THỨ HAI TUẦN III MÙA CHAY Lc 4,24-30
Chủ nhật - 23/03/2025 10:42
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Luca
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình.
Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà góa ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi.
Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
SUY NIỆM: TIN VÀ BƯỚC THEO CHÚA GIÊ-SU
Khi thi hành sứ vụ Thiên sai Chúa Giê-su đã chữa lành những người bị quỉ ám, làm cho người mù được sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được… nhìn chung là vui mừng và sung sướng; mọi người đều thán phục; các thần ô uế phải vâng lệnh Người.
Nhưng hôm nay hoàn toàn ngược lại, với hơi thở dài đi liền câu nói để đời: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình” (Lc 4,24). Tuyên bố của Chúa Giê-su vang lên trong hội đường như một sự khiêu khích. Người kể lại hai phép lạ mà các ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa đã làm cho những người không phải dân Do thái, để chứng minh rằng đôi khi ngoài dân Ít-ra-en có nhiều kẻ tin mạnh hơn. Tới đây thì tất cả những người có mặt đều phản ứng: “Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi” (Lc 4,28-30).
Về điểm này, thánh Au-gút-ti-nô (354-430), Giám mục thành Hippôn (Bắc Phi), tiến sĩ Hội Thánh đã chủ giải như sau: “Người rẽ qua giữa họ mà đi”, nghĩa là Chúa Giê-su là một thầy thuốc cao tay đã đến giữa chúng ta. Người vẫn rẽ ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta để làm cho chúng ta được khỏe mạnh.
Đức Giê-su đã không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bằng việc loan báo Tin Mừng, từ bỏ và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Người chính là Đấng Mê-si-a đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mê-si-a không vận dụng quyền lực để thực hiện một cảnh ngoại mục cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin giúp chúng con trung thành tin tưởng và bước theo Chúa Giê-su con Mẹ. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
SUY NIỆM: CHÚA BỊ QUÊ HƯƠNG TỪ CHỐI
1. Đức Giê-su trở về quê hương, vào hội đường Na-da-rét ngày thứ bảy. Người ta trao cho Ngài sách tiên tri, để Ngài đọc và giải thích. Lúc đầu họ cảm phục tài hùng biện và dáng vẻ thuyết phục của Ngài. Nhưng sau, họ bực tức, vì thấy Ngài ưa thích Ca-phác-na-um, nơi dân ngoại nhiều hơn quê mình. Trước thái độ đó, Đức Giê-su tỏ bày cho dân làng biết sứ vụ thiên sai của Ngài.
Đồng thời Chúa cũng cho họ biết rằng Ngài không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng nhận ơn Ngài.
2. “Tôi bảo thật các ông…”
Đức Giê-su dựa vào câu ngạn ngữ này để diễn tả thân phận của Ngài tại quê hương:
– Gần chùa gọi bụt bằng anh.
– Bụt nhà không thiêng
– Quen quá hoa nhàm.
Thật vậy, những người đồng hương trong làng Na-da-rét tưởng rằng, họ đã biết rõ Ngài: gốc gác, lý lịch; người đã từng chung sống, đọc kinh cầu nguyện chung từ tấm bé. Nên họ chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, mà không thấy được Thiên tính của Ngài để tin vào Ngài.
3. “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay…”
Để dẫn chứng cho ý nghĩa cho câu ngạn ngữ trên đây, Đức Giê-su đã trưng ra hai sự kiện có tính lịch sử, để hiểu:
– Tiên tri Ê-li-a đã không được sai đến để cứu đói cho bà góa nào trong dân Ít-ra-en, ngược lại, cứu đói cho bà góa thành Sa-rép-ta miền Si-đôn là dân ngoại.
– Tiên tri Ê-li-sê cũng không được sai đến chữa lành bệnh phong cho người nào trong dân Ít-ra-en, nhưng lại được sai đến chữa trị cho Na-a-man, người Sy-ri-a, cũng là dân ngoại.
