí hiện diện đã “khác thường”.
Khi “đi riêng ra một chỗ”, Đức Giêsu tách ba môn đệ ra khỏi đời sống thường ngày, ở đó, các ông đã chỉ thấy ở Thầy mình những gì thuộc thế giới bình thường, mà không thể thấy những “phi thường” ở Thầy.
Điều này nói lên sự cần thiết của nhu cầu “đi riêng ra với Thiên Chúa”, bằng “đi ra khỏi” con người mình, nhà mình, “đi ra khỏi” danh phận, quyền lợi, ảnh hưởng của mình, để “trơ trọi, trần trụi” một mình với Thiên Chúa, bởi chúng ta chỉ thực sự tìm gặp được Thiên Chúa, được chạm vào Thân Thể Thiên Chúa, được thấy tận mắt Thiên Chúa, được diện đối diện với Thiên Chúa trong vinh quang của Ngài, nếu chúng ta chấp nhận “đi riêng ra một chỗ” với Ngài trong tình trạng không tìm kiếm gì, ngoài tìm kiếm Ngài ; không gánh gồng, đeo mang gì, ngoài khát vọng được thấy Ngài ; không tham vọng, ước mơ gì, ngoài được ở với Ngài, như ba môn đệ đã theo Ngài, “đi riêng ra một chỗ” mà không cần biết mình đi đâu, không cần mang theo cơm nước, áo quần gì, mà chỉ biết được theo Ngài “đi riêng ra một chỗ”.
Đức Giêsu đưa các ông “tới một ngọn núi cao” (Mt 17,1). Núi cao trong truyền thống Kinh Thánh là nơi Thiên Chúa ngự đến (x. Tv 67,16 ; 1 V 19,8), nơi Thiên Chúa chọn để nói với con người, nơi con người nghe được tiếng Thiên Chúa, như Môsê (x.Xh 19,3 ; Đnl 32,49), nơi thờ phượng Thiên Chúa (x. Xh 3,12 ; Ed 20,40).
Trong Tân Ước, Đức Giêsu cũng thường lên núi để cầu nguyện (x. Mt 14,23), lên núi để giảng dậy (x. Mt 5,1), và những ngày sau hết, “ban ngày Đức Giêsu giảng dậy trong Đền Thờ ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ôliu” (Lc 21,37).
Đưa ba tông đồ cùng Ngài lên “một ngọn núi cao”, Đức Giêsu đã chọn cho các ông một không gian đặc biệt, một nơi chốn “thánh thiện” xa khỏi đời thường, một chỗ thinh lặng, thanh vắng, bởi Thiên Chúa chỉ nói với con người trong tĩnh lặng, và sâu lắng của tâm hồn, xa khỏi những huyên náo, ồn ào của dòng đời bon chen, vội vã, vì Thiên Chúa của chúng ta là “Đấng hiện diện nơi kín đáo” (Mt 6,18), luôn căn dặn môn đệ Ngài “cầu nguyện nơi kín đáo” (x. Mt 6,6), làm phúc cách kín đáo (x. Mt 6,3), ăn chay càng phải kín đáo hơn (x. Mt 18).
Khi biến hình, Đức Giêsu đã cho ba tông đồ khám phá dung mạo vinh quang thuộc về Thiên Chúa của Ngài, mà bấy lâu các ông còn nghi ngờ. Dung mạo này hoàn toàn khác với dung mạo các ông thường gặp, khi Ngài ở với các ông, cùng các ông dong duổi trên khắp nẻo đường truyền giáo, nhất là không giống chút nào dung mạo mà các ông sẽ thấy trên đường Ngài vác Thánh Giá, và giang tay chết trên Núi Sọ.
Nhờ được thấy dung mạo vinh quang trên núi khi Đức Giêsu biến hình, mà các ông sẽ nhận ra Ngài sau khi Ngài sống lại từ cõi chết.
Vinh quang Thiên Chúa ấy còn được tỏ ra khi các ông nghe được tiếng phán ra từ đám mây : “Đây là Con yêu dấu của Ta. Các ngươi hãy vâng lời Người !” (Mt 17,5).
Sau cùng, sự có mặt của hai ông Môsê, và Êlia, là hai nhân vật rất quan trọng trong Cựu Ước “hiện ra đàm đạo” với Đức Giêsu đã là bảo chứng chắc chắn và hùng hồn về thiên tính của Thầy mình (x. Mt 17,3).
Qua ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, là ba vị có uy tín, Đức Giêsu đã dùng biến cố Biến Hình để củng cố niềm tin vào Ngài không chỉ của ba ông, mà của tất cả các tông đồ, môn đệ khác.
Ngài biết các ông sắp phải trải qua cơn sóng gió dữ dội làm chao đảo niềm tin vào Ngài của các ông, khi Ngài “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết” (Mt 16,21). Cũng vì niềm tin sẽ bị lung lay, do thử thách nặng nề, và thách đố cam go khi thấy Thầy mình bị kết án tử hình, đóng đinh vào thập giá, mà các ông sẽ rất khó tin : ngày thứ ba Đức Giêsu sẽ sống lại, như Ngài đã nói trước với các ông (x. Mt 16,21).
Vì thế, Đức Giêsu đã cho ba người trong các ông thấy vinh quang của Ngài khi biến hình, để các ông tin tưởng, và nâng đỡ nhau tin vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh quang sau khổ hình và tử nạn của Ngài
Tóm lại, với biến cố Biến Hình vinh quang trên núi cao, chúng ta được Đức Giêsu, “Thiên Chúa làm người” mời gọi theo Ngài “đi riêng ra một chỗ”, để được thấy Ngài trong vinh quang của Thiên Chúa chí thánh, toàn năng, được nghe chính tiếng Chúa Cha nói về Ngài, hầu đức tin của chúng ta đủ mạnh để lên đường làm chứng về Ngài trước muôn dân.
Hành trình làm chứng ấy chắc chắn không dễ, nhưng hứa hẹn nhiều bất trắc, rủi ro, nguy hiểm, “vì tôi tớ không hơn chủ. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,20). Nhưng hành trình ấy tràn đầy hy vọng và tình yêu, vì được Chúa Cha bảo đảm qua tiếng Ngài phán từ đám mây : “Đây là Con yêu dấu của Ta… Hãy vâng lời Người !”, và chính Đức Giêsu, Đấng sai chúng ta lên đường làm chứng Tin Mừng đã âu yếm trấn an : “Chỗi dậy đi, đừng sợ !” (Mt 17,7), như Ngài đã ân cần đến gần và động viên các tông đồ Phêrô, Giacôbê, Gioan khi các vị “ngã sấp mặt xuống đất”, vì kinh hoàng, sợ hãi (x. Mt 17,6), bởi Ngài đã hứa cho những ai theo Ngài “được đi vào vinh quang của Thiên Chúa”.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Giữa đau khổ con người luôn trông đợi một tương lai tươi sáng hơn. Giữa những lời thông cáo về dịch cúm SARS – Cov – 2, con người mơ ước ngày nào đó sẽ không còn và cuộc sống sẽ trở lại bình thường, Các bệnh nhân nhiễm bệnh lại mơ ước ngày đau thương đi qua họ sẽ sống tích cực hơn,,, Khao khát của con người giữa đau khổ là vươn mình về phía trước, nơi sẽ sống dồi dào tích cực hơn. Mầu nhiệm biến hình trả lời cho những băn khoăn giữa đau khổ đó,
Lo âu về tương lai.
Các môn đệ sau sáu ngày từ khi nghe Chúa hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?. Câu trả lời của Phêrô xác tín: Ngài là Con Thiên Chúa. Nhưng Chúa Giêsu lại tỏ cho biết, Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, chịu nhiều đau khổ, bị giết chết, ngày thứ ba sống lại” (Xem Mt 16, 13 – 29).
Sáu ngày băn khoăn về số phận của mình, tương lai mù mịt, Chúa Giêsu là Chúa, là Thầy còn chịu như thế, các môn đệ sẽ ra sao? Ai cũng hy vọng “Qua cơn mưa trời lại sáng”. Nhưng cũng băn khoăn có qua được ngày tăm tối không? Chuẩn bị cho mình điều gì để qua nguy khốn. Tích trữ lương thực, nước uống, khẩu trang…
Lo ăn năn sám hối, chuẩn bị linh hồn về với Chúa. Nhưng, còn bao nhiêu thứ còn dang dở, tài sản, thừa kế, tài khoản, nợ nần… Những điều đó lại níu kéo, mong mình được sống, chứ không phải chết, không phải trải qua bệnh dịch Covid… Băn khoan và lo âu!
Biến hình – chân trời mới.
Đang lúc Phêrô, Gioan, Giacôbê, các ông vì mệt mỏi nằm mê mệt, mở mắt ra các ông thấy diện mạo Người trắng tinh như ánh sáng chói lòa. Trình thuật cho thấy rằng, ngày cứu thoát sách Khải huyền nói về những người được tắm trong Máu Chiên Con: “Sau đó, tôi còn mãi nhìn, thì này: một đoàn lũ đông đảo không biết cơ man nào mà kể, thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc, tiếng nói, đứng trước ngai và trước Chiên Con, mình vận áo chùng trắng tinh, tay cầm tàu lá vạn tuế” (Kh 7, 9).
Trong gian truân, đau khổ của con người, Chúa Giêsu cũng đã từng trải qua hoặc đã thấy bao cảnh tang thương của con người, lòng thương xót của Người cũng đã từng rơi lệ, vẫn tỏ bày: “Thương những đoàn chiên không người chăn dắt” (Mc 6, 34). Cảm thương về những lo âu, khắc khoải của con người, Chúa cho thấy: Qua đau khổ tới vinh quang” và cái đau khổ này là những đau khổ của tự nguyện lễ dâng: “Và vì chúng, Con xin hiến thánh mình Con, ngõ hầu chúng được tác thánh cách chân thật” (Ga 17, 19)
Cắm ba lều
Cám dỗ dừng lại trong vinh quang mà không trải qua đau khổ lúc nào con người cũng mong như thế. Ý muốn của con người không như ý muốn của Thiên Chúa. Lời rao giảng về thập giá: “Vì chưng lời giảng thập giá, đối với những kẻ đang hư đi, là một sự điên rồ; còn đối với chúng ta, những người đang ở trên đường cứu thoát, lại là quyền năng của Thiên Chúa.” (1Cor 1, 18). Qua đau khổ, gian truân, những tai ương không thể tránh khỏi và ngay cả cái chết, con người thấy mình cần có Thiên Chúa, không chỉ nhờ vào sức của con người. Tại Hoa Kỳ, trước vấn đề dịch SARS – Cov – 2, Tổng thống Trump cũng như phó tổng thống Mike Pence là người trực tiếp lãnh đạo chiến dịch, đều cầu nguyện trước những cuộc họp, cùng với các bác sỹ hàng đầu cùng với các nhà chuyên môn dịch tễ. Cầu nguyện bởi vì biết rằng, mọi cố gắng của mình cũng cần có Thiên Chúa trợ giúp để hoàn thành. Đó là một kinh nghiệm về Quyền Năng của Thiên Chúa trước những bất toàn của con người.
Từ bài học biến hình dạy cho con người biết: Qua những gian truân, đau khổ, bất lực, con người sẽ học biết tình yêu của Thiên Chúa, Đấng viên thành những nỗ lực của con người và hoàn tất những gì con người cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa.
Xin cho mọi cố gắng của chúng con đều cần nhờ ơn Chúa giúp!
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Chúa Nhật vừa rồi, chúng ta đã chiêm ngắm Chúa Giêsu theo phương diện nhân loại qua những cơn cám dỗ của Chúa. Người đã kiên quyết chống trả và đã chiến thắng những đề nghị của ma quỷ.
Trong Chúa Nhật II Mùa Chay này, chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu theo phương diện thần linh qua biến cố Chúa biến hình trên núi cao, trước sự chứng kiến của ba môn đệ thân tín của Người là Phêrô, Giacôbê và Gioan.
1- Vinh Quang Thiên Chúa nơi Đức Giêsu
Tại đây, thân xác của Chúa Giêsu được biến đổi, dung nhan Người chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Người đàm đạo với Môsê và Êlia. Biến cố biến hình là cuộc thần hiện của Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Con là nhân vật chính đang được biến hình, Chúa Thánh Thần hiện diện dưới “đám mây sáng ngời bao phủ các ông” và có tiếng của Chúa Cha từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các người hãy nghe lời Người” (x. Mt 17,1-9).
Với trình thuật này, thánh Mátthêu trình bày biến cố biến hình là một cuộc thần hiện của vinh quang Thiên Chúa như đã xảy ra trên núi Sinai trong Cựu Ước với những dấu chỉ mạc khải thế giới Thiên Chúa như núi cao, sự biến hình, ánh sáng, đám mây bao phủ trên Người.
Trong Tin Mừng Nhất Lãm, trình thuật biến cố biến hình được đặt trước lời loan báo đầu tiên của Chúa Giêsu về cuộc khổ nạn, chết và phục sinh khi Người cùng với các môn đệ trên đường tiến về Giêrusalem. Khi nghe nói về việc Người phải chịu đau khổ và phải chết, các Tông Đồ rất ngạc nhiên và không thể nào chấp nhận lời loan báo này. Chính thánh Phêrô đã can Người không nên làm như thế. Bởi vì, hầu hết các Tông Đồ và người Do Thái đang trông chờ một Đấng Mêsia đến trong quyền năng và vinh quang để giải phóng họ khỏi cảnh thống trị và ách nô lệ của đế quốc La Mã. Đấng Mêsia không thể chịu đau khổ và chết được. Nhưng Chúa Giêsu không từ bỏ ý định của mình và Người tiếp tục mạc khải rằng Người phải chịu đau khổ và chết, sau ba ngày, Người sống lại. Người mở ra con đường mới là phải trải qua đau khổ để đến vinh quang.
Theo tiến trình này, biến cố biến hình của Chúa Giêsu là sự chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận biến cố đau thương mà Chúa sắp phải trải qua. Qua biến cố này, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ trước cuộc khổ nạn và cái chết của Người. Đồng thời, Người muốn tỏ cho họ thấy thần tính của Người ẩn dấu trong dung mạo con người, cũng như Người muốn tỏ cho họ thấy trước vinh quang và sự phục sinh mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện như đã tiên báo.
Như thế, Chúa Giêsu là một con người giống với chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi: Người có mang trong mình những điều kiện con người như đói khát, mệt nhọc thể lý, bị cám dỗ; Người cũng phải lao động vất vả để kiếm sống; Người cũng có một thân xác hay chết như chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu rất khác biệt với chúng ta, bởi vì Người là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, là Đấng Mêsia. Người cưu mang thần tính ẩn dấu trong mình. Thần tính đó hôm nay được biểu lộ và biến đổi con người nhân loại của Chúa Giêsu trở nên sáng láng và vinh hiển như mặt trời. Nơi đây Đức Giêsu để cho thần tính của Người tỏ lộ trong thân xác của Người.
Chiêm ngắm Chúa Giêsu biến hình, Mátthêu muốn độc giả của ngài và cả chúng ta nữa tin nhận Người là Thiên Chúa. Đức tin đích thực của người tín hữu không phải là một lời khẳng định chung chung về sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng là lời tuyên xưng vững chắc rằng vinh quang và quyền năng Thiên Chúa hiện thân cụ thể nơi con người của Đức Giêsu Kitô. Vì thế, chúng ta hãy nghe Lời Người.
2- Chúng ta cũng sẽ được biến đổi như Người
Biến cố biến hình của Chúa Giêsu cũng là lời loan báo về định mệnh của mỗi người rằng: Thân xác yếu hèn và hay chết của chúng ta được tiền định tới sự biến hình nên giống với Chúa Giêsu ngay hôm nay và trong ngày cánh chung. Sự biến hình của Chúa Giêsu loan báo sự biến hình của chúng ta. Bởi lẽ, Thiên Chúa đã không bao giờ tạo dựng thân xác con người cho cái chết, hay cho sự hủy diệt, nhưng Người tiền định cho chúng ta được sống đời đời. Tội lỗi, sự dữ và cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng trên con người. Bằng chứng hùng hồn là biến cố nhập thể của Con Thiên Chúa như là trung tâm điểm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã làm người để con người được làm Thiên Chúa,” thánh Irênê, giám mục thành Lyon (198) đã viết như thế.
Hơn nữa, việc Chúa Giêsu biến hình làm sáng tỏ những vấn nạn quan trọng nhất mà con người mọi thời thường đặt ra: Đâu là ý nghĩa của đời sống? Con người sẽ đi về đâu? Chính Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta câu trả lời cho những vấn nạn đó qua sự phục sinh vinh hiển. Chúa Giêsu là người đầu tiên từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa cho những kẻ an giấc. Người là người mở đường cho con người đi vào sự sống mới, sự sống thần linh. Nhờ Thánh Thần, Người biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác sáng láng của Người. Khi nói đến sự biến đổi này, thánh Phaolô viết: “Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết” (Pl 1,20).
Một cách cụ thể, bí tích Rửa Tội làm cho chúng ta nên giống với Chúa Kitô và đưa chúng ta tháp nhập với đời sống Đấng Phục Sinh! Theo ý nghĩa này, thánh Mátthêu đã chính xác dùng hai cách diễn tả tương tự để mạc khải về định mệnh của chúng ta: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời” (Mt 17,2). “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời” (Mt 13,43).
Sự biến hình của chúng ta được bắt đầu từ những chọn lựa và cố gắng trong đời sống của chúng ta dựa theo các giá trị Tin Mừng, khi chúng ta bước theo Người. Những chọn lựa và hành động đó có dấu ấn của sự vĩnh cửu. Như chúng ta đọc những lời này trong mỗi thánh lễ: “Cũng như giọt nước hòa chung với chén rượu, xin cho chúng con cũng được thông phần thần tính của Đấng đã chia sẻ kiếp người với chúng con.”
Bởi thế, mỗi ngày chúng ta được mời gọi lắng nghe và thực hành Lời Chúa để chúng ta cũng được biến đổi nên giống Người. Amen!
Bông hồng nhỏ
Lần đầu gặp nàng, anh đã say mê khuôn mặt dễ mến và giọng nói dịu dàng ấy. Nàng rất ít khi trang điểm. Anh bảo rằng, anh thích ngắm nàng trong nét đẹp tự nhiên như vậy hơn. Ngày cưới, khi nàng xuất hiện trong bộ áo cưới với khuôn mặt được điểm trang lộng lẫy, anh đã không giấu nổi niềm xúc động. Được trang điểm, nàng trở nên rất xinh đẹp khiến anh quá bất ngờ.
Chúng ta vẫn có thể mang lại cho những người thân cận nhiều bất ngờ hơn thế, điều bất ngờ đến từ nét đẹp trong tâm hồn chúng ta.
Hôm nay, được chứng kiến dung mạo sáng ngời của Thầy Giêsu, ba tông đồ đã bất ngờ được ngập tràn trong niềm hạnh phúc. Quá quen thuộc với khuôn mặt dãi dầu mưa nắng của Thầy, các ông đã chẳng nhận ra vẻ đẹp rạng ngời thánh thiện của Thầy nếu không được Thầy mạc khải cho. Khi sống bên cạnh những người thân yêu, đã bao giờ chúng ta gặp được vẻ đẹp thánh thiện của họ không? Chúng ta biết rằng, nơi sâu thẳm tâm hồn của họ, Chúa Giêsu đang hiện diện và mời gọi chúng ta gặp gỡ Ngài. Khi được chiêm ngắm vinh quang của Thầy, ông Phêrô đã thốt lên trong niềm vui sướng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều. Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái” (Mt 17, 4). Khi được ở cùng Chúa Giêsu trong cầu nguyện, chúng ta có thầy rằng đó là niềm hạnh phúc lớn lao cho chúng ta, chúng ta có khao khát được ở mãi với Ngài không? Chúng ta sẽ ở cùng Chúa Giêsu luôn mãi bằng cách nào?
Hiệp thông cùng Giêsu chính là tương quan cá vị ta có với Ngài, một mối tình sẻ chia không chỉ trong những phút giây cầu nguyện thân tình, nhưng cả trong nhịp sống bình thường, hay trên những chặng đường thương khó ta được cùng bước với Ngài. Lúc hạnh phúc ngập tràn, trái tim ta rung động, thổn thức trước tình yêu thương bao la Ngài dành cho ta. Khi thử thách gian nan giăng lối, ta có biết tìm về bên Giêsu để tìm ra một lối đường bước đi? Khuôn mặt của ta có trở nên sáng hơn, trái tim ta có được rộng mở hơn và tâm hồn ta có đẹp hơn sau mỗi lần gặp Chúa không? Gặp gỡ Chúa rồi chắc chắn ta sẽ dễ dàng nhận ra khuôn mặt dễ mến của Chúa nơi những người anh chị em bên cạnh. Làm sao để nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu nơi những người ta không quen biết hay những người ta không mấy thiện cảm? Nếu ta biết đón nhận khuôn mặt bầm dập của Chúa Giêsu trong cuộc Thương Khó, ta cũng sẽ đón nhận được những người có khuôn mặt khó nhìn trong cuộc sống hằng ngày. Vinh quang Thiên Chúa được tỏ lộ ngay trong dung mạo của Chúa Giêsu bị đóng đinh, khuôn mặt mà ai đi qua cũng phải che mặt.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã bày tỏ vinh quang rạng ngời của Chúa cho con. Xin Chúa không ngừng khơi dậy nơi tâm hồn con lòng khao khát được trở nên giống Chúa hơn. Để khi đến với anh chị em, con mang một nét mặt vui tươi, một tâm hồn thánh thiện, một trái tim đầy tình yêu, một con người đã được gặp Chúa, yêu Chúa và khao khát cho mọi người cũng được yêu mến Chúa hơn. Amen.
Anna Cỏ May
“Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5).
Chúa Giêsu đưa các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng ra một nơi, tới một ngọn núi cao. Tại đây, các ông được chứng kiến dung nhan chói lọi như mặt trời của Thầy. Phêrô, một trong ba môn đệ đã thốt lên rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mt 17,4). Khi ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17,4). Tiếng phán mạnh mẽ dứt khoát và đầy tình yêu đã khiến cho các ông kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất. Tiếng phán từ trời không phải là một tiếng nói bâng quơ nhưng là một tiếng nói yêu thương của Chúa Cha. Chúa Cha đã nhìn thấy nỗi lòng khao khát muốn được sống trong vinh quang mà các tông đồ đã nhìn thấy. Ngoài ra, tiếng phán ấy là lời khẳng định cho các ông biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng đầy quyền năng. Nếu các ông muốn sống trong vinh quang đó thì hãy nghe lời Thầy của mình, Lời sẽ biến đổi các ông và các ông sẽ cùng hưởng vinh quang với Thầy.
Sau tiếng phán khiến các ông kinh hoàng, Chúa Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo: “Trỗi dậy đi, đừng sợ!” ( Mt 17,7). Người mời gọi các ông đừng nói với ai về thị kiến ấy cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy. Trong tâm tình của Mùa Chay và nỗi lo sợ của dịch bệnh hiện nay, Chúa Giêsu vẫn đang nói với mỗi người chúng ta: hãy trỗi dậy khỏi vũng lầy tội lỗi, sự hận thù, ghen ghét, ích kỉ và sự thơ ơ mà trở về với Thiên Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương. Đừng sợ kẻ chỉ giết thân xác mà không giết được linh hồn (x. Mt 10,26). Mỗi người chúng ta hãy hãm mình, làm việc bố thí và cầu khẩn Thiên Chúa vì chỉ có Ngài là Đấng có quyền trên sự sống đích thực của chúng ta.
Lạy Chúa! Chúa giàu lòng thương xót, xin cho mỗi người chúng con mau trỗi dậy, trở về với Chúa. Nhờ đó, chúng con được ơn giải thoát khỏi tội lỗi và được sống trong vinh quang của Chúa. Amen.
Maria Nguyễn Huệ
Dấu ấn tình yêu là điều mang giá trị cao quý được khắc ghi trong mối tương quan mà chúng ta dành cho nhau. Hôm nay, Chúa Giêsu đã mặc khải một dấu ấn tình yêu, khi Ngài tỏ lộ cho các môn đệ thân tín chiêm ngắm vẻ đẹp vinh quang thiên tính của Ngài. Dấu ấn của Ngài cũng là động lực thúc đẩy các môn đệ và mỗi người chúng ta nỗ lực kiên trì trong việc hoàn thiện đời sống để nên giống Ngài.
Ai trong chúng ta lại không thích những khoảnh khắc diễn tả nét đẹp của người mình yêu quý. Chúa Giêsu đã cho các môn đệ thân tín được thấy những khoảnh khắc đó. “Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2). Một vẻ đẹp rạng ngời, huy hoàng trên muôn ngàn vẻ đẹp. Được chiêm ngắm vẻ đẹp của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mặc khải, ông Phêrô liền thân thưa với Chúa trong một niềm hạnh phúc trìu mến: “Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng ba cái lều” (Mt 17,4). Ánh quang của Chúa Giêsu làm cho ông Phêrô không còn băn khoăn lo nghĩ về hành trình phía trước, hành trình cùng Thầy bước vào cuộc thương khó mà Thầy đã tiên báo trước. Ông chỉ muốn giữ lấy hạnh phúc hiện tại, một giây phút không gì có thể đánh đổi. Ông xin dựng lều để tiếp tục được tận hưởng khung cảnh huy hoàng của niềm hạnh phúc. Chắc hẳn chúng ta cũng có những dấu ấn tuyệt diệu bên người thân yêu, đó là những giây phút chúng ta ở bên nhau bằng niềm vui của sự thông cảm, đón nhận nhau. Chúng ta có nhau bằng niềm tin và hy vọng khi cùng nhau tiến bước trên hành trình. “Một túp lều tranh hai trái tim vàng”, nếu có tình yêu đích thực thì mọi khó khăn dường như cũng trở nên hạnh phúc. Tình yêu có thể tồn tại mãi không? Nếu tình yêu chỉ là những cảm xúc chóng qua thì túp lều lý tưởng mãi mãi nằm trong lý tưởng. Làm sao để tình yêu còn mãi?
Dấu ấn mà Chúa Giêsu tỏ lộ không chỉ mang niềm hạnh phúc chóng qua để thỏa mãn những khao khát, nhưng là một động lực thúc đẩy các môn đệ và mỗi người chúng ta không ngừng chiến đấu, để được nên giống Ngài trong vinh quang của Ngài. Đây là lệnh truyền của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5). Nghe lời phán từ trời, các ông hoảng sợ và ngã sấp mặt xuống đất. Mệnh lệnh đó thức tỉnh các ông trong giây phút được cảm nếm niềm hạnh phúc. Chúa Giêsu không muốn giây phút huy hoàng mà các ông chiêm ngắm bị phai mờ. Ngài đã đến đánh thức và động viên các ông, như Ngài muốn nói với các ông mọi biến cố đều nên dấu chỉ tình yêu nếu biết lắng nghe lời Thiên Chúa. Ngài căn dặn các ông: “Đừng nói cho ai biết thị kiến ấy, đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” (Mt 17, 9). Lời căn dặn của Chúa Giêsu chuẩn bị tâm tình cho các ông trong hành trình chịu thương khó của Người. Ngài cũng nhắn nhủ các ông tin tưởng vào niềm vui Phục Sinh. Dấu ấn của Chúa Giêsu tỏ lộ đã thực sự trở nên động lực cho các tông đồ trong hành trình theo Chúa. Các ông đã cảm nếm những kinh nghiệm riêng về những dấu ấn tình yêu. Ông Phêrô đã chối Chúa nhưng ông đã ăn năn, quyết chí chiến đấu cho tình yêu Chúa đến cùng. Ông Gioan đã luôn trung kiên với Chúa trên chặng đường thương khó. Ông Giacôbê đã trở thành vị tử đạo đầu tiên trong số các tông đồ. Còn chúng ta, đứng trước lời mời gọi của chính Đấng là Tình Yêu, chúng ta thấy mình như thế nào? Phải chăng chúng ta cũng hoảng sợ và chối từ như Phêrô? Nhìn vào sức sống nơi dấu ấn tình yêu mà các tông đồ đã minh chứng, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi: “Hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5). Chúng ta hãy để chính Lời là Chúa Kitô tiếp nối công cuộc cứu độ của Người nơi cuộc đời chúng ta.
Lạy Chúa, mỗi biến cố trong đời sống chúng con là một dấu ấn tình yêu của Chúa. Xin ban ơn Thần Khí của Ngài đến soi sáng, để chúng con không chỉ dừng lại ở cảm xúc hay lý tưởng nhưng luôn biết quy hướng về thánh ý Ngài, để mỗi biến cố là dấu ấn tình yêu, là động lực cho chúng con không ngừng tiến bước đến cùng Chúa. Amen.
Lm Vũđình Tường
Kinh nghiệm trên núi thánh các tông đồ có được là món quà đặc biệt Đức Kitô trao tặng ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Kinh nghiệm này xảy ra một lần trong đời. Trên núi thánh các ông một lần nữa được nghe tiếng Chúa Cha từ trời cao phán bảo ‘Đây là Con Ta hằng yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài’. Lần đầu các ông được nghe khi Đức Kitô chịu phép rửa tại sông Giođan Mt 3,17 và lần thứ hai trên núi thánh Mt 17,5. Thiên Chúa tái xác nhận Đức Kitô là Con Thiên Chúa và qua Ngài chúng ta nhận biết Thiên Chúa Nhân Lành. Kinh nghiệm trên núi thánh giúp các tông đồ xác tín Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Ngài là Con Thiên Chúa nên những ai ‘lắng nghe lời Ngài’ chính là lắng nghe lời Thiên Chúa. Lời kêu gọi ‘lắng nghe lời Ngài’ cho biết Đức Kitô là Đấng duy nhất có đủ thẩm quyền giảng giải về tình Chúa bao la, lòng Chúa xót thương. Những giải thích không hài hoà, ăn khớp với giải thích của Đức Kitô đều là giải thích sai lầm, không chính xác. Các tông đồ cũng tin chắc là những ai ‘lắng nghe lời Ngài’ sau khi hoàn tất cuộc lữ hành trần thế cũng sẽ được hưởng vinh quang như các ông được hưởng trên núi thánh, chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Môn đệ Đức Kitô còn biết thêm là con người không thể trực tiếp đón nhận vinh quang, ánh sáng diệu vợi của Thiên Chúa. Các ông kinh hoàng khi thấy Đức Kitô biến hình sáng ngập trời trên núi thánh, nhưng khi nhìn thấy ánh sáng và tiếng nói phát ra từ đám mây, các ông hoảng sợ, cúi gằm mặt xuống đất, lòng đầy sợ hãi, run rẩy, bởi ánh sáng đó sáng toả hào quang ngoài sức chịu đựng của con người trần thế. Các ông chỉ cảm thấy hoàn hồn khi Đức Kitô đến khuyến khích, an ủi: Đừng sợ. Để có thể chiêm ngưỡng được hào quang huy hoàng của Thiên Chúa con người trần thế: a/ cần ‘biến hình’ thay đổi, từ từ giúp mình trở nên giống Chúa hơn trước khi có thể cảm nhận được vẻ huy hoàng của Thiên Chúa. b/ dù hiện diện trên núi thánh cùng với Đức Kitô, Thiên Chúa vẫn làm chủ và các môn đệ chỉ có thể nghe những gì Thiên Chúa cho phép nghe. Có hiểu được hay không tuỳ thuộc vào hướng dẫn của Đức Kitô. Câu ‘lắng nghe lời Ngài’ còn mang í nghĩa nghe giải thích của Đức Kitô để hiểu biết về tình yêu và lòng bác ái của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô rao giảng Ngài không dùng ngôn ngữ của thần thánh nhưng dùng ngôn ngữ của loài người nói chuyện với loài người để giúp loài người hiểu biết về Thiên Chúa.
Thứ ba, các môn đệ chắc chắn là sau khi hoàn tất cuộc lữ hành trần thế, thì có cuộc sống vĩnh cửu trong nước Chúa. Điều này thể hiện qua sự linh hoạt, sống động, vinh quang, sáng láng của các tổ phụ Môise và tiên tri Elijah. Cuộc sống trần gian thay đổi biến con người đó liên kết với thân thể mới, thân thể Phục Sinh của Đức Kitô. Thánh Phaolô trong thơ gởi tín hữu thành Corintô cho biết, để trở thành thân thể mới trong Đức Kitô Kitô hữu đó phải ‘lắng nghe lời Ngài’. Lắng nghe lời Đức Kitô khi còn tại thế, và khi qua đời Đức Kitô cho họ chia sẻ niềm vui sống lại, niềm vui Phục Sinh của Đức Kitô. Do đó sống đời sống mới toả sáng, đầy tràn vinh quang, hạnh phúc bất diệt. 1 Cor 15,51-53.
Bên cạnh những điều chắc chắn trên, còn có những điều không được chắc chắn lắm. Không chắc chắn lắm gây nên bởi thiếu hiểu biết về tình yêu, lòng mến Thiên Chúa. Trước hết, trên đường xuống núi, môn đệ không hiểu tại sao Đức Kitô dặn các ông đừng nói cho ai biết về việc Chúa biến hình và thứ hai các ông hỏi nhau sau khi Con Người sống lại từ cõi chết có nghĩa gì? Mt 17,9. Thứ đến, các môn đệ không hề nhắc đến cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và các tổ phụ. Ngoài một câu duy nhất Chúa Cha phán bảo, mọi sự đều không được tiết lộ.
Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng làm những việc kì diệu trước mắt thiên hạ, cho người mù xem thấy, kẻ chết sống lại, người què được đi, người mù mắt sáng, thế mà Ngài trở nên trung tâm của xỉ vả, mạ lị. Kẻ kết án nói Ngài khờ dại, lính tráng hành hình chế nhạo làm trò vui, đám đông đứng từ xa ngó và tên trộm bị đóng đinh bên cạnh cũng thánh thức Ngài xuống khỏi thập giá. Môn đệ Đức Kitô không hiểu tại sao phải trải qua đau khổ mới đến vinh quang. Đau khổ đi trước mở đường, làm bệ đứng cho vinh quang. Cả Đức Kitô lẫn môn đệ Ngài đều có kinh nghiệm hào quang toả sáng trên núi thánh và kinh nghiệm tối tăm do con người tạo ra. Hai cực đối đầu của cuộc sống đời người. Điều chắc chắn cuối cùng và quan trọng hơn cả là dù vinh quang hay đau khổ, lòng mến môn đệ dành cho Đức Kitô không hề giảm hay bị lay chuyển.
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
“Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông”. “Sáu ngày sau” tức là sáu ngày sau khi thánh Phêrô tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Thời gian này Chúa và các tông đồ đang về Giêrusalem. Tại Giêrusalem Người sẽ chịu tử nạn.
Cuộc tử nạn gần kề, Chúa muốn các môn đệ phải biết rõ:
1. Người là ai. Điều này được giải quyết phần nào qua lời đại diện của thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
2. Người giải phóng nhân loại qua cuộc thương khó, tử nạn, và phục sinh. Điều này các tông đồ chưa vững, do đó thánh Phêrô ngăn Chúa sau khi Chúa báo trước Người sẽ chịu nạn.
Như hầu hết người Dothái đương thời, các tông đồ tin Đấng Thiên Sai uy quyền sẽ chinh phục và thống trị nhân loại. Các ông không thể chấp nhận Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ và chết trên thánh giá.
Vì thế, Chúa Giêsu đưa ba tông đồ lên núi, chứng kiến cuộc hiển dung huy hoàng của Người để các ông:
– Xác tín mối liên hệ của Người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu không làm gì mà không theo thánh ý Thiên Chúa. Hôm nay, chính Thiên Chúa đã xác nhận mối liên hệ này: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”.
– Xác tín khổ nạn Chúa Giêsu sẽ chịu là con đường duy nhất đẹp lòng Thiên Chúa. Các ông sẽ tham dự vào khi “uống chén đắng” với Người.
– Xác tín, theo kế hoặch cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ nên rực rỡ trong vinh quang phục sinh như những gì các ông đang chứng kiến.
– Được củng cố đức tin qua việc nhìn thấy vinh quang trước khi các ông chính thức “uống chén đắng” với Chúa Giêsu.
Nếu Chúa Giêsu đi qua thánh giá rồi mới vào vinh quang, các tông đồ, những người mà Chúa Giêsu yêu quý, cũng không đi ngoài con đường ấy.
Cũng vậy, ta cần tháp nhập vào thánh giá Chúa để tiến đến vinh quang. Thánh giá hôm nay là sự đồng hành với cuộc đời mà ta đang nếm trải.
Thánh giá cuộc đời mang nhiều màu sắc. Nó là những dằn xé, thử thách, bấp bênh, dao động, hoàng cảnh… mà ta phải đối mặt. Nó có thể là những đau khổ bên ngoài thân xác, hay nỗi đau thấu tận tâm hồn…
Thánh giá cuộc đời hiện lên ngay trên chính đôi tay sần sùi, chai sạn. Thánh giá hằn lên mái tóc nhuộm gió sương, quất vào đôi vai oằn nặng, đè lên đôi chân trong từng bước đi khó nhọc…
Thánh giá khắc trên những vầng trán suy tư, những dấu chân chim quần thâm phía sau đôi mắt đầy vẻ mỏi mệt, thao thức.