Hai sự kiện trên muốn nêu lên rằng: các tiên tri tuy thuộc dân Ít-ra-en, nhưng không được dân mình thiện cảm, lại được thiện cảm nơi dân ngoại, vì thế, dân ngoại được hưởng nhờ. Cũng vậy, Đức Giê-su không được thiện cảm nơi người đồng hương, vì họ đòi hỏi hơn là đón nhận Người. Còn dân ngoại ở Ca-phác-na-um tin nhận Ngài, nên được hưởng nhờ ân sủng qua các phép lạ Ngài làm.
4. “Ơn cứu độ được dành cho mọi người”.
Qua sự kiện của tiên tri Ê-li-a và Ê-li-sê, chúng ta nhận ra rằng: Điều kiện để được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa, là đức tin và ý hướng tốt lành. Vì vậy, dù là Ít-ra-en hay dân ngoại, nếu biết tin nhận vào Đức Giê-su, và có ý hướng tốt lành thì đều được hưởng ơn cứu độ.
Qua hai sự kiện trong Cựu ước, Đức Giê-su nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Ê-li-a và Ê-li-sê. Ê-li-a đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sa-rép-ta thuộc xứ Si-đôn dân ngoại, vì bà tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Na-a-man người Sy-ri-a vì tin, đến với tiên tri Ê-li-sê và được chữa lành khỏi bệnh cùi, còn những người đồng quê với tiên tri lại càng cứng lóng tin.
5. Hãy tránh thành kiến cố hữu.
Dân làng Na-da-rét dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” và trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô vào vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau… mang con tim hận thù.
Như chúng ta đã biết, Thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người không ai thoát khỏi: “Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì lại vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.
6. Truyện: Sư huynh hỗn xược.
Ở Ca-na-đa, trong tỉnh Qué-bec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lồi giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.
Một hôm trường đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.
Đức thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.
Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ.
Cả trường đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức như lần này chưa? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế?
… Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh… thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh… để thực tập một phen!
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một Sư huynh” chưa từng thấy này.
Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mãnh liệt đến chừng nào (Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
SUY NIỆM: XIN CHÚA HƯỚNG DẪN CHỈ HUY
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 3 Mùa Chay này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa hằng thương thanh tẩy và giữ gìn Hội Thánh, vì nếu Chúa không hướng dẫn chỉ huy, Hội Thánh không thể nào đứng vững.
Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Xuất Hành đã tường thuật lại Thiên Chúa đã hướng dẫn chỉ huy ông Môsê qua việc: Thiên Chúa đã cho ông Môsê được nghe tiếng Người, đã dẫn ông vào trong đám mây. Khi ông giáp mặt, Người ban cho ông các điều răn, ban Lề Luật giúp cho được sống và thông hiểu, để dạy Giacóp tuân giữ giao ước, và dạy Ítraen biết thánh chỉ của Người.
Nếu Chúa không hướng dẫn chỉ huy, thì chúng ta không thể nào đứng vững được, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Baxiliô Cả đã lặp lại lời của thánh Phaolô: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa. Chúng tôi đã mang án tử nơi chính bản thân rồi, để chúng tôi không còn tin tưởng vào chính mình, mà vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ chết trỗi dậy. Chính Người đã cứu và sẽ còn cứu chúng tôi khỏi một cái chết như thế; Người là Đấng chúng tôi trông cậy, Người sẽ còn cứu chúng tôi nữa.
Trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Các Vua quyển thứ hai cho thấy: Ông Naaman, tướng chỉ huy quân đội của vua Aram, là người có thần thế và uy tín trước mặt chúa thượng của ông. Vậy mà, ông lại quy phục Thiên Chúa của Ítraen, sau khi được chữa cho khỏi bệnh phong, và ông đã tuyên xưng cách mạnh mẽ: Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ítraen. Chính vì thế, Đức Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: Có nhiều người phong hủi ở trong nước Ítraen, nhưng, không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi.
Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn chỉ huy mọi sự, cho nên, chúng ta phải luôn hướng nhìn về Chúa, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 41, vịnh gia đã bày tỏ ước mong của mình: Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan? Xin Ngài thương sai phái ánh sáng và chân lý của Ngài, để soi đường dẫn lối con đi về núi thánh, lên đền Ngài ngự. Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay cũng cho thấy nỗi khát khao của những ai muốn tìm nương tựa nơi Chúa: Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người; bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.