Thánh giá in dấu trên những khuôn mặt đăm chiêu, lo lắng đến phờ phạc, đến nhợt nhạt và tái tím…
Giữa nỗi thương đau khi dịch bệnh đang làm cả thế giới hoang mang, là đầu mối gây chết chóc cho nhiều ngàn sinh mạng, làm lung lay nền kinh tế toàn cầu và từng quốc gia…, thánh giá mà nhân loại phải chung vai là chính những âu lo, những sợ hãi chưa biết đến khi nào chấm dứt.
Cách riêng với Kitô hữu, thánh giá không chỉ là đau khổ như bao đau khổ trong đời. Thánh giá không chỉ bởi kiếp nhân sinh đầy bon chen, đầy nhọc nhằn mà mỗi kíp người phải gánh lấy.
Thánh giá còn là mọi hình thức bách hại, cấm cách, chà đạp niềm tin mà bao nhiêu kẻ có quyền, bao nhiêu hệ thống chánh trị gây ra…
Người ta khiếp sợ danh “Kitô hữu”, vì đó là Danh của Chúa chúng ta.
Người ta khiếp sợ vì Danh mà khi nghe đến, “cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Phili 2, 10). Càng khiếp sợ, họ càng ra sức bóp nghẹt sự tự do diễn tả đức tin của chúng ta…
Trước những “thánh giá” chất chồng như thế, ai mà không khao khát cảm nếm sự hiển dung của Chúa. Bởi sự hiển dung củng cố đức tin của các tông đồ, thì cũng là sức mạnh cho lòng tin chúng ta.
Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ còn chứng kiến cuộc hiển dung trên núi như các tông đồ. Hiển dung hôm nay trước mắt mỗi người còn quang trọng hơn, đó là hình ảnh CÂY THÁNH GIÁ CỦA CHÚA GIÊSU.
Chính Chúa Giêsu từng nói đến “HIỂN DUNG THÁNH GIÁ”: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8, 28). Hoặc: “Ông Abraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của Tôi” (Ga 8, 56). Hoặc: “Trước khi có Abraham, thì Tôi, Tôi Hằng Hữu!” (Ga 8, 58).
Cây Thánh Giá: lời khẳng định chung quyết về một Tình Yêu có một không hai trên cõi đời: THIÊN CHÚA HIẾN THÂN CHO CON NGƯỜI.
Bởi nơi Thánh Giá, không chỉ là Tình Yêu của Chúa Giêsu, nhưng là chính Tình Yêu của Thiên Chúa rực sáng.
Với tôi, biểu lộ Tình Yêu trên Thánh Giá của Chúa là cuộc hiển dung huy hoàng mà Chúa bày tỏ để củng cố sức mạnh lòng tin, khi tôi phải chấp nhận thánh giá của bản thân trong từng ngày sống. Thánh giá của đời tôi sẽ được đền bù, được đáp trả bằng chính Tình Yêu của Đấng đã chết vì tôi.
Nhờ Tình Yêu của chính Thiên Chúa, nơi Thánh Giá, tất cả Vinh Quang của Chúa Giêsu được bày tỏ một cách cụ thể nhất, trọn vẹn nhất, hơn cả vẻ đẹp trên núi Hiển Dung xưa.
Hãy nhìn lên Thánh Giá chiêm ngưỡng Vẻ Đẹp của Chúa Giêsu, để biết Người là Thiên Chúa quyền năng, chiến thắng tội lỗi, đánh bại tử thần.
Hãy nhìn Thánh Giá để thấy niềm tin của từng người được củng cố và thêm vững mạnh.
Hãy nhìn Thánh Giá để nhận ra tình thương của Thiên Chúa, tập hiển dung với Chúa Giêsu bằng cách sẵn lòng đón nhận đau khổ trong đời.
Vì Thánh Giá là cuộc HIỂN DUNG MỚI, nên chấp nhận và tháp nhập thánh giá đời mình vào Thánh Giá Chúa, tôi sẽ hiển dung với Người.
Hiển dung trong chính cuộc đời hôm nay: đó là đau khổ của tôi được thăng hoa để trở thành phương thế cứu độ tôi. Và hiển dung mai ngày: đó là tiến về cuộc Hiển Dung đời đời cùng với Đấng đã hiến mình vì tôi.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Những ngày này chúng ta hồi hộp với đại dịch virus corona. Số người tử vong và mắc bệnh tăng lên từng giờ và lan ra nhiều nước. Đây là một thảm họa và chắc chắn một bầu không khí u ám đang phủ đầy những nước bị dịch bệnh. Nhưng chính trong thảm họa này mà khuôn mặt Chúa Giê-su lại được giới thiệu nhiều hơn nơi mảnh đất Trung Hoa qua lời kể của một tín hữu đã viết trên một trang blog như sau:
“Kể từ khi Vũ Hán bị cách ly, khẩu trang là thứ quý giá nhất ở đây. Tiền bạc là vô dụng bởi bạn thậm chí không thể mua được cái khẩu trang. Mọi người đang trong tình trạng tuyệt vọng, nhưng anh chị em chúng tôi vừa đi vừa hát, vừa tranh thủ chia sẻ Phúc Âm và phát khẩu trang miễn phí”. Đây là điều mà trước đây Giáo hội hầm trú đã không thể công khai niềm tin của mình, vậy mà bây giờ họ lại có thể đi khắp các thành phố để rao giảng phúc âm.
Nếu có một niềm vui lấp lánh trong lúc này, thì đó chính là Chúa Giê-su đang được biết đến ngày càng nhiều hơn ở Vũ Hán và Trung Quốc qua dịch bệnh này. Bất chấp nguy cơ bị bắt bớ và lây nhiễm, các tín hữu Chúa đang làm việc không mệt mỏi, giúp Phúc Âm tỏa sáng trong tình hình vô vọng nhất. Cái chết đã không thể ngăn chặn Phúc Âm được rao giảng. Ánh sáng đã được soi ra giữa nơi tối tăm”.
Vâng, giữa những nghịch cảnh của cuộc sống lại càng đòi hỏi người ky-tô hữu chúng ta làm chứng tá cho tình thương của Chúa giữa thế gian. Thiên Chúa là tình yêu và tình yêu thì vượt trên mọi sợ hãi, mọi toan tính để dấn thân phục vụ Tin mừng. Người ky-tô hữu trong lúc này cần phải vượt lên trên mọi toan tính ích kỷ để giới thiệu cho thế giới khuôn mặt đầy từ bi và yêu thương của Thiên Chúa qua đời sống phục vụ và yêu thương của người tín hữu.
Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn sống tình liên đới và chia sẻ với tha nhân trong mọi vui buồn. Thiên Chúa là tình yêu nên người ky-tô hữu cũng phải tỏ bày tình yêu ấy ngay chính môi trường sống của mình.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nghiêm chỉnh tự đặt cho mình câu hỏi: Tôi có thực sự biến đổi cuộc đời mình nên giống Chúa chưa? Tôi có thực sự xứng đáng làm môn đệ của Chúa chưa? Nếu trong con người tôi còn những tham sân si thì tôi chưa thực sự xứng đáng mang danh người con cái Chúa. Nếu tôi chưa sống yêu thương như Chúa dạy thì tôi đã để tính ích kỷ làm lu mờ hình ảnh Chúa nơi tôi.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giê-su đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó, những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Đức Giê-su. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Đức Giê-su vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Đức Giê-su.
Trình thuật bắt đầu bằng sự tách biệt với đời thường về thời gian, về không gian và về con người: “Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt 17,1).
Về thời gian là “sáu ngày sau”, đánh dấu sự phân cách với những gì đã xảy ra trước đó một tuần. Về nơi chốn: ba môn đệ được tách riêng ra một nơi và được đưa lên một ngọn núi cao. Về con người: chỉ có ba môn đệ được chọn: “Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an”.
Sau khi được tách biệt khỏi thời gian và không gian bình thường, những gì xảy ra trên núi thuộc về một thế giới khác. Đó là thế giới của Thiên Chúa, thế giới không còn khoảng cách thời gian và không gian, thế giới mà ngôn ngữ không thể diễn tả được. Trong khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của Thiên Chúa được tỏ bày qua thị giác (để thấy) và qua thính giác (để nghe).
Đức Giê-su được biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”. Nếu dung nhan Đức Giê-su chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ có thể nhìn mà không bị mù mắt. Nếu y phục của Đức Giê-su trở nên trắng tinh như ánh sáng thì làm sao các môn đệ có thể thấy được, vì không ai thấy được ánh sáng mà chỉ có thể thấy sự phản chiếu của ánh sáng nơi sự vật mà thôi.
Thực ra, đây là cách diễn tả những thực tại thần linh bằng thứ ngôn ngữ thị kiến của sách Khải Huyền. Ba môn đệ đang đối diện với thế giới của Thiên Chúa, đối diện với những thực tại thuộc về Thiên Chúa, đối diện với vinh quang của Thiên Chúa, nên ngôn ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ loài người không mô tả được, chỉ vì điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc sống thường ngày của con người. Bằng ngôn ngữ, sách Khải Huyền chỉ có thể mô tả những thị kiến về thế giới thần linh bằng các từ: “như”, “giống như”, “tựa như”… còn điều trông thấy thì không thể mô tả được. Chẳng hạn Gio-an mô tả thị kiến ở Kh 4,2-3: “Lập tức tôi xuất thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc”. Kh 4,6 viết: “Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê”. “Trông giống như…”, “như…”, còn thực sự thế nào thì không mô tả được.
Có thể nói, trên núi cao, giữa trời và đất, ba môn đệ được thấy “thị kiến” về Đức Giê-su trong thế giới của Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so sánh “như”: “Chói lọi như mặt trời”, “trắng tinh như ánh sáng”, nghĩa là dung nhan của Đức Giê-su không phải là mặt trời, và y phục của Người cũng chẳng phải là ánh sáng, chỉ là “như”, “giống như” mà thôi.
Trong thế giới thần linh ấy, các nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo với nhau. Theo Kinh Thánh, Mô-sê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII TCN, Ê-li-a là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp, thế kỷ VIII TCN và Đức Giê-su thế kỷ I SCN. Nội dung đàm đạo không được kể ra, nhưng điều chắc chắn là có trao đổi giữa các nhân vật. Trong thế giới trên cao, điều nhấn mạnh là tương quan giữa người sống và người đã khuất, là nối kết giữa các thế hệ với nhau, như thể khoảng cách thời gian không còn nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm đạo nhưng nội dung lại vượt ra ngoài sự nắm bắt của người phàm.
Mặc khải bằng thị kiến kết thúc với sự lên tiếng của con người, cụ thể là Phê-rô, và chuyển sang hình thức mặc khải thứ hai: “Tiếng nói từ đám mây”: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (17,5). Từ kinh nghiệm thị kiến, thấy bằng mắt, chuyển sang mặc khải bằng lời qua tiếng phát ra. Các môn đệ chỉ có thể lãnh hội được nội dung bằng cách “nghe”. Tiếng phát ra từ đám mây không phải là tiếng con người, tiếng này có nguồn gốc từ trời và bí ẩn. Lối hành văn phù hợp với bối cảnh của biến cố trình bày mặc khải của Thiên Chúa.
Đối diện với thế giới của Thiên Chúa và vinh quang của Người, các môn đệ đã “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (17,5). Chính Đức Giê-su đã đưa các ông trở lại đời thường bằng cách chạm vào các ông và nói: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”, các ông ngước mắt lên và mọi chuyện lại trở về thực tế. Nhưng biến cố ấy, những gì đã thấy, những lời đã nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông. (x. Suy niệm CN 2 Mùa Chay A, Giu-se Lê Minh Thông, O.P.)
Ba môn đệ thân tín được Đức Giê-su dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giê-su. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giê-su Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Ki-tô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phao-lô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Cô-rin-tô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giê-su Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giê-su.(x.Đức Giêsu thành Nazareth, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 273).
Đức Giê-su đưa các môn đệ lên đỉnh núi Tabor chiêm ngắm vẻ đẹp của thế giới thần linh, sau đó Ngài đưa các môn đệ xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Sọ. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giê-su phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. Hai đỉnh núi: núi Ta-bor và núi Sọ cách nhau không xa về địa lý nhưng lại là con đường vạn lý. Chỉ có con đường tình yêu mới nối liền hai núi mà thôi.Với Đức Giêsu, vinh quang núi Ta-bor chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho mầu nhiệm núi Sọ nơi vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phê-rô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (x. 2 Pr 1,16-20).
Thánh Phê-rô cùng các Tông đồ còn phải vượt qua những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách, còn phải chịu đau khổ vì Thầy chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước. Các ngài chỉ đi một con đường Thầy mình đã đi qua. Đó là con đường tình yêu.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự Thánh lễ, kinh nguyện, những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi Tĩnh Tâm. Cần phải dành những giây phút lên núi với Chúa : Núi của thánh lễ, núi của cầu nguyện, núi của sám hối, núi của những dịp tĩnh tâm. Đó là những giây phút lên núi để gặp gỡ Chúa, để lắng nghe, để chiêm niệm, để biến đổi bản thân mình.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những thách đố của đời sống. Núi Thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên Đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Chúng ta có sẵn sàng nhận lời mời của Chúa Giê-su để cùng với Người “lên núi” không? Mỗi lần Cầu Nguyện, Tĩnh Tâm, Linh Thao, Dâng Lễ, lắng nghe Lời Chúa, đón nhận các Bí Tích, là chúng ta được “lên núi” với Chúa. Nhiều lần “lên núi” như thế là để thực tập cho quen với một lần “lên Núi Thánh” là đỉnh cao cuối cùng trong Nước Trời.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Trang Tin Mừng (Mt 17,1-9) Chúa Nhật II Mùa Chay năm A, đưa chúng ta lên núi cùng với các Tông Ðồ Phêrô, Giacôbê và Gioan chiêm ngắm Chúa Giêsu biến hình, một biến cố ngoại thường trước khi tiến sâu vào Mùa Chay Thánh, cao điểm là Tuần Thương Khó, cử hành Cuộc Khổ Nạn, cái chết và sự phục sinh vinh quang của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Phêrô, Giacôbê và Gioan thật diễm phúc, vì đã được Chúa Giêsu cho nếm trước vinh quang Phục sinh: điều thuộc về thiên giới nhưng xảy ra trên trần gian. Ba ông thấy Thầy dung mạo biến đổi khác thường, khuôn mặt Người sáng chói như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết (Mt 17,). Các ông đã quá quen với hình ảnh của Thầy trong dáng vẻ thường ngày của con một người trần thế, nay đứng trước sự huy hoàng chói lọi, bao trùm toàn bộ con người của Thầy, lại có thêm Môi-sen và Êlia xuất hiện bên cạnh đàm đạo với Thầy khiến các ông kinh ngạc. Sửng sốt quá, Phêrô thốt lên: “Lạy Chúa, chúng tôi được ở đây thì tốt lắm, nếu Chúa ưng, chúng tôi xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môi-sen và một cho Êlia” (Mt 17,4). Lúc ông còn đang nói thì một đám mây sáng bao phủ các ngài.
Một đám mây bao phủ các tông đồ gợi cho chúng ta nhớ lại đám mây bao phủ dân Israen trong thời kỳ Xuất hành (x. Xh 40,35), hay khi Đức Maria đón nhận tin truyền từ Sứ Thần cho Trinh Nữ: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). Lúc Chúa Giêsu biến hình, từ trong đám mây bao phủ ấy có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Tiếng Chúa Cha từ trong đám mây xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu, và Ngài mời gọi chúng ta “Hãy vâng nghe lời Người”
Quả thật, Chúa Giêsu là Ngôi Lời nhập thể của Chúa Cha (x. Ga 1,14). Người luôn nói Lời của Thiên Chúa cho loài người (x. Ga 3,34). Chúa Cha muốn các môn đệ và qua các ông Lời Chúa Giêsu cần phải được mọi người đón nhận và vâng nghe. Nghe lời Chúa Cha tuyên phán, các môn đệ kinh hồn bạt vía, ngã sấp xuống. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ” (Mt 17).
Đừng sợ, các ông sợ gì và tại sao lại sợ? Thưa, các ông sợ đau khổ, sợ thập giá, nhất là sợ cái chết bi thương như Thầy đã loan báo: “Người phải đi Giêrusalem và chịu nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, và bị giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21). Lời loan báo trên chẳng những làm cho Phêrô và hai ông kia, mà thậm trí cả nhóm môn đệ bị khủng hoảng. Phêrô đã phủ nhận và can ngăn Thầy. Ông phủ nhận là điều dễ hiểu, bởi các môn đệ trông đợi một Ðức Messia quyền năng, mạnh mẽ, thống trị, thế mà nay Chúa Giêsu lại tự giới thiệu mình như một người đầy tớ khiêm hạ, hiền lành của Thiên Chúa, đầy tớ của con người, sẽ phải hy sinh mạng sống, bước qua khổ đau và cái chết. Đương nhiên là câu hỏi lớn nảy sinh trong đầu: Làm sao có thể theo Một Bậc Thầy và một Ðức Messia mà cuộc sống trần thế của Người kết thúc như thế được? Các môn đệ nghĩ như vậy. Việc Chúa biến hình là câu trả lời cho các ông.
Biến cố này giúp các môn đệ đương đầu trước cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cả chúng ta ngày hôm nay nữa cũng hiểu rằng cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là một mầu nhiệm, một hồng ân tình thương vô biên của Thiên Chúa, nhất là hiểu rõ hơn sự phục sinh của Người. Để hiểu các biến cố ấy, cần biết trước rằng Ðấng đang chịu đau khổ và được vinh quang không phải chỉ là một con người, nhưng là Con Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng ta qua tình yêu trung thành cho đến chết. Qua đó Chúa Cha lập lại lời tuyên bố về Chúa Con, đã xảy ra bên bờ sông Giordan sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa và Chúa Cha nhắn nhủ chúng ta : “Các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17,).
Bước tiếp vào Mùa Chay Thánh, biến cố Chúa biến hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt tâm hồn chiêm ngắm Mầu Nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa trong lịch sử cứu rỗi.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, giúp chúng ta biến đổi: từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của Thập Giá và xin ban ơn để chúng con biết sống Mầu Nhiệm Thập Giá Chúa trong cuộc đời chúng con, hầu mai ngày được sống lại với Chúa trong vinh quang với. Amen.
TRỞ NÊN BẠN THÂN VÀ NÊN CON THIÊN CHÚA
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày nay người sử dụng Facebook, Zalo đã quen với việc kết bạn, qua đó giúp cho mỗi người dễ dàng chia sẻ và đăng lên các tâm trạng của mình. Tuy nhiên, các bạn trên Facebook hay Zalo tuy nhiều, nhưng hầu hết là các bạn ảo, có những người mình không hề biết mặt và chắc chắn sẽ không bao giờ có bạn thân trên Facebook. Trong cuộc sống chúng ta rất cần có những người bạn thân để dễ dàng chia sẻ tâm sự, trao đổi những lúc vui buồn và kể cả được hướng dẫn khi chúng ta gặp bế tắc.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở nên bạn thân với Chúa và còn hơn thế nữa, trở nên những người con yêu quý của Thiên Chúa. Các bài đọc chúng ta vừa nghe giới thiệu hình ảnh của một người bạn và một người con của Thiên Chúa.
Abraham đã trở thành bạn thân với Thiên Chúa khi ông hoàn toàn tin nơi Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa trong tình thân và sẵn sàng tuân theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Ông là một người giàu có, sống yên ổn cùng với dòng tộc tại thành Ur. Thiên Chúa đã ngỏ lời với ông: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi mà đi tới đất ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lừng lẫy, sẽ chúc phúc cho ngươi…nhờ ngươi mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.” Thánh Kinh ghi lại tâm trạng của ông: “Ông ra đi mà không biết mình đi đâu.” Điều đó có nghĩa là ông trao hoàn toàn tương lai, cuộc đời phía trước cho Chúa và để cho Chúa dẫn đi. Ông đã tin tưởng hoàn toàn không một chút hồ nghi do dự, đã lên đường không một chút tiếc nuối. Ông tin vào lời Thiên Chúa hứa sẽ cho ông trở thành cha của một dân tộc đông đúc, cho dù thực tế hai ông bà đã cao niên mà vẫn chưa có con. Ông đã tin Chúa sẽ cho ông một vùng đất làm gia nghiệp cho dù lúc này ông vẫn lang thang chưa biết đâu là điểm dừng. Chính vì có một lòng tin vững chắc đặt vào nơi Chúa, Thiên Chúa đã chúc phúc cho ông, cho dòng dõi con cháu ông sau này, và nhờ ông mọi dân tộc được chúc phúc. Abraham sống thân tình với Chúa khi vui cũng như lúc gặp khó khăn, ông tâm sự với Chúa và ngược lại Thiên Chúa cũng sẵn sàng tâm sự với ông khi Ngài muốn thực hiện kế hoạch của Ngài.
Hình ảnh thứ hai của Chúa Nhật hôm nay giới thiệu cho chúng ta là hình ảnh của một người con được Thiên Chúa yêu mến, đó là Đức Giêsu. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay thường được gọi là câu chuyện Chúa Giêsu bày tỏ dung nhan của Người cho các môn đệ, nhưng đúng hơn hôm nay, Thiên Chúa Cha đã làm cho gương mặt của Chúa Giêsu trở nên rạng rỡ và giới thiệu cho mọi người biết Chúa Giêsu là gương mẫu sống thảo hiếu. Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên một ngọn núi cao, để cùng với Người, cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa. Theo thánh Marcô: “đang lúc Chúa Giêsu cầu nguyện, Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Có ông Môsê và Elia hiện ra đàm đạo với Người.” Như vậy Tin Mừng muốn nói rằng chính lúc cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa, chúng ta sẽ được biến đổi, dung nhan sẽ trở nên sáng ngời.
“Có ông Môsê và ông Elia hiện ra đàm đạo với Người”. Môsê là một vị thủ lãnh đã dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập và trở thành người tổ chức, ghi chép lại lề luật của Chúa cho dân. Elia là đại diện cho các ngôn sứ, là một vị ngôn sứ lớn đã làm nhiều phép lạ. Ông đã từng đóng cửa trời khiến cho mưa không rơi xuống đất và cũng nhờ lời cầu nguyện của ông, Chúa cho mưa trở lại. Hai vị này hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu, điều đó cho thấy, Chúa Giêsu chính là điểm hội tụ của tất cả lề luật và các lời ngôn sứ trong Cựu Ước và là Đấng làm cho các lời tiên báo trong Cựu Ước trở nên hoàn tất.
Lúc đó ông Phêrô và các môn đệ được chiêm ngưỡng một chút vinh quang của Chúa Giêsu, các ông ngây ngất trong hạnh phúc và thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia. Lúc ông còn đang nói thì có một đám mây sáng ngời bao phủ các ông và có tiếng từ đám mây phán rằng: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy nghe lời Người.” Đây là lần thứ hai Thiên Chúa Cha công khai giới thiệu Chúa Giêsu cho nhân loại. Lần này, Thiên Chúa còn nói cho mọi người biết Ngài rất hài lòng về Chúa Giêsu. Thiên Chúa Cha hài lòng về Chúa Giêsu bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn tình con thảo với Chúa Cha, trọn tình yêu mến và vâng phục hoàn toàn.
Vì yêu mến và vâng phục, Chúa Giêsu đã chấp nhận từ bỏ địa vị vinh quang của một vị Thiên Chúa để đến thế gian, mang lấy thân phận con người và thực hiện kế hoạch cứu độ toàn nhân loại. Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha một cách trọn vẹn, cả cuộc sống của Ngài là tìm kiếm ý Chúa Cha và sẵn sàng vâng theo trong mọi sự. Ngài vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá. Sự vâng lời tuyệt đối như thế không phải là điều dễ dàng, đòi phải chấp nhận từ bỏ con người và những ý muốn cá nhân của mình, để hoàn toàn vâng phục theo ý Chúa Cha. Khi giới thiệu Chúa Giêsu là người con được yêu mến, Thiên Chúa Cha cũng muốn các môn đệ trở nên giống như Chúa Giêsu để cũng được trở nên những nghĩa tử được Chúa Cha yêu mến. Vì thế mà Chúa Cha đã căn dặn các môn đệ: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.”
Chúa Cha muốn các môn đệ nghe lời Chúa Giêsu, là nghe điều gì? Thánh Mattheu kể tiếp: Liền sau đó Chúa Giêsu nâng các học trò chỗi dậy và động viên các ông: “Trỗi dậy đi, đừng sợ!… Đang khi từ trên núi đi xuống, Đức Giêsu căn dặn các ông rằng: Đừng nói cho ai biết về những gì đã thấy, cho đến khi con Người từ cõi chết sống lại.” Đây chính là điều các tông đồ thấy hoảng sợ không dám nghe và không dám tin. Đó là Chúa Giêsu nói về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Các tông đồ không muốn nghe đến cái chết, bởi vì, đi theo Chúa Giêsu các ông đang nuôi biết bao ước mộng cho tương lai. Vì thế, việc Chúa Giêsu nói đến cái chết là điều xui xẻo các ông ông không muốn nghe. Các ông cũng không dám tin việc: “Con Người từ cõi chết trỗi dậy.” Vì việc này chưa từng xảy ra bao giờ. Mặc dù đã nhiều lần chứng kiến việc Thầy của các ông làm cho người chết sống lại, nhưng lúc này để tin vào lời tiên báo Ngài sẽ trỗi dây từi cõi chết, quả là điều khó tin. Vì thấu hiểu được nỗi khó khăn này của các môn đệ, Chúa Giêsu cho các ông được thấy trước một chút vinh quang của Ngài qua việc biến hình, để khi cuộc tử nạn và phục sinh xảy ra sau này, các ông dễ dàng chấp nhận hơn.
Thưa quý OBACE, mùa chay chính là mùa Chúa và Giáo Hội muốn chúng ta làm mới lại tương quan của mình với Thiên Chúa, dám chấp nhận một cuộc lột xác, thay đổi cuộc sống để có thể trở nên những bạn thân và trở nên con thảo của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ trở nên bạn thân với Chúa bằng cách thường xuyên đến gặp gỡ Chúa qua việc dâng lễ và qua những giờ phút cầu nguyện, gặp gỡ riêng tư với Chúa. Bạn thân trong cuộc sống là người bạn chúng ta dễ dàng chia sẻ, tâm sự và xin ý kiến tư vấn. Cũng vậy, trở nên bạn thân với Chúa, chúng ta đừng ngại gặp gỡ Chúa, trải lòng và tâm sự với Chúa về hoàn cảnh, những khó khăn và vui buồn của mình. Thiên Chúa là người bạn rất kiên nhẫn để lắng nghe, Ngài sẽ cho chúng ta những chỉ dẫn sáng suốt nhất, những phương án tốt nhất, để ta giải gỡ những khó khăn trong cuộc sống.
Cũng vậy, chúng ta được mời gọi trở nên những người con, không phải là những người con bình thường, mà là những người con thảo hiếu. Người con thảo hiếu là người biết mình được Thiên Chúa yêu cách đặc biệt, vì thế muốn làm tất cả mọi sự để vui lòng Thiên Chúa. Trở nên người con được yêu mến, có nghĩa là trở nên như trẻ thơ trong vòng tay cha mẹ, sống trong sự tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thương, quan phòng và hằng bảo vệ ta, Ngài không bao giờ đành lòng khi thấy chúng ta đau khổ. Vì thế đừng ngại chạy đến sà vào lòng Thiên Chúa, giãi bày và tâm sự, để cho Chúa an ủi, nâng đỡ, vỗ về và ban sức mạnh trợ giúp cho ta. Trở nên con thảo là trở nên giống Chúa Giêsu, luôn chọn thánh ý Thiên Chúa và luôn vâng lời Chúa trong mọi sự, dù có phải bước vào con đường chông gai thập giá, vẫn tin rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Cuối đường hầm luôn là ánh sáng, sau hy sinh, đau khổ là con đường đến vinh quang, sau cái chết là cuộc phục sinh huy hoàng. Xin Chúa cho chúng ta can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá để cùng với Người chúng ta được chia sẻ vào vinh quang phục sinh với Người. Amen.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
CÂU HỎI GỢI Ý
CHÚ GIẢI
Nhưng Chúa Cha có thể hé mở câu trả lời và, trước khi biến cố Vượt qua xảy đến, Ngài đã cho ba môn đồ ưu ái được chiêm ngưỡng, trong một khoảnh khắc thoáng qua, chính vinh quang của Con Ngài. Kinh nghiệm đó đã không được loan báo cách bí nhiệm trong câu chuyển mạch giữa giáo huấn về việc phải đồng chịu khổ nạn với Chúa Giêsu và giai thoại Biến hình đó sao? “Quả thật, Ta bảo các ngươi: trong những kẻ có mặt đây, có người sẽ không nếm biết cái chết trước khi thấy Con Người đến trong nước của Người. Và sáu ngày sau …” (Mt 16, 28- 17, 1a). Đó là lời Chúa Giêsu hứa cho nếm trước phần thưởng được dành vào ngày sau hết, tiền nếm bằng việc chiêm bái trước vinh quang của Con Người. Và các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều thấy trong câu nói bí nhiệm ấy lời tiên báo trực tiếp về cuộc Biến hình; đa số các giáo phụ cũng nghĩ như vậy. Cho dù xét về nguồn góc, câu văn có thể nhắm đến cuộc Quang lâm nó cũng liên hệ với giai thoại này bằng một vài điểm móc nối có tính cách văn chương. Đặc biệt, chữ “một số người” có thể ám chỉ ba môn đồ được biệt đãi; việc Quang lâm của Con Người mà thiên hạ sẽ thấy đến trong Vương quốc, cũng đã được thực hiện cách tượng trưng trong “thị kiến” (17,9) trên núi; câu chuyển mạch thời gian “sáu ngày sau”, rất hiếm trong trình thuật về cuộc đời công khai, xem ra được chủ ý thêm vào để làm nổi bật mối liên hệ giữa lời loan báo và việc thực hiện.
Xét theo mạch văn, thì cuộc Biến hình có mục đích cho các môn đồ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người Giêsu đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đồ đầy sợ hãi rằng họ có thể và phải nghe cùng vâng lời, tín thác cùng đi theo Chúa Giêsu trên đường đẫn tới Giêrusalem, tiến đến vinh quang bằng thập giá.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Thành ngữ “Con yêu dấu” có nghĩa là “Con duy nhất”. Đối với các nhà biên soạn Tin Mừng, thành ngữ đó không những chỉ Đấng Messia, Đấng được tuyển chọn, mà còn chỉ Chúa Con tiền hữu; dầu không có nội dung chính xác theo như định nghĩa của các công đồng, tước hiệu Con Thiên Chúa, phát xuất từ Tv 2,7, vẫn có một ý nghĩa mới như việc cộng đoàn sứ đồ giải thích lại Tv này. Dù các môn đồ, trong cuộc Biến hình, hiểu lời đó thế nào chăng nữa, thì đối với các tác giả Tin Mừng, hình như chắc chắn Lời này công bố sự tiền hữu của Chúa Giêsu. Chính Thiên Chúa đáp lại lời Chúa Giêsu vừa loan báo về cuộc khổ nạn của mình. Trong phép rửa, khi Chúa Giêsu đến với Gioan Tẩy giả dưới dáng vẻ một tội nhân như một người Israel đương thời, thì Thiên Chúa đã công bố rằng Người đích thực là Con yêu dấu. Trong cuộc Biến hình, Thiên Chúa đã xác quyết với các môn đồ vừa nghe Chúa Giêsu tự gán cho mình số phận người Tôi tớ đau khổ, rằng Người quả thực là con riêng của Ngài.
Chúa Giêsu là Tôi tớ Thiên Chúa; Thiên Chúa hài lòng về người Con yêu dấu đó. Qua tiểu chú thứ hai này, Mt gợi lại cuộc thần hiển xảy ra lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, và cho thấy Thiên Chúa muốn giới thiệu Chúa Giêsu như là người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo: “Này đây Tôi tớ của Ta mà Ta nâng đỡ; Tuyển nhân của Ta mà Ta sủng mộ” (Is 42,1 ). Khi gọi Chúa Giêsu như là “người được tuyển chọn”, người được sủng ái tiếng nói từ trời đã áp triện thần linh trên thái độ của Đấng Messia “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” này (11, 29), là Đấng không nỡ bẻ cây sậy bị dập” (Is 42,2 – được Mt áp dụng cho Chúa Giêsu trong 12, 18- 21), là Đấng người ta có thể đến học đòi bắt chước mà chẳng chút sợ hãi lo âu.
Chúa Giêsu là Ngôn sứ: Mệnh lệnh “Hãy nghe Người” đã làm nổi bật giai thoại so với trình thuật Phép rửa. Nó áp dụng vào Chúa Giêsu lời loan báo có tính cách sấm ngôn của Đnl được trích dẫn trong Cv 3, 22: “Từ giữa các anh em ngươi Chúa của ngươi sẽ cho chỗi dậy một ngôn sứ như ta; các ngươi sẽ nghe Người trong tất cả mọi điều Người phán” (Đnl 18,15). Trong diễn từ cho dân chúng tại Giêrusalem, Phêrô cho thấy khi phục sinh Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã bày tỏ Chúa Giêsu như một Môisen mới, như Vị Ngôn sứ thiên hạ đợi trông trong thời cánh chung (x.Cv 7, 37 ; Ga 6, 14 ; 7, 40). Sự đảm bảo thần linh này, Thiên Chúa đã ban cho Chúa Giêsu lúc Người biến hình để tỏ cho các môn đồ thấy rằng hôm nay quả thực Người là Vị ngôn sứ tuyệt hảo và phải nghe Người, “nếu không sẽ bị loại ra khỏi lòng dân tộc? (x.Cv 3,23; Lv 23,29), rằng ơn cứu độ cũng như sự sống vĩnh cửu đều tùy thuộc về Người, sự sống vĩnh cửu mà Người vừa hứa ban cho ai vác thập giá đi theo.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Chúa Giêsu đem theo mình Phêrô, Giacôbê và Gioan”: Khi lên núi Sinai, Môisen cũng đi với nhiều bạn hữu trong số đó có ba người được ghi đích danh ở một trong các bài trình thuật (Xh 24,9). Phêrô, Giacôbê và Gioan sẽ ở với Chúa Giêsu trong vườn Ghetsêmani (26.37); họ cũng sẽ bỡ ngỡ vì biến cố như ở đây. Đoạn cuối trình thuật (17, 9) và 2Pr 1, 16 giải thích cho biết sự hiện diện của các sứ đồ đó là cần vì sau Phục sinh, cần phải rao giảng, làm chướng cho Vinh quang của Chúa Giêsu trước mặt dân chúng. Thế mà “có miệng hai hay ba nhân chứng thì việc mới vững” (Đnl 19,15).
“Trên một núi cao”: Thành ngữ này không gặp ở chỗ nào khác trong Mt ngoài trình thuật Cám dỗ (4,8.). Nó nói lên tương quan Giữa cuộc biến hình và Cám dỗ. Quả thực, Chúa Giêsu vừa mới đẩy lui cuộc cám dỗ quỷ quái của Phêrô (16, 23). Để đáp lại lòng tùng phục của Người, Chúa Cha đã biến đổi Người cách vinh quang và như vậy tiên hứa cho Người quyền năng trên toàn thế giới (“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta” 28, 18)”, quyền năng này Người đà từ chối nhận lãnh cách quá sớm từ tay Satan (4.8) và chỉ sẽ nhận lãnh sau ngày Phục sinh.
“Và người đã biến hình trước mặt họ”: Biến hình (hy ngữ: metamorphôthê: nghĩa tự nguyên: “thay đổi” hình dạng, vẻ mặt, có nghĩa là có một dung mạo khác với dung mạo thường ngày; cũng thế, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đồ Emmau dưới một hình dạng khác”, hình dạng người lữ hành (Mc 16, 12). Việc Chúa Giêsu biến hình đã đáp ứng niềm hy vọng thấy trong văn chương Khải huyền Do thái. Vào thời sau hết, khuôn mặt của các người công chính sẽ biến đổi và trở nên sáng láng, rạng rỡ kiều diễm như mặt các thiên sứ, tràn ngập vinh quang (Khải huyền của Baruch 51, 3-10). Dựa trên một sự kiện của quá khứ – da mặt Môisen chiếu rọi vinh quang vì đã được trò chuyện với Giavê (Xh 24,39), niềm trông đợi cánh chung đó diễn tả sự vinh hiển tương lai của những kẻ được chọn như sau: các hiền nhân sẽ sáng chói như ánh quang vòm trời, và những kẻ đã giảng dạy sự công chính cho nhiều ngươi sẽ rạng rỡ như tinh sao muôn đời muôn kiếp” (Đn 12, 3). Hôm nay, trên núi này, qua con người Chúa Giêsu, dưới mắt các môn đồ được biệt đãi, niềm hy vọng đã trở thành thực tại. Nếu lời thiên quốc giới thiệt Con Thiên Chúa tiền hữu, thì sự kiện biến hình mặc khải con người Chúa Giêsu trong ánh vinh quang sau cùng và dứt khoát của Người.