Trong bài Tin Mừng, thánh Luca cho thấy ơn cứu độ là phổ quát, điều này được Đức Giêsu chứng minh, khi Người trưng dẫn những việc ông Êlia và ông Êlisa đã làm cho dân ngoại. Khi nghe Đức Giêsu nói như thế, những người trong hội đường đầy phẫn nộ, họ muốn đẩy Chúa xuống vực, họ muốn độc quyền ơn cứu độ, họ muốn thực hành một thứ tôn giáo theo ý họ, chứ không theo thánh ý Chúa.
Thiên Chúa mới là Đấng hướng dẫn chỉ huy mọi sự, là thợ gốm, còn, chúng ta là đất sét trong tay thợ gốm, vậy mà, chúng ta muốn tiếm quyền Thiên Chúa. Ước gì chúng ta luôn biết tuân theo sự hướng dẫn của Chúa, để chúng ta có thể đứng vững giữa biết bao khó khăn thử thách của cuộc sống này. Ước gì chúng ta hướng nhìn về Chúa như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ. Ước gì được như thế!
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
SUY NIỆM: BIẾT CÚI MÌNH
“Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ!”.
“Cánh cửa cuộc đời thật mầu nhiệm; nó trở nên thấp hơn một chút so với người muốn đi qua. Chỉ ai biết cúi mình, người ấy mới có thể bước qua ngưỡng của nó!”
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay minh hoạ ý tưởng của nhà tu đức trên, “Chỉ ai biết cúi mình, người ấy mới có thể bước qua ngưỡng cửa cuộc đời!”. Thái độ ‘biết cúi mình’ của tướng quân Naaman khác hẳn thái độ “đầy phẫn nộ” của người Do Thái cùng thời với Chúa Giêsu.
Naaman, một dũng tướng của vua Aram; tuy nhiên, cùng với danh vọng và quyền lực, ông phải vật lộn với bệnh phong cùi! Bộ giáp của ông, trên thực tế, chỉ để che đậy một con người yếu ớt, tổn thương và tật nguyền! Đôi khi, những quà tặng bên ngoài chỉ là những ‘áo mã’ che chắn bao yếu đuối bên trong. Naaman phải làm theo một đứa trẻ, tìm gặp người của Chúa; và ông phải khiêm tốn đến hai lần. Nghĩa là ông phải gặp một sứ giả ‘tầm thường’, làm theo một cách thức ‘lạ thường’, bởi một bé gái ‘khác thường’. Thế nhưng, nhờ khiêm tốn, ông được một phép lạ ‘phi thường’. Và ông đã bật lên lời tuyên xưng, “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel!”. Rõ ràng, ‘biết cúi mình’, một điều kiện để hứng nhận ân huệ của Chúa!
Ngược lại, trong bài Tin Mừng, dân thành Nazareth không thể tin vị Thiên Sai là một thợ mộc nghèo hèn. Họ cay cú với Chúa Giêsu, nhất là khi Ngài cho biết, trong lịch sử, Thiên Chúa từng tỏ ra ưu ái người ngoài chứ không chỉ với người Do Thái. Họ bất bình vì đặt sự bảo đảm của mình vào di sản và lời hứa của Thiên Chúa qua các tổ phụ; họ nghĩ rằng, vì là Do Thái, nên cách nào đó, Thiên Chúa phải chiếu cố họ hơn những người khác. Thiếu khiêm tốn, họ đánh mất ân huệ của Ngài; tệ hơn, đầy phẫn nộ, họ những muốn xô Chúa Giêsu xuống vực thẳm!
Cả chúng ta, chúng ta cũng có thể mắc sai lầm này khi quên rằng, ‘biết cúi mình’ là điều kiện tiên quyết trước ơn lành của Chúa! Chúng ta nghĩ, tôi đạo dòng; tôi có chức vụ này, chức vụ kia… nên cách nào đó, Chúa phải quan tâm đến tôi nhiều hơn, phải ban cho tôi nhiều đặc ân hơn! Đây chẳng phải là nguyên nhân gây ra sự phẫn nộ trong cuộc sống tôi sao? Vì thế, tôi cay đắng khi không được ưu đãi; bởi lẽ, tôi nghĩ, tôi xứng đáng để nhận nhiều hơn thế!