“Mặt Người sáng láng như mặt trời, áo Người trắng phau như ánh sáng “: ánh sáng rực rỡ này biểu trong các thực tại thiên quốc (Đn 7,9; Mt 28,3; Cv 9,3) và cánh chung (Kh 1, 13- 14 ; 4, 4 ; 14, 4 ; 19, 11, 20, 11). Vinh quang mà Chúa Giêsu loan báo cho thời sau hết, khi con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người với các thiên sứ ” (16, 27), vinh quang mà Giacôbê và Gioan mơ ước (20, 20-23), giờ đây xuất hiện trước mắt ba nhân chứng. Nó không phải là một phản ảnh đơn thuần của vinh quang Giavê (Môisen), nhưng là một ánh sáng chói lọi mặc khải hữu thể sâu xa của Chúa Giêsu: Người là chính Thiên Chúa. Sau này các sứ đồ sẽ minh xác điều đó: “Chúa Giêsu là sự tỏa chiếu vinh quang Thiên Chúa, là ấn tượng của bản tính Ngài” (Dt 1, 3); trên mặt Người là vinh quang Thiên Chúa (2 Cr 4, 6); Người là Chúa vinh quang” (1 Cr 2, 8). Ánh vinh quang thiên quốc này đã sáng rực lên trong đêm Sinh nhật, bao trùm các mục đồng (Lc 2, 9-10), hôm nay vinh quang đó phủ lấy con người này, và mặc khải trước thời gian trạng thái tương lai người đó sẽ đạt đến, khi được đưa vào vinh quang” (1Tm 3, 16), khi được Thiên Chúa phục sinh và ban cho vinh quang (1Pr 1, 21), khi Thiên Chúa tôn vinh Tôi tớ của Ngài (Cv 3, 13). Têphanô sẽ thấy Người trong vinh quang của Người như thế (Cv 7, 55) và Saolê, trên đường đi Đamas, sẽ bị đui mù vì ánh sáng của Người (Cv 9,3). Vinh quang này của Chúa Kitô sau cùng sẽ bừng sáng trên chính tín hữu (2Cr 3, 18). Và trong khi chờ đợi ngày được tôn vinh, người Kitô hữu, vốn đang sống trong đêm tối mà không thuộc về đêm tối (1Tx 5,5-6), đã thấy trong cuộc Biến hình một nguồn sáng rực rỡ.
“Và này có Môisen và Elia hiện ra cho họ”: Không có giả thuyết nào về ý nghĩa hai nhân vật thiên quốc này làm ta xác tín thỏa mãn. Người ta thường xem Môisen như là biểu tượng của Lề luật, cùng Elia như là người đại diện các ngôn sứ; nhưng thông phán từ trời (Hãy nghe người) cho thấy tiền ảnh của Vị Ngôn sứ tương lai là Môisen chứ không phải Elia: Vả lại dưới mắt Israel, Môisen chẳng những là nhà lập luật, mà còn là vị ngôn sứ nữa (Hs 12, 14) là vị ngôn sứ mà sau này trong Israel sẽ chẳng có vị nào tương đương” (Đnl 34, 10). Thỉnh thoảng người ta cũng xem Môisen và Elia như là tiền ảnh của hai nhân chứng sách Khải huyền giới thiệu mà không nêu danh: Elia là kẻ có quyền đóng cửa trời và Môisen là người có quyền gõ vào mặt đất (Kh 11, 3. 6) ; một vài bản văn của các giáo sĩ Do thái: còn xem Elia như là hình ảnh của Đấng Messia đau khổ: trong cuộc chuyện trò ngay sau giai thoại biến hình, Elia được xem là hình ảnh của Gioan mà người ta đã ngược đãi (Mt 17, 12-13). Quả vậy, xét theo truyền thống (Mt 3, 23-24) mà Chúa Giêsu ám chỉ cho các môn đồ trong một 17, 10- 11 , có thể Elia là tiền hô của Đấng Messia, và điều này đã được thực hiện trong con người Gio-an Tẩy giả. Vậy sở dĩ Elia có mặt trên núi, đó là với tư cách tiền hô của Đấng Messia; có lẽ vì thế mà Mc đã ghi tên ông trước Môisen, dù sau đó ông ta ghi lại theo thứ tự ưu tiên của truyền thống (Mc 9, 5). Có một bản văn của các giáo sĩ Do thái ghi chép thế này: “Johannan ben Zacchai đã nói. Thiên Chúa phán cùng Môisen: khi Ta sẽ sai ngôn sứ Elia, cả hai ông phải cùng nhau đến ” (Dt rabba 3). Có lẽ toàn thể biểu tượng cựu truyền về hai nhân vật này đã liêm nhiễm quan niệm về Đấng Messia của các tác giả Tin Mừng: ngôn sứ Môisen đến chào Vị ngôn sứ đích thực; cùng đi với ông, còn có Elia, vị tiền hô của Messia. Dù sao, hai nhân vật này của Cựu ước, ngày xưa đã từng trèo lên núi Sinai, tiên báo qua việc họ lên núi Sinai mới này rằng: với Chúa Giêsu, thời gian đã hoàn tất.
“Tôi sẽ dựng ba lều”: Đối với truyền thống Do thái, nơi ở thiên quốc được biểu trưng bằng các nhà tạm đời đời” (Lc 16,9). Quả vậy, người ta biết rằng trong thời sau hết, Thiên Chúa sẽ ở giữa dân Ngài (Ed 37, 27 ; Hs 12, 10) trong lều của Vinh quang Ngài, rằng dân chúng sẽ cắm lều quanh Đấng Messia của họ (ít nhất theo Hênoc 71, 16 ; Ga 1, 14: Người đã dựng lều Người giữa chúng tôi, và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người”) và các dấu lạ của thời Xuất hành sẽ tái diễn. Phêrô tưởng thời sau hết đã tới và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên trái đất, để cuộc hiện ra trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi. Khi đề nghị làm ba lều, ông muốn khai mào sự “nghỉ ngơi” cánh chung vậy.
“Thì này một đám mây sáng ngời rợp bóng trên họ”: Đó là câu Thiên Chúa trả lời đề nghị của Phêrô. Lều có vai trò che chở, còn mây thì đến phủ bóng: lều được bàn tay loài người dệt nên, còn mây thì do trời; lều tìm ta trong bóng tối, còn mây lại chiếu sáng rạng ngời. Điểm tương phản mà văn mạch trực tiếp gợi lên ấy, đã được xác định và xác quyết qua hình ảnh đám mây của Kinh Thánh.
Trong truyền thống Thánh Kinh, mây dấu chỉ thần hiện đi theo các cuộc xuất hiện khác nhau của người thiên giới. Ở đây không phải là đám mây chỉ theo một nhân vật như Con Người của thời cánh chung (Đn 7, 13 ; Mt 24.30), song là đánh mây rợp bóng và bảo vệ đám mây một cách nào đó dựng lều cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa đã lấy mây để làm lều trại cho mình (Tv 18, 12). Tuy nhiên hình như biến cố này thực hiện một sấm ngôn trong truyền thống Do thái, liên hệ đến thời sau hết: Và bấy giờ Chúa sẽ tỏ bày các điều ấy ra, và vinh quang Chúa cũng như đám mây sẽ xuất hiện, như đã hiển hiện dưới thời Môisen và khi Salomon cầu xin cho đền thờ được huy hoàng tác thánh” (2Mcb 2,8). Cũng như ngày xưa Lều Hội họp (Trướng Tao phùng) đã được đám mây bao phủ và nhà tạm được tràn ngập vinh quang Giavê (Xh 40,34-35), như đền thờ của Salomon được Đám mây và Vinh quang bao phủ (1V 8,10-12), thì trong thời cánh chung cũng như vậy: Vinh quang đã rời bỏ Đền thờ (Ed 10, 3-4) sẽ trở lại cùng với Đám mây. Trên núi Biến hình, được chiếu sáng bởi vinh quang đang tỏ hiện nơi dung mạo Chúa Giêsu và nơi y phục Người, Mây đã ngự xuống làm dấu chỉ có Thiên Chúa hiện diện. Mây rợp bóng bao trùm các nhân vật cũng tương tự quyền năng của Đấng Tối cao” đã “phủ bóng” trên trinh nữ Maria trong ngày Truyền tin (Lc 1, 35): động từ episkiazô chỉ xuất hiện ở Tân ước trong hai trường hợp này để nói lên sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa.
Ý nghĩa biểu trưng của Mây còn có thể được xác định thêm. Nó không chỉ phủ bóng trên ba nhân vật, mà còn trên ba môn đồ nữa; chỉ Luca ghi nhận điểm ấy, nhưng văn mạch cũng nói lên điều đó trong Mt và Mc. Tiểu tiết này thật quan trọng: nó cho thấy rằng các môn đồ không chỉ làm khán giả, song còn nhập cuộc vào một biến cố dĩ nhiên là vượt tầm sức họ, nhưng cũng liên quan đến họ. Lời ngôn sứ vừa nhắc trên đây cho thấy Vinh quang và Mây xuất hiện trong hoàn cảnh nào: nơi cất dấu các đồ phụng tự “sẽ không được ai biết đến cho tôi khi” nào Thiên Chúa thâu họp dân lại và dủ lòng thương đoái ” (2Mcb 2, 7). Nếu nhớ lại văn mạch tổng quát của giai thoại biến hình chúng ta đang nghiên cứu, tức là việc thành lập cộng đoàn môn đồ để tiên báo và thể hiện Giáo Hội, ta sẽ dễ dàng chấp nhận rằng Thiên Chúa đã bắt đầu thâu họp dân Ngài. Khi nối kết hai nhóm – trời và đất – cho đến lúc đó hãy còn tách biệt, đám mây đã công nhận việc thâu họp các môn đồ quanh lời Chúa Giêsu, việc thâu họp mà Người đã bắt đầu thực hiện. Không phải Chúa Giêsu biến hình cho riêng Người, nhưng còn cho các môn đồ: họ sẽ nhờ đó khám phá ra nguồn gốc thần linh của lời giáo huấn mà họ phải vâng nghe; một khi đã được vào trong đám mây thiên quốc, họ sẽ biết rằng từ đây họ đang lập thành một cộng đoàn với Chúa Giêsu và cả với thiên quốc, bao lâu họ còn lắng nghe lời Người.
“Các môn đồ ngã sấp mặt xuống đất … Chúa Giêsu đụng đến họ”. Đối diện với Thiên Chúa đến viếng thăm, con người cảm thấy xâm nhập bởi một nỗi sợ hãi linh thánh. Không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà không chết (Xh 19, 21 ; 33, 20 ; Lc 16, 2 ; Ds 4, 20). Trong thị kiến đầu tiên, Isaia cảm thấy như muốn chết (Is 6, 5) vì đã tiếp xúc với Thiên Chúa. Ở đây, các môn đồ cũng cảm nghiệm cùng một nỗi sợ hãi như chết đó khi đứng trước vinh quang Chúa Giêsu. Vì thế Chúa Giê-su đã thực hiện một cuộc phục sinh tượng trưng. Người đụng đến họ, và cử chỉ chữa bệnh đã từng phục sinh con gái ông Giairô (9, 25) giờ đây cũng “phục sinh” các môn đồ.
“Các con không được nói cho ai hay thị kiến ấy cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết”: Chắc hẳn Chúa Giêsu ban mệnh lệnh này để tránh mọi xáo động có tính cách chính trị thiên sai trong dân chúng; sau Phục sinh, mối quản ngại này không còn nữa, vì giữa cuộc Biến hình và Phục sinh, thập giá đã dẹp bỏ một lần thay cho tất cả các ước mơ về quyền lực thiên sai rồi.
KẾT LUẬN
Tất cả các yếu tố của đoạn miêu tả này đều cho thấy rằng niềm trông đợi của Israel đã được thực hiện, một cách bất ngờ nhưng chắc chắn. Môisen và Elia đến chuẩn bị dân chúng và biến họ thành một cộng đoàn thánh thiện. Nhờ đám mây, cụộc tập họp vĩ đại được thực hiện (2 Mcb 2, 7); khuôn mặt sáng láng của Con Người mà Đaniel tiên báo (Đn 7 và 10) giờ đây đang đứng trước mặt các môn đồ; còn họ thì tượng trưng cho cộng đoàn cánh chung. Tất cả những gì Israel hy vọng nay đang thành thực tại. Điểm mới mẻ, chính là nhân vật biến hình. Người không đến từ trời, nhưng trời xuống trên trái đất. Người không nói, nhưng là tiếng nói từ trời vang lên. Sau cùng và đặc biệt, Đấng mà giờ đây ta phải vâng nghe, không còn chỉ là Giavê (“Hãy nghe hỡi Israel”: Đnl 6,4 – khởi đầu của kinh nguyện được gọi là Shema), nhưng là Chúa Giêsu đang đứng đó. Người là Đấng mặc khải, là chính Chúa của dân.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Trong cả chu trình ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình. Biến cố này nhắc người Ki-tô hữu nhớ rằng trong thời gian Mùa Chay họ không chỉ được dự phần vào mầu nhiệm Thương Khó và Tử Nạn, nhưng cũng vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh quang của Đức Giê-su.
St 12: 1-4a
Bài Đọc I, trích từ sách Sáng Thế, thuật lại ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Vâng theo tiếng gọi mầu nhiệm, ông Áp-ra-ham rời bỏ quê hương và gia tộc của mình để đi đến một vùng đất xa lạ. Ông gắn bó với một Thiên Chúa duy nhất, Đấng ông đã đón nhận Lời Hứa tuyệt vời của Ngài, như thư gởi tín hữu Do thái viết: “Vì thế, do một con người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 12).
2Tm 1: 8b-10
Viết cho ông Ti-mô-thê, người môn đệ thân yêu của mình đang trải qua thời gian thử thách, thánh Phao-lô nhắc nhớ hiệu quả tâm linh của đau khổ, vì chỉ có đau khổ mới đảm bảo cho công cuộc loan báo Tin Mừng được sinh hoa kết quả và dẫn chúng ta đến cuộc sống bất tử.
Mt 17: 1-9
Tin Mừng trình thuật cuộc Biến Hình theo thánh Mát-thêu. Biến cố nầy được đặt vào trong bối cảnh Đức Giê-su loan báo lần đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài (Mt 16: 21-23). Lời loan báo nầy đã khiến cho các môn đệ bàng hoàng. Vì thế, như một cách thức giải tỏa sự kỳ chướng của thập giá, Đức Giê-su đã đem ba môn đệ lên núi cao, ở đó Ngài cho các ông thoáng thấy trước vinh quang Phục Sinh của Ngài, qua đó Ngài đảm bảo với các ông rằng Thương Khó và Tử Nạn là con đường cứu độ mà Ngài phải đi qua, nhưng đây không là một ngõ cụt mà khai mào cho cuộc Phục Sinh vinh quang.
BÀI ĐỌC I (St 12 : 1-4a)
Sách Sáng Thế được chia thành hai phần: phần thứ nhất (1: 1-11: 26) trình thuật nguồn gốc nhân loại và phần thứ hai (11: 27-50: 26) trình thuật nguồn gốc dân Ít-ra-en qua các Tổ Phụ của họ. Bài Đọc I, trích từ đoạn đầu của phần thứ hai sách Sáng Thế, bao gồm ơn gọi, lời hứa và lời chúc phúc.
Lời mở đầu của Bài Đọc 1: “Khi ấy, Chúa phán với ông Áp-ra-ham: ‘Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi’” (12 : 1), quy chiếu đến những sự kiện trước đó (11 : 27-32). Quê quán của ông Te-ra, cha của ông Áp-ra-ham, là thành Ua, một thành phố lớn ở Hạ Lưỡng Hà Địa. Thành Ua là một trong những chiếc nôi của nền văn minh Su-me rực rỡ. Một ngày kia, ông Te-ra quyết định rời bỏ thành Ua cùng với gia tộc của mình “để đi tới đất Ca-na-an” (St 11: 31). Nhưng ông Te-ra cùng gia tộc của mình định cư lập nghiệp ở Kha-ran phía bắc miền Lưỡng Hà Địa và ở đó ông qua đời (11 : 32).
A- Cuộc hành trình đức tin
Phải chăng khi rời bỏ Kha-ran để đi tới đất Ca-na-an, ông Áp-ra-ham, người con trưởng của ông Te-ra, muốn tiếp tục thực hiện ước nguyện của cha mình? hay vâng theo một sự thôi thúc nội tâm? Thật khó xác định rõ ràng. Dù thế nào, truyền thống luôn luôn gìn giữ ký ức sống động về cuộc hành trình tâm linh của ông Áp-ra-ham. Đó là một đề tài gây kinh ngạc vì nhiều lẽ.
Trước hết, vị tổ phụ gắn bó mật thiết với một Thiên Chúa độc nhất khi loại bỏ các vị thần linh khác của tôn giáo cha ông. Đây là một kinh nghiệm mầu nhiệm đặc biệt, biến cố trọng đại, khởi điểm của ơn tuyển chọn Ít-ra-en. Thứ nữa, khi gọi ông Áp-ra-ham ra đi, Thiên Chúa đòi hỏi ông thực hiện một hành vi đức tin: cắt đứt mọi mối dây liên hệ với quê hương, bà con thân thuộc và nhà cha của mình để đi đến một miền đất chưa được xác định:“đến đất mà Ta sẽ chỉ cho người” (12 : 1). Hơn nữa, vào lúc đó, Thiên Chúa chưa hứa với ông: “đến đất mà Ta sẽ ban cho ngươi” hay “đến đất mà hậu duệ người sẽ sở hữu”. Ông Áp-ra-ham chấp nhận vâng lời bằng hành vi tin tưởng và phó thác: “Ông A-bra-ham ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông” (12 : 4).
B- Kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa
Chính trong khi sống trong kiếp lang bạt từ Kha-ran đến Ai-cập, đoạn đến Khép-rôn mà tổ phụ Áp-bra-ham đã chia sẻ thân phận của biết bao người vào thời đó, vì những biến động lịch sử họ phải tha phương lang bạt khắp nơi. Tuy nhiên, chính cũng trong kiếp sống lang bạt đó mà ông Áp-ra-ham càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa của ông hơn, gắn bó với Thiên Chúa mật thiết hơn, Đấng hiện diện với ông trong cảnh đời vô định và cũng phán với ông qua những bất tất lịch sử. Dù ông Áp-ra-ham không thấy ngay tức khắc tất cả những thành quả của lời hứa, nhưng ông đặt để tương lai của mình vào trong niềm tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa của ông.
Đây là khuôn mẫu các bài tường thuật về ơn gọi trong Cựu Ước. Khi nào Thiên Chúa gọi những lãnh tụ, sứ giả, ngôn sứ … , Ngài đòi hỏi họ một sự thoát ly, tiến về phía trước mà không nhớ tiếc quá khứ hay lưu luyến tình thân. Đức Giê-su cũng sẽ có một thái độ từ bỏ cách dứt khoát như thế và Ngài cũng đòi hỏi các môn đệ của Ngài cũng phải có một hành vi tin tưởng và phó thác như vậy, Ngài cũng đòi hỏi những người mà Ngài chữa lành về phương diện thể xác hay luân lý như vậy: “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”, hay “Hãy đi, đức tin của con đã cứu con”, hoặc “hãy chỗi dậy và đi !”.
Lời đầu tiên Thiên Chúa hứa với ông Áp-ra-ham: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn… Ta sẽ cho tên tuổi ngươi sẽ lẫy lừng…” (12 : 2), lời hứa này sẽ còn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần xuyên suốt “truyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham (St 11 : 27-25 : 11).
Tuy nhiên, những gì Thiên Chúa hứa ban luôn luôn mâu thuẫn với thực trạng trước mắt. Thiên Chúa loan báo cho cụ già bảy mươi lăm tuổi không con nầy, lãnh tụ của một bộ tộc du mục nhỏ bé nầy, một tương lai huy hoàng rực rỡ hoàn toàn không tương xứng với những gì mà ông hiện có trong tầm tay: một kẻ không có gì bảo đảm cho tương lai (vợ ông, bà Xa-rai hiếm hoi, không con: St 11 : 30) được mời gọi lên đường đến một nơi chưa được xác định. Tuy nhiên, truyền thống Ít-ra-en luôn luôn xem tổ phụ Áp-ra-ham là cha của lời hứa. Chính vì lời hứa nầy mà ông sống. Quả thật, chính từ lời hứa này, ông sinh ra một dân mà Chúa đặc tuyển làm dân riêng của Ngài, một dân mà Thiên Chúa ưu ái cách đặc biệt.
Lời chúc phúc của Thiên Chúa là dấu chỉ hữu hình cho thấy tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả tính hữu hiệu và nhắc nhớ ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa :
“Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho người;
ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.
Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (12 : 3).
Lời chúc phúc không bị giới hạn vào con người Áp-ra-ham, nhưng mở ra những viễn cảnh còn rộng lớn hơn. Theo mạch văn của sách Sáng Thế, ông Áp-ra-ham được định vị trong hàng hậu duệ của ông Sêm, vì thế phân biệt với hậu duệ của ông Kham và ông Gia-phết. Tuy nhiên, lời chúc phúc mà ông Áp-ra-ham cưu mang và qua trung gian của ông, sẽ trải rộng đến hết mọi gia tộc trên mặt đất. Nếu Thiên Chúa đã tuyển chọn một người, một dân tộc, trong cái khung lịch sử để truyền đạt giao ước, lời hứa và lời chúc phúc, thì muôn dân tộc trên mặt đất, ngay từ nguyên khởi của lịch sử cứu độ, đã là những người thụ hưởng những ân phúc nầy rồi. Vì thế, lời chúc phúc nầy vốn hàm chứa chiều kích phổ quát của Ki-tô giáo rồi.
Tác giả Gia-vít đã suy niệm sâu xa về địa vị ưu đẳng của con người và sự thất bại do tội lỗi gây ra (St 2: 4-19). Cũng chính tác giả đã nhắc nhớ huynh đệ tương tàn giữa hai anh em Ca-in và A-ben, lụt Hồng Thủy, tháp Ba-ben, nghĩa là nhân loại càng lúc càng lún sâu trong vũng lầy của sự ác và là đối tượng của những trừng phạt và những lời chúc dữ của Thiên Chúa.
A- Tổ phụ Áp-ra-ham là phản đề của nguyên tổ A-đam
Vào lúc ông Áp-ra-ham vâng lệnh Thiên Chúa mà ra đi, có điều gì đó thay đổi trong lịch sử của nhân loại. Không gì ngoài những lời chúc phúc: “Ta sẽ chúc phúc cho ngươi… Ngươi sẽ là một mối phúc lành…”. Trong tất cả kỳ tích của vị tổ phụ này, tác giả nêu bật ông Áp-ra-ham như một phản đề của nguyên tổ A-đam. Nguyên tổ A-đam đã nghi ngờ và đã bất tuân, trái lại tổ phụ Áp-bra-ham là con người của niềm tin và tuân phục. Chính từ nguyên tổ A-đam mà sự ác xâm nhập vào nhân loại và kéo theo lời chúc dữ của Thiên Chúa. Khởi đi từ tổ phụ Áp-ra-ham, nhân loại được mời gọi sống niềm hy vọng. Chắc chắn, qua vị tổ phụ này, Thiên Chúa chọn cho mình một dân tộc, nhưng sự chọn lựa nầy, thay vì giới hạn ý định của Ngài, trái lại loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ: “Nhờ ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc lành”.
B- Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của những người tin
Tổ phụ Áp-ra-ham sống trên đất Ca-na-an như người du mục của Thiên Chúa và ông sẽ không ngừng là người du mục nầy, trong khi tìm kiếm một nơi thờ phượng: Xi-khem, Bê-then… Từ cuộc sống du mục của vị tổ phụ nầy, tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã rút ra tầm mức tâm linh : “Nhờ đức tin, ông A-bra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như một nơi đất khách… vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng… Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 8-12).
BÀI ĐỌC II (2 Tm 1 : 8-10)
Thư thứ hai gởi ông Ti-mô-thê là bút tích cuối cùng của thánh Phao-lô. Lúc đó, thánh nhân đang bị giam cầm rất nghiêm ngặt ở Rô-ma: thánh nhân “phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2Tm 2 : 9). Thánh nhân biết rất rõ số phận đang chờ đợi ngài : “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính” (2Tm 4 : 6-8).
Ông Ti-mô-thê là người đồng sự thâm niên và rất trung thành của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã nhận ông vào chuyến hành trình truyền giáo thứ hai của ngài khi ngài đến Lýt-ra, miền Tiểu Á vào năm 46 hay 47 (Cv 16 : 1-3).
Cha ông là người Hy lạp, còn mẹ ông là người Do thái đã theo Ki-tô giáo, ông Ti-mô-thê đã được mẹ ông là bà Êu-ni-kê và bà ngoại ông là bà cụ Lô-ít dạy Kinh Thánh lúc còn thơ ấu, vì thế ông đã có lòng tôn kính Kinh Thánh và có một vốn kiến thức sâu xa về Kinh Thánh, như thánh Phao-lô đã nhận định về lòng tin của ông: “Tôi hồi tưởng lại niềm tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (1Tm 1 : 5).
Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau vô cùng mật thiết đến mức sáu bức thư của thánh Phao-lô đều có ông Ti-mô-thê là người đồng gởi, trong đó có thể ông đã biên soạn vài đoạn. Thánh Phao-lô giao phó cho ông Ti-mô-thê trông coi cộng đoàn Ê-phê-xô để đảm bảo công việc loan báo Tin Mừng vẫn được tiếp tục, vì ông là người đáng tin cậy. Thánh Phao-lô cũng đã bổ nhiệm ông Ti-tô ở Crète như vậy. Vì thế, các thư gởi cho ông Ti-mô-thê và ông Ti-tô được gợi “Các Thư Mục Vụ”, vì trong những thư này, thánh Phao-lô đưa ra những huấn thị của mình cho những người kế nghiệp ngài.
Vào lúc đó, cộng đoàn Ê-phê-xô gặp phải những khó khăn do những biện luận (thánh Phao-lô kể ra sau đó) dễ nẩy sinh lạc giáo. Khi phải đối mặt với những trào lưu tư tưởng, người tông đồ phải giữ vững một thái độ duy nhất là “loan báo Tin Mừng”. Trong đoạn trích dẫn ngắn này, thánh nhân lập lại hai lần diễn ngữ này. Thánh nhân khẩn khoản nhắc cho ông Ti-mô-thê nhớ rằng lời rao giảng của ông, dù thế nào đi nữa, đừng để bị ảnh hưởng bởi những học thuyết thịnh hành vào lúc đó. Tin Mừng không thể nào bị xuyên tạc bóp méo được.
Để lời khích lệ mình có tác dụng, thánh nhân trước tiên nhắc nhở tính hiệu quả của sự đau khổ. Ông Ti-mô-thê chịu đau khổ. Thánh Phao-lô cũng chịu đau khổ trong xiềng xích. Thánh Phao-lô nói với người môn đệ thân yêu của mình : “Anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (1: 8). Nhờ đau khổ, lời rao giảng Tin Mừng được sinh hoa kết trái. Lời mời gọi nầy nhắc nhớ đến lời dạy của thánh nhân trong thư gởi tín hữu Cô-lô-xê : “Những gian nan thử thách Đức Giê-su còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1 : 24).
Tiếp đó, thánh nhân nhắc nhở ông Ti-mô-thê về sự cao cả của ơn gọi tông đồ, thuần túy ân sủng của Thiên Chúa, không có liên hệ gì với “công kia việc nọ chúng ta đã làm”. Những lời nầy âm vang Bài Đọc I về ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi khám phá ở đây một đạo lý về ơn cứu độ bởi đức tin, chứ không bởi công trạng. Chúng ta đang ở trong cùng một dòng tư tưởng. Chúng ta cảm nhận rằng đây là niềm xác tin mà thánh nhân đã sống: chính thánh nhân, xưa kia là một Biệt Phái tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật và là người nhiệt thành bách hại Ki-tô giáo, đã được Thiên Chúa chọn làm Tông Đồ của Ngài không do công trạng của mình, nhưng do “kế hoạch và ân sủng của Chúa”.
Sau cùng, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê hãy vững tin vào những lời hứa ban “phúc trường sinh bất tử”, bao hàm cuộc khải hoàn phục sinh của Đức Ki-tô. Đó chính là sứ điệp mà ông phải loan báo. Kế hoạch này Thiên Chúa đã dự định từ muôn thuở được biểu lộ qua mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Đức Giê-su.
Trong những thư khác của thánh Phao-lô, chúng ta gặp thấy những diễn ngữ tương tự; chắc chắn trong đoạn trích nầy, nhờ mạch văn, những diễn ngữ nầy có mức độ chính xác hơn. Vì ở giữa những đe dọa lạc thuyết giữa lòng cộng đoàn Ê-phê-xô, có những quan niệm sai lạc về mầu nhiệm Phục Sinh. Thánh Phao-lô ra sức gìn giữ cho đến hơi thở cuối cùng làm thế nào sứ điệp Tin Mừng được thuần khiết.
Thư này không được gởi cho cộng đoàn như phần lớn các thư khác của thánh Phao-lô, nhưng cho một cá nhân đảm nhận một chức vụ đặc thù. Rõ ràng phải lưu ý đến điều nầy trong bản văn. Tuy nhiên, đoạn trích dẫn nầy mang lấy một tầm mức phổ quát hơn, vì lẽ nó có thể tách biệt ra khỏi mạch văn và có thể được hiểu như được gởi cho mọi người Ki-tô hữu. Mỗi người Ki-tô hữu là chứng nhân cho Đức Ki-tô và vì thế phải để cho mình bị chất vấn bởi lời căn dặn khẩn thiết của thánh Phao-lô trong đoạn thư nầy, như Karl Gatzweiler nhận định: “Không bản văn nào thích hợp cho việc nuôi dưỡng sứ mạng loan báo Tin Mừng của chúng ta hơn bản văn nầy. Nó quy chiếu chúng ta đến điều cốt yếu. Phải rao giảng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng tỏ mình ra là vị Thiên Chúa cứu độ. Phải loan báo Tin Mừng về sự Phục Sinh của Ngài, Đấng chiến thắng sự chết và mở lối vào cuộc sống thần linh. Ngoài ra, bản văn nầy nhắc nhở cho mọi người Ki-tô hữu ơn gọi làm chứng nhân của họ, họ phải thực thi vai trò chứng nhân của mình không chút ngần ngại, với lòng can đảm và lạc quan, bất chấp những khó khăn. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (“Parole sur le chemin”, tr. 52).
TIN MỪNG (Mt 17 : 1-9)
Bài trình thuật về biến cố Biến Hình là một trong những bài trình thuật Tin Mừng chất nặng mầu nhiệm nhất, nhưng cũng là một trong những bài trình thuật phong phú nhất về giáo huấn. Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố nầy và đều đặt vào trong bối cảnh vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời công bố đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su. Trước đó, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ Ngài : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Thánh Phê-rô đáp : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 15-16). Nghĩ rằng thời điểm đã đến để mặc khải Ngài là Đấng Mê-si-a như thế nào, Đức Giê-su loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Thánh Phê-rô không thể nào dung hòa được một viễn cảnh như thế với lời khẳng định mà ông vừa mới tuyên xưng, vì thế ông đã ngăn cản Ngài. Biến cố Biến Hình mang đến một câu trả lời.
Bài trình thuật bắt đầu với thời điểm: “Sáu ngày sau”, diễn ngữ thời gian này, xét về phương diện văn chương, đóng vai trò chuyển tiếp vừa để giới thiệu bài trình thuật tiếp theo sau, nhưng đồng thời cũng để nối kết với bài trình thuật đi trước. Thời điểm “Sáu ngày sau” nghĩa là sáu ngày sau khi thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16).
Bài trình thuật đi trước kết thúc với một lời nói bí nhiệm của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị” (Mt 16: 28), trong khi bài trình thuật Biến Hình bắt đầu với việc kể ra ba nhân vật được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình này: “Đức Giê-su đem ông Phê-rô, cùng hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đi riêng với mình lên một ngọn núi cao”. Vì thế, đa số các Giáo Phụ và các nhà chú giải nhận thấy rằng câu nói bí nhiệm nầy loan báo trực tiếp đến biến cố Biến Hình, đặc biệt kiểu nói: “trong số người có mặt ở đây”, có thể nhắm đến ba môn đệ được tuyển chọn làm chứng nhân cho biến cố Biến Hình nầy. Ngoài ra, thời điểm “Sáu ngày sau” và nơi chốn “một ngọn núi cao” xem ra quy chiếu đến Xh 24: 16: “Vinh quang Đức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê”. Chính ở trên núi cao nơi tách biệt nầy mà Đức Giê-su, Mô-sê mới, Đấng giải phóng dân Ngài, dẫn ba môn đệ được tuyển chọn, những người mà sau nầy cũng sẽ được chứng kiến lời cầu nguyện tha thiết của Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu (Mt 26: 37).
Trong khi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đều xác định biến cố Biến Hình xảy ra “sáu ngày sau” lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô (Mc 9: 2; Mt 17: 1), thì thánh Lu-ca lại xác định “khoảng tám ngày sau” (Lc 9: 28), tức là ngày thứ nhất sau ngày sa-bát, ngày các truyền thống Tin Mừng tưởng niệm ngày Phục Sinh của Đức Giê-su. Tuy các Tin Mừng Nhất Lãm đưa ra thời điểm có khác nhau, nhưng cả ba đều có chung quan điểm thần học như lời nhận định của cha Guillemette: “Xét theo văn mạch, thì cuộc biến hình có mục đích cho các môn đệ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người của Đức Giê-su đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đệ đầy sợ hãi rằng họ phải vâng lời đi theo Đức Giê-su trên đường dẫn tới Giê-su-sa-lem, tiến đến vinh quang qua thập giá” (“L’Evangile de Matthew”, 195).
Tại sao Đức Giê-su phải nhọc công leo lên ngọn núi cao, đến nơi đồi núi hoang vắng nầy ? Thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta câu trả lời: “Người lên núi để cầu nguyện”. (Lc 9 : 29). Theo truyền thống Cựu ước, “núi” là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và là nơi Thiên Chúa bày tỏ mình ra. Vì thế, sự kiện núi không được nêu tên không phải là không có chủ ý, bởi vì “ngọn núi cao” không thuộc trật tự địa lý nhưng tâm linh. Trong vài giây phút nữa, ngọn núi nầy sẽ mang dáng dấp của núi Xi-nai, nơi các môn đệ chứng kiến cuộc biến hình vinh hiển của Đức Giê-su và cuộc Thần Hiển.
Thánh Mát-thêu mô tả cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giê-su thành một con người rạng ngời vinh hiển: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”, còn thánh Lu-ca thì mô tả sự biến đổi hình dạng nầy trong mối tương quan tăng dần của lời cầu nguyện mà Chúa Giê-su thân thưa với Cha của Ngài: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9: 29). Biến cố Biến Hình nầy mặc khải rằng con người xác thịt của Ngài được liên kết với chính Hữu Thể Thiên Chúa, có nghĩa, kể từ đây, cái chết không có quyền gì trên thân xác của Ngài; theo một cách nào đó, biến cố Biến Hình là tham dự trước cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
Chính trên một ngọn núi Xi-nai (còn gọi là Khô-rếp), ông Mô-sê và ông Ê-li-a đã lần lượt gặp gỡ Thiên Chúa. Cũng trên ngọn núi Biến Hình nầy, “ba môn đệ thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người”. Sự hiện diện của hai nhân vật này là một bảo chứng tuyệt vời cho tước vị Mê-si-a của Đức Giê-su, bởi vì cả hai ông được xem như báo trước Đấng Mê-si-a: ông Mô-sê đã báo trước rằng một vị ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, lời của Đấng ấy sẽ là lời của chính Thiên Chúa (Đnl 18 : 18); còn ông Ê-li-a, theo truyền thống, phải trở lại để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến.
Hơn nữa, hai nhân vật nầy hiện diện bên cạnh Đức Giê-su vinh hiển, không chỉ như biểu tượng của Lề Luật và Ngôn Sứ, nhưng cũng như những người trung gian tuyệt mức của Giao-Ước. Như vậy, họ đại diện khởi đầu và chung cuộc của Lịch Sử Cứu Độ được hoàn thành nơi Đức Giê-su. Vì thế, biến cố Biến Hình nhấn mạnh mối liên hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Bài trình thuật của thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng hai ông Mô-sê và ông Ê-li-a đàm đạo với Đức Giê-su về “cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9 : 31). Thuật ngữ “xuất hành” nhắc nhớ đến cuộc hành trình gian khổ nhất của dân Ít-ra-en: ra khỏi đất Ai-cập và lang thang trong hoang địa. Cuộc hành trình ấy đòi hỏi dân Thiên Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng dẫn họ đến miền Đất Hứa. Với một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giê-su cũng dấn thân vào một cuộc hành trình gian khổ nhất, một cuộc hành trình đến thập giá, nhưng cũng là cuộc hành trình đến vinh quang. Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong kiếp sống phàm nhân trên con đường tiến về cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, Chúa Giê-su được Chúa Cha an ủi cách đặc biệt bằng biến Cố Biến Hình. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi Nhập Thể, vinh quang nầy Ngài lấy lại trong một khoảng khắc thoáng qua của cuộc Biến Hình.
Chỉ có ba môn đệ: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, được diễm phúc chứng biến cuộc Biến Hình. Trước đây, chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su cho phép chứng kiến việc Ngài phục sinh con gái ông Gia-ia (Mc 5 : 37), và sau này cũng chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su dẫn theo với Ngài vào trong vườn Cây Dầu ở đó họ sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Ngài (Mt 26 : 37). Trước đây, trong việc Phục Sinh con gái của ông Gia-ia, ba môn đệ nầy chứng kiến quyền năng của Ngài trên sự chết (Mc 5 : 37), còn nay trong cuộc Biến Hình vinh hiển nầy, họ nghe Chúa Cha chứng nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 17 : 5), để rồi sau nầy trong cuộc Khổ Nạn của Ngài, họ có đủ nghị lực chịu đựng và tin tưởng khi thấy Thầy mình phải chịu nhục mạ, khổ hình.
Việc thánh Phê-rô có mặt trong biến cố Biến Hình rất quan trọng, bởi vì ông gặp thấy ở đây sự cũng cố cho lời tuyên xưng trực giác của ông ở Xê-da-rê : “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16 : 16). Mặt khác, ông chứng kiến một Đức Giê-su vinh hiển thay thế cho hình ảnh về một Đấng Ki-tô chịu đau khổ mà theo quan điểm của ông, ông không thể nào chấp nhận được. Sau này, vị lãnh tụ của các Tông Đồ sẽ đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, còn lúc nầy thánh nhân chiêm ngưỡng Đức Giê-su vinh hiển ở giữa hai nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Vì thế, cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Sọ. Như vậy, niềm tin, trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội dựa vào, được đặt nền móng ở nơi biến cố Biến Hình này.
Thánh Gio-an, người môn đệ trung thành, sẽ đi cho đến cùng và sẽ chiêm ngắm một thân xác bầm dập rách nát không còn hình tượng người của Đấng bị đóng đinh trên khổ giá, chính ông sẽ viết trong Tựa Ngôn Tin Mừng của mình :
“Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).
Ẩn hiện sau Tựa Ngôn này là bức tranh về biến cố Biến Hình. Còn thánh Gia-cô-bê là vị Tông Đồ đầu tiên chết vì niềm tin của mình.
Trong chương nầy, như trong những chương trước đây, thánh Mát-thêu nêu bật nhân vật Phê-rô. Trước đây, chỉ mình thánh Phê-rô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su ở Xê-da-rê, và chỉ một mình thánh nhân bày tỏ nổi bất bình khi Thầy mình loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh.
Trong câu chuyện Biến Hình nầy, thánh nhân cũng là người duy nhất phản ứng. Vốn bản tính nhiệt thành, bộc trực, nghĩ sao thì nói vậy, thánh Phê-rô muốn dừng thời gian và hoạt cảnh nầy lại khi đề nghị dựng ba lều: một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Khi phát biểu như vậy, thánh nhân không nghĩ gì đến mình và các bạn đồng môn của mình. Tuy nhiên, có thể thánh nhân liên tưởng đến lễ Lều, lễ tưởng niệm dân Ít-ra-en đã dựng lều trong hoang địa trước khi vào Đất Hứa: biểu tượng niềm mong đợi thời Thiên Sai.
Theo truyền thống Do thái, vào thời sau hết Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân Ngài (Ed 37 :27 ; Hs 12 : 10) trong lều vinh quang của Ngài, còn dân chúng sẽ dựng lều quanh Đấng Ki-tô của họ (Ga 1 : 14) và các dấu lạ thời Xuất Hành sẽ tái diễn. Vì thế, qua phản ứng nầy, có thể trong tiềm thức, thánh Phê-rô chứng nhận rằng mình luôn luôn tin vào sự đăng quang vinh hiển của Đấng Ki-tô. Khi đề nghị dựng ba lều, ông nghĩ rằng thời sau hết đã đến và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên mặt đất ngỏ hầu cuộc Thần Hiển trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi.
“Ông Phê-rô còn đang nói, chợt có một đám mây sáng ngời bay đến phủ bóng trên các ông”. Trong Cựu Ước, đám mây sáng ngời vừa bày tỏ nhưng đồng thời phủ che sự hiện diện hữu hình nhưng siêu việt của Thiên Chúa trước mắt phàm nhân (Xh 40 : 34-35 ; 1V 8 : 10-12 ; Ed 10 : 3-4 ; Tv 18 : 12). Một giọng nói vang lên như vào ngày Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy giả, tuy nhiên ở đây không còn là “các tầng trời mở ra và Thần Khí ngự xuống trên Người”, nhưng “dung mạo Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” với lời công bố tước vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giê-su. Lời công bố này không chỉ nhấn mạnh đặc tuyển, nhưng cũng nhắm đến tầm quan trọng của sứ điệp : “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Huấn lệnh nầy xem ra nhắc nhớ lời hứa của Đức Chúa với dân Ngài qua ông Mô-sê: từ giữa họ, Ngài sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như Mô-sê, Ngài sẽ đặt lời Ngài trên môi miệng của Đấng ấy, vì thế “Các ngươi hãy nghe vị ấy” (Đnl 18 : 15). Như vậy, Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
Phải lưu ý rằng đám mây bao phủ ba vị Tông Đồ, như vậy hiệp nhất họ với Đức Giê-su, liên kết họ làm một với mầu nhiệm của Ngài, trong mặc khải kín nhiệm mà họ không được hé lộ ra cho bất cứ ai trước khi Ngài sống lại (17 : 9). Nói cho cùng, chỉ trong ánh sáng Phục Sinh của Đức Giê-su, các ông mới có thể hiểu được những gì các ông đã chứng kiến trong cuộc Biến Hình này. Khi đám mây biến mất, các Tông Đồ không còn thấy ai ngoài chỉ một mình Đức Giê-su. Từ đây, Đức Giê-su hiện thân cho Lề Luật và Các Ngôn Sứ.
Trước đây, các ông đã nghe lệnh truyền nầy vào lúc Ngài phục sinh con gái của ông Gia-ia, lúc này Đức Giê-su cũng lập lại lệnh truyền này với các ông: “Chỗi dậy đi !”, đó cũng là lời căn dặn được ngỏ với các ông: “Đừng nói cho ai hay điều anh em vừa thấy, cho đến khi Con Người chỗi dậy từ cõi chết”. Vào lúc nầy, các ông không thể nào nắm bắt được ý nghĩa của lời căn dặn nầy. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su đã cho họ chứng kiến cuộc phục sinh con gái của ông Gia-ia và cuộc Biến Hình của Ngài. Họ sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng này, sẽ diễn tả rõ ràng: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3 : 2). Thánh Phao-lô cũng viết : “Đức Giê-su sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta để nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3 : 21).
Trầm Thiên Thu
Con Chúa Biến Hình Trên Núi Thánh
Tín Nhân Thay Đổi Giữa Gian Trần
Trong cơn đại dịch Corona hiện nay – năm Con Chuột Chù 2020, con virus bé nhỏ đã khiến người ta hoảng loạn chỉ vì mất niềm tin hoặc không muốn tin vào Thiên Chúa. Chỉ tìm hạnh phúc đời này (thỏa mãn “cái tôi” để được sung sướng thể xác) nên người ta hoàn toàn thất vọng. Nếu nhận ra “khoảng trống” trong tinh thần như vậy mà nhận ra Thiên Chúa quyền linh thì thật là hạnh phúc. Nếu không nhận ra Ngài thì thật bất hạnh. Đã và đang có những người tìm mọi cách trục lợi để sướng cái thân mình, bất chấp đau khổ của người khác. Chắc chắn những kẻ tà tâm như vậy không thể nào có hạnh phúc đích thực – dù chỉ là tạm thời. Nỗi đau tinh thần mới thực sự đáng sợ.
Cuộc sống luôn có những hệ lụy tất yếu – có loại có thể lý giải, có loại không thể lý giải theo lý trí phàm nhân. Người Việt vẫn thường nói: “Đầu xuôi, đuôi lọt.” Tất nhiên chỉ thường xuyên chứ không luôn luôn như vậy. Theo kiểu “trước thế nào sau cũng tương tự” thì kết quả có thể tốt và lành, hoặc hậu quả có thể xấu và dở.
Giả sử cuộc đời này không là “bể khổ trần ai” thì chắc chắn sẽ nhàm chán, và rồi con người càng dễ hư thân – sướng quá hóa rồ! Nhờ đau khổ mà người ta mới biết quý hạnh phúc mà cố gắng vươn lên. Ấy vậy mà vẫn thấy có những con người bất chấp, xả láng, ngang ngược, không sợ gì, dám làm những chuyện tày trời chỉ vì “cái tôi” quá lớn với thói ích kỷ và kiêu ngạo.
Được làm người ở trên đời, dù giàu hay nghèo, sang hay hèn, cao hay thấp, lớn hay nhỏ, nam hay nữ,… chắc chắn ai cũng mưu cầu hạnh phúc – một quyền cơ bản của con người và mơ ước chính đáng. Thật vậy, hạnh phúc là niềm mơ ước cháy bỏng suốt đời của bất kỳ ai. Tuy nhiên, hạnh phúc đa dạng với nhiều mức độ. Hạnh phúc ở gần chứ không xa, nhưng hạnh phúc cũng dễ khiến người ta ảo tưởng nếu đòi hỏi thái quá. Cũng như tình yêu, chẳng ai có thể định nghĩa chính xác thế nào là hạnh phúc. Tất cả chỉ là tương đối – tương đối tuyệt đối và tuyệt đối tương đối.
Thế gian là cõi tạm, thế nên chẳng có gì vĩnh cửu, ngay cả những gì chúng ta có cũng không là của mình. Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc cao cấp của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó, nhưng vẫn không vĩnh viễn. Hạnh phúc mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí, là cảm giác thoải mái khi đạt được một giá trị, một mục đích, một kết quả… nhưng điểm khác nhau nằm ở tính hữu hình hay vô hình của giá trị, mục đích, kết quả đạt được về nhiều lĩnh vực: tình yêu, thành công, nổi tiếng, giàu có, thỏa mãn,… Hạnh phúc và sung sướng có nghĩa gần giống nhau, hạnh phúc hiểu theo nghĩa tinh thần, trừu tượng; sung sướng hiểu theo nghĩa vật chất, cụ thể.
Tất nhiên ai cũng phải đi tìm, nếu muốn tận hưởng hạnh phúc. Đi tìm hạnh phúc không phải là sẽ “nhặt” được nó như nhặt được một vật thể, cũng không thể ngồi chờ sung rụng, mà phải chủ động “tạo” ra nó. Nghĩa là chấp nhận với những gì mình có hiện tại thì sẽ có hạnh phúc. Thế nhưng không hề dễ thực hiện được động thái “chấp nhận” như vậy. Biết đủ thì vẫn đủ, đòi hỏi thì chẳng bao giờ đủ!
Sống vì người khác là một cách sống hạnh phúc. Chúa Giêsu gọi là phục vụ – từ bỏ chính mình, dám quên mình, can đảm dấn thân. Người ta có câu nói đơn giản mà chí lý mang tính nhân bản: “Người đi trước rước người đi sau.” Hạnh phúc đơn giản chỉ thế thôi.
Người ta có kinh nghiệm hay: “Nói trước bước không qua.” Và người ta cũng duy tâm thế này: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Chắc chắn vậy thôi. Nói mộc mạc bình dân là “mình tính không bằng trời tính.” Có đau khổ mới biết thế nào là hạnh phúc, có bị tù đày rồi mới biết tự do rất giá trị. Người kiên trì chịu gian nan vất vả mới nên người, thành nhân tài. Chính đau khổ là “chất xúc tác” cho những tác phẩm giá trị. Càng dày kinh nghiệm thì tác giả càng có được những tác phẩm hay. Những người giỏi đều là những người đã từng vật lộn với cuộc sống khó khăn vô cùng. Giàu có và sung sướng không tạo vĩ nhân: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả – Anh hùng hào kiệt có hơn ai?” (chí sĩ Phan Bội Châu). Khổ luyện là mẫu số chung. Không khốn khổ khó khôn khéo.
Ngày xưa, ông Áp-ram được lệnh của Đức Chúa: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.” (St 12:1-3) Một lời hứa tuyệt vời!
Thế nhưng không phải là điều dễ dàng, mà phải giằng co. Thật vậy, đang an cư lạc nghiệp, đùng một cái phải ra đi, nếu đức tin không mạnh mẽ thì liệu có dám ra đi? Ba lần dời nhà bằng một lần cháy nhà. Chắc chắn là rất khó ra đi, vì giằng co dữ dội và cần phải can đảm mà dứt khoát ngay. Cũng vẫn khó ra đi dù biết rõ nơi đến như thế nào – phải ra đi vì đất quy hoạch, bị giải tỏa, có nguy cơ bão lũ hoặc động đất,… huống chi ra đi mà không biết nơi đó ra sao, tương lai thế nào. Vậy mà “ông Áp-ram ra đi như Đức Chúa đã phán với ông.” (St 12:4a) Không chỉ có vậy, khi rời Kha-ran, “ông Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi” (St 12:4b) chứ đâu còn trẻ trung gì nữa. Quả thật, đức tin của ông lớn quá! Cũng vì thế, ông được đổi tên Áp-ram thành Áp-ra-ham, nghĩa là “người cha vĩ đại của muôn dân tộc.” (Hc 44:19) Đức tin vô cùng quan trọng trong cuộc sống, đặc biệt là đời sống tâm linh. Có đức tin vững vàng, người ta rất thanh thản, không bị giằng co, và chắc chắn Thiên Chúa “chẳng để chính nhân phải nghiêng ngửa bao giờ.” (Tv 55:23)
Có lệnh thì làm ngay, ông Áp-ram làm theo hướng dẫn của Thiên Chúa: “Đem theo vợ là bà Xa-rai, cháu là ông Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Kha-ran. Họ ra đi về phía đất Ca-na-an và đã tới đất đó.” (St 12:5) Ông Áp-ram ra đi với niềm tín thác vào Thiên Chúa quan phòng, đồng thời ông còn vâng lời tuyệt đối. Kinh Thánh xác định: “Vâng lời trọng hơn của lễ.” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9; Tv 51:18) Vì vâng lời vô điều kiện, ông an tâm và vui vẻ – tức là ông thực sự hạnh phúc. Niềm hạnh phúc của người biết tín thác vào Thiên Chúa thì miên man và lâng lâng khó tả, không gì có thể “ngăn cản” sự sung sướng của con người đó.
Kinh Thánh cho thấy rằng Thiên Chúa đã hứa gì thì luôn chắc chắn: “Lời đã hứa, Ngài giữ vẹn toàn, bởi vì Ngài vẫn luôn công chính.” (Nkm 9:8) Cuộc sống cũng chứng tỏ điều đó qua kinh nghiệm sống của chúng ta. Thiên Chúa luôn giữ đúng lời, vì đó là luật, Ngài làm ra luật nên Ngài tôn trọng luật, như Chúa Giêsu nói: “Trời đất qua đi còn dễ hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất.” (Lc 16:17) Thánh Vịnh gia cũng xác nhận: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất.” (Tv 33:4-5) Thiên Chúa tốt lành vĩnh hằng, bất biến.
Vốn dĩ là tình yêu và giàu lòng thương xót, Thiên Chúa luôn quan tâm thụ tạo mà Ngài đã tác tạo nên giống hình ảnh Ngài: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì.” (Tv 33:18-20) Với niềm thành tín, Thánh Vịnh gia xác định và bộc bạch: “Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh.” (Tv 33:21) Thật vậy, nếu không có Ngài thì mọi loài đều biến thành hư vô ngay lập tức. Kinh Thánh cho biết: “Kẻ tế thần khác ngoài Đức Chúa, sẽ bị Đức Chúa loại trừ.” (Xh 22:19)
Chính Thiên Chúa cũng đã cảnh báo thẳng thắn: “Những kẻ coi trọng Ta thì Ta coi trọng, còn những kẻ khinh dể Ta thì bị khinh thường.” (1 Sm 2:30) Chắc chắn mọi kiêu nhân đều bị Thiên Chúa hạ bệ. (Hc 1:30; Hc 10:14; Is 23:9; Đn 4:34; Lc 1:52) Thật vậy, gieo gì thì gặt nấy, “Gieo gió thì phải gặt bão.” (Hs 8:7) Bởi vì “Thiên Chúa không để cho người ta nhạo báng đâu!” (Gl 6:7) Đây là vài trường hợp cụ thể:
[1] Chàng ca sĩ John Lennon trong ban nhạc The Beatles (Anh) đã trả lời báo chí trong một cuộc phỏng vấn: “Đạo của Chúa Giêsu đã đến ngày cuối cùng, nó sẽ biến mất. Tôi chẳng cần bàn cãi về vấn đề này mà chắc chắn như vậy! Chúa Giêsu thì tốt, nhưng những lời dạy của Ngài quá đơn giản. Giờ chúng tôi nổi tiếng hơn Ngài nhiều.” Và rồi năm 1980, anh ta bị bắn chết bằng 6 phát súng của một fan cuồng.
[2] Tổng thống Tancredo Neves (Brazil) nói: “Nếu có 500 phiếu ủng hộ tôi thì dù Thiên Chúa có muốn xóa bỏ chức tổng thống của tôi cũng không thể!” Vâng, Ngài không bỏ chi hết, và ông đã đắc cử tổng thống. Thế nhưng ông bị bệnh và chết trước khi đăng quang năm 1985.
[3] Kỹ sư Thomas Andrew, người Mỹ, đã thiết kế con tàu Titanic, hiên ngang nói với phóng viên: “Nó an toàn đến nỗi Thiên Chúa cũng không thể nhấn chìm nó được!” Tuy nhiên, Titanic đã va vào tảng băng và chìm xuống đáy Đại Tây Dương vào giữa đêm khuya, trung tuần tháng 4-1912.
[4] Năm 2005, tại Campinas ở Brazil, một nhóm bạn trẻ say xỉn đi đón một cô gái. Người mẹ cầm tay cô dắt ra tận nơi vì lo lắng khi thấy họ say xỉn mà lái xe, bà nói: “Cầu xin Chúa đi với con và gìn giữ con.” Cô gái nói: “Nếu Chúa muốn đi cùng thì phải ngồi trong cốp xe chứ trong này chật rồi!” Vài tiếng sau, truyền hình đưa tin về một vụ tai nạn nghiêm trọng, chiếc xe bị biến dạng hoàn toàn, trong đó có nhóm bạn trẻ kia.
Thiên Chúa nhân lành, Ngài không tạo sự ác, chỉ tại con người kiêu ngạo nên tự rước họa vào thân mà thôi. Dù biết Thiên Chúa tận tình như vậy, chúng ta vẫn không được ỷ lại, mà phải liên lỉ cầu nguyện: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.” (Tv 33:22) Tương tự câu trong Kinh Lạy Cha: “Xin Cha tha nợ chúng con NHƯ chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Quan trọng ở chữ NHƯ – nghĩa là chúng ta trông cậy ở mức nào thì được nhận lòng thương xót như vậy, chúng ta tha thứ cho người khác thế nào thì được nhận ơn tha thứ như thế. Đó là công bình, là công lý, và cũng là chân lý. Không thể CHO ít mà đòi NHẬN nhiều. Thiên Chúa không bao giờ “bù lỗ” kiểu ích kỷ đó!
Mặc dù Thánh Phaolô căn dặn riêng với Ti-mô-thê, nhưng cũng là nói với mỗi chúng ta hôm nay: “Anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.” (2 Tm 1:8) Tất cả mọi người đều phải nỗ lực, không ngoại bất kỳ trừ ai.
Mà tại sao chúng ta phải nỗ lực làm chứng như vậy? Lý do tất yếu: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.” (2 Tm 1:10) Rất rõ ràng, rất cụ thể.
Nếu chúng ta có thể thực hiện được như vậy thì chắc chắn sẽ được tận hưởng niềm hạnh phúc trong Đức Kitô, được trường sinh và vĩnh cư trong Vương Quốc Hằng Sống mà Ngài đi dọn sẵn cho chúng ta. Đó mới thực sự là niềm hạnh phúc vĩnh viễn. Chúa Giêsu đi trước và sẽ rước chúng ta đi sau.
Ngày xưa, ông Giô-suê đã nói với dân: “Nếu anh em lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần ngoại, Người sẽ quay lại chống anh em, giáng họa xuống anh em và tiêu diệt anh em, dù TRƯỚC ĐÂY Người đã giáng phúc cho anh em.” (Gs 24:19) Nhưng đối với dân thành Ni-ni-vê, trước đó tội lỗi và bất hạnh mà sau đó được hạnh phúc nhờ biết sám hối. Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Ngài hối tiếc về tai hoạ Ngài đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Ngài đã không giáng xuống nữa. (x. Gn 3:1-10) Rõ ràng việc sám hối có thể đảo ngược tình thế và thay đổi số phận con người. Tùy ý, “ai thích cái gì sẽ được cái đó.” (Hc 15:17)
Hạnh phúc luôn mỉm cười với những ai kiên trì và dũng cảm đi xuyên qua gian khó. Ai khổ luyện thì sẽ thành tài. Vất vả trồng cây thì sẽ có ngày hưởng trái ngọt. Đó là quy luật chung muôn thuở, như người Việt cũng nói: “Có công mài sắt, có ngày nên kim.” Đó là điều tất nhiên và hoàn toàn hợp lý!
Triết gia và thần học gia Albert Schweitzer (1875-1965, Pháp) có cách nhận xét rất cụ thể nhưng chí lý: “Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác, nhưng nó cũng trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn.” Ông không bi quan mà rất lạc quan, biết rõ điều trước để được điều sau.
Cái gì phải đến rồi cũng sẽ đến. Tránh trời không khỏi nắng, chẳng thoát mưa. Sáu ngày sau khi tiên báo về cuộc thương khó, Đức Giêsu đem theo các môn sinh thân tín là Phêrô với hai anh em Giacôbê và Gioan. Ngài đưa các ông tới một ngọn núi cao, rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Khi đó, dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, và y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng. Các ông chưa hết ngỡ ngàng thì bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài. Sự kiện này gây ngạc nhiên nhưng vô cùng thú vị.
Trong khi quá hưng phấn, ông Phêrô thưa ngay với Sư Phụ mà không cần so đo tính toán: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” (Mt 17:4) Muốn dựng lều cho cả ba vị chứ không hề nhắc tới lều cho ba anh em. Sao cũng được, ở “khách sạn ngàn sao” chẳng thành vấn đề, miễn sao được tận hưởng niềm hạnh phúc tuyệt vời mà thôi. Đó là lúc các ông được nếm thử hạnh phúc Nước Trời, nhờ đó mà cố gắng chịu gian nan. Khổ trước phước sau.
Rất lạ lùng, từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Sướng quá chừng luôn! Khi ông Phêrô chưa dứt lời thì bất ngờ có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17:5) Trước đó, sau khi Thánh Gioan Tẩy giả làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu tại sông Giođan, Chúa Cha cũng xác nhận tương tự về Đức Kitô Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3:17) Không có gì để nghi ngờ về mặc khải này. Đích thực là thiên khải rồi.
Nhưng lần mặc khải này khác hẳn, bởi vì các ông vừa nghe tiếng nói đó thì kinh hoàng và ngã sấp mặt xuống đất. Lạ lùng lắm, hết hồn luôn! Nhưng may là ba anh em vẫn bình an vô sự, mặc dù té lăn cù trên đá sỏi lởm chởm. Thấy thế, Chúa Giêsu đến chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17:7) Các ông ngước mắt lên, không còn thấy ai ngoài Sư Phụ. Kỳ lạ thật đấy, chả hiểu ất giáp gì ráo trọi. Nhưng vẫn thích, mọi thứ rất tuyệt vời!
Trong lúc trên đường đi từ trên núi xuống, Chúa Giêsu căn dặn các ông “đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.” (Mt 17:9) Không thấy Kinh Thánh cho biết các ông có nói gì hay không, có lẽ các ông chỉ biết im lặng vì chưa hiểu hết ý Thầy, mà các ông cũng không dám hỏi Thầy điều gì. Tất cả đều rất lạ lùng, không như suy nghĩ của loài người.
Lạy Thánh Phụ chí ái, xin tha thứ cho chúng con về những ước mơ đã không hợp Thánh Ý Ngài, xin hướng dẫn tư tưởng của chúng con, xin ban thêm các ơn cần thiết để chúng con đủ sức vượt qua mọi trở ngại suốt chặng đường lữ hành trần gian. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Trong cuộc đời mỗi người, có nhiều lần lên đường. Bởi lẽ, như muôn con sông đều dồn về biển cả, muôn cánh lá đều hướng về nguồn cội, mỗi người đều hướng về đích điểm của mình là Thiên Chúa. Để đến với đích điểm đó, cần phải liên tục lên đường.
Khi sinh ra trong cuộc đời là chúng ta thực hiện cuộc lên đường đầu tiên. Đời sống nơi dương thế là một hành trình dài, được khởi đầu khi con người cất ba tiếng khóc chào đời và kết thúc khi con người nhắm mắt xuôi tay. Thế rồi, mỗi sớm mai thức dạy là một cuộc lên đường mới, với những quyết tâm và nghị lực mới để thành đạt trong cuộc sống và trưởng thành trong Đức tin.
Có một cuộc lên đường trong lịch sử được ca ngợi và đáng là mẫu mực cho mọi thế hệ. Đó là cuộc lên đường của ông Ápram. Ápram sống ở vào khoảng 1,800 năm trước Công nguyên. Ông là tổ phụ của người Do Thái. Một ngày nọ, Chúa gọi ông và bảo ông lên đường. Để diễn tả sự vâng lời của Ápram, tác giả chỉ ghi lại một lời ngắn gọn: “Ông Ápram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông”. Ông vâng lời Chúa, từ bỏ mọi sự để đến một nơi mà ông chưa biết ở đâu, nhưng ông chắc chắn rằng, miền đất mà Chúa đã chuẩn bị cho ông là đất tốt, và rằng nếu tin vào Chúa thì không bao giờ bị thiệt thòi. Sự đáp trả của ông là đáp trả của Đức tin. Ông phó thác trọn vẹn cuộc đời cho Thánh ý Thiên Chúa và để Ngài dẫn dắt như một người cha.
Tin Mừng hôm nay nhắc đến một cuộc lên đường khác. Ba môn đệ đã được Chúa Giêsu hướng dẫn và cùng Người lên núi cao. Theo văn mạch của Tin Mừng Thánh Mátthêu, thì việc lên núi được thực hiện 6 ngày sau khi Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ về cuộc thương khó của Người. Khi tiên báo cuộc khổ nạn, Chúa cũng hứa cho những ai “liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,26). Trong bối cảnh này, ba môn đệ đã cùng với Chúa đi lên núi. Chúng ta đoán được tâm trạng của các ông. Đó là sự âu lo, hoang mang trước cuộc thương khó Thầy mình đã báo trước. Trên núi cao, Chúa thay hình đổi dạng khiến các ông ngỡ ngàng. Cựu ước hay nói đến việc Thiên Chúa hiển linh, hay những cuộc thần hiện, tức là Chúa tỏ mình ra để an ủi hoặc củng cố lòng tin của con người. Những cuộc thần hiện còn nhằm chứng minh Thiên Chúa luôn yêu thương và hiện diện giữa nhân loại. Ngài không bỏ rơi họ khi gặp cảnh gian nan khốn cùng. Nhờ nỗ lực lên đường, ba môn đệ đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Trong giờ phút ấy, Chúa không chỉ như một vị thầy bình thường như mọi ngày. Người đã cho các ông thấy vinh quang đích thực của Người, như một cuộc hiển linh trong Cựu ước. Cùng với sự biểu lộ vinh quang của Chúa, các môn đệ còn được soi trí để hiểu rõ sứ mạng của Người. Hai nhân vật của Cựu ước, ông Môisen và ông Elia đã hiện ra đàm đạo với Chúa, như một sự kết nối giữa quá khứ với hiện tại. Hai ông Môisen tượng trưng cho Lề luật; Elia đại diện cho truyền thống Ngôn sứ. Sự hiện diện của hai nhân vật này như để chứng minh rằng Chúa Giêsu đến để kiện toàn Lề luật cựu ước và thực hiện những lời các Ngôn sứ đã loan báo. Không chỉ hai nhân vật của Cựu ước, mà Chúa Cha cũng xuất hiện để chứng minh thân thế và sự nghiệp của Chúa Giêsu. Câu tuyên bố từ đám mây trên cao trong lúc Chúa Giêsu biến hình cũng là lời tuyên bố khi Chúa chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 3,17. 17,5). Qua lời này, Chúa Cha đã long trọng giới thiệu Con mình với cả nhân loại.
Chúng ta hãy chiêm ngắm ba môn đệ trong cuộc thần hiện vinh quang này. Các ông hạnh phúc ngây ngất vì như thể được nếm hưởng thiên đàng ngay dưới thế. Các ông dường như quên hết mọi sự, muốn lưu lại để tận hưởng hạnh phúc ngọt ngào của vinh quang Chúa. Nhưng Chúa muốn kéo các ông về với thực tại để cộng tác với Chúa trong sứ mạng của Người. Thày trò tiếp tục xuống núi để đối diện và đón nhận mầu nhiệm thập giá.
Đối với các tín hữu, Mùa Chay là một cuộc lên đường. Lên đường can đảm và phó thác như Ápram. Lên đường gian khổ như ba môn đệ theo Chúa lên núi. Cuộc lên đường nào cũng phải chấp nhận những hy sinh, từ bỏ những tiện nghi và chấp nhận những thử thách. Cuộc lên đường của chúng ta chính là nhìn lại đời sống Đức tin của mình, để dỡ bỏ những gì đang cản trở chúng ta theo Chúa hoặc đang cám dỗ chúng ta lùi bước. Người môn đệ muốn trung thành theo Chúa phải “đồng cam cộng khổ” để được chiêm ngưỡng vinh quang của Người (Bài đọc II).
Chúa Giêsu đã biến hình đổi dạng trước mặt các môn đệ để mời gọi các ông hãy biến đổi tư duy về Đấng Thiên Sai. Hôm nay, Chúa Cha cũng đang nhắc chúng ta “hãy vâng nghe lời Người” để biến đổi cuộc đời. Hoán cải là lời kêu gọi của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Đó cũng là lời kêu gọi của Giáo Hội mỗi khi Mùa Chay về. Như cuộc sống luôn hướng về phía trước, người tín hữu phải biến đổi không ngừng để mỗi ngày một đến gần Chúa hơn. Vì thế mà chúng ta cần phải lên đường mỗi ngày.
“Mơ ước lên đường thì bao giờ cũng đẹp. Nhưng để thực hiện lên đường lại không dễ. Những hạnh phúc đẹp chỉ dành cho những tâm hồn dám lên đường tìm kiếm. Muốn nhìn vũ trụ mênh mông phải giã từ mặt đất, cất cánh theo chim trời. Nếu con sâu cứ lặng lẽ sống dưới mặt đất với loài trùng, thì nó chẳng có lý do để oán trách sao cuộc đời chung quanh chỉ là mùi ẩm của đất, mùi mốc của cỏ. Nó phải hóa thân thành cánh bướm. Và, lúc đó người ta sẽ ngước mắt nhìn theo” (Trích trong Nước mắt và Hạnh phúc của Nguyễn Tầm Thường).
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.
Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.
Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.
Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.
Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.
Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.
Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.
Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.
Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.
Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.
Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.
Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.
Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.
Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.
Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.
Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.
.
Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt
Chúa Giêsu dẫn các môn đệ đi Giêrusalem. Trên đường, Chúa lên một ngọn núi để cầu nguyện. Có lẽ đó là núi Tabor ở Galilê. Có ba môn đệ thân tín theo Chúa. Chúa đã hiển dung trước mặt các ông.
Trước núi Tabor, Chúa Giêsu đã từng lên hai ngọn núi khác. Trước hết là Chúa giảng Hiến Chương Nước Trời trên núi quen gọi là núi Bát Phúc. Sau khi cho hoá bánh ra nhiều nuôi dân, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã lên núi cầu nguyện một mình. Sau núi Tabor, Chúa cũng lên hai ngọn núi khác: núi Sọ là nơi Chúa chịu chết trên thập giá và núi Ôliu là nơi Chúa từ biệt các môn đệ mà lên trời. Có thể nói núi Tabor đã được chuẩn bị bằng hai ngọn núi trước và chuẩn bị cho hai ngọn núi sau. Hiển Dung là cao điểm của cuộc đời rao giảng và là khởi điểm của cuộc Vượt Qua.
Người xưa tin rằng Thiên Chúa ở trên trời; núi cao, nên gần trời; vì thế người ta lên núi sẽ dễ gặp Chúa hơn. Tổ phụ Abraham lên núi hiến tế Isaac. Ông Môsê lên núi nhận bia giao ước. Ngôn sứ Êlia lên núi gặp Thiên Chúa. Thực tế là lên núi dễ gặp Chúa hơn thật:
– Thanh vắng, yên tĩnh, xa gia đình, bạn bè, phố chợ;
– Trên cao, thấy rõ công trình của Thiên Chúa trong thiên nhiên hùng vĩ hơn: mặt trời, bầu trời, trăng sao, núi sông, bình minh, hoàng hôn…
– Trên cao, thấy công trình của con người nhỏ bé hơn, vì thế dễ từ bỏ hơn.
Lên núi là điều không dễ, nhưng đem lại cho chúng ta những niềm vui mà chỉ những ai lên núi mới cảm nghiệm được. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta lên núi để chiêm ngắm Chúa hiển dung: ngay bên cạnh chúng ta, Chúa vẫn đang yêu thương người đau khổ, tha thứ cho kẻ tội lỗi, hy sinh cho người mình yêu. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên núi Tabor mới để Chúa hiển dung. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu mặc lấy Đức Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Trong cuộc Vượt Qua, khuôn mặt thể lý của Chúa không còn hình dạng con người, nhưng khuôn mặt của Thiên Chúa tình yêu lại chói sáng trước mắt mọi người trong mọi thời đại.
Một thường dân Nhật Bản được Nhật Hoàng mời vào hoàng cung dùng cơm chung vì đã lấy máu mình vẽ chân dung Nhật Hoàng. Chúa Giêsu lấy máu mình để vẽ chân dung Thiên Chúa và được hưởng vinh quang Phục Sinh. Xin Chúa giúp chúng ta dùng cuộc sống của mình để vẽ chân dung Chúa trong thế giới hôm nay.
.
NGHE LỜI CHÚA – ĐẾN VỚI THA NHÂN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúng ta đang từng bước hành trình trong Mùa Chay Thánh, tiến về Tam Nhật Vượt Qua, tưởng niệm Cuộc Khổ Nạn và Cái Chết của Chúa Giêsu, dẫn đến Lễ Phục Sinh, chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô trên sự chết. Phụng vụ Chúa II Mùa Chay năm A trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Giêsu Biến hình. Ðây là giai đoạn thứ hai trong Mùa Chay: giai đoạn thứ nhất là những cám dỗ trong hoang địa (x.Mt 4, 1-11); giai đoạn thứ II là cuộc Biến hình (x.Mt 17, 1-9). Chúa Giêsu “đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông” (Mt 17,1). Mặc dù trong phụng vụ có một ngày lễ dành riêng cho sự kiện này (ngày 06 tháng tám), hôm nay chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng cảnh tương tự như một phần không thể thiếu trong Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu.
Quả thật, Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đã gần kề, sáu ngày sau khi từ trên núi xuống, Chúa Giêsu tuyên bố : “Người phải đi lên Giêrusalem và chịu khổ nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, và bị giết đi, ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21).
Nhưng các môn đệ chưa sẵn sàng chứng kiến Chúa của họ, Đấng, luôn thể hiện lòng từ bi đối với người ốm đau bệnh tật, làm cho người phung hủi được lành, kẻ điếc nghe được, người mù thấy được, kẻ què đi được, người chết sống lại, nay “sẽ phải chịu khổ nhiều đau khổ“. Thật, không thể! Không thể hiểu nổi!
Tuy nhiên, bất chấp sự hiểu lầm của họ, Chúa Giêsu biết lý do tại sao Người đi vào thế giới. Người biết mình phải mang lấy tất cả sự yếu đuối và lầm than của nhân loại để thánh hóa họ, cứu họ ra khỏi vòng vây của tội lỗi và sự chết. Người cứu họ bằng cách nào ? Thưa, bằng cách chiến thắng sự chết, để sự chết không còn làm gì được con người là hình ảnh của Thiên Chúa nữa.
Đó là lý do tại sao Biến hình là một biểu tượng của ơn cứu rỗi thể hiện nơi thân xác vinh quang Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì thế, khi loan báo cho các môn đệ Cuộc Khổ Nạn của mình, Chúa thấy rõ sự lo lắng trong các tông đồ, và vẻ rực rỡ về thần tính của Chúa. Chúa khẳng định với họ niềm hy vọng và loan báo cho họ niềm vui Phục Sinh, thậm trí, cả lúc Phêrô, Gioan và Giacôbê không biết rõ … phục sinh từ trong cõi chết nghĩa là gì ! (x. Mt 17,9). Họ cần phải có thời gian.
Nếu trong Sứ điệp Mùa Chay 2017 năm nay với chủ đề : “Lời Chúa là một hồng ân. Tha nhân là một hồng ân”. Khi trưng dẫn đoạn Tin Mừng Luca (16,19-31), Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta hữu lắng nghe Lời Chúa, để nhận ra và phụng sự Chúa trong tha nhân, nhất là nơi những người nghèo khổ, vì tha nhân là hồng ân. Thì hôm nay, có tiếng Chúa Cha tuyên bố Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài và mời gọi chúng ta: “Các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17,5).
Đúng thật là một hồng ân, bởi có biết bao nhiêu lời chúng ta đã nghe, nhưng hiếm khi nghe được tiếng Chúa Cha. Chúa Cha đã nói với các Tông đồ và qua Giáo hội Chúa nói với chúng ta ngày hôm nay nữa: “Hãy nghe Chúa Giêsu, vì Người là Con yêu dấu của Chúa Cha“. Chúa Giêsu là Hồng Ân vô giá do Chúa Cha tặng ban cho chúng ta. Nay Ngài mời gọi chúng ta tuân giữ Lời Người. Lời Chúa Giêsu ban lại sự sống đời đời há chẳng phải là một hồng ân sao ?