Kính thưa Anh Chị em,
“Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ!”. Thật trái khoáy, chính qua con đường nghèo hèn, Thiên Chúa cứu độ con người! Sẽ là một chướng ngại lớn cho những ai “không biết cúi đầu!”. Chúa yêu thương và cứu độ chúng ta theo cách của Ngài. Vì thế, cần thiết biết bao, để bạn và tôi nhận thức rằng, khiêm tốn, một điều kiện để múc lấy ơn Chúa! Mùa Chay, mùa lắng đọng lòng mình để nghe Lời Chúa, ngắm nhìn cách thức hành động của Ngài nơi Giêsu, Đấng huỷ mình ra không để cứu chúng ta. Mùa Chay, còn là mùa khát khao Giêsu. Thật ý nghĩa với Thánh Vịnh đáp ca, “Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống!”. Giêsu Hằng Sống đang ước mong chúng ta ‘biết cúi mình’ như Ngài; qua đó, bạn và tôi cũng trở nên những Giêsu luôn biết cúi xuống phục vụ tha nhân!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con coi thường một ai! Cho con ‘biết cúi mình’ trước Chúa và hoạt động của Chúa trong mỗi anh chị em con!”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
SUY NIỆM: KHÔNG MỘT TIÊN TRI NÀO
Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (Lc. 4, 24)
Lại thêm một lần đòi dấu lạ. Con người nổi dậy chống Thiên Chúa, họ đòi Ngài phải chứng tỏ sứ vụ tiên tri của Ngài bằng cách làm hài lòng và thỏa mãn họ. Nhưng Thiên Chúa phải cúi phục trước con người sao? Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng Ngài chỉ ban cho kẻ tin kính vâng lời Ngài, cho kẻ trông chờ trong kiên nhẫn âm thầm. Ngài đòi có đức tin, vâng lời nhận lãnh biết ơn đối với tất cả tâm tình của họ.
Dân làng Na-gia-rét không nhận biết Đức Giê-su, vì họ phán đoán hoàn toàn theo sở thích loài người. Đức Giê-su là ngôn sứ, Người hành động theo sứ mạng Thiên Chúa.
Không phải những đòi hỏi của người trần ấn định cho hành động của các ngôn sứ, của Đức Ki-tô, các ngài không hành động vì lợi riêng cho mình. Các ngài chỉ hành động theo ý Thiên Chúa. Ngôn sứ không được hành động theo quyết định bản thân mình, nhưng luôn luôn theo quyết định của Thiên Chúa, Đấng đã sai mình.
Thiên Chúa quyết định cho hai ngôn sứ: Ê-li-a và Ê-li-sê đến làm phép lạ cứu giúp những người lương dân, chứ không cứu người đồng hương. Đức Giê-su không hoàn toàn đến thực hiện ơn cứu độ cao cả cho quê hương mình, Người phải đi cứu độ những người dân xa lạ. Thiên Chúa dành cho mình có quyền tự do phân phát ơn cứu độ.
Không ai có thể đòi quyền được ơn cứu độ. Quả thật như vậy, không ai được phép đòi có quyền đó, phải tin ơn cứu độ mình được là nhưng không. Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng và thực hiện ơn cứu độ cho những người Thiên Chúa yêu thương. Ơn cứu độ là một ân huệ chứ không do công lao mình làm. Nhưng đó là ân huệ chúng ta được quyền hưởng vì Đức Giê-su đã chết cho chúng ta, và chúng ta phải sống hoàn toàn theo ý Cha của Người, đó là điều kiện căn bản, còn chúng ta vẫn có tự do đón nhận hay từ chối ơn cứu độ.
Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đến viếng thăm dân Ngài và ban các ân huệ dồi dào, xưa kia Ngài cũng ban cho dân như vậy qua các ngôn sứ, số phận các ngôn sứ thế nào thì số phận Đức Giê-su cũng vậy.
J.M