Trong tuần này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa và cất giữ trong trí. Vì lời ấy không phải là lời của loài người, nhưng là Thiên Chúa Cha, nói với tất cả chúng ta! Lời ấy như một trợ lực để tiến bước trên con đường Mùa Chay. Chúng ta nghe lời Chúa Giêsu nhưng phải bước theo Người. Cũng như các môn đệ, sau khi nghe được lời Chúa Cha ban tặng, các ông không thể cứ ở mãi trên núi, nhưng phải theo Chúa Giêsu xuống núi dõi theo hành trình Thương Khó của Chúa và làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh.
Chúng ta cũng thế, trong Mùa Chay Thánh việc cần phải làm là : ăn chay, cầu nguyện, và bố thí. Ba việc này diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu. Chúng ta cần đi ra một nơi riêng, leo lên núi trong một nơi thinh lặng, để tìm lại chính mình và lắng nghe tiếng Chúa là hồng ân. Nhưng chúng ta không thể ở lại đó! Cần phải xuống núi gặp gỡ tha nhân. Họ là anh chị em chúng ta đang bị vất vả cơ cực, bệnh tật, bất công, dốt nát, nghèo khổ vật chất và tinh thần đè nặng, để chia sẻ với họ ân thánh đã nhận được vì họ cũng là hồng ân. Ðây là sứ mạng của chúng ta, những người đã chịu phép rửa tội, lắng nghe lời Chúa Giêsu và trao tặng Chúa cho người khác.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy chúng con biết nghe Lời Chúa, chuyên cần tham dự Thánh lễ, nguyện gẫm và sống tình bác ái với tha nhân. Amen.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Tôi được biết: trong phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương thì biến cố hiển dung (‘sự hóa thân’ theo như cách nói của họ) chiếm vị trí hàng đầu, và được coi là sự kiện thâu tóm tất cả mạc khải Tân Ước. Xét cho cùng tôi thấy họ không sai chút nào, vì Hiển Dung với tất cả sự hoành tráng của nó (phần bao bì), đang gói ghém một thực tế (sản phẩm) có tầm quan trọng vượt bậc. Hiển Dung chắc chắn không phải là biến cố vinh quang hào nhoáng nhằm che đậy một thực tại đau đớn là cuộc khổ nạn, như nhiều khi ta được nghe giải thích: Chúa biến hình để củng cố các tông đồ khỏi vấp ngã vì cuộc khổ nạn ê chề. Nếu đúng là như thế thì việc biến hình đã thất bại nặng nề vì trên thực tế, các tông đồ nói chung, và Phê-rô – một trong ba chứng nhân trực tiếp nói riêng – đã vấp ngã. Hiển dung không nhằm mục đích che đậy bất cứ một thực tế đau thương nào, ngược lại nó còn làm lộ rõ nội dung vinh quang đích thực của Thập Giá
Theo lối suy nghĩ tự nhiên của định luật nhân-quả, người ta luôn có khuynh hướng tách vinh quang ra khỏi đau khổ: đau khổ chỉ là tiền đề, là điều kiện để đạt tới vinh quang, như cách nói phổ thông: ‘Per Crucem ad lucem’ ‘phải qua thập giá mới tới được vinh quang’. Người ta thường suy luận cách rất lô-gích rằng: để được phần thưởng trọng hậu, một người phải kinh qua đau thương đau nhục nhã…, điều mà ngay người bình dân cũng hiểu đươc và nôm na gọi nó là: ‘chịu đấm ăn sôi’. Nói như thế có nghĩa là: tự nó Thập Giá không bao giờ là vinh quang, vì vinh quang chỉ lộ diện trong ánh sáng Phục Sinh; Phục Sinh chính là phần thưởng đáng mong đợi sau khổ hình Thập Giá. Thông thường người ta quan niệm: thập giá chỉ là phương tiện chứ không thể là mục đich của niềm tin, cũng tương tự như đau khổ chỉ là con đường để dẫn tới thành công mà thôi. Kết luận: Ki-tô hữu chúng ta chỉ có thể ôm ấp vinh quang Phục Sinh, chứ không thể yêu mến Thập Giá; và diện mạo cũng như sức mạnh đích thực của Thiên Chúa chỉ tỏ hiện trong ánh sáng Phục Sinh quang vinh, chứ không thể trong đau khổ của Thập Giá.
Ngược hẳn với lối suy nghĩ trên, khi mô tả biến cố Hiển Dung, các thánh sử đều cho thấy vinh quang Thiên Chúa tỏ rõ nơi biến cố Thập Giá: hai ông Ê-li-a và Mô-sê, hiện thân tột đỉnh của mạc khải Cựu Ước, hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su “về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9:31). Để thấu hiểu biến cố hiển dung thì phải lồng nó trong cuộc khổ nạn – phục sinh của Đức Giê-su: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy”. Theo tác giả Gio-an thì: chính cái chết tự hiến (chứ không phải sống lại) mới được Đức Giê-su coi như mục tiêu chính của mạc khải, là ‘giờ của Người’, là sự tôn vinh’ của Thiên Chúa Cha và của chính Người nữa (xem Ga 12:20-33). Chỉ có Đức Giê-su của hiển dung – thập giá mới được Chúa Cha từ trời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”
Hiểu được vinh quang Thiên Chúa nằm nơi Thập Giá là điều vô cùng khó khăn, điều mà ngay cả Phê-rô cũng còn lâu mới chấp nhận nổi (xem Mc 8:31-33); chiêm ngắm và tin vững chắc vào một Thiên Chúa giầu lòng từ bi và hay thương xót là không dễ chút nào. Chấp nhận một Thiên Chúa oai hùng và công thẳng còn dễ hơn, vì mọi tôn giáo đều muốn tôn vinh một Thiên Chúa như thế, cũng như ca ngợi Ngài trong sự uy nghi cao cả. Trong khi đó, Đức Giê-su bằng trọn cuộc sống trần thể và nhất là qua cái chết Thập Giá, chỉ muốn hé mở một điều duy nhất, đó là: vinh quang vĩ đại nhất của Thiên Chúa, và yếu tính đặc sắc nhất của Người chính là tự hiến và cứu độ, là tha thứ và xót thương. Thập Giá là mạc khải toàn diện nhất về Thiên Chúa, đồng thời cũng biểu lộ tột cùng vinh quang tình yêu của Người!
Vì vậy đối với Ki-tô hữu chúng ta, Mùa Chay phải là thời gian của Hiển Dung. Hình như Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta điều đó, khi kêu mời ta hãy dùng thời gian này để say sưa chiêm ngắm Thập Giá, qua đó phát hiện ra vinh quang và quyền lực lớn lao nhất của Thiên Chúa, một thứ quyền lực không hề tạo sợ hãi nhưng chất chứa niềm vui mừng và hy vọng của Tin Mừng. Trung tâm của Mùa Chay phải là Thập Giá, nhưng không phải thứ thập giá thuần khổ đau và chết chóc, mà là Thập Giá ánh lên vinh quang của tình yêu trao hiến và cứu độ của Thiên Chúa là Người Cha nhân lành. Hoặc tôi chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa như thế, hoặc như Phê-rô, tôi sẽ chối bỏ vinh quang Thập Giá để đáng bị Đức Giê-su xua đuổi như Sa-tan, tức là kẻ phản nghịch chối bỏ vinh quang tình yêu tha thứ của Thiên Chúa.Vì thế Mùa Chay sẽ không chỉ là thời gian hãm dẹp, nhưng phải là dịp để tôi khám phá và củng cố niềm tin Ki-tô hữu của tôi; tôi có xác tín điều đó không?
Lạy Chúa, khi mời gọi con vác Thập Giá theo chân Chúa, tức là Chúa muốn dành cho con vinh dự được tham gia vào vinh quang vĩ đại nhất của Chúa. Xin cho con, một Ki-tô hữu và Linh mục của Chúa, không còn coi Thập Giá như biểu hiện của khổ nhục và đau thương, nhưng đã trở thành biểu tượng của tình yêu vinh quang. Chính vì Thập Giá hiển dung cho con diện mạo yêu thương tự hiến của Chúa, mà con xin được say mê Thánh Giá. Xin cho Thánh Giá từ nay trở thành gia nghiệp duy nhất của đời con. A-men.
.
TÍNH PHẢN DIỆN TRONG PHẬN NGƯỜI
Lm. GB. Trần Văn Hào
Biến cố Chúa hiển dung trên núi Thabor được cả 3 thánh ký Tin mừng nhất lãm trình thuật lại. Sau khi Đức Giêsu loan báo về cái chết và sự thống khổ mà Ngài sẽ phải trải qua, một bầu khí u ám bao trùm trên các học trò của Ngài. Vì vậy 6 ngày sau, Đức Giêsu dẫn 3 môn sinh thân tín lên núi cao và biến hình trước mặt các ông, để các ông được tận mắt mục kích vinh quang sáng chói nơi Ngài. Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn ngỏ trao cho các môn đệ, là hãy can đảm đối diện mầu nhiệm Thập giá, vì con đường Thập giá sẽ dẫn đến vinh quang (Per Crucem ad Lucem). Tương tự như thế, thánh Phaolô cũng đã khẳng định : “Những ai cùng chết với Người, sẽ được cùng Người sống lại trong vinh quang” (2Tm 2, 11).
Vinh quang bị che dấu
Cha Phanxicô Amberat đã so sánh: “ Giống như một đám mây bị xé ra cho thấy ánh mặt trời rực rỡ, việc Chúa biến hình cũng xé toang đám mây trong kiếp người hèn hạ của Đức Giêsu để 3 môn đệ được chiêm ngắm vinh quang bị che dấu nơi Ngài.”
Có nhiều ảo thuật gia tài ba như Coperfield đã khéo léo sử dụng kỹ xảo để đánh lừa thị giác con người. Ông biểu diễn những màn ảo thuật như chặt đôi thân xác, đi xuyên qua tường hoặc làm biến mất ngọn tháp Eiffel rất ngoạn mục. Thế nhưng, đó chỉ là xảo thuật nhờ vào những kỹ thuật hiện đại. Trong các câu chuyện cổ tích, người ta vẫn hay tạo ra những nhân vật có phép thần thông biến hóa như Tôn Ngộ Không chẳng hạn. Song, cuộc biến hình của Đức Giêsu không phải là một màn ảo thuật. Đây cũng không phải là một câu chuyện hoang đường mang tính giả tưởng. Đức Giêsu là một ‘Thiên Chúa – Người’, một Thiên Chúa đầy quyền năng nhưng lại ẩn dấu thiên tính cao sang trong dáng dấp của một người phàm thấp kém. Nơi thiên tính, Ngài là Thiên Chúa hằng sống, Đấng không bao giờ phải chết, nhưng lại mang thân phận con người vốn hay chết. Đó là một nghịch lý vĩ đại, không phải nhằm đánh đố đầu óc suy lý của con người, nhưng đây chính là lời mời gọi đức tin để chúng ta mạnh dạn tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu trên con đường tiến về núi sọ. Mùa chay là thời gian tôi luyện, giúp chúng ta tiến sâu vào cuộc hành trình này.
Tính phản diện trong phận người
Biến cố biến hình mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc nêu bật tính phản diện ấy. Trên núi cao, ba môn đệ sung sướng mở to đôi mắt để ngắm nhìn vinh quang chói sáng nơi Đức Giêsu. Nhưng khi đối diện trước viễn ảnh Thập giá nơi vườn cây dầu, cả ba vị lại yếu đuối khép chặt đôi mắt trong giấc ngủ sâu, đến độ không thể cùng thức với Thầy mình dù chỉ một tiếng. Một Phêrô đã cao hứng xin dựng 3 lều, lại là một anh học trò nhát đảm đã 3 lần bai bải chối Chúa. Trong biến cố đầu tiên, cả 3 môn đệ vui mừng phấn khởi, nhưng trong biến cố sau, cả 3 đệ tử nghĩa thiết đều đã nhát đảm thoái lui. Tính phản diện này cũng được thánh Phaolô lột tả khi Ngài viết : “Có những điều tôi muốn làm nhưng tôi lại không làm, ngược lại có những điều tôi ghét, nhưng tôi lại cứ làm” (Rm 7,15).
Trong cuộc hành trình nội tâm mà Giáo hội gợi nhắc chúng ta suốt mùa chay, chúng ta phải nhận ra tính phản diện ấy nơi mỗi người để can đảm đi vào cuộc chiến đấu thiêng liêng. Con người ai cũng có những yếu đuối và sa ngã, nhưng không sao, Chúa Giêsu luôn ở với ta và Ngài sẽ nói với chúng ta như đã từng ngỏ lời với Phaolô: “Ơn Thầy thì luôn đủ cho anh” (2 Cor 12, 9).
Biến đổi nội tâm
Một câu chuyện ngụ ngôn Ấn Độ kể lại rằng, có một gia đình khỉ sống trong một khu rừng rậm. Trời buốt gía, lũ khỉ run rẩy vì lạnh. Chúng gom một ít củi khô để đốt hầu sưởi cho bớt rét. Một con đom đóm bay sà tới. Con khỉ đầu đàn tóm lấy và đặt vào giữa đám củi khô, vì nó tưởng đó là ánh lửa. Cả gia đình khỉ đều túm lại và phùng mang trợn má thổi thật mạnh. Nhưng, con đom đóm mãi vẫn chỉ là con đom đóm, chứ không phải là ngọn lửa. Một con chim bay ngang qua nói với lũ khỉ: “Này các bác ơi, đó chỉ là con đom đóm chứ có phải là ngọn lửa đâu”. Bầy khỉ không nghe, bắt lấy con chim và đập chết. Sáng hôm sau, người ta thấy cả gia đình nhà khỉ nằm chết cóng bên đống củi khô cùng với xác của một con đom đóm.
Trong cuộc sống đời thường của chúng ta, có rất nhiều con đom đóm xuất hiện mà chúng ta cứ ngỡ tưởng là ngọn lửa thật. Đó là những con đom đóm của tiền bạc, của danh vọng, của những lạc thú trần gian. Nếu cứ bám mãi vào những con đom đóm ấy, chúng ta sẽ chết một cách nghiệt ngã giống như đám khỉ trong câu chuyện nêu trên. Muốn thoát ra khỏi ánh sáng lập lòe của những con đom đóm giả hiệu này, chúng ta phải lột xác, phải biến hình với Chúa Giêsu, tức là phải đi vào cuộc biến đổi nội tâm một cách triệt để.
Kết luận
Một nhà tu đức nọ đã viết trong nhật ký của mình những tâm tình sau đây. ‘Lúc còn nhỏ với bao tham vọng, tôi vẫn cầu xin Chúa giúp tôi biến đổi cả thế giới này. Lớn lên khi thấy chưa làm được gì, tôi chỉ cầu xin Chúa giúp tôi biến đổi những con người mà tôi vẫn gặp thường ngày. Bây giờ khi cuộc đời đã xế chiều, tôi thấy mình rất mong manh chẳng làm chi nên chuyện, tôi chỉ cầu xin Chúa giúp biến đổi chính con người của tôi mỗi ngày’.
Michael Angelo, một điêu khắc gia tài ba, đã thổ lộ: “Đứng trước một phiến đá thô, để có được một bức tượng hoàn hảo, chúng ta cần phải biết đục đẽo và loại bỏ đi những gì thừa thãi, chứ không cần đắp thêm vôi vữa”. Cũng vậy muốn biến con người chúng ta trở nên một bức tượng sống, họa lại hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta cũng cần phải biết đục bỏ những gì dư thừa trong cuộc sống. Đó là phương cách để chúng ta đi vào sự biến đổi cách sâu xa.
Chúa biến hình trên núi cao, cũng mời gọi chúng ta ở dưới đất thấp, hãy can đảm lột xác, biến đổi nội tâm cách triệt để. Sự biến đổi ấy là điều kiện cần thiết để chúng ta tiếp nối dấu chân của Đức Giêsu, và cùng bước đi với Ngài trên con đường Thập giá.
.
Giuse Đỗ Trí Đức
Hàng năm, cứ vào ngày thứ Năm đầu tháng Hai, tổng thống Hoa Kỳ tổ chức bữa Ăn sáng Cầu nguyện tại Washington. Năm nay, tân tổng thống Donal Trump đã phát biểu để ca ngợi niềm tin tôn giáo và bày tỏ sự kính trọng đối với những người sống đức tin. Ông nói: “Trong khắp đất nước, thật dễ để nhìn ra cái mà chúng ta đã lãng quên, đó là một thực tế rằng, chất lượng cuộc sống của chúng ta không được quyết định bởi thành công về mặt vật chất, mà chính là về mặt tâm linh. Tôi xin được chia sẻ với bạn tại đây : Có những người thành công nhất về mặt vật chất, nhưng rất nhiều người trong số họ thật đáng thương, thật bất hạnh ; và có rất nhiều người chẳng có thành công gì về mặt vật chất, nhưng lại có gia đình lớn, có đức tin. Họ không có tiền, nhưng họ hạnh phúc. Với tôi, tôi phải nói với các bạn rằng, đó là những con người thành công”.
Ông Trump cũng thể hiện niềm tin mạnh mẽ của nước Mỹ như sau: “Đối với chúng ta, những con người đang làm việc tại Washington này, chúng ta phải luôn luôn không ngừng xin Chúa ban cho chúng ta trí tuệ để phục vụ người dân, tuân theo ý muốn của Ngài. Đó là lý do tại sao Thượng nghị sĩ Carlson đã cùng các thành viên Quốc hội gửi tới Tổng thống một nghị quyết chung kêu gọi đưa vào Lời thề nguyện trung thành của nước Mỹ cụm từ ‘under God’ (nghĩa là: ‘dưới sự bảo trợ của Chúa’). Bởi vì chúng ta là như vậy, và chúng ta sẽ luôn là như vậy, vì người dân Mỹ muốn chúng ta là: một quốc gia xinh đẹp dưới sự bảo hộ của Chúa.”
“Chừng nào còn có Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ đơn độc” – Tổng thống Donald Trump đã khẳng định như vậy trong Bữa sáng cầu nguyện toàn quốc.
Cái nhìn của người có đức tin luôn khác cái nhìn của người vô thần. Người có đức tin nhìn mọi sự dưới sự bảo trợ dẫn dắt của Thiên Chúa và chính đức tin giúp họ vượt qua được những khó khăn thử thách. Đó là điều Lời Chúa hôm nay muốn nói cho chúng ta.
Bài đọc một cho thấy đức tin của Abraham. Ông đã đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa và để cho Ngài dẫn dắt tương lai và cuộc đời của mình. Abraham có một cuộc sống ổn định, giàu có tại thành Ur, Thiên Chúa đã gọi ông: Hãy rời bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa của cha ngươi mà đi đến đất ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi trở thành một dân tộc vĩ đại và sẽ chúc phúc cho ngươi. Lời mời gọi của Chúa là lời hứa ở tương lai, chưa biết bao giờ sẽ ứng nghiệm. Vậy mà, Abraham đã không đắn đo ngần ngại, ông ra đi như Chúa đã nói với ông, để cho Chúa định liệu tương lai của ông. Abraham ra đi mà không biết mình đi đâu, không biết phía trước là gì, ông ra đi vì sự vâng lời và vì sự thúc đẩy của đức tin.
Thiên Chúa đã không phụ lòng Abraham. Có những lúc Ngài thử thách ông, tưởng chừng như ông không thể vượt qua, song Ngài lại nâng đỡ ông, ban cho ông sức mạnh. Lời hứa cho ông một vùng đất làm gia nghiệp và cho ông trở thành cha một dân tộc đông đúc trở thành sự khích lệ và nâng đỡ ông. Dù chưa được chạm tay vào lời hứa, nhưng Abraham vẫn tin Chúa sẽ thực hiện và hoàn toàn phó thác tương lai cho Chúa mà không oán trách hay hối tiếc.
Bài Tin Mừng cho thấy, đức tin cần thiết để giúp con người đối diện với đau khổ và khó khăn thử thách. Từ những ngày đầu, các tông đồ đi theo Chúa Giêsu với nhiều mục đích khác nhau. Các ông nuôi nhiều hy vọng mang tính vật chất, tìm kiếm địa vị, danh vọng theo kiểu trần gian. Chúa Giêsu đã phải nhiều lần thanh luyện ý hướng của các ông để các ông có thể đón nhận sự kiện tử nạn thập giá mà Chúa Giêsu sắp trải qua.
Chúa Giêsu đã dùng nhiều cách để giúp các tông đồ tin Ngài là Đấng Cứu thế, là Thiên Chúa. Biến cố biến hình trên ngọn núi cao trước mặt các tông đồ hôm nay nhắm tới mục đích đó. Trước khi nói với các tông đồ về việc: “Con người sẽ bị người ta bắt, bị hành hạ và đóng đinh trên thập giá”, Chúa Giêsu đã hé tỏ cho các ông thấy vinh quang Thiên Chúa ở nơi Ngài. Đưa các tông đồ lên núi cao, Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, y phục trở nên trắng như ánh sáng, ông Mose và ông Elia hiện ra đàm đạo với Người. Chi tiết này, Tin Mừng cho thấy, ẩn khuất đàng sau con người của thầy Giêsu, chính là một vị Thiên Chúa quyền năng. Vì biết trước rằng, cuộc thương khó Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ là một thử thách kinh khủng đối với các tông đồ nên Chúa Giêsu đã muốn dùng biến cố biến hình để gia tăng lòng tin cho các ông. Một khi tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, các tông đồ có thể đón nhận biến cố thập giá và tử nạn của Chúa Giêsu với sự bình an, tin tưởng.
Khi chứng kiến vinh quang của Thầy, các tông đồ ngây ngất trong hạnh phúc. Các ông ước ao kéo dài mãi giây phút hạnh phúc này, không muốn trở về với thực tế cuộc sống. Vì thế, Simon Phêrô thưa cùng Chúa: Thưa Thầy, chúng con được ở đây thì tốt quá! Nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Mose và một cho Elia. Thiên Chúa đã không muốn các tông đồ mải mê ngây ngất với hạnh phúc trên núi, nhưng muốn các ông trở về với hiện tại. Chúa Giêsu không cho các tông đồ kể lại với ai, để trong sự thinh lặng, các ông suy gẫm về những điều đã nghe và đã thấy.
Thiên Chúa Cha đã giới thiệu Chúa Giêsu cho các tông đồ và xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài, đồng thời đòi buộc các môn đệ phải vâng nghe lời của Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã có thể cứu con người bằng nhiều cách, nhưng Ngài lại muốn cho Con của Ngài đến ở với con người, yêu thương và cứu chuộc con người bằng cuộc đau khổ thập giá và cái chết của Ngài. Là Con yêu dấu của Chúa Cha, Chúa Giêsu đã hoàn toàn yêu mến và vâng phục thánh ý Cha. Vì thế, nhưng kẻ tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa, cũng phải có thái độ hoàn toàn vâng phục Lời của Ngài trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã giải thích cho các tông đồ rõ hơn về cuộc tử nạn của Ngài và khẳng định với các ông về việc: Con Người từ cõi chết trỗi dậy. Nói điều này, Chúa Giêsu đã đưa các tông đồ đi một bước xa hơn trong niềm tin vào sự phục sinh Ngài sắp trải qua. Quả thật, chỉ sau cuộc phục sinh của Chúa, các tông đồ có dịp suy gẫm lại các sự kiện đã xảy ra mà chúa cho các ông được thấy, các ông càng thêm đức tin và trở thành người loan báo đức tin về Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã tử nạn và phục sinh.
Theo Chúa Giêsu, chúng ta không tránh được mọi thử thách, nhưng chúng tin rằng, trong mọi thử thách, chúng ta không đơn độc, nhưng có Chúa ở bên nâng đỡ và gìn giữ chúng ta. Những lúc đau khổ, bệnh tật, thử thách liên tục như những cơn sóng vùi dập cuộc đời, chúng ta đừng hoảng loạn, đừng ngã lòng, vì tin rằng Chúa luôn cho chúng ta một giải pháp tốt nhất.
Hãy vâng nghe lời Người, đó cũng chính là điều Chúa Cha muốn nói với từng người chúng ta. Chúa muốn chúng ta nghe lời của Chúa Giêsu trong vâng phục và yêu mến. Chỉ khi tin, vâng nghe và đem ra thực hành, chúng ta mới nhận ra được sự an ủi đỡ nâng cũng như nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng biến cố khó khăn của cuộc đời.
Cuộc đời của mỗi chúng ta luôn phải trải qua vui buồn, sướng khổ, sinh, lão, bệnh, tử, xin cho chúng ta dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn biết nhìn lên Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh, để xin Ngài thêm đức tin và sức mạnh cho chúng ta vượt qua. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Sau khi được tiên báo về cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống tinh thần trầm trọng, thậm chí các ông còn ngần ngại đồng hành với Chúa lên Giêrusalem.
Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Chúa Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).
Theo tin mừng Luca và Maccô, các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).
Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc. Chúa trách mắng Phêrô, nhưng để giúp Phêrô cần có sự can thiệp của Chúa Cha. Vì thế, biến cố Biến Hình đã xảy ra (Mt 17,1-9).
Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.
Tôi có dịp hành hương lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth, xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.
Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.
Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.
Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66tcn. Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây được Nhà thờ.
Nhà thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ lối kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.
Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).
Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.
Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Chúa Biến Hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Thánh Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.
Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.
Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ. Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá. Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình, tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa. Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.
Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này. Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con. Giờ đây tôi đã già nua và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con. Và ông kết luận: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).
.
Trầm Thiên Thu
Cuộc đời thừa đau khổ nên không ai muốn tìm kiếm nó, cuộc đời thiếu hạnh phúc nên ai cũng nỗ lực tìm kiếm nó. Đau khổ và hạnh phúc là hai thứ đối lập. Không thể tránh né đau khổ, nhưng vẫn có thể tìm thấy hạnh phúc. Một cách đơn giản để sống hạnh phúc là trân trọng những gì mình đang có. Đau khổ là vấn đề bao la, và hạnh phúc là vấn đề mông mênh… Không thể có định nghĩa chính xác cho cả hai vấn đề này, chỉ có thể định nghĩa hạnh phúc theo một lĩnh vực hoặc một phương diện nào đó.
Hạnh phúc liên quan tự do: Làm công việc mình thích, đó là TỰ DO; thích công việc mình làm, đó là HẠNH PHÚC. Người ta có thể chỉ làm việc bình thường nhưng lại có thể nhờ đó mà trở nên phi thường. Những người chỉ nghĩ đến bản thân mình và tìm lợi ích cho riêng mình thì chẳng bao giờ có được hạnh phúc đích thực!
Văn thi sĩ William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ) nói: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc Rối là tạm thời, Thời Gian là thuốc bổ, Đau khổ là ống nghiệm”. Đau khổ lớn nhất của con người chính là cái chết. Văn sĩ trào phúng Mark Twain (1835-1910, Hoa Kỳ) đặt vấn đề: “Tại sao chúng ta lại vui mừng trước sự chào đời và thương tiếc ở lễ tang? Bởi vì chúng ta không phải là đương sự”.
Chúng ta biết chắc rằng hạnh phúc luôn là niềm mơ ước suốt cuộc đời của mọi người – bất luận nam, phụ, lão, ấu. Mưu cầu hạnh phúc là mơ ước chính đáng và là quyền cơ bản của con người. Hạnh phúc đa dạng, với nhiều mức độ. Hạnh phúc ở gần chứ không xa. Tuy nhiên, hạnh phúc cũng dễ khiến người ta ảo tưởng nếu đòi hỏi thái quá. Cũng như tình yêu, chẳng ai có thể định nghĩa chính xác thế nào là hạnh phúc. Tất cả chỉ là tương đối.
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc cao cấp của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó. Hạnh phúc mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí, là cảm giác thoải mái khi đạt được một giá trị, một mục đích, một kết quả,… như mình mong ước. Nhưng sự khác nhau nằm ở tính hữu hình hoặc vô hình của giá trị, của mục đích, của kết quả đạt được về nhiều lĩnh vực: tình yêu, thành công, nổi tiếng, giàu có,… Hạnh phúc và sung sướng có nghĩa gần giống nhau, hạnh phúc hiểu theo nghĩa tinh thần, trừu tượng; sung sướng hiểu theo nghĩa vật chất, cụ thể.
Tuy nhiên, nếu muốn có hạnh phúc thì phải đi tìm. Đi tìm hạnh phúc không phải là sẽ “nhặt” được nó như nhặt được một vật thể, cũng không thể ngồi chờ sung rụng, mà phải chủ động “tạo” ra nó. Nghĩa là chấp nhận với những gì mình có hiện tại thì sẽ có hạnh phúc. Hạnh phúc là không đòi hỏi. Thế nhưng không hề dễ thực hiện được động thái “chấp nhận” như vậy!
CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ…
Bác học Thomas Alva Edison (1847-1931, người Mỹ) được coi là một thiên tài, nhưng ông kết luận: “Thiên tài là một phần trăm cảm hứng và chín mươi chín phần trăm mồ hôi. Tôi chưa hề thất bại, mà tôi chỉ tìm ra mười ngàn cách không tác dụng”. Có vất vả mới biết thế nào là thảnh thơi, có đau khổ mới biết thế nào là hạnh phúc. Cũng như có bị tù đày rồi mới nhận thức được tự do và biết quý tự do. Có gian nan vất vả mới nên người, thành nhân tài. Chính đau khổ là “chất xúc tác” cho những tác phẩm giá trị. Càng dày kinh nghiệm thì tác giả càng có được những tác phẩm hay. Những người giỏi đều là những người đã từng vật lộn với cuộc sống khó khăn vô cùng. Giàu có và sung sướng không tạo nên vĩ nhân, như cụ Nguyễn Công Trứ (có người cho là của cụ Phan Bội Châu) đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả / Anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. Chúng ta thường nói rằng “thất bại là mẹ thành công”, nhưng có lẽ đó chỉ là lời nói đầu môi chót lưỡi hoặc nói để “lên lớp” người khác, còn chính mình thì run cầm cập trước đau khổ và thất bại.
Thời Cựu Ước, Đức Chúa nói rõ với ông Áp-ram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”(St 12:1-3). Cái nơi “xa vời” đó được gọi là Đất Hứa – miền đất trù mật được Thiên Chúa sắp sẵn cho ông.
Thật là “căng” lắm đấy! Cuộc sống đang ổn định, an cư lạc nghiệp, đùng một cái phải chuyển đến nơi xa lạ, chẳng biết thế nào, liệu chúng ta có dám đi không? Khi muốn tìm nơi lập nghiệp, ai cũng thăm dò trước xem có thể thuận lợi hay không chứ chẳng ai dám “nhắm mắt đưa chân”. Người ta ví von: “Ba lần dời nhà bằng một lần cháy nhà”. Chắc chắn là rất khó mà dám bước chân ra đi, bởi vì giằng co dữ dội và cần phải can đảm để có thể dứt khoát ngay.
Cũng vẫn khó ra đi dù biết rõ nơi đến như thế nào – phải ra đi vì đất quy hoạch, bị giải tỏa, có nguy cơ bão lũ hoặc động đất,… huống chi ra đi mà không biết nơi đó ra sao, ngày mai thế nào. Vậy mà “ông Áp-ram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông” (St 12:4a). Không chỉ vậy, khi rời Kha-ran, “ông Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi” (St 12:4b) chứ đâu còn trẻ trung gì nữa. Quả thật, đức tin của ông lớn quá! Vì thế ông được đổi tên Áp-ram thành Áp-ra-ham, nghĩa là “người cha vĩ đại của muôn dân tộc” (Hc 44:19).
Hoàn toàn tín thác và vâng lời ra đi theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, “ông Áp-ram đem theo vợ là bà Xa-rai, cháu là ông Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Kha-ran. Họ ra đi về phía đất Ca-na-an và đã tới đất đó” (St 12:5). Tổ phụ Áp-ra-ham ra đi vì ông hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa quan phòng và tiền định, đồng thời ông cũng vâng lời tuyệt đối. Thật vậy, Kinh thánh đã xác định: “Đức vâng lời trọng hơn của lễ” (x. 1 Sm 15:22; Tv 50:8-9). Vì vâng lời vô điều kiện, không hề so đo, ông an tâm và vui vẻ, tức là ông cảm thấy hạnh phúc. Niềm hạnh phúc của người biết tín thác vào Thiên Chúa luôn miên man và lâng lâng khó tả, chắc chắn là như vậy. Đứa bé hoàn toàn vô tư và hồn nhiên khi ở bên mẹ!
Như chúng ta đã biết, một khi Thiên Chúa hứa bất cứ điều gì thì luôn chắc chắn, luôn giữ đúng lời, vì đó là luật, Ngài làm luật nên Ngài tôn trọng luật, như Chúa Giêsu nói: “Trời đất qua đi còn dễ hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất” (Lc 16:17). Tương tự, tác giả Thánh Vịnh cũng đã trải nghiệm cuộc sống trên hành trình đức tin và chân thành chia sẻ: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:4-5). Thật vậy, “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4, 29; Tv 136:1-26).
Kinh Thánh xác định “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16) và là “Đấng giàu lòng thương xót” (Ep 2:4). Ngài luôn quan tâm thụ tạo mà Ngài đã dựng nên:“Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì” (Tv 33:18-20). Tác giả Thánh Vịnh bộc bạch với cả niềm thành tín: “Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh” (Tv 33:21). Tin tưởng nên sẵn sàng vâng lời, vâng lời hành động thì sẽ an tâm và được nếm vị hạnh phúc.
Tuy nhiên, mặc dù nhận biết Thiên Chúa tận tình như vậy, chúng ta không được ỷ lại, mà vẫn phải không ngừng cầu nguyện: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22). Tương tự, câu “xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” nghĩa là chúng ta trông cậy ở mức nào thì được nhận lòng thương xót như vậy, chúng ta tha thứ cho người khác ra sao thì được nhận ơn tha thứ như thế. Đó là công bình, là công lý, và cũng là chân lý. Không thể CHO ít mà đòi NHẬN nhiều. Thiên Chúa không bao giờ “bù lỗ” cho ai theo kiểu đó, nghĩa là không có chuyện “ngồi mát ăn bát vàng”.
Thánh Phaolô ân cần căn dặn: “Anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (2 Tm 1:8). Tuy nói với Ti-mô-thê, nhưng cũng là lời nhắc nhở đối với mỗi chúng ta. Chắc chắn mọi người, không trừ ai, đều phải nỗ lực ngày đêm!
Nhưng mà tại sao lại phải nỗ lực làm chứng như vậy? Đơn giản thôi, vì đó là lý do tất yếu. Thánh Phaolô cho biết: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, KHÔNG PHẢI vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do KẾ HOẠCH và ÂN SỦNG của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” (2 Tm 1:10). Ôi, thật là chí lý và thấm thía quá chừng!
Trên hành trình đức tin ở trần gian, nếu thực hiện được như vậy thì chúng ta chắc chắn sẽ được tận hưởng niềm hạnh phúc trong Đức Kitô, được trường sinh và vĩnh cư trong Vương Quốc Hằng Sinh của Thiên Chúa. Đó chính là niềm hạnh phúc miên viễn và tuyệt đối, mục đích cuối cùng của mọi Kitô hữu!
…ĐỂ CÓ HẠNH PHÚC
Có tài mà không khổ luyện cũng vô ích. Thiên tài thần đồng âm nhạc Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791, Áo quốc) cũng chỉ “lên tay” sau khi trau giồi thêm về chuyên môn. Ai khổ luyện thì sẽ thành tài. Vất vả trồng cây thì sẽ có ngày hưởng trái ngọt. Đó là quy luật chung muôn thuở, như người Việt cũng nói: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Đó là điều tất nhiên và hoàn toàn hợp lý!
Sáu ngày sau khi Đức Giêsu nói về cuộc thương khó, Ngài đem theo các đệ tử thân tín nhất là Phêrô cùng với hai anh em Giacôbê và Gioan. Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, và y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng. Các ông chưa hết ngỡ ngàng thì bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài. Lạ quá chừng luôn!
Hạnh phúc là đây. Và quá hưng phấn, ông Phêrô thưa ngay với Thầy Giêsu mà không cần so đo tính toán chi cả: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mt 17:4). Ông không hề nhắc tới việc làm lều cho ba anh em, nghĩa là sao cũng được, ở giữa “khách sạn ngàn sao” cũng vẫn tốt, miễn sao cứ vui hưởng hạnh phúc thế này là được thôi. Các ông được sống trong niềm hạnh phúc khôn tả đó là được nếm thử hạnh phúc Nước Trời, nhờ đó mà đủ sức chịu cực khổ ở trần gian này.
Sự lạ và điều kỳ diệu đan chéo vào nhau. Chưa hết ngạc nhiên này lại có ngạc nhiên khác. Và một lần nữa, các ông lại tròn mắt chữ O và tròn miệng chữ A. Ngạc nhiên nhưng mà rất thú vị. Sướng rơn! Ngay khi ông Phêrô còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ họ, và có tiếng vọng ra từ đám mây phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17:5). Trước đó không lâu, sau khi Thánh Gioan Tẩy giả làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu tại sông Giođan, Thiên Chúa Cha cũng đã xác nhận tương tự về Đức Kitô Giêsu, Con Yêu Dấu của Ngài: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”(Mt 3:17).
Nhưng lần này thì khác hẳn, khác lắm. Vừa mới nghe như vậy thì các ông liền kinh hoàng và ngã sấp mặt xuống đất. Chu choa, hết hồn luôn! Thế nhưng chẳng ai làm sao, không xây xát chút nào, mặc dù té lăn cù trên đá sỏi lởm chởm như thế. Lạ hết sức!
Thấy các đệ tử như vậy, Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi,đừng sợ!” (Mt 17:7). Các ông ngước mắt lên, và không còn nhìn thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu mình ên đứng ngay đó. Mèn ơi, kỳ lạ thật đấy, chả hiểu gì ráo trọi!
Sau đó, khi Thầy trò trên đường từ núi xuống, Đức Giêsu nói với họ: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” (Mt 17:9). Các ông im lặng nhưng chắc là gãi đầu miết thôi, bởi vì chả hiểu át giáp gì cả, thế nhưng các ông cũng không dám hỏi Thầy, dù chỉ nửa lời. Kỳ diệu lắm, lạ lùng vô cùng, nhưng chắc chắn họ cũng cảm thấy “đã” lắm!
Niềm hạnh phúc ở trên đỉnh Ta-bor liên quan nỗi sầu thương trên đỉnh Can-vê. Cuộc sống nhân gian cũng vậy, không thể ngồi rung đùi rồi đòi bổng lộc. Các môn đệ cũng đã từng đặt vấn đề rằng họ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, thế nên họ muốn có quyền lợi gì đó tương xứng. Chúa Giêsu nói: “Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10:29-30). Ta-bor và Can-vê không thể tách rời!
Trong các Phúc Âm nhất lãm, chỉ có Thánh Mác-cô đề cập “sự ngược đãi” trong phần nói về vấn đề này. Văn phong của Thánh Mác-cô có nét đặc thù là “trực tiếp, cụ thể, và sống động”. Người ta chỉ chú ý đến được cái này, hưởng cái nọ, nhưng có lẽ ít người lưu ý tới “sự ngược đãi” kèm theo các “bổng lộc” kia. Đừng quên rằng chính đau khổ cũng là phần thưởng mà Chúa Giêsu muốn trao cho những ai đi theo Ngài.
Hồng ân Thiên Chúa dạt dào
Khổ đau, hạnh phúc, u sầu, mừng vui,…
Đều là ơn Chúa mà thôi
Con xin cảm tạ suốt đời nhân gian!
Một bản nhạc không chỉ có những nốt nhạc, mà có cả những dấu lặng. Các nốt nhạc và các dấu lặng cũng có những trường độ khác nhau. Có thể coi các nốt nhạc là những “khoảng” hạnh phúc (với các cao độ khác nhau), còn các dấu lặng là những “khoảng” đau khổ. Các nốt-nhạc-hạnh-phúc liên kết với các dấu-lặng-đau-khổ để dệt nên bản-nhạc-cuộc-đời của mỗi chúng ta.
Lạy Thiên Chúa chí thánh chí ái, cúi xin Ngài tha thứ cho con về những điều con mơ ước mà không hợp Ý Ngài, xin chấn chỉnh nếp nghĩ của con cho đúng đường lối công minh của Ngài. Xin ban thêm ba nhân đức đối thần để con đủ sức vượt qua mọi trở ngại trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc đích thực là chính Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của nhân loại. Amen.
.
BIỂU LỘ VINH QUANG TRƯỚC KHI BƯỚC VÀO CUỘC TỬ NẠN
P. Trần Đình Phan Tiến
Vâng, kính thưa quý vị, hôm nay chúng ta bước vào tuần II Mùa Chay, chúng ta thấy gì ? Thưa, Lời Chúa trình thật cho chúng ta thấy “ vinh quang của Đức Kitô”. Điều gì làm cho chúng ta nhận ra vinh quang của Người ? Thưa, đó là sự” Biến Hình “trên núi Tabore.
Vâng , để tỏ lộ uy quyền của một Ngôi Vị Thiên Chúa và Sứ Vụ Kitô của Người, sau khi Người đã chiến thắng cám dỗ. Việc chiến thắng cám dỗ của Chúa Giêsu minh chứng Người sẽ đánh bại thần chết, bởi vì, dù là Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng, Người đã chấp nhận, tự nguyện mang bản tính phàm nhân, là chấp nhận mang thân phận hữu hình của nhân thế để đi vào nhân thế. Vì vậy, dù là mang nhân tính, nhưng, Người vẫn kết hiệp Thần Tính của Người là Thiên Chúa, nên chi, dù satan cám dỗ ba lần, Người vẫn dùng Lời “quyền năng” để đáp trả.
Nếu, khi chúng ta bị cám dỗ, chúng ta noi gương Chúa Giêsu, kết hiệp chặt chẽ vào Người, có nghĩa là biết tháp nhập nhân tính của chúng ta vào Thiên Tính của Chúa Giêsu, thì chúng ta sẽ chiến thắng satan. Satan là hình vi gian dối, sự lừa bịp, xảo trá, bất chính, đen tối. Tất cả những thứ đó không thể chiến thắng chân lý, tình yêu, công chính và ánh sáng được, vì Chúa Giêsu là chân lý, tình yêu, công chính và ánh sáng.
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại sự kiện “Biến Hình” của Chúa Giêsu là để củng cố “niềm tin” cho các môn đệ của Người và cho chúng ta. Khi bước vào hoang địa chịu satan cám dỗ, Chúa Giêsu không đem theo môn đệ, nhưng, sau khi chiến thắng cám dỗ bởi satan, thì Người đem theo môn đệ và “Biểu lộ” Thần tính của Người trước mặt các ông.
Như vậy, chúng ta thấy điểm nổi bật ở đây là :
Trùng khớp với :
Chúng ta thấy hai điểm “trùng khớp” huyền diệu đến ngỡ ngàng , vì “lướt thắng cám dỗ” của Chúa Giêsu đống nghĩa với “Tử nạn trên Thánh giá”, chúng ta thấy, về ( câu chữ và ý nghĩa thế gian) có vẻ như trái nghịch. Bởi vì, chiến thắng phải dẫn đến sự sống, tại sao ở đây” chiến thắng cám dỗ” lại được so sánh với cuộc tử nạn. Thưa, cuộc Tử nạn trên Thập giá của Chúa Giêsu chính là một sự “ chiến thắng”, bởi vì, “Qua Thập Gía đến Vinh Quang”. Nếu như, không có cuộc Tử Nạn trên Thập giá, thì chắc chắn không có Phục Sinh. Vì, Phục Sinh là “hệ quả” của “cái chết”. không ai có thể “ không chết” mà “phục sinh”. Như vậy, muốn được phục sinh, thì phải “bị chết”, vâng, đó là hợp lý.
Từ đó suy ra, “Cuộc Tử Nạn trên Thập giá” của Chúa Giêsu, đồng nghĩa với “ sự chiến thắng cám dỗ” của Người” trong hoang địa. Vì “ chiến thắng cám dỗ “ là “ chết “ đi cho tham vọng, dục vọng, ham muốn trần thế vinh hoa, chỉ sống cho Thiên Chúa và Lời Chúa. Vì, nhịn chay bốn mươi đêm ngày, là “ chết “ đi theo nghĩa “thân xác”, nhịn ăn cơm bánh, là nhịn sự sống thân xác, để sống cho Thần Khí là Lời Hằng Sống. Nhịn ăn trong thời gian nhất định, là chấp nhận “ chết “ đi cho thân xác, có nghĩa là hy sinh , dẫn đến Hy Tế Thập Gía muôn đời. Như vậy, việc chay tịnh ( trai tịnh) mới có giá trị của nó. Vì vậy, được gọi là hãm mình.
Từ đó dẫn đến, Mầu Nhiệm “ Biểu lộ Thần Tính “ trên núi Tabor và Vinh Quang “ Phục Sinh”
Như vậy, “ chiến thắng cám dỗ” đồng nghĩa với “Tử Nạn trên thập Gía”, vì “ Chiến thắng cám dỗ ”là chết cho thân xác. Như “ cái chết “ cho thân xác là khi “ lướt thắng cám dỗ”, đó là một “cuộc Tử Nạn trên Thập giá“ . Như vậy, hai “ mầu nhiệm “ bổ túc cho nhau sự “lướt thắng cám dỗ” của Chúa Giêsu trong hoang địa là một cuộc “ Tử nạn “ trên Thập giá.
Chúng ta thấy, ý nghĩa giữa “ lướt thắng cám dỗ” dẫn đến mầu nhiệm Biến Hình trên núi Tabore, ở mức độ nhẹ hơn, cấp thấp hơn , còn , mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh ở cấp cao hơn.
Theo đó, mầu nhiệm Biến Hình trên núi Tabore của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy người là Thiên Thúa và là Người thật, Người thật là ” Con Đức Chúa Trời”, vì Lời Chúa Cha phán trong đám mây rằng : “ Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người . Các ngươi hãy nghe Lời Người “ ( c 5)
Vâng, từ sáng thế đến lúc ấy, chưa có nhân vật nào được Thiên Chúa tuyên phán như vậy. Một Lời tuyên phán rõ ràng từ Thiên Chúa đối với Chúa Giêsu, hơn muôn vạn lời giới thiệu của Gioan Tẩy giả : “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh để xóa tội trần gian…”.
Vâng, từ đó “Con đường Thập giá “ là “ Con đường chay tịnh”, vì vậy, Mùa Chay là Mùa “tử nạn “trên thập giá, từ ngày Chúa Giêsu “chịu cám dỗ” và ” chiến thắng cám dỗ ”. Như vậy, việc bị cám dỗ không đáng sợ, mà là đáng sợ là ”sa chước cám dỗ”.
Như vậy, khởi đi từ Bài đọc I hôm nay ( St 12, 1-4a), Thiên Chúa gọi và tuyển chọn Ápraham, một con người ” có đức tin”. Đức Kitô là hình bóng củaTổ Phụ Ápraham, tổ phụ của “lòng tin“. Thiên Chúa kêu gọi gìn giữ, và chúc phúc cho ông. Nhưng, Đức Kitô thì phải hơn hẳn , bởi Người là ”Con Thiên Chúa”. Người không thể chết như phàm nhân, bởi Người đã “sống “ bằng LỜI của Thiên Chúa.
Theo đó, việc Biểu lộ Thần Tính hôm nay trên núi Tabore của Chúa Giêsu, là biểu lộ sự chiến thắng tử thần của Đức Kitô, mà theo Bài đọc II, thánh Phaolo cho chúng ta biết trong thư ( 2Tm 1, 8b – 10). Một dấu chỉ “tiên trưng” của sự Phục Sinh.
Lạy Chúa Giêsu , Chúa đã biểu lộ uy quyền Thiên Tính, hầu củng cố niềm tin cho chúng con, xin thương ban ơn giúp sức cho những ai khao khát kiếm tim Chúa được no thỏa vì ánh sáng đức tin, và những ai còn ngồi trong bóng tối sự chết, xin cho họ được ánh sáng vinh quang của Người chiếu soi, hầu trở nên con cái sự sáng, thoát khỏi tối tăm của satan. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời./ Amen.
.
Lm. Anthony Trung Thành
Ở đời, để thu phục người khác theo mình, người ta thường hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp ở đời nay như: tiền bạc, địa vị và danh vọng. Với Đức Giêsu thì khác, Ngài không hứa hẹn những điều tốt đẹp ở đời này, nhưng trái lại Ngài mời gọi những ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo (x. Mt 16, 24).
Hơn thế nữa, Ngài còn cho biết, chính Ngài cũng phải đi con đường đau khổ: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Mt 16, 21). Trước lời mời gọi từ bỏ mình và vác thập giá, đặc biệt là lời tiên báo về sự đau khổ của Ngài, hầu hết các Tông đồ đều lo lắng, buồn phiền. Thậm chí, Thánh Phêrô còn can ngăn Đức Giêsu không nên dấn thân vào con đường đau khổ: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 22). Vì thế, Phêrô đã bị Đức Giêsu quở mắng một cách nặng nề: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23). Mặc dầu Đức Giêsu trách mắng Phêrô và không hài lòng về thái độ của các Tông đồ, nhưng trong thâm tâm, Ngài vẫn thông cảm cho “tư tưởng con người” nơi các ông. Ngài muốn tìm cách khác để thuyết phục các ông chấp nhận đau khổ, chấp nhận “tư tưởng của Thiên Chúa.” Chính vì thế, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, sáu ngày sau, Ngài đưa ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi và biến hình trước mặt các ông: “Mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người” (Mt 17,1-2). Chứng kiến cảnh tượng đó, các ông thích thú vô cùng. Các ông không muốn rời khỏi nơi đó. Thánh Phêrô đã thưa với Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”(Mt 17,4).
Tuy Thánh Phêrô tha thiết xin Thầy ở lại đó, nhưng Đức Giêsu lại mời gọi các ông xuống núi. Nghĩa là Ngài mời gọi các ông trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Cuộc sống đó sẽ kết hợp cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Cuộc sống đó sẽ kết hợp cả hạnh phúc lẫn đau khổ. Cuộc biến hình trong chốc lát nhắc nhở các ông muốn tới vinh quang phải trải qua đau khổ. Đó là con đường Đức Giêsu đã đi. Đó cũng là con đường của các Tông đồ và các kitô hữu qua mọi thời đại phải đi qua. Vì “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).
Qua Tin Mừng chúng ta thấy, chỉ có Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan được vinh dự chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giêsu. Bởi vì, rồi đây, ba vị sẽ đóng những vai trò quan trọng trong Giáo hội sơ khai: Thánh Phêrô là vị Giáo Hoàng đầu tiên, Ngài đã đổ máu mình ra làm chứng cho Đức Giêsu; Thánh Giacôbê là vị tử đạo tiên khởi trong số các Tông đồ; Thánh Gioan là vị chứng nhân cuối cùng của các Tông đồ. Như thế, cuộc biến hình của Đức Giêsu không những cũng cố đức tin cho ba vị, mà qua đó, ba vị có nhiệm vụ cũng cố đức tin cho các Tông đồ khác và cho các kitô hữu và toàn thể Giáo hội. Bởi vì, khi có niềm tin vững mạnh vào sự Phục Sinh, ba vị, các Tông đồ cũng như các kitô hữu mới can đảm vượt qua được những thử thách, đau khổ trong cuộc sống, nhất là những đau khổ trong sứ vụ loan báo Tin mừng.
Bài đọc II, Thánh Phaolô mời gọi Timôthê rằng: “Hãy đồng lao cộng khổ với tôi vì Tin mừng” (2Tm 1,8b). Thật vậy, để cộng tác trong việc loan báo Tin mừng cần phải chấp nhận hy sinh, đau khổ. Chính Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy kinh nghiệm đau khổ của bản thân Ngài qua thư Côrintô. Ngài kể lại rằng: “Năm lần tôi bị người Dothái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!” (2 Cor 11, 24-28).
Không phải chỉ trong thời Tân Ước, mà ngay chính thời Cựu Ước, Thiên Chúa cũng mời gọi con người chấp nhận sự hy sinh và từ bỏ. Bài đọc I, cho chúng ta thấy Thiên Chúa mời gọi ông Abraham từ bỏ quê hương xứ sở để lên đường đi tới nơi Ngài sẽ chỉ cho: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi”(St 12,1). Từ bỏ nơi đang sống yên ổn để đi đến nơi chưa biết quả là một sự hy sinh to lớn. Nhưng ông Abraham đã vâng lời Thiên Chúa, ông đã chấp nhận từ bỏ quê hương xứ sở, phó thác tương lai cho Chúa, để lên đường đến nơi Thiên Chúa đã định.
Đối với chúng ta ngày hôm nay, mặc dầu mang danh là kitô hữu nhưng có lẽ nhiều lúc chúng ta cũng giống như Phêrô và các Tông đồ xưa, “thích sướng ngại khổ.” Nhiều khi chúng ta khăng khăng đòi hỏi quyền lợi cho mình nhưng lại không muốn chu toàn bổn phận. Chúng ta phấn khởi có mặt trong những ngày vui của Giáo xứ, của đoàn thể này khác, nhưng lại ít dấn thân trong các công việc được giao. Chúng ta mong muốn được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng nhưng lại không muốn đi con đường hẹp.
Ước gì mỗi người kitô hữu chúng ta hiểu được ý nghĩa của đau khổ. Để từ đó luôn chấp nhận dấn thân trong việc đi theo Chúa, chu toàn bổn phận người kitô hữu, đặc biệt nhiệm vụ loan báo Tin mừng. Ngõ hầu, chúng ta không chỉ được chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu trong chốc lát mà còn được hưởng trọn vẹn vinh quang của Đức Giêsu trên thiên quốc muôn đời. Amen.
.
Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng
Khác với Chúa Nhật trước, hình ảnh Chúa Giêsu mà chúng ta thấy trong bài Phúc âm hôm nay thực rực rỡ, thật oai phong và vinh hiển: Hình ảnh Chúa biến hình trên núi Tha-bor.
Sau khi tiên báo cho các môn đệ biết mình sẽ phải chết và chết cách nào, Chúa Giêsu đã đưa 3 môn đệ yêu dấu nhất lên một ngọn núi trong miền Giuđê, núi Tha-bor. Ở đó trước sự hiện diện của Môisen và Êlia, Chúa Giêsu đã biến hình. Phúc âm kể rằng: “Ngài trở thành sáng chói như mặt trời và áo Ngài lúc bấy giờ trắng như tuyết”.
Nhưng tại sao Chúa Kitô lại biến hình? Ngài biến hình để làm gì?
– Khi chúng ta nhìn Chúa Giêsu biến hình sáng láng.
– Khi chúng ta thấy Chúa Kitô phục sinh vinh hiển, chúng ta nghĩ đến số phận đặc biệt Chúa dành cho chúng ta.
– Được chịu phép rửa trong Chúa Kitô, chúng ta trở thành con cái Chúa.
– Nhờ bí tích Thánh Thể, chúng ta được tiền định sống lại với Chúa Kitô trong vinh quang. Đúng thế, Thánh Phaolô đã nói: “Chúng ta là công dân của Nước Trời, với quyền lực Thiên Chúa, Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”. (Ph 3,17)
Thưa anh chị em.
Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình thật đẹp đẽ. Cũng như thánh Phêrô, chúng ta muốn cất nhà ở lại trên núi Tha-bor để được ngắm cảnh thần tiên tuyệt diệu. Nhưng cũng như Chúa Giêsu, sau mấy phút êm đềm, Ngài đã phải xuống khỏi núi để vào thành Giêrusalem, và từ đó, người ta dẫn Ngài lên “núi Sọ”.
Mỗi người trong chúng ta cũng phải vào sa mạc của cuộc sống hằng ngày, với bao thánh giá thử thách và đau khổ. Vì chỉ có con đường thánh giá mới đưa chúng ta sống lại vinh quang.
Lạy Chúa, con muốn bước đi theo Chúa, theo Chúa mỗi ngày. Xin Chúa đồng hành với con để dẫn dắt con lên núi thánh của Chúa.
.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Thánh lễ Chúa Nhật hôm nay có nhiều tên gọi:
Người thì gọi là Chúa Nhật Chúa biến hình
Người thì gọi là Chúa nhật Chúa hiển dung.
Gọi là Chúa nhật Chúa biến hình hay Chúa nhật Chúa hiển dung… đàng nào cũng có lý.
Riêng đối với tôi, tôi thích gọi là Chúa nhật Chúa biến hình và hiển dung. Hơi tham lam một chút nhưng gọi như thế mới lột hết được nội dung của biến cố Chúa thực hiện trước mặt các môn đệ rất thân tín của Chúa hôm nay.
– Việc Chúa biến hình và hiển dung hôm nay là một việc quan trọng. Việc này được cả ba Tin mừng nhất lãm tức là Tin mừng Thánh Mathêô, Thánh Marco và thánh Luca ghi lại.
Câu truyện này xảy ra 6 ngày sau khi Phêrô long trọng tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Điều đáng chú ý là ngay sau đó, lần đầu tiên Chúa báo trước cho các môn đệ của Ngài biết là Ngài sẽ bị bắt, bị tra tấn và cuối cùng sẽ phải chịu chết.
Lời loan báo của Chúa làm các tông đồ choáng váng. Phêrô không chịu nổi trước lời loan báo đó nên ông đã công khai lên tiếng can ngăn. Phêrô tưởng làm như thế là làm vui lòng Thầy. Có ngờ đâu là lại bị Chúa quở mắng cho một trận thậm tệ. Chúa bảo Phêrô là đồ Satan. Chúa đuổi Phêrô cút xa cho khỏi mắt Ngài.
Và có lẽ vì muốn cho các môn đệ không phải quá thất vọng về mình nên Chúa đã thực hiện cuộc biến hình và hiển dung hôm nay.
Khi chú giải về đoạn Tin Mừng hôm nay, SGLM số 568 đã viết như sau: “Cuộc Hiển Dung của Chúa Ki-tô nhằm mục đích củng cố đức tin của các tông đồ trước cuộc khổ nạn: việc leo lên “núi cao” chuẩn bị việc leo lên Núi Sọ. Đức Ki-tô, Đầu của Hội Thánh, bày tỏ “niềm hy vọng đạt tới vinh quang” mà Thân Thể Người ấp ủ và chiếu tỏa qua các bí tích (Cl 1,27) (x. T. Lê-ô cả, bài giảng 51,3).
Sau này khi nhớ lại câu truyện ông đã từng được chứng kiến, Phêrô đã viết như thế này: “Khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường được thêu dệt một cách khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người…”(2P1,16-17)
Vâng! Cuộc biến hình và hiển dung của Chúa đã làm cho các môn đệ vững tin hơn. Tuy nhiên niềm tin ấy còn phải được củng cố thêm bằng biến cố Phục sinh. Chỉ sau biến cố Phục sinh và được Chúa Thánh Thần biến đổi, các tông đồ mới trở thành những người hoàn toàn thuộc về Chúa.
Thử hỏi câu truyện hôm nay sẽ đem lại cho chúng ta bài học gì? Có nhiều bài học nhưng ở đây tôi chỉ muốn nói đến sự biến hình.
* Có loại biến hình làm cho chúng ta phải sợ
Nhiều người đã được trông thấy bức ảnh Tiệc Ly của nhà danh hoạ Leonard de Vinci có Chúa Giêsu và 12 tông đồ ăn bữa sau hết.
Họa sĩ muốn tìm một khuôn mặt thật dịu dàng và nhân từ, đẹp đẽ, để hình dung nét mặt cực thánh của Chúa Giêsu, thì may mắn làm sao, lúc vào một nhà thờ kia, ông thấy trong đám thanh niên hát lễ, có Pietro Bandenelli, một thanh niên có nét mặt khôi ngô phi thường. Sau một hồi nói truyện, cậu đã bằng lòng theo ông về sở để làm mẫu cho ông vẽ. Cặm cụi vẽ xong, họa sĩ đem treo ở xưởng, và ai hỏi mua ông cũng không bán.
Sau đó hai năm, họa sĩ lại băn khoăn vì đã mất nhiều thời gian mà chưa tìm ra được người nào có nét mặt cứng cỏi và xấu xí tượng trưng cho cái mặt của Giuda. Ông vào một ngõ hẻm, thì gặp một người bẫn thỉu, xấu xa, xốc xếch, giơ tay xin ông bố thí. Ông nghĩ bụng, dầu có đi hết các phố chợ, có lẽ cũng chẳng gặp ai xấu hơn chàng này. Ông bảo chàng đứng dậy đi theo về nhà để ông vẽ cho xong bức ảnh kia, bức ảnh còn thiếu Giuda nữa là xong.
Khi bước vào nhà, trông thấy bức tranh, chàng tự nhiên khóc lên. Chủ nhà cũng như mọi người trong phòng đều ngạc nhiên không hiểu lý do. Người ta gặng hỏi, chàng trỏ tay lên bức ảnh và nói:
– Ông quên tôi rồi sao? Cách đây hai năm, tôi đã được ông mời đến đây để làm mẫu cho ông vẽ. Khi ấy tôi đẹp đẽ, đã được ông ca tụng và lấy làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu. Nhưng sau đó tôi đã nhẹ dạ theo chúng bạn, tôi đâm ra chơi bời, sa đọa; ngày nay trong cảnh túng thiếu, bị các bạn và anh em bỏ rơi, tôi chỉ còn trông cậy vào đức ái của ông mà thôi.
Vâng một cuộc biến hình nhưng thật đáng ghê sợ.
Ngày nay cũng không thiếu gì những cảnh biến hình như thế.
* Và có những việc biến hình làm cho chúng ta mong ước
Trong biến cố hôm nay Chúa đã làm biến đi tất cả những gì thuộc về con người trần thế của Ngài để cho sau đó hình ảnh về Thiên Chúa nơi Ngài sau đó được hiển lộ ra.
Cuộc đời của một người Kitô hữu trên con đường tiến về nhà cha trên trời cũng phải tương tự như thế. Mỗi ngày sống trên trần thế này là mỗi một cuộc lột xác biến hình và hiển dung.
Cha John Diamond một nhà giảng thuyết nổi tiếng bên Mỹ có kể lại câu truyện này: “Hôm đó có một linh hồn vì chán ngấy cuộc sống ở thế gian cho nên đi lên trước cửa Thiên đàng. Tới nơi linh hồn gõ cửa. Ở trong có tiếng hỏi vọng ra: “Ai đó” – Linh hồn trả lời: “Con đây ạ” .
Cửa vẫn đóng.
Sau đó linh hồn lại trở về với đời sống ở trần thế tìm thầy học đạo. Sau một thời gian thấy mình đã tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa thiên đàng một lần nữa. Lại một tiếng hỏi từ bên trong như lần trước và linh hồn trả lời một cách quả quyết hơn: “Dạ chính con đây”
Cửa vẫn đóng.
Linh hồn lại phải trở về trần thế… mở sách Tin Mừng để xem Chúa muốn gì. Quả thực khi mở Tin Mừng ra linh hồn mới thấy con đường của mình phải đi là con đường nào. Đó là con đường tự hủy. Chúa nói thật rõ về con đường phải làm chết cái tôi ích kỷ, hay khoe khoang phô trương, hay tự mãn, hay ghen ghét. Phải làm chết đi cái tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và đầy dẫy những ham muốn bất chính để làm cho con người của mình dần dần được giống Thiên Chúa là Cha ở trên trời.
Sau một thời gian thấy mình quả thực đã không còn là mình nữa thì linh hồn lại lên trời…lại gõ cửa…lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng ra: “Ai đó?”
Vừa nghe xong câu hỏi linh hồn đáp lại ngay: “Dạ thưa chính Chúa đấy ạ”.
Vừa trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên đàng được mở ra và cả một đạo binh các thiên thần long trọng đón linh hồn vào thiên đàng.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Người đời thường nói : “qua gian nan mới biết ai là bạn”. Bởi người bạn thực sự sẽ không bỏ rơi ta trong lúc nguy nan. Người bạn thực sự sẽ đồng hành với chúng ta trong những thăng trầm cuộc sống. Người bạn thực sự sẽ ở lại bên ta dù ta trắng tay chẳng có gì đền đáp ân tình.
Nhưng dường như thế thái nhân tình có mấy ai tìm được người bạn sẵn lòng chia sẻ gánh vác với ta khi hoạn nạn? Thói đời vẫn bạc như vôi đến nỗi nhà thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng thốt lên:
“Thế gian biến đổi vũng nên đồi
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi
Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu hết ông tôi”
Dẫu biết rằng xưa nay đều trọng người chân thực. Ở đời vẫn ca ngợi những tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho nhau một cách vô vị lợi. Có khi còn dám hy sinh cả tính mạng để bảo vệ cho công lý, và sự thật.
Xưa nay đều trọng người chân thực
Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến khó tìm lui.
Thế nhưng, thói đời thường khi giầu thì có nhau khi nghèo lại dễ xa nhau. Con người đến với nhau luôn vì lợi ích bản thân nhiều hơn chân thành. Lợi thì tới. Thiệt thì lui. Ở đời đâu dễ tìm được người sẵn lòng hy sinh đồng cam cộng khổ vì chúng ta. Ở đời đâu dễ giữ trọn chữ tín để sẵn lòng ở bên nhau trong hoạn nạn gian truân!
Chúa Giê-su trong thân phận con người cũng trải qua những “Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi” của tình người. Ngài cũng được người đời có khi tán dương và có lúc tẩy chay. Ngài cũng được các môn đệ vây quanh khi thành công nhưng cũng chẳng còn ai khi bị kết án giữa công đường. Ngài cũng nếm cảnh trần tụi của tình người: “Giàu thì tìm đến khó tìm lui”. Khi hóa bánh ra nhiều thì có hàng vạn người tuôn đến với Ngài. Khi bị dẫn đến dinh Caipha thì hàng vạn người ấy lại giơ tay đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Hôm nay trên núi Tabor Chúa cho các môn đệ được hưởng những giây phút vinh quang tràn ngập hạnh phúc bên núi Chúa, đồng thời cũng mời gọi các ngài hãy cùng Ngài uống chén đắng Chúa Cha trao. Chúa cho họ thấy vinh quang luôn gắn liền với thập giá. Thành công phải có gian nan. Càng gian nan thì thành công càng mỹ mãn. Theo Chúa phải chấp nhận cùng Chúa đi trên con đường thập giá hy sinh. Chấp nhận uống chén đắng cuộc đời nhưng sau đêm dài là ánh bình minh. Sau khổ đau là vinh quang phục sinh.
Đáng tiếc là các môn đệ đã không vượt qua nỗi sợ hãi khi đối diện sự dữ. Các ông đã bỏ Chúa một mình khi gian nan. Lời hứa cùng chết với Thầy chỉ là lời trên đầu môi chóp lưỡi. Chúa vẫn cô đơn trên con đường thập giá.
Dầu vậy, tình yêu Chúa luôn vượt thắng những ích kỷ của con người. Ngài vẫn yêu và yêu cho đến cùng. Chính tình yêu trung kiên ấy đã cho Phê-rô và các bạn cơ hội đền đáp tình yêu. Chính tình yêu bao dung ấy đã cho các môn đệ chuộc lại lỗi lầm bằng việc cùng uống chung chén đắng với Thầy.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những người bỏ Chúa vì một chút danh vọng. Họ bỏ Chúa vì theo Chúa phải hy sinh, phải đi vào con đường hẹp. Đôi khi còn thiệt thòi. Họ đâu hiểu rằng: Chúa mới là gia nghiệp cuộc đời. Có Chúa là có tất cả. Những thử thách gian truân đời này sẽ qua và vinh quang thiên quốc thì bất tử.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những vợ chồng lỗi lời thề khi họ bỏ mặc nhau trong nghèo khó, bệnh tật, tai ương. . . Họ đã không thể đi cùng nhau trong gian khó vì bản tính ích kỷ chỉ lo cho mình đã khiến họ có lỗi với nhau.
Ước gì chúng ta luôn biết học nới Chúa dám sống cho người mình yêu. Dám hy sinh, dám cống hiến cho dẫu có thiệt thòi bản thân. Ước gì trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn phó thác nơi Chúa. Khi vui-khi buồn. Khi thành công hay thấy bại luôn xin vâng theo thánh ý Chúa. Xin đừng vì những danh lợi thú trần gian mà lạc xa tình Chúa. Amen.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Chúa cùng môn đệ lên cao,
Ta-bo đỉnh núi, tuôn trào phúc ân.
Giê-su chí thánh thiện chân,
Biến hình dung mạo, tinh vân sáng ngời.
Mặt Người chiếu sáng mặt trời,
Áo Người trắng tuyết, cao vời đẹp thay.
Môi-sen xuất hiện nơi này,
Cùng Ê-li-á, trình bày ước mơ.
Phê-rô lên tiếng thỉnh nhờ,
Ba lều muốn dựng, mong chờ van xin.
Đám mây bao phủ đứng nhìn,
Ba Ngài ẩn bóng, niềm tin dạt dào.
Trời mây mở cửa đón chào,
Con Ta yêu dấu, thiên cao từ trời.
Các ngươi hãy nghe lời Người.
Tồng đồ sợ hãi, mây dời thoáng qua.
Tới gần an ủi cả ba,
Các con đừng sợ, ý Cha trên trời.
Hiển dung mầu nhiệm diệu vời,
Đồng lòng giữ kín, tới thời phục sinh.
Sự kiện Chúa biến hình trên núi là niềm hy vọng cho mọi kẻ tin vào vinh quang ngày sau. Một phút chốc tỏ hiện trong ánh quang, Chúa Giêsu đã củng cố niềm tin và hy vọng của các tông đồ. Chúa Giêsu đã mặc khải điều được ẩn dấu trong con người bình thường. Ngài hạ thân làm người như mọi người. Ngài đã lên núi cao bỏ lại đằng sau những vẩn đục của trần thế. Chúa biến hình có nghĩa là Chúa tỏ hiện bản tính Thiên Chúa trong con người của Ngài.
Ánh sáng thần tính soi dọi vào nhân tính đã đem lại cho chúng ta niềm hy vọng. Ánh sáng giúp chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa vẫn đang ẩn hình trong con người và vạn vật. Thật vậy, có nhiều cái hiện hữu mà chúng ta vẫn không nhìn thấy, vì giác quan bị giới hạn trong không gian và thời gian. Chúng ta không nhìn thấy gió và không thấy dòng điện. Chúng ta chỉ thấy hậu qủa xảy ra khi cành cây rung động hay bóng đèn cháy sáng. Chúng ta cũng không thấy tình yêu, tình bạn hay tình mẫu tử. Chỉ cảm nghiệm được qua sự âu yếm, quan tâm của người khác, còn cốt lõi của tình yêu là vô hình.
Chúa Giêsu ẩn dấu vinh quang sáng lạng trong một thân xác nghèo hèn. Không ai có thể nhận ra thiên tính của Ngài ngay cả các môn đệ. Nay Chúa tỏ mình ra làm các môn đệ bỡ ngỡ và tràn ngập niềm vui. Thần tính của Chúa tỏ hiện: Diện mạo Ngài chói lọi như mặt trời và y phục của Ngài trở nên trắng tinh như tuyết.
Qua thị kiến biến hình, các tông đồ xác tín niềm tin vào Chúa Kitô và sứ mệnh của Ngài. Trong mọi lời giảng dạy, mọi cách xua trừ ma qủy, chữa lành bệnh tật và làm các phép lạ, Chúa đã tỏ ra uy quyền và thiên tính của Ngài nhưng nhiều người vẫn không nhận ra Chúa. Chúng ta cũng chứng kiến nhiều phép lạ qua việc chữa lành bệnh tật, qua các bí tích biến đổi tâm hồn, qua lời Chúa giảng dạy nhưng rồi chúng ta vẫn không nhận ra Chúa, lòng tin vẫn yếu kém.
Con đường vinh quang của Chúa là con đường thập giá. Chúa đã loan báo sự khổ nạn phải đi qua trước khi bước vào vinh quang đích thực. Chúng ta hãy tháp nhập những khổ đau, gánh nặng và thánh giá hàng ngày vào với khổ đau của Chúa trên thánh giá. Vinh quang sẽ chói ngời. Hạnh phúc đang chờ đón chúng ta nơi cuối đường. Con đường lữ hành trần thế sẽ qua đi và ánh quang phục sinh sẽ chiến thắng.
.
BÀY TỎ PHẨM CHẤT NGƯỜI CON THIÊN CHÚA
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi nhập thể làm người, Chúa Giê-su mang dung mạo con người, mang bản tính và khuôn mặt con người, hoàn toàn trở nên người phàm, ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, người đồng hương Na-da-rét gọi Ngài là “Bác thợ” (Mc 6,3) hay là “con Bác thợ Giu-se, con bà Maria” (Lc 4, 22, Mt 13, 55) Ngoài ra, hầu hết người Do-thái đồng thời với Chúa Giê-su chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhân loại của Chúa Giê-su mà thôi nên cho rằng Ngài chỉ là người phàm.
Nhờ cuộc hiển dung trên núi, ba môn đệ mới nhận ra Đức Giê-su là Thiên Chúa
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết. Lời tiên báo nầy làm cho các môn đệ bấn loạn tinh thần.
Để củng cố tinh thần sa sút của các ông, Chúa Giê-su bộc lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân tướng của Ngài: Ngài là Con yêu dấu của Chúa Cha.
Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại như sau:
“Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an …tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, và y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Ngài.” … “Chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngài. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài!”
Vậy là nhờ biến cố hiển dung nầy, các môn đệ không chỉ nhìn thấy Chúa Giê-su là người phàm mà còn biết Ngài là Thiên Chúa.
Tương tự như Chúa Giê-su, bên ngoài chúng ta mang thân xác phàm trần như bao nhiêu người khác, dung mạo bên ngoài của ta, những thói hư tật xấu của ta như một lớp vỏ bọc dày che khuất dung mạo người con Thiên Chúa nơi chúng ta. Trước mắt mọi người, chúng ta chỉ là người phàm không hơn không kém. Tuy nhiên, tự bản chất, chúng ta là những người con của Thiên Chúa. Tiếc rằng bản chất người con Thiên Chúa chưa được biểu lộ nơi ta.
Sự kiện hiển dung của Chúa Giê-su hôm xưa nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ rằng chúng ta không chỉ là thụ tạo thấp hèn, mà còn là con Thiên Chúa nữa. Vì thế, phẩm chất người con Thiên Chúa nơi chúng ta cần phải được hiển dung (được bày tỏ ra), để mọi người chung quanh có thể nhận ra những nét đẹp toả sáng trong đời ta, như ba môn đệ xưa thấy Chúa Giê-su toả sáng. Chính Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta toả sáng: “Anh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5,16)
Ý thức mình là con Thiên Chúa để vươn lên
Một người thợ săn bắt gặp một ổ trứng phượng hoàng trong khu rừng nguyên sinh. Anh đem ổ trứng ấy về nhà, trộn chung vào ổ trứng của gà mẹ đang ấp. Mấy tuần sau, một chú phượng hoàng con xinh đẹp chào đời và được gà mẹ dẫn đi ăn chung với đàn gà con bé nhỏ.
Phượng hoàng con lớn lên bên cạnh những con gà khác, luôn nghĩ rằng mình cũng thuộc nòi giống gà như những con gà cùng lứa, cùng cào bới rác rến kiếm ăn như những con gà khác.
Cho đến một ngày kia, phượng hoàng mẹ từ trên cao thình lình đáp xuống khiến cả đàn gà hoảng hốt chạy tán loạn. Phượng hoàng mẹ tiến đến gần phượng hoàng con, tìm cách dạy cho nó biết nó không phải là chú gà tầm thường, nhưng thuộc giống nòi phượng hoàng oai phong lẫm liệt.
Thế là từ hôm đó, phượng hoàng con ngẩng cao đầu, vươn cao cổ, bắt đầu xoè cánh tập bay và chẳng bao lâu, nó xoải rộng đôi cánh, phóng mình vút lên, bay lượn giữa khung trời cao xanh lộng gió, trông thật oai hùng.
Ban đầu, phượng hoàng con không ý thức mình là phượng hoàng mà tưởng mình chỉ là gà, nên nó sinh hoạt như những con gà khác, suốt ngày quanh quẩn trong sân gà vịt, moi móc rác rến kiếm ăn, nhưng một khi nó phát hiện ra mình không phải là thứ gà tầm thường mà là thuộc nòi giống phượng hoàng oai vệ, thì nó từ bỏ góc sân gà vịt, từ bỏ việc moi móc bới rác để xoải cánh bay lượn trên khung trời cao rộng, thì chúng ta cũng cần phải phát hiện ra mình là người con Thiên Chúa, không để mình bị vùi dập bởi những thói hư tật xấu, không đắm mình trong lối sống ươn hèn, nhưng chuyên chăm tập rèn những đức tính tốt, trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp, để sống xứng tầm với người con Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giê-su,
Khi Chúa tỏ cho các môn đệ thấy vinh quang sáng ngời của Chúa trong tư cách Người Con Thiên Chúa lúc ở trên núi cao, các môn đệ hết sức phấn khởi vui mừng và thêm vững tin vào Chúa.
Xin Chúa cho chúng con cố gắng tu thân sửa mình để cho dung mạo người con Thiên Chúa nơi chúng con được toả sáng, bằng đời sống bác ái huynh đệ, bằng hành vi phục vụ và yêu thương, nhờ đó, mọi người sẽ nhận ra chúng con tốt đẹp hơn, cao cả hơn, thánh thiện hơn, xứng với tầm vóc người con Thiên Chúa.
.
Lm Trịnh Ngọc Danh
Mới được gọi theo Thầy Giêsu trong một thời gian ngắn, lại nghe Thầy cho biết: Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thư ba sẽ sống lại. Làm sao các môn đệ có thể vững dạ để bỏ mình vác thập giá mình mà đi theo Thầy được!
Hiểu được tâm trạng hoang mang vì lòng tin còn non yếu của các môn đệ, sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình lên núi. Ở đó,chuyện gì đã xảy ra? Đức Giêsu đã biến hình.
Trước hết, Ngài biến đổi hình dạng trước mặc các ông. Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, và y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng.Đó là vinh quang của Đức Kitô;và từ trong đám mây, có tiếng Chúa Cha phán:“ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” Các môn đệ biết chính xác Đức Giêsu là Đấng nào, nhưng Ngài đã xuống thế mang thân phận con người để phải chịu một cuộc thương khó nhằm giải cứu nhân loại.Biến cố biến hình trên núi Tabo chỉ là một thoáng cho các môn đệ thấy vinh quang của Thầy mình sau con đường khổ nhục Ngài sẽ phải trải qua.
Cuộc đàm đạo giữa Môisen, Êlia với Đức Giêsu cho thấy một thế giới siêu hình sau cái chết, thấy sự sống bất tử của con người,thấy quá khứ liên kết với hiện tại, thấy vinh quang cho những ai thành tín đặt tin tưởng vào Thiên Chúa.
Choáng ngợp trước cảnh vinh quang của Thầy mình,các môn đệ đã muốn dựng lều để hưởng thụ, nhưng Đức Giêsu lại đưa họ xuống núi với Ngài để hoàn tất nhiệm vụ Chúa Cha giao phó.
Như Đức Giêsu đã phó thác hoàn toàn vào thánh ý Chúa Cha, nên Chúa Cha đã yêu thương Ngài và tôn vinh Ngài sau khi phục sinh từ cái chết, thì chúng ta là những Kitô hữu cũng sẽ được đi vào lòng thương xót, nhân hậu của Ba Ngôi Thiên Chúa nếu chúng ta đặt hết tin tưởng và phó thác vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa.
Một nhóm các nhà thực vật học đang tham hiểm tại một điểm rất hiểm trở để tìm những loài hoa lạ.Một ngày kia, qua ống nhòm, họ phát hiện ra một loài hoa rất hiếm và rất đẹp. Cây hoa kia mọc ở dưới một khe núi rất sâu dưới hai bờ vách núi thằng đứng. Muốn lấy được cây hoa, cần phải có một người được thả xuống khe vực ấy bằng một sợi dây, một công việc rất nguy hiểm.
Nhìn thấy một thiếu niên địa phương đến gần, các nhà thực vật hỏi thử: “ Chúng tôi sẽ cho em 20 đô, nếu em đồng ý để chúng tôi thả em xuống vực sâu kia để lấy cây hoa xinh đẹp kia.”Đứa trẻ đến gần bờ vực, nhìn xuống và trả lời: “Chờ cháu một chút. Cháu sẽ trở lại ngay.”
Khi trở lại, thiếu niên ấy dẫn theo một người đứng tuổi. Thiếu niên nói với các nhà thực vật học: “ Cháu đồng ý xuống vực sâu kia để lấy cây hoa cho các ông, với một điều kiện là các ông phải để người này giữ sơi dây. Ông ấy là cha cháu.”
Chúa Cha hằng yêu thương con cái của Ngài. Chỉ ở nơi Ngài chúng ta mới vũng tin trên con đường hành trình đức tin.Thánh Phaolô trong thư 2 gửi Timôthê cũng đã viết: Thiên Chúa “ đã cứu độ và kêu gợi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Giêsu Ki tô, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.” ( 2 Tm 1: 9-10)
Cuộc sống ở trần gian này là một bước chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Muốn đạt đến được sự sống vĩnh cửu ấy, chúng ta phải sống, thực hành những điều kiện Đức Giêsu đòi hỏi: “ Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.” Con đường đau khổ dẫn đến vinh quang!
.
AM. Trần Bình An
Núi Tabor là một núi của Israel ở vùng Galilea Hạ, nằm ở đầu phía Đông của thung lũng Jezreel, cách biển Hồ Galilee 17 km về phía Tây. Xe buýt sẽ đưa người hành hương đến chân núi, sau đó chuyển lên xe chuyên dụng, để bắt đầu hành trình lên núi. Đó là một chặng đường rất đẹp, đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn cam xanh ngút mắt, rồi những đoạn dốc cao, cheo leo, ngoằn ngoèo, theo vòng xoáy trôn ốc.
Từ đỉnh núi, nhìn về hướng Nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ả Rập sinh sống, nơi Chúa cho con trai bà góa sống lại; hướng Tây là một thị trấn sầm uất; phía Đông là mênh mang biển hồ Galilê. Tabor, như một ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Và cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời của Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung.
Theo Phúc Âm Nhất Lãm, lúc Chúa đem ba môn đệ lên đây, và Chúa biến hình trước Thánh Phêrô, Gioan, Giacôbê, không gian rất im ắng, chỉ có gió vi vu và mây trắng, với rừng cây thắm màu xanh hùng vĩ.
Người Kitô hữu luôn tin rằng, biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một sự kiện đặc biệt. Tưạ như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối đầy gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức các môn đệ. Còn là một điểm tựa, trợ lực cho đức tin các ngài trong suốt hành trình theo Chúa Giêsu.
Trên đỉnh núi Tabor, nhà thờ Chúa biến hình, được thiết kế bởi kiến trúc sư nổi tiếng Antonio Barluzzi. Trong nhà thờ, một bức tranh huy hoàng mô tả việc Chúa Giêsu biến hình. Và đặc biệt trong ngày Lễ Chúa biến hình (còn gọi là lễ Hiển Dung) bắt đầu ngày 6 tháng 8, thì bức tranh được chiếu sáng rạng rỡ bởi tia nắng phản chiếu từ một tấm gương đặt ở sàn nhà thờ. (TST Tourist)
Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay tường thuật Đức Giêsu hiển dung trước ba môn đệ thân tín Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Lên núi thoát tục
Sáu ngày sau khi Đức Giêsu loan báo lần đầu cuộc khổ nạn, ông Phêrô đã phản ứng theo bản năng, vô tình vấp phạm nặng nề. Dẫu vậy, Người nhân từ tha thứ và sửa dạy, còn dẫn các ông lên núi, củng cố lòng tin vững chãi, niềm hy vọng thánh thiện.
Lên núi yên tịnh, vắng vẻ, xa chốn phồn hoa ảo ảnh, thoát khỏi thế gian dối trá, bịp bợm, tham sân si, xa rời người thân yêu, bạn hữu, tách khỏi cái bả chức tước danh vọng. Lên núi, cảm thấy mình chỉ là sinh vật nhỏ nhoi, yếu đuối, đơn côi giữa trời đất bao la, cũng như nhìn thấy công trình con người dù lớn lao, đều trở nên bé nhỏ giữa tuyệt tác thiên nhiên hùng vĩ, kỳ diệu do Thiên Chúa tạo nên. Nhờ ý thức thế, con người dễ từ bỏ, tránh xa hấp lực thế gian.
Lên núi theo Chúa là thay đổi, sám hối, lột xác, canh tân, như thánh Phaolô đã hết sức khẩn khoản mời gọi tín hữu: “Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc.” (Ep, 4, 22) Từ bỏ con người cũ là tránh xa, dứt bỏ lối sống theo xác thịt tội lỗi xấu xa: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống vậy.” (Gl 5, 19-21)
Lên núi được biến đổi
Lên núi được nghe Lời Chúa phán dạy, cảm hoá và thánh hoá, thì tâm hồn tín hữu cũng được biến đổi, trở nên rạng ngời từ trong ra đến ngoài, như Đức Giêsu đã hiển thị thiên tính của Người,“mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết.”
Dẫu phàm nhân luôn thiếu sót, lầm lỗi, vấp phạm, nhưng tình yêu Chúa luôn có thể hoán cải, canh tân, đổi mới tâm hồn những ai trung kiên lên núi với Người, như thánh Phaolô chân thành xác nhận tình yêu Chúa đối với nhân loại: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3, 21)
Lên núi còn có nghĩa hoàn toàn rũ bỏ những ảo ảnh thế gian thấp hèn, để Đức Chúa Thánh Thần khai sáng, canh tân toàn diện. “Hãy để Thần khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên tạo theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật.” (Ep 4, 23-24)
Một khi ăn năn, sám hối, đổi mới, dấn thân theo Chúa lên núi, thì “tất cả chúng ta, mặt không che màn (tội lỗi), chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí. “(2 Cr 3, 16 & 18)
Lên núi hạnh ngộ
“Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia.” Thánh Luca còn cẩn thận ghi tâm trạng: “Ông Phêrô không biết mình đang nói gì.” Làm sao có thể giữ kín nổi niềm vui tràn trề, niềm hạnh phúc trọn vẹn, niềm sung mãn chứa chan, khi được sống bên Chúa toàn năng? Ông Phêrô không bao giờ quên được giây phút đại phúc, chiêm ngưỡng vinh quang tột cùng của Đức Giêsu.
Chỉ có bên Chúa, mới có bình an, niềm vui, hạnh phúc vững bền. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến, duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành luỹ chở che : tôi chẳng hề nao núng.” (Tv 62, 2-3)
Trong thư gửi “những khách lữ hành” Thánh Phêrô ân cần nhắc lại niềm hạnh phúc vô biên, một đặc ân.“Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người… Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người.” (2Pr 1, 16-18)
“Con đừng lấy làm lạ, lúc theo Chúa, con nghe tiếng gọi của khoái lạc, của danh vọng, của cả bản thân, cha mẹ, quyến rũ con bỏ đường Chúa. Cứ tiến lên, Chúa đã nói trước: “Ai cầm cày còn ngoảnh mặt lui, không đáng làm môn đệ Ta.” (Đường Hy Vọng số 71)
Lạy Chúa Giêsu, sau khi hiển dung sáng láng rạng ngời, Chúa dẫn các môn đệ xuống núi. Xin Chúa thương dẵn dắt chúng con xuống núi, cùng đồng hành vác thánh giá, chịu khổ nạn với Người, hầu chúng con xứng đáng được ơn cứu rỗi.
Kính xin Mẹ Maria cầu bầu chúng con luôn đi theo Chúa cho trọn, đừng dở dang, sa chước cám dỗ, mà lìa xa Chúa. Amen.
.
JM. Lam Thy
Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN II/MC-A – Mt 17, 1-9) thánh sử Mat-thêu viết: “Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình.” (Mt 17, 1); thánh Mac-cô cũng viết: “Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình.” (Mc 9, 2); trong khi đó thánh Lu-ca lại viết: “Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê.” (Lc 9, 28). Tuy có khác nhau chút đỉnh về thời gian nhưng cũng có thể nói một cách chung là “Khoảng một tuần lễ sau” hôm Đức Giê-su Ki-tô lần đầu tiên nói cho môn đệ biết “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Mt 16, 21)
Lời tuyên bố ấy khiến các môn đệ ngỡ ngàng, chẳng hiểu gì cả và cho là không thể xảy ra; thậm chí còn lên tiếng ngăn cản khiến Đức Ki-tô phải nổi nóng (“Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” – Mt 16, 22-23). Đức Giê-su không những khẳng định về mầu nhiệm Khổ nạn Thập giá và Phục sinh đối với bản thân Người, mà còn tuyên bố thêm: chính các môn đệ và những ai muốn theo Người cũng phải vác thập giá mình mà đi theo (Mt 16, 24). Thật là một chuyện lạ lùng khó hiểu, làm cho nhiều người suy nghĩ và buồn phiền. Thấy môn đệ chưa hiểu hết ý của Người (không phải Người chỉ nói về Tử nạn thập giá mà còn khẳng định sẽ Phục sinh vinh hiển), Đức Giê-su đã hứa cho họ được xem thấy vinh quang và quyền năng của Người (Mt 16, 27-28). Và thế là 6 ngày sau, ba môn đệ được đưa lên núi để được chứng kiến tận mắt vinh quang của Người trong lúc biến hình.
Về tiêu đề của bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay các sách Tin Mừng cũng không ghi giống nhau (Mat-thêu và Lu-ca thì ghi là “Đức Giê-su hiển dung” – Mt 17, 1-9; Lc 9, 28-36; còn Mac-cô thì ghi là “Đức Giê-su biến đổi hình dạng” – Mc 9, 2-8). Hiển dung là biểu lộ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng; còn biến hình là thay đổi hình dạng. Tuy có tiêu đề khác nhau, nhưng trong nội dung thì cả 3 sách Tin Mừng nhất lãm đều dùng cách viết “Đức Giê-su biến đổi hình dạng” để trình thuật biến cố lạ lùng này (“Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông.” – Mt 17, 1-2). Như vậy thì Đức Ki-tô hiển dung hay biến hình?
Thưc ra, vấn đề cũng không có gì là khúc mắc cả. Đức Giê-su biến đổi hình dạng thường ngày sang một hình dạng khác hẳn, rực rỡ hơn, chói loà hơn gấp bội, là Người muốn cho các môn đệ và mọi người biết ngoài bản tính loài người chứa trong thân xác phàm tục ra, Người còn một bản tinh nữa là bản tính Thiên Chúa. Chân tướng sự vịêc là điều Người muốn công nhiên mạc khải: Chân dung của Người chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Nói cách cụ thể, trong cùng một Con Người là Đức Giê-su Ki-tô có 2 bản tính: Dung mạo bình thường là bản tính loài người, còn chân dung (bản chất đích thực) của Người là bản tính Thiên Chúa. Nói Đức Giê-su biến hình là muốn nói Người đã biến đổi từ hình dạng bình thường của loài người sang hình dạng Thiên Chúa. Còn nói hiển dung là muốn nói – qua việc biến đổi hình dạng bên ngoài – Đức Ki-tô muốn biểu lộ chân dung đích thực của Thiên Chúa (Ngôi Lời nhập thể) vốn ẩn kín bên trong chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret.
Khi ba môn đệ theo Đức Giê-su lên núi Ta-bo, thì các ngài vẫn thấy Thầy của mình với dung mạo bình thường như các ngài đã được chứng kiến, được “thực mục sở thị” trong suốt ba năm theo Thầy đi khắp đó đây. Nhưng đến khi Thầy cầu nguyện thì “… Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17, 2). Sự kiện Chúa Giê-su biến đổi hình dạng đã khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần này khác với lần được chứng kiến “Đức Giê-su đi trên mặt biển” (Mt 14, 22-32). Lần trước, thánh nhân cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã tin Thầy mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a (đã qua đời từ trước đó hơn 5 thế kỷ) được.
Từ hình dạng con người trần thế bình thường biến sang chân dung Thiên Chúa, Đức Giê-su muốn cho mọi người – thông qua các môn đệ thân tín của Người – hiểu rõ được Người chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, như Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha từ trong đám mây sáng ngời bao phủ các môn đệ: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5). Lời phán dạy của Thiên Chúa Cha lần này y hệt lần Đức Giê-su chiu phép rửa trên sông Gio-đan (“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” – Mt 3, 17). Nhờ thế, giúp củng cố đức tin, đồng thời cũng chính là giúp biến đổi con người các môn đệ và nói chung những kẻ đến với Đức Giê-su Ki-tô.
Một sự kiện minh họa lòng tin của các môn đệ còn chưa vững là khi Chúa Hiển Dung, thì “ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt” (Lc 9, 32); nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người (là ông Mô-sê và ông Ê-li-a), thì “các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.” (Mt 17, 6). Rồi sau đó, tại vườn Ghết-sê-ma-ni, trong khi Thầy cầu nguyện đến độ đổ cả mồ hôi máu ra mà các ông vẫn ngủ ngon lành, khiến Người phải thốt lên: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” Cứ tưởng như vậy thì các môn đệ sẽ “tỉnh ngủ”, để hiểu ra rằng thời điểm đã cận kề, đây là lúc cần phải canh thức và sẵn sàng chờ đón mọi biến cố (Mt 24, 43-44); nhưng thật không ngờ các ngài lại tiếp tục ngủ, ngủ miết tới lúc Thầy phải đánh thức lần nữa: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!” (Mt 26, 40-46). Cái “thể xác yếu hèn” đó của các môn đệ vẫn chưa thèm chuyển động dù Thầy đã 5 lần bảy lượt cảnh báo!
Điều đó cho thấy sau biến cố Chúa Hiển Dung, các môn đệ có được củng cố lòng tin để vững bước cùng Chúa trên con đường thập giá hay không? Cứ xem khi Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó thì đủ biết: Trong số 12 Tông đồ là những môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su, thì vị đứng đầu (Phê-rô) đã chối Chúa tới 3 lần trước một người tớ gái nhà Cai-pha, một Giu-đa It-ca-ri-ốt thì bán Chúa để lấy 30 đồng bạc, các vị còn lại thì bỏ Người mà chạy trốn hết, để một mình Chúa đơn độc đi vào cuộc Thương Khó. Duy chỉ có được một Gio-an là theo Thầy tới tận chân thập giá, nhưng cũng chỉ lẽo đẽo theo từ xa xa, đến độ khi Thầy yếu nhọc quá sức, quân dữ phải bắt một dân ngoại là Si-mon vác đỡ Thánh giá cho Người (“Đang đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của Người.” – Mt 27, 32). Vậy đó!
Quả thật Chúa luôn luôn muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, nhưng vấn đề đặt ra là lòng tin ấy có thực sự được củng cố hay không, còn tùy thuộc vào chủ thể các môn đệ. Một cách cụ thể là nếu chủ thể không chịu mở cửa tâm hồn ra đón nhận, thì những ân sủng Thiên Chúa ban cũng chẳng khác gì “nước đổ đầu vịt, nước đổ lá môn” mà thôi. Vâng, “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Và cũng chính vì quá rõ lòng dạ con người là như vậy, nên Đức Giê-su luôn dạy các môn đệ phải tỉnh thức và cầu nguyện (“Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” – Mc 14, 38). Không những Người dạy dỗ, mà còn làm gương mẫu cụ thể nữa (Người luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là những dịp Người chịu để ma quỷ cám dỗ như khi Người vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, hoặc lần cầu nguyện đổ cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-sê-ma-ni).
Mùa Chay chính là thời gian để người tín hữu chọn lựa một hành động thiết thực: hoặc xé áo, hoặc xé lòng. Muốn xé áo thì dễ thôi, chỉ cần một động tác nhỏ là khoác lên mình bộ vó kiêu căng tự phụ, bộ áo lười nhác ích kỷ, không thèm đếm xỉa đến mọi người xung quanh. Tuy nhiên, để xé lòng thì không dễ dàng đâu, bởi phải quyết tâm không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Chỉ có như vậy, kèm theo sự sám hối chân thành, mới thực sự hoán cải, đổi mới con người của mình, để được biến đổi toàn diện (biến hình) theo Chúa.
Đúng là rất khó khăn để có thể làm được như thế. Khó, nhưng không phải là không thực hiện được, khi biết cậy dựa vào Thần Khí, “Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1, 7). Muốn tránh khỏi mưu ma chước quỷ hằng ngày cám dỗ, người tín hữu không thể ỷ vào sức mình vì “tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối” mà phải cậy trông vào Thiên Chúa, cầu nguyện để Người ban Thánh Linh soi sáng và tăng thêm sức mạnh cùng lòng dũng cảm. Chỉ có như thế mới mong biến đổi con người của mình (như xưa Chúa đã biến hình trên núi Ta-bo).
Quả thực Tin Mừng về cuộc Hiển Dung của Chúa đặt trước mắt người Ki-tô hữu vinh quang của Đức Giê-su, báo trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người. Từ đó giúp người tín hữu ý thức mình được dẫn lên núi cao (Mt 17, 1) như các Tông Đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, để tái đón nhận hồng ân được làm con Thiên Chúa trong Trưởng Tử Giê-su Ki-tô, qua Lời phán dạy: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 21, 6). Vâng, người Ki-tô hữu luôn được mời gọi cùng đi lên núi cao để được ngụp lặn trong hào quang vinh hiển của Thiên Chúa, ngõ hầu hoán cải, biến đổi toàn diện con người của mình sao cho ”trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (Pl 3, 10). Trong tâm tình dìm mình vào mùa Chay thánh, thiển nghĩ không chỉ riêng mình kẻ viết bài này, mà là tất cả những anh em chung một niềm tin, đang đồng hành cùng nhau trên hành trình tìm về chân lý, đều ước được như vậy. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Đi lên đi xuống, đi tới đi lui, đi qua đi lại, có phải là họ đang biểu lộ một tâm trạng bồn chồn, xao xuyến trước vấn đề sẽ phải đối phó ? Để khích lệ, xoa dịu biết bao nỗi ưu phiền, tiền nhân chúng ta có những câu rất đi vào lòng người: cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con, mừng cây rồi lại mừng cành, cây đức lắm chồi người đức lắm con. Mỗi ngày sống, hoặc cả một đời người, tự chúng ta đang vẽ nên ký ức thời gian, hạnh phúc, ý nghĩa, giá trị, tùy theo quan điểm thật riêng tư của ta.
Thất bại là mẹ thành công, đau khổ và vinh quang, không phải là một khái niệm mơ hồ, nhưng để đạt tới thành quả mỹ mãn, không thể có những kẻ lười biếng, hèn nhát, ý chí “tiểu nhân”. Mang thân phận con người giống chúng ta, Đức Giêsu nêu gương sống hiệp thông cầu nguyện sẽ là phương thế nâng đỡ tốt nhất cho ta. Tại núi cao hôm nay, ba môn đệ yêu quý, các ông được mắt thấy tai nghe Thầy Giêsu chính là Ngôn sứ, là Con Cha trên trời. Trong tương quan là học trò thân tín, các ông đã quan sát, đã bày tỏ mơ ước muốn cùng Thầy ở luôn trên núi: “lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm…”.
Theo cái nhìn tự nhiên, được cùng Thầy lên núi là vinh dự cho ba môn đệ đại diện đó rồi, các ông còn được chứng kiến “mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết…”, thật là hạnh phúc cho các ông. Theo chiều hướng tích cực, có cứng mới đứng đầu gió, có hiểu quyền bính là để phục vụ, có ý thức: phải qua thập giá mới đến vinh quang, các ông cũng sẽ đủ bản lĩnh để theo Thầy lên núi. Biết Thầy Giêsu tài đức, hoặc được mạc khải “thiên tính” của Thầy, cũng chỉ là bước khởi đầu cho hành trình yêu mến, theo Thầy hoặc từ bỏ vinh dự đầy thách thức ở phía trước.
Đường lên núi cao của Thầy trò Giêsu hôm nay không thấy thánh sử Matthêu nói tới một trở ngại nào, với các môn đệ, đường đi đến đỉnh điểm yêu thương của Đức Giêsu lại quá mông lung ! Môisê và Êlia hiện ra đàm đạo với Thầy Giêsu về việc hệ trọng nào ? Tiếng phán từ đám mây: “này là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Vâng nghe không ý kiến hay vâng nghe tuyệt đối, đều tùy tự do và lòng yêu mến của người môn đệ. Thời nào, hoàn cảnh nào cũng cho thấy: cây cầu khó khăn nhất để đi qua là cây cầu kết nối giữa trái tim với trái tim. Điều khó khăn hơn để điều chỉnh cuộ sống là tâm hồn bình an ; con đường đến thành công, đến vinh quang, trước hết phải là cải thiện được lòng người đầy tình thương mến.
Tìm được một người phù hợp tâm tính để gởi gắm yêu thương đã khó rồi, tìm một người biết lắng nghe, biết chia sẻ, biết đến tinh trách nhiệm, không hề dễ tí nào. Đau khổ, thất bại, ở đâu đâu cũng có, vì chúng ta vẫn coi đó như là quy luật của cuộc sống. Nhưng để chiêm ngưỡng “vinh quanh hạnh phúc thật” như các môn đệ tại núi cao hôm nay, rất ư là cần đường đi nước bước phải chính xác, hợp lý, cần phải biết vâng nghe theo lời Đức Giêsu. Hẳn cuộc đời theo Chúa Giêsu lên núi để gặp gỡ, để hiểu biết và sống thánh ý Chúa Cha, các môn đệ, các tiền nhân của chúng ta cũng đã từng vấp ngã, đứng lên, rồi các ngài mới đi tiếp đến vinh quang.
Kinh nghiệm người xưa để lại: chớ vì nghẹn mà bỏ bữa ăn, chớ vì ngã một lần mà chân không bước. Đau khổ, thất bại, không phải là điều các đấng bậc mong muốn con cháu phải gặp ; lầm lạc, vấp ngã trong tội lỗi không phải là điều Thầy Giêsu muốn xảy ra nơi các học trò của Ngài. Vui buồn sướng khổ là hiển nhiên không ai tránh được, hạnh phúc thật, vinh quang thật, là mơ ước của người kitô hữu, nhưng quan trọng là phải hiểu đau khổ thập giá chính là con đường, là cơ hội để ta minh chứng tình yêu người theo Chúa. Hành trình lên núi, xuống núi của Đức Giêsu, của các môn đệ, của tiền nhân chúng ta, sẽ còn mãi trong tình hiệp thông với tất cả những ai theo Chúa Giêsu làm môn đệ, quyết đi đến vinh quang phục sinh.
Người đời vẫn cho rằng: có thực mới vực được đạo, câu thành ngữ ấy quen thuộc lắm, câu nói ấy còn có ảnh hưởng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, vì nếu không ăn, không uống, làm sao ta sống đạo, giữ đạo được. Nếu không trưởng thành trong hiểu biết, ta sẽ mãi mãi là trẻ con ; nếu suy xét theo Chúa Giêsu lên núi là một vinh dự, chúng ta đừng ngại ngùng vì yếu đuối, tội lỗi, vì hoàn cảnh chưa thuận tiện.
Tất cả những ai theo Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, người ấy mới thấu hiểu và không sợ phải xuống núi thực hành điều Chúa truyền dạy. Không ai tự nên người hữu ích, nếu không được chăm sóc giáo dục của cha mẹ người thân. Không người Kitô hữu nào tự trở thành môn đệ của Đức Kitô, nếu người ấy không đi con đường đau khổ thập giá của Đức Kitô. Cũng không có đương tắt nào để đi đến vinh quang phục sinh, nếu người ấy không tự nguyện trở thành môn đệ Đức Kitô, đi con đường của Đức Kitô. Amen.
.
FX. Đỗ Công Minh
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu thuật lại cho chúng con chuyện về Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín của người lên núi Tabor, tách riêng ra một chỗ. Nơi đó hẳn là thanh vắng, không có người qua lại. Một chuyến đi mà ngày hôm nay, chúng con thường gọi là một buổi tĩnh tâm. Nhưng có khác chăng, vỏn vẹn chỉ ba môn đệ và Thầy Giêsu chí thánh. Chúa vẫn khuyến khích chúng con và như một minh chứng : “ở đâu có hai ba người trong anh em dưới trần gian họp lại nhân danh Thầy, thì Thầy có ở đấy, giữa họ “(Mt 18,20).
Có dịp lên tượng đài Chúa Kytô Vua ở Thành phố Vũng Tàu; núi Đức Mẹ (Bãi Dâu) hay ngồi dưới chân tượng đài Đức Mẹ trên núi Tà Pao, cùng vài ba người bạn để “Vào Sa Mạc”, con dễ nhận ra được khung cảnh an bình, vắng lặng trên núi Tabor ngày xưa. Con sẽ dễ dàng được gặp Chúa, thưa chuyện với Người . Chúa Giêsu đã dùng cảnh quan giữa trời đất để giáo dục học trò của Người. Núi Tabor là hình ảnh nơi Thánh thiêng trong thời Cựu Ước. Thiên Chúa đã lập 10 điều răn trên núi Sinai, tỏ mình ra cho Môisen và các Tiên tri. Núi cao cũng là khung cảnh để Abraham dâng tiến con mình làm của lễ và đón nhận lời hứa của Chúa với dân Người. Chính trong nơi Thánh thiêng ấy mà Chúa đã tỏ mình ra cho các môn đồ, trước khi báo cho các ông: Người phải trải qua cuộc thương khó rồi sẽ bước vào vinh quang. Ba môn đệ đã được chiêm ngưỡng một phần vinh quang Nước trời, nơi đó không chỉ có Đức Kitô, Thầy của họ, mà còn có các bậc Ngôn sứ tổ phụ trong dân Israen, thời Cựu ước, cùng hiện ra đàm đạo với Thầy mình. Các Ngài hiện diện để làm chứng và tôn kính vinh quang của Chúa Giêsu. Đây quả là một sự bất ngờ và vinh dự lón lao cho những môn đệ theo Ngài, khiến Phêrô không thể không thốt lên lời ca tụng thành thật nhất, vui sướng nhất :”Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, chúng con xin dựng ở đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho Môisê và một cho Ông Êlia “, ông quên rằng chính các ông cũng muốn được ở mãi nơi này mà không thốt lên được nguyện vọng là có thêm lều thứ tư, xúc động quá chẳng thể nói nên lời ? Phêrô không biết mình nói gì. Ông muốn được tận hưởng ngay những vinh quang được tỏ bày. Chỉ đến khi đám mây che phủ các Ngài và có tiếng phán ra: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các Ngươi hãy vâng nghe Lời Người “ các ông mới bừng tỉnh và nhận biết mình là ai, kèm theo đó là sự sợ hãi ngã sấp mặt xuống đất, khiến Chúa phải lên tiếng :” Trỗi dậy đi, đừng sợ! “.
Lạy Chúa,
Chúa tỏ mình ra cho các môn đệ được chiêm ngưỡng vinh quang Nước Trời, chính là Chúa củng cố lòng tin cho các ông vì Chúa biết, trong thời gian sắp tới, các môn đệ sẽ phải chứng kiến Chúa bước vào con đường thập giá, các ông sẽ ngã lòng. Và sự thật là như thế! Các Tông đồ, mà cụ thể là Phêrô khi chứng kiến được vinh quang nước trời, chỉ muốn dừng lại ở đó. Ông quên rằng để chiếm được niềm vui bất diệt đó, các ông còn phải vác thập giá mình mỗi ngày để theo Chúa.
Ngày hôm nay, chúng con, những người được các Tông đồ Chúa truyền dạy, sau khi đã tận mắt chứng kiến sự thương khó, Phục sinh của Chúa, được Chúa tuôn đổ Thánh Thần của Người. Chúng con đang tiếp bước theo các Ngài, một lúc nào đó cũng sẽ được cùng các Ngài lên núi Thánh xưa. Ở đó con chắc chắn sẽ được chiêm ngưỡng vinh quang và được cùng hưởng vinh phúc Nước Trời.
Xin cho chúng con, trong Mùa Chay Thánh này, biết bước đi cùng Chúa trên quãng đường thương khó. Con biết sám hối và Tin vào Tin Mừng. Biết “Vâng nghe Lời Người” như Chúa Cha phán dạy. Nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ không còn sợ hãi trước những cám dỗ.
Con tin rằng, nếu con luôn vững lòng cậy trông vào Chúa, mỗi khi vấp ngã, con sẽ được Người đến kế bên, chạm vào và nhắn nhủ “Trỗi dây đi, Đừng sợ”, ” Và ngày cuối cùng, từ bụi đất, con sẽ đứng lên” . AMEN.
.
Lm Uyen Nguyen
CN 2 MC có thể gọi là CN Hiển Dung, cố định cho cả chu kỳ ba năm Phụng Vụ A,B,C. Hiển Dung là ‘toàn-thể-điều-đang-hiện-sinh’ biến đổi nội ngoại tại khác thường rạng rỡ, ngoạn mục làm choáng mắt người.
Hôm nay TM Matthêu tường thuật lại cuộc Hiển Dung như vậy của ĐGS trên một ngọn núi cao trong tầm mắt cực ngỡ ngàng của ba nhân chứng tông đồ mà Người dẫn riêng từ chân núi đi lên đỉnh: Phêrô, Giacôbê, Gioan.
Có thể hỏi đây là lúc nào mà cuộc Hiển Dung xảy ra?
Bối cảnh cuộc Hiển Dung đang bước vào giai đoạn mà tình thế xảy ra nhiều bất lợi: đám đông dân chúng thất thường, hay trở mặt, kẻ thù khuấy rối ngày càng nhiều. Cũng là thời điểm mà Người tập trung huấn luyện các môn đệ vào trọng điểm giáo huấn, mạc khải những điều phải đến, đi lên Giêrusalem, ở đó cuộc thương khó và cái chết mà Người phải ‘Vượt Qua’.
Với Matthêu, cuộc Hiển Dung cách một khoảng sau phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhứt (Mt. 16.33tt) gắn với lịch trình đào tạo các tông đồ trên đường hướng ra Cêsarê Philliphê, vùng ngoại bang Do Thái ( ibid.16,12). Để các ông tập trung chú ý vào Người, cũng như thay vì nói trắng vấn đề , Người đặt vài câu hỏi trọng yếu, vừa hướng chú ý ra dân chúng, vừa kiểm lại nội tình, hỏi thẳng vào các ông: ‘Còn anh em, anh em bảo Con Người là ai?’ (ibid.16,15). Ông Phêrô nhanh miệng thưa: ‘Thầy là ĐKT Con TC hằng sống’ (ibid. 16,16). Và từ đó Người yên tâm dạy các ông biết Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế, kinh sư, rồi bị giết chết, ngày thứ ba sống lại. Nội dung bài học như thế, chưa nghe, tưởng một cuộc lên ngai vua toàn thắng lẫy lừng, nào ngờ báo một nôi dung ‘sàm gỡ nghịch ý’ không chút gì tạo phấn khích vui sướng.
Cuộc Hiển Dung nhiệm lạ xảy ra đột biến nhanh chóng, trong bầu khí yên bình và cảnh vật quạnh quẽ nguyên sơ ở một góc ngọn núi cao. Dung mạo Người rạng ngời chói sáng, toàn thân tỏa chiếu hào quang trăng tinh khôi nơi y phục, trong tư thế hồn nhiên đàm đạo với hai nhân vật trong lịch sử CƯ hiện đến: Môsê lãnh tụ Do Thái đại diên luật và Elia đại diện các ngôn sứ. Cùng với lời phán dạy huyền bí, đầy uy nghi từ trong đám mây bao phủ vang ra: ‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người’ (ibid.c.17.5). Cuộc hiển dung trong khung cảnh như vậy khắc đậm dấu ấn vào niềm tin: ‘ĐGS là con TC, là TC, Đấng cứu độ mà toàn bộ CƯ đã loan báo.
Cuộc Hiển Dung còn được đặt trong chủ đích của ĐGS. Trước tiên, Người kiện toàn quan điểm của đời trần, ở đó ai cũng như nấy, không ít mơ ước được một lần ‘hiển dung’ rực sáng bất chấp hiển dung dưới dạng thái nào. Quan điểm đó thường nghe thấy: ‘Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” (Xuân Diệu).
Đổi lại, Người chọn: ‘Thà một đời đón nhận điêu linh để vào trường cửu còn hơn một đời huy hoàng nhưng phút giây vụt tắt để rồi vào cõi ‘điêu linh’ muôn đời’.
Với Phêrô, con người bị Thầy gọi là Satan. Vì ông đã can dự vào việc can ngăn sứ mệnh của Thầy: Xin TC thương đừng để Thầy gặp phải bị bắt bớ hay chịu nhiều đau khổ, chết chóc chi chi ấy (Mt.17.22). Phêrô vốn dĩ hời hợt, vẫn mang chút tâm trạng được hiển dung kiếp đởi trần, đã chẳng hiểu gì về con đường được Hiển Dung và vai trò của Thầy, chính ông cũng là đại diện cho hết những ai yêu sự sống vẻ vang rạng rỡ kiếp một đởi làm người là con cháu Nguyên Tổ, cần lấy lại tinh thần gắn bó sâu đậm hơn vào mọi chiều kích nơi Thầy, để ông khỏi sa ngã khi sự cố được báo, lúc xảy đến, và cả cho tương lai xa sau này. Điều đó thật hữu ích cho ông và cả những người nhờ ông mà tin vào ĐKT.
Với Phaolô trở lại, một khoảng sau ĐGS Giêsu sống lại về trời, nên môn đệ kiệt xuất, trong bài đọc 2, thư 2 gởi cho Timôthê, nhắc lại linh đạo bất biến mà ĐGS đã giáo huấn các môn đệ:‘Ai muốn theo tôi, làm môn đệ tôi, hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi’. Lại nữa: ‘Ai bỏ mọi sự mà theo tôi, người ấy sẽ được gắp trăm cùng với sự ngược đãi’, đồng nghĩa với: ‘Ai yêu mạng sống mình sẽ mất, dám liều mạng sống ấy sẽ được’. Phaolô phân giải và hướng dẫn Timôthê dựa vào linh đạo gắn với con đường dẫn đến cuộc Hiển Dung của ĐKT. Ngài viết: ‘Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không vì công lao chúng ta, mà do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó được ban cho chúng ta từ muôn thưở trong Đức Giêsu Kitô, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta la Đức Giêsu Kitô đã xuất hiện. Người đã tiêu diệt thần chết, đã dùng TM mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử’ (2 Tm .1.8-10). Cuộc đời trần thế của ĐGS Kitô là đường đi đến hiển dung cho toàn thể những ai là môn đệ của Người noi theo.
Nhìn chung cuộc Hiển Dung của ĐGS vừa là liều thuốc chữa trị căn bệnh nan y: bệnh ‘hiển dung hào nhoáng tựa vào cuộc sống huy hoàng đời trần’, là thần dược linh nhiệm biến đổi cuộc đời trong ngược đãi bất hạnh sang vinh hiển rạng ngời. Đường thập giá ĐKT là cuộc hiển dung rạng ngời vinh quang của chúng ta.
Lạy Thầy Giêsu nhân lành, xin dạy con biết yêu thập gíá, nên giống Người, dùng thập giá đổi lấy vinh quang!
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Chủ đề chính của bài Tin Mừng Chúa Nhật I mùa Chay cả ba năm A – B – C đều tập trung vào chủ đề “các chước cám dỗ”. Và bài Tin mừng Chúa Nhật II mùa Chay của cả ba năm A – B – C cũng tập trung vào một chủ đề “lên núi cao, Chúa biến hình”. Dưới cái nhìn tổng quát thì hình như Hội Thánh muốn chúng ta khởi đầu mùa chay thánh bằng sự gột bỏ những gì là “tiêu cực” do thần dữ cám dỗ để rồi cùng với Chúa Giêsu lên núi cao mà phát triển điều “tích cực” là cái nhìn và con tim của chúng ta.
Càng lên cao, tầm nhìn càng thêm bao quát là một điều dễ hiểu và dễ chấp nhận. Những người được dịp lên núi cao hay đã từng sử dụng phương tiện hàng không đều không khỏi bị cám dỗ phóng tầm nhìn đến quang cảnh chung quanh hay bên dưới. Quả thật, với cuộc sống thường nhật kiểu tà tà sát mặt đất thì luôn có đó nhiều điều rất cụ thể vượt khỏi tầm nhìn của chúng ta. Và cũng từ cái nhìn hướng đến các vật thể trong thực tế vốn bị giới hạn thì chúng ta cũng có thể bị hạn chế tầm nhìn trong những lãnh vực “phi vật thể”. Chính vì thế, khi có dịp thuận tiện, người ta thường đến những nơi quang đãng hay lên chỗ cao, không chỉ để hít thở không khí trong lành mà còn được dịp phóng tầm nhìn bao quát hơn, rộng mở hơn.
Hãy lên cao! Càng lên cao, tâm hồn càng khoáng đạt hơn, rộng mở hơn. Các tu sĩ, đúng hơn là các đan sĩ trong truyền thống Kitô giáo nói riêng và trong các tôn giáo nói chung thường chọn những nơi cao để làm chốn tu tập. Càng lên cao thì lòng ta dường như càng nhẹ nhàng, thanh thoát và khoáng đạt hơn. Bài Tin Mừng Chúa Nhật II mùa Chay tường thuật sự kiện Chúa Kitô đưa ba môn sinh lên núi cao. Các sự kiện xảy ra trên núi Tabôrê ngày ấy dễ làm chúng ta dán mắt vào việc Chúa biến hình oai nghiêm sáng láng. Dĩ nhiên, chúng ta nhìn nhận việc Chúa Kitô tỏ ánh vinh quang của Người là để củng cố niềm tin cho các môn đệ thân tín. Tuy nhiên xin đừng quên nội dung câu chuyện đàm đạo giữa Chúa Kitô với Môsê và Êlia. Đó là cuộc tử nạn mà Chúa Kitô sẽ phải chịu tại Giêrusalem. Đây chính là đỉnh cao hay là điểm tới của tình yêu mà Chúa Kitô tỏ bày cho nhân loại là hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga 15,13).
Tình yêu làm phát sinh tình yêu. Lòng quảng đại làm triển nở lòng quảng đại. Quy luật tác động dây chuyền đã thể hiện hiệu năng ở lãnh vực này. Bị thúc bách một cách nào đó, Phêrô vội lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy muốn, chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, một cho ông Êlia” (Mt 17,4). Thế còn Phêrô và hai người bạn đồng môn là Giacôbê và Gioan sẽ ở đâu? Giả như Chúa Giêsu chấp thuận lời thỉnh cầu của thánh Phêrô thì tối hôm ấy, ba môn đệ của Người hẳn phải ở ngoài trời, trên cây hay trong bụi bờ nào đó. Tuy nhiên điều chúng ta chợt khám phá ở đây, đó là khi lên cao, được chiêm ngắm phần nào vinh quang của Thầy Giêsu thì tâm hồn của Phêrô đã mở ra. Ngài như quên hẳn mình đi.
Dệt xây một tâm hồn biết hướng thượng: Nếu hạn hẹp sự lên cao ở phạm trù không gian thì không biết bao người đã lên quá cao mà tâm hồn vẫn còn hẹp hòi, ích kỷ. Với công nghệ hàng không hiện đại như hôm nay, rất nhiều người đã từng lên rất cao so với mặt đất. Theo thống kê thì mỗi ngày có hàng ngàn chuyến bay xuyên lục địa. Những người có điều kiện sử dụng phương tiện hàng không, thường là những người của tiền dư dả, ít ra là không thiếu. Thế nhưng lời cảnh giác của Chúa Kitô vẫn còn đó: người giàu có thì khó vào Nước trời hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim (x.Mt 19,24). Dù đã lên cao nhưng trái tim của nhiều người vẫn có thể chưa rộng mở. Như thế việc lên cao chỉ là một trong những phương thế, một trong những nguyên cớ để có được lòng hướng thượng.
Người có tâm hồn biết hướng thượng là người biết khao khát những giá trị cao cả, tốt đẹp trên những sự tốt đẹp bình thường mà nhiều người vẫn hằng tìm kiếm. Họ không dừng lại với chuyện cơm áo gạo tiền cho bản thân, không dừng lại với chức quyền, danh phận hay lạc thú trần gian cách ích kỷ. Trái tim của họ luôn ấp ủ số phận của nhiều người. Tầm nhìn của họ luôn vượt quá những gì đang trông thấy. Khát mong của họ luôn vươn tới những giá trị vĩnh cửu, trường tồn… Có thể gọi họ là người sống có lý tuởng, muốn cống hiến hơn là tìm cách hưởng thụ.
Các chuyên gia xã hội học, các nhà đạo đức ngày nay đều có chung nhận định rằng con người, cách riêng giới trẻ hôm nay, trên thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng đang mất dần sự hướng thượng, chí cống hiến. Cùng với công nghệ hiện đại, ngành quảng cáo tiếp thị như đang tiếp sức xây dựng một lối sống hưởng thụ vị kỷ. Người người đua nhau kiếm tiền để hưởng thụ ích kỷ. Công ăn việc làm, đúng hơn là thu nhập tiền bạc như đang là mục tiêu của việc học tập của giới trẻ hôm nay mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã nhận định là “não trạng duy kinh tế” (x.Thư chung HĐGM VN năm 2007 số 11; 12). Chính vì thế mà chí cống hiến, sự hướng thượng ngày càng mai một.
Để lên cao, đúng hơn là để có tâm hồn hướng thượng cần thiết phải rủ bỏ nhiều vướng bận gây cản trở. Bài đọc thứ nhất trích sách Sáng Thế ký gợi mở ý tưởng là hãy ra đi. Giavê Thiên Chúa mời gọi Abraham ra đi: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12,1). Tuổi đời đã 75, trên mức xưa nay hiếm, đang chưa có người nối dõi tông đường, cùng với nghề chăn nuôi súc vật, thế mà ra đi đến nơi chưa từng biết, quả là một quyết định thiếu chín chắn và liều lĩnh. Nếu gọi quyết định ấy là dại dột hay điên rồ thì cũng không ngoa. Vậy mà Abraham đã ra đi theo lời Chúa gọi. Thế nhưng với cái quyết định liều lĩnh hay điên rồ ấy thì một thời kỳ mới của công trình cứu độ đã mở ra. Phải nhìn nhận rằng dù tuổi đã cao nhưng tâm hồn Abraham luôn ấp ủ những gì tốt đẹp hơn, cao hơn nữa.
Mùa chay thánh đã về, Kitô hữu chúng ta không được phép dừng lại ở việc sám hối, ăn năn về tội lỗi đã phạm mà còn phải dệt xây tấm lòng hướng thượng với chí cống hiến cao đẹp. Trong nông nghiệp, không ai làm cỏ chỉ để cho mảnh đất sạch sẽ mà là để trồng tỉa các loại cây hữu ích. “Anh em hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối” (Mt 3,8). Lời của thánh Gioan Tẩy giả một cách nào đó thúc bách ta không ngừng lên cao, hướng thượng để cùng với Chúa Kitô sau khi xuống núi thì “cương quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9,51).
.
THỜI KỲ THUẬN LỢI ĐỂ BIẾN ĐỔI TÂM HỒN
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
(1) Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. (2) Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (3) Và kìa các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. (4) Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay ! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều. Ngài một cái, ông Mô-sê một cái, và ông Ê-li-a một cái”. (5) Ông còn đang nói, thì kìa có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và kìa có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”. (6) Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. (7) Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Trỗi dậy đi, đừng sợ!”. (8) Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”.
Bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giê-su biến hình trên một núi cao trước mặt ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Áo người trở nên trắng như tuyết. Có hai nhân vật Cựu Ước là Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người, có tiếng Chúa Cha giới thiệu Người là Con yêu dấu và đòi các môn đệ phải vâng nghe lời Người. Ba môn đệ từ vui mừng đến khiếp sợ khi đối diện với vinh quang Thiên Chúa.
– C 1-2: +Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê: Đây là ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su. Các ông là những người nhiệt thành yêu mến Thầy, và được trao các nhiệm vụ then chốt, nên Đức Giê-su đã cho các ông thấy trước vinh quang của Người, để thêm lòng tin, hầu đủ sức vượt qua giờ phút đau thương trong cuộc khổ nạn của Người (x. Mt 26,37). + Một ngọn núi cao: Theo truyền thống xa xưa, thì đó là ngọn Ta-bo. Tuy núi này chỉ cao 360 m so với Địa Trung Hải, nhưng nằm trên cánh đồng rộng lớn Ét-rê-lon, cũng gây cho người ta cảm tưởng một ngọn núi cao. Ngày nay nhiều người nghĩ tới ngọn Khéc-môn cao 2.795 m gần thành Xê-da-rê của Phi-líp-phê. Đi từ Xê-da-rê tới nơi mất khoảng 5 ngày đường như Tin Mừng đã viết. Tuy nhiên có lẽ khi viết câu này, Mát-thêu chỉ chú trọng đến ý nghĩa tượng trưng của Núi: Núi là nơi khởi đầu và kết thúc mặc khải của Thiên Chúa đối với Mô-sê thời Cựu Ước hay với Đức Giê-su thời Tân Ước (x. Mt 5,1; 28,16). Núi cũng là nơi quy tụ muôn người nên một trong Nước Trời trong thời cánh chung (x. Mt 15,29; Is 2,2-3). + Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông: Đức Giê-su tỏ bày Thiên tính vinh quang của Người cho các môn đệ thấy. Trong thời Xuất Hành, sau mỗi lần đàm đạo với Đức Chúa, mặt Mô-sê sáng chói, đến nỗi dân Ít-ra-en sợ không dám lại gần ông (x. Xh 34,29-30). + Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng: “Chói lọi như mặt trời” là biểu hiện của sự thuộc về thiên quốc (x. Mt 28,3; Cv 9,3) và thời cánh chung (x. Kh 1,14; 4,4). Theo thể văn khải huyền thì y phục trắng tinh giống như ánh sáng là biểu hiện vinh quang thiên giới dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn.
– C 3-4: + Ông Mô-sê và ông Ê-li-a: Hai ông này tượng trưng cho Luật Mô-sê và các ngôn sứ, nghĩa là cho toàn bộ Cựu Ước. Như thế tất cả Cựu Ước đều hiện diện để làm chứng và tôn vinh Đức Giê-su. Hai vị này đàm đạo với Đức Giê-su về cái chết của Người sắp được thực hiện tại Giê-ru-sa-lem như một cuộc Xuất Hành Mới (x. Lc 9,31). Như vậy, toàn bộ khung cảnh biến hình này đều qui hướng về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giê-su. + Dựng ba cái lều: Theo truyền thống Do thái thì Thiên Đàng được gọi là “Lều vĩnh cửu” hay “Nhà tạm đời đời” (x. Lc 16,9). Vào thời cuối cùng, Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân Người trong lều vinh quang của Người, và dân chúng sẽ cắm lều quanh Đấng Cứu Thế (x. Ga 1,14).
– C 5-6: + Đám mây sáng ngời bao phủ các ông: Trong Cựu Ước, khi tiếp xúc với dân Ít-ra-en, Đức Chúa thường xuất hiện trong đám mây (x. Xh 24,15-16). Ở đây, Thiên Chúa dùng mây che phủ các ông, để nói lên sự can thiệp đặc biệt như Người đã từng cho mây rợp bóng trên dân Ít-ra-en xưa (x. Xh 13,21; 14,19-20), hay “rợp bóng” trên Đức Ma-ri-a vào ngày sứ thần truyền tin sau này (x. Lc 1,35). + Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người: Lời này nhắc lại lời Chúa Cha phán khi Đức Giê-su chịu phép rửa (x. Mt 3,17). Nhưng ở đây còn thêm mệnh lệnh cho các môn đệ: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Qua đó, cho thấy Đức Giê-su chính là vị Mô-sê Mới thời cánh chung sẽ xuất hiện thay thế cho Mô-sê cũ thời Xuất Hành (x. Đnl 18,15). + Các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất: Thái độ và cử chỉ của các môn đệ là phản ứng người ta thường có khi tiếp xúc với Thiên Chúa (x. Xh 19,21; Is 6,5).
– C 7-9: + “Trỗi dậy đi, đừng sợ!”: Đức Giê-su đã ra lệnh các môn đệ giống như khi Người phục sinh đứa bé gái con viên thủ lãnh (x. Mt 9,25). + Chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi: Khi tiếng nói vừa dứt, thì mọi sự cũng tan biến theo. Từ đây, chỉ còn một mình Đức Giê-su là Thầy dạy của Luật mới, Luật hoàn hảo và vĩnh viễn. + “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”: Lệnh truyền: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy” cho thấy một mầu nhiệm lớn lao vừa được mặc khải (x. Đn 12,4.9). Có lẽ Đức Giê-su muốn tránh sự xáo trộn về chính trị, vì dân Do thái lúc bấy giờ đang trông chờ một Đấng Thiên Sai đến giải phóng họ khỏi ách thống trị của Rô-ma. Chỉ sau khi Chúa Giê-su sống lại thì vai trò của Người mới được hiểu cách đúng đắn theo thánh ý Thiên Chúa.
1) Tại sao ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lại được Đức Giê-su cho chứng kiến cảnh Người biến hình? 2) Núi cao nói đây là núi nào? Thực ra, Núi ở đây ám chỉ điều gì? 3) Thời Xuất Hành, nhân vật nào cũng được biến hình giống như Đức Giê-su? 4) Việc Đức Giê-su biến đổi dung nhan và áo mặc mang ý nghĩa gì? 5) Hai ông Mô-sê và Ê-li-a là đại diện điều gì? Nội dung hai ông đàm đạo với Đức Giê-su xoay quanh đề tài nào? 6) Lều là hình ảnh tượng trưng điều gì? 7) Đám mây bao phủ các môn đệ tượng trưng gì? 8) Lời Chúa từ đám mây khẳng định thế nào về Đức Giê-su? 8) Tại sao Đức Giê-su đòi ba môn đệ phải giữ kín điều họ mới được chứng kiến?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1) HOÀNG TỬ GÙ LƯNG: Nên hoàn thiện bằng tập luyện nhân đức trái với thói hư.
Có một hoàng tử kia đẹp trai lại văn võ song toàn. Nhất là luôn khiêm tốn hòa nhã, nên rất được vua cha và bá quan trong triều nể phục. Hoàng tử chỉ có một khuyết điểm duy nhất là cái tật gù lưng từ lúc mới sinh. Chính vì mang dị tật ấy mà chàng bị mặc cảm tự ti và không dám xuất hiện trước công chúng. Triều đình có cái lệ này là tạc tượng các nhân vật trong hoàng tộc khi họ được 20 tuổi. Bức tượng ấy sẽ được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân chiêm ngưỡng. Năm đó, hoàng tử vừa tròn 20 tuổi. Dù không muốn cho người ta tạc tượng, nhưng không dám trái lệnh vua cha, chàng chỉ yêu cầu hai điều và được vua cha chấp thuận: Một là bức tượng của chàng phải được tạc trong tư thế đứng thẳng chứ không bị gù lưng. Hai là bao lâu chàng còn sống thì chỉ được đặt bức tượng ấy tại phòng riêng của chàng.
Từ khi có bức tượng trong phòng, mỗi ngày hoàng tử đều đến trước tượng ngắm nhìn hình ảnh của mình. Chàng rất thích dáng vẻ hiên ngang của bức tượng, và cố bắt chước tư thế của bức tượng. Sau một thời gian, mọi người đều ngạc nhiên nhận thấy hoàng tử đã được biến đổi không còn bị gù lưng như trước nữa. Trái lại chàng có dáng vẻ hiên ngang oai vệ giống hệt bức tượng trong phòng của chàng. Sau khi sửa được cái tật gù lưng, hoàng tử đã đồng ý cho trưng bày bức tượng của mình tại viện bảo tàng quốc gia cho thần dân mặc sức chiêm ngưỡng.
Trong Mùa Chay này, chúng ta cần tìm ra mối tội đầu là thói xấu quan trọng đang mắc phải và quyết tâm làm các việc cụ thể thuộc nhân đức đối lập để khắc phục thói hư.
2) TU THÂN, TỀ GIA, TRỊ QUỐC, BÌNH THIÊN HẠ: Cần thay đổi bản thân trước hết.
Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này”.
Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con.”
Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con.”
Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”
(Anthony de Mello, Trích trong “The Song of the Bird”)
3) SƯ TỬ NGẠO MẠN ĐÃ TỰ HẠI MÌNH: “cái tôi” ích kỷ tự mãn là kẻ thù lớn nhất.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng: “Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng: “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”
Thỏ trả lời: “Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi”.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: “Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay”.
Thỏ liền dẫn sư tử ra phía sau núi, và chỉ một cái giếng sâu và bảo: “Đấy, nó ở trong đó đấy!”
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy một tên sư tử cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử liền rống lên một tiếng ra oai và tên kia cũng rống lên một tiếng giống như nó. Sư tử xù lông cổ lên và tên kia cũng xù lông cổ lên không sợ hãi. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ liền dồn hết sức nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một bài học. Thế là, con sư tử ngạo mạn đã tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu không sao trèo lên được nữa…
Trong các thói hư thì thói kiêu ngạo đứng hàng đầu, thể hiện qua thái độ luôn tự mãn về cái tôi ích kỷ của mình, thích được người khác khen ngợi xu nịnh hoặc hay tự đề cao mình lên và coi thường người khác, luôn lấn át những người thân cô thế cô hoặc những ai yếu thế hơn mình.
4) BIẾN HÌNH TỪ TỐT ĐẸP NÊN XẤU XA CHỈ SAU VÀI NĂM PHÓNG ĐÃNG:
Nhiều người đã được trông thấy bức ảnh rất nổi tiếng của nhà danh hoạ LEONARD DE VINCI, trong đó có các hình ảnh của Chúa Giêsu với 12 tông đồ đang ăn Bữa Tiệc Ly. Sau đây là câu chuyện về sự hình thành của bức tranh này:
Sau khi sơ phác bức tranh, họa sĩ Leonard muốn tìm một khuôn mặt nhân hậu bao dung và đẹp đẽ, để làm mẫu vẽ khuôn mặt cực thánh của Chúa Giêsu, thì may mắn làm sao: một ngày nọ khi tham dự thánh lễ tại một nhà thờ nọ, ông nhìn thấy trong đám ca viên hát lễ, có một thanh niên tên Pietro Bandenelli, có nét mặt khôi ngô phi thường. Sau một hồi tiếp xúc, cậu ta đã bằng lòng theo họa sĩ về xưởng tranh để làm mẫu cho ông vẽ khuôn mặt của Chúa Giê-su.
Sau đó, họa sĩ tiếp tục dành nhiều thời gian để vẽ các khuôn mặt 12 tông đồ. Khi vẽ khuôn mặt của Giu-đa phản bội, ông tìm mãi mà không thể tìm ra một con người có nét mặt vừa gian ác vừa xấu xí để làm mẫu vẽ tông đồ này. Một hôm khi đi qua một khu chợ, tình cờ họa sĩ nhìn thấy một gã ăn mày bên lề đường có khuôn mặt rất gian ác xấu xa, quần áo nhếch nhác bẫn thỉu, đang giơ chiếc nón ra xin ông làm phúc bố thí. Họa sĩ thầm nghĩ: Có lẽ đây chính là kẻ mình muốn tìm. Dù có đi hết các phố chợ trong thành phố cũng chẳng thể tìm ra kẻ nào có khuôn mặt xấu xa gian ác hơn gã ăn mày này. Ông đề nghị anh ta làm người mẫu với một số tiền thù lao khá hậu hĩnh và anh ta đã vui vẻ theo ông về xưởng vẽ, giúp ông hoàn thành bức họa chỉ còn thiếu khuôn mặt của Giu-đa phản bội.
Sau khi đã ngồi làm người mẫu và nhận tiền thù lao, trước khi ra về, gã ăn mày yêu cầu và được họa sĩ cho xem bức tranh hoàn tất. Đột nhiên gã ta bật khóc, và khi được hỏi lý do thì gã đã tâm sự như sau: “Ông quên tôi rồi sao? Cách đây mấy năm, tôi cũng được ông mời đến đây làm người mẫu giống như hôm nay. Lúc đó ông đã khen tôi có khuôn mặt đẹp như thiên thần và ông lấy tôi làm mẫu vẽ khuôn mặt của Chúa Giêsu… Nhưng sau đó, tôi đã lỡ dại nghe theo bạn bè, sa đà vào các thói hư như rượu chè, hút chích, chơi bời trác táng và nợ nần chồng chất. Tôi đã phải đi trộm cướp rồi bị cảnh sát bắt đi tù. Khi được thả, sức khỏe bị suy yếu và không nghề nghiệp, tôi rơi vào cảnh đói khát bần cùng, phải đi ăn xin như ông đã thấy”.
Phải. Đây chính là câu chuyện điển hình của một cuộc biến đổi hình dạng: từ một khuôn mặt tốt đẹp thánh thiện ban đầu trở thành xấu xa gian ác chỉ sau mấy năm chơi bời trác táng!
1) Mùa Chay là thời gian thuận tiện để biến đổi nên tốt hơn:
Mùa Chay là một thời kỳ thuận tiện, giúp các tín hữu chúng ta hồi tâm để nhận ra thói hư tật xấu, những khuyết điểm của mình mà sám hối, hầu mỗi ngày một nên hoàn thiện hơn theo ý Chúa muốn. Nhưng phải làm gì để nên hoàn thiện? Đó là chủ đề Chúa muốn nói với chúng ta trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
2) Câu chuyện biến hình trên núi của Đức Giê-su:
Tin Mừng thuật lại câu chuyện Đức Giê-su biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín là các ông: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Chính khi ở trên núi cao và trong lúc Đức Giê-su đang cầu nguyện sốt sắng, mà các môn đệ đã nhìn thấy khuôn mặt của Người biến đổi: Dung nhan Người trở nên sáng ngời như Mô-sê xưa kia, sau khi ông được gặp gỡ Đức Chúa (x. Xh 34,29-35); Y phục của Đức Giê-su trở thành trắng tinh như ánh sáng là biểu hiện vinh quang thiên giới dành cho các người được Thiên Chúa tuyển chọn; Đồng thời có hai nhân vật đại diện Lề Luật và ngôn sứ thời Cựu Ước là ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. Như vậy tất cả Cựu Ước đều hiện diện để làm chứng và tôn vinh Đức Giê-su. Điều đáng lưu ý là giữa vinh quang ấy, hai vị này đã đàm đạo về cái chết của Đức Giê-su, như một cuộc Vượt Qua Mới mà Người sắp trải qua tại thủ đô Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra còn có đám mây tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, và tiếng phán của Chúa Cha từ trong đám mây xác nhận Đức Giê-su là Mô-sê Mới của thời Cánh Chung, như ông Mô-sê đã từng tuyên sấm (x. Đnl 18,15).
3) Luôn làm theo ý Chúa Cha: “Qua đau khổ vào trong vinh quang”:
Đức Giê-su được biến hình sau khi đã chấp nhận cuộc Thương Khó và đã chiến thắng cơn cám dỗ của Xa-tan qua lời can ngăn của ông Phê-rô (x. Mt 16,22-23). Người cương quyết đi con đường “Qua đau khổ và trong vinh quang” theo ý Chúa Cha. Còn các tín hữu chúng ta trong Mùa Chay này, để được thay hình đổi dạng nên sáng láng thánh thiện như Đức Giê-su, thì cần kiên trì tập luyện. Nhất là phải chấp nhận đi theo con đường thập giá vừa nhỏ hẹp vừa leo dốc. Phải siêng năng cầu nguyện, lắng nghe lời Chúa, và sẵn sàng chấp nhận từ bỏ ý riêng, để vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Đức Giê-su. Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ được tham phần vào vinh quang phục sinh với Chúa sau này.
4) Thực hành Lời Chúa Cha phán: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”:
Ngày nay, muốn được “biến hình” nên “con yêu dấu của Thiên Chúa” thì chúng ta cần phải làm theo lời Chúa Cha là “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai, bằng mắt mà còn nghe bằng lòng trí và bằng cả cuộc sống luôn quy chiếu suy nghĩ hành động theo Đức Giê-su.
Tuy nhiên, để có thể vâng nghe lời Đức Giê-su, chúng ta phải năng gặp gỡ Người trong khi dự thánh lễ, qua việc năng đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, năng dự các buổi “học sống Lời Chúa” hằng tuần tại nhà thờ…
Hãy năng thưa với Chúa Giê-su như trẻ Sa-mu-en trong đền thờ: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (I Sm 3,9), hoặc như ông Sau-lô sau khi bị ngã ngựa ở thành Đa-mát: “Lạy Chúa, con phải làm gì?” (x. Cv 22,10). Mỗi khi gặp hoàn cảnh thực tế không biết phải ứng xứ thế nào cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa, chúng ta hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh của con bây giờ thì Chúa sẽ làm gì?”. Rồi lắng nghe Lời Chúa phán trong lòng trí chúng ta và quyết tâm thực hành theo lời Chúa dạy. Chúng ta cũng thực hành Lời Chúa bằng quyết tâm thi hành công tác bác ái truyền giáo được Hội thánh trao cho.
1) Mùa Chay là mùa biến đổi: lọai bỏ tội lỗi xấu xa để nên tốt lành hơn. Vậy chúng ta cần biến đổi những gì trong lối sống đạo, để xứng đáng được công nhận là “Con rất yêu dấu” như Chúa Giê-su ? 2) Chúa Cha đã phán với các môn đệ rằng: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Vậy chúng ta hôm nay phải làm gì để vâng nghe lời dạy của Chúa Giê-su ?
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa muốn chúng con thực thi giới răn quan trọng nhất là sống tình yêu thương tha nhân. Tuy nhiên nói thì dễ, nhưng thực hành lại không dễ chút nào. Thực vậy: Làm sao chúng con có thể yêu thương được một người hàng xóm lắm điều xấu tính; Một ông chồng khó ưa hay bẳn gắt nạt nộ vợ con; Một người mua hàng tham lam gian dối; Một bà hàng xóm ưa tò mò tọc mạch, hay nói xấu thêm bớt để hạ uy tín của chúng con… ? Xin giúp chúng con luôn nhẫn nhịn chịu đựng, biết cầu nguyện điều lành cho họ, làm điều tốt đáp lai điều xấu. Ước gì những lời nói của chúng con luôn là những lời an ủi động viên những người đang gặp đau khổ rủi ro. Ước gì chúng con biết quảng đại chia sẻ tiền bạc vật chất cho những bệnh nhân nghèo đói vì mắc chứng bệnh nan y. Ước gì chúng con biết mở rộng vòng tay thân ái đón nhận tha nhân và nhìn họ chính là anh chị em, là con một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Antôn
Bài Tin mừng Chúa nhật thứ 2 mùa Chay hôm nay là nền tảng Kinh thánh cho Mầu nhiệm Thứ Tư trong Năm Sự Sáng của Kinh Mân côi: Thứ Tư thì ngắm: Chúa Giê-su biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được lắng nghe và thực hành lời Chúa. Chúng ta biết mùa Chay là thời gian Lời Chúa và Giáo hội kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, hy sinh làm việc bác ái để cải thiện đời sống. Nhưng tại sao Giáo hội lại đưa câu chuyện Chúa biến hình này vào mùa Chay và vào thời điểm này?”
Trước khi trả lời câu hỏi đó, tôi xin đuợc kể một câu chuyện vui như sau: Ông Tư là môn đệ rất trung thành của thần “lưu linh, thần rượu”. Triết lý sống của ông là “sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay.” Một hôm, ông Tư hết rượu, hết “chất liệu” để giải cơn sầu, cho nên ông gọi và sai con là cu Tí xách chai đi mua cho ông mấy xị đế. Cu Tý vâng lời ba cầm chai đi mua nhưng không thấy ba đưa tiền, nên hỏi: “Thưa ba, ba đưa tiền cho con đi mua.” Ông Tư lè nhè trả lời: “Không có tiền mà mua được rượu đế mới giỏi chứ con.” Nghe vậy, cu Tý xách chai đi mua, một lúc sau trở về, để chai không trên bàn. Ông Tư nhắc chai không lên hỏi: “Tại sao chai trống rỗng, không có rượu, như vậy làm sao mà uống?” Cu Tý giở chiêu “gậy ông đập lưng ông” và thưa rằng: “Thưa ba, không có rượu mà ba uống được mới hay chứ!”
Ông bà anh chị em thân mến. Biến cố biến hình xảy ra sau khi Chúa Giêsu tuyên bố với các môn đệ về sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Người. Chúa nói với các môn đệ: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.” Lời tuyên bố này đã làm cho các môn đệ sửng sốt và không thể chấp nhận được. Thật vậy, làm thế nào mà có thể chấp nhận được điều đó xảy đến cho Thầy mình, một người nổi tiếng làm được nhiều phép lạ, được coi là một Đấng Thiên Sai đến để giải phóng dân tộc khỏi ác nô lệ của ngoại bang. Và Chúa cũng biết rất khó giải thích một cách rõ ràng sứ vụ của mình đến thế gian không để làm vua, không để làm cách mạng lật đổ nhà cầm quyền, mà để thi hành một sứ mệnh khó khăn hơn nữa, đó là kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, thay đổi cuộc sống để lãnh nhận tin mừng ơn cứu chuộc.
Thực sự, các môn đệ đã chứng kiến những phép lạ kỳ diệu mà Chúa Giêsu đã làm, từ việc hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng ăn; cho người đui mù được thấy; chữa cho người què quặt đi được; người bị quỷ ám trở lại bình thường; và thậm chí cho người chết sống lại. Vì lý do đó, các môn đệ không thể chấp nhận, không thể tin vào những điều tai mình vừa nghe, và cũng không có thể hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại nhận chịu sự đau thương và chết nhục nhã trên thập giá như một tử tội. Hy sinh chịu những sự khổ cực đi theo Chúa, các ông mong ước có cuộc sống tương lai sung sướng và hạnh phúc. Vì thế làm sao các ông có thể chấp nhận trở thành chứng nhân cho một lý tưởng không có thật, hay phải đối diện với sự thất vọng sau những cố gắng, hy sinh, từ bỏ và đau khổ. Có lẽ các môn đệ đã không chú ý đến câu rất quan trọng theo ngay sau đó là: “ngày thứ ba sẽ sống lại.”
Ông bà anh chị em thân mến. Biến cố Chúa biến hình nói gì với chúng ta? Qua biến cố biến hình, Chúa muốn dạy chúng ta điều gì? Biến cố Chúa biến hình mang đến cho chúng ta niềm hy vọng trong thời điểm chúng ta đối diện với những khó khăn thử thách hay đau khổ vì đức tin, vì Tin mừng và vì Chúa. Biến cố Chúa biến hình soi sáng và cho chúng ta biết ý nghĩa của những sự hy sinh vì đức tin, vì Tin mừng và vì Chúa. Biến cố biến hình mang đến cho chúng ta niềm hy vọng vui mừng, bình an và ân sủng của Chúa. Nói cách khác, qua sự biến hình, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ, và cho chúng ta thấy kết quả của những sự hy sinh, đau khổ và trung thành, đó là bình an, hạnh phúc, vui mừng và vinh quang bất diệt. Hy sinh, đau khổ và cả sự chết không phải là câu nói cuối cùng trong cuộc sống của những người tin theo và yêu mến Chúa, vì Người đã tiên báo cho chúng ta biết “ngày thứ ba sẽ sống lại”, và hứa chúng ta sẽ chia sẻ vinh quang của Người trong Nước Trời: “Thật vậy, ý của Cha là tất cả những ai thấy Người Con và tin vào Người Con, thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga. 6:40)
Đây là là một lời hứa, một sự bảo đảm và là một sứ điệp mang đến cho chúng ta một niềm tin và hy vọng trong những thời điểm phải hy sinh, khó khăn và đau khổ. Các môn đệ muốn ở lại trên núi vì những cảm giác tuyệt vời trong sự vinh quang của Thiên Chúa qua con người của Chúa Giê-su. Nhưng Chúa Giê-su biết còn phải thi hành và hoàn thành sứ vụ trước mắt mà Chúa Cha đã trao phó, cho nên, Chúa cho các môn đệ biết phải xuống núi và tiếp tục hành trình cứu độ nhân loại.
Ông bà anh chị em thân mến. Trong mùa Chay này, Lời Chúa và Giáo hội mời gọi chúng ta “biến hình” bằng cách hãm mình, ăn chay, cầu nguyện, hy sinh làm việc lành phúc đức, quảng đại và tham dự Thánh lễ hằng ngày, để trở nên đồng hình, đồng dạng như Chúa Giê-su Ki-tô. Trong mầu nhiệm thứ tư Chúa biến hình trong Kinh Mân côi, chúng ta được kêu gọi lắng nghe và thực hành Lời Chúa, vì như chúng ta vừa nghe tiếng Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” Chúng ta tin Lời Chúa là ánh đèn soi cho cuộc hành trình đức tin của chúng ta, và sẽ đem lại cho chúng ta niềm hy vọng, ơn lành, hạnh phúc và vinh quang Nước Trời.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